CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
THẦY Ở ĐÂU, ANH EM CŨNG Ở ĐÓ(*)– Chú giải của Noel Quession 6
TA LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales 14
BIẾT ĐỨC GIÊSU CHÍNH LÀ BIẾT CHA NGÀI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 20
SỐNG THỰC TẾ CỦA THẾ GIỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 34
THẦY Ở ĐÂU CHÚNG CON CŨNG Ở ĐÓ- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 43
ĐƯỜNG GIÊSU– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 51
NHÀ CHA THẦY- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 54
NHÀ CHA– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 57
ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA- Lm. Trịnh Ngọc Danh. 62
ĐỨC GIÊSU: DUNG NHAN CỦA THIÊN CHÚA CHA- Lm. Antôn Hà Văn Minh 68
CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 72
“THẦY LÀ CON ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG”– Lm. Giuse Phạm Thanh Minh 76
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Cv 6, 1-7
“Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: “Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa”.
Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó.
Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Đáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22).
1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. – Đáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. – Đáp.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Pr 2, 4-9
“Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Đức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh Kinh rằng: “Đây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn”. Vậy, vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 6
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 14, 1-12
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi”. Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người”. Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha’? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH-A
THẦY Ở ĐÂU, ANH EM CŨNG Ở ĐÓ(*)– Chú giải của Noel Quession
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến”.
Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người “ba lần” trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: “Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa về bất cứ điều gì.
“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói như thế?
“Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy, Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: “Đem về với Thầy, trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
“Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính “đời sống thánh thiêng” được ban cho chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành “như Thiên Chúa”. Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!”.
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: “Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy đi đâu…”. Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là “người mở đường”, Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về “nhà của Chúa Cha”.
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự “mạc khải” này vẫn còn một phần “không thể quan niệm được”: ánh sáng… nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối… ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)… bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết…”. Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một “cú sốc của tương lai” đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: “Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?”. Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người” (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: ‘ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người “chứa đầy Thiên Chúa” một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: “Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy… Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy…”.
Phải, đâu có một con người là Giêsu Na-da-rét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó… đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người “làm những việc Đức Giêsu làm”: Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
TA LÀ ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1)Đường về với Chúa.
Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh hôm nay trích từ chương 14, diễn từ sau bữa tiệc ly, với những từ như “ra đi”, “đi tới”, “trở lại”, “con đường”. A.Marchadour minh định chương này (“được kết cấu xung quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Cha vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn huynh đệ của mình về với Chúa Cha. (Tin Mừng Gioan, Centurion, 1992, p. 190) những lời loan báo liên tiếp về việc Giuđa phản bội (“một trong các con sẽ phản Thầy”:14,2) về cuộc ra đi dứt khoát của riêng Ngài (“Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa” 13,38) và về việc Phêrô chối thầy (trước khi gà gáy, con đã chối ta ba lần: l3,38) đã khiến các môn đệ hoang mang – Dufour nhận xét “sự hoang mang ấy không chỉ vì phải xa cách Người thực sự cần thiết cho đời họ, mà cũng còn vì nỗi thất vọng sâu xa khi lượng giá công việc của Chúa Giêsu mà họ đang trông mong kết quả” (Đọc Tin mừng theo thánh Gioan, tập 3, Seuil, 1993, tr 90). Do đó mới có lời Đức Giêsu kêu gọi: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy chớ gì họ cậy dựa vững vàng vào lời Ngài và vào chính Ngài. Dufour viết tiếp: “Đức Giêsu dựa trên niềm tin của người Do thái, và những người không bao giờ tự coi mình độc lập trong mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng ban cho thụ tạo sự kiên vững của đá tảng, Ngài cũng dựa vào niềm tin vào chính mình Ngài, nếu họ còn có thể theo Ngài, các môn đệ chỉ dựa vào Ngài, như dựa vào chính Thiên Chúa”. Vì thế nếu Ngài có ra đi, thì cũng chính là để trở lại nhà Cha, nơi Ngài sẽ “dọn chỗ sẵn cho họ”. Từ chủ đề “ra đi” bài diễn từ sau bữa tiệc ly bắt sang ‘đường đi’, Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó. Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi Đức Giêsu bảo họ như vậy bấy giờ Tôma mới hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?” Chúa long trọng đáp “Thầy, Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy! Dufour đã diễn dịch câu nói ấy như sau: ‘Tôma, nếu anh tin Thầy là chân lý và là sự sống, chắc chắn anh sẽ tìm thấy nơi Thầy con đường đưa về với Cha, đó là nơi Thầy đi đó là nơi Thầy ở. Đức Giêsu, trong đoạn 10,9, đã tự coi mình như là “cửa” dẫn đến sự sống, ở đây, lại nói như mình đã ở nơi mà các môn đệ muốn đến, bằng công thức vắn gọn này, Ngài thực sự công bố về tính đồng nhất sẽ còn vang vọng mãi trong nên chiêm niệm Kitô giáo” (p. 100)
2) Bày tỏ Chúa Cha.
Thấy thế, Philipphê mới lên tiếng: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi và Đức Giêsu đáp lại thấy Thầy, là thấy Chúa Cha rồi trong cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì người kết hợp mật thiết với Chúa Cha “Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?” cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha.
3) Đức Giêsu tiếp tục làm việc qua các môn đệ.
Nhắc lại lời mời gọi tin tưởng trên, Đúc Giêsu bắt đầu mạc khải cho các môn đệ biết cuộc sống mới của họ sẽ ra sao: “Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Cho dù, hay đúng hơn Ngài về cùng Cha, mà các môn đệ sẽ sống cuộc sống Ngài không ngần ngại đồng nhất với cuộc sống chính mình. Dufour còn minh định thêm: Không phải vì cuộc sống của Ngài vẫn là gương mẫu, nhưng vì chính Ngài sẽ là tác giả đích thực của những họ thực hiện, đọc kỹ bản văn, người ta thực sự thấy rằng người tín hữu sẽ không làm những việc Đức Giêsu đã làm, nhưng là những việc Ngài đang làm và sẽ làm: Chúa Cha tiếp tục được tôn vinh nơi trần thế, từ đây, sứ mệnh Ngài đã hoàn tất phải đơm bông kết trái trong thời gian và không gian: và điều ấy được thể hiện nơi hành động của các tín hữu.” (p.l07)
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Thiên Chúa thật gần”.
Khi Phúc âm thứ tư được viết ra, chắc chắn “những biến cố” đã xẩy ra hơn 60 năm, các cộng đoàn tín hữu ở Palestine, Tiểu Á, và các nơi khác đã chịu rất nhiều đau khổ. Họ phải chịu những cuộc tấn công dai dẳng trong các vùng có người Do thái. Họ đã bị chính quyền Rôma bách hại triền miên. Đặc biệt niềm tin của các Giáo Hội Tiểu Á lúc ấy đã rung động trước những luồng tư tưởng cho rằng mình khiến người ta quá tin vào trời cao mà khinh chê trần thế, chỉ để ý đến tâm hồn mà coi thường thân xác nhưng cuộc sống thề trần và sự phục sinh có đối nghịch đến độ phải khước từ cuộc sống này để sống cuộc sống kia không? Chẳng lẽ cứ phải trải qua cái chết mới được phục sinh hay sao?
Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh: người tín hữu đã sống cuộc sống phục sinh ngay trên trần thế này. Niềm tin vào Đức Kitô hằng sống đã xóa bỏ khoảng cách giữa những sự dưới đất và trên trời. Niềm tin ấy giúp người ta sống ngay trên trần thế cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chân lý thật khó hiểu và khó chấp nhận, cũng thế, Đức Giêsu nhà sư phạm đại tài, để dẫn đưa người nghe vào trong ánh sáng của Thiên Chúa, đã lợi dụng sự cứng tin của Tôma và Philipphê “Thưa Thầy chúng tôi không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con được đường?” Lầm lớn? Đây không phải con đường tính được bằng kilômét. Khoảng cách giữa cuộc sống trần thế và cuộc sống phục sinh không lớn hơn khoảng cách giữa Chúa Cha và Chúa Con: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Niềm hi vọng về điều đã có và chưa có sẽ triển nở và đâm bông trong lòng người tín hữu như vậy đó.
Hoàn cảnh của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại. (“Célébrer”, số 258, tr.34, tháng 3.l996)
Đâu là vị trí của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại?
Trước tiên, cộng đoàn tín hữu sống trong mềm hi vọng vô bờ một ngày kia sẽ được sống với Đức Giêsu rong nhà Cha Ngài: “Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”! Sau đó họ biết được đường đi: “Thầy là đường là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” hơn thế nữa, họ còn biết được Chúa Cha, họ đã “thấy” Ngài: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa Cha” Thấy Đức Giêsu, dĩ nhiên là biết được Ngài bằng niềm tin, là “nhận ra Ngài là con duy nhất, là lời sáng tạo vĩnh hằng đến độ khi Đức Giêsu nói, tôi biết rằng Ngài nói những lời của Chúa Cha, khi Đức Giêsu hành động, chữa lành, tha tội, phó mình cho đao phủ, tôi biết rằng Ngài làm theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã chữa lành, tha tội, tự hiến hoàn toàn qua Ngài. Tôi biết Cha và Con là “một”!
