CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN-A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HÃY LÀ MUỐI CHO ĐỜI VÀ LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN – Chú giải của Fiches Dominicales. 14
SỨ MẠNG CỦA LỜI CHỨNG(*)- Lm. Inhxiô Hồ Thông.. 22
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN – A.. 29
SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 29
MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 40
MUỐI CHO ĐỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 48
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO ĐỜI – Lm. Đan Vinh HHTM.. 51
CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN – Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 66
VÌ ĐỜI VÀ CHO ĐỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng.. 70
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO ĐỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 75
MUỐI, ÁNH SÁNG- Lm. Gioan M. Cao Vũ Nghi 79
MUỐI ĐẤT- Lm. Giuse Vũ Thái Hòa.. 83
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 86
GIÁC NGỘ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 92
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Này đây Chúa phán: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý của ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang của Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, ngươi gọi, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: “Này Ta đây”. Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 111, 4-5. 6-7. 8a và 9
Ðáp: Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay (c. 4a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phước đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình.
Xướng: Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. Người không kinh hãi vì nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng cậy trông vào Chúa.
Xướng: Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.
Bài Ðọc II: 1 Cr 2, 1-5
“Tôi đã công bố cho anh em bằng chứng của Chúa Kitô chịu đóng đinh”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan; tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa. Thật vậy, tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Phần tôi, chính trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy mà tôi đã đến với anh em; lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là ánh sáng thế gian; ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 13-16
“Các con là sự Sáng thế gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn sử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
“Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.
Ðó là lời Chúa.
LÀ MUỐI, LÀ SÁNH SÁNG (*)- Chú giải của Noel Quession
Bài giảng trên Núi đã bắt đầu từ Chúa nhật vừa qua bởi các mối Phúc thật sẽ được tiếp tục trong năm Chúa nhật. Matthêu đã tập họp ở đây những lời dạy của Đức Giêsu mà Maccô và Luca đã đặt vào những bối cảnh khác. Đó là dấu chỉ người ta có thể đưa ra những lời giải thích khác nhau. Những lời dạy của Đức Giêsu thường khá mở rộng để đón nhận nhiều ý nghĩa khác nhau.
“Chính anh em là muối cho đời”
Đức Giêsu nói với những người sống theo các mối phúc Người nghèo khó, người hiền lành, người xây dựng Hoà bình, người bị bách hại.. “chính anh em là muối cho Đời. Hình ảnh này gợi cảm và rất cởi mở, có thể đón nhận nhiều ý nghĩa bổ sung. Vào thời của Đức Giêsu, muối dùng để làm cho đất màu mỡ, dĩ nhiên có trộn với phân bón… Như một loại phân bón để mùa màng được tươi tốt. Ngày hôm nay, muối luôn luôn dùng để bảo quản thực phẩm… nó ngăn cản hoặc làm chậm lại sự phân hủy. Nhưng vai trò thông thường nhất của muối là đem lại hương vị: có muối, ngon đấy… không có muối, tất cả thành nhạt nhẽo.
Đức tin dùng để làm gì? Liệu tin vào Đức Giêsu và sống các mối Phúc thật có thay đổi gì không? Đức Giêsu trả lời: “Đem lại hương vị cho đời?”
Con người hiện đại, còn hơn cả con người của các thời đại trước đây bị chìm ngập trong sự tầm thường và buồn chán mỗi ngày: những cử chỉ máy móc và vô vị của công nhân làm việc theo dây chuyền… những khuôn mặt nhợt nhạt dưới ánh sáng đèn những… những đồ vật được tiêu chuẩn hóa ‘bằng nhựa dẻo…” sự nhạt nhẽo trong rất nhiều câu chuyện trao đổi thường ngày… sự cào bằng trước những ý thức hệ… Đời sống có còn thú vị gì không? Nếu người ta nói nhiều về “chất lượng đời sống” thì một cách chính xác chẳng phải người ta đã đánh mất chất lượng ấy hay sao?
Chính trong bối cảnh hiện tại này mà NGÀY HÔM NAY Đức Giêsu lại nói với chúng ta: chính anh em là muối cho đời! Anh em hãy đem niềm vui, sự táo bạo, nhiệt tình vào cái tầm thường mỗi ngày. Anh em hãy đem ý nghĩa đến cho những thực tế, thông thường có nguy cơ trở thành nhạt nhẽo. Anh em hãy đặt Nước Thiên Chúa vào trong các thực tế ấy. Anh em hãy thách đố mọi chủ nghĩa vô thần hiện đại đã bắt đầu loại bỏ đi “khả đăng siêu việt”, tức là muối, của nhân loại… để rồi sau đó không ngừng tuyên bố rằng đời sống là “phi lý” và không có ý nghĩa. Với Đức Giêsu mọi sự đâu có thể mang một ý nghĩa, một “hương vị”; dù là sự đau khổ, sự bách hại, cả cái già và cái chết, sự thất bại cũng xây dựng. Một nhà hiền triết đã viết như thế. Rên rỉ để làm gì? Ai sẽ nói giá trị mầu nhiệm và huyền diệu của thử thách đời sống trong sự hiệp thông với Đức Giêsu?
“Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy cái gì muối cho nó mặn lại? nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi”.
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải “chính thống” không trở thành nhạt nhẽo. Một Kitô hữu đã đánh mất “mùi vị Thiên Chúa”, mùi vị đích thực duy nhất sẽ trở thành vô dụng “Tin Mừng chính là muối, và các bạn sẽ làm ra đường từ muối đó”. Paul Claudel đã cao rao như thế.
Đức Giêsu mạnh mẽ cảnh báo chúng ta: sau một thời gian sống quảng đại và ác liệt, đức tin của chúng ta có thể bị biến chất. Động từ mà chúng ta dịch là “nhạt đi” hay biến chất cũng có nghĩa “trở nên mất trí”… đánh mất lương tri trở thành điên đại! Theo nghĩa của Kinh Thánh…nghĩa là đánh mất. sự khôn ngoan mà đức tin vào Thiên Chúa ban cho (Is 19,11). Thánh Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4, 5-6).
