CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI (*)– Chú giải của Noel Quession. 6
“THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ”- Chú giải của Fiches Dominicales 14
THẦN KHÍ SỰ THẬT (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 26
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 42
HIỆN RA Ở GALILÊ VÀ BAN SỨ MẠNG PHỔ QUÁT- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 57
SỰ SỐNG MỚI, HIỆN DIỆN MỚI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 65
BÀN GIAO NHIỆM VỤ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 69
VỀ TRỜI– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 73
CHÚA VỀ TRỜI- Lm.Dom. Trần Quang Hiền SDB.. 78
LÊN TRỜI, ƯỚC MƠ CAO ĐẸP- Lm. Bùi Quang Tuấn. 81
MỪNG CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 86
CÙNG LOAN TIN MỪNG VỚI CHÚA GIÊSU– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 90
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Cv 1, 1-11
“Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Đức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Đâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Đang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9
Đáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).
1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Đấng Tối cao, khả uý, Người là Đại Đế trên khắp trần gian. – Đáp.
2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa; hãy ca mừng, ca mừng Vua ta! – Đáp.
3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Ep 1, 17-23
“Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”.
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người; xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 16, 15-20
“Người lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN-A
NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI (*)– Chú giải của Noel Quession
Từ “Thăng Thiên” có thể mang một sắc thái xấu đối với các Kitô hữu, nếu chúng ta để cho trí tươởg tượng biểu thị một cách vật lý điều mà thực ra là một mầu nhiệm vô cùng của đức tin. Bản văn của Mátthêu khác với bản văn của Luca, không nói với chúng ta về sự thăng thiên (lên trời) nhưng về sự hiện diện mới thánh sử mời gọi chúng ta không nên cử hành ngày này như “sự ra đi của một người thân yêu mà người ta đưa ra phi trường trước khi phi cơ cất cánh”. Vậy chúng ta hãy quên đi mọi sự tưởng tượng của chúng ta và lắng nghe Đức Giêsu: Không nói về sự ra đi, Người nói về sự hiện diện khắp mọi nơi! “Thầy ở cùng anh em mọi ngày…” Vậy chúng ta hãy lắng nghe trang cuối cùng của Tin Mừng Thánh Mátthêu. Đó là bảng tỏm tắt bài tường thuật tất cả các từ ngữ đều chuyện tái ý Đó. Chúng ta hãy suy niệm về tất cả các từ ấy
Mười một môn đệ.
Họ gồm có “mười một” và chỉ mười một thôi! Rất ít đối với một trách nhiệm tỏ lớn mười một chứ không phải mười hai, như chúng ta đã quen từ lúc bắt đầu Tin Mừng. Quả thực, đây là một Giáo Hội rất nghèo nàn.. một nhóm quá nhỏ, bị cắt cụt bởi vì một người trong số họ đã bỏ ngũ. Không phải chỉ hôm nay mới có những người bỏ rơi đồng đội.
“Mười một môn đệ”.. Mátthêu gọi họ là “môn đệ” thay vì là “tông đồ” điều Đó là có dụng ý. Ở đây, họ không ở vị trí của những người được giao cho một quyền bính đặc biệt. Hoàn toàn đơn giản, môn đệ là điều kiện chung của mọi người đi theo Đức Giêsu, là bạn hữu của Người. Môn đệ ư? Bạn, tôi chúng ta…Bạn có phải là một môn đệ không? Bạn hãy nhớ rằng Giuđa đã làm lỡ một cuộc hẹn gặp.
Đi tới miền Galilê…
Nhấn mạnh trên địa điểm hẹn gặp này là điều có ý nghĩa đối với Mátthêu; thánh sử đã không ngần ngại cho địa điểm ấy là nơi xảy ra sự xuất hiện chính thức, để tôn cao giá trị của miền Galilê… và không nói đến những lần hiện ra ở Giêrusalem trong các tường thuật Tin Mừng khác.
Galilê! Nơi hẹn gặp đã được Đức Giêsu chỉ định sau bữa ăn cuối cùng: “Sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (Mt 26,32). Ở ngôi mộ trống, thiên thần đã nhắc lại cuộc hẹn gặp: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ Người rằng Người đi Galilê trước các ông và ở Đó các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28,7). Galilê! Miền đất mà Mátthêu đã chú ý mang lại ý nghĩa tượng trưng ngay từ đầu sứ vụ của Đức Giêsu trong tỉnh Đó khi dẫn lời ngôn sứ: Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại… những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi! (Mt 4,15; Isaia 8,23 – 9,l).
Galilê! Tỉnh xanh tươi và ngọt ngào: Xứ sở của sự sống! Galilê! Tỉnh của nhiều sắc dân trộn lẫn, xứ sở mà các người thanh khiết ở Giêrusalem khinh bỉ, xứ sở mở ra cho những xứ sở khác, cho những dân ngoại đây là miền đất của sự tiếp xúc, nơi hòa trộn niềm tin với sự vô tín.
Galilê! Miền đất cội rễ của con người Giêsu Nadarét: Người trở nên một thân thể với xứ sở này; người là một người Galilê; có giọng nói của người miền Bắc, “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Gioan l,46) đối với chúng ta, Đó là một lời mời gọi chớ nên mơ tưởng đến một chỗ nào khác: Ờ, phải chi tôi có một tổ ấm khác!
Phải chi tôi học trong một trường học khác! Phải chi các đồng nghiệp tôi thế này, thế khác; giáo xứ tôi thế nọ, thế kia! Đức Giêsu hẹn gặp bạn trong miền Galilê của chính bạn.
…Đến ngần núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, núi là nơi tượng trưng cho sự gặp gỡ với Thiên Chúa và cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Ở trên cao, người ta nhìn xa… xa hơn như khi ở trong cánh đồng! Ở trên cao, người ta hít thở khoáng đãng hơn.., trong lành hơn sự ô nhiễm của các thành phố! Ở trên cao, người ta cô quạnh hơn… và có nhiều khả năng hơn để lắng nghe tiếng nói của sự im lặng, thường bị nhận chìm bởi những mớ lộn xộn của sự nhiều lời trống rỗng! Núi Xi-nai nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa duy nhất lần đầu tiên. Núi các mối Phúc Thật (Mt 5,1). Núi của sự biến hình (Mt 17,1). Núi chữa bệnh (Mt 15,29). Núi cầu nguyện (Mt 14,23). Núi hóa bánh ra nhiều (Mt 15,32) làm thế nào mà sự sống lại không được biểu lộ trên núi chứ? (Mt 28,16).
Còn bạn? Phải chăng bạn có những cuộc hẹn gặp trên núi nơi mà Đức Giêsu ra lệnh cho bạn đến gặp Người?
Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.
Bái lạy. Hoài nghi. Hai từ này bề ngoài hoàn toàn đối lập nhau, nhưng Mátthêu tập họp chúng trong cùng một câu. Vâng, cũng trên nhọn núi ấy, có chỗ cho thực tại đáng sợ ấy: Sự hoài nghi bái lạy là sự chiến thắng trên hoài nghi. Đức tin là một hành động tự đo, rất khác với những điều hiển nhiên buộc phải chấp nhận của bình diện khoa học. Tin Mừng rất khiêm tốn, không có gì là bực dọc và hứng khởi vô lý mọi tường thuật các lần xuất hiện sau khi sống lại đều có một nét chung: Đức Giêsu sống lại không “hiển nhiên”… người ta ngần ngại thừa nhận điều Đó.
Bạn đang tìm kiếm và hoài nghi, vậy bạn hãy thử bái lạy, thờ phụng Người.
Đức Giêsu đến gần, nói với các ông.
Tôi chiêm ngắm hành động này trong nội tâm trong một trường hợp duy nhất khác, Mátthêu ghi nhận động tác tiếp cận ấy mà Đức Giêsu đã thực hiện. Đó là lúc Người biến hình. Khoảng cách của Thiên Chúa đối với con người rất lớn đến nỗi: Thiên Chúa cần phải đến với chúng ta một cách chủ quan, chúng ta không có khả năng tin tưởng. Sự khởi xướng thuộc về Thiên Chúa. Còn phần chúng ta, chúng ta có tự do đáp lại hành động tiếp cận của Người bằng sự thờ lạy.
Trong tường thuật Phục Sinh của Mátthêu, chúng ta nhận thấy sự kín đáo tột độ: Không có chi tiết cụ thể nào…Đức Giêsu chỉ đến gần và nói! Toàn bộ Tin Mừng của Mátthêu có đặc tính nhấn mạnh trên những bài giảng văn Đức Giêsu: Đức Kitô của Mátthêu là một Đức Kitô thuyết giảng năm bài giảng lớn đã tạo thành nhịp điệu sự tường thuật của Mátthêu. Vậy, đây là lời tôn vinh và kết luận: những lời sau cùng của Người.
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất…”
Công thức này khẳng định sự bình đẳng của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Thật vậy, trong toàn bộ Cựu ước, chỉ Thiên Chúa mới là “Chúa của trời đất”… vũ trụ hữu hình và vô hình.
Công thức này, không mô tả sự Thăng Thiên bằng những từ ngữ cụ thể nhưng đòi hỏi phải có sự việc Đức Giêsu lên trời từ nay thống trị toàn thể vũ trụ. Dĩ nhiên, vấn đề không phải là tìm kiếm Đức Giêsu giữa những vì tinh tú, trong “bầu trời đầy sao”.
Công thức nêu lên ý niệm về toàn thể: Không có gì nằm ngoài quyền của Thiên Chúa. Từ nay, Đức Giêsu sống lại là Chúa Thượng của mọi tạo vật!.
Khi đọc lời chúc tụng trên bánh và rượu, Người nói “này là mình Thầy, này là máu Thầy”, Người chỉ mang lại cho chúng ta “dấu chỉ” về hiệu quả của quyền chủ tể của người trên mọi phần của vũ trụ… và do Đó trên mỗi người chúng ta và chúng ta thật sự trở thành nhiệm thể của Người.
Và Thánh Phaolô trong bài đọc I của ngày hôm nay, cũng khẳng định quyền chủ tể ấy: Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức kitô chỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được không những trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô!” (Ep 1,20-23). Phải, chúng ta là thân thể Đức Kitô! Vì thế mà Phaolô phải nói rằng “Thiên Chúa đã cho chúng ta cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời (Ep 2,5-6).
Phụng vụ của chúng ta không chỉ cử hành các kỷ niệm của quá khứ các lễ mừng trọn năm: Phụng vụ làm cho chúng ta tham dự trước những điều kỳ diệu của thời Thế Mạt, Phaolô biết rất rõ ràng những người mà ngài viết cho họ chưa ngự trị trên cõi trời. Bị bầm giập bởi thử thách, họ biết mình phải chết tuy nhiên sự “thăng thiên của chính họ đã được tham dự trước, trong Đức tin vào Đức Kitô”.
Điều Đó chẳng phải cho chúng ta tất cả cách sống và cách cử hành phụng vụ sao?
“Vậy anh em hãy đi và làm cho MUÔN dân trở thành môn đệ…”
Sau TOÀN quyền mà Đức Giêsu đã được trao ban, giờ đây toàn thể trường hoạt động của Đức Kitô qua thân thể Người tức là các môn đệ được nêu lên trước kia trên núi cám dỗ, Đức Giêsu đã từ chối nhận của xa tan “tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy” (Mt 4,8-10). Giờ đây, lúc có vẻ sắp ra đi, Đức Giêsu táo bạo ấy đã nhắm đến toàn thể vũ trụ trong cuộc chinh phục một cách hòa bình, qua mười một con người ấy muôn dân, mọi quốc gia mọi con người? Đức Giêsu đang nhìn từ tầm nhìn cao cả nhất.
Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…”
Một công việc vĩ đại, nhấn chìm nhân loại vào một không gian mới: Ba Ngôi Thiên Chúa… Ba Ngôi là tình yêu liên ngôi vị tinh tuyền và trong suốt nhất mà chỉ Ba Ngôi mới có.. để cho dù nhiều tất cả chỉ là một. Đó cũng chính là giấc mơ của mọi tình yêu.