Như vậy, cộng đoàn tín hữu đã thực sự biết Đức Giêsu bằng đức tin, đến lượt mình có thể nhận biết Chúa Cha và hoàn thành những công việc của Người được không? được, Đức Giêsu nói thế và còn hơn thế nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Qua những lời này, ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu phục sinh đã mặc lại trọn vẹn sức siêu nhiên mà Ngài đã tự giới hạn khi mặc lấy thân phận tôi đòi mặc lấy nhân tính. Cũng vậy, một khi đã được mời gọi tiếp tục sự nghiệp của Chúa Giêsu trên trần gian cộng đoàn các Tông đồ, bằng đức tin của mình, thực sự thông phần với Thiên-Chúa, họ là cộng đoàn những người con trong Đức Giêsu, Thiên-Chúa Con.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
BIẾT ĐỨC GIÊSU CHÍNH LÀ BIẾT CHA NGÀI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh tập trung đề tài vào Giáo Hội.
Cv 6: 1-7
Bài Đọc I, trích từ sách Tông Đồ Công Vụ, cho chúng ta biết rằng Giáo Hội sáng tạo cơ cấu đầu tiên của mình: lập “nhóm Bảy Người” là một hình thức mới của công việc phục vụ.
1Pr 2: 4-9
Thánh Phê-rô viết rằng Giáo Hội đặt nền móng trên viên đá sống động là Đức Giê-su Ki-tô. Những người Ki-tô hữu cũng là những viên đá sống động, vì họ tiếp tục xây nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.
Ga 14: 1-12
Tin Mừng hôm nay là phần đầu bài diễn từ cáo biệt của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly. Đức Giê-su giải thích cho họ biết nơi mà Ngài dẫn những người tin vào Ngài đi là nhà Cha của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Cv 6: 1-7)
Bài Đọc I tường thuật một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của Giáo Hội tiên khởi: việc lập “nhóm Bảy Người” khác với “nhóm Mười Hai”. Giữa cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, bảy thành viên được chọn nhằm mục đích phụ giúp công việc với các Tông Đồ. Thánh Lu-ca đưa ra hai lý do cho quyết định nầy: trước tiên, số các tín hữu ngày càng đông khiến cho các Tông đồ không thể nào đảm đương công việc điều hành cộng đoàn được. Thêm nữa, sự bất hòa giữa những “Ki-tô hữu Do thái bản địa” và những “Ki-tô hữu Do thái hải ngoại”.
Trong cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, có những Ki-tô hữu Do thái sinh trưởng ở Pa-lét-tin và nói tiếng A-ram, và những Ki tô hữu Do thái sinh trưởng ở hải ngoại, trở về định cư ở Giê-ru-sa-lem và nói tiếng Hy-lạp. Ở Giê-ru-sa-lem có những hội đường, ở đó phụng vụ ngày sa-bát được cử hành bằng tiếng Hy-lạp, Kinh Thánh được sử dụng là bản Bảy Mươi, bản dịch Hy-lạp. Số người Ki-tô hữu Do thái hải ngoại nầy chắc chắn là thiểu số.
*1.Mối bất hòa:
Chung chung người phụ nữ Do thái lập gia đình rất sớm và thường vẫn còn sống sau khi chồng đã qua đời. Vì thế, số lượng các bà góa có thể là khá đông. Bổn phận giúp đỡ các bà góa phát xuất từ lòng đạo đức truyền thống. Trong việc phân phát lương thực hằng ngày, những cuộc tranh cãi nổi lên giữa các bà góa: các bà góa thuộc khối Do thái hải ngoại nghĩ rằng mình không được quan tâm bằng các bà góa thuộc khối Do thái bản địa. Chính mối bất hòa nầy tạo cơ hội cho các Tông Đồ siêu thoát những bận lòng vật chất để “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”.
*2.Việc tuyển chọn Nhóm Bảy Người:
Chính cộng đoàn chỉ định bảy người: “Họ chọn các ông… đưa các ông ra và giới thiệu với các Tông Đồ”. Các tiêu chuẩn để chọn lựa nhóm bảy người là “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan”. Nếu con số “Mười Hai” tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en (Mc 3: 14) thì con số “Bảy” được ấn định chắc chắn vì tính thánh thiêng và ý nghĩa viên mãn của nó, nhưng cũng có thể vì con số bảy tượng trưng cho bảy dân tộc ngoại giáo ở xứ Ca-na-an (Cv 13: 19). Như vậy, việc thiết lập nhóm Bảy Người nói lên hướng đi mới của Giáo Hội, đã đến lúc Giáo Hội và Tin Mừng Đức Ki-tô không còn bị giới hạn nơi những anh em Do thái, nhưng phải được phổ biến rộng rãi nơi các dân ngoại.
Dường như tất cả bảy cộng tác viên nầy được chọn giữa khối Ki-tô hữu Do thái hải ngoại, chắc chắn chủ yếu cốt là làm dịu đi sự bất đồng của khối này. Quả thật, tất cả tên của bảy cộng tác viên đều tên Hy-lạp. Dù thế nào, sự chọn lựa nầy chứng thực rằng cộng đoàn Giê-ru-sa-lem chấp nhận mở rộng mình ra hơn nữa với thế giới ngôn ngữ và văn hóa Hy-lạp. Thật đáng chú ý khi mà trong số bảy cộng tác viên, có một người tên là Ni-cô-la quê An-ti-ô-ki-a, gốc dân ngoại, đã theo đạo Do thái, đoạn Ki-tô giáo. Ông là người Ki-tô hữu gốc dân ngoại đầu tiên đón nhận thừa tác vụ chính thức trong Giáo hội.
*3.Nghi thức đặt tay :
“Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đặt tay trên các ông”. Việc đặt tay có nghĩa truyền đạt quyền hành hay phẩm chất đặc biệt. Trong đạo Do thái, nghi thức nầy đã được thực hành từ xa xưa. Ông Mô-sê đã đặt tay trên ông Giô-suê và “ông đã được đầy tràn thần khí khôn ngoan” (Đnl 34 : 9). Để là thành viên Thượng Hội Đồng, phải được Thượng Tế đặt tay.
Việc đặt tay trên bảy cộng tác viên chứng thực rằng ngay từ đầu người ta thấy trước rằng công việc của họ sẽ không bị giới hạn ở nơi “việc phân phát lương thực hàng ngày”. Quả thật, sau đó vì nhu cầu mục vụ đòi hỏi, bảy cộng tác viên ấy cũng tham dự vào việc phục vụ Lời Chúa như các Tông Đồ; và rồi do hoàn cảnh bách hại, họ chạy trốn ra ngoài xứ Pa-lét-tin và trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên.
*4.Nhiều tư tế đón nhận đức tin :
Thánh Lu-ca không bao giờ quên nhấn mạnh đức tin Ki-tô giáo phát triển rất nhanh, vì thế thánh ký nêu ra một số lượng lớn các tư tế Do thái đón nhận đức tin Ki-tô giáo. Chi tiết này rất quý báu vì nó giúp cho chúng ta hiểu biết hơn nỗi lo lắng của giáo quyền Giê-ru-sa-lem và cuộc bách hại sắp giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, khởi đi với việc sát hại một trong bảy cộng tác viên là thánh Tê-pha-nô.
BÀI ĐỌC II (1Pr 2 : 4-9)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô hôm nay, hòa hợp với hai bài đọc khác, nói với chúng ta về Giáo Hội, cơ cấu của Giáo Hội, sứ mạng của Giáo Hội và nền tảng của Giáo Hội là Đức Ki-tô.
Chúng ta nên nhớ rằng thư nầy được gởi đến cho những Ki-tô hữu đang chịu đau khổ, bị vu khống và ít nhiều bị loại bỏ. Vì thế, thánh Tông đồ nhắc họ nhớ rằng đức tin kiên vững đặt nền tảng trên Đức Kitô, “viên đá sống động” bị con người loại bỏ, nhưng được Thiên Chúa chọn.
*1.Ẩn dụ của đá :
Một mặt, “đá” tự nhiên gợi ra ngay tức khắc yếu tố vững chắc, bền vững trước mắt chúng ta. Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thấy phần lớn các dân tộc liên kết đá với việc cúng tế các vong nhân, như niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt. Mặt khác, Đức Ki-tô được gọi là “viên đá sống động”, chính vì Ngài đã chiến thắng sự chết và phân phát sự sống vô tận. Thêm nữa, đây là hình ảnh mang chiều kích thiên sai mà Kinh Thánh đã nhiều lần gợi lên: viên đá quí giá (Is 28 : 16), đá tảng góc tường (Tv 118 : 22), phiến đá độc nhất (Dcr 3 : 9). Vì thế, “đá” trước tiên phải là Đức Ki-tô, rồi đến chính vị lãnh tụ của Giáo Hội, người mà Đức Giê-su gọi là “Kepha”, nghĩa là “đá tảng”.
*2.Viên đá sống động :
“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nghĩa là được Chúa Thánh Thần ở cùng, theo kiểu nói của thánh Phao-lô : “Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3 : 9). Ở đây, chúng ta có thể nhấn mạnh động từ “xây” mà thánh Phê-rô sử dụng cũng là động từ mà Đức Ki-tô sử dụng khi Ngài nói với Phê-rô : “Con là đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.
*3.Chức tư tế thánh:
“Hãy để Người đặt anh em hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Ki-tô”. Bản dịch của nhóm CGKPV nầy có thể khiến chúng ta nghĩ rằng đây cốt là chức tư tế thừa tác. Trái lại, bản văn này gợi lên chức tư tế của toàn thể Giáo Hội: Chức Tư Tế Cộng Đoàn. Bản TOB dịch chính xác hơn: “Anh em được xây dựng thành ngôi nhà của Chúa Thánh Thần để hình thành nên một cộng đồng tư tế thánh”.
*4.Hiến lễ thiêng liêng :
“Dâng những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Cách diễn tả nầy rất gần với tư tưởng của thánh Phao-lô, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12 : 1).
