CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN(*)– Chú giải của Noel Quesson. 6
TỪ NHẬN THỨC ĐẾN TRUYỀN GIÁO- Chú giải của Fiches Dominicales 14
ĐỨC TIN CỦA TÔMA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 20
KẾT QUẢ VIỆC ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 37
BÌNH AN CHO CÁC CON- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 45
PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN– ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm 56
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY…- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 62
BÌNH AN CHO ANH EM– Lm. Phạm Ngọc Ngôn. 65
TRAO BAN THẦN KHÍ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 70
CHỨNG NHÂN LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 73
PHÚC CHI AI KHÔNG THẤY MÀ TIN- Lm. Trần Khả. 77
CÁC VẾT SẸO– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 82
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tất cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người.
Hằng ngày họ hợp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ; họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng. Hằng ngày Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 2-4. 13-15. 22-24
Đáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Đức từ bi của Người muôn thuở”. – Đáp.
2) Tôi đã bị đẩy, bị xô cho ngã xuống, nhưng Chúa đã phù trợ tôi. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Đấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân. Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt.- Đáp.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Pr 1, 3-9
“Nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết. Lúc đó anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Đức Giêsu Kitô hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-A
ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN(*)– Chú giải của Noel Quesson
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần… các môn đệ khi đó tụ tập lại… Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà…
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách tự nhiên, chúng ta có xu hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó là với Tôma… bởi vì chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một người nào đó khó tin… và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính chúng ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật. Ngày thứ nhất trong tuần. Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thể luôn luôn ở với nhau được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đức tin là một công việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thử nghiệm, nhận biết, cảm thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,…hội họp lại… trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu hiện đến và ở giữa họ.
Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau… Họ tin cậy nhau. Có những vụ bỏ cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm… Họ cũng sợ… Họ cài chốt các cửa lại. Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân của Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma. Vâng, mỗi Chúa nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính Chúa đã làm cho chúng con được sống… Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chết cữa nhà một cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức tường trong nhà tù của chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này chúng ta hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khỏe, như những gò bó đau đớn và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp… Nơi mà ở đó họ đã gài then cửa!
Người nói với họ: “Bình an cho anh em!”.Nói xong Người cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: “Bình an cho anh em!”
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi trẻ ở đó đầy sức sống, khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ bản là thất vọng (cái chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật, giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh mục: “Bình an cho anh chị em!”. Và Công đồng Vatican II đã lập lại truyền thống xưa “hôn bình an: các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử chỉ tầm thướng… chính là “trở nên Đức Kitô” với người gần ta…, khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa họ.
“Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy cũng sai anh em..”
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế!chính Đức Kitô nói lại với chúng ta… Tôi, người đàn ông đáng thương người đàn bà đáng thương, tôi là “Giêsu” được sai đến cùng anh em tôi… đúng như Người đã được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi quá nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta: “sứ mệnh” của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần. Tôi được Đức Giêsu sai đi… như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ Latinh và Hy Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. “Sứ mệnh” có nghĩa “sự sai đi” (từ missus trong Latinh)… và “tông đồ có nghĩa là “người được sai đi” (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)…
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh Người, vì lợi ích của chính Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi còn phải nói với một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn… người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ và Người nói với các ông: “Anh em nhận lấy Thánh Thần”.
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới… Thần Khí của Đức Giêsu được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, “trở lại cùng với Cha”. Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người… họ đi theo công trình của Người: Thánh Phaolô sẽ nói: “Anh em là Thân thể Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7): “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spintua)”.
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ PS cái chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết, chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là điều mà chúng ta khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng thời mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. “Nhờ sự Phục Sinh Người được lập là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần”.
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha..”
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc… các tội lỗi. Lời lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ “tích cực”. Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của Thiên Chúa… như Đức Giêsu khi trước: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi, Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những người tù đầy ” (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang tinh thần đó, Thần Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó không ở với các ông, khi Đức Giêsu hiện đến… ông tuyên bố: “Nếu tôi không thấy… tôi sẽ không tin…”
Đấy là “người đến trễ, đến sau cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con người tích cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu” (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga11,15-16).
Tám ngày sau… Đức Giêsu lại đến: “Đặt ngón tay anh vào đây, hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa…”
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài? Người đã để cho Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính với một cách mỉm cười mà tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin… nhưng tôi vẫn ở đó, vô hình, có nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của Người.
Tôma nói: “Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con”.
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta, sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở đó.
Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin.
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể trông thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
TỪ NHẬN THỨC ĐẾN TRUYỀN GIÁO- Chú giải của Fiches Dominicales
*1.Từ Chúa nhật.
Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này – năm nào ta cũng đọc lại – đưa ta đến “Sau cái chết của Đức Giêsu” buổi chiều “ngày thứ nhất trong tuần, ngày qui tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Chúa hiện diện giữa cộng đoàn mà Người qui tụ để chia sẻ Lời và Bánh, và để sai họ đi vào thế giới.
Trong trình thuật, ta gặp lại 3 thời gian đặc biệt của tiến trình phục sinh.
– Sáng kiến của Đấng Phục Sinh “đến” thăm.
– Nhận biết Đức Giêsu đang sống thắng vượt cái chết.
– Sứ mệnh nhận từ Đấng Phục Sinh.
Các môn đệ hội họp ở một nơi mà các cửa đều đóng kín vì họ sợ người Do Thái, tức là chức quyền tôn giáo ở Giêrusalem. Có lẽ qua việc xác định rõ ràng này, tác giả muốn nói tới cảnh bắt bớ mà những người nghe Phúc âm phải chịu: bị loại ra khỏi Hội Đường vì họ nhận Đức Giêsu là Kitô. Dần dà, họ tìm những địa điểm họp riêng, tránh ánh mắt của những kẻ bắt bớ. Trong lúc họ họp nhau, Đức Giêsu tới với họ “Đức Giêsu đến và ở giữa họ”. Lời đầu tiên của Người là lời chúc bình an. “bình an cho các con” (Shalom). Ơn cứu độ không chỉ là một lời chúc lịch sự, nhưng là ơn cứu độ có hiệu quả, của niềm vui, và niềm bình an.
Nhận Đức Giêsu sống vượt qua cái chết.
Đức Giêsu cho họ xem: “Tay và cạnh sườn Người (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan). Marchadour bình luận: “Dấu vết của việc đóng đinh trên tay và cạnh sườn Đức Giêsu chứng tỏ rằng, dù những điều kiện lạ lùng trong các cuộc tỏ mình ra của Đức Giêsu, tác giả Phúc âm không muốn các độc giả lầm Chúa với một bóng ma, nghĩa là một người khác với Đấng chịu đóng đinh. Chắc chắn, sự hiện diện thể lý bình thường của Đức Giêsu không còn nữa, nhưng Đấng ngự giữa họ vẫn là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã biết và đã yêu, nhưng từ nay đã biến hình đổi dạng qua cuộc phục sinh. Sợ hãi tiêu tan, các môn đệ tràn đầy niềm vui.
Sứ mệnh nhận từ Đấng phục sinh.
Sự hiện ra của Đấng phục sinh không có một mục đích tự thân. Nó khai mở ra một sứ mệnh: sai đi, với sức mạnh của Thánh Linh, đem cho mọi người Tin Mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa. “Như Cha đã sai Thầy thế nào, Thầy cũng sai các con như vậy”. Nói thế rồi Người rồi thổi hơi trên các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha…”
A.Marchadour bình luận: Đó không phải chỉ là một so sánh, đó chính là một nền tảng, một cội rễ. Các môn đệ được sai đi (nguyên ngữ là: trở thành tông đồ) để nối dài hoạt động của Đức Giêsu… Như Thiên Chúa đã thổi hơi thần khí của Người vào Ađam (St 2,7), như Thánh Thần xuống trên Đức Giêsu (1,33-34), Đức Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn phong làm Đức Chúa, cũng thổi hơi cùng một động từ như ở (St 2,7) sức mạnh của Thánh Thần trên các tông đồ… Như Thiên Chúa, rồi như Đức Giêsu kẻ được Thiên Chúa sai đi, các môn đệ tha thứ tội lỗi nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong sức mạnh của sự chết của Đức Giêsu.
*2. Tới Chúa nhật.
Sự vắng mặt của Tôma vào ngày thứ nhất trong tuần cho phép tác giả Phúc âm dẫn nhập vào màn kế tiếp, “tám ngày sau”. Típ người tiêu biểu cho sự cứng lòng, ông từ chối xếp mình vào hàng ngũ chứng nhân của các tông đồ khác và ông nghi ngờ Đức Giêsu phục sinh: ông đòi “thấy” và “sờ” rồi mới “tin”.
Thế là Đức Giêsu đến một lần nữa, ngôn ngữ dùng miêu tả cũng như lần hiện ra trước. Đức Giêsu lại hiện diện, dù các cửa đều “khoá chặt”. Lại một lần nữa, Người gởi lời chào phục sinh: “Bình an cho các con”. Một lần nữa, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Hơn nữa, Người nói với Tôma, nhấn mạnh đến tính cách liên tục và tính cách mạch lạc giữa tình trạng bị đóng đinh và tình trạng vinh hiển hiện tại: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy xem tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy. Gérard Bessière thắc mắc: “Người tông đồ cứng lòng tin ấy có làm như thế không. Từ lâu người ta đầy tranh cãi về điều ấy. Những bức hoạ thường chỉ vẽ Tôma đang giơ tay về phía những vết thương. Điều quan trọng ấy là lời nói thốt ra: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Và đây tìm lại được đức tin, Tôma kẻ cứng lòng đã tặng Đức Giêsu danh hiệu lớn lao nhất của cả Phúc âm: “Lạy Chúa là Thiên Chúa tôi”. “Một đỉnh cao mà các định nghĩa tín lý sau này không vượt qua nổi. Giữa “Ngôi Lời là Thiên Chúa” ở khởi đầu (1,1) và lời tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa”, không còn gì để nói thêm nữa. Càng rõ ràng hơn nữa khi kẻ làm chứng về chân lý này lại là kẻ không muốn tin vào lời chứng của các tông đồ.
- Cho tới Chúa nhật hôm nay
Màn kịch kết thúc bằng một mối phúc hứa ban cho những ai sống trong thời đại vắng bóng sự hiện diện thể lý của đức Giêsu, là chính chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin. Mối phúc cuối cùng của eáe Phúc âm, mối phúc của những kẻ tin. A. Marchadour nói tiếp: Đó là câu kết luận của cả cuốn Phúc âm và nhấc lại một chủ đề lớn trong Do Thái giáo: Giữa điều thấy và điều tin, cảnh tượng và lắng nghe, sự trình bày và lời lẽ, chính từ thứ 2 tạo nên điều kiện bình thường và lý tưởng của tín hữu. Ngay cả những kẻ đã thấy cũng phải tin vượt quá điều họ thấy. Ngôi Lời, ngay từ phút giây trở thành “nhục thể” đã chỉ cho các môn đệ thấy “nhục thể” nghĩa là nhân tính nơi lẽ ra ta phải “thấy Thiên Chúa tỏ mình ra trong vinh quang”. Chúng ta thật phúc đức những người tiếp nhận Phúc âm. Chúng ta không thấy, nếu, do lời chứng của các tông đồ mà ta gắn bó với Đức Kitô và trở thành tín hữu.
BÀI ĐỌC THÊM
Sai đi như Chúa Cha đã sai.
Phòng đóng kín, Đức Giêsu đột ngột hiện ra giữa các môn đệ, ba lời vắn vỏi: bình an, Thánh Thần, tha tội. Ở đây các môn đệ sợ người Do Thái chứ không sợ ma. Trái lại, họ tràn đầy niềm vui. Sao họ có thể dè dặt về căn tính của Đấng hiện ra, vì Người đã cho họ xem thấy và cạnh sườn Người? Đức tin vào sự phục sinh phát sinh từ khám phá này, cũng với niềm bình an và niềm vui được gặp lại Người, 2 món quà của thời đại Messia mà Người đã hứa cho họ. Theo Gioan và Luca, sự hiện diện của Người không có mục đích đưa họ trở lại quá khứ nhung nhớ: Đức Giêsu “sai” họ như Cha Người đã sai Người. Họ trở nên “Tông đồ” của Người. Để tấn phong, người thổi hơi, nghĩa là ban Thánh Thần của Người cho họ theo 2 nghĩa của từ ngữ bằng tiếng Do Thái và Hy lạp. Theo Gioan, thổi hơi liên hệ đến việc ban phát hào sóng Thánh Thần mà Luca đặt vào thời điểm 50 ngày sau, trong lễ Hiện Xuống. An ban Thánh Thần cho phép họ tha thứ tội lỗi mà theo Gioan, chủ yếu là tội từ chối tin Đức Giêsu là Con Chúa Cha. Ai tuyên xưng Người sẽ được tha tội, vượt qua cái chết đến sự sống. Sứ mạng của các tông đồ là loan báo tha tội này nhân danh Đức Giêsu.