“Dạy bảo họ tuân giữ MỌI điều Thầy đã truyền cho anh em..”
Vậy thì, đấy là toàn bộ hành động của con người phải được đặt dưới quyền chủ tể của Đấng Phục Sinh trước hết, làm môn đệ của Đức Giêsu không phải là một thái độ trí thức việc dạy giáo lý cũng vậy, trước tiên không phải là truyền thông những khái niệm, nhưng là tập luyện một cách sống bao gồm mọi khía cạnh của đời sống.
“Và đây Thầy ở cùng anh em MỌI ngày cho đến tận thế”
Sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh, không chỉ tràn ngập mọi nơi trên trần thế mà còn bao trùm toàn bộ thời gian! Sứ thần khi truyền tin cho Thánh Giuse lúc Tin Mừng bắt đầu đã nói: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Mọi Tin Mừng của Mátthêu do đó đều bao hàm trong tư tưởng ấy.
Một lời mời gọi phi thường: Nếu Thiên Chúa hiện diện mọi ngày, mọi lúc… nếu chúng ta có thể nói rằng chính chúng ta cũng hiện diện và ở cùng Thiên Chúa? Thi hào Tagore nói rằng “ước gì đời sống của con như một cây sáo trúc, để Ngài có thể làm đầy bằng âm nhạc”.
Mỗi ngày hôm nay, mỗi giây phút của đời tôi có thể trở nên rực sáng bởi tình bầu bạn ấy của Đức Giêsu! Ôi, Lạy Chúa Giêsu…
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
“THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ”- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
*1. Kết thúc mà lại khởi đầu
Phụng vụ bài đọc năm A về lễ Thăng Thiên mời gọi ta suy niệm những câu cuối cùng của Phúc Âm thứ nhất. Đoạn văn kết thúc Phúc Âm Matthêu này đặc biệt gợi nhớ đến hai chương đầu của Phúc Âm.
– Thực vậy, khi viết “Phúc Âm về thời niên thiếu”, thánh Matthêu muốn mời gọi ta coi việc Đức Giêsu giáng sinh tại Belem, thành vua Đavít là ứng nghiệm lời tiên tri về một Đấng “Emmanuel”: Đấng “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7), còn các Đạo sĩ đến từ phương Đông tiêu biểu cho những người tiên phong của Dân Ngoại đang đi đến niềm tin vào Đức Kitô: “Họ THẤY Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền SẤP MÌNH THỜ LẠY NGƯỜI”.
– Ở đoạn kết thúc, rõ ràng là thánh sử, đã lấy lại cũng những lời lẽ trên để thuật lại cuộc gặp gỡ lần cuối cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Người ở Galilê: “Khi THẤY Người, các ông SẤP MÌNH THỜ LẠY Người”. Rồi Đức Giêsu trao cho các ông sứ mệnh đến với “MUÔN DÂN” và long trọng tuyên bố rằng: “THẦY Ở CÙNG CÁC CON” mọi ngày cho đến tận thế”.
Radermakers chú giải: “Ở đây chúng ta thấy con người Đức Giêsu dầu mang dấu vết của một con người được sinh ra ở một thời điểm và sinh sống ở một nơi chốn nhất định, vẫn có cả một sự bao trùm lớn lao, trải rộng đến mọi chiều kích của toàn thể lịch sử nhân loại” (“Au fie de l’Evangile selon saint Mathieu, Viện Nghiên cứu Thần học, Bruxelles, 1974, trang 362).
*2. Khi hồi kết thúc loan báo một khởi sự mới
Sau Phục sinh, Đức Giêsu hẹn gặp lại các môn đệ Người, không phải ở Giêrusalem, thủ đô và là thành thánh như trong Phúc Âm Luca, mà là ở “Galilê” miền đất vẫn bị mọi người nhìn bằng nửa con mắt, là “nơi qui tụ dân” là biểu tượng của thế giới ngoại giáo (Mt 4,12-23).
Giáo Hội… phải rời bỏ Giêrusalem mà về mặt địa lý cho tới lúc ấy vẫn được coi là trung tâm đức tin, nơi có Thiên Chúa hiện diện, để đi tới miền vốn được coi là “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa ngay là một “Giáo Hội vì mọi người”: đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội, điều mà không bao lâu sau Đức Giêsu sẽ nói rõ ràng” (Cahiers – Evangiles” số 9, trang 6).
Nơi Đức Giêsu truyền cho các môn đệ đi tới, là một “ngọn núi” vốn là nơi rất thích hợp cho việc Chúa mạc khải. Một lần nữa ở dân cũng như trải dài suốt Phúc Âm của Ngài, thánh Matthêu đều trình bày Đức Giêsu như một Môsê mới ban Luật của Người cho dân tộc mới của Thiên Chúa.
Cl. Tassin chú giải: “Như trong một cuốn phim, người ta lần lượt thấy xuất hiện những ngọn núi: núi quỷ cám dỗ khi chỉ cho Đức Giêsu xem thấy các nước trần gian, núi Bát Phúc, nơi Thầy công bố hiến chương Nước Trời, và Núi Hiển Dung nơi vinh quang Con Người được tỏ hiện; nổi bật hơn cả vẫn là cảnh âm u tịch mịch của núi Nê-bô, nơi Môsê phải nói lời giã biệt trước khi dân tiến vào Đất Hứa” (“Phúc Âm thánh Matthêu, NXB. Centurion, trang 303).
– Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ liền “sấp mình thờ lạy Người” trong một cử chỉ vừa tôn kính theo đạo giáo, mà cũng có tính cách phụng thờ, y như các đạo sĩ đã làm khi thấy hài nhi với thân mẫu là bà Maria (2,2.8.11); cũng như các môn đệ đã bày tỏ khi ở trong thuyền lúc sóng to gió cả, và đó cũng là cử chỉ của người phụ nữ xứ Canaan vậy (15,25).
Nhưng lòng tôn thờ của các ông còn vương vấn “sự hoài nghi”, mối hoài nghi này, theo như J. Radermakers nhận xét chí lý, chính là người bạn đồng hành không thể tách biệt của một lòng tin đang lần bước”.
– Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần”), Đấng mà các ông sấp mình thờ lạy ấy, chính là Đức Chúa hiển vinh. Một khi đã được vinh thăng, được trao ban quyền tối cao xét xử toàn cầu (“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”) thì giờ đây Người có lý khi sai các môn đệ của mình đi khắp thế giới để làm cho vương quyền ấy được thực hiện.
Những lời Người ban bố cho họ đánh dấu sự khai trương một giai đoạn mới trong sứ mệnh của Người, sứ mệnh mà từ này trở đi Người sẽ vẫn tiếp tục nhờ Giáo Hội.
+ “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Suốt thời gian thừa hành sứ vụ công khai, Đức Giêsu đã phải tự ý giới hạn hoạt động của Người đối với “các chiên lạc của nhà Israel”. Từ nay những biên giới ngăn cách do không gian và thời gian đều bị bãi bỏ vì Người có thể thực thi trọn vẹn sứ mệnh Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đúng như Matthêu đã loan báo, khi mượn lời sấm của Isaia 42,1-4: “Và môn dân sẽ đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (Mt 12,18-21). Dân ngoại có mặt ngay từ buổi đầu của Phúc Âm thì cuối cùng vẫn thấy mình là những con người được Tin Mừng nhắm tới. Đức Giêsu trao phó cho Giáo Hội Người sứ mệnh truyền giáo khắp hoàn cầu này.
Cl. Tassin còn muốn lưu ý ta rằng: “Điểm nhấn mạnh không ở tại động từ “Đi” hay ở tại sứ mệnh chinh phục địa lý, mà cốt ở việc mở ra cho hết mọi nhóm người không phân biệt một ai. Bởi lẽ Đức Giêsu đã được “trao toàn quyền” thì mọi người đều phải thần phục quyền bính của Người. Đối với Matthêu, truyền giáo là gì? Thưa là: những môn đệ làm cho những người khác trở thành môn đệ; là những người nam cũng như nữ cảm nghiệm sâu sắc rằng giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi chính cuộc đời của họ, họ chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, dạy bảo cho những người ấy tuân giữ mọi giới luật của Đức Giêsu mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một luật là tình yêu” (O.C., trang 304).
+ “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Truyền giáo không phải là tuyên truyền một ý thức hệ, dù là cao siêu tuyệt vời, mà là chủ trương không ngừng xây dựng một cộng đồng: cộng đồng của những con người nhờ chịu phép rửa mà muốn sống gắn bó mật thiết với nhau bởi cùng thuộc về một Thiên Chúa là “Cha, Con và Thánh Thần”.
+ “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Truyền giáo không thể chỉ thu gọn lại trong việc kêu gọi người ta trở lại rồi bỏ mặc đấy. Giáo Hội sẽ phải giúp đỡ những tân tòng ngày qua ngày sống hoà nhập với cuộc đời mới mà họ đã bước vào.
- Radermakers đưa ra nhận xét sau: “Chính Phúc Âm nhìn toàn bộ là một giáo huấn về cuộc sống, được hiểu như dấu chỉ của bí tích trong phép rửa tội và được triển khai cách hài hoà trong cuộc sống đời thường; đời sống luân lý trong cộng đồng Kitô hữu chẳng qua là sống Tin Mừng bằng việc làm cụ thể” (O.C., trang 365).
+ “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đây là lời tuyên bố cuối cùng và cũng là điểm cao nhất của lời Chúa phán vì là lời hứa bảo đảm một sự hiện diện tích cực và hữu hiệu vô bờ bến. Cuối Phúc Âm của mình, thánh Matthêu mới cao rao rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.
Potin kết luận: “Đức Giêsu không xa lìa Giáo Hội của Người. Mặc dầu ta không trông thấy Người, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi mà Giáo Hội sẽ lan rộng tới, cho đến tận thế. Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu không biến mất lên trời. Nhưng lời nói cuối cùng của Người cũng là câu sau chót của Phúc Âm, hứa rằng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Vả lại trước đây há chăng Người đã chẳng tuyên bố: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Đấng Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê, Người đi theo các tông đồ của Người trên mọi nẻo đường trần gian” (“Jésus, l’histoire vraie” NXB Centurion, 1994, trang 516).
BÀI ĐỌC THÊM:
*1. “Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở (Đức Cha L. Daloz, trong “Le Règne de Dieu s’est approché”).
“Bài kết thúc Phúc Âm thánh Matthêu thực ra là một sự khởi đầu, một màn khai mở: đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Phải suy niệm, và nhìn ngắm mới thấy rõ việc truyền giáo là con tim đang đập trong lồng ngực Giáo Hội có tác dụng kích thích Giáo Hội. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, và qua các ông, cho chung tất cả mọi môn đệ, Đức Giêsu thành người sống đương thời với chúng ta: Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế… Việc gặp gỡ Mười Một Tông đồ là điều có liên hệ chặt chẽ với mầu nhiệm Phục sinh. Trước khi đi vào cuộc khổ nạn Người đã báo trước: Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em. Sau khi Phục sinh, Người nói lại sứ điệp ấy với các phụ nữ đứng bên mồ và triệu tập các môn đệ: “Các bà hãy về báo cho anh em Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”. Vì nhờ mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô, sự phục sinh nhân loại mới có thể được thực hiện. Khi sai các môn đệ… Đức Giêsu phục sinh là cội nguồn của việc truyền giáo. Quyền năng Thiên Chúa đã cho Người sống lại trở nên quyền năng cứu độ cho mọi dân tộc. Chúng ta nhận biết quyền năng ấy, và chỉ có lòng tin mới tiếp nhận được thôi (cũng như 11 tông đồ) các ông gặp Đức Giêsu trên núi, là nơi vốn xảy ra những cuộc hiển linh của Chúa, như ở núi Sinai hay ở núi Hiển Dung. Thái độ của các tông đồ lúc ấy diễn tả lòng tin của ta: tôn thờ mà lại do dự: khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Cảnh tượng thật long trọng, giống như một cuộc hành lễ, chứ không còn là buổi gặp gỡ thân tình như những lần hiện ra trước đây. Là vì lần gặp gỡ này xác định nền tảng, hình thức và chân trời cho sứ mệnh truyền giáo vậy.