Nếu chúng ta trở nên quá vô vị, đó là vì chúng ta đã để cho sức mạnh ăn mòn của muối trong Tin Mừng yếu đi trong đời sống chúng ta. Nếu muối nhạt đi.. Tôi phải đối với giả thiết ấy cho tôi và đời sống của riêng tôi. Nếu mọi Kitô hữu không còn là muối nữa thì người ấy trở nên vô dụng, Người Kitô hữu “con tắc kè” chấp nhận mọi phương thức và mọi tâm thức của thế gian, mặc lấy màu sắc của môi trường người ấy sống, và trở nên vô dụng. “Tôi làm như vậy, bởi vì mọi người đều nghĩ như thế… bởi vì khắp mọi nơi, người ta làm như thế”; chúng ta có đánh mất tất cả nhân cách để theo lối sống tiêu thụ và duy vật không kìm chế không? Chúng ta có thủ lợi từ những bất công xã hội không? chúng ta có để cho mình rơi vào thái độ không hành đạo hoặc chủ nghĩa vô thần viện cớ rằng nhiều người làm như thế xung quanh chúng ta?
Đối với những người trở nên vô vị, với những Kitô hữu đang trở thành một chất thải màu sắc, không mùi vị, Đức Giêsu nói: “Anh em phải khác với thế gian, nếu anh em muốn là muối cho thế gian”..
Một yêu sách, đúng vậy. Nhưng trong một sự khiêm nhường cao cả. Không phải vì người ta là Kitô hữu mà người ta tự động là một con người cao siêu. Mỗi người chúng ta điều biết những giới hạn và những tội lỗi của mình. Nhưng thứ muối mà chúng ta phải đem lại cho thế gian không phải là lòng kiêu ngạo của các nhân đức cũng không phải sự cao siêu của chúng ta mà chính là “điều ‘ Thiên Chúa đã làm trong chúng ta”.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.
Cách nói bóng bẩy thứ hai này có cùng một hình thức và ý nghĩa như cách nói đầu, nhưng còn cao cả hơn nữa! Phải là “mặt trời” cho thế gian! Không có ánh sáng, sẽ không có màu sắc, vẻ đẹp và sự sống nào cả. Đức Giêsu đã sống trong một xã hội tiền khoa học không biết được nhiều điều, nhưng xã hội ấy gần gũi thiên nhiên hơn chúng ta và cũng hiểu được nhiều điều hơn chúng ta về các thực tại sống. Giờ đây chúng ta, nhờ khoa học mà biết rằng không có ánh sáng, không thể có sự sống. Thật vậy; mặt trời là nguồn gốc duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng tồn tại trên hành tinh chúng ta.
Không có sự quang hợp các chất diệp lục trong cây cỏ thì cũng không thể có bất cứ đời sống sinh vật hoặc con người nào. Không có mặt trời, sẽ không có than đá, dầu hỏa và điện năng… bởi vì không có rừng và thủy triều, mặt trời là một hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa: suối nguồn của mọi sự sống! Từ khi thế giới được tạo dựng, một ánh sángtràn trề chiếu soi mọi vật. “Hãy có ánh sáng!” (St 1,2)
Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1) “Tôi là ánh sáng của thế gian, Đức Giêsu đã nói: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Trở thành ánh sáng của thế gian quả là một trách nhiệm to lớn.
Bản thân chúng ta rất ít tỏa sáng. Chớ lấy đó mà sinh lòng kiêu ngạo.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng của Chúa. Trong đạo Do Thái, chỉ có Luật của Môsê và Đền Giê-ru-sa-lem mới được gọi là “ánh sáng”. Chúng ta nhận thấy cuộc cách mạng phi thường mà Đức Giêsu định thực hiện? Trước mặt Người là những con người hèn mọn, tật nguyền, bệnh hoạn, những con người đau khổ bởi mọi thứ giày vò (Mt 4,23). Đó không phải là những người đàn ông và đàn bà xuất chúng, nhưng là những, người nghèo khổ, không có văn hóa và cũng không có ảnh hưởng. Những con người không sùng đạo hơn những người khác, với đám đông đó, Đức Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian!”. Chính họ không phải là “ánh sáng” nhưng họ chỉ để ánh sáng xuyên qua và tỏa sáng qua họ đức tin mà họ có trong Đức Giêsu. Đức Giêsu tạo ra cho Người ý tưởng kỳ diệu về nhân phẩm con người khi người để cho Thiên Chúa phong chức cho mình!
Một thành xây trên núi khống tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”
Từ bờ Hồ Ti-bê-ri-a, người ta thấy thành Safed, ở trên cao với cao độ hơn một ngàn mét, thành được xây trên những núi nằm ngang của dãy núi Ga-li-lê, chiếu ánh sáng của nó ra xung quanh. Đức Giêsu đã thoáng thấy những căn nhà màu trắng của thành được mặt trời chiếu sáng. Trong căn nhà nhỏ của gia đình, Đức Giêsu cũng thường nhìn thấy Mẹ Người. Đức Maria đốt đèn trong ngày Sa-bát. Một cái đèn khiêm tốn bằng đất nung nhưng đủ để soi sáng “cả nhà” trong gian nhà duy nhất của những nhà người nghèo ở Phương Đông. Hãy soi Sáng Đức Giêsu nói chúng ta hãy soi sáng.
Vấn đề ở đây không phải là sự phô trương của chủ nghĩa đắc thắng, như ngày nay người ta nói. Vì sau đó, Đức Giêsu sẽ khuyên chúng ta: “Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy” (Mt 6,1). Không phải chính chúng ta tự tôn giá trị của mình như những cách phô trương của những người Pha-ri-sêu mà Đức Giêsu từng đả kích (Mt 6, 1.6). Chỉ ánh sáng của Thiên Chúa mới có thể soi sáng anh em chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy muốn soi sáng thông qua chúng ta. “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa sáng ngời trên gương mặt Đức Kitô. Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi”. (2 Cr 4, 6-7).
“Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của Matthêu. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói về “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Đức Giêsu ở đây mạc khải một định hướng và trách nhiệm to lớn của các Kitô hữu trong thế gian là phải trở thành “muối cho thế gian, mặt trời của hoàn vũ… không không phải vì vinh quang của riêng mình. Vinh quang ấy dùng để tôn vinh Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã là một người hoàn toàn tách ra khỏi trung tâm của bản thân mình và hoàn toàn hướng về Chúa Cha. “Tôi không cần người đời tôn vinh”, Đức Giêsu đã nói như thế (Ga 5,41)
Về phần chúng ta là những người tội lỗi, rõ ràng nếu chúng ta có chút gì là “muối” và “ánh sáng”, điều đó chỉ do Chúa Cha mà đến. Nếu bạn mạnh khỏe, vui vẻ, quảng đại và tự nhiên thanh khiết, đó là vinh quang của bạn và càng tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn là một người yếu đuối mà Thiên Chúa làm cho mạnh mẽ, một kẻ tội lỗi mà Thiên Chúa cứu độ, một người. Ô uế mà Thiên Chúa không ngừng thanh huyện, một người hay thù oán mà Chúa Cha đã dạy sự tha thứ, một người quan tật sâu xa đến tiền bạc mà Thiên Chúa đã giải thoát khỏi mọi thứ của “cải của mình. Nếu bạn là một trong số những người nghèo, khó ấy, đã thất bại nhiều trong mọi thứ công việc mà vẫn hạnh phúc” bởi niềm vui của các mối phúc thật… lúc đó, trường hợp của bạn có thể làm anh em của bạn quan tâm, bởi vì sự khốn khổ của bạn cũng là của anh em bạn và chính họ, họ cũng có thể hy vọng được cứu chữa. Khi nhìn thấy điều tốt lành mà bạn, một người rất yếu đuối đã làm, họ có thể tôn vinh Cha của bạn, Đấng ngự trên trời.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN – A
HÃY LÀ MUỐI CHO ĐỜI VÀ LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Sứ mạng của các môn đệ.
Trong các mối phúc Đức Giêsu đã công bố hạnh phúc cho những người đáp lại lời mời gọi của Ngài và bắt đầu theo Ngài: đó là các môn đệ. Hạnh phúc được ban cho họ từ bây giờ như một quà tặng, ngay trong những hoàn cảnh cụ thể và đôi khi ngay trong những hoàn canh đau khổ tột cùng của đời sống “Nước Trời và của họ”; một ngày kia hạnh phúc ấy sẽ triển nở trong ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của anh em sẽ lớn lao trên trời”.
Tiếp theo lời mở đầu của bài giảng trên núi, Đức Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ Ngài: anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian. Chúng ta đã bao giờ có một định nghĩa hay hơn định nghĩa này về Giáo hội không? giáo Hội không phải là một cái bình xoay trong đó là những người được cứu độ (ngoài Giáo Hội không có sự cứu độ), nhưng vì ánh sáng trên núi cao chiếu tỏ ý nghĩa cuộc sống và cắm nọc tiêu chỉ đường cho những ai sống trong bóng tối (Is 60), ánh sáng này qui chiếu về nguồn mà nhờ đó nó tỏa sáng! (Cahier Evangile, số 9, tr. 11) trong thế giới sê-mít nơi Đức Giêsu công bố giáo huấn này và nơi Thánh Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, muối là một thực tại hằng ngày chứa rất nhiều ý nghĩa biểu tượng. Được dùng trong việc chuẩn bị bữa ăn để cho các món ăn thêm hương vị, muối đã trở nên biểu tượng của tất cả những gì làm cho hiện hữu có hương vị và ý nghĩa, đàng khác một điều đáng chú ý là trong tiếng Latinh, “nếm” (sapere) và “khôn ngoan” (sapientia) có cùng một gốc và trong tiếng Hy lạp và tiếng Do thái, có cùng một động từ vừa có nghĩa “lạt đi” “trở nên lạt lẽo” vừa có nghĩa trở nên vô nghĩa”.
Được dùng trong việc bảo quản thức ăn, muối đã trở nên biểu tượng của sự vĩnh hằng và được sử dụng trong những nghi lễ giao ước – người ta nói Giao ước của muối” (2 Sb 13, 5 và Lv 2, 13) và trong những nghi lễ đón tiếp và cho khách ở trọ. Muối không được lạt đi! Cl. Tassin chú giải: các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ”. (Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62).
- và “ánh sáng thế gian”.
Để giúp các môn đệ hiểu rõ hơn sự lớn lao và những đòi hỏi của sứ mạng Ngài trao, Đức Giêsu dùng hai hình ảnh.
Trước hết, Ngài nói đến một “thành xây trên núi” có lẽ cảnh trí của thành Safed đã gợi ý cho Ngài. Thành này nằm trên mũi đá phía đông-bắc rặng Haute-Galiê nên ban ngày, những ngôi nhà mầu trắng phản chiếu ánh sáng mặt trời và ban đêm nó tỏa sáng. “Trở nên ánh sáng thế gian”, đó là lời các ngôn sứ loan báo về tương lai của Giêrusalem vào thời Đấng Thiên sai: thành này sẽ là thành phố ánh sáng trên núi mà mọi dân tộc sẽ đi về đó. Là ánh sáng cho thế gian” là sứ mạng được trao cho cộng đoàn các môn đệ. Rồi Ngài nói với các môn đệ người ta đốt đèn không phải để giấu nó “dưới đáy thùng” -dùng để xếp đồ trong những ngôi nhà xứ Palestine- nhưng là để trên “giá đèn” hầu soi cho tất cả mọi người trong nhà. Cộng đoàn các môn đệ mà Ngài sai đến trong thế gian cũng phải như vậy.