Chiêm ngắm Đức Giêsu trong “tấm gương” đức tin của những kẻ đã thấy.
Đức Giêsu tuyên bố từ nay sẽ là chế độ đức tin. Người đã tỏ mình ra trong vinh quang phục sinh cho các tông đồ và các môn đệ. Họ sẽ là những chứng nhân ưu tuyển đã thấy trước điều mai sau sẽ tỏ ra cho mọi người: khi chúng ta thấy- Người diện đối diện, ta sẽ nhận ra Đấng đã cho ta xỏ ngón tay vào vết thương trên bàn tay và ở cạnh sườn người. Trong khi chờ đợi ngày mạc khải chung cuộc ta tìm thấy sự bảo đảm và niềm vui của đức tin trong chứng từ của các môn đệ đầu tiên. Phúc cho những ai không thảy mà tin. Ta tin khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong tấm gương đức tin của những chứng nhân đã thấy Chúa, cho dù đối với ta sự phục sinh vẫn là một điều khó hiểu. Nếu ta tiếp nhận phép lạ phục sinh trong sự vững vàng tăm tối của đức tin, một ngày kia Đấng phục sinh sẽ tỏ mình cho ta, và ta sẽ phải kêu lên như Tôma: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH- A
ĐỨC TIN CỦA TÔMA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, một thời đại mới bắt đầu. Vì thế, Chúa Nhật II Phục Sinh gợi lên:
Cv 2: 42-47
-Trước hết, cuộc sống mẫu mực của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi.
1Pr 1: 3-9
-Đoạn, cuộc sống nội tâm của người Ki-tô hữu thường hằng được biến đổi bởi niềm hy vọng bao la.
Ga 20: 19-31
-Sau cùng, các Tông Đồ đã thay đổi, từ thất vọng và nghi ngờ đến niềm vui và đức tin, khi gặp gỡ Đức Giê-su đã sống lại và đang sống.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 42-47)
Trong suốt Mùa Phục Sinh, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Tác phẩm nầy của thánh Lu-ca, tiếp theo sau sách Tin Mừng của ngài, cấu tạo nên, cùng với các thư của thánh Phao-lô, chứng liệu cốt yếu về cuộc sống của Giáo Hội tiên khởi.
Thánh Lu-ca là một lương dân gốc Hy-lạp trở lại đạo. Thánh nhân kinh ngạc trước sức lan tỏa quá nhanh chóng của Ki-tô giáo. Vì thế, thánh nhân tìm kiếm lời giải thích và khám phá câu giải đáp: trước tiên, ở nơi tác động của Chúa Thánh Thần (sách “Công Vụ Tông Đồ” cũng được gọi là sách “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”), nhưng cũng ở nơi lời chứng mạnh mẽ của các Tông Đồ và đời sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Thánh Lu-ca phác họa ba bức tranh mô tả đời sống của các Ki-tô hữu tiên khởi, chắc chắn được lý tưởng hóa khá nhiều, nhưng thánh nhân muốn đưa ra một khuôn mẫu và thúc đẩy mọi người cùng nhau ra sức sống lý tưởng Ki-tô giáo. Thật ra cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, cộng đồng Giê-ru-sa-lem, đã sống mạnh mẽ niềm tin của mình, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của các Tông Đồ.
Vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm A này, chúng ta chiêm ngắm bức tranh thứ nhất (Cv 2: 42-47), bức tranh thứ hai (Cv 4: 32) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm B, và bức tranh thứ ba (Cv 5: 12) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm C. Bằng những đường nét đặc trưng, thánh Lu-ca tổng hợp bầu nhiệt huyết của cộng đoàn Ki-tô hữu cách tuyệt vời: chuyên cần lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ, luôn luôn sống hiệp thông huynh đệ, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Tác giả trở lại trên những điểm khác nhau nầy, theo nguồn cảm hứng của mình, chứ không theo trình tự hợp lý.
*1.Chuyên cần lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ:
Thánh Lu-ca đặt ưu tiên giáo huấn của các Tông Đồ. Chính trên lời chứng của các ngài mà niềm tin của Giáo Hội tựa vào. Giáo huấn nầy, được lặp đi lặp lại không ngừng, sẽ là nền tảng của việc soạn thảo các sách Tin Mừng sau nầy.
“Mọi người đều đem lòng kính sợ, vì thấy các Tông Đồ làm nhiều việc phi thường, cùng nhiều dấu lạ”. Quả thật, sách Công Vụ kể lại một số những việc phi thường để bảo đảm cho giáo huấn của các ngài. Những phép lạ nầy cho thấy có một sự nối kết liên tục giữa hoạt động của các Tông Đồ và hoạt động của Đức Giê-su.
*2.Luôn luôn sống hiệp thông huynh đệ:
Chắc chắn thánh Lu-ca mượn thuật ngữ “hiệp thông” (“koimonia”) từ thánh Phao-lô, vì từ ngữ này chúng ta không bao giờ gặp thấy trong các sách Tin Mừng, nhưng thánh Phao-lô sử dụng nhiều lần. Vả lại, thánh Lu-ca sử dụng từ ngữ này chỉ một lần ở nơi nầy.
Từ “hiêp thông” này, trước hết chỉ ra mọi người “đồng tâm nhất trí”. Sách Công Vụ nhấn mạnh các Ki-tô hữu tiên khởi “một lòng một ý” với nhau. Từ “hiệp thông” nầy cũng hàm chứa ý tưởng tương thân tương ái: “Họ để mọi sự làm của chung; họ đem bán của cải đất đai, lấy tiền chia cho nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi người”. Thánh Lu-ca sẽ khai triển “cộng đoàn bỏ mọi sự làm của chung” nầy trong bức tranh thứ hai: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4: 32). Chúng ta đừng quên rằng thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về đức nghèo khó vật chất. Về khía cạnh này, thánh nhân nhấn mạnh giáo huấn của Đức Ki-tô và thích nhắc nhớ rằng lý tưởng Tin Mừng đã được thực hành ngay từ buổi đầu.
Như đa số các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, cộng đoàn Giê-ru-sa-lem có lẽ đa số thuộc tầng lớp xã hội nghèo hèn, trong đó vài người thậm chí sống trong cảnh túng thiếu, như trường hợp các bà góa, nếu không được trợ cấp sẽ phải lâm cảnh ngặt nghèo như được nêu lên sau nầy (Cv 6: 1).
Thật ra, truyền thống Do thái giáo đã thực hiện tình tương thân tương ái như vậy rồi, đặc biệt ở Giê-ru-sa-lem. Hễ vào áp lễ sa-bát, người ta phân phát thực phẩm cho những người nghèo khổ nhất. Có lẽ cộng đoàn Ki-tô hữu được gợi hứng từ tổ chức nầy và đã mở rộng ra cho đến việc đặt mọi sự đều là của chung và hưởng theo nhu cầu hằng ngày. Nhưng điều cốt yếu chính là tinh thần mới chi phối việc tương thân tương ái triệt để nầy: tinh thần huynh đệ chân thật ở đó không còn có những phân chia giai cấp xã hội và ở đó mọi người đều coi nhau là “anh chị em”.
Cuối cùng, ở nơi sự hiệp thông mà những Ki-tô hữu tiên khởi sống, chúng ta nhận thấy một sắc thái cánh chung: chờ đợi cuộc tụ họp sau cùng. Đây là niềm hy vọng không thể nào chối cãi ở giữa lòng thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi.
*3.Siêng năng tham dự lễ bẻ bánh:
Các tín hữu “siêng năng tham dự lễ bẻ bánh”, đây là diễn ngữ thánh Lu-ca thường dùng để chỉ “bàn tiệc Thánh Thể”.
Việc cử hành nầy, diễn ra trong các tư gia, bao gồm cầu nguyện và rao giảng (chúng ta biết như vậy nhờ những đoạn Công Vụ Tông Đồ khác). Thánh Lu-ca phân biệt rất rõ nét giữa bữa ăn hằng ngày với“lễ bẻ bánh”: “Còn lễ bẻ bánh thì làm tại tư gia, và họ ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ”. Tuy nhiên, tự nguồn gốc, dường như bàn tiệc Thánh Thể đã được liên kết với một bữa ăn. Chúng ta đừng quên rằng vào lúc đó những Ki-tô hữu đầu tiên đều xuất thân từ Do thái giáo; ấy vậy, bữa ăn Do thái luôn luôn mặc lấy tính chất thánh thiêng, nhất là bữa ăn tối, bữa ăn chính trong ngày. Sẽ không còn như vậy nữa khi những người Ki-tô hữu gốc lương dân gia nhập Giáo Hội mỗi ngày thêm đông. Những bữa ăn nầy mất đi tính chất thánh thiêng của nó; sẽ còn có những lạm dụng như thánh Phao-lô tố cáo tại cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô (1Cr 11); vì thế, phải tách riêng bữa ăn của Chúa ra khỏi bữa ăn thường ngày. Sự phân biệt nầy được thực hiện trong bản văn này của thánh Lu-ca. Ở nơi khác, thánh ký cũng kể ra việc chuẩn bị bàn tiệc Thánh Thể kèm theo việc chay tịnh: “Một hôm, đang khi họ cử hành việc thờ phượng Chúa và ăn chay…” (Cv 13: 2).
Thánh Lu-ca nhấn mạnh niềm vui ngự trị ở nơi các bữa ăn nầy. Dụng ngữ có một âm vang tôn giáo. Đây cốt yếu là một niềm vui thánh thiện chứ không niềm vui phàm tục (vả lại, những bữa ăn nầy thì đạm bạc do cộng đoàn đóng góp). Chúng ta biết rồi, trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca luôn luôn nhấn mạnh niềm vui mà lời loan báo Tin Mừng đem lại. Trong sách Công Vụ cũng thế, đây thật sự là niềm vui thời thiên sai.
*4.Cầu nguyện không ngừng:
Cuối cùng, trong đời sống Ki-tô hữu chính thống, điểm nồng cốt là cầu nguyện: “Họ chuyên tâm cầu nguyện”. Trước hết, đây là những lời cầu nguyện đặc thù Ki-tô giáo được cất lên giữa cộng đoàn. Nhưng ở đoạn cuối, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc các Ki-tô hữu tham dự những kinh nguyện hằng ngày với các tín hữu Do thái trong Đền Thờ: hai lần mỗi ngày đều có những kinh nguyện và lễ toàn thiêu trên bàn thờ vào lúc chín giờ sáng và vào lúc ba giờ chiều.
Ngay liền sau đoạn văn hôm nay, thánh Lu-ca viết: “Một hôm, ông Phê-rô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín” (tức ba giờ chiều). Vào lúc nầy, chưa xảy ra đoạn tuyệt giữa Do thái giáo với Ki-tô giáo. Trái lại, tâm tình của các Ki tô hữu tiên khởi tiếp nối các tín đồ Do thái giáo khi đặt Đức Giê-su vào cương vị của sự nối tiếp này. Các Tông Đồ chân thành tự đặt mình giữa anh em đồng đạo Do thái giáo của mình: “Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến”. Thánh Lu-ca kết thúc bức tranh thứ nhất về đời sống của người Ki-tô hữu tiên khởi bằng cách ghi nhận rằng mỗi ngày số lượng người gia nhập đạo càng gia tăng: “Và Chúa đã cho số người được cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày thêm đông”.
BÀI ĐỌC II (1Pr 1: 3-9)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô. Thư nầy sẽ được tiếp tục đọc trong suốt bốn Chúa Nhật liên tiếp. Thánh Phê-rô viết thư này gởi cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á, họ gặp phải những khó khăn và trải qua những gian nan thử thách. Vì thế, vị thủ lãnh Giáo Hội viết thư để khích lệ họ. Thư này, thánh nhân viết từ Rô-ma vào khoảng năm 63 hay 64, cốt là một loạt những lời khuyên bảo luân lý, đặt nền tảng trên những nhắc nhở đạo lý.
Hôm nay, chúng ta đọc phần đầu của Thư nầy. Ngay sau địa chỉ và lời thăm hỏi thường lệ, chủ đề là niềm hy vọng xuất phát từ cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô.
*1.Chúc tụng Thiên Chúa, Thân Phụ Đức Giê-su:
Thánh Phê-rô bắt đầu lời khuyến dụ của mình với biểu thức đặc thù Do thái: “Chúc tụng Thiên Chúa!”. Thánh Phao-lô cũng bắt đầu thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô và thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô với cùng biểu thức “chúc tụng” như vậy. Lời chúc tụng của dân Ít-ra-en là tiếng kêu đầy thán phục và biết ơn đối với những ân huệ Thiên Chúa ban. Việc con người chúc tụng Thiên Chúa xem ra khác thường. Thật ra, lời chúc tụng bao gồm một chuyển động kép: những ân ban đến từ Thiên Chúa và tiếng reo vui của người thụ hưởng.