Nền tảng ấy là quyền hành mà Đức Giêsu nhận được: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Không phải là quyền của kẻ có sức mạnh trong tay và thống trị, mà là ách êm ái và gánh nhẹ nhàng. Không phải là quyền chiếm đoạt như Tên Cám dỗ đã đề nghị cho Người. Nhưng là quyền của tình yêu không để bị khuất phục. Đó là sức mạnh của sự phục sinh được khơi nguồn trong Đức Giêsu và nhờ Người sức mạnh ấy làm thay đổi cả thế giới. Những nỗ lực truyền giáo, tinh thần can đảm để không ngừng thực thi sứ mệnh, tất cả đều nhờ sức mạnh ấy mà tìm được chỗ dựa bảo đảm. Sức mạnh này không phải do ta khôn ngoan, tài khéo, tận tuỵ mà có được… anh em hãy đi! Đó là một lệnh truyền. Từ buổi đầu cho đến nay, lệnh sai đi này vẫn vang lên không ngừng, vẫn luôn luôn gợi ra những sáng kiến mới lạ, những cuộc lên đường mới, một đà tiến mới tới miền xa xăm hay rất gần mà chúng ta đều mắt thấy tai nghe qua suốt dòng lịch sử.
Bởi lẽ chân trời truyền giáo là tất cả mọi quốc gia, và hạn kỳ là cho đến tận thế. Việc truyền giáo chẳng bao giờ cùng về mặt địa lý cũng như về lịch sử. Ta tham gia vào công việc này ngay ở nơi ta đang ở và thời đại ta đang sống. Mỗi người lãnh phần trách nhiệm của mình, nhưng mỗi người không phải chịu trách nhiệm về tất cả. Quan tâm thôi, không đủ; mà phải hành động. Mỗi người chúng ta được sai đến ở nơi mình đang ở; ta không thể chỉ là người hưởng ơn cứu độ, mà cũng còn là dụng cụ Chúa dùng để ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô đạt tới những kẻ khác, những người ta đang sống với, những người ta được sai đến với họ ở cận kề bên ta hay ở xa ta. Nhiệt tình do Đức Giêsu phục sinh ban cho vẫn có trong con tim của mọi cuộc đời Kitô hữu. Đời sống này trở nên suy nhược khi bóp nghẹt nhiệt tình này bằng lối sống vị kỷ, khép kín. Cần phải biết sống chia sẻ để khởi xơ cứng và chết. Cũng vậy, Giáo Hội không thể ở thể tĩnh. Giáo Hội được sai đi…
Hình thức việc truyền giáo cũng được chỉ rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Chúng ta nhận thấy có ba mặt: loan báo Tin Mừng để khơi dậy được những con người môn đệ, tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh bằng việc lãnh nhận phép Rửa và các bí tích, sống đời sống mới bằng cách thi hành các điều Chúa truyền. Truyền giáo là tất cả như thế đó. Không có ba yếu tố này, công việc ấy không đầy đủ, và chẳng một yếu tố nào trong ba làm nên được công chuyện bởi lẽ “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Quả thực, đây là một thách đố đặt ra cho Giáo Hội, vì rằng mọi dân tộc đều có quyền chia sẻ mầu nhiệm Phục sinh, đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu để được biến đổi và trở nên mới. Như thế các dân tộc ấy cũng hội nhập vào mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Qua việc truyền giáo của các tông đồ, Đức Giêsu vẫn theo đuổi công việc Người đã khởi sự trong mầu nhiệm Phục sinh của Người; Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Ta còn sợ hãi gì nữa, một khi có Đức Giêsu phục sinh đang ở cùng chúng ta.
*2. “Là dịp để ta canh tân lại quyết định làm môn đệ trung thành của Đức Kitô” “Célébrer” (Nguyện san của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ Phụng vụ) số 258 trang 42.
“Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Emmanuel”, vẫn là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.Việc Người-lên-trời không hẳn là một sự lìa bỏ. Phải học hỏi để nhận ra điều này dầu không trông thấy Người như các môn đệ đã thấy xưa. Chúa lên trời nhắc nhở ta sống thân phận của một người tin và yêu: tin rằng Người vẫn đang có mặt, và thực hành yêu thương để làm cho Người được hiện diện. Lễ này phải là dịp để ta canh tân lại quyết định trở thành những môn đệ trung tín của Đức Kitô: những môn đệ vững tâm vì Người vẫn có mặt bên ta “mọi ngày”, những môn đệ sẵn sàng đáp lại tiếng gọi sai đi truyền giáo cho “muôn dân” của thời đại hôm nay”.
*3. “Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” J.Rader-makers chú giải thêm cho bài viết ở trên.
Đức Giêsu Nagiarét xuất thân.
Từ miền Galilê của chư dân,
Đất thuộc Zabulon và Néptali
Người là ánh sáng bừng lên
Soi cho dân ngồi trong tăm tối;
Người là Quý Tử chí ái
Của Ngôi Thánh Phụ muôn đời quang vinh.
Để tha tội lỗi môn dân
Người đành hiến máu để làm Giao ước;
Người đã chỗi dậy ngày thứ ba
Làm cho muôn dân trở thành môn đệ.
Người là Emmanuel vẫn luôn có mặt,
Người còn đi trước các anh em
Đến những Galilê của mọi miền trái đất.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
THẦN KHÍ SỰ THẬT (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm “một biến cố lên trời hữu hình của Đức Giê-su” có các Tông Đồ là những nhân chứng và “một biến cố vô hình về cuộc tôn vinh Chúa Con trở về cùng Chúa Cha” không có nhân chứng.
Cv 1: 1-11
Sách Tông Đồ Công Vụ tường thuật biến cố lên trời hữu hình: sau khi đã ban cho các môn đệ của Ngài những huấn lệnh sau cùng, Đức Giê-su biến mất vào trong đám mây trước mắt các ông.
Ep 1: 17-23
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi biến cố lên trời vô hình: Chúa Cha tôn vinh Chúa Con khi đặt Con của Người trên muôn loài muôn vật và thiết lập Ngài làm đầu Giáo Hội. Biến cố này thiết lập niềm hy vọng lớn lao cho người Ki-tô hữu là được dự phần vào vinh quang nầy, bởi vì Giáo Hội là “thân thể” của Đức Ki-tô.
Mt 28: 16-20
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu tường thuật một cuộc gặp gỡ duy nhất của Đức Ki-tô Phục Sinh với các Tông Đồ của Ngài trên núi Ga-li-lê, ở đó Đức Giê-su mặc khải cho họ biết rằng Ngài đã đón nhận mọi quyền năng trên trời dưới đất và sai họ ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Công Vụ Tông Đồ mà Chúa Nhật hôm nay trích phần đầu được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả: nhắc lại “quyển thứ nhất” (Cv 1: 1), tức là sách Tin Mừng thứ ba, và cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô (Lc 1: 1; Cv 1: 1),
Thánh Lu-ca hoàn tất sách Tin Mừng của mình ở nơi biến cố lên trời: “Người rời bỏ các ông và được đem lên trời…” trong khi Lời Tựa của sách Công Vụ Tông Đồ nêu lên hai lần cùng một biến cố: “Cho đến ngày Người được rước lên trời” (1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (1: 9).
Như vậy, bằng cách trình bày văn chương, ở cuối sách Tin Mừng và đầu sách Công Vụ, biến cố lên trời xuất hiện chính xác như vừa hoàn tất vừa khởi đầu: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Ki-tô ở giữa loài người, và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài: hoàn tất sứ mạng tại thế của Đức Giê-su và khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
*1.Hai biến cố lên trời:
Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố lên trời:
-Biến cố lên trời thứ nhất không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay sau biến cố Phục Sinh. Đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức. Đó cũng là sự tôn vinh của Chúa Con, sự tôn vinh mà Đức Giê-su cầu xin trong lời nguyện của Ngài, trước khi Ngài bước vào con đường Thương Khó và Tử Nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).
-Biến cố lên trời thứ hai là cuộc lên trời hữu hình của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố liên quan chủ yếu đến chúng ta, đó là bản tính nhân loại, cùng với Đức Ki-tô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc lên trời thứ hai nầy loan báo cuộc lên trời của chúng ta.
*2.Lý do của biến cố lên trời hữu hình:
Tại sao Đức Giê-su chọn cách thức ra đi xem ra ngoạn mục nầy, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng với các môn đệ, cách đơn giản nhất Đức Giê-su có thể loan báo cho họ rằng Ngài sẽ không còn hiện diện hữu hình với họ như trước đây nữa, đoạn từ biệt họ rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày sau biến cố Phục Sinh.
Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố lên trời hữu hình là cách thức Đức Giê-su giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài trong suốt cuộc sống công khai của Ngài. Ngài đã lên trời một cách hữu hình như vậy khi xưng mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật huyền nhiệm mà ngôn sứ Đa-ni-en đã thoáng thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời” (Đn 7: 13). Với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su khẳng định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13). Trong bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, Chúa Giê-su đã tuyên bố đến sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống”, và cuối cùng Ngài kết thúc bài diễn từ bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo cách rõ ràng hơn biến cố lên trời tương lai của Ngài.
*3.Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:
“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”: Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở nơi con số này: nó hình thành nên một sự đối xứng với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa, giữa phép rửa của Ngài bởi thánh Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài, để chuẩn bị thi hành sứ mạng của Ngài. Bốn mươi ngày cũng là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố lên trời, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho các môn đệ Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en mặc khải cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa… Bình an cho các ngươi!… Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi… do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy… Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi”. Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa…
*4.Tất yếu phải có Chúa Thánh Thần:
Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò các ông những lời sau hết và loan báo cho họ trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vào lúc đó, các ông hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Câu hỏi này cho thấy giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn nung nấu trong lòng các ông. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới (Cv 1: 7-8). Nhưng vào lúc nầy, vì chưa nhận được ân ban Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.
*5.Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về biến cố Truyền Tin, trong đó đám mây, dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, đã phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh, ở đây cũng đám mây bao phủ Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”, ở đây cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
*6.Chiêm niệm và hành động:
Sức mạnh đến từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1: 8). Chúng ta đừng ngạc nhiên khi thánh Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu Độ.
Chính là lúc phải hành động chứ không là những lưu luyến vô bổ như lời nhắc nhở của thiên sứ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?… Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao mà Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng, mỗi người Ki-tô hữu vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hoạt động và chiêm niệm.
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 17-23)
Việc chọn đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Ê-phê-xô này là có chủ ý nhằm để tưởng niệm biến cố Thăng Thiên của Đức Ki-tô. Mặc dầu không nêu đích danh biến cố Thăng Thiên, nhưng thánh Phao-lô mặc cho biến cố nầy một chiều kích thần học: Đức Giêsu về cùng Chúa Cha đón nhận vinh quang và uy quyền, đồng thời kêu mời mọi tín hữu hãy dự phần vào cùng một cuộc sống vinh quang nầy.
Thánh Phao-lô viết từ Rô-ma trong cảnh giam cầm vào những năm 61-63. Trong những thư viết trong tù này, thánh nhân cho chúng ta những suy niệm cao vời của mình về mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm Giáo Hội, “thân thể Đức Kitô”.
Trong đoạn trích thư này, chúng ta có thể phân biệt hai phần: phần thứ nhất là lời cầu nguyện và phần thứ hai là những mối liên hệ của Đức Ki-tô vinh hiển với Giáo Hội.
*1.Lời cầu nguyện:
Trong những thư sau cùng của thánh Phao-lô, lời cầu nguyện càng lúc càng trở nên quan trọng. Tất cả những thư mà thánh nhân viết trong cảnh bị giam cầm đều theo thể văn cầu nguyện. Thánh nhân nhắc đi nhắc lại: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Anh em hãy cầu nguyện trong mọi lúc”. Chính thánh nhân cũng đưa ra cho họ một mẫu gương. Lời cầu nguyện của thánh nhân luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha. Trong bản văn nầy, Chúa Cha đón nhận tước hiệu “Chúa Cha vinh hiển”. Cách diễn tả nầy có thể là tước hiệu phụng vụ, do từ một viễn cảnh được nêu lên: viễn cảnh vinh quang mà Chúa Cha cho Chúa Con Phục Sinh được dự phần vào, và theo sau Chúa Con, là mọi tín hữu.