Cl.Tassin kết luận: Giáo Hội sẽ thi hành sứ mạng là muối cho đời và là ánh sáng thế gian, bởi sự chôn vùi và sự tỏa sáng chứ không phải là tham vọng chinh phục về địa dư (Sách đã dẫn)
BÀI ĐỌC THÊM
- Muối và ánh sáng: (Đức cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần” Desclée de Brouwer, 1 994, tr.48-49)
“Anh em là muối cho đời”. Để có ích, muối không được mất vị của nó: nó chỉ là gia vị! Chính nó không phải là thức ăn, ít ra thường là như vậy: nó giúp cho thúc ăn có hương vị. Trở nên nguồn hương vị thơm ngon, đó là nét độc đáo của chúng ta, những người theo Đúc Kitô, trong thế giới chúng ta đang sống. Nét độc đáo này giúp chúng ta trở nên hữu ích cho đời nhờ sự khác biệt của nó. Chúng ta không được đánh mắt sự khác biệt này: Nếu muối: lạt đi thì lấy gì ướp nó mặn lại được? Sự khác biệt của chúng ta không ở nơi bản chất riêng của mình hay nơi những tính tốt chúng ta có, chúng ta không tự hào là những người tốt nhất hoặc muốn dạy người khác. Chúng ta cũng được nhào nặn bởi cùng một-thứ bột như tắt cả mọi người. Chúng ta cũng gặp những thuận lợi và những chướng ngại trong chúng ta và chung quanh chúng ta như mọi người. Nhưng chúng ta ra lạt khi không còn liên kết với Đức Kitô, khi không còn qui chiếu về Ngài, khi Ngài không còn là men cho đời sống chúng ta. Lúc đó cuộc sống chúng ta và thế giới chúng ta sống sẽ thiếu hương vị, bởi vì sứ mạng của chúng ta là làm cho thế giới này biết thưởng thức Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài! Hình ảnh ánh sáng nối tiếp và làm rõ hình ảnh về muốí: Anh em là ánh sáng thế gian ánh sáng là để nhìn, chúng tự nó không đủ. Nó vô dụng nếu nó không soi cho thấy gì hết. Đức Giêsu đặt các môn đệ của Ngài trong thế gian ta qui chiếu với thế gian. Ngài không kêu gọi họ đóng khép kín, tách rời người khác. Thánh Gioan cũng nói như vậy nhưng diễn tả cách khác: Con sai họ đến trong thế gian (Ga17, 18). Chính vì vậy, các Kitô hữu sống trong thế gian và trong những hoàn cảnh như mọi người không những là điều bình thường mà còn cần thiết nữa…không sống trong một thế giới khác! Chúng ta phải thực hiện những công việc của ánh sáng, nghĩa là những hành vi tốt hay những việc làm tốt được ánh sáng Thiên Chúa soi chiếu để trở thành những việc làm của chính Thiên Chúa. Nói vậy không có nghĩa là Thiên Chúa mời gọi chúng ta tin rằng mình là người tốt hơn người khác hoặc tự mình, mình có thể hành dộng tốt hơn họ, bởi vì mọi công việc chúng ta làm đều qui về vinh quang Thiên Chúa là nguồn ánh sáng: ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Nơi Đức Giêsu, ánh sáng đã tỏa chiếu trong thế gian. Chúng ta chỉ phản chiếu lại ánh sáng này. Đời sống, hành vi của chúng ta trở nên tấm gương phản chiếu vinh quang Thiên Chúa, trở nên nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người”.
- “Thấm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng sức mạnh linh hoạt của muối và sự chiếu toả của ánh sáng” (J. Guiuet. Trong Giêsu trong niềm tin của các môn đệ đầu tiên, Desclée de Brouwer, 1995, tr.110-111).
“Matthêu đã xen kẽ hai đoạn ngắn với hình thức dụ ngôn về muối và ánh sáng vào giữa các Mối Phúc và những điều Đức Giêsu công bố về Luật (Do Thái). Cả hai đoạn này đều nhắm một nhóm riêng, phân biệt rõ ràng với những người đi theo nghe Ngài giảng, bởi vì nhóm này phải hành động theo lời Ngài dạy: “Anh em là muối cho đời”, “Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,16). Trong bối cảnh Bài giảng trên núi, rõ ràng Đức Giêsu nói với các môn đệ theo Ngài. Và nếu không loại bỏ đám đông náo nức theo Ngài, chúng ta có thể tin rằng sứ điệp của Đức Giêsu đã gây một tiếng vang nào đó trong đám đông và có thể một hạt nhân các môn đệ thành hình, gồm phụ nữ và đàn ông muốn theo Chú, tuy nhiên họ không làm thành một dân tộc mới, họ vẫn luôn thuộc về dân của Abraham, của Môi-sen: họ là những người mang sứ điệp mới trong dân tộc họ. Điều này không có gì là lạ bởi vì người Israel đã có thói quen nghe các ngôn sứ nói đến tương lai mà Thiên Chúa đang chuẩn bị, tương lai đó có lúc đen tối, có lúc lại rực rỡ. Tuy nhiên, tương lai Đức Giêsu phác họa hoàn toàn khác trước.
Ở đây sự song hành với biến cố Sinai giúp làm sáng tỏ hơn. Một nhóm nhỏ những người dân giã tương ứng với dân chúng đông đảo tụ tập dưới chân núi của Thiên Chúa. Nhưng trong khi ơn gọi của dân Israel là làm chứng cho Thiên Chúa và là dấu chl sự chúc phúc của Thiên Chúa ở giữa các dân tộc, thì sứ mạng của nhóm hạt nhân nhỏ này là thẩm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng bức mành linh hoạt của muối vô sự chiếu tỏa của ánh sáng. Abraham là người được Thiên Chúa chúc phúc và mọi dân tộc trên mặt đất đều được chúc phúc qua ông (St 12,1). Dân lsrael của Môisen phải trở nên một dân lớn và mọi dân tộc khác đều thán phục cách ăn ở và tinh thần của họ: Khi biết đến các lề luật này, họ sẽ thốt nên: Chỉ có một dân tộc khôn ngoan và minh mẫn, đó là dân tộc lớn này. Thật vậy, có dân tộc nào lớn đến nỗi các thần linh của họ gần gũi họ như Giavê, Thiên Chúa của chúng ta ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài”. (Dnl 4,6) Theo Đức Giêsu chỉ có một số môn đệ. Tuy sống trong lòng một thế giới còn chưa biết đến mình, nhưng họ lại mang theo mình một sức mạnh khả dĩ biến đổi thế giới. Bởi vậy, sự tỏa chiếu của các mối phúc trở nên động lực cuộc sống.
- “Xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi”. (H. Denis, trong ‘100 từ để nói về niềm tin’, Desclie de Brouwer, 993, 95-96).
“Muối! Tại sao lại chọn vật nhỏ bé chẳng là chi hết ngoài công dụng như một thứ gia vị? Một số Kitô không còn quen dùng nữa. Giáo Hội đôi khi còn nuối tiếc việc bỏ không dùng muối trong bí tích rửa tội. Một sự tiếc nuối vô ích khi mà nó không thúc đẩy người ta dấn thân.