Tuy nhiên, trong khi dân Ít-ra-en chúc tụng Thiên Chúa của các tổ phụ là Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp, thì vị Tông Đồ chúc tụng Thiên Chúa, “Thân Phụ Đức Giê-su”. Thiên ân đầu tiên đáng chúc tụng là “ơn tái sinh” mà cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô ban cho chúng ta. Chắc chắn đây là lời ám chỉ trực tiếp đến phép Thánh Tẩy. Lời mào đầu nầy rất giống với bài giảng về phép Thánh Tẩy, cho dù văn mạch có một tầm mức khái quát hơn.
*2.Niềm hy vọng Ki-tô giáo:
Đối tượng của niềm hy vọng Ki-tô giáo là “gia tài không thể hư hoại”. Diễn ngữ: “gia tài” trong Cựu Ước được dùng để chỉ trước tiên Đất Hứa, đất Ca-na-an, sau đó được hiểu theo nghĩa bóng là vương quốc thời Thiên Sai, vương quốc sắp đến; từ nay, vương quốc nầy được dành sẵn cho các Ki-tô hữu. Đây là một niềm hy vọng “sống động” được đặt nền tảng trên sự kiện Phục Sinh của Đức Giê-su.
Thánh Phê-rô mượn hình ảnh quân sự: “được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ,” như người lính canh gìn giữ thành phố khỏi mọi cuộc tấn công từ bên ngoài.
“Hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ tỏ bày ra trong ngày sau hết”. Viễn cảnh cánh chung nầy, được xem như rất gần, là một nét đặc trưng đối với thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi, họ sống trong niềm hy vọng vào ngày Quang Lâm của Đức Ki-tô sắp đến.
Sau khi đã đặt những nền tảng của niềm hy vọng và xác định đối thượng của nó, vị thủ lãnh Giáo Hội chỉ cho thấy những thành quả của nó: đức kiên vững trong những gian truân và thậm chí niềm vui khôn tả ở giữa những gian nan thử thách.
*3.Kiên vững trong đức tin:
Thánh Phê-rô mời gọi các tín hữu của mình, khi đối mặt với “trăm chiều thử thách,” phải kiên tâm bền chí trong đức tin.Những gian nan thử thách này được xác định ở Cv 3: 15-18. Đức tin được tinh luyện khi trải qua lò đau khổ. Đức kiên vững của anh em sẽ là nguồn mạch “vinh quang và danh dự”, khi “Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện” vào ngày chung thẩm. Vì thế, đối với người Ki-tô hữu, thời gian thử thách vẫn là thời gian chan chứa niềm vui.
*4.Đức tin và niềm vui:
Thánh Phê-rô liên kết một cách mạnh mẽ niềm vui và đức tin. Thánh nhân nhắc lại điều này đến hai lần: “Anh em hãy hớn hở vui mừng” và “lòng chan chứa niềm vui khôn tả”. Niềm vui phát sinh từ niềm xác tín vào ơn cứu độ, ơn cứu độ nầy là ân huệ của Chúa Cha và được cuộc Phục Sinh của Đức Kitô đảm bảo. “Lời chúc tụng” ban đầu cũng đã xác định như vậy.
Thánh Tông Đồ đã sống trong ân nghĩa mật thiết với Đức Giê-su, vì thế thánh nhân hiểu rõ hơn ai hết rằng một niềm tin mà dựa trên lời chứng của kẻ khác thì quả thật khó khăn hơn nhiều. Vì thế, thánh nhân tỏ lòng kính trọng niềm tin của những tín hữu: “Anh em chưa bao giờ thấy Người, mà vẫn yêu mến, chưa được giáp mặt, nhưng lòng vẫn kính tin”. Đó cũng là lời chúc phúc của Đức Giê-su mà Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời chúc phúc khác: “Phúc thay cho anh em khi người ta bách hại anh em vì Thầy”, được ẩn chứa trong những lời khuyến dụ của thánh Phê-rô và chạy xuyên suốt bức thư này. Đây là niềm vui đặc thù của người tín hữu, niềm vui mà thánh Phao-lô kêu gào giữa những gian nan thử thách của mình. Chesterton nói: “Niềm vui là bí ẩn vĩ đại của Kitô giáo”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)
Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: Đức Giê-su của niềm tin đích thật là Đức Giê-su của lịch sử. Các Tông Đồ chứng thực biến cố Phục Sinh, hơn nữa, nhờ vào sự cứng tin của một trong số họ, các ngài được hưởng một sự kiểm chứng vài ngày sau đó.
Theo truyền thống, đoạn Tin Mừng này được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, vì thánh ký nói với chúng ta rằng Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau đó”. Quả thật, chúng ta đọc bài trình thuật thành hai giai đoạn: Chúa Giê-su hiện ra cho mười Tông Đồ đúng vào chiều Phục Sinh (20: 19-25), và Ngài hiện ra đặc biệt cho thánh Tô-ma một tuần sau đó (20: 26-29).
*1.Đức Giê-su phục sinh hiện ra cho mười Tông Đồ (20: 19-25):
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”, tức là đúng vào buổi chiều biến cố Phục Sinh. Việc chỉ rõ thời điểm này rất quý: “ngày thứ nhất trong tuần”, tức là ngày mà những người Ki-tô hữu tiên khởi đã chọn rất sớm cho những buổi hội họp của họ, như vậy nhấn mạnh tính cách Phục Sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Chúa Giê-su xuất hiện cho thánh Tô-ma tám ngày sau đó, cũng được định vị vào “ngày thứ nhất trong tuần”.
Các Tông Đồ cùng nhau quy tụ lại, chỉ có mười vị, vì vắng mặt thánh Tô-ma, thánh nhân xem ra đã không tha thiết gì đến cuộc tụ họp này. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ các ông để thông báo cho các ông biết những biến cố vừa mới xảy ra: khám phá ngôi mộ trống, chứng kiến đồ liệm được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, những lời chứng của các người phụ nữ, trong số đó bà Ma-ri-a Mác-đa-la quả quyết là mình đã đích thân gặp Đức Giê-su và Ngài đã nói với bà.
Chúng ta đoán các Tông Đồ đã gặp nhau trong bầu khí vừa nghi nan vừa hy vọng, còn cả sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. “Người Do thái” trong Tin Mừng Thứ Tư, trước tiên chỉ rõ những nhà lãnh đạo Do thái tại Giê-ru-sa-lem. Những người này đã kết án tử Thầy của họ, phải chăng bây giờ họ đang truy lùng các môn đệ của Ngài?
Và này Đức Giê-su bất ngờ hiện ra giữa các ông dù cửa đóng then cài; Ngài hiện diện ở giữa lòng nỗi sợ hãi và xao xuyến của các ông, như Ngài đã đồng hành bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau. Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ biến thành niềm vui.
*A-Bình an cho anh em:
Đây là lời chào hỏi thông thường theo tập quán của dân Ít-ra-en (“Shalom”), nhưng lời chào từ mội miệng của Đấng Phục Sinh không bao giờ đơn thuần là lời chào hỏi thông thường. Đức Giê-su đem đến sự bình an của Ngài mà Ngài đã hứa cho những môn đệ này, những người đã bỏ rơi Ngài vì chán nãn và thất vọng. Ngài đem đến sự bình an qua sự hiện diện thân tình của Ngài và sự tha thứ của Ngài: không một lời quở trách, không một ám chỉ đến những khuyết điểm của họ, ngay cả họ đã bỏ mặc Ngài một mình trong cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài.
Để giúp họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho các ông xem những vết thương của Ngài như chiến tích khải hoàn và như chứng thực thân thể phục sinh của Ngài đồng nhất với thân thể khổ nạn của Ngài.
Ở đây chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, không có một thân xác bị hư hoại trong mồ; mặt khác, không là một bóng ma hiện ra cho các môn đệ, nhưng là một thân thể duy nhất, đang sống, có thể đụng chạm, mang lấy những vết thương của cuộc khổ hình. Không nghi ngờ gì nữa, “lúc đó, các ông vui mừng”.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nói: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”, trong khi thánh Lu-ca, trong bài trình thuật song đối, viết: “Người đưa tay chân cho các ông xem” mà không kể ra vết thương ở cạnh sườn của Ngài. Thánh Gioan là người môn đệ duy nhất đã kể ra chi tiết về một người lính Rô-ma lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn của Đức Ki-tô; thánh nhân đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân huệ cuối cùng của Chúa Ki-tô sau khi đã chết. Thánh Gioan đã thấu hiểu ở nơi sự kiện này một dấu chỉ biểu tượng: dấu chỉ về việc sinh hạ Giáo Hội bởi phép Thánh Tẩy và phép Thánh Thể. Ở trong bài trình thuật hôm nay, thánh Gioan nhấn mạnh thêm một lần nữa. Nói một cách chính xác, Giáo Hội sẽ sinh ra, vào buổi chiều Phục Sinh, trong hơi thở Thần Khí và qua việc sai các Tông Đồ ra đi thi hành sứ vụ.
*B-Sai đi thi hành sứ mạng:
Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan nhấn rất mạnh khía cạnh này của con người Đức Giê-su: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến. Đó là lý do tại sao thánh ký không bao giờ ban cho các môn đệ danh xưng “Tông Đồ”, vì danh xưng này có nghĩa “người được sai đi”. Chỉ một mình Đức Giê-su xứng đáng với danh xưng này bởi vì Ngài là Đấng duy nhất được Chúa Cha sai đi, nhưng bây giờ Đấng Phục Sinh lại sai các môn đệ của mình ra đi tiếp nối sứ mạng của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Như vậy, theo Tin Mừng Gioan, Chúa Cha là nguồn sai đi của Chúa Giê-su, còn Đức Giê-su Phục Sinh là nguồn sai đi của các môn đệ Ngài.
Có một mâu thuẫn đáng ngạc nhiên cho những người môn đệ này. Họ đang giam mình giữa bốn bức tường, trong căn phòng cửa đóng then cài, thu mình lại trong sợ hãi; ấy vậy, Đức Giê-su truyền lệnh ra đi thi hành sứ mạng: gặp gỡ và loan báo Tin Mừng cho hết mọi người không trừ một ai, như Ngài đã hứa.
Thánh Mát-thêu đặt việc sai đi thi hành sứ mạng vào cuối sách Tin Mừng của mình, ở đó Đức Giê-su công bố: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28: 19). Tuy nhiên, việc sai đi thi hành sứ mạng trong Tin Mừng Gioan còn long trọng hơn nhiều trong Tin Mừng Mát-thêu.
*C-Hơi thở Thần Khí:
Trong Tân Ước, diễn ngữ này chỉ được gặp thấy ở đây: “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông…”. Động từ được dùng ở đây được gặp thấy trong đoạn văn của sách Sáng Thế về cuộc sáng tạo con người: Đức Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một sinh linh” (St 2: 7; Kn 15: 11), cũng như trong bản văn Ê-dê-ki-en về sự hồi sinh của các bộ xương khô: “Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Chúa Giê-su làm cho các môn đệ Ngài trở thành những con người mới và ban cho họ quyền tha thứ tội lỗi, quyền này cho đến nay chỉ thuộc về Thiên Chúa.
*D-Tha thứ tội lỗi:
Thánh Gioan diễn tả quyền nầy theo biểu thức sê-mít: “tha thứ hay cầm giữ”. Thánh Mát-thêu sử dụng một cặp đối nghịch tương tự: “cầm buộc hay tháo cởi” (Mt 16: 19; 18: 18).
“Tha thứ hay cầm giữ”, “cầm buộc hay tháo cởi” là những biểu thức được Do Thái giáo dùng để cấm hay buộc. Các biểu thức nầy chỉ ra rằng các vị lãnh đạo Do thái được quyền khai trừ hay hội nhập một tín đồ vào cộng đoàn. Đức Giê-su mở rộng vô cùng tận ý nghĩa của biểu thức này. Cốt yếu là quyền tha tội được trao ban cho Giáo Hội. Chúng ta đừng hiểu lầm biểu thức Do thái này. Biểu thức Do thái có chủ ý sử dụng cặp đối xứng giữa khía cạnh khẳng định (tha thứ) và khía cạnh phủ định (cầm giữ), khía cạnh thứ hai không có cùng giá trị với khía cạnh thứ nhất, nhưng nhằm mục đích tăng cường khía cạnh thứ nhất. Vì thế, biểu thức này không hệ tại ở nơi việc hạn chế ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngoài ra, Giáo Hội có thể “cầm giữ” một tội nhân trong khi mong chờ sự ăn năn hối cải hữu hiệu hơn.