Thánh Phao-lô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu Thần Khí khôn ngoan để họ càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa. “Hiểu biết Thiên Chúa” được hiểu theo Kinh Thánh là được sống với Ngài trong đức tin và đức mến, chứ không là một sự hiểu biết trừu tượng.
“Xin Ngài soi lòng mở trí cho anh em để anh em thấy rõ đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh”. Trong lời nguyện này, hai cách diễn tả: “niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi” và “gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng các thánh”, chỉ cùng một thực tại tinh thần: dự phần vào cuộc sống vinh quang của Chúa Con Phục Sinh. Quả thật, trong Cựu Ước, cách nói: “chia sẻ gia nghiêp” gợi lên một sự kiện lịch sử: chia sẻ Đất Hứa, nghĩa là đất Ca-na-an, giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en. Trong Tân Ước: “chia sẻ gia nghiệp” giữa những người được tuyển chọn, nghĩa là “đồng thừa tự” cuộc sống vinh quang với Đức Ki-tô.
*2.Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội:
Lời nguyện xin cho được ơn soi sáng dâng trào thành lời tôn vinh Đức Ki-tô, Đấng được đặt làm Chủ Tể vũ trụ và Thủ Lãnh Giáo Hội.
“Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến những niềm tin rất phổ biến trong thế giới Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, theo đó những sinh linh thiên giới: những quyền lực thần thiêng hay tinh tú, chia sẻ việc điều hành vũ trụ với nhau, cả trong trật tự vật lý lẫn trong trật tự tinh thần.
Ở nơi số lượng đông đảo Quyền Thần nầy, chắc chắn phải kể đến những quyền lực của Ác Thần (Tử Thần là một trong số đó) mà Đức Ki-tô đã chiến thắng. Trong đoạn văn này, thánh nhân không nêu đích danh, nhưng ở gần cuối thư: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là những quyền lực thần thiêng, với những bật thống trị tối tăm nầy, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 12).
“Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô”. Đây là câu trích dẫn trực tiếp từ Thánh Vịnh 8, nêu bật lên tư tưởng mà thánh Phao-lô muốn diễn tả. Qua những từ ngữ nầy, thánh vịnh gia gợi lên sự cao cả của con người được Thiên Chúa tạo dựng:
“Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân.” (Tv 8: 6-7).
Như vậy thánh nhân muốn nói rằng Đức Ki-tô là “Con Người” tuyệt hảo.
“Thiên Chúa đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô”. Hình ảnh nầy là chủ đề trọng tâm của thư gởi tín hữu Ê-phê-xô. Nó là đỉnh cao của việc suy gẫm dài lâu về mầu nhiệm Đức Ki-tô. Đầu ở đâu thì toàn thân ở đó. Và đầu, không chỉ là yếu tố truyền lệnh, điều khiển, nhưng còn là một bộ phận sinh động, hiệp nhất, đảm bảo sự tăng trưởng của toàn thân. Khi nào hoàn thành sứ mạng của mình, Giáo Hội sẽ hoàn tất ở nơi chính Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)
Đoạn kết Tin Mừng Mát-thêu này không nêu lên biến cố lên trời hữu hình, nhưng một hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ: Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra cho mười một môn đệ, loan báo cho họ quyền tối thượng hoàn vũ của Ngài, ủy thác cho họ sứ mạng loan truyền giáo huấn của Ngài đến muôn dân muôn nước, và bảo đảm với họ Ngài sẽ ở với họ luôn mãi.
Thánh Mát-thêu không tường thuật bất kỳ cuộc xuất hiện nào của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài sau khi Ngài sống lại, ngoại trừ cuộc hiện ra nầy. Thánh ký tập trung lời chứng về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những dặn dò tối hậu của Ngài vào cuộc hội ngộ duy nhất này. Như vậy biến cố này mặc lấy một chiều kích đặc biệt. Nét tiêu biểu đáng chú ý của đoạn kết này là tập hợp toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu.
*1.Ở Ga-li-lê:
Hoạt cảnh diễn ra ở Ga-li-lê. Đó là nơi Đức Giê-su đã hẹn gặp các môn đệ Ngài. Ba lần Ngài đã yêu cầu họ quy tụ với nhau ở nơi nầy. Lần thứ nhất sau khi Ngài báo trước Phê-rô chối Ngài và tất cả môn đệ sẽ vấp ngã vì Ngài: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. (Mt 26: 32). Lần thứ hai vào buổi sáng Phục Sinh, thiên sứ đã nói với các người phụ nữ đến viếng mộ: “Hãy mau về nói với các môn đệ Người như thế nầy: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28: 7). Lần thứ ba Đức Giê-su đích thân hiện ra với các người phụ nữ và lập lại sứ điệp nầy: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28: 10).
Thánh Mát thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê. Thánh Lu-ca định vị cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem, trong khi thánh Mát-thêu, vốn không thích thành thánh Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, dành riêng sứ điệp tối hậu của Đức Ki-tô cho các môn đệ tại Ga-li-lê. Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, núi nào chẳng quan trọng, vì núi chỉ là một biểu tượng. Không phải tại Tin Mừng Mát-thêu, trên một ngọn núi vang lên lời dạy của Đức Giê-su về các “Mối Phúc” sao?
*2.Họ bái lạy Ngài:
“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”. Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh đối xứng với những hoạt cảnh mà thánh Mác-cô và thánh Lu-ca mô tả, ở đó những nghi ngờ như vậy cũng được gợi lên: “Ngài tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một… khiển trách các ông không tin và cứng lòng” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn tay chân Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24: 36-38).
Đức Giê-su tiến gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi cũng cố niềm tin của họ, Đức Giê-su ủy thác cho họ sứ điệp tối hậu của Ngài: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Quyền tối thượng hoàn vũ nầy không phải đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo trong thị kiến về “Con Người” sao?:
“Đấng Lão Thành trao cho Người
quyền thống trị, vinh quang và vương vị;
muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ
đều phải phụng sự Người.
Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cữu,
không bao giờ mai một;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).
*3.Sai đi thi hành sứ mạng:
Đoạn, Đức Giê-su ủy thác cho các Tông Đồ sứ mạng vĩ đại: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Rất nhạy bén trước chiều kích hoàn vũ của ơn Cứu Độ, thánh Mát-thêu hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh bao la, theo đó muôn dân muôn nước trở thành muôn đệ của Đức Ki-tô.
Đồng thời “quyền giáo huấn Giáo Hội” được xác định: “Hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ngỏ hầu Giáo Huấn nầy được trung thành tuân giữ, Đức Giê-su hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Khi nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em…”, Đức Giê-su không dùng thì tương lai, vì thế đây không đơn giản là lời hứa nhưng một sự “khẳng định”. Cuộc ra đi của Ngài có nghĩa một sự hiện diện theo một hình thức mới. Trong Cựu Ước, Đức Chúa khẳng định với ông Mô-sê: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3: 12), lời khẳng định này đã nâng đỡ dân Ít-ra-en suốt dòng lịch sử thăng trầm của mình. Như vậy, thánh Mát-thêu bắt đầu Tin Mừng của mình với nguồn gốc của Đức Giê-su: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1: 23) và cũng kết thúc toàn bộ Tin Mừng của mình với việc Đức Giê-su hoàn tất Kinh Thánh: Ngài là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Việc Đức Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Đức Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Đức Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Đức Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
– Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
– Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I : Cv 1,1-11 : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
– Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
– Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.
*2. Đáp ca (Tv 46)
Đây là một Tv ca tụng vương quyền của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, Ngài xứng đáng đón nhận vương quyền. Và vương quyền này đã mở rộng khắp nơi nhờ công tác loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.
*3. Tin Mừng (Mc 16,15-20)
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ :
– Sai các ông đi loan Tin Mừng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
– Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông : “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại ; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Những “dấu lạ” mà Đức Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa : a/ Nghĩa bóng : Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ ; b/ Nghĩa đen : các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
Các môn đệ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan Tin Mừng, và những lời Chúa hứa đã thành sự thật : “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”
*4. Bài đọc II (Êp 4,1-13)
“Thánh tông đồ gợi ý cho chúng ta một cách nhìn về sự kiện Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rực rỡ vinh quang Thiên Chúa, sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh từ nay sẽ mang những chiều kích vĩnh hằng và vũ trụ, vượt khỏi khuôn khổ không gian và thời gian, nghĩa là bây giờ và mãi mãi Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta” (CgvDt, số đặc biệt giáng sinh ’93)
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Quê hương thiên đàng và cuộc hành trình dương thế
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
-Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
-Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe…”
-Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ “Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ ?” Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ “Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa”.
-Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ “Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy ?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói “Từ trời xuống”. 3 em liền xin “Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi”. Đức Mẹ mỉm cười đáp “Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây ; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết hai em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào !
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế :
-Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ “Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó…”
-Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
-Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước ; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao ? Nghĩa là : Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ : Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật ; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như : chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.
“Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời…” Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời “Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời…” Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế : Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.
* 2. “Củng cố lời giảng bằng những dấu lạ kèm theo”
Việc loan Tin Mừng sẽ có sức thuyết phục hơn nếu có những dấu lạ kèm theo. Những dấu lạ này không hẳn là các phép lạ lớn lao, mà còn là cách sống có sức thu hút của chúng ta.
* 3. Con đường về Trời
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói :
– Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi :
– Món quà quí giá của ngươi đâu ?
Người này điềm tĩnh trả lời :
– Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói :
– Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất : Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
*
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật” (Mc.16,15)
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.
– Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
– Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
– Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ : “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con” (Ga.17,24).
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
Lạy Chúa, con đường lên trời là con đường hẹp, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin cho tất cả mọi nẻo đường chúng con đi, đều dẫn chúng con về quê trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Trời đang tỏ hiện. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Những cách giảng đạo
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.
– Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời : “Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta”
– Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói : “Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng”.
– Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói : “Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con”.
– Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói : “Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo”.
– Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói : “Đây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi”.
– Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích : “Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Đang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia xẻ cuộc sống của họ. Đang khi chia xẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con”.
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng
“Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”, đó là mệnh lệnh của Chúa khi Ngài từ biệt chúng ta.
Bây giờ Ngài không còn có ai trên thế gian ngoài chúng ta.
Ngài không còn tay để nâng người sa ngã ngoài tay của chúng ta.
Ngài không còn chân để đi tìm kẻ hư mất ngoài chân của chúng ta.
Ngài không còn mắt để nhìn những giọt lệ khổ đau âm thầm ngoài mắt của chúng ta.
Ngài không còn lưỡi để an ủi kẻ buồn sầu ngoài lưỡi của chúng ta.
Ngài không còn trái tim để yêu thương những người không được yêu thương ngoài trái tim của chúng ta.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con là những môn đệ nhút nhát và sợ sệt của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng can đảm để làm chứng cho Chúa giữa thế gian, hầu Tin Mừng được rao giảng và người ta tìm được đường vào Nước của Chúa. (Flor McCarthy)
* 6. Loan Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo
Trong bài Tin Mừng này, có một câu mà nếu đọc kỹ từng lời thì ý nghĩa rất lạ. Đức Giêsu bảo “Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
– “Thọ tạo” nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú… Tóm lại là tất cả.
– Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được ? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
– Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, mầu nhiệm Đức Giêsu về trời được tôn vinh bên Chúa Cha, luôn luôn là điều khích lệ và nâng đỡ cho mọi Kitô hữu còn đang tại thế. Chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :
-1. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người Kitô hữu / biết luôn làm vinh danh Đức Giêsu Phục sinh / trong khi thì hành những trách nhiệm trần thế nơi gia đình và xã hội.