Muối Tin Mừng còn quan trọng hơn một nghi lễ rất nhiều Bạn hãy mường tượng và chúng ta còn sửng sốt về điệu này muối là chính bạn là chính tôi, là tất cả môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ Đức Giêsu là phải là muối cho đời. Chỉ vậy thôi! Một tham vọng ghê gớm, nếu chứng tá tự cho mình là những người tốt nhất, là giả vị duy nhất trong đám đông nhạt thếch, không có vị mặn. Nhưng đó sẽ là một trách nhiệm lớn lao nếu Đức Giêsu trao cho chúng ta một sứ mạng như vậy và cách thế để thực hiện nó. Vâng, trước hết chúng ta có trách nhiệm của một loại giao ước giữa cái là muối và cái chưa phải là muối. Môt thế giới không có muối thì chẳng có một chút hương vị nào, nhưng nếu ở ngoài thế giới này thì muối cũng vô dụn, Kitô hữu và thế gian là hai thành phần liên kết với nhau. Cả hai được tạo dựng để trộn lẫn với nhau. Hơn nữa, người trước tiên được lợi chính là người Kitô hữu, vì họ phải ướp mặn nơi họ tất cả những gì chưa là Kitô hữu. Một trách nhiệm khác mầ bạn biết rất rõ, đó là đừng la nhạt. Bạn đừng nghĩ rằng để tránh điều này bạn phải trốn khỏi thế gian ắt hẳn sẽ có nguy cơ bị tan rã ở đó cách đơn thuần và dễ dàng. Nhưng muối mà chất đống và để nguyên một chỗ cũng có nguy cơ bị phân hủy đi. Vậy bạn hãy nói cho tôi biết, nếu giữa người với người, giữa những Kitô hữu với nhau, chúng ta cố gắng duy trì vị hương cho thế giới của chúng ta thì phải làm thế nào? Không thể chỉ cậy vào mình. Phải có thể nói: Xin đưa cho tôi chút muối? như là trong bữa ăn của đôi vợ chồng, của cha mẹ và con cái. Vâng, nếu có bao giờ Tin Mừng nơi bạn nhạt nhẽo đi thì luôn có một người anh, một người chị để bạn hoàn toàn tin tưởng nói với họ: “xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi!”.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
SỨ MẠNG CỦA LỜI CHỨNG(*)- Lm. Inhxiô Hồ Thông
Ý tưởng chủ đạo liên kết ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là sức mạnh của lời chứng: sức mạnh này làm cho người tín hữu trở thành con người của ánh sáng (Bài Đọc I và Tin Mừng) và qua sự yếu đuối của phàm nhân, chứng thực quyền năng Thiên Chúa (Bài Đọc II).
Is 58: 7-10
Bài Đọc I được trích từ phần thứ ba của sách I-sai-a, phần này được biên soạn vfo thời hậu lưu đày (sau năm 538 trước Công Nguyên). Vị ngôn sứ khuyên bảo hãy thực thi đức ái huynh đệ, quan tâm đến những người không nơi nương tựa, những kẻ khố rách áo ôm, những người đói ăn, đó là điều kiện để trở thành một con người chiếu giải ánh sáng Thiên Chúa.
1Cr 2: 1-5
Thánh Phao-lô nhắc cho các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy yếu đuối và sợ hãi (thánh nhân vừa mới chịu thất bại ở A-thê-na, ở đó sự khôn ngoan của Tin Mừng đã đụng chạm đến sự khôn ngoan phàm nhân). Nhưng sự yếu đuối này bày tỏ sức mạnh của Thần Khí trong sứ mạng gian khó của ngài là làm chứng cho Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Mt 5: 13-16
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ: như vậy, họ sẽ đem đến một vị mặn thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng cho thiên hạ.
BÀI ĐỌC I (Is 58: 7-10)
Bản văn tuyệt đẹp này xem ra thuộc vào thời kỳ những người lưu đày ở Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem (cuộc hồi hương khoảng năm 538 trước Công Nguyên). Tác giả của nó chắc chắn là một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ông được gọi dưới biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam.
1.Cách ăn chay mà Chúa ưa thích là thực hành đức ái:
Giáo Hội có chủ ý mời gọi chúng ta suy niệm bản văn này để chuẩn bị bước vào Mùa Chay. Quả thật, lời khuyên bảo được gởi đến những tín hữu thực hành chay tịnh và sám hối trong niềm mong chờ Thiên Chúa thi ân giáng phúc.
Vị ngôn sứ vạch cho thấy những khổ chế này chỉ là công việc đạo đức vô giá trị nếu không đi kèm theo việc thực hành đức ái. Cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích:
“Chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước những anh em cốt nhục?” (Is 58: 7)
2. “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông”:
Vị ngôn sứ sánh ví những thành quả của đức ái với ánh mặt trời vào lúc rạng đông. Trong những xứ sở Cận Đông ánh bình minh là một yếu tố thiết yếu của cuộc sống thường ngày. Ánh bình minh đồng nghĩa với hạnh phúc, niềm vui, thịnh vượng.
“Bấy giờ, ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,
vết thương ngươi sẽ mau lành” (58: 8a)
Đây sẽ là một ngày mới, một cuộc tái sinh thực sự không chỉ về phương diện luân lý nhưng còn cả về thể xác nữa vì sức lực sẽ được phục hồi mau chóng.
3. “Đức Công chính ngươi sẽ mở đường phía trước”:
“Đức công chính sẽ mở đường phía trước,
vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi” (58: 8b)
Trong vế thứ nhất của câu này, từ Híp-ri được dịch “đức công chính”, theo văn mạch cũng có nghĩa “chiến thắng”. Chắc chắn sắc thái ngữ nghĩa này phải được hiểu ở đây. Đức công chính mà người tín hữu thực hành được sánh ví với những chiến lợi phẩm sẽ mở đường phía trước người chiến thắng.
Vế thứ hai được dịch sát chữ: “Vinh Quang Thiên Chúa sẽ là hậu quân của ngươi”. Đây là hình ảnh của đám rước khải hoàn.
4. Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả:
Nhịp tăng dần của nhà thơ còn đi xa hơn khi tác giả khẳng định rằng Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả người thực hành đức ái. Đây là cách thức diễn tả cuộc đối thoại thường hằng giữa Thiên Chúa và người công chính.
“Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!” (58: 9)
Vị ngôn sứ một lần nữa liệt kê những cử chỉ bác ái và một lần nữa sánh ví thành quả của chúng với thành quả của ánh sáng, nhưng lần này với ánh sáng nội tâm. Sự rực sáng của thiện nhân chẳng khác nào sự chiếu sáng vinh quang của Thiên Chúa:
“Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,
làm thỏa lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (58: 10).
BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 1-5)
Bản văn này được trích ngay liền sau bản văn mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật tuần trước và được định vị vào trong cùng một hàng lập luận.