*5.Lương dân hoán cải và người Do thái cứng lòng tin :
Biểu tượng “đá” thúc đẩy thánh Phê-rô đề cập đến một vấn đề đau đớn tận đáy lòng mình : việc dân Ít-ra-en loại bỏ Đức Ki-tô. Thật cảm động khi thấy rằng thánh nhân đau xót biết bao trước sự lòng cứng tin của dân mình: thánh nhân cố gắng hiểu, trong ánh sáng Kinh Thánh, tại sao sự chọn lựa của Thiên Chúa lại không đạt đến đích. Biểu tượng “đá” chứa đựng một biện chứng: căn nguyên của ơn cứu độ hay cớ vấp ngã. Đức Ki-tô là dấu chỉ mâu thuẫn. Ngài đòi buộc một sự chọn lựa: Ngài là điểm tựa cứu độ hay tảng đá vấp ngã.
*A-Căn nguyên của ơn cứu độ:
Trước hết, “đá” có thể là hình ảnh về một sự vững chắc của toà kiến trúc: đá nền hay đá góc tường (đá này có thể chỉ đá chóp đỉnh để đảm bảo sự cố kết của tòa nhà). Theo ngôn ngữ biểu tượng: một phần thay cho toàn thể, đá có nghĩa toàn khối kiến trúc. Bản văn Is 28: 16: “Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” mà thánh Phê-rô trích dẫn, thật dễ dàng ủng hộ cách giải thích theo chiều hướng thiên sai. Viên đá quý giá mà Đức Chúa tuyển chọn để xây dựng dân Ngài sẽ là Đấng Thiên Sai, Đấng Mê-si-a của Ngài.
“Kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. Vậy, vinh dự cho anh em là những người tin”, trong câu này, chữ “vinh dự” đối lập với chữ “thất vọng”; nhưng đồng thời chữ “vinh dự” theo từ Hy lạp nầy cũng có nghĩa là “giá trị” vì thế gợi lên viên đá quý chính là Đức Ki-tô; nghĩa là trong Đức Ki-tô, những người tin cũng trở nên những viên đá quý. Những sắc thái ngữ nghĩa của bản văn khó diễn tả cho hết được.
*B-Cớ vấp ngã:
Thánh Phê-rô tiếp tục tìm kiếm trong Kinh Thánh tại sao dân Do thái cứng lòng tin. Thánh nhân kết hợp Tv 118: 22: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” với Is 8: 14: “Một hòn đá làm cho vấp, một hòn đá làm sẩy chân” vào trong cùng một câu trích dẫn. Thánh Phê-rô lấy lại hình ảnh nầy để chứng minh trước Thượng Hội Đồng, sau khi thánh nhân bị bắt: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho chỗi dậy từ cõi chết… Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4 : 10-11).
Thánh nhân nói trong bài đọc hôm nay, “Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy”. Đây không là chứng nhận số phận đã định trước, nhưng lời ta thán buồn phiền trước việc lời các ngôn sứ được ứng nghiệm, các ngài đã thấy trước sự loại bỏ nầy.
Đức Giê-su đã trích dẫn cũng chính lời tiên báo của Tv 118 sau khi đã kể dụ ngôn những tá điền sát nhân: “Các ông chưa bao giờ đọc câu nầy trong Kinh Thánh sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay : Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21: 42-43).
Dân Thiên Chúa mới nầy, dân mà thánh Phê-rô viết cho họ, đó là những dân ngoại trở lại đạo rất đông. Chính đó là những tước hiệu tuyệt vời mà xưa kia Đức Chúa đã trao tặng cho dân Ít-ra-en, từ nay được áp dụng cho dân mới nầy: “Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa…”.
TIN MỪNG (Ga 14 : 1-12)
Đoạn văn nầy được định vị ở phần đầu của diễn từ cáo biệt mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ của mình trong bữa ăn cuối cùng mà Ngài tham dự với họ.
*1.Bối cảnh:
Trước khi rời bỏ họ để bước vào cuộc Khổ Nạn của mình, Ngài nói với họ thật thân thương và trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”. Ngài cố làm cho các ông hiểu biết hơn con người của Ngài và sứ mạng của Ngài. Ngài gợi lên tương lai theo cung bậc ngôn sứ. Ngài vừa mới loan báo cho họ một người trong họ phản bội Ngài và cho Phê-rô biết ông sẽ chối Ngài.
Nỗi buồn phiền chắc chắn hiện lên trên gương mặt của họ, vì Đức Giê-su nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến!”. Tiếp đó, Ngài ra sức cũng cố niềm tin của họ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Là những người Do thái mộ đạo, các Tông đồ tin vào Đức Chúa, nhưng họ không thể nào hiệp nhất giữa Đức Giê-su và Đức Chúa, vị Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Có thể nào Đấng Mê-si-a là chính Thiên Chúa sao? Vì thế, Đức Giê-su sẽ nhấn mạnh sự duy nhất của Ngài với Cha Ngài. Diễn từ của Ngài sẽ xoay quanh sự duy nhất này. Độc thần giáo tuyệt đối của Do thái giáo bất khả chuyển lay, nhưng đó không là một điều hiển nhiên.
Đức Giê-su sẽ trấn an các môn đệ theo hai cách: khi gợi lên rằng họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần nầy) và khi loan báo cho họ rằng Ngài sẽ hiện diện bên cạnh họ theo hình thức khác qua việc sai phái Thần Khí của Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần tới).
*2.Họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài:
“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”. Căn nhà ở miền Pa-lét-tin có kích thước nhỏ bé, vì thế để làm cho các môn đệ hiểu rằng có chỗ cho nhiều người trong nhà Cha Ngài, Đức Giê-su gợi lên nhiều chỗ ở, nhưng Ngài không đặt bất kỳ thứ bậc của những chỗ ở nầy, không nói về nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới. Ngài xác định rằng chính Ngài sắp xếp: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
“Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giê-su không hứa hẹn một cuộc hội ngộ với các môn đệ vào thời cánh chung, nhưng cái chết sắp đến của Ngài sẽ mở rộng nhà của Cha Ngài, như thế cái chết là lối vào sự sống. Chúng ta đọc các bản văn nầy chính xác sau lễ Vượt Qua bởi vì biến cố vượt qua soi sáng những lời nầy. Tuy nhiên, các môn đệ chưa nhận được ánh sáng nầy, vì thế họ không hiểu, họ xao xuyến. Thánh Tô-ma là một con người thực tiển, thích những chính xác cụ thể, hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”.
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giê-su gặp phải sự ngộ nhận này. Ngài thường lợi dụng sự ngộ nhận nầy để khai triển cuộc đối thoại đi xa hơn và dẫn đưa người đối thoại của Ngài vào trong thế giới của những thực tại vô hình.
*3. “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”:
Chữ “đường” thuộc từ vựng tôn giáo của Do thái giáo: chữ này chất nặng lịch sử, nhắc nhớ cuộc hành trình băng qua sa mạc và đám mây sáng chói soi lối chỉ đường về Đất Hứa. Vào thời trở về từ cuộc lưu đày, một sứ giả “đã chuẩn bị con đường cho Đức Chúa”. Đức Giê-su đã lấy lại hình ảnh nầy lần đầu tiên khi gợi lên rằng “con đường dẫn đến sự sống” thì chật hẹp, trong khi con đường dẫn đến họa diệt vong thì rộng mở thênh thang (Mt 7 : 8).
Trong Tin Mừng Gioan, chữ “đường” chỉ một thực tại sâu xa hơn. “Thầy là đường”: Chính Đức Giê-su là đường, không phải chỉ bởi giáo huấn của Ngài, nhưng bởi vì con người của Ngài là sự hiện diện thần linh. Ẩn dụ “Đường” nối kết với ẩn dụ Cửa: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10 : 9).
“Thầy là Sự Thật”. Đức Giê-su đã mặc khải Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Cha Ngài cho con người. Ngài là phát ngôn viên của Cha: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra”. Ngài là chứng nhân của Sự Thật.
“Thầy là Sự Sống”. Đức Giê-su là Thiên Chúa đang sống giữa con người, vị Mục Tử đến cho chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10 : 10). Ngài là “bánh ban sự sống” và Lời Ngài cũng là sự sống: “Ai tuân giữ lời tôi sẽ không chết bao giờ”, vân vân.
Nói cho cùng, Đức Giê-su là “Đường” dẫn chúng ta đến “Sự Thật và Sự Sống”. Nhưng Ngài cũng là “Sự Thật và là Sự Sống”. Vì thế, ai đi theo Ngài, thật sự sống trong “Sự Thật và Sự Sống” ngay khi còn sống trong trần thế rồi.
*4.Biết Đức Giê-su chính là biết Cha Ngài:
Vì muốn các môn đệ Ngài thấu hiểu hơn nữa mầu nhiệm con người của Ngài, Đức Giê-su tiếp tục gợi lên chân tính của mình. “Ấy vậy, chân tính của Ngài chính là Con Thiên Chúa”.
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy”. Trong Tin Mừng thứ tư, động từ “biết” có một ngữ nghĩa rất mạnh: động từ này diễn tả một nhận thức của trí tuệ được tình yêu soi sáng, một sự thông hiệp trong mối tâm giao thật sự. Sự hiểu biết tròn đầy là sự hiểu biết hổ tương giữa Cha và Con. Sau nầy, trong lời cầu nguyện của Ngài, Đức Giê-su nói : “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki-tô” (Ga 17: 3). Các môn đệ nhận biết Cha rồi vì họ tin vào Con, và sống trong tình yêu của Ngài. Đức Giê-su, nên một tròn đầy với Cha, nói : “Nếu anh em biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết và đã thấy Ngài”.