-2. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều người trên thế giới / đang mất dần ý thức về Thiên Chúa hoặc cố tình dửng dưng với Thiên Chúa / được nhận biết Thiên Chúa là Cha và là nguồn hạnh phúc của họ.
-3. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quan chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
-4. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quanh chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
-5. Chúng ta cầu xin Chúa cho cộng đồng xứ đạo chúng ta đã tin Đức Giêsu Phục sinh về trời / thì cũng luôn sống theo niềm tin đó / để cũng được sống lại và lên trời như Chúa.
Chủ tế : Lạy Chúa là Cha toàn năng, Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh và về trời, xin giúp chúng con biết sống theo lối sống của Người, để mai sau cũng được hưởng vinh quang với Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
*VI. TRONG THÁNH LỄ
– Kinh Tiền Tụng riêng cho lễ Thăng Thiên
– Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
– Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp rước Đức Giêsu vào lòng. Hãy xin Ngài thêm sức giúp chúng ta chu toàn sứ mạng Ngài trối lại cho chúng ta tiếp nối. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
*VII. GIẢI TÁN
Hôm nay Đức Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa : “Anh em hãy đi đến với muôn dân…”, “Anh em hãy làm chứng cho Thầy”. Chúc anh chị em bình an.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN-A
HIỆN RA Ở GALILÊ VÀ BAN SỨ MẠNG PHỔ QUÁT- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GIẢI THÍCH BẢN VĂN
– 11 tông đồ: Ta biết Đức Giêsu có tất cả 12 tông đồ. Nhưng trong biến cố thụ nạn, Giuđa đã hư mất và sau đó đã tự vẫn; các tông đồ kia thì chạy trốn tán loạn. Bây giờ, trước lúc về trời, Đức Giêsu đã tập họp số còn lại được 11 người. Họ là hình ảnh của Giáo Hội. Giáo Hội là những người được Chúa tập họp lại, đúng ý nghĩa của chữ Hy Lạp Ekklêsia.
– Xứ Galilêa: Địa điểm tập họp sao không phải là Giêrusalem, nơi từ trước tới giờ vẫn được coi là trung tâm của niềm tin? mà lại là Galilêa là vùng có nhiều người lương? Hẳn là Đức Giêsu có chủ ý: Giáo Hội theo quan điểm của Matthêu phải là Giáo Hội truyền giáo, Giáo Hội của thế giới.
– Lên núi: Matthêu không quan tâm đến vị trí địa dư chính xác cho bằng quan tâm đến ý nghĩa thần học của vị trí ấy. Vì thế đừng mất công tìm hiểu xem “núi” này là núi gì. Ngày xưa Môisen đã gặp Thiên Chúa trên núi; rồi Êlia cũng đi tìm gặp Thiên Chúa trên núi; Đức Giêsu cũng biến hình trên núi; Hiến Chương Nước Trời cũng được Đức Giêsu công bố trên núi. Các dữ kiện Thánh Kinh trên cho thấy “núi” là nơi Thiên Chúa công bố luật. Vậy cũng như ngày xưa Thiên Chúa gặp Môisen “trên núi” để ban Luật cho dân Israel, thì nay Đức Giêsu cũng hẹn gặp 11 tông đồ trên núi để ban Luật mới cho Giáo Hội, Israel mới.
– Thờ lạy: Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng đáng thờ lạy (xem Mt 4,10 trích Đnl 6,13). Vậy khi các tông đồ thờ lạy Đức Giêsu phục sinh thì có nghĩa là các ông nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa.
– Vẫn còn nghi nan: Giáo Hội mà Đức Giêsu tập họp tuy là Giáo Hội đã tin Ngài là Thiên Chúa nên đã “thờ lạy” Ngài, nhưng đức tin vẫn còn yếu kém, vẫn là “những kẻ hèn tin” (xem 6,30; 8,26; 14,31; 16,18).
– Đức Giêsu lại gần: Nếu dịch thật đúng, phải là “Đức Giêsu đến với họ”. Nếu như Matthêu cố tình dùng động từ “đến” thì ngụ ý của Matthêu là Đức Giêsu thực hiện đúng tước hiệu mà Cựu Ước vẫn gán cho Đấng Messia, “Đấng đang đến” (Celui qui vient) (xem Đaniel 7,13; Tv 118,26; Mt 21,9; 23,39). Trước tòa án xét xử Ngài, chính Đức Giêsu đã xưng mình bằng tước hiệu đó (Mt 26, 54).
– Được mọi quyền: Trong Đaniel 7,14 “Con Người” (Đấng Messia) sẽ được Thiên Chúa ban cho mọi quyền. Như vậy, ở đây Đức Giêsu tự giới thiệu mình chính là Con Người Messia.
– Vậy các con hãy đi: Đức Giêsu sai các tông đồ (Giáo Hội) đi truyền giáo. Nên chú ý rằng ở chương 10, Đức Giêsu cũng đã sai như thế, nhưng các ông chưa đi, khi đó chính Chúa Giêsu đi và các ông đi theo. Bây giờ lúc Đức Giêsu sắp về trời rồi, thì chính thức tới lúc Giáo Hội phải ra đi truyền giáo.
– Ở khắp muôn dân: Tính đại đồng của Giáo Hội. So sánh với 10,5 (“Đừng vào nhà lương dân…..”), ta thấy câu nói này khó mà tưởng tượng nổi ngay buổi bình minh của Phục sinh. Sách Tông đồ Công vụ cho thấy các tông đồ đã tốn hàng chục năm trời mới mở được chân trời hướng về phía lương dân, và mãi 20 năm sau, công đồng Giêrusalem mới quyết định hướng truyền giáo ấy. Cho nên câu nói này không phải là câu nói của Đức Giêsu lúc ấy, mà đúng hơn là câu nói của Đức Giêsu sống trong Giáo Hội sau công đồng Giêrusalem (TđCv 15,5-12).
– Thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần: Giáo đoàn Matthêu đã có một nề nếp phụng vụ đàng hoàng với phép Rửa nhân danh Ba Ngôi. Lúc ban đầu người ta chỉ biết làm phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Các thư của Phaolô cũng cho thấy những bước dò tìm chậm chạp của niềm tin vào Ba Ngôi.
– Dạy bảo người ta: Matthêu tỏ ra quan tâm đến “mục vụ trí năng”: phải hiểu những gì mình tin (Mt 18,15-18), cho nên Matthêu nhấn mạnh lời Đức Giêsu dặn Giáo Hội phải “dạy bảo”.
– Thầy ở với các con: Chỗ dựa và nơi an toàn duy nhất của Giáo Hội là Đức Giêsu. Ở đây Ngài tự xưng mình là Emmanuel. Lưu ý: khi hiện ra cho Giuse, Thiên sứ đã bảo tên đứa con của Maria sẽ là Emmanuel, vậy mà khi đứa trẻ ấy sinh ra thì Giuse lại đặt tên là… Giêsu! Bây giờ Đức Giêsu đã phục sinh mới thực là Emmanuel, Ngài đã sống lại rồi và sẽ mãi mãi ở với Giáo Hội “hết mọi ngày tới khi tận thế”.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Đi Galilê”: Ở đây tầm quan trọng của Galilê có tính cách thần học: Đấng Phục sinh gặp lại các môn đồ mình tại địa điểm hoạt động chủ yếu của Người trên trần gian (nhất là theo Matthêu và Marcô); điều đó giả thiết có sự liên tục giữa Chúa Kitô tại thế với Chúa Kitô phục sinh, sự liên tục mà câu 20a nhấn mạnh cách minh nhiên (“dạy họ giữ những gì Thầy đã truyền cho các con”). Cuộc Phục sinh ban cho lời vị Thầy xứ Galilê một uy quyền vô song; thay vì làm các môn đồ quên lời Chúa Giêsu Nagiaret để thế bằng thứ kinh nghiệm cao hơn về một cách thức hiện diện mới, cuộc Phục sinh thúc họ tuân giữ những gì Người đã truyền cho. Nếu thánh sử đã chẳng có ý niệm về mối tương quan giữa Chúa Giêsu-giảng dạy với Chúa Kitô-phục sinh ấy, có lẽ ông đã không mất công thu thập vào tác phẩm của mình tất cả những lời Chúa Giêsu mà ông đã “giữ” lại cho giáo đoàn của ông. Tóm lại, ở đây Matthêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa “Chúa Giêsu của lịch sử” và “Chúa Giêsu của niềm tin”.
“Mọi quyền năng đã được ban cho Ta”: Công thức này rõ ràng ám chỉ đến những gì nói về Con Người trong Đanien 7,14: “Vương quốc, vinh dự đã được ban cho Người, và mọi dân nước, ngôn ngữ sẽ phục vụ Người”. Chúa Giêsu hoàn tất lời Người đã hứa trước Công nghị (26,64): “Từ đây các ngươi sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Quyền năng”. Đấng đã ban một uy quyền như thế cho Chúa Giêsu, đương nhiên phải là Chúa Cha (“đã được ban”: thể thụ động chỉ hoạt động Thiên Chúa: passif divin).
“Dạy họ tuân giữ”: dịch sát chữ; “dạy dỗ họ” (didaschontes). Sự nghiệp của Chúa Giêsu đã được Matthêu trình bày như một việc dạy dỗ, giảng thuyết, chữa lành bệnh tật (4,23 và 9,35). Chúa Gỉêsu đã truyền cho các môn đồ chữa lành bệnh tật trong 10, 1.8 và rao giảng trong 10,7; lệnh dạy dỗ được để dành cho đến cuối Tin Mừng, có lẽ vì Matthêu nghĩ rằng phận vụ dạy dỗ là quan trọng nhất trong Giáo Hội.
“Những gì Thầy đã truyền cho các con”: Mấy chữ này phát xuất trực tiếp từ Cựu Ước (Xh 7,2; 29,35; Đnl 1, 41; 4, 2…); chúng tương ứng với thành ngữ của Gioan: “giữ lệnh truyền của Người” (Ga 14, 15; 15, 10; 1 Ga 3, 22tt…). Trong Matthêu, từ “giảng dạy” mang một màu sắc luân lý; không phải là dạy dỗ những bí mật kỳ diệu của một thứ kiến thức bí truyền như người Essêni, cũng chẳng phải là dạy người ta lý luận đúng về sự vật và về chính mình, nhưng tiên vàn là rao giảng, loan truyền, làm cho người ta nhận biết Chúa Kitô và lời Người giải thích thánh ý Chúa Cha. Sứ mệnh Kitô hữu do đó không nhắm mục đích cho người ta “biết” (một sự hiểu biết thuần lý) một Chúa Kitô hoàn toàn thiêng liêng, nhưng là một Chúa Kitô như ta thấy trong Tin Mừng, một Chúa Kitô đang mời gọi mọi người “nghe theo” lời Người giải thích luật Thiên Chúa.
“Thầy ở với các con”: Đoạn kết của Tin Mừng đối đáp lại phần mở. Nơi phần mở, Chúa Giêsu được trình bày như là Đấng có tên là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (1,23) từ lúc mới sinh. Đúng là một lối đóng khung vĩ đại, phô bày tất cả chiều kích phổ quát của con người Chúa Giêsu trên toàn lịch sử nhãn loại, đồng thời đánh dấu việc Người nhập thể vào thời gian và không gian.