Tha thứ tội lỗi là thành quả cốt thiết phát sinh từ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Chính đó là lý do tại sao thánh Gioan đặt việc Đức Kitô trao ban ơn tha tội ngay từ lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ Ngài. Tại thánh Lu-ca, Đức Giê-su nhắc lại cho các môn đệ ân huệ này, ngay trước khi lên trời: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24: 45-47).
*2.Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho thánh Tô-ma (20: 26-29):
Chắc chắn thánh Tô-ma đã gắn bó mật thiết với Chúa Ki-tô; thánh nhân đã yêu mến Ngài và đã tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng, với cả bầu nhiệt huyết, thánh nhân đã dõng dạc tuyên bố: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11: 16). Nhưng ông đã không mong chờ một cái chết ô nhục trên thập giá; cái chết này đã làm ông vỡ mộng. Nỗi thất vọng, buồn phiền đã khiến ông tách riêng một mình với các bạn đồng môn. Vốn là một con người thực tế, xưa kia ông đã đặt cho Đức Giê-su một câu hỏi thiết thực và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14: 5), bây giờ ông từ chối tin vào sự Phục Sinh nếu không có bằng chứng được ông đích thân kiểm chứng. Chúng ta hiểu thánh nhân. Chúng ta nhận ra con người Tô-ma đang ngủ trong chính bản thân của chính chúng ta: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
*A-Đức tin của thánh Tô-ma:
Đức Giê-su động lòng thương người môn đệ đầy nhiệt huyết đang đắm mình trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác hoan hỉ mừng vui; vì thế, Ngài sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Chắc hẳn thánh Tô-ma đã không làm như thế, vì trái với cung giọng của Tin Mừng Gioan. Đúng hơn phải lập lại những gì thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi vừa mới bước chân vào ngôi mộ: “Ông đã thấy và đã tin”. Cũng vậy, thánh Tô-ma đã ngộ ngay lập tức trước bằng chứng mà Đấng Phục Sinh đã trưng ra cho ông thấy mà không cần phải kiểm chứng. Lập tức, ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.
*B-Đức tin của thánh Tô-ma và đức tin của các tín hữu mọi thời:
Trong các sách Tin Mừng, đây là “lần đầu tiên” tước hiệu “Thiên Chúa” được ban cho “Đức Giê-su”. Thử hỏi còn dấu lạ nào bày tỏ Thần Tính của Ngài rực rỡ hơn sự Phục Sinh của Ngài? Lời cảm thán rất riêng tư của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông vì Đức Ki-tô đã quan tâm đặc biệt đến ông, Ngài không bỏ mặc ông trong nỗi thất vọng và phiền muộn.
Chúa Giê-su nói: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin”. Đoạn, nghĩ đến những người đã không bao giờ được diễm phúc như ông, Chúa Giê-su ngỏ lời với đám đông những tín hữu của mọi thời: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Nhưng lời chúc phúc này, mối phúc độc nhất của Tin Mừng Gioan, trước hết, rõ ràng dựa trên lời chứng của Nhóm Mười Một, mà lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất.
KẾT QUẢ VIỆC ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Kết quả việc Ðức Giêsu phục sinh trong cuộc sống của các tín hữu.
*I. Dẫn vào Thánh lễ
Sau tuần bát nhật lễ Phục sinh, có lẽ chúng ta nghĩ rằng thế là xong, chúng ta trở về với cuộc sống đơn điệu nhàm chán. Nghĩ thế là lầm, Ðức Giêsu sống lại không phải chỉ là một biến cố diễn ra một lần rồi hết, nhưng ảnh hưởng đến suốt cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải tiếp tục đào sâu đức tin và tận hưởng niềm vui của đức tin này.
*II. Gợi ý sám hối
Mặc dù là thành phần của cộng đoàn những người tin, nhưng nhiều khi chúng ta thờ ơ không quan tâm đến những người khác.
Mặc dù thừa hưởng niềm hy vọng sống động, nhưng đôi khi chúng ta buồn chán, thất vọng.
Mặc dù được Chúa Thánh Thần tác sinh, nhưng nhiều khi chúng ta lại kém lòng tin.
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I: Cv 2,42-47
Cuộc sống thắm tình huynh đệ của cộng đoàn tín hữu sơ khai có những nét sau:
Một cộng đoàn phượng tự: việc phượng tự này gồm lời giáo huấn của các tông đồ và Thánh lễ (lễ bẻ bánh).
Một cộng đoàn bác ái: việc bác ái được thể hiện cụ thể bằng việc mọi người tự nguyện để tài sản riêng thành của chung.
Một cộng đoàn mở cửa: cộng đoàn tín hữu sơ khai không khép kín trong nội bộ, nhưng mở rộng cửa trong việc duy trì liên hệ với đồng bào do thái (họ vẫn lên đền thờ Giêrusalem) và “được mọi người mến thương”.
Kết quả của nếp sống này là ảnh hưởng truyền giáo mạnh: “Số người gia nhập công đoàn ngày càng tăng”.
*2. Ðáp ca: Tv 117 (Như Chúa nhựt Phục sinh).
*3. Bài đọc II: 1 Pr 1,3-9
Lời chúc tụng Thiên Chúa của Thánh Phêrô:
Lý do của tâm tình chúc tụng là “Ngài cho ta được tái sinh nhờ việc Ðức Kitô sống lại từ cõi chết” (xem thêm cuộc đối thoại giữa Ðức Giêsu với Nicôđêmô về việc tái sinh, Ga 3).
Chỗ dựa của tâm tình này là niềm vui mà Ðức Kitô phục sinh ban cho các tín hữu, một niềm vui vững bền ngay cả giữa những gian nan khốn khó: “Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách”.
Thể hiện bằng một niềm tin vững vàng mặc dù không thấy: “Tuy anh em chưa bao giờ thấy Ngài mà vẫn yêu mến, chưa được giáp mặt nhưng lòng vẫn kính tin”.
Tất cả những điều trên là hoa quả của việc Ðức Giêsu phục sinh.
*4. Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31
Ðoạn Tin Mừng này gồm 2 cuộc hiện ra của Ðức Giêsu phục sinh:
a/ Cuộc hiện ra thứ nhất:
– Ðấng phục sinh mang đến niềm vui và bình an cho các tông đồ.
– Trao sứ mạng ra đi cho các ông
– Ban Thánh Thần cho các ông.
b/ Cuộc hiện ra thứ hai:
Vào 8 ngày sau nhằm củng cố đức tin: Ðức tin được nâng lên trình độ cao: tin không phải vì thấy mà vì nghe lời chứng của những người đã tin. Từ nay tín hữu tin không phải vì được tiếp xúc trực tiếp với Ðức Giêsu mà tin vì lời chứng của các tông đồ.
*IV. Gợi ý giảng
*1. Tin thì vui
Các bài đọc hôm nay cho thấy một đặc tính tất yếu của đức tin: nếu thực sự tin thì tất nhiên sẽ vui. Bài Tin Mừng kể rằng trước khi gặp Ðức Giêsu phục sinh thì các tông đồ sợ, nhưng khi gặp Ngài thì “các môn đệ vui mừng”; Ðoạn sách Công vụ kể: các tín hữu cộng đoàn Giêrusalem “ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ”; còn trong bài đọc 2, thánh Phêrô bảo “Anh em sẽ được vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em”.
Vậy mà hiện nay nhiều người ở ngoài nhìn vào Giáo Hội thì thấy hình như các kitô hữu có vẻ buồn, đức tin giống như một cái khuôn, thậm chí một nhà tù giam hãm họ. Tại sao?
*2. Sống với nhau như anh chị em
Con người thời nay khao khát được sống trong một cộng đoàn có tình có nghĩa. Có nhiều người than “Tôi thấy mình chỉ là một con số giữa một đám đông vô tình”. Các nhà tâm lý xã hội đặt cho tình trạng này cái tên là “đám đông cô độc”. Ðó là kết quả của chủ nghĩa cá nhân mà chúng ta được giáo dục ngay từ nhỏ.
Vậy niềm khao khát trên phải chăng là một trong những dấu chỉ của thời đại? Làm thế nào để thỏa mãn được khát vọng tốt đẹp ấy?
Bài trích sách Công vụ có thể cho ta một số yếu tố để trả lời:
– Cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa: vì sống cộng đoàn huynh đệ là một việc vượt quá khả năng con người ích kỷ, nên nếu có Chúa giúp thì mới thực hiện được.
– Chia sẻ: vì yêu thương thì phải cho đi.
– Cởi mở: mỗi người không tự khép kín trong cái tôi cô độc của mình nhưng phải mở lòng ra với mọi người.
*3. Tin vì thấy và tin vì nghe
Trên lý thuyết, tin vì thấy có giá trị hơn tin do nghe.
Nhưng trên thực tế, người ta tin do nghe nhiều hơn tin vì thấy: đứa trẻ không dám thọc tay vào ổ điện là do nó nghe lời cha mẹ căn dặn chứ không phải vì đã có kinh nghiệm bị điện giật; cậu học sinh tin rất nhiều điều thầy cô dạy mặc dù chưa bao giờ cậu thấy…
Và xét cho cùng, nội dung của một niềm tin có lẽ không quan trọng cho bằng lòng tín nhiệm vào uy tín của người thông tin: do không tín nhiệm vào một tên bá vơ ngoài đường cho nên dù hắn có hứa hẹn bao nhiêu điều tốt đẹp tôi vẫn không tin; ngược lại do tín nhiệm vào cha mẹ, thầy cô nên các vị này bảo gì tôi cũng tin.
Và như thế, cuối cùng, tin do tín nhiệm là một thể hiện của tình yêu. Do đó tin do tín nhiệm có giá trị hơn tin nhờ bằng chứng.
*4. Chuyện minh họa
a/ Ðức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
– Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
– Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi:
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
– Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Ðức tin là thế!
c/ Ðức tin nhỏ, đức tin lớn
Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đường; một đức tin lớn sẽ đưa thiên đường vào linh hồn bạn (H. Spurgeon).
*V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết, đem lại bình an, tin yêu và hy vọng cho tất cả những ai tin vào Người. Trong niềm vui phục sinh, chúng ta cùng tin tưởng nguyện cầu.
- Trên con đường về quê trời / Hội Thánh gặp không biết bao nhiêu là thử thách gian nan / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / củng cố đức tin của Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian / để Hội Thánh làm chứng cho nhân loại biết rằng / Chúa đã phục sinh vinh hiển.
- Hiện tại có biết bao người đang cộng tác với nhau / để xây dựng một cuộc sống xứng với nhân phẩm / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban Thánh Thần trợ lực và thánh hóa những cố gắng này.
- Ðời sống đức tin không phải là không có những khó khăn / người kitô hữu gặp biết bao là hoài nghi / tăm tối / và nghe cũng không ít những lời xuyên tạc và bôi nhoi đầy ác ý / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho ánh lửa đức tin / luôn cháy sáng trong tâm hồn mỗi kitô hữu / đặc biệt là các kitô hữu trẻ.
- Ðời sống đức tin sâu sắc của các kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai / là một gương mẫu tuyệt vời cho các tín hữu ngày nay / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự thánh lễ / và cầu nguyện không ngừng.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con trí khôn chậm chạp, còn tâm hồn thì cứng cỏi. Xin ban thêm đức tin cho chúng con, nhờ đó, dù gặp thất bại hay đau khổ đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn tin yêu, gắn bó và dấn thân theo Chúa đến cùng. Chúa hằng sống và
*VI. Trong Thánh Lễ
– Kinh Tiền Tụng: nên dùng mẫu I
– Trước kinh Lạy Cha: Mặc dù cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy Ðức Giêsu, nhưng chúng ta biết Ngài đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy hợp ý với Ngài và dâng lên Chúa Cha lời nguyện sau đây: Lạy Cha chúng con ở trên trời…
– Chúc bình an: Ðức Kitô phục sinh đã ban bình an cho các tông đồ. Giờ đây chúng ta cũng hãy chúc bình an cho nhau.
*VII. Giải tán
Ðức Giêsu phục sinh đã đem lại niềm tin, yêu, hy vọng và bình an. Chúc anh chị em ra về trong tất cả những tâm tình tốt đẹp ấy.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-A
BÌNH AN CHO CÁC CON- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Sau khi Đức Giêsu chịu chết và táng trong mồ, các môn đệ bàng hoàng lo lắng vì, theo các ông, chết là hết, bao nhiêu mộng ước đã tan thành mây khói. Nhưng Chúa Giêsu đã hiện ra để củng cố đức tin cho các ông, yên ủi các ông, nâng đỡ các ông, đem sự bình an và niềm vui đến cho các ông. Trong niềm tin tưởng đó, các ông hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Tuy được niềm tin và niềm vui Phục sinh nâng đỡ, các ông cũng phải găp nhiều gian nan thử thách trong cuộc sống :”Anh em sẽ được vui mừng mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách”.