Chính lúc đó thánh Phi-lip-phê góp phần vào câu chuyện. Chúng ta biết vị Tông Đồ nầy chỉ qua Tin Mừng Gioan, trong đó ông xuất hiện bốn lần: ơn gọi của Phi-líp-phê (Ga 1 : 43), bánh hóa nhiều (Ga 6 : 5), những người Hy lạp xin được gặp Đức Giê-su (12 : 21) và đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 14 : 8). Phi-líp-phê vốn bản tính ngay thẳng và nhiệt thành, ông đòi hỏi một cuộc “thần hiển”, ông muốn “thấy Thiên Chúa”. Như thế là mãn nguyện lắm rồi. Khát vọng nầy là khát vọng của tất cả mọi người: thấy Thiên Chúa, biết chắc chắn Ngài hiện hữu, thấu hiểu mầu nhiệm cao vời nhất.
Như khát vọng của tất cả mọi nguời Do thái, ông ao ước được thấy Thiên Chúa hiện diện trong uy nghi sáng chói như cuộc thần hiển trên núi Xi-nai xưa. Thế nhưng cuộc thần hiển theo kiểu ấy không còn nữa kể từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa sẽ không còn xuất hiện trong sấm chớp chói lòa khiến con người khiếp sợ không dám đến gần, nhưng hiện diện trong hình hài nhân loại của Đức Ki-tô, để từ đây ai thấy Chúa Giê-su là thấy Đức Chúa Cha.
*5.Công việc của Ngài chính là chứng nhân:
Sau khi nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Ngài và Cha Ngài, Đức Giê-su nói tiếp: “Anh em cứ tin Thầy đi: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì ít ra hãy tin vì công việc Thầy làm”. Đức Giê-su nhắc cho những tâm trí quá thực tiển này nhớ công việc mà Ngài đã làm: đây không ám chỉ đến những dấu lạ của Ngài cho bằng sứ vụ và hành động cứu độ của Ngài. Đức Giê-su hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ làm những việc Ngài làm, nhưng còn làm những việc lớn lao hơn thế nữa, bởi vì công việc của họ sẽ được mở rộng khắp cùng cõi đất.
Từ nay, không ai có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Lời dạy nầy tóm gọn tất cả Tin Mừng.
SỐNG THỰC TẾ CỦA THẾ GIỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc 1 : Cộng đoàn tín hữu sơ khai gặp khó khăn ; giải quyết bằng cách lập định chế phó tế ; số tín hữu gia tăng.
– Bài đọc 2 : mỗi tín hữu là một viên đá sống động xây dựng đền thờ của Chúa Thánh Thần.
– Bài Tin Mừng : Sống theo Đức Giêsu là Đường, sự thật và sự sống.
Có một điều chúng ta hay quên nên Thánh lễ hôm nay muốn nhắc chúng ta nhớ. Đó là chúng ta tuy ở giữa thế giới này nhưng lại thuộc về một “dân thánh”, “dân được Thiên Chúa tuyển chọn”. Đây là một vinh dự, đồng thời là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì hãy đến với Chúa trong Thánh lễ. Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.
– Là thành phần của một cộng đoàn được Chúa quy tụ, nhưng chúng ta hay chia rẽ nhau.
– Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng chúng ta ít quảng đại hiến thân cho Chúa.
– Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Nhưng nhiều khi chúng ta không bước theo Ngài, học với Ngài và sống như Ngài.
Bài tường thuật này mô tả nếp sống của cộng đoàn tín hữu sơ khai, một cộng đoàn không thiếu những khó khăn nội bộ, nhưng đã biết cách giải quyết thỏa đáng nên vẫn tiếp tục lớn mạnh.
– Khó khăn phát xuất từ việc phân phối những nhu cầu đời sống, gây ra những sự kêu trách.
– Các tông đồ đã đưa vấn đề ra tập thể, đề nghị một giải pháp theo hướng chia sẻ trách nhiệm (chọn 7 phó tế lo việc đời sống), và tập thể đã nhất trí.
– Nhờ khéo giải quyết nên cộng đoàn lại đoàn kết yêu thương và tăng số.
Chúng ta có gì phải sợ trên con đường dương thế ? Đã có chính Đức Giêsu đi bên cạnh chúng ta ; Ngài dẫn chúng ta về nhà Chúa Cha ; Ngài nuôi chúng ta bằng tình yêu thương của Ngài ; Ngài luôn bênh vực chúng ta và cứu chúng ta thoát khỏi cái chết đời đời.
Thánh Phêrô nhắc tín hữu nhớ đến phẩm giá cao quý và trách nhiệm của họ :
– Phẩm giá : Tín hữu là dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự và là dân riêng của Thiên Chúa.
– Trách nhiệm : Hãy để Thiên Chúa dùng mình như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần ; hãy dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa ; hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Ngài.
Bài Tin Mừng kêu gọi tín hữu đi theo Đức Giêsu, học với Ngài và sống với Ngài, bởi vì Ngài là đường, sự thật và sự sống :
– Đức Giêsu là đường vì Ngài dẫn tín hữu đến với Chúa Cha, nguồn hạnh phúc đích thực.
– Đức Giêsu là sự thật vì Ngài phát xuất từ Chúa Cha là nguồn chân lý, và Ngài dạy cho chúng ta biết Chúa Cha.
– Đức Giêsu là sự sống vì “sự sống đích thật là nhận biết Chúa Cha và Đấng Ngài sai đến” (Ga 17,3).
*1. Giáo Hội vừa thánh thiện vừa tội lỗi
Bài đọc thứ hai (thư Phêrô) trình bày vẻ thánh thiện của Giáo Hội : Giáo Hội là “giống nòi được tuyển chọn, là hoàng gia chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa”. Vì thế tín hữu hãy “để Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần… dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa…”
Nhưng bài đọc 1 (sách Công vụ) cho thấy trong cộng đoàn Giáo Hội vẫn có bất công, sinh ra tranh chấp và kêu ca. Thành thử “ngôi đền thờ của Thánh Thần” cũng khó mà xây dựng, những “viên đá sống động” khó mà ăn khớp với nhau, và “những của lễ thiêng liêng” khó mà đẹp lòng Thiên Chúa.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng khuyến khích chúng ta hãy an tâm, cứ vững tin và trung thành đi theo Đức Giêsu thì mọi sự sẽ ổn, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và à sự sống.
Có biết bao điều làm cho con người xao xuyến : bệnh tật, khủng hoảng kinh tế, xa cách người thân v.v.
Đức Giêsu biết tất cả những điều đó, nhưng Ngài vẫn khuyên “Lòng chúng con đừng xao xuyến”, vì Ngài nhìn mọi sự từ trên cao. Từ cao nhìn xuống, cái nhìn của Ngài bao quát hơn và thấy trọn vẹn hơn : Ngài không chỉ thấy hiện tại đang bế tắc mà còn thấy tương lai xán lạn. Nhờ cái nhìn ấy nên mặc dù trong Vườn Cây Dầu Ngài thấy hình như đang đứng trước ngõ bí nhưng Ngài vẫn tiến bước nên cuối cùng đã đến ánh sáng phục sinh.
Bởi thế, Ngài kêu gọi chúng ta : “Anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Nếu tin thì không còn xao xuyến nữa.
*3. Chia sẻ công việc trong Giáo Hội
Những công việc trong Giáo Hội rất là nhiều, nhưng số Giám mục và Linh mục lại quá thiếu. Nhìn trong phạm vi một giáo xứ cũng thế : giáo dân thì đông nhưng những người lo việc thì ít. Chỉ có Cha Xứ, vài tu sĩ và một ít thành viên Hội đồng giáo xứ. Khủng hoảng.
Nhưng cơn khủng hoảng này đã có ngay từ hồi Giáo Hội sơ khai. Và Giáo Hội sơ khai đã giải quyết một cách khéo léo bằng cách chia sẻ trách nhiệm : các tông đồ chuyên lo rao giảng Lời Chúa, các phó tế lo cho đời sống. Có lẽ từ kinh nghiệm này mà Thánh Phêrô đã đề ra nguyên tắc mọi người tham gia vào việc chung của Giáo Hội : “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ Thánh Thần”. Mỗi người đều là một viên đá. Người thì xây nền, người thì xây tường, người khác xây cổng v.v.
Thực ra, một cộng đoàn mà sinh động thì tất nhiên phát sinh thêm những công việc. Và nếu các thành viên của cộng đoàn thiết tha với sức sống của cộng đoàn thì sẽ biết cách thu xếp để chu toàn mọi công việc theo hướng cùng nhau chia sẻ trách nhiệm. Và được như thế thì chắc chắn “số các môn đệ sẽ ngày càng thêm đông”.
*5. Chuyện minh họa“Ta là đường, sự thật và sự sống”
*a/ Đường
Một người đố bạn mình :
– Đố anh trong Tin Mừng câu nào ngọt ngào nhất ?
– Thiên Chúa là Tình yêu.
– Không phải.
– Vậy chứ câu nào ?
– “Ta là đường”
– ! ! ! ? ? ?
*b/ Sự thật : Sự thật ở đâu ?