KẾT LUẬN
Công cuộc vĩ đại: mang ánh sáng đến cho mọi dân nước không thể là công cuộc của con người. Tin Mừng, mỗi lần đề cập đến sự yếu tin của các sứ đồ đã cho thấy họ bất lực đến chừng nào. Nhưng trong công cuộc trên, các môn đồ không bị bỏ rơi một mình với các phương tiện yếu đuối của riêng họ. Chính Chúa đỡ nâng, cứu giúp họ: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cái nhìn nhắm rất xa, đến những thế kỷ tương lai của một lịch sử dài đang bắt đầu. Chân trời nằm nơi cái biên giới mà thời hiện tại sẽ được thay bằng một thời mới. Thời cánh chung trước khi tái giáng cách hữu hình ‘để phán xét’, Con Người sẽ ở với môn đồ mình để nâng đỡ hoạt động của họ. Người đang hiện diện và hoạt động giữa họ cách thiêng liêng, chẳng những khi họ tụ họp quanh bàn tiệc, tưởng niệm cái chết của Người, và ăn uống thần lương, nhưng luôn mãi và khắp nơi. Cộng đoàn cứu độ mới không chỉ tuyên xưng Chúa trong khắp vũ trụ, song chính Chúa đang hiện diện giữa cộng đoàn.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ngay từ đầu bài Tin Mừng hôm nay ta nghe nói đến 11 môn đồ chứ không phải 12 như thường lệ. Như vậy ta thấy ngay trong ngày Thăng Thiên, lúc Chúa Giêsu xuất hiện nơi chóp đỉnh vinh quang của Người và lúc các môn đồ nhận lãnh ủy nhiệm trọng đại nhất, cái hạt nhân đầu tiên của Giáo Hội vẫn mang trong mình thương tích gây nên do sự bội phản của Giuđa. Sẽ luôn như thế, cho đến tận cùng thời gian. Dù thánh thiện đến đâu, Giáo Hội cũng là một dân tội lỗi, là Hôn Thê đầy tì vết mà Phu Quân chỉ sẽ làm cho hoàn toàn thanh khiết trong ngày thế mạt (Kh 19, 7-8; 21,2).
2) Chúa Giêsu muốn gặp các môn đồ mình tại Galilê để cho họ thấy: dù đã trở nên Chúa vinh quang, Người vẫn là Giêsu Nagiaret mà họ đã thân quen. Chúa Giêsu luôn như thế, chỉ tình trạng của Người thay đổi thôi. Không có hai Giêsu: Giêsu thợ mộc (Mc 6,3) và Chúa Kitô hiển vinh đã lên trời. Chỉ có một Chúa Giêsu, Giêsu Kitô, Giêsu-Kitô nhân-thần. Vận mạng chúng ta giống vận mạng của Chúa Giêsu, Đầu chúng ta. Chúng ta cũng chỉ có một cuộc sống gồm hai tình trạng: tình trạng trần thế và tình trạng vinh hiển mai sau. Cái thống nhất hai tình trạng thành một chính là tình yêu. Trên trời, chúng ta vẫn tiếp tục làm điều chúng ta đã tập lúc còn tại thế là Yêu. Và nếu ngay bây giờ, trong Galilê thường nhật của chúng ta, chúng ta đã là môn đồ của Chúa Giêsu-thợ mộc, thì sau này chúng ta mới có thể hy vọng được thống trị với Chúa Kitô vinh hiển.
3) Đấng lên trời luôn luôn là chính Đấng đến với chúng ta, gặp chúng ta trong cuộc sống Kitô hữu của mọi ngày. Sở dĩ Người đã lên trời cách hữu hình và thôi tỏ mình cho các môn đồ trong hình hài thể xác, là để từ đây luôn hiện diện từng giây phút cách vô hình với họ. Nhờ trở nên thân xác vinh hiển, Chúa Giêsu không còn bị giới hạn vào một điểm không gian và thời gian. Từ đây Người có thể gặp chúng ta, tất cả và mỗi người, bất cứ giờ nào, nơi đâu. Nhờ Phục sinh và Thăng thiên, Chúa Giêsu hiện diện như vậy với mọi người trong lịch sử nhân loại. Chúng ta chỉ cần lợi dụng sự hiện diện vô hình nhưng thực sự ấy của Chúa Giêsu để sống với Người trong mọi giây phút đời ta: Và Người vẫn đến với ta, dù ta hoài nghi, dù ta chểnh mảng phục vụ Người; dù ta tội lỗi đến đâu, Người biết ta vẫn có thiện chí trong đáy tâm hồn, vẫn ao ước phụng sự Người, vẫn muốn sám hối đổi đời. Dù ta bất tín bất trung, người vẫn mời gọi ta trở nên sứ giả Tin Mừng trong môi trường sống.
4) “Hãy thâu nạp môn đồ khắp muôn dân”: Không phải chỉ có vấn đề học giáo lý như học bản cửu chương, phương pháp gia chánh hay cách sử dụng máy móc… Điều chủ yếu là đi vào trong mối tương giao thân mật và cá nhân với Chúa Kitô, là thực sự trở nên môn đồ, anh em (28, 10), bạn hữu của Người (Ga 15, 15). Và con đường tốt nhất để đi vào tình thân ái ấy với Chúa Giêsu là bắt chước Người, là trở nên như Người: hoàn toàn tận hiến cho Chúa Cha và nhân loại, là yêu mến. Chính lúc yêu mến mà ta hoàn tất điều Chúa Giêsu truyền dạy, vì tất cả giáo huấn của Người chỉ thu gọn vào điểm này: “Giới luật của Thầy là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 14).
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN-A
SỰ SỐNG MỚI, HIỆN DIỆN MỚI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có lẽ nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: sao trong bài Phúc Âm lễ Thăng Thiên hôm nay, chẳng thấy nói gì đến trời, đến bay lên? Thắc mắc như vậy là hợp lý. Ta vẫn quen gọi hôm nay là lễ Chúa Giêsu lên trời. Và theo quan niệm bình dân, không gian chia làm ba tầng. Tầng dưới đất là âm ty, địa ngục, dành cho người chết. Tầng mặt đất mà ta đang sống là dương gian. Và tầng trên mặt đất là trời. Chúa Giêsu đã sống trên mặt đất, khi chết Người bị chôn trong lòng đất, đi vào cõi âm ty. Sống lại, Người trở lại mặt đất. Và hôm nay Người được đưa lên trời, bay lên đám mây, ngự bên hữu Chúa Cha.
Đó chỉ là một lối diễn tả bình dân. Thực ra, trời đâu phải là một nơi chốn. Con người có thân xác, bị giới hạn trong không gian, cần một nơi chốn để cư ngụ. Thiên Chúa không bị giới hạn trong không gian thì đâu còn bên tả bên hữu gì nữa.
Vậy, tại sao ta nói Chúa Giêsu lên trời? Lên trời ở đây có ý nghĩa gì?
Trời không phải là một nơi chốn, nhưng là một trạng thái, trong đó Ba Ngôi Thiên Chúa sống chan hoà yêu thương. Sự sống của Thiên chúa không giống sự sống của cây cỏ. Cũng không giống như sự sống của động vật hay loài người. Đó là sự sống thần linh. Sự sống vượt không gian, vượt thời gian, không còn bị lệ thuộc vào điều kiện vật chất. Sự sống không còn bị hao hụt, giảm thiểu bởi đau đớn, bệnh tật, đói khát. Đó là sự sống viên mãn tràn đầy. Được tham dự vào sự sống ấy là một hạnh phúc vô song. Đó chính là thiên đường. Lên trời hay lên thiên đàng như vậy không phải là thay đổi nơi chốn nhưng là thay đổi sự sống. Đó là chuyển đổi sự sống hữu hạn của con người sang sự sống vô hạn của Thiên Chúa. Đó là rời bỏ thế giới hữu hạn của loài người để bước vào thế giới vô hạn của Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời có nghĩa là Đức Giêsu về với Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa, sống cuộc sống Thiên Chúa. Lên trời không phải lên theo chiều cao trong không gian vật lý. Nhưng là lên theo cấp độ sự sống, là sống cao hơn, mạnh mẽ hơn, tràn đầy hơn.
Chính vì thế, Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới, để đi vào xa vắng mịt mù. Nhưng Người không đi vào một hiện hữu mới để hiện diện mãnh liệt hơn. Không còn bị kềm chế trong không gian, giờ đây Người hiện diện ở khắp mọi nơi. Không còn bị lệ thuộc vào một thân xác, giờ đây Người có thể hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Người ở đó trong những trang Sách Thánh đầy lời lẽ nhiệm mầu để dạy cho ta biết con đường về với Thiên Chúa. Người ở đó trong bí tích Thánh Thể huyền diệu để nuôi linh hồn ta, để kết hợp với ta, để giúp ta đủ sức mạnh đi hết con đường trần gian khổ. Người ở đó trong những người anh em đồng tâm nhất trí cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha. Người ở đó trong những anh em bé nhỏ nghèo hèn đang chờ chúng ta mở rộng trái tim, mở rộng vòng tay nhân ái. Người ở đó trong những người hiến thân phục vụ anh em, trong những người hy sinh bản thân mình cho công bình, cho chân lý, cho một thế giới tươi đẹp hơn. Người có mặt trên khắp mọi nơi nẻo đường, trong tất cả mọi cảnh ngộ của cuộc đời. Người có mặt trong mọi thời gian đúng như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu: Trời không phải là một nơi chốn xác định, là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bây giờ chúng ta đã hiểu lên trời không phải là bay bổng lên không gian. Nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, hay là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu, lên trời không phải là vắng mặt, là xa vắng nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.
Chúa Giêsu là người mở đường cho nhân loại. Người tiến về một thế giới sự sống viên mãn, cao cả để cho ta thêm niềm tin tưởng rằng: vận mệnh của Người cũng sẽ là vận mệnh của ta. Ta cũng sẽ được cùng Người bước vào sự sống thần linh vĩnh cửu, miễn là ta đi vào con đường của Người: con đường khiêm nhường phục vụ. Miễn là ta vâng giữ lời Người truyền dạy: Hãy yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Lạy Đức Giêsu, xin hãy nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày?
2) Bạn làm cách nào để mọi người cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện mãnh liệt trong thế giới?
3) Bạn làm gì để xây dựng Nước Trời?
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
BÀN GIAO NHIỆM VỤ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1- Theo khoa khảo cổ, năm 370, một nhà thờ đã được xây trên sườn núi Ô liu, nơi Chúa Giêsu lên trời, bên trong đền thờ có một tảng đá in dấu chân, người ta tin đó là dấu chân Chúa Giêsu khi lên trời.
Quân Hồi đã phá đổ tường hình bát giác xây chung quanh đền thờ đó. Năm 1100 nghĩa binh Thánh giá đã xây lại tường thành. Năm 1200 quân Hồi chiếm lại, biến thành đền thờ Hồi giáo cho đến ngày nay, nhưng vẫn cho tín hữu Kitô giáo đến kính viếng. Đó là di tích Chúa Giêsu lên trời còn lại trên mặt đất.
Một di tích khác có giá trị lịch sử chắc chắn hơn về biến cố Chúa lên trời được ghi lại trong 3 sách Tin mừng Matthêu, Marcô, Luca và nhất là sách Công vụ Tông đồ và thơ Thánh Phaolô. Ba sách Tin mừng đều nói: Chúa Giêsu lên trời trước sự có mặt của mười một tông đồ. Sách Công vụ nói: “Người lên trời trước mặt các ông”, chứ không nói rõ 11 tông đồ. Sau đó các ông về nhà ở Giêrusalem: “Tất cả đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy phụ nữ, Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, với anh em Người”. Trong những ngày ấy, Phêrô đứng lên giữa các anh em khoảng 120 người, để chọn một người làm tông đồ thay thế Giuđa. Số 120 người này chắc chắn có mặt lúc Chúa lên trời.
Sau này Phaolô nói với Giáo đoàn Côrintô rằng: “Người đã hiện ra với ông Phêrô, rồi với nhóm mười hai, sau đó Người hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, trong số ấy phần đông nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ” (I Cor. 15, 5-6).
Vậy khi Chúa lên trời có rất đông người chứng kiến, đó là lúc: “Người đã hiện ra với hơn 500 anh em một lượt”.
Biến cố Chúa Giêsu lên trời, đáng lẽ ra phải là một ngày đại lễ, một cuộc rước khải hoàn vĩ đại nhất, vui mừng nhất, long trọng nhất, như lễ Quốc khánh của trời đất, cho nên Đáp ca trong Thánh lễ đã hô hào: “Hỡi muôn dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thượng đế, Thượng đế ngự lên giữa tiếng tưng bừng, trong tiếng kêu vang, hãy ca mừng, ca mừng vua ta” (Tv. 46).