Trong những lần hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến lời chào các ông:”Bình an cho các con”(Ga 20,19). Phải chăng đây là quà tặng của Chúa Giêsu Phục sinh tặng ban cho các ông ? Đúng vậy, đây không phải chỉ là lời chào thông thường của người Do thái chào nhau mà còn có ý nghĩa thâm thúy hơn. Bình an mà Chúa Phục sinh ban cho các ông là ân ban của Chúa Thánh Thần giúp các ông giữ vững được tình yêu đối với Chúa và kiên tâm rao giảng Tin mừng trong những hòan cảnh phức tạp.
Muốn đón nhận và kiên trì giữ được sự bình an ấy, chúng ta phải cố gắng thực hiện : mặt tiêu cực là đừng phạm tội vì tội là phản nghịch cùng Chúa, sẽ gây xáo trộn trong tâm hồn ; mặt tích cực là phải nỗ lực xây dựng sự bình an trong tâm hồn mình trong mọi hòan cảnh, dù gặp những phong ba bão táp trong cuộc đời. Sự bình an đích thực chỉ có được nơi những tâm hồn biết chiến đấu chứ không phải cho những người ngồi chờ sự an nhàn hưởng thụ.
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 2,42-47.
Sau ngày lễ Hiện xuống, các tông đồ chia nhau đi rao giảng Tin Mừng, bắt đầu từ Giêrusalem. Cộng đoàn tín hữu sơ khai này có một điểm nổi bật đó là tình huynh đệ keo sơn. Mọi thành viên trong cộng đoàn yêu thương nhau, chỉ có một trái tim, một tấm lòng, một linh hồn : họ cùng nhau chia sẻ lời Chúa, tham dự lễ nghi bẻ bánh, góp của riêng thành của chung, phân phát cho nhau để không một ai trong cộng đoàn phải đói khát. Cộng đoàn tiên khởi này là khuôn mẫu tình huynh đệ cho Kitô hữu hôm nay. Cần phải trở về nguồn, cần phải canh tân đời sống Giáo hội theo khuôn mẫu cộng đoàn tiên khởi ấy.
+. Bài đọc 2 : 1Pr 1,3-9.
Trong thư gửi cho tín hữu ở Tiểu Á, thánh Phêrô đã nói lên tâm tình cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa vì Người cho ta được tái sinh nhờ việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Ngài khuyên nhủ các tín hữu, trong niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh, hãy sống trung thành với ơn gọi của mình trong mọi hoàn cảnh. Theo Ngài, những khó khăn thử thách mà Kitô hữu phải đối diện hằng ngày là nhằm thanh luyện và củng cố đức tin vì đức tin phải được thử thách mới có giá trị. Vì thế, các tín hữu hãy sống trong hy vọng về sự phục sinh của mình để sống vui tươi và vững vàng trong mọi cơn gian nan thử thách.
+. Bài Tin Mừng : Ga 20,19-31.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thanh Gioan thuật lại cho chúng ta hai lần hiện ra của Chúa Giêsu. Lần thứ nhất là ngay chiều phục sinh và lần thứ hai là sau tám ngày. Mặc dù bà Maria Madalena đã báo cho các tông đồ biết rằng Chúa đã hiện ra với bà, nhưng các ông không tin. Chúa Giêsu phải hiện ra trước mặt các ông để các ông tin rằng Ngài đã sống lại như lời đã báo trước. Ngài hiện ra để củng cố đức tin cho các ông, đem lại an bình và niềm vui cho các ông để các ông vững mạnh đi rao giảng Tin mừng. Chính các ông sẽ là chứng nhân của việc Chúa sống lại. Còn sự cứng lòng tin của ông Tôma chỉ là cơ hội khơi lại đức tin nơi các tông đồ, giúp các ông vững tin trong việc rao giảng Tin mừng mặc dù gặp gian nan thử thách.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bình an cho các con
ĐỨC GIÊSU BAN BÌNH AN CHO CÁC MÔN ĐỆ.
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Phục sinh. Mầu nhiệm lớn lao của Chúa Phục sinh còn đang chi phối tâm hồn chúng ta. Bài Tin mừng hôm nay vẫn còn tiếp tục bàn về việc Chúa sống lại hiện ra với các Tông đồ.
Đức Giêsu đã sống lại được một tuần rồi, hôm nay thánh Gioan kể gồm hai lần Chúa hiện ra : một lần hiện ra ngay chính chiều ngày Chúa sống lại không có mặt Tôma và một lần có mặt Tôma. Mục đích việc Chúa hiện ra là làm cho các Tông đồ tin rằng Ngài đã sống lại thật.
Mặc dầu đã được Kinh Thánh cũng như Đức Giêsu báo trước về Ngài, các môn đệ vẫn tỏ ra bàng hòang khi chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Ông Phêrô thì chối Chúa, các môn đệ hầu hết đã bỏ trốn chỉ còn một số ít theo Ngài xa xa. Bao nhiêu mộng ước của các ông dường như đã tiêu tan cùng với cái chết của Thầy mình. Khi được báo tin Chúa sống lại, các ông vẫn còn bán tín bán nghi. Đức Giêsu đã phải hiện ra nhiều lần để trấn an, giải thích và củng cố niềm tin cho các ông.
Tin mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại hai lần hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ trong phòng cửa đóng kín và lời đầu tiên của Ngài là lời chúc bình an cho các ông. Trong cả hai lần gặp gỡ, Đức Giêsu đã lập lại lời chúc này tới ba lần :”Bình an cho các con). Ngài đã cho các ông xem tay chân và cạnh sườn Ngài, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, nhưng lần này vắng mặt Tôma.
Tám ngày sau các môn đệ lại tụ họp trong nhà, có cả Tôma ở đó nữa. Trong khi các cửa đều đóng kín, Đức Giêsu đến đứng giữa các ông, và sau lời chào bình an Ngài bảo Tôma :”Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”(Ga 20,27). Xem ra Chúa có ý trách ông Tôma vì sự cứng lòng của ông, nhưng chính nhờ đó mà các môn đệ, và các thế hệ sau này là chúng ta có thêm bằng chứng mạnh mẽ về việc Chúa sống lại. Ở những lần hiện ra khác, Đức Giêsu cũng tỏ ra ân cần và thân mật khi gặp gỡ, giải thích Kinh Thánh hoặc cùng ăn cùng uống với các ông.
Sau khi chỗi dậy từ cõi chết, món quà đầu tiên mà Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không phải là những gì kiêu sa, huy hòang hay lộng lẫy, mà là một câu nói đơn sơ chất chứa tấm lòng chân thành thương yêu và săn sóc :”Bình an cho các con”(Ga 20,19).
Chính vì yêu thương Đức Giêsu đã đi bước trước và sớm nhận ra nhu cầu thiết yếu của các môn đệ trong hòan cảnh lúc đó. Đức Giêsu đã trấn an, củng cố niềm tin và ban Thánh Thần để gìn giữ các ông. Một trong những điểm nổi bật khiến chúng ta nên dừng lại và cùng suy tư tại sao Đức Giêsu lại lặp đi lặp lại nhiều lần lời chúc bình an trong đọan Tin mừng hôm nay.
Phải chăng Ngài muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết ý nghĩa thâm sâu của nguồn bình an đích thực ? Không có bình an của Đức Kitô, cuộc đời các môn đệ khi xưa cũng như mọi người chúng ta hôm nay sẽ dễ dàng bị lún sâu trong phiền muộn, chán nản thất vọng và dần dần sẽ đánh mất đi niềm tin của mình.
*II. BÌNH AN TRONG CUỘC SỐNG CHÚNG TA.
*1. Lý do cần sự bình an.
Đọc những trình thuật Phục sinh trong bốn cuốn sách Tin mừng, chúng ta nhận thấy các tác giả đều nhắc lại lời chào của Đức Giêsu đối với các môn đệ :”Bình an cho các con”. Chúng ta phải thắc mắc tại sao Đức Giêsu chúc bình an cho các ông nhiềâu như vậy. Chắc hẳn phải có vấn đề khi Ngài chúc bình an cho các ông.
* Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo :”Bình an cho các con”(Lc 24,37).
* Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói:”Bình an cho các con”(Ga 20,19).
* Người lại nói với các ông :”Bình an cho các con ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con”(Ga 20,21).
* Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả Tôm ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói :”Bình an cho các con” (Ga 20,26).
Đức Giêsu chúc bình an nhiều như vậy, chắc chắna Chúa là người hòan hảo chính trực, đã được huấn luyện về mọi việc lành phải làm (2Tm 3,17). Thánh Ambrôsiô viết tiếp :”Người của Chúa phải là người sạch tội, vì tội và Chúa chống đối nhau. Đâu có Chúa đấy không có tội và ngược lại”. Thánh Phaolô viết :”Chúa chính là sự bình an của chúng ta”(Ep 2,14). Vậy thì muốn được sự bình an của Chúa – thứ bình an trong tâm hồn – tất nhiên phải sạch tội.
Cái gì đã phá vỡ đời sống thanh nhàn của các thiên thần ? (Js 14,12-13). Cái gì đã làm cho tổ tông phải khóc lóc ? (St 3,11-12).
Cái gì đã làm cho lòai người phải chìm đắm trong đại hồng thủy ? (St 6,5).
Cái gì đã làm tháo thứ và khiến lửa bởi trời xuống đốt thành Sođôma và năm thành kế cận ? (St 19,24).
Cái gì đã làm cho Đavít khóc lóc mất ăn mất ngủ ? (Tv 6,7)
Cái gì đã làm cho Phêrô đau đớn suốt đời ? (Lc 17,61-62).
Cái gì đã làm cho Giuđa buồn rầu bứt rứt phải đi thắt cổ ? (Cv 1,18).
Tất cả chỉ là TỘI. Hễ đâu có tội đấy không có bình an, vì lẽ sự bình an không ưa người có tội (Is 48,22; 55, 21).
Bắc thang thử hỏi ông Trời
Những người phạm tội có ngồi yên không ?
Họ không thể ngồi yên tại vì họ đã mất sự bình an. Mất sự bình an tức là mất Chúa vì Chúa chính là sự bình an của họ.
Truyện : Thiếu trách nhiệm
Bé Tám nhìn ba nó và nói :
– Ba ơi, chiếc cầu bắc qua mương để vào nhà mình sắp gẫy, Ba sửa lại đi, kẻo có người bị té đó !
– Con phải biết cách mà bước, đừng đặït chân giữa cầu, nhưng bước sát vào phía bờ thì không nguy hiểm đâu.
Bé Tám không an lòng :
– Nhưng những người gia đình mình không biết thì sao ba ?
– Chuyện không liên quan gì đến con, con đi chơi đi, đừng hỏi nữa để ba lo việc khác.
Thấy vẻ mặt không vui của ba, bé Tám không dám nài nỉ thêm.
Tối đến, ông Bảy Minh đến gia đình bé Tám để từ giã, hai hôm nữa, ông Minh sẽ đi đòan tụ ở nước ngòai. Sau khi cạn tách trà, mọi người trong gia đình bé Tám ngậm ngùi tiễn người láng giềng ra về với những lời cầu chúc tốt đẹp mà người ta vẫn thường trao nhau. Ba bé Tám là người lưu luyến nhất, sau cái bắt thay thật chặt, ông là người cuối cùng quay vào nhà. Mọi người đang bàn về người hàng xóm may mắn kia thì có một tiếng động nặng nề như trái dừa rơi xuống đất. Bé Tám là người đầu tiên hét lên “Chết rồi ba ơi ! Ông Bảy té”. Cả nhà chạy ra thì quả đúng như vậy. Ông Bảy đang nằm bất động dưới mương sâu lởm chởm đá. Tấm ván làm cầu đã bị gẫy, ông Bảy bị thương nặng.
Ba bé Tám ngượng ngùng, hối hận vì những lời cầu chúc bình an của ông trao cho người láng giềng đã không hiện thực. Vì thái độ vô tâm tắc trách của ông và vì ông không có tạo cơ hội cho lời cầu chúc có được cơ may thể hiện.
*b) Tích cực : Phải nỗ lực xây dựng.
Hòa bình hay bình an không có nghĩa là không có chiến tranh, không có xáo trộn bên ngòai. Mà phải phấn đấu làm sao để tâm hồn có thể bình lặng trước những tiếng ồn ào, xáo trộn bên ngòai, tâm hồn vẫn có thể an nhiên trong mọi phong ba bão táp của cuộc đời.
Truyện : Bức tranh diễn tả bình an.
Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công thực hiện. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là bức tranh bình yên thật hòan hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.
“Ta chấm bức tranh này” – Nhà vua công bố.
Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự bình yên trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên giữa the ágiới đang cần nỗ lực giành lấy trong cuộc sống này.