– Một tai nạn xe hơi xảy ra trong một thành phố nhỏ. Đám đông vây kín nạn nhân khiến một nhà báo không sao nhìn thấy được. Anh ta chợt nảy ra một ý nghĩ và kêu lên “Tôi là bố của nạn nhân đây. Tránh ra”. Đám đông tránh lối cho anh ta lại gần. Khi chứng kiến cảnh tượng, anh ta mới vô cùng mắc cỡ, vì nạn nhân là một con lừa ! (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)
– Một nhà xuất bản gởi tới tác giả của một bản thảo lời từ chối sau đây : “Chúng tôi đặc biệt thích thú đọc bản thảo của ông. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi xuất bản tác phẩm của ông, chúng tôi sẽ hoàn toàn không bao giờ còn có thể xuất bản một tác phẩm nào khác ngang tầm giá trị được với nó. Và chúng tôi không thể hình dung được làm sao trong vòng một trăm năm nữa lại có một tác phẩm nào khác có thể sánh được với tác phẩm của ông. Vì thế chúng tôi rất tiếc phải buộc lòng gởi lại ông bản văn tuyệt vời này. Và ngàn lần chúng tôi xin ông tha lỗi cho vì sự thiển cận và yếu kém của chúng tôi”. (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)
*c/ Sự sống
Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Ban đến than thở với cha linh hướng. Ngài nói : “Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh cũng không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng nhường chỗ cho lá non mẩy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng ? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy, khi sự sống mới của đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên đường đạo đức.”
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Người. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Một trong những mục tiêu Hội Thánh luôn theo đuổi / là tạo được sự hiệp nhất giữa những người cùng tin vào Đức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho công trình đại kết của Hội Thánh / sớm đạt được kết quả mong muốn.
2- Trên thế giới ngày nay / có biết bao người đang noi gương Đức Kitô / xả thân phục vụ những người nghèo khổ nhất trong xã hội / ở các trại phong / các bệnh viện tâm thần / nơi những vùng rừng thiêng nước độc đầy dẫy hiểm nguy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / luôn gìn giữ và nâng đỡ những con người quảng đại ấy.
3- Con người vốn bản tính yếu đuối nên rất dễ nản lòng / tuyệt vọng trước những đau khổ / những khó khăn trong đời sống thường ngày / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang gặp thử thách / luôn biết tin tưởng vào tình yêu vô biên / và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa.
4- Ngay trong một xứ đạo / nhiều khi sự chia rẽ / mất đoàn kết / vẫn còn rất trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi tị hiềm / để sống hiệp nhất và yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT : Lạy Chúa, thánh Phêrô đã bảo chúng con “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những công trình vĩ đại của Người”. Xin cho chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương của Chúa và thực hiện trọn vẹn vai trò chứng nhân của mình. Chúng con cầu xin nhờ…
– Kinh Tiền tụng : Nên dùng Kinh Tiền Tụng Phục sinh 5 vì có nói tới Đức Giêsu như của lễ, bàn thờ và tư tế.
– Trước kinh Lạy Cha : Đang khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy có những tâm tình của chính Đức Giêsu : mong cho Nước của Chúa Cha trị đến trên trần gian này, một nước đầy tình thương, công chính và bình an.
Anh chị em là thành phần của một xã hội trần thế nhưng đồng thời cũng là thành phần của một dân thánh được Thiên Chúa tuyển chọn. Anh chị em hãy trở về lo xây dựng xã hội nhưng đồng thời cũng đừng quên xây dựng Nước Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH-A
THẦY Ở ĐÂU CHÚNG CON CŨNG Ở ĐÓ- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
c.1: “Lòng chúng con đừng xao xuyến”: Sau lời loan báo Giuđa sẽ nộp Thầy (13,18-30), lời loan báo Phêrô sẽ chối Thầy (13,36-38) và lời loan báo Đức Giêsu sẽ ra đi (13,33), lòng các môn đệ rất hoang mang bối rối. Do đó Đức Giêsu an ủi họ đừng xao xuyến.
“Cứ tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”: Động từ tin được dùng tới 6 lần trong phần này. Điều kiện để khỏi hoang mang xao xuyến là phải tin: tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài.
c.2-3: Đức Giêsu giải thích lý do Ngài ra đi: đi để về nhà Cha và để dọn chỗ cho các môn đệ. Xong xuôi rồi Ngài sẽ trở lại đón các môn đệ cùng đi đến nhà Cha, khi đó thầy trò sẽ sum hợp.
– “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”: Irénée, Clément d’Alexandrie và Origène dựa vào câu này để nghĩ rằng trên thiên đàng có nhiều cấp bậc hạnh phúc. Thực ra câu này chỉ đơn giản nghĩa là thiên đàng có đủ chỗ cho mọi người.
– Sau khi dọn chỗ xong thì Ngài trở lại cùng đi và thầy trò sum hợp.
– “Thầy ở đâu, chúng con cũng ở đó”: “Đức Giêsu nói với các môn đệ “Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Trái lại Người nói với dân Do thái: “Tôi ở đâu, các ông không thể đến được” (7,34) Thế cũng bởi vì Đức Giêsu ở đâu, kẻ phục vụ Người cũng sẽ ở đó (12,26). Mà các môn đệ chấp nhận làm môn đệ của Người, còn dân Do thái thì không. Nên đúng theo định nghĩa của người môn đệ là “người đi theo”, các môn đệ sẽ được đi theo Đức Giêsu và ở với Người” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 210)
– Như thế là Thầy trò sẽ sum hợp. Nhưng khi nào? Có người nghĩ là đến ngày Tái lâm (Parousia); kẻ khác nghĩ là ngày chết của mỗi người. Cả hai lối giải thích đều đúng.
* Nếu các môn đệ phải xa cách Thầy mãi mãi thì các ông xao xuyến là phải. Nhưng đây chỉ là xa cách tạm thời, sau đó thầy trò lại sum hợp, mà sum hợp vĩnh viễn hạnh phúc trong nhà Cha, thì có gì mà xao xuyến!
c.4-7: Câu hỏi của Tôma:
– Tôma là người đa nghi. Dù Đức Giêsu đã nói Ngài đi về nhà Cha, nhưng đối với Tôma, cái “nhà Cha” ấy còn mù mờ xa xôi quá. Ông chưa dám dấn thân vào một tương lai không chắc chắn như vậy, nên ông hỏi lại cho rõ: cụ thể Đức Giêsu sẽ đi đâu và các môn đệ sẽ dùng con đường nào để theo Ngài.
– Đức Giêsu giải đáp cả hai thắc mắc của Tôma: cứ đi theo Ngài là đúng đường và sẽ tới đích, vì Ngài là đường (Le chemin), con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha. “Đức Giêsu đã ví mình với con đường, vì “đường” là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa gọi là tin tưởng vào Người, dân Israel ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới Đất Hứa. Do đó “đường” là tượng trưng cho cuộc Xuất Hành (Đnl 1,3-33; 2,1-2; 8,2-10 Tv 77,20. 136). Một khi đã vào Đất hứa, dân Israel cũng còn phải ăn ở theo đường Thiên Chúa bảo mới được lãnh phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10; 128,1; 147,19-20; Br 3,13-14.37; 4,1). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong Luật Môsê. Do đó, “đường” còn là tượng trưng cho Luật Môsê. Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Người qua trung gian Đức Giêsu. Vị trung gian tuyệt đẳng và sau hết. Do đó, “đường” vẫn còn là tượng trưng. Nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,34 Mt 16,24 Lc 9,23 Dt 10,20)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211)
– Sở dĩ Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha vì Ngài là sự thật (chân lý). “Thánh Gioan thường mượn ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do thái giáo. Trong ngôn ngữ ấy, chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, xưa kia, được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ; nhưng ngày nay, chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng hơn, chúng ta có thể nói rằng Đức Giêsu và Chân lý mà Người mặc khải là một, vì, khác với ông Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể và, vì thế, Người là Lời tuyệt hảo của Chúa Cha (1,1.14), là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Đức Giêsu (17,8.14 1,18)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211). Nói cách khác, Đức Giêsu là sự thật về Chúa Cha nghĩa là: cứ nhìn vào Ngài là biết Chúa Cha. Tất cả mặc khải Cựu Ước chỉ là chuẩn bị và dọn đường cho mặc khải trọn vẹn và đích thực nằm trong bản thân Đức Giêsu.
– Và cũng vì Đức Giêsu là đường, là sự thật như thế, nên Ngài cũng là sự sống: “Muốn sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa phán. Mà Thiên Chúa phán qua trung gian Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa Đức Giêsu không phải chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ. Người chính là Lời tuyệt đẳng của Thiên Chúa. Vì thế chẳng có gì lạ khi Người là “sự sống” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh sđd, trang 212)
c.8-10: Câu hỏi của Philipphê:
– Philipphê hơi ấu trĩ, khi nghe nói về Chúa Cha thì nghĩ đến một cảnh thần hiện theo kiểu ngày xưa Thiên Chúa hiện ra cho Môsê, Êlia, Isaia v.v… và ông muốn mình cũng được thấy cảnh đó như vậy.