2- Nhưng việc Chúa Giêsu lên trời, sách Tin mừng chỉ tường thuật rất đơn giản âm thầm, như một cuộc bàn giao nhiệm vụ. Trên trời thì: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” dưới đất thì Thầy đã trao cho anh em: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy”. Đây là một cuộc bàn giao nhiệm vụ vô cùng trọng đại và nặng nề. Để các ông được an tâm tin tưởng và mạnh mẽ thi hành trọng trách này. Đức Giêsu đã quả quyết với các ông: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Như vậy, anh em không phải đăm đăm nhìn trời mong chờ Thầy nữa, vì Thầy không lìa xa anh em mà là ở cùng anh em, không ở cùng anh em bằng thân xác 3 năm hay 30 năm như trước đây mà ở cùng anh em bằng tinh thần Thiên Chúa. Thầy lên trời như vậy là để anh em được sống hiệp thông, hiệp nhất với Thầy ở khắp mọi nơi, trong tinh thần và chân lý, trong tình yêu và quyền năng Thiên Chúa. Nhờ thế anh em đến được với muôn dân thực hiện nhiệm vụ làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy, như Thầy đã làm cho anh em vậy. Đó là con đường phép rửa, đó là con đường lên trời.
3- Đức Giêsu đã mở con đường phép rửa này khi đến sông Giođan và cùng với Gioan kêu gọi toàn dân chịu phép rửa hối cải. Đó là bước đầu của con đường lên trời.
Bước thứ hai là: “Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần” (Mt. 3, 11). Thánh thần đã lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu để chứng tỏ cho mọi người thấy: “Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt. 3, 17-17). “Chính nhờ Thánh thần của Đức Kitô mà anh em được gọi Thiên Chúa là Cha” (Rm. 8, 15-16).
Ta muốn chứng tỏ làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì hãy nghe lời Người: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy”. Cho nên Thầy đã bảo anh em: “Dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Khi họ đã yêu mến giữ lời Thầy truyền, họ xứng đáng được rửa “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây là bước tột đỉnh lên trời, vì họ đã thực sự sống trong gia đình Thiên Chúa, là con Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Họ đã được thanh tẩy mọi tì ố để trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được “Thầy ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế”. Đó chính là lên trời, là Thiên đàng thực sự vì họ được Thiên Chúa ở cùng mãi mãi.
“Lạy Cha, ngày Đức Giêsu, Con Cha yêu dấu, lên trời đã mở cho chúng con thấy con đường lên trời. Xin Cha ở cùng chúng con luôn mãi để chúng con cùng với muôn dân được sức mạnh của Con Cha thúc đẩy, cùng nhau hăng hái tiến bước lên trời vinh quang của Cha. Amen”.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
VỀ TRỜI– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mừng lễ Chúa Lên Trời, Về Trời hay Thăng Thiên, ý nghĩa là Chúa Giêsu Kitô đã được cất nhắc lên và không còn xuất hiện hiển nhiên với các tông đồ nữa. Theo kiểu nói bình dân có hình tượng đi lên, đi xuống và ngự bên phải, bên trái, để mọi người dễ hiểu. Chúa Kitô đã hoàn tất sứ mệnh tại thế: Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy, Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng, Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa (Tđcv 1, 3). Chúa Giêsu đã xuống trần gian sinh sống trong khoảng thời gian ba mươi ba năm. Chúa ra rao giảng Tin mừng Cứu độ, chịu khổ hình thập giá, chết và sống lại. Sau khi sống lại, Chúa lưu lại trần gian một khoảng thời gian ngắn để dạy dỗ, an ủi và sai phái các tông đồ đi ra làm nhân chứng tin mừng. Rồi Chúa lên nơi đã ở trước và ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trí khôn của chúng ta chỉ có thể hiểu được các sự kiện gắn liền với thời gian và không gian. Đôi khi chúng ta thắc mắc, lên trời là lên nơi nào và ở đâu? Xa hay gần. Bầu trời thì bao la như không cùng.
Thánh Luca, tác giả sách Tông Đồ Công Vụ làm sáng tỏ một chút: Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông và một đám mây bao phủ người khuất mắt các ông (Tđcv 1, 9). Chúa Giêsu được cất lên, mây che phủ và khuất mắt các tông đồ. Từ nay, Chúa Giêsu Phục Sinh sẽ hiện diện với các tông đồ theo thể thức khác. Chúa không còn hiện ra cách nhãn tiền để đàm đạo, dậy dỗ hoặc ăn uống với các ông như trước nữa. Chúa sẽ hiện diện linh thiêng qua các việc cử hành phụng vụ, các Bí tích và hiện diện nơi cộng đoàn dân Chúa. Chúng ta hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện với lịch sử của một dân tộc được chọn lựa. Có khởi đầu, diễn tiến và sẽ thành tựu trong thời gian và không gian. Các sự kiện lịch sử về ơn cứu độ được in ghi rất cụ thể và gắn kết với một dòng dõi, nơi một đất nước xứ sở và dưới thời một vua chúa, quan quyền.
Sứ mệnh cứu thế của Chúa Kitô đã được chuẩn bị rất lâu dài qua cả ngàn năm. Thiên Chúa Cha đã tuyển chọn một người, một gia đình sinh xôi nẩy nở thành một bộ lạc và rồi trở thành một dân tộc để chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế. Các tiên tri đã loan báo và hướng dẫn dân chúng về Đấng Xức Dầu sẽ xuất hiện để ban ơn cứu độ giải thoát. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoặch của Người qua Đức Kitô. Ngài là trung gian của vũ trụ vạn vật. Đây là một biểu tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu cao siêu và linh thiêng đi vào cụ thể nơi lòng người. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng hạ thân làm người, gồm thiên tính và nhân tính. Chúa Giêsu đã trải nghiệm một cuộc đời như mỗi người chúng ta. Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta về tất cả mầu nhiệm cao siêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa vô hình và vô biên đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời trong cách thế và ngôn ngữ giới hạn của con người qua niềm tin tôn giáo, văn hóa, tổ chức xã hội và ý thức hệ chính trị… Chúa Kitô đã gặp gỡ con người xác phàm đầy sự yếu đuối, u mê và lầm lạc. Chúa Kitô đã phải đối xử một cách rất kiên nhẫn và nhân từ trong việc truyền rao chân lý Nước Trời.
Mầu nhiệm Nước Trời đã được gieo trồng trong thửa đất của tâm hồn con người. Tâm trí của con người không dễ dàng đón nhận những sự cao siêu trên trời vượt quá tầm trí hiểu. Chúa Giêsu đã thường lấy những hình ảnh cụ thể, thí dụ, tỉ dụ, dụ ngôn và ngụ ngôn để khải mở tâm trí con người để dẫn tới nguồn Chân, Thiện, Mỹ. Đức Kitô dùng khoảng thời gian rất ngắn để hoàn thành tất cả những lời đã được các tiên tri loan báo: Công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời (Eph 1, 20). Chúng ta học biết Đức Kitô là con người lịch sử. Có nơi sinh và có chỗ từ trần. Ngài đã khai mở Nước Trời ban ơn cứu độ cho toàn dân. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện với Giáo Hội dưới nhiều cách thế để ban ơn cứu độ. Đức Kitô không bị đóng khung hay giới hạn vào một niềm tin đặc thù nào, nhưng ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Ngài, sẽ tìm thấy ơn cứu độ.
Khi Chúa Kitô hoàn tất sứ mệnh trên trần gian, Chúa Cha đã trao mọi quyền năng trên trời dưới đất, để mọi sự qui phục dưới chân Ngài: Chúa Giêsu tiến lại và nói với các ông rằng: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy (Mt 28, 18). Chúng ta tin nhận Chúa Kitô là nguyên thủy và là cùng đích. Thật khó hiểu, chúng ta rơi vào giữa sự huyền nhiệm đời đời và cụ thể thực nghiệm, giữa thần thiêng và vật chất, giữa vô hạn và giới hạn. Chúng ta không thể đong đo tính đếm con đường tâm linh. Với niềm tin vào Chúa Kitô là trung gian, thân phận con người mỏng dòn được cất nhắc lên làm con Chúa và được hứa ban sự sống trường sinh. Con người có chiều sâu ước muốn đời sống tâm linh vô hạn. Ngưỡng vọng một cuộc sống vĩnh cửu. Linh hồn hiện hữu thiêng liêng không bị tiêu diệt.
Chúa Giêsu mong muốn Tin mừng cứu độ được tiếp tục truyền rao đến muôn thế hệ. Ngài đã trao phó sứ mệnh này cho các tông đồ và những người kế vị: Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân, là phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (My 28, 19). Chúa sai các tông đồ ra đi rao giảng và làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã ra đi tản mát mỗi người một nơi để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Các ngài đã can đảm và không còn nhút nhát sợ sệt như trước nữa. Các ngài ra đi khắp vùng loan tin mừng cứu độ và mời gọi nhiều người trở về cùng Chúa. Các ngài đã nhiệt tâm rao giảng và dám dùng sự sống sự chết của mình để làm nhân chứng cho lời sự thật. Nhớ rằng, trước kia các tông đồ chỉ là những người chài lưới, ít học và dân giã. Nhưng với ơn biến đổi của Chúa Thánh Thần tác động, các tông đồ đã hiên ngang chu toàn sứ mệnh mà Chúa Kitô đã ủy thác.
Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thánh Phaolô dùng ngôn ngữ và cách hiểu biết của loài người để diễn tả: Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài (Eph 1, 22). Chúa Kitô về trời là Ngài lên nơi đã ở trước. Ngài thuộc về thiên giới, còn chúng ta thuộc về hạ giới. Ngài không xuống trần để cai quản mà để phục vụ con người. Ngài hạ thân để chia sẻ tình yêu vô điều kiện. Ngài đã hiến mạng sống và yêu thương chúng ta đến cùng. Cách đơn giản, Chúa Giêsu muốn cứu chuộc chúng ta khỏi quyền lực ma quỉ, sự dữ và tối tăm. Ngài muốn chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Ngài.
Chúng ta được tự do chấp nhận hay chối từ lời mời gọi của Chúa. Nếu thật tâm tìm kiếm và đi theo lối bước của Chúa, chúng ta cần lắng nghe và thực hành lời Chúa trong đời sống mình. Một ý tưởng minh họa: Khi du khách đi du lịch đến một đất nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền lưu hành tại nước đó. Tiền của chúng ta trên thế gian này chẳng có giá trị gì trên nước trời, nếu nó không đổi thành tiền của nước Trời, đó chính là các việc lành phúc đức có giá trị. Đây là ý nghĩa lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: Hãy bán gia sản và bố thí cho kẻ nghèo để mua Nước Trời.
Lạy Chúa, Chúa về trời nhưng Chúa vẫn còn luôn hiện diện giữa chúng con. Chúa không bỏ chúng con mồ côi. Chúa đi là để chuẩn bị chỗ cho chúng con và sẽ trở lại đón chúng con. Chúng con xin cảm tạ Chúa đến muôn ngàn đời.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN-A
CHÚA VỀ TRỜI- Lm.Dom. Trần Quang Hiền SDB
Câu hỏi thắc mắc mà con người ngày nay luôn phải đối diện đó là: Tôi sinh ra ở đời này để làm gì? tôi sẽ về đâu sau cái chết? chắc hẵn ai trong chúng ta cũng muốn mình được bình an, hạnh phúc, được chết lành và được phần thưởng thiên đàng sau khi chết. Nhưng ai có thể bảo đảm cho ta rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau? Lời Chúa tuần này Chúa Nhật Lễ Chúa Thăng Thiên tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên trời, đây là một minh chứng cho thấy rằng có thiên đàng, có sự sống đời sau. Nhưng lên trời không phải là một di chuyển từ nơi chốn này đến nơi chốn khác. Trời ở đây không phải là nơi chốn có thể đụng chạm, sờ mó được nhưng sâu xa hơn đó là một trạng thái. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Ngài về cùng với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là nơi Ngài đã xuất phát. Trời ở đây có nghĩa là sống trong tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, việc Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới đi vào cõi xa vắng mịt mù, nhưng Ngài đi về thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện với chúng ta nữa, trái lại Ngài sẽ ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Để có thể lên trời như Chúa Giêsu mỗi người chúng ta cần phải hoàn thành hành trình dưới thế của mình như chính Ngài. Dù phải sống ở trần thế này với muôn ngàn thánh giá, thử thách, khó khăn… nhưng chúng ta không quên mục đích tối hậu của chúng ta đó là về quê trời, nơi ấy chúng ta sẽ sống trong tình yêu viên mãn của Chúa Ba Ngôi. Nếu như cuộc đời của người kitô hữu chúng ta thiếu đi cùng đích của đời mình là hướng về sự sống đời sau thì chắc chắn những nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa. Chúa Thăng Thiên cũng cố đức tin của mỗi người chúng ta vào niềm hy vọng tràn trề trong đó mỗi người chúng ta sẽ nếm cảm hạnh phúc thiên đàng sau này.