Không có sự bình yên thật sự khi con người không dấn thân để xây dựng. Xây dựng từ nơi chính mình bằng đời sống công chính, yêu thương với đức ái đòi hỏi. Không có sự bình an không có đấu tranh cho sự thiện, không có sự bình an cho những người ngồi chờ sự an nhàn. Sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng là sự bình an cho những con người chấp nhận những thử thách để vượt qua thử thách bằng sự bình an của Đức Giêsu.
Truyện : Bình an trong tâm hồn.
Một tu sĩ rất đau khổ vì tính nhạy cảm của mình. Sau nhiều ngày chịu đựng bản tính nóng nảy không tự chủ được, từ cử chỉ đến lời nói, tệ hơn nữa, anh ta luôn dành những phần phải về phía mình. Một hôm, anh tự nhủ :”Ta sẽ bình an, nếu ta vào sống trong sa mạc hoang vắng xa cách mọi người”. Nghĩ sao làm vậy, anh ta đã sống những ngày bình an, nhưng một buổi chiềâu nọ, anh đặt chiếc bình sành dùng để đựng nước xuống đất, không biết vì đất nơi ấy lồi lõm hay vì ma quỉ muốn chọc phá, mà bình nước lật sang một bên đổ vỡ đôi, và làm đổ hết nước ra ngòai. Người ẩn tu hầm hầm nổi cơn thịnh nộ tưởng chừng như trời long đất lở.
Khi nguôi cơn giận, anh ta nhìn ngắm chiếc bình đã bể và tự nhủ :”Tôi đã bỏ các anh em trong tu viện, nhưng khổ nỗi lại mang chính cái tôi vào sa mạc hoang vu này, không phải họ, nhưng là chính cái nóng nảy của tôi đã làm cho tôi mất bình an”. Ngay chiều hôm ấy, anh ta trở về tu viện, và qua thời gian, với ơn Chúa giúp và những cố gắng cá nhân, tính nóng nảy đã bớt dần và sự bình an gia tăng trong tâm hồn anh.
Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sống một cách thiết thực và sâu đậm lời của Đức Giêsu :”Bình an cho các con”, đó là lời chào luôn có trên môi miệng của Đấng Phục sinh. Thật ra, đây hẳn không phải là một lời chào thân thuộc của người Do thái, nhưng là ân ban mà Chúa Kitô Phục sinh đem lại cho con người. Bình an là nghịch lại với tất cả những gì sợ hãi, thất vọng, chết chóc. Bình an là đồng nghĩa với tin yêu, vui sống và hy vọng.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-A
PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN– ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Chúa nhật tuần trước tôi nói về thứ ngôn ngữ biểu tượng Hội Thánh vận dụng trong đêm Phục Sinh. Đó là ngôn ngữ của lửa, ngôn ngữ của nước để diễn tả cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô chính là một công trình tạo dựng mới.
Hôm nay. Trong mối liên kết tôi xin gợi lên một khía cạnh khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các môn đệ Ngài thổi hơi trên các ông và nói : “Hãy nhận lấy thánh Thần”
Anh chị em hãy để ý đến từ “thổi hơi”. Hãy nhớ lại khi TC tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người bằng cách nào ?
Kinh Thánh kể : Chúa lấy đất nặn thành hình người. Thổi hơi vào, thế là đất trở thành một con người sống động và mang lấy sự sống của con người theo hình ảnh của TC. Rất tiếc sau đó con người đã nhân danh tự do của mình để khước từ mối hiệp thông với Thiên Chúa. Rồi từ đó gây ra bao nhiêu đổ vỡ trong quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa anh em, quan hệ con người và thiên nhiên vạn vật gây nên Đại Hồng Thủy .
Chúng ta nhớ đến chuyện Thiên Chúa tạo dựng con người trong Kinh Thánh như vậy thì sẽ thấy rõ ý nghĩa Đấng Phục Sinh thổi hơi trên các môn đệ và nói : “Hãy nhận lấy Thánh Thần”. Hành động này thể hiện ý Chúa Kitô Phục Sinh tạo dựng con người mới bằng hơi thở của Ngài, hơi thở của Ngài ở đây là Thánh Thần, nghĩa là tinh thần của Ngài. Cái tinh thần mà Ngài ấp ủ trong cuộc đời trần thế cho đến khi chết và cho đến khi sống lại .
Cái tinh thần ấy Ngài thổi hơi cho các môn đệ và thổi hơi trên tất cả những ai tin vào Ngài để tất cả những con người ấy mang tâm tư, tình cảm, ước muốn hy vọng, chọn lựa, ứng xử y như Chúa Giêsu vậy
Trên một tư tưởng như vậy trong bối cảnh Á Châu ngày hôm nay nó nói lên được cái gì ? Tôi có dịp đọc tài liệu về phần nhận định về Á Châu tôi thấy có một vài nhận xét chúng ta nên quan tâm. Các Ngài nhận xét Á Châu là một vùng đất nghèo. Mặc dù cũng có một vài nước gọi là hóa rồng như Nhật Bản, nhưng nhìn chung thì Á Châu vẫn là vùng đất nghèo. Ngay trong các nước phát triển sự cách biệt giữa giàu và nghèo rất lớn và càng sâu hơn. Nhìn Việt Nam chúng ta thì thấy rõ người thì tung tiền hoang phí, người lại kiếm không ra. Một hố sâu ngăn cách rất lớn.
Cùng với tình trạng nghèo khổ đó thì tôi thấy các nghị phụ nhận định rằng Á Châu là vùng đất có truyền thống Tôn Giáo văn hóa lâu đời và sâu sắc. Thế nhưng trong xu hướng Tây phương hóa ngày hôm nay cái ảnh hưởng của văn hóa Tây phương tràn vào bằng con đường du lịch, bằng con đường truyền thống xã hội. Nó đã khiến cho nhiều gía trị văn hóa và tôn giáo ở Á Châu bị đảo lộn .
Anh chị em cứ nhìn vào một vài nước trong khu vực Á Châu. Thái Lan chẳng hạn, dấu ấn của Phật Giáo rất lớn. Nhưng du lịch làm cho giá trị tôn giáo ở Thái Lan bị đảo lộn. Không phải là những giá trị đảo lộn một cách trừu tượng mà nó ảnh hưởng đến quan hệ sống. Tình trạng ly dị ở Á Châu càng lúc càng gia tăng. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng bị đe dọa. Mối quan hệ giữa người trong cuộc sống đời thường bị đe dọa.
Thêm vào đó tình trạng bất công và kỳ thị trong xử thế. Rất nhiều quốc gia ở Á Châu có nơi dựa vào lý do Tôn Giáo, có nơi dựa vào lý do sắc tộc, có nơi dựa vào lý do ý thức hệ để phân biệt đối xử với nhau. Như vậy khuôn mặt của Á Châu ngày hôm nay cần đổi mới để trở thành một vùng đất có công bằng hơn, có tự do hơn, có tình liên đới hơn, có tình huynh đệ hơn. Thế thì Tin Mừng của Chúa Kitô Phục Sinh có thể đem đến cái gì mới cho vùng đất Á Châu này không ?
Đấy là vấn đề mà người Kitô hữu đích thực phải quan tâm. Để trả lời cho câu hỏi đó tôi nghĩ rằng Tin Mừng Chúa Kitô có thể đóng góp rất nhiều. Chúa Kitô Phục Sinh có thể kiến tạo một khuôn mặt mới cho Á Châu. Bằng chứng cụ thể cho chúng ta thấy Ganđi một người An Độ, mặc dù ông không theo đạo công giáo nhưng rõ ràng ông rất trân trọng Chúa Giêsu, đặc biệt là 8 mối phúc thật Chúa Giêsu công bố. Nhiều người nhận định rằng : Cái lý thuyết bất bạo động của Chúa Giêsu .
Một khuôn mặt khác mới đây là Mẹ Têrêsa Calcutta. Một nữ tu cả thế giới ngưỡng mộ quí yêu. Như chứng tỏ rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô có thể tác động trên vùng đất Á Châu này, trong đó có đất nước Việt Nam ta. Với một điều kiện chúng ta phải cộng tác, phải trở thành con người mới, nghĩa là phải đón nhận hơi thở Phục Sinh thổi vào linh hồn mình, thổi vào trong cuộc đời mình.
Hình ảnh hơi thở gợi cho tôi suy nghĩ :
Suy nghĩ thứ 1 về đời sống cầu nguyện. Anh chị em có thể hỏi tại sao tôi lại liên tưởng đến cầu nguyện ? Lý do thế này chúng ta không thể sống nếu không có hơi thở. Từng giây phút chúng ta cần phải thở. Cần có những giây phút hít thở thật sâu thì não bộ mới có đủ dưỡng khí làm việc, cơ thể mới khỏe mạnh. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Từng giây từng phút chúng ta sống trong Chúa. Thánh Phaolô nói : “Phải sống và chuyển động trong Chúa. Những giây phút hít thở thật sâu thần khí của Thiên Chúa đó là những giây phút cầu nguyện.”
Khi cầu nguyện là tôi đã tạm ngưng mọi công việc, ngồi đấy, tập trung tư tưởng hít thở thần khí của Thiên Chúa, hít thở ý nghĩ của Thiên Chúa, tâm tư tình cảm của Thiên Chúa, để tôi không còn nghĩ theo kiểu thế gian, hành động theo kiểu thế gian, mà phải sống và hành động theo ý Chúa. Chúng ta cần phải có những giây phút hít thở thật sâu trong cầu nguyện để có thể sống được đời Kitô hữu thật sự .
Gợi ý thứ 2 đối với tôi hình ảnh của hơi thở đó là lời mời gọi bỏ mình. Tôi nói điều này là dựa vào một hình tượng của nhà thơ Targo, một nhà thơ lớn của Á Châu và của thế giới. Trong một bài thơ tác giả diễn tả cuộc đời tôi giống như một ống sáo. Thiên Chúa đặt môi vào ống sáo đó xướng lên một khúc nhạc du dương. Thực ra ống sáo chỉ là một khúc tre, nhưng mà khi người nhạc sĩ đặt môi vào thì khúc tre rất tầm thường ấy tấu lên một điệu nhạc tuyệt vời làm say đắm lòng người. Nhưng để khúc tre đó có thể tấu lên một khúc hát thì điều căn bản là khúc tre phải rỗng.
Tương tự như vậy, khi thần khí của Thiên Chúa, hơi thở của Thiên Chúa được thổi vào trong chúng ta thì trong lòng chúng ta phải rỗng. Về mặt thần học : Cái hình ảnh này nói với tôi rất sâu với cái gọi là Màu Nhiệm tự hủy nơi Chúa Kitô. Chúa Kitô là Thiên Chúa nhưng Ngài không đòi mình ngang hàng với Thiên Chúa mà trái lại Ngài hủy mình ra không, lãnh lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống người phàm, vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá TC hủy mình ra không như vậy cho nên Thiên Chúa trở nên tràn đầy ở nơi Ngài .
Chúng ta thì sao. Chúng ta chưa hủy mình ra không được vì cái tôi, cái ích kỷ của mình quá lớn cho nên tình thương của Thiên Chúa không cách nào để vào tâm hồn chúng ta được. Tâm trí chúng ta quá vẩn đục cho nên sự thanh khiết của Thiên Chúa không cách nào xâm nhập vào được.
Chúng ta phải chấp nhận bỏ mình, quên đi cái tôi ích kỷ nhỏ nhen của mình để thần khí của Thiên Chúa có thể đong đầy và tác động mạnh mẽ vào trong cuộc đời chúng ta. Có lẽ sẽ một số anh chị em cho là tôi nói những chuyện quá sâu sa, quá xa vời. Không phải thế đâu. Tôi nghĩ đây là một đòi hỏi. Dù là một Linh Mục, tu sĩ hay một giáo dân, sống trong bất cứ một hoàn cảnh nào, một nghề nghiệp nào thì đây là một thái độ căn bản .
Cầu nguyện và tự bỏ mình để thần khí Chúa có thể tác động nơi chúng ta. Biến mình thành con người mới ở Á Châu chỉ có 2 % là Kitô hữu. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã từng nói : Chỉ cần một nhúm men thôi sẽ làm cho cả khối bột dậy lên.
Chỉ có 2% người Kitô hữu. Nhưng nếu họ là những Kitô hữu đích thực thì họ sẽ là một nhóm men cho cả Á Châu dậy lên một sự sống mới. Á Châu sẽ có một khuôn mặt mới .
Chuyện này nghĩ ra thì rất là lớn lao. nhưng chuyện ấy sẽ thành hiện thực nếu mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng đóng góp cộng tác thì sẽ tìm được Giáo Hội trên quê hương chúng ta cũng như trên đất nước Á Châu. Amen.
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY…- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Đức Giêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Giêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Giêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.
Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.