– Đức Giêsu đáp “Ai thấy Thầy tức là thấy Chúa Cha rồi đấy”: Thiên Chúa không còn hiện ra trên đám mây hay trong những thị kiến. Từ nay Thiên Chúa tỏ mình cho loài người qua hình dáng nhân loại của Đức Giêsu. Đức Giêsu là hình ảnh mặc khải trọn vẹn Chúa Cha. Thực vậy Đức Giêsu chính là Lời mặc khải trở thành xác thịt và ở giữa loài người (1,14). Khi Lời đã ở giữa loài người thì tất cả những nơi xưa nay người ta thường đến để gặp Thiên Chúa như đền thờ Giêrusalem hoặc đền thờ Garizim hay bất cứ nơi nào khác cũng đều trở thành vô ích, vì nơi duy nhất để gặp Thiên Chúa chính là Đức Giêsu. Tại sao? Vì “Thầy vốn ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”: Chúa Cha và Đức Giêsu không thể tách rời nhau, cả hai chỉ là một. Tất cả những lời Ngài nói và những việc Ngài làm đều là những lời nói và việc làm của Chúa Cha.
c.11: Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ tin rằng Chúa Cha và Ngài luôn ở trong nhau và là một với nhau. Nếu họ chưa thể tin bằng lời của Ngài thì ít ra hãy tin vì thấy những việc Ngài làm, tức những phép lạ, những “dấu chỉ” cho thấy có Chúa Cha hoạt động trong Ngài.
c.12: “Ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy làm, lại còn làm được việc to hơn nữa”: a/ Các môn đệ được Đức Giêsu thông ban quyền lực của Ngài, nhờ đó họ cũng làm được những phép lạ như Ngài; b/ Nước Trời mà Đức Giêsu lập hiện còn rất nhỏ bé, nhưng Đức Giêsu thông quyền giúp các môn đệ mở mang Nước Trời ấy “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Không phải các ông giỏi hơn Ngài, nhưng hoạt động của các ông sẽ triển khai mầm mống đã được Ngài đặt sẵn. Điều kiện duy nhất để các ông làm được như vậy là phải tin vào Ngài.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu nhắn gởi lời khuyến dụ này cho các môn đồ Người thuộc mọi thời đại. Người kêu gọi họ giữ vững lòng tin vào Người trong những bước đường tối tăm và trong các cơn dông tố thiêng liêng của cuộc đời, đồng thời hãy dâng cho Người một tình yêu quảng đại và vâng phục, tình yêu sẽ đặt họ vào trong tình yêu thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa và sẽ làm cho họ sống trong bình an và hoan lạc của Chúa Giêsu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*1) Bản văn này tóm tắt sứ điệp Tin Mừng Gioan. Nó diễn tả cách gián tiếp điểm đặc trưng và sâu xa nhất của đời sống Kitô hữu. Nó là một phần trong toàn bộ các lời nói của Chúa Giêsu giải thích về chính mình Người. Cùng một trật nó trình bày cho thấy Người là gì đối với chúng ta và chúng ta phải trở nên nhất thế nào đối với Người. Chúa Giêsu là một người thật, hoàn toàn giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nhưng đồng thời được tràn đầy thực tại thần linh sống động đến nỗi trở nên duy nhất và đồng hóa với Chúa Cha trong hữu thể, trong bản chất và trong đời sống: Người mặc khải Chúa Cha cách đích thực, Người mặc khải chúng ta là những kẻ Cha đã ban cho Người và Người muốn rằng Người ở đâu, chúng ta cũng ở đó. Người cầu nguyện và hành động để trong Người chúng ta được thông phần vào sự sống Chúa Cha ban. Ở đây, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm dày đặc đối với tâm trí nhưng sáng tỏ cho những ai dấn thân cách sống động nhờ đức tin.
*2) “Lòng các con chớ xao xuyến. Các con tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào Ta”. Đây là một cách Chúa bảo rằng nòng cốt đức tin của chúng ta là chính Người, bản thân của Người, sứ điệp Người. Ta có thể tự hỏi: Làm sao Chúa Giêsu Kitô, vốn là Thiên Chúa, lại có thể nói về Thiên Chúa như nói về một Đấng khác với chính Người. Ở đây chúng ta đụng đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập thể. Nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa xâm nhập vào thời gian, vào không gian và vào trong những giới hạn của con người. Con Thiên Chúa, có thể nói, là đã tự giới hạn mình vào trong những chiều kích của thực tại nhân loại, mà vẫn không thôi là chính Người. Chúa Giêsu muốn bảo điều này: Con người hữu hình của Người dễ gần gũi với hành động đức tin của chúng ta hơn là Thiên Chúa vô hình; sự kiện lạ lùng là lòng tin của chúng ta vào Người làm cho chúng ta đụng đến Đấng không thể nào tới gần được. Khi tin vào người là Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là nguyện vọng và tiếng gọi sâu xa nhất của con người vốn thường bị đau khổ làm cho xao xuyến. Niềm tin tưởng ấy làm cho sự xao xuyến tách ra khơi chúng ta và mang lại bình an, sức mạnh, niềm vui.
*3) “Ta là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống”. Trong cuộc sống của người-không-có-Thiên-Chúa, dường là một hệ thống tư tưởng hay là sự khôn ngoan, sự thật là một chọn lựa giữa nhiều ý kiến, sự sống là một sinh hoạt, một tình yêu suy nhược, và thường là một sự chịu đựng. Đối với người-có-Chúa-Kitô, thì sự sống là một sự thông hiệp mà những khám phá có sức làm được điều ta tưởng là bất kham. Trong Chúa Kitô, người Kitô hữu tìm được đường đi, lối về, nhờ đó họ vượt qua những biên giới của thế gian. Mà tự bản chất là một cánh cửa đóng kín tuyệt vọng. Hơn nữa con đường này, tức là Chúa Kitô, là một lời mời gọi ra đi, tiến tới đằng trước, vươn mình lên mãi. Người Kitô hữu khám phá nơi Chúa Kitô câu trả lời cho nhu cầu bí mật mà con người cảm thấy, là phải nương tựa vào một cái gì vửng chắc để luôn có thể tìm kiếm mãi. “Con sẽ không tìm Ta, nếu con đã không gặp Ta” (Th. Augustin). Sự thật sống động không bao giờ là một cái gì hoàn toàn đạt được, nhưng nó bảo đảm với ta rằng nó xác thực. Càng gặp Chúa Giêsu, ta càng tìm kiếm để biết Người hơn. Khỏi phải nói là biết Chúa Kitô là trước tiên sống bởi Người. Khi ta sống bởi Chúa Kitô, phải chăng các thực tại tự nhiên của đời sống đều thay đổi. Không, người Kitô hữu có một sinh hoạt nhân sinh và thực tế như tất cả mọi người, nhưng sinh hoạt ấy được một cái hồn. Có một cách suy nghĩ, một cách chọn lựa mục đích, một cách gặp gỡ con người… được hướng dẫn bởi sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời. Chúng ta có biết ngạc nhiên về điều không thể làm được lại trở nên có thể được cho chúng ta trong Chúa Kitô không?
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH-A
ĐƯỜNG GIÊSU– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.
Chúa Giêsu là người mở đường.
Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.
Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.
Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.
Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.
Chúa Giêsu là đường.
Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.
Chúa Giêsu là đích tới của con đường.
Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.
Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.
Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.
Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)
2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?
3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
NHÀ CHA THẦY- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong những ngày lễ lớn, người ta thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ. Họ thuộc mọi thành phần: già trẻ lớn bé, không phân biệt giai cấp, chủng tộc. Họ đến nhà thờ từ muôn nẻo đường: từ xa lộ tối tân trong những nơi phồn hoa đô thị, đến những con đường mòn sỏi đá, gập ghềnh, quanh co, chạy qua những thung lũng, núi đồi hay trên những lối đi thôn dã lầy lội trơn trượt. Dù đi trên những con đường khác nhau cũng đều dẫn tới con đường duy nhất là con đường Giêsu, để về nhà Chúa Cha.
“Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”, nhà Cha Thầy rộng lớn không biên giới, được xây trên đá tảng kiên cố, bền vững là chính Đức Giêsu Kitô Phục sinh (1Pr. 2, 4). Nhà Cha Thầy không phải là nhà Davit, không ai được chiếm hữu cho một dòng họ sang trọng nào, cho một dân riêng nào. Nhà Cha Thầy rộng mở cho mọi tầng lớp nhân dân, cho mọi dân tộc, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, nô lệ hay tự do, khỏe mạnh hay tàng tật. Nhà Cha Thầy không thu hẹp vào phần đất nào, ranh giới nào, dù Samari hay Giuđa, Do thái hay Hy lạp. Nhà Cha Thầy rộng dài, cao sâu, lan tràn mọi lãnh thổ, thấm tận vào lòng mọi dân tộc.
Xưa Giêrôbôam và Rôbôam đã chia rẽ nhau thống trị nhà Israel và Giuđa, chúng đã lợi dụng Thiên Chúa để củng cố ngai vàng của mình, Thiên Chúa đã phán với Giêrôbôam: “Này tế đàn của ngươi sẽ vỡ tan tành, tàn tro tế lễ của ngươi sẽ đổ xuống (1V. 13, 3). Phần nhà Giuđa, sau này Đức Giêsu cũng phải khóc thương Giêrusalem vì “đã biến nhà Cha Thầy thành chợ búa, hang trộm cướp để trục lợi” (Ga. 2, 16 ; Lc. 19, 39-46 và 21, 5).
Con người lúc nào cũng mang đầy tham vọng, lợi dụng nhà Cha Thầy để mưu cầu danh vọng cá nhân, dòng họ, xứ sở, địa phương mình. Vì thế “những kiến trúc vĩ đại hào nhoáng của loài người sẽ bị thay thế” (Mc. 13, 1-4). Đức Giêsu sẽ xây lại một Đền thờ mới cho Cha Người, đó là chính thân thể Người từ cõi chết sống lại (Ga. 2, 19-22). Từ Đền thờ mới này Êgiêkiel đã được thị kiến: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được sạch và được sống” (Êz. 47, 8-9). Đó chính là “trời mới, đất mới, Giêrusalem mới, là nhà Thiên Chúa ở với dân Người, Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt chúng sinh. Chết sẽ không còn nữa, phiền muộn, kêu gào, khổ nhọc sẽ không có nữa, vì điều cũ đã qua rồi (Kh. 21, 3-4).
Nhà Cha Thầy cũng là đền thờ Chúa Thánh Thần dược xây bằng những viên đá sống động do chính Thiên Chúa tuyển chọn, là những người tin Đức Kitô. Người làm cho họ thành một dân thánh, dân tư tế dâng lên những lễ vật đẹp lòng Cha và đi loan truyền công trình vĩ đại của Cha Thầy (Bài đọc II).