1.Quyền năng Thiên Chúa được bày tỏ ở nơi sự yếu đuối:
Thánh Phao-lô tiếp tục biện luận của mình về sự khôn ngoan Thiên Chúa và sự khôn ngoan phàm nhân. Thánh nhân giải thích cho các tín hữu Cô-rin-tô hiểu rằng sự khôn ngoan Thiên Chúa được bày tỏ qua những người khiêm hạ, điều này được kiểm chứng bởi muôn ân sủng mà họ nhận được.
Bản thân thánh nhân là một trong những ví dụ đó. Khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy, và chẳng có lời lẽ hùng biện. Chẳng phải sự hùng biện phải câm nín khi loan báo một Đức Ki-tô chịu đóng đinh sao? Thánh Phao-lô thích nhấn mạnh sự tương phản giữa sự yếu đuối của ngài, sự bé nhỏ của những phương tiện ngài sử dụng và ảnh hưởng của lời ngài rao giảng. Thánh nhân muốn công bố rằng “quyền năng Thiên Chúa được thực hiện ở nơi sự yếu đuối” (2Cr 12).
Đừng hiểu “sợ sệt và run rẩy” theo nghĩa đen, đây là một thành ngữ. Chúng ta gặp lại thành ngữ này trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô khi thánh nhân gợi lên việc các tín hữu này đã đón tiếp nồng hậu người cộng tác viên của ngài, ông Ti-tô: “Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh” (2Cr 7: 15). Đây là cách diễn tả thái độ khiêm tốn và kính trọng, dẫu rằng vào lúc đó thánh nhân có nhiều lý do để lo lắng: những vết thương do việc đánh đòn mà thánh nhân đã chịu ở Phi-líp-phê chưa lành hẳn; những quấy nhiễu của người Do thái ở Thê-xa-lô-ni-ca đã buộc thánh nhân phải trốn chạy; mới đây, cách tiếp đón lạnh nhạt của dân thành A-thê-na.
2.Hậu cảnh: cuộc thất bại ở A-thê-na:
Thánh Phao-lô đã đến Cô-rin-tô vào năm 50 từ A-thê-na ở đó thánh nhân đã nếm mùi thất bại. Ở nơi đỉnh cao của sự khôn ngoan và triết học, thánh nhân đã không được hiểu. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã không dễ dàng hòa nhập vào giữa những suy luận ngoại giáo, thậm chí bởi những lời lẽ hùng biện. Vì thế, ở Cô-rin-tô, thánh nhân sử dụng một phương pháp khác. Thánh nhân không dùng “lời lẽ khôn ngoan để thuyết phục”, nhưng để cho Thần Khí hoạt động qua những lời đơn sơ giản dị của mình và cách hành xử khiêm hạ của mình.
Đừng nghĩ rằng thánh nhân kết án sự hùng biện, vì lẽ thánh nhân mượn ở nơi nghệ thuật này biết bao điều tốt đẹp, cũng không sự khôn ngoan phàm nhân, vì lẽ thánh nhân ca ngợi đức điều độ của người Hy-lạp. Nhưng thánh nhân kết án sự khôn ngoan khi mà nó tự phụ khi áp dụng những tiêu chuẩn của mình vào một sứ điệp vượt quá nó. Đây là điều mà những người Hy lạp này với tinh thần tinh tế xem ra cư xử Tin Mừng như một sự chọn lựa khôn ngoan hay lời dạy của nhà hùng biện.
TIN MỪNG (Mt 5: 13-16)
Bản văn này tiếp liền ngay sau sứ điệp về các Mối Phúc. Chính khi thực hành các Mối Phúc mà các môn đệ sẽ là “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian”.
Hai dụ ngôn này là hai cách khác nhau diễn tả cùng một thực tại: trước hết là những môn đệ, và sau họ là những Ki-tô hữu, phải đóng một vai trò cần thiết trong xã hội như “muối” hay “ánh sáng”. Hai hình ảnh muối và ánh sáng này phối hợp với nhau theo từng chi tiết, được mượn ở cuộc sống thường ngày như Đức Giê-su thích làm như vậy.
1.Muối cho đời:
Dân Pa-lét-tin không dùng muối được khai thác từ biển, nhưng từ đất mà họ tìm thấy ở những vùng phụ cận Biển Chết, ơ đó khối muối to lớn trải dài sáu cây số, trộn lẫn đất sét và thạch cao. Họ vất bỏ những gì không dùng được dọc theo những con đường khách bộ hành dẫm đạp lên: “Muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lạ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5: 14).
Muối thêm vị mặn và làm thanh sạch thức ăn; ngoài ra, muối còn bảo quản thức ăn; vì thế, muối biểu tượng tính bền vững của hiệp ước, tức “muối Giao Ước”. Thánh Mác-cô gợi lên biểu tượng này của muối: “Anh em hãy giữ muối trong lòng mình, và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9: 50). Dâng hiến “bánh và muối”, chính là đề nghị tình bạn, ký kết một giao ước. Sách Dân Số 18: 19 nói về “giao ước muối” để nói về tính bền vững của giao ước. Đức tính nào trong số những đức tính của muối này Chúa Giê-su ám chỉ đến? Khó mà biết được; nhưng rõ ràng Đức Giê-su nghĩ đến khía cạnh tiểu số của những người Ki-tô hữu. Trong đống bột nhân loại bao la, những Ki-tô hữu phải là một nhúm muối thêm gia vị và làm thanh sạch, đem lại vị mặn của Thiên Chúa. Họ là những sứ giả của Tin Mừng không xuất phát từ thế giới này. Họ là những phu trạm của sự khôn ngoan Thiên Chúa đang hoạt động ở lòng nhân loại. Bản văn Hy-lạp hướng đến lối giải thích này: “Nếu muối trở nên điên khùng, thì hỏi lấy gì muối nó cho mặn lại”, điều này khiến nghĩ đến ý nghĩa được rút ra từ hình ảnh của muối: muối cho sự khôn ngoan.
2.Ánh sáng cho trần gian:
Sau này, Chúa Giê-su sẽ công bố mình là “ánh sáng thế gian”; nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban phẩm chất này cho các môn đệ Ngài: “Chính anh em là ánh sáng thế gian”. Khi nói “Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được”, xem ra vào lúc này Đức Giê-su đưa tay chỉ một thành xây trên một ngọn đồi xứ Ga-li-lê, mà những ngôi nhà sơn trắng đập vào mắt và được ánh mặt trời chiếu sáng. Người ta nghĩ đến thành Safed xây ở độ cao 1050 mét, được nhìn thấy từ thành Ca-phác-na-um.