Sứ mạng của Đức Giêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Giêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa?
- Các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn biết vậy?
- Sứ mạng của các Kitô hữu hôm nay là gì?
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH- A
BÌNH AN CHO ANH EM– Lm. Phạm Ngọc Ngôn
Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Kytô và, cùng với các ngài, chúng ta đang sống và sinh hoạt vào thời điểm sau biến cố Phục Sinh đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần vốn được xem là ngày đoàn tụ của các Kytô hữu tiên khởi. Đồng thời đó cũng là ngày đặc biệt, ngày mà Đấng Phục sinh chọn để hiện diện giữa một cộng đoàn còn non trẻ để chia sẻ với họ niềm vui Phục Sinh, đồng hành với họ trong việc cử hành Lời Chúa và nghi lễ Bẻ bánh và sau cùng là sai họ ra đi rao giảng Tin mừng cho nhân loại.
TỪ BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH….
Từ sau biến cố xảy đến cho Thầy, các môn đệ chưa hết bàng hoàng đớn đau, các ông lại phải đối diện với sự bách hại khác từ phía những người Dothái. Các ông sợ người Dothái hay đúng hơn sợ các ông thủ lãnh Dothái. Các môn đệ sợ là phải. Lý do là vì ngay đến Thầy mà họ còn không buông tha, còn đối xử tàn ác đến như vậy huống gì trò. Chính vì thế, cách tốt nhất để bảo vệ mình là “bế quan toả cảng, nội bất xuất, ngoại bất nhập” để tránh sự săn lùng và dòm ngó của người Dothái. Đang sống trong tâm trạng bất an và não nề như thế, Đấng Phục Sinh xuất hiện và điều Ngài mang đến cho các ông thời điểm này chính là hoa trái của sự Bình an (Shalom). Bình an cho anh em. Đây không chỉ là lời chào hỏi xã giao thông thường mà đó còn là một sự xác quyết mạnh mẽ về sự hiện diện đích thực của Đấng Phục Sinh. Bình an đích thực chỉ đến từ Đấng Phục sinh và chính Ngài và từ nơi Ngài mới có thể đem bình an đến cho những ai đang sống trong tâm trạng bất an nặng nề.
Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh không chỉ thuần tuý mang ánh sáng và bình an để phá tan bóng tối mây mù đang rình rập các môn đệ, xua tan nỗi thống khổ ưu phiền của các ông mà còn là việc trao ban Thần Khí và sai các ông tiếp tục sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Như thế, chúng ta thấy rõ rằng, sứ mạng đi vào thế giới của các môn đệ xuất phát từ sau biến cố Phục Sinh. Đặc biệt hơn, đối với thánh sử Gioan thì đây lại là một sứ mạng nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu vốn phát xuất từ Chúa Cha. Để được như thế, chính Đấng Phục Sinh trao ban hay đúng hơn là thổi Thần Khí vào các môn đệ như gợi nhớ ngày Giavê Thiên Chúa thổi sinh khí để làm nên con người trong buổi đầu công trình tạo dựng (x. St 2,7) hay làm cho con người hồi sinh (x. Ed 37,5.9). Các môn đệ nhận lãnh Thần Khí của Đấng Phục Sinh, tiếp tục sứ mạng của Thầy nhằm rao giảng cho muôn dân Tin mừng Phục sinh, xoá bỏ tội lỗi và ban ơn tha thứ.
ĐẾN LỜI TUYÊN XƯNG CỦA TÔMA
Thật thú vị là lần hiện ra của Chúa Phục Sinh cách đây tám ngày không có sự hiện diện của Tôma Điđymô. Tôma đi đâu? Tin mừng không đề cập, nhưng cứ theo sự thường, chúng ta có thể thấy Tôma có lẽ cũng đang ở trong tâm trạng hoảng loạn, mất phương hướng, thậm chí chán nản sau cái chết của Thầy. Tệ hơn, có thể Tôma không đủ can đảm để gánh vác trách nhiệm, để chia sẻ với anh em đồng môn trong tình cảnh “xẻ đàn tan nghé”, mà hơn lúc nào hết rất cần đến sự “chung lưng đấu cật” để vượt qua khó khăn. Việc Tôma không ở cùng các môn đệ phải chăng là sự thoái thác một phần hay hoàn toàn trách nhiệm? Và phải chăng đó còn là sự thể hiện tính nhút nhác, sợ liên lụy với các đồng môn của mình mà ông biết rằng các thủ lãnh Dothái sẽ không tha như đã xử với Thầy? Tôma ra đi, xa rời nơi nguy hiểm, xa rời nơi ẩn náu của anh em để tìm cho mình một sự bình an, một sự an toàn chắc chắn cho riêng mình. Ông có biết đâu đó cũng chính là lần mà ông đã mất đi diễm phúc được nhìn thấy Chúa Phục Sinh, mất đi lời chúc Bình an của Người, mất tất cả.
Khi được các môn đệ thuật lại việc các ông thấy Chúa, Tôma lại cho rằng đó là việc không tưởng, rỗi hơi, khéo tưởng tượng, óc mụ mẫm của đàn bà con gái, chứ làm gì có chuyện đó. Tôma dõng dạc tuyên bố trước mặt anh em: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Trước lời tuyên bố hùng hồn của Tôma, các môn đệ khác đành tiu nghỉu im lặng. Mà không tiu nghỉu im lặng sao được khi lý luận mà Tôma đưa ra không chê vào đâu được. Đối với các ông, việc thấy Chúa sống lại là một niềm vui qúa sức mong đợi, như quên đi tất cả, còn tâm trí đâu để ý đến chân với tay, lỗ đinh với cạnh sườn để giờ đây đành phải “bí” trước đòi hỏi của Tôma. Tôma quả đúng là ông tổ của khoa học thực nghiệm: không bao giờ đi đến kết luận nếu trước đó chưa có kiểm nghiệm cách chắc chắn.
Một lần nữa Chúa Phục sinh hiện đến với các môn đệ và chính Người mới có thể hoá giải thế bí cho các môn đệ đồng thời để giải đáp những yêu sách của “ông tổ khoa học thực nghiệm” là Tôma đưa ra. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Được đứng trước Thầy và được nghe những lời chúc bình an thốt ra từ môi miệng Thầy, Tôma làm gì còn tâm trí mà thử với chả nghiệm. Phản ứng tức thời của ông là lời tuyên xưng vốn được xem là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng để chuộc lấy lỗi lầm vì đã không tin việc Người sống lại. “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng được vang lên trong các kinh Tin kính của các cộng đoàn Kytô tiên khởi, được nối tiếp qua các thời đại và sẽ còn vang vọng đến muôn đời.
“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Từ sau lần ấy, đức tin của Tôma cũng như của các thế hệ mai sau sẽ không còn dựa trên những thực nghiệm, những kinh nghiệm cụ thể về Đấng Phục Sinh hiện ra nữa mà chính là dựa trên lời chứng do các Tông đồ rao giảng – những người đã chứng nghiệm rõ ràng, được thấy, được tận hưởng niềm vui ngọt ngào của Đấng Phục sinh.
Là những người thừa kế di sản của Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Đấng Phục sinh từ các tông đồ rao giảng, chúng ta thật diễm phúc. Nếu chỉ dừng lại ở việc mắt thấy, việc chiêm ngưỡng hình ảnh Đấng Phục sinh, các Tông đồ là người hạnh phúc hơn chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức tin là một ân ban nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên việc chúng ta xác tín niềm tin vào Đấng Phục sinh cũng xứng đng xếp chúng ta vào hàng ngũ các tông đồ của Chúa. Chính vì thế, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân lớn lao này, đồng thời cũng xin Chúa trợ giúp chúng ta để mỗi một ngày trôi qua, chúng ta không ngừng tiếp bước sứ vụ mà các Tông đồ đã truyền lại để ra đi rao giảng tin vui Phục sinh cho muôn người.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-A
TRAO BAN THẦN KHÍ- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Con người có sự sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên A-đam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam (Sáng thế 2,7), tức thì A-đam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống.
Thế là nhờ hơi thở mà Thiên Chúa truyền cho, A-đam được tiếp nhận sự sống và trở thành thuỷ tổ loài người trên khắp địa cầu.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời. Vì thế, Thiên Chúa phải lên kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Giáo Hội sơ khai có sự sống nhờ Thần Khí
Thế rồi, “vào ngày thứ nhất trong tuần – và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới – nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. (Gioan 20, 19-20) mười một tông đồ tuy còn đó, nhưng các ông tự giam nhốt mình trong căn phòng u tối. Bấy giờ các ông như những thân xác không hồn, như những hình hài không còn sự sống.
Thế rồi, như thuở ban đầu, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giê-su cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những thân xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ. “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Gioan 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sự sống mới. Các ông như những xác chết được hồi sinh, được trở nên can trường mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo đường, loan báoTin mừng cứu độ.
Giáo hội rất cần đón nhận Chúa Thánh Thần
Hôm nay, sau hai ngàn năm kể từ ngày Chúa Giê-su khai sinh nhân loại mới, đời sống thiêng liêng của Hội Thánh công giáo trong thế kỷ nầy dường như vẫn còn ù lì bất động như lúc các tông đồ chưa nhận được Thánh Linh. Một số nhà thờ ở Âu Mỹ phải đóng cửa vì thiếu tín hữu đến cầu nguyện và lãnh nhận bí tích. Một số giáo phận suốt nhiều năm trời không có linh mục mới. Nhiều tu sĩ từ bỏ đời sống tu trì. Nhiều giáo dân không còn mặn mà với việc lãnh nhận các bí tích…
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn e dè, sợ sệt, không dám dấn bước loan báo Tin mừng, y như các tông đồ sau biến cố Thầy Giê-su thụ nạn; chúng ta vẫn tự giam nhốt mình trong phòng kín như các môn đệ xưa. Thần Khí Thiên Chúa dường như chưa thấm nhập được vào tâm hồn, vào cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
Hơn lúc nào hết, chúng con cần Chúa hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng con như xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào hình hài bằng đất của A-đam và như chính Chúa đã thổi hơi ban Thần Khí cho các tông đồ trong phòng hội; để chúng con được đón nhận sự sống thần linh; được vượt ra khỏi ngục tù do lười biếng và ích kỷ dựng nên; thoát ra khỏi ngôi mộ do chính chúng con tự đào lên để mai táng chính mình.
Xin cho chúng con luôn khao khát Thánh Thần như con thơ khát sữa mẹ, như cây cỏ khát mưa nguồn và luôn biết mở lòng đón nhận Thần Khí Chúa; nhờ đó, chúng con được hồi sinh, được trở thành những tông đồ nhiệt thành tích cực mang ơn cứu rỗi đến cho muôn người.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH- A
CHỨNG NHÂN LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Sau khi Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, thì Ngài hiện ra cho nhiều người thấy và dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Ngài hiện ra với bà Maria Mađalenna. Ngài hiện ra với hai môn đệ đi làng Emmaus. Ngài hiện ra với bảy tông đồ trên biển hồ Tibêria, đang lúc các ông đi đánh cá.
Tin mừng hôm nay ghi lại, tám ngày sau, Đức Giêsu hiện đến với các tông đồ trong một căn phòng các cửa vẫn đóng kín. Sau khi chúc bình an, thì Chúa gọi riêng Tôma và bảo: “Tôma! Hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh, hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin”.
Thế thì, tại sao Đức Giêsu không tỏ cho các ông thấy hào quang sáng chói của Đấng phục sinh, mà lại tỏ cho các ông thấy những thương tích nơi thân mình của Ngài?.
Giả như Đức Giêsu hiện ra với một dung mạo sáng láng như biến hình trên núi Tabor, thì e rằng các ông tưởng rằng một vị thần linh nào đó hay là ma, nhưng ở đây Đức Giêsu tỏ cho các ông thấy những thương tích nơi thân mình của Ngài là bằng chứng trong cuộc thương khó, Thầy đã bị đánh đòn, bị đóng đinh, bị lưỡi đòng đâm thấu cạnh sườn, Thầy đã chết, nhưng nay Thầy sống lại đến với các con đây, chứ không phải ma đâu, các con đừng sợ!”.
Vậy mà những lần Chúa hiện đến gặp gỡ, không thấy Chúa trách mắng các tông đồ sao hèn nhát bỏ Thầy trong cuộc thương khó, mà chỉ chúc bình an cho các ông thôi. Chính ở điểm này làm nổi bậc lên lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa.