Vậy nhà Cha Thầy vừa là Đền thờ sống động của Thánh Thần vừa là Thân thể Phục sinh vinh quang của Thầy có những chi thể được gắn bó, được sống lại với Thầy, vừa là trời mới đất mới của Cha Thầy ngự trị. Cho nên con đường về nhà Cha Thầy cũng chính là Thầy: “Thầy là Đường”, đường dẫn về nhà Cha Thầy, vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.
Lạy Cha, Cha đã thương yêu chúng con quá bội, đã cho Con Cha là đường dẫn tới Cha, đã cử Con Cha là kiến trúc sư xây dựng nhà Cha cho chúng con, đã trao mọi quyền năng cho Con Cha, để Người dọn chỗ cho chúng con, để Người đem chúng con về với Cha hằng sống, trong tình thương yêu chúng con muôn đời.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
NHÀ CHA– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào ‘shelter’ chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.
Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.
Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14, 2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.
Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.
Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6, 4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6, 7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.
Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2, 7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14, 12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.
Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Petr 2, 9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH-A
ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA- Lm. Trịnh Ngọc Danh
Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm: một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2, 7.9)
Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga. 14,1-12), Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.
Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các môn đệ:
– “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2)
Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”
Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga. 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 14, 2-4)
Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga. 14,5)
Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…
Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA
Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA, chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới? Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải bệnh hoạn, đau khổ…? Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học… chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển vinh như Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…
Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.
Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con.”
Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga. 14: 8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung của chúng ta là một.
Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự sống của Anh Cả Giêsu.
Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?
Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.
CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút… Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.
Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng, lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường dẫn đến sự sống.
Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà Cha.
Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con đường Giêsu.
Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức tin.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ, thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.
Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.
Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.
Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “ Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32: 18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà cha trên trời.
Câu hỏi:
– Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.” Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?
– Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?
– Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
ĐỨC GIÊSU: DUNG NHAN CỦA THIÊN CHÚA CHA- Lm. Antôn Hà Văn Minh
Sách xuât hành tường thuật việc Ông Môsê xin được thấy tôn nhan Thiên Chúa. Chúa liền nói với ông: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.”(Xh 33, 20), thế mà hôm nay qua Đức Giêsu Thiên Chúa đã tỏ tôn nhan Ngài cho chúng ta: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Khi tạo dựng con người Thiên Chúa muốn con người làm bạn, nên Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, và sách thế đã diễn tả mối tương quan bằng hữu giữa Thiên Chúa với con người qua việc Thiên Chúa đi dạo trong vườn cây Eden và nói chuyện với con người, thế nhưng mối tương giao này gẫy đổ khi con người phạm tội, và tự con người lánh trốn Thanh nhan “Nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa” (St 3, 8), không những con người chạy trốn Thanh nhan, nhưng chính tội cũng làm cho con người không còn có khả năng chiêm ngưỡng Tôn Nhan.
Kể từ khi bị đuổi ra khỏi mối tương giao bằng hữu, con người không thể nào nhìn thấy được Chúa. Nhưng vì là Cha nhân ái, Thiên Chúa luôn mong ước được gần gũi với con cái, lòng thương xót của Chúa luôn thôi thúc Ngài đến với con người, gặp gỡ con người, và tỏ cho con người biết Ngài luôn yêu thương họ. Vì yêu thương Ngài đã sai con chí ái đến với con người, và với sáng kiến bởi tình yêu nhiệm lạ, Con Thiên Chúa đã mạc lấy thân xác con người để biểu tỏ tôn nhan trong cách thế mà con người có thể nhìn thấy. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” một lần nữa minh định điều Chúa Giêsu đã mạc khải: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu. Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này.” (số 1).
Một cuộc tỏ bày tôn nhan quá ư nhiệm mầu. Tại sao Thiên Chúa hành động như thế? Thưa bởi vì quá yêu thương con người nên Thiên Chúa đã quay lại chống đói chính mình”, nói như Đức Benđíctô XVI. Phải, Ngài đã quay lại chống đối với điều Ngài đã làm, đó là đuổi con người ra khỏi Tôn Nhan, nay Ngài lại cho con người nhìn thấy Dung nhan, Ngài đã luận phạt con người, nay Ngài lại ra tay cứu vớt con người, Ngài đã loại trừ con người nay lại giao hoà với con người bằng chính cái chết của Người Con dấu ái. Vâng, vì là Thiên Chúa tình yêu nên Ngài không báo giờ bỏ rơi công trình do tay Ngài tạo thành.
Tinh yêu Thiên Chúa là thế đấy, nhưng con người vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tỏ ra cao ngạo, và chẳng nhận ra Tôn Nhan Chúa qua Người Con, Đức Giêsu Kitô. Ngay từ những thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội có nhiều người đã không nhận ra Đức Kitô là dung mạo của Chúa Cha, và chỉ coi Người như là “người con nuôi” của Thiên Chúa. Họ không nhận ra bởi quá dựa vào lý luận của lý trí con người mà không để cho Thần Khí Chúa can thiệp. Rồi trôi theo dòng lịch sử của nhân loại, tinh thần thế tục ngày càng lan toả trong lối sống, càng ngày người ta càng bóp méo dung nhan của Đức Kitô, để rồi coi Người đơn giản như một lãnh tụ khởi nghĩa nhằm giải phóng dân tộc, chống lại Đế Quốc Roma, hoặc Đức Kitô chỉ như một Rabbi trình bày giáo huấn về đối nhân xử thế như Khổng Tử, Lão giáo, hoặc Phật Thích Ca. Và để loại trừ bản tính Thiên Chúa ra biến mất nơi con người Đức Kitô, người ta tô vẽ Người chỉ còn là một con người bình thường như bao người khác qua những bộ phim mang tính phỉ báng như “cơn cám dỗ cuối cùng của Giêsu”, hay “Mật mã da Vinci”.
Không nhận ra tôn nhân Thiên Chúa nơi con người Đức Kitô, cũng có nghĩa là không nhận ra tình thương và lòng thương xót của Ngài, nên con người mãi mê lầm trong bóng tối của sự chết. Thế giới luôn tràn ngập hận thù, con người càng ngày càng trở nên vô cảm nỗi khổ của người khác, giết chóc, hãm hiếp, buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức, cướp bóc… và cuộc sống càng ngày càng trở nên bất an.
Để tìm lại niềm vui của cuộc sống và bình an trong xã hội không gì khác ngoài việc tìm đến vàdung mạo của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Nói như Đức Phanxicô: “Tình yêu Thiên Chúa giờ đây trở nên hữu hình và được tỏ bày trong cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Bản thân Người không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được ban tặng cách vô điều kiện. Các mối liên hệ giữa Người và những ai tìm đến với Người, là một tương quan đặc thù duy nhất và không thể tái diễn. Những dấu lạ Người thực hiện, nhất là cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, cho các bệnh nhân và những người đau khổ, tất cả đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Tất cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót. Không có gì nơi Người lại thiếu vắng lòng thương xót’’ Dung mạo long thương xót số 8).
Lạy Chúa Giêsu, còn gì hạnh phúc hơn khi được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, bởi từ đó chúng con thấu hiểu Chúa yêu thương chúng con là dường nào. Xin cho chúng con cũng trở thành dung mạo của Chúa để qua đó người ta nhận ra tình thương Chúa, họ nhận được ơn cứu độ . Amen.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH-A
CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói cuộc đời là một chuyến đi. Có chuyến đi dài. Có chuyến đi ngắn. Có chuyến đi đến vô tận. Chuyến đi nào cũng có thể gặp người ta yêu nhưng cũng có thể phải chia tay và bỏ họ lại phía sau. Chuyến đi nào cũng có niềm vui nhưng cũng có những chuyến đi mang lại nỗi buồn. Vui buồn lẫn lộn trong kiếp người cũng tùy thuộc vào chuyến đi mang theo mục đích gì? Mục đích chuyến đi sẽ quyết định về sự vui buồn trong hành trình của chúng ta.
Càng đi, ta lại càng thêm dẻo dai. Như một lực sĩ, càng chạy, ta càng mềm dẻo để có thể dấn thân vào một chuyến đi mới, vào những cuộc chiến đấu mới. Đi càng nhiều thì đời càng cho ta thêm kinh nghiệm. Thế nhưng, có khi càng đi, con người lại càng thêm buồn đau hơn! Vì thất bại nên thất vọng. Vì không như ý muốn nên chán nản…
Tựu trung trong cuộc đời chúng ta có ba chuyến đi:
*1/ Những chuyến đi thể lý:
Đó là những chuyến đi theo nhu cầu tự nhiên của một người bình thường. Nhu cầu công việc. Nhu cầu về thăm quê hương. Nhu cầu thăm nom cha mẹ và anh chị em trong gia đình… Đây là những chuyến đi của bổn phận nhưng đòi hỏi chúng ta vượt lên sự ngại ngùng, lười biếng để dấn thân về phía trước.
*2/ Những chuyến đi nhân ái
Có những chuyến đi không phải của bổn phận mà là của tình người chia sẻ, hiệp thông với tha nhân. Có chuyến đi đến với người nghèo để cho họ bữa ăn, hay đến với người bất hạnh để ủi an nâng đỡ họ. Mỗi năm giáo xứ chúng tôi vẫn có chuyến đi thăm người nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh như Cao Nguyên hay Miền Trung khô cằn. Nhìn nét mặt hân hoan của họ khi nhận quà mà lòng mình cũng hân hoan. Lúc đó mới thấy chuyến đi mình thật ý nghĩa.