“Ánh sáng thế gian” là diễn ngữ Kinh Thánh. Các ngôn sứ đã nhắc nhở dân Ít-ra-en về sứ mạng mà họ phải thực hiện, đó là “ánh sáng cho muôn dân muôn nước”, làm chứng về một Thiên Chúa chân thật “cho đến tận những hải đảo xa xăm”, tức là “cho đến tận cùng thế giới”. Từ nay vai trò này được chuyển sang cho Giáo Hội: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mắt thiên hạ”. Đây không phải là vai trò phô trương mà Chúa Giê-su đòi hỏi ở nơi các môn đệ Ngài; nhưng Ngài đòi hỏi họ phải chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa bằng những công việc tốt lành họ làm. Giáo Huấn của Ngài gặp lại giáo huấn của vị ngôn sứ: những hành động của thiện nhân bừng lên ánh sáng chẳng khác nào hừng đông xuất hiện. Lúc đó, những ai nhìn thấy ánh sáng “sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Những lời này loan báo kinh Lạy Cha, chẳng bao lâu sẽ được Ngài dạy cho các môn đệ Ngài.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Chúa nhựt vừa qua, Lời Chúa cho chúng ta biết chúng ta rất hạnh phúc vì được làm công dân Nước Trời. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta biết sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời.
Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu sứ mạng ấy là gì, và chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa giúp chúng ta thi hành sứ mạng cao cả ấy.
– Chúng ta chưa hãnh diện vì được làm công dân Nước Trời. Ngược lại có khi còn che dấu hoặc xấu hổ vì điều ấy.
– Sống với những người chưa biết Chúa, chúng ta chẳng những không mang lại điều gì tốt cho họ, trái lại còn lây nhiễm những thói xấu của họ.
– Sống giữa những người khác, chúng ta không nêu gương sáng, ngược lại có khi còn làm gương mù gương xấu.
Trong thời gian dân do thái bị lưu đày bên Babylon, không còn Đền thờ, không còn các lễ nghi, các tư tế và luật sĩ sợ đức tin của dân bị phai lạt nên đã nhấn mạnh rất nhiều vào những hình thức đạo đức như ăn chay, cầu nguyện, bố thí. Đáng tiếc là vì quá nhấn mạnh đến hình thức, họ sao nhãng phương diện tinh thần. Khi dân do thái từ chốn lưu đày trở về, cách sống đạo của họ cũng nặng phần hình thức.
Đoạn này thuộc về phần III của sách Isaia (các chương 56-66, được gọi là Đệ Tam Isaia), được viết khi dân do thái từ chốn lưu đày đã được trở về quê hương. Tác giả nhắc nhở người ta phải sống đạo có chất lượng, để làm sao cho cuộc sống mình như một ngọn đèn tỏa sáng trước mặt mọi người.
Cách sống như một ngọn đèn tỏa sáng là :
– Lấy của cải mình giúp cho người nghèo đói.
– Đón vào nhà mình những kẻ tứ cố vô thân
– Đem áo cho kẻ trần truồng
– Không khinh bỉ người đồng loại
– Loại khỏi lòng mình những xiềng xích, hăm dọa, nói xấu v.v.
Được như thế thì “Sự sáng của ngươi tỏa rạng như hừng đông”
Tv 111 mô tả cách sống của người công chính : một mặt đầy lòng kính mến Chúa, mặt khác hết lòng yêu thương tha nhân. Người công chính được so sánh với ánh sáng xuất hiện trong đêm tối : “Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay.”
Sau khi công bố Tám mối phúc thật (Tin Mừng Chúa nhựt IV vừa qua), Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Ngài ra thi hành. Làm được như thế, họ sẽ trở thành muối ướp mặn cho đời và ánh sáng chiếu soi cho trần gian.
Văn mạch : Tín hữu Côrintô chia rẽ nhau (đoạn được trích đọc Chúa nhựt III), lý do là họ tự cho mình là khôn ngoan hơn người khác. Phaolô bảo rằng cái mà thế gian cho là khôn ngoan thì thực ra chỉ là điên dại trước mặt Chúa, còn cái mà thế gian cho là điên dại lại thì sự khôn ngoan (Chúa nhựt IV)
Trong đoạn được trích đọc hôm nay, Phaolô đưa bản thân mình ra làm gương :
– Về nội dung rao giảng : không giảng về sự khôn ngoan của loài người, mà về sự điên rồ của Thập giá.
– Về cách thức : không dựa vào uy thế của tài hùng biện, không dùng những lời quyến rủ của thế gian, nhưng chân thành đến với tín hữu “trong sự yếu hèn, run rảy và sợ hãi”.
Ánh sáng chiếu ra ngoài nó hay chiếu vào trong nó ?
Đương nhiên là chiếu ra. Cây đèn có sức chiếu sáng, nhưng không phải chiếu cho nó mà cho chung quanh nó. Chính Đức Giêsu đã nói : “Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của chúng con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.
Hình ảnh cây đèn rất đơn sơ, nhưng lý giải được rất sâu sắc những bế tắc của đức tin nơi nhiều người môn đệ Chúa : Tại sao đức tin của họ không lớn mạnh lên mà còn nhỏ yếu đi ? Tại sao đức tin ấy như không đủ sức nâng đỡ cuộc sống của họ trong những lúc gian nan, chứ đừng nói chi đến nâng đỡ người khác ? Câu trả lời của cây đèn rất đơn giản mà rõ ràng : tại vì họ là đèn, thế mà chỉ biết quanh quẩn lo chiếu vào trong mình chứ không chiếu ra ngoài.
Nhiều người môn đệ Chúa cứ mãi lo tuân giữ luật Chúa, mãi lo tham dự đầy đủ các ngày lễ, mãi lo những sinh hoạt nội bộ của Giáo Hội… Họ tưởng mình như thế là sống đức tin rồi đấy. Nhưng họ cứ băn khoăn : Tại sao Giáo Hội không phát triển ? Tại sao nội bộ Giáo Hội cứ lục đục hoài ?
Khi so sánh đức tin của người môn đệ với cây đèn và hạt muối, Đức Giêsu đã đưa ra một định hướng rất rõ : đức tin là để tỏa ra, đức tin là phải hướng đến người khác. Nếu không tỏa ra, đức tin sẽ là hạt muối lạt, cây đèn sẽ tắt… Chỉ còn ném bỏ.