Trước khi Chúa Giêsu lên trời Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ rằng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu và trở thành căn tính của mỗi người kitô hữu chúng ta, đó là làm chứng nhân tin mừng phục sinh, niềm vui của Chúa Giêsu cho tất cả mọi người không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo. Mỗi người chúng ta có trách nhiệm mang Đức Kitô đến với thế giới hôm nay đang sống trong đau khổ, chiến tranh, bất an, tội lỗi…. để xoa dịu hết tất cả những vết thương của họ.
Lễ Chúa Thăng Thiên muốn nhắn gởi cho chúng ta một thông điệp nữa đó là hãy xây dựng thiên đàng tại trần thế này, khi tất cả chúng ta đều xem nhau như là anh em cùng một Cha trên trời. Khi mỗi người chúng ta biết sống từ bỏ, hy sinh và phục vụ nhau.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết sống và đem Đức Kitô đến với hết tất cả mọi người đang vác thập giá để họ cũng biết biến thập giá thành thánh giá như Đức Kitô, để mai sau cũng được lãnh nhận phần thưởng vinh phúc đời sau mà Chúa hứa ban cho những ai trung tín bước theo Ngài. Amen.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
LÊN TRỜI, ƯỚC MƠ CAO ĐẸP- Lm. Bùi Quang Tuấn
Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều người vì sự tốn kém khủng khiếp của nó: chuyến du lịch của Denis Tito, một nhà triệu phú Hoa Kỳ, người đã trả 20 triệu đô la cho tấm vé du lịch 6 ngày trên không gian.
Từ thuở bé, khi nhìn ngắm trời sao ban đêm, Tito mơ ước một ngày ngào đó mình sẽ được bay vào trời cao. Thế rồi lớn lên, ông đi học và trở thành kỹ sư làm việc cho NASA, cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia Hoa kỳ. Tito chuyên về thiết kế các đường bay thám hiểm Hỏa tinh và Kim tinh. Sau đó ông chuyển qua đầu tư và trở thành triệu phú.
Tuy làm triệu phú nhưng Tito vẫn không mất đi ước mơ bay vào vũ trụ, dầu rằng ông biết rõ giấc mơ ấy rất mong manh. Bởi vì hầu hết các phi hành gia đều xuất thân từ những phi công máy bay phản lực với nhiều tài năng và thể lực tốt, trong khi kích thước và trọng lượng cơ thể của ông lại rất khiêm tốn: cao 5″5 và nặng 140 cân Anh (pounds).
Nhưng khi cơ quan Hàng không Vũ trụ Nga chịu bán cho Titô một ghế du lịch giá 20 triệu, và sau bảy tháng trời huấn luyện không ngừng, giấc mơ của Tito đã thành sự thật. Ông phát biểu trước chuyến bay: “Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Tôi muốn thực hiện hết những giấc mơ lành mạnh và hợp pháp của mình.”
“Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống”, và trong cuộc đời đó có biết bao ước mơ được đan dệt. Nhưng thử hỏi ước mơ của tôi có lành mạnh và hợp pháp không? Các mơ ước của tôi tốt đẹp cao sang hay tầm thường hèn hạ? Chúng nâng tôi lên hay nhận chìm phá hủy?
Nói đến ước mơ là nói đến những mục tiêu chưa có trong hiện tại. Mục tiêu tuy nằm trong tương lai, nhưng lại chi phối đời sống con người từ ngày hôm nay. Khi một bạn trẻ mong rằng mai kia mình sẽ có tấm bằng cao học, trong hiện tại họ đã phải thức khuya dậy sớm, thu tích bao kiến thức cần thiết để một ngày nao chiếm được mảnh bằng như lòng ước mong. Thành ra, ước mơ hướng con người đến với tương lai, nhưng đã làm nên cung cách sống trong hiện tại.
Nhìn vào ngày mai để ngày hôm nay ta sống trọn vẹn hơn chính là lối đường khôn ngoan mà lễ Đức Giêsu Lên Trời muốn nói.
Không ít người bị quan niệm vật chất chi phối nên khi nói “Chúa Giêsu lên trời” người ta mau liên tưởng đến hình ảnh Ngài bốc mình khỏi mặt đất, bay vào một nơi nào đó trên trời cao. Điều này khiến cho có kẻ cứ lầm tưởng thiên đàng là một chốn nào đó trong không gian. Yuri Gagarin, phi hành gia đầu tiên của Nga, sau khi bay lên vào vũ trụ đã trở về tuyên bố: “Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng thấy Chúa đâu. Vậy mà người có Đạo lại nói “Lạy Cha chúng con ở trên trời””.
Nghe thế, nhiều người bị lung lay niềm tin vì cứ tưởng Chúa ở trên trời cao xanh, bây giờ các khoa học gia lên trời và dùng cả viễn vọng kính tối tân tìm kiếm mà chẳng thấy ai, nên nghĩ là không có Chúa.
Có người lại lầm tưởng trên thiên đàng người ta vẫn sống như đời thường, tức cũng ăn uống ngủ nghỉ, cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Thế nên mới có cảnh bè phái Sađucêô đặt vấn đề: một bà lấy bảy anh em, thế khi về trời bà ta là vợ của ai.
Nếu thiên đàng là một cõi vật chất nào đó trong không gian thì nó cũng sẽ suy tàn như bao vật chất khác. “Lên thiên đàng” không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả.
Thế nên khi nói “Chúa Giêu lên trời” có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa.
Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn… Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người.
Thế nhưng qua việc “lên trời”, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu.
Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.
Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân”, “các con là chứng nhân của Thầy”. Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, vợ nọ con kia, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực đánh chí choé. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Đức Giêsu căn dặn: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.”
Thành ra việc mừng lễ Chúa Giêsu lên trời lại khai mở trong tôi một thái độ sống: sống trong cuộc đời nhưng phải hướng về quê trời. Sự hướng mình lên cao đó giúp tôi vược thắng những tình cảm thấp hèn của xác thịt, thế gian, vật chất hầu đi đến một tình yêu cao cả hơn. Đó là tình yêu chân lý, yêu sự sống, yêu những giá trị thiêng liêng, với khả năng nâng tôi lên cao hơn trong tình Chúa và tình người.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN-A
MỪNG CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa lên trời. Mừng kỷ niệm Chúa lên trời, là chúng ta tuyên xưng một tín điều trong Kinh Tin Kính đó là: “Người sống lại và lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha”.
Chúa lên trời dạy chúng ta một chân lý: “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi, chết không phải là hết, không phải là tận cùng, nhưng là bước vào một cuộc sống mới “. Như vậy chúng ta xác tín rằng: đây là cuộc sống lữ hành “Sống gửi thác về”. Bởi thế gian không phải là nhà, Thiên đàng hoan lạc mới là quê hương. Chúa đi trước để dọn chỗ cho chúng ta, nơi đó là cõi nguồn hạnh phúc, là phần thưởng dành cho những ai suốt đời khao khát tìm kiếm những sự trên trời.
Chúng ta hy vọng ngày mai đây sau khi nhắm mắt lìa đời, sẽ được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước trời, nếu ở đời này chúng ta ăn ngay ở lành và gắng bước theo Chúa. Mọi việc lành chúng ta làm đều sinh công phúc; mọi đau khổ chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến, thì Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
Chúa về trời, là hoàn tất sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài trao sứ vụ đó cho các môn đệ cũng như cho chúng ta như một bài sai: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con…” (Mt. 28,19).
Như vậy, Chúa muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cứu độ. Bởi vì trong ba năm đi rao giảng, bước chân của Ngài chỉ đi trong nước Do thái nhỏ bé, còn lại cả một thế giới mênh mông ngút ngàn Ngài chưa đi tới. Còn biết bao dân tộc xa xăm chưa biết Chúa là ai, chưa một lần nghe nói về danh thánh Chúa; chưa biết được hạnh phúc Nước trời là gì. Chính vì thế nên Chúa ra lệnh: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
Nhưng trước khi sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng, thì Đức Giêsu đã ra đi trước rồi. Ngài vâng lệnh Chúa Cha ra đi từ trời cao xuống đất thấp. Ngài ra đi từ địa vị Thiên Chúa xuống làm con người, để ở cùng chúng ta. Ngài ra đi khỏi gia đình êm ấm lang thang trên khắp nẻo đường. “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi tựa đầu” (Mt 8, 20).
Chúa không ngừng ra đi đến với mọi miền đất nước. Chẳng hạn như: Chúa đến miền Thập Tỉnh phần đông là người ngoại đạo. Miền bị ma quỉ thống trị. Miền mồ mả chìm trong bóng tối sự chết. Chúa đến và gặp người khổ cực nhất. Chúa đã giải thoát họ khỏi thần chết, đem lại sức sống mới cho họ.
Qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gieo rắc tình thương, loan tin bình an, cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương, để con người xích lại gần nhau hơn, sống công bình bác ái, như lòng Chúa mong ước.
Chúa lên trời Ngài dạy chúng ta lo tìm kiếm nước Chúa. Chúa nói “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Trời trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau ” (Mt 6,33). Tìm kiếm Nước Chúa theo như thánh Phaolô tông khuyên nhủ “Dù khi ăn, dù khi ngủ, hay làm bất cứ điều, anh em hãy làm cho sáng danh Chúa”.
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ Chúa lên trời cũng là ngày Quốc tế Truyền thông, do đức thánh cha Phaolô VI thiết lập năm 1966. Phải nói rằng: Đức Giêsu là nhà truyền thông vĩ đại nhất. Sứ điệp của Ngài là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Đức Giêsu không có các phương tiện truyền thông hiện đại như chúng ta ngày nay, nhưng Chúa có các Tông đồ, các môn đệ, và những đấng kế vị nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Nương theo giáo huấn của Chúa, đức thánh cha Phaolô VI nói: Truyền thông là thi hành mệnh lệnh Chúa trao cho Hội Thánh: “Hãy nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem” (Lc 24, 47). Ngài còn nhắc nhở những người làm công tác truyền thông, hãy truyền thông Lời Chúa, truyền thông niềm hy vọng, truyền thông những điều tốt lành, phù hợp thánh ý Chúa. Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn nối kết con người lại với nhau.
Thế nhưng, phải sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để thông tin cho nhau. Ước gì, mỗi người chúng ta biết sử dụng các phương tiện truyền thông trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, hầu góp phần loan báo Tin Mừng cứu độ, mà trước khi về trời, Đức Giêsu đã trối lại cho chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- A
CÙNG LOAN TIN MỪNG VỚI CHÚA GIÊSU– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Tin Mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?
Xin mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.
Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.
Thế đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.
Tương tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.
Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?
Là để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin Mừng như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20) Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua chúng ta.
Lúc mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho tôi viết nên những con chữ đầu đời.
Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin Mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin Mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin Mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin Mừng được thấm nhập vào tâm hồn mọi người, nhưng Chúa chỉ có thể thực hiện khát vọng đó qua những người phàm yếu đuối như chúng con.
Xin giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng, biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để Chúa viết nên những trang Tin Mừng trong tâm hồn nhân loại.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatchuathangthien #suyniemloichuagpbr