*3/ Những chuyến đi tâm linh
Sự sống con người không dừng lại ở những chuyến đi thể lý hay nhân ái mà còn có chuyến đi về với cội nguồn là Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người. Chuyến đi này xuyên suốt trong những chuyến đi thể lý hay nhân ái. Chính chuyến đi này làm cho những gánh nặng, những khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn. Ai đã từng đau khổ hay mang gánh nặng nề nếu biết hướng lòng về chuyến đi cùng đích sẽ cảm thấy nhẹ vơi, bình an. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Sau thập giá là vinh quang.
Chúa Giê-su đã từng thực hiện chuyến đi ấy trong suốt cuộc đời Ngài luôn hướng về Chúa Cha, luôn sống trong chờ đợi “Giờ” mà Chúa Cha đã định cho Ngài. Ngài đã sống trọn vẹn một hành trình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cho dầu đó là thập giá đau thương, Ngài vẫn đón nhận trong niềm tín thác nơi Cha.
Sau cuộc hành trình đầy thương khó, Ngài đã về Trời để lãnh triều thiên vinh quang. Ngài đã bước qua thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh.
Hôm nay Ngài bảo: “Ngài về cùng Chúa Cha”. “Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Ngài mong rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài. Nhưng để có thể ở bên Ngài trong Nước Cha Ngài, chúng ta cũng phải đi trên con đường Ngài đã đi. Con đường của thập giá tiến tới vinh quang. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong sự chia sẻ trách nhiệm với tha nhân. Thập giá trong những hy sinh phục vụ đồng loại. Nhất là thập giá trong hy sinh từ bỏ những quyến luyến tội lỗi, những đam mê lầm lạc để sống theo thánh ý Chúa.
Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa Giê-su đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.
Cuộc đời là một chuyến đi trở về nguồn. Trở về với Thiên Chúa là Cha. Trở về thiên đàng là nơi dành sẵn cho con người. Xin cho chúng ta biết đi theo Con Đường Chúa Giêsu đã đi để tiến về nhà Cha. Xin đừng vì những đam mê bất chính, những thói hư tật xấu, những lười biếng mà lạc mất hướng đi về trời. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha. Amen.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
“THẦY LÀ CON ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG”– Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
*1. Dẫn vào
Bài Tin Mừng Ga 14,1-12 hôm nay là bài thứ nhất trong ba bài giảng sau Tiệc Ly được thánh Gioan trình bày kế tiếp nhau. Bắt đầu bằng việc Đức Giêsu ra đi để dọn chỗ cho các môn đệ, rồi Người sẽ trở lại đem các môn đệ đến với Người, để Người ở đâu, các môn đệ cũng ở đó (cc. 1-3) và điểm đến là mặc khải về sự duy nhất Cha-Con (cc. 7-11). Con đường mà cộng đoàn các môn đệ phải đi theo, là chính Đức Giêsu vì Người là con đường, là sự thật và là sự sống (cc 4-6). Các môn đệ đi trên con đường đó với điều kiện duy nhất là lòng tin, một thực tại có sức mạnh lớn lao (c. 12)
*2. Đức Giêsu, con đường đến cùng Chúa Cha
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã nói lời từ biệt để về cùng Chúa Cha. Đã khiến cho các môn đệ hoang mang, lo sợ, xao xuyến. Trong suốt ba năm gắn bó với Thầy và chia sẻ ngọt bùi trong cuộc sống, Thầy là chỗ dựa, là cuộc sống, là con đường tương lai. Tất cả cuộc sống, hướng đi tương lai nay bơ vơ không biết đi về đâu… Chúa Giêsu hiểu rõ tâm trạng bồn chồn, lo lắng, ưu phiền của các môn đệ. Người nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Như thế, Người kêu gọi các môn đệ xây dựng cuộc sống trên nền tảng vững chắc không lay chuyển trong Thiên Chúa và trong chính Người.
Sở dĩ, Người kêu gọi hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Người, đó là bởi vì Người và Chúa Cha là một (10,30-38; 14,11-20; 17,21-23). Như Người đã quả quyết: “Ai tin vào tôi thì không phải tin vào tôi, nhưng tin vào Đấng đã sai tôi” (Ga 12,44). Bây giờ Người đi về cùng Đấng ấy, nhằm đưa các môn đệ đến chỗ nên một với Người. Đó là cuộc trở về nhà của Chúa Cha như Người nói: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Sau khi trấn an các môn đệ, Đức Giêsu nói về con đường đưa các ông đến cùng Chúa Cha. Người nói với các môn đệ: “‘Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi’. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi?’ (cc. 4-5). Đức Giêsu trả lời: ‘Chính Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’” (c. 6).
Đức Giêsu chính là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Con đường này đưa đến Chúa Cha, và đây là con đường duy nhất bởi vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (14,6). Đến với Đức Giêsu đồng nghĩa với tin vào Đức Giêsu. Như thế “Đến cùng Chúa Cha” là tin vào Chúa Cha. Và Đức Giêsu là con đường nghĩa là trung gian dẫn thiên hạ đến với Chúa Cha, làm cho thiên hạ tin vào Chúa Cha.
Đức Giêsu tự ví mình với con đường, vì con đường là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa và tin tưởng vào Người, dân Israel đã ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới đất hứa. Do đó, con đường là tượng trưng cho cuộc xuất hành (x. Đnl 1,30-39). Một khi đã vào đất hứa, dân Israel cũng phải ăn ở theo đường Chúa dạy bảo thì mới được phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong luật Môsê. Do đó, con đường còn là tượng trưng cho luật Môsê.
Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Ngài qua trung gian Đức Giêsu, vị trung gian tuyệt hảo và sau hết. Do đó, con đường vẫn còn là tượng trưng, nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là con đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,30; Mt 16,24; Lc 8,23).
Đức Giêsu là con đường dẫn đưa “vượt qua” từ đau khổ đến vinh quang, từ sự chết đến sự sống. Tất cả được tiên báo trước bằng hình ảnh con đường nối liền giữa trời và đất như giấc mơ tổ phụ Giacóp, ông thấy chiếc thang từ đất chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống (x.St 28,12), và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Các anh sẽ thấy trời rộng mở và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Đức Giêsu là con đường vì Người là chân lý. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do Thái giáo thì chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, ngày xưa được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ. Nhưng ngày nay chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng chúng ta có thể nói: Đức Giêsu và chân lý Ngài mặc khải là một, vì khác với Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể, và vì thế, Ngài là lời tuyệt hảo của Chúa Cha, là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Chúa Giêsu (Ga 17,8-12).
Thật vậy, Đức Giêsu là sự thật, sự thật về một Thiên Chúa tình yêu (x. 1Ga 4,8) hay chạnh lòng thương, và giàu lòng thương xót. Sự thật về một Thiên Chúa cứu độ và giải thoát con Người: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32). Cho nên thánh Augustinô đã cắt nghĩa căn nguyên sự bối rối của các tông đồ: “Các ông đã không biết kho tàng sự thật mà chính mình đang sở hữu”.
Đức Giêsu cũng là sự sống. Muốn có đời sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa dạy bảo qua trung gian Con Một của Người là Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa, Đức Giêsu không chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ: Ngài chính là lời tuyệt hảo của Thiên Chúa. Vì thế, chẳng có gì lạ khi Người là sự sống.
Đức Giêsu là sự sống, sự sống vĩnh hằng, sự sống ấy ngay trong cung lòng Chúa Cha (x. Ga 6,5a). Như Ngài đã tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Sự sống này được ban cho những người tin vào Người: “Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời”.
Đích điểm của con đường là Chúa Cha. Nhưng Chúa Cha hiện diện nơi Chúa Giêsu. Các môn đệ đã từng biết Đức Giêsu, và vì thế họ cùng biết Chúa Cha nơi Người. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người” (c.7). Lúc ấy, ông Philipphê mới xin được thấy Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Thánh nhân đã nói lên khát vọng sâu xa của loài người mà chưa bao giờ đạt được. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng xem thấy Người là xem thấy Chúa Cha. Tuy nhiên, con người chỉ xem thấy Chúa Cha, không phải bằng cặp mắt Người phàm, mà bằng cặp mắt đức tin qua việc Đức Giêsu nói và việc Ngài làm, vì Chúa Cha ở trong Người và thực hiện công trình của Người qua Chúa con (14,10b). Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô giải thích: “Lời xin của Philipphê không gây ngạc nhiên, bởi vì, được nhìn thấy Chúa Cha là cùng đích của mọi ước muốn và hành động của chúng ta thì không còn gì, làm cho chúng ta mãn nguyện hơn, như lời Thánh Vịnh: “Nhìn thấy dung nhan Chúa, lòng con khấp khởi mừng vui”.
*3. Người tín hữu sống Tin Mừng hôm nay như thế nào?
Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào Chúa Giêsu. Ngài chính là con đường, nghĩa là ai tin vào Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình cuộc đời của mình.
Thực vậy, trên thế giới không thiếu gì những con đường nổi tiếng, những xa lộ, những con đường siêu tốc. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến điểm hẹn. Nhưng trong cõi rộng mênh mông của cuộc đời, nhiều khi hành trình của chúng ta bị lạc hướng, nhiều khi chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn dừng chân, vì những chống đối, hiểu lầm, ghen ghét, kết án cứ bám chặt lấy cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, có một con đường được mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tình yêu để vươn lên sự sống; con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là “con đường mang tên Giêsu”.
Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả niềm tin gắn bó với Chúa Giêsu, để được sống và sống dồi dào do ân ban của Ngài, và để nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả tình yêu và phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường phục vụ và yêu thương. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.
Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatvphucsinha #suyniemloichuagpbr