Những thương tích của Chúa, mà Tôma đã thấy tận mắt, chúng ta không thể nào hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì từ nơi đây, nguồn suối tình thương tiếp tục tuôn đổ trên toàn thế giới. Chính vì thế mà thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 2000, Ngài đã thiết lập lễ kính Lòng Chúa Thương Xót vào Chúa nhật II phục sinh, mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Cho nên, trong suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh, các tín hữu trên toàn thế giới đều ca lên (Tv 117, 1): “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa nhân từ, vì đức từ bi của Người muôn thủa”. Ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục tận hưởng lòng thương xót tuôn trào từ Trái Tim Chúa, là nguồn mạch không bao giờ vơi cạn. Từ Thánh Tâm Chúa, phát ra hai luồng sáng, và Chúa giải thích cho thánh nữ Faustina biết. Màu đỏ tượng trưng cho máu chảy ra từ trái tim Cha, để nuôi sống linh hồn con người. Màu trắng tượng trưng cho nước tẩy sạch tội lỗi nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Trong cuốn nhật ký, Đức Giêsu nhắn nhủ chị Faustina thế này: “Cùng với việc tôn vinh lòng thương xót của Ta, con hãy thực hiện lòng thương xót phát xuất từ tình yêu Cha dành cho con, con đừng chạy trốn những công việc của lòng thương xót”. Có nghĩa là Chúa muốn nhắn nhủ hai điều:
1/ Cảm nghiệm lòng Chúa thương xót
Lòng thương xót của Chúa không bị tội lỗi của con người cản trở, nhưng vẫn đong đầy cho những ai đến với Ngài. Lòng thương xót của Chúa vẫn xoa dịu những ai đang bất an bất ổn vì tội lỗi. Lòng thương xót ấy vẫn đang chữa lành những ai đang đau khổ bệnh tật tâm hồn cũng như thể xác.
Chúng ta hãy cảm nghiệm: Tình thương Chúa cao hơn ngàn tội lỗi. Do đó, không tội lỗi nào mà Ngài không tha thứ. Không virút nào mà Ngài không chữa lành. Không nỗi buồn nào mà Ngài không an ủi. Bởi vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
2/ Sống chứng nhân lòng Chúa thương xót
Đức Giêsu nói với thánh nữ Faustina: “Ta khao khát lòng thương xót của Ta được tôn thờ. Con hãy phổ biến việc tôn kính lòng thương xót của Ta cho mọi tạo vật. Người nào tín thác nơi lòng thương xót của Ta, Ta sẽ không để họ hư mất đời đời. Con hãy là chứng nhân lòng thương xót với những người chung quanh con, mọi nơi, mọi lúc”. Chắc chắn Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy là một Faustina cho thế giới, đang phải đối diện với cơn đại dịch Covid 19.
Trong cơn đại dịch này, thế giới đang cần những chứng nhân lòng Chúa thương xót. Vậy mỗi người hãy tạo cho mình những sáng kiến yêu thương đầy lòng thương xót, biết quan tâm nâng đỡ nhau, cùng chung tay chung lòng chung sức bằng lời cầu nguyện, cùng với nghĩa cử yêu thương, cụ thể là chia cơm xẻ áo cho những người kém may mắn, trên tinh thần “Lá lành đùm lá rách”, vì tất cả mọi người đều anh em với nhau con cùng một Cha trên trời. Amen.
PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN- Lm. Trần Khả
Bài Phúc âm tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra giữa các tông đồ khi họ đang tụ họp trong phòng đóng kín. Tất cả đều sửng sốt và vui mừng. Họ không thể ngờ được một sự lạ phi thường như thế: Chúa Kitô đã sống lại. Họ đã tận mắt trông thấy Ngài. Không phải chỉ một người, nhưng là tất cả những người có mặt trong phòng ngày hôm ấy đều thấy Ngài. Ngài đã đưa tay và cạnh sườn của Ngài cho họ coi. Họ đã nghe thấy tiếng nói của Ngài. Họ đã thấy Ngài ăn uống và nói chuyện với họ. Ngài không phải là ma nhưng là Đấng Cứu Thế Phục Sinh. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Họ đã thấy Ngài và họ đã tin.
Gặp Chúa Kitô Phục Sinh
Tôma vì vắng mặt nên đã không nhận được lời chúc bình an, sự vui mừng và niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Khi ông trở về và vẫn còn tâm trạng hoang mang, lo sợ và nghi nan thì được các môn đệ khác báo tin vui: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Tôma đã không tin vào lời của họ. Không tin như thế không phải chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ khác vẫn chưa có những dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin.
Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng tin vào lời nói của những người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Chúa Kitô lâm nạn, không một ai trong họ dám lên tiếng bênh vực cho Ngài. Ai cũng sợ bị vạ lây nên tất cả đã lánh mặt hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không biết Đức Kitô là ai. Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết một cái chết đau thương và công khai trên thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người yếu hèn nhát đảm đó? Trong khi còn đang nghi nan thì Chúa Giêsu hiện đến và tỏ cho Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Vừa trông thấy Chúa, Tôma đã kêu lên, “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Các tông đồ và Tôma đã tin vì họ đã gặp thấy Chúa Kitô Phục Sinh. Họ đã nhìn thấy Ngài và thấy những vết thương trên thân thể của Ngài. Nhưng nếu đức tin chỉ xảy ra qua việc đích thân đối diện với Chúa Kitô Phục Sinh, được tường tận mắt thấy, tai nghe như các tông đồ, thì có lẽ không biết cho đến bao giờ chúng ta mới là những người có đức tin. Tuy nhiên, việc Tôma tin hay không tin vào lời tường thuật của các tông đồ, không có ảnh hưởng gì đến sự thật của việc Chúa Giêsu sống lại. Tin hay không tin thì Ngài cũng đã sống lại. Do đó Chúa Kitô đã nói với Tôma, “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.” Giống như các tín hữu của những thế kỷ trước đây, chúng ta là những người đã không thấy mà tin.
Bài đọc thứ nhất trong sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay kể lại cho chúng ta về tinh thần tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh của cộng đoàn Giáo Hội thuở ban đầu:
– Họ đã bền bỉ tham dự buổi giáo lý của các Tông Đồ.
– Họ sống hiệp thông trong tình huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện.
– Các tông đồ làm được những việc phi thường.
– Họ để mọi sự làm của chung.
– Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng.
Chính vì tinh thần hăng say trong cầu nguyện, ca tụng Thiên Chúa và sống hiệp nhất với nhau như thế mà Giáo Hội đã lớn mạnh. Số người tin càng ngày càng gia tăng vì người ta đã nhìn thấy những việc phi thường các tông đồ và các Kitô hữu thuở ban đầu làm được.
Dấu Chứng Củng Cố Đức Tin
Chúng ta đã không được nhìn thấy những vết đinh và vết thương trên thân thể của Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng đức tin của chúng ta ngày nay cũng được củng cố mỗi khi chúng ta nhìn thấy những dấu đinh và những vết thương của Chúa Giêsu nơi các Kitô hữu khác trong Giáo Hội. Nhiều thanh niên nam nữ đã hăng say dấn thân trong đời sống tu trì và làm tông đồ vì họ đã nhìn thấy những dấu đinh, những vòng gai và những giòng máu hy sinh của các thánh tử đạo và nơi những nhà truyền giáo vì danh Chúa Kitô. Vì niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà nhiều cặp vợ chồng đang cố gắng sống trung tín với Chúa và trung thành với nhau trong tinh thần yêu thương của bí tích hôn phối cho dù phải đối diện với nhiều cám dỗ và thử thách của xã hội ngày nay. Sự dấn thân hy sinh phục vụ của nhiều vị thánh, nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân khắp nơi trên thế giới ở mọi thời đại trong lịsh sử Giáo Hội, tất cả đã là những dấu chứng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu, là người Công giáo tin vào Chúa Kitô Phụs Sinh, thì chúng ta cũng là những sứ giả được Chúa Kitô sai đi làm nhân chứng cho Ngài. Người ta sẽ nói với chúng ta, “Làm ơn cho tôi xem tay của bạn! Làm ơn cho tôi xem chân của bạn! Làm ơn cho tôi xem cạnh sườn của bạn! Nếu tôi không thấy những vết thương, những vết sẹo giống như của Chúa Kitô: yêu thương người nghèo, che chở người yếu thế, bênh đỡ người có tội, yêu thích điều công chính, làm những điều như Chúa Kitô đã làm, sống như Chúa Kitô đã sống; chết cho tha nhân như Chúa Kitô đã chết cho nhân loại, thì tôi không tin!” Các tông đồ và các Kitô hữu của Giáo hội thuở ban đầu đã làm được những việc phi thường và do đó nhiều người đã tin vào Chúa Kitô. Ngày nay chúng ta làm được những việc phi thường gì để người khác có thể nhận ra Chúa Kitô và đặt niềm tin vào Ngài?
Một Câu Truyện
Một người đi xa vượt biển băng rừng để tìm gặp một vị đạo sĩ nổi tiếng có nhiều môn sinh. Anh tìm đến để hy vọng cũng được theo làm môn sinh. Khi đến nơi người ấy hỏi một môn đệ của vị đạo sĩ:
– “Thầy của anh đã làm được những phép lạ gì ở xứ nầy?”
Người môn sinh đó trả lời, “Nhiều phép lạ lắm. Hết phép lạ này đến phép lạ khác. Ở xứ anh, người ta quan niệm phép lạ xảy ra khi Thiên Chúa thực hiện những điều người ta mong muốn. Còn ở xứ này, chúng tôi quan niệm phép lạ là khi một người dám thi hành những điều Thiên Chúa muốn.”
Là những Kitô hữu Công giáo, chúng ta không phải là những người ngồi đó hy vọng chờ để được chứng kiến thêm phép lạ Chúa làm hầu cho đức tin chúng ta được củng cố. Nhưng chúng ta cần phải là những người dấn thân ra đi làm phép lạ trong đời sống của chúng ta, trong gia đình chúng ta, và trong xứ đạo của chúng ta hầu cho những người khác có thể nhận ra Chúa Kitô phục sinh. Những phép lạ và những điều phi thường chúng ta có thể làm là can đảm sống và thi hành những điều Thiên Chúa muốn. Và giống như các tông đồ và các tín hữu thuở ban đầu, sống hiệp thông đoàn kết với nhau trong tinh thần cầu nguyện, bẻ bánh, ca khen Thiên Chúa, chia sẻ những gì mình có với người nghèo. Sống như thế tức là chúng ta đang làm được những việc phi thường. Và cuộc đời của chúng ta, những bàn tay, đôi chân của chúng ta sẽ mang những dấu đinh hy sinh vì tình yêu tha nhân giống như Chúa Kitô. Và như thế chúng ta sẽ trở nên những nhân chứng đáng tin cậy.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH- A
CÁC VẾT SẸO– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ Ngài đều “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài. Chính trong cộng đoàn bị thương tích, đau đớn và vỡ mộng này, Chúa Giêsu đã đến, mang theo những lời tha thứ và chữa lành: “Bình an cho anh em”.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
- Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Chúa Giêsu phục sinh mang các vết sẹo như là chiến tích vĩnh cửu. Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
- Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả
Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
- 3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Đức Giêsu đã không lạ lẫm với đau đớn, âu lo, thất bại và nỗi cô đơn. Người biết sự phản bội của bạn hữu. Người đã mang lấy những vết thương hữu hình và vô hình vì nhân loại. Chúng ta cũng vậy, không chỉ mang lấy những vết thương của mình, mà còn cưu mang những thương tổn của những người ta yêu mến, những người gặp hoạn nạn và bệnh tật. Chúng ta cũng thổn thức với những âu lo, đau khổ của thế giới trong những tháng ngày dịch bệnh virut Vũ hán. Giờ đây, ánh sáng của Thiên Chúa đã chiếu sáng xuyên qua bóng tối của ngôi mộ, chúng ta không còn phải lo sợ về cái chết cuối cùng nữa.Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).
Ngày 23/9/1968, cha Piô Năm Dấu, vị linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại nước Ý. Ngài nổi tiếng vì được Chúa in năm dấu thánh trên thân thể suốt 50 năm. Năm dấu thánh đó là năm vết thương của Chúa được in trên hai tay, hai chân và cạnh sườn cha Piô. Những vết thương đó thường rỉ máu và làm cho ngài đau đớn khôn tả. Ngài được khám nghiệm y khoa và được kiểm chứng bằng khoa học nhiều lần. Nhưng tất cả các nhà chuyên môn đều không thể giải thích được hiện tượng này và cũng không có cách nào chữa trị được các vết thương đó.Ngày 02/5/1999 ngài được phong chân phước và ngày 16/6/2002 được phong hiển thánh bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Cha thánh Piô đã được in năm dấu thánh để được hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu. Đó cũng là những chứng tích niềm tin cho một thế giới “cứng lòng tin” hôm nay. Chúng ta cũng hãy mang lấy những dấu tích đau thương của Chúa không phải nơi thân xác nhưng trong tâm hồn và cuộc sống chứng nhân, để làm cho niềm tin được tỏa sáng đến mọi người.
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatiiphucsinha #suyniemloichuagpbr