Như thế, cách nuôi lớn đức tin là tập quên mình để sống cho người khác, sống vì người khác. Khi các tín hữu, nghĩa là người có đức tin, biết hướng đến người khác thì Giáo Hội sẽ phát triển, những khó khăn nội bộ của Giáo Hội cũng dần dần biến tan.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy làm ngọn đèn chiếu sáng trước mặt thiên hạ. Còn trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia dạy chúng ta cách nào để cho đời mình thành đèn chiếu sáng : cách tiêu cực là không khinh bỉ người khác, loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu… ; cách tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc… Và Isaia bảo đảm : “Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành mạnh nhanh chóng… ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.
Chúng ta đã biết mình có bổn phận làm gương sáng. Isaia dạy cho chúng ta biết thêm : không gương sáng nào sáng bằng tình thương ; không việc làm nào chiếu sáng bằng việc yêu thương.
Thời nay, những sứ điệp nói có một tầm quan trọng rất lớn (Radio, Tivi, sách báo v.v.) Trong Thánh Lễ, bài giảng rất quan trọng. Những nhà thờ có Cha giảng chán thì giáo dân thưa thớt, ngủ gục, lo ra… Những nhà thờ có Cha giảng hùng hồn, mạch lạc, truyền cảm thì giáo dân đông đúc, sinh động…
Tuy nhiên phẩm chất của lời nói và của người nói càng quan trọng hơn. Đó là kinh nghiệm tâm đắc của Phaolô, vị tông đồ thành công nhất của Giáo Hội : “Lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rủ của sự khôn ngoan loài người”, “Tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh”, “Tôi đến với anh em trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy”… Xem thế, Thánh Phaolô thành công không phải vì ngài nói hay, mà vì tư cách, phẩm chất và cả con người của Ngài thấm mặn Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, đến nỗi Ngài có thể nói “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Nhờ đó, khi Ngài đi đến đâu, tiếp xúc với ai thì chất mặn của muối Tin Mừng từ trong Ngài tỏa ra và thấm vào mọi người chung quanh.
Nên để ý một chút đến văn phạm của câu nói này : Đức Giêsu không khuyến khích “Chúng con hãy là ánh sáng”, mà Ngài khẳng định “Chúng con là ánh sáng”.
Quả thực, chúng ta là ánh sáng, bởi vì khi tạo dựng chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khả năng làm những việc thiện giúp cho người khác :
– Chúng ta có đôi mắt để thấy
– Chúng ta có đôi tai để nghe
– Chúng ta có đôi tay để chăm sóc
– Chúng ta có đôi chân để bước tới
– Chúng ta có lưỡi để nói
– Chúng ta có quả tim để yêu thương
Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta dần lu mờ đi và có khi tắt ngấm.
Xin Chúa giúp chúng ta dám tin vào ánh sáng của mình và vào khả năng làm điều thiện của mình.
Ngày xưa có một nhà nghiên cứu Thánh Kinh suốt ngày ở trong phòng để tìm hiểu Lời Chúa và cầu nguyện, suy gẫm. Một hôm hay tin có một vị thánh nhân đến thành phố mình, nhà nghiên cứu này hăng hái đi tìm.
Ông tìm ở các nhà thờ lớn mà không gặp. Ông tìm ở các nhà nguyện nhỏ cũng không gặp. Tìm đến các dòng tu cũng không gặp. Cuối cùng đang khi đi ngang chợ thì ông gặp được vị thánh ấy. Ông liền trình bày thao thức của mình, cũng là lý do chính khiến ông muốn gặp vị thánh :
– Xin Ngài chỉ cho con biết làm thế nào để nên thánh.
Vị thánh hỏi lâu nay nhà nghiên cứu đã làm gì. Nhà nghiên cứu cũng thành thật kể rõ mọi việc. Cuối cùng vị thánh đưa ra lời khuyên :
– Làm thánh trong phòng thì dễ thôi. Hãy ra chợ và cố gắng làm thánh ở đó.
CT : Anh chị em thân mến
Đức Giêsu đã nói : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Với quyết tâm làm cho Danh Chúa được vinh quang rạng rỡ hơn, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Chúa Giêsu đã để trái tim bị đâm thủng khiến máu cùng nước chảy ra / hầu khơi nguồn bí tích dưỡng nuôi Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh không ngừng được sống nhờ Chúa đã chết và sống lại.
2- Ngày nay / một số sách báo nhảm nhí / không ít những hình băng đồi truỵ / cổ võ bạo lực / khuyến khích những chuyện không tốt / đã làm hư hỏng một số người trẻ / và rất nhiều lần đã dẫn đến phạm pháp nghiêm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bạn trẻ / biết khôn ngoan xa lánh những thứ độc dược giết người ấy / và nỗ lực sống lành mạnh bằng việc đọc những sách báo tốt / cũng như chỉ xem những băng hình bổ ích / và tích cực tham gia vào công tác xã hội.
3- Chúa Giêsu nói / “Anh em là muối cho đời / là ánh sáng cho trần gian” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu biết luôn cố gắng sống theo tinh thần Tám mối phúc thật / để nhờ đó mà trở nên những chứng nhân hữu hiệu của Chúa / trong xã hội họ sang sống.
4- Trách nhiệm của người Kitô hữu là giúp xã hội luôn thăng tiến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng khả năng Chúa ban / cũng như đời sống thấm nhuần tình bác ái yêu thương / mà giúp mọi người sống xứng với phẩm giá con người.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thương chọn chúng con giữa muôn người và ban cho được phép làm con Chúa. Xin ban ơn giúp sức để chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
- Có lẽ các câu này là lời đả kích đường lối bí truyền hoặc việc xa lánh thái quá thế gian (do ảnh hường của nhóm Essêni). Các khuynh hướng ấy có phải là những cám dỗ thường xuyên của Kitô giáo không? Ngày nay chúng đội hình thức nào?
- Đâu là tầm quan trọng của muối trong thế giới cổ xưa.. phải chăng nó có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt? Một công dụng đặc biệt?
- Vì sao một thành phải được ưu tiên tọa lạc trên ngọn núi?
- Đâu là ý nghĩa của chữ “ánh sáng các con “ trong thành ngữ “ánh sáng các con phải chói lọi trước mặt mọi người?
- Các câu này có tạo nên mối liên hệ giữa người Kitô hữu và trách vụ truyền giáo của họ không? Mối liên hệ nào?
- Người Kitô hữu là muối cho đời theo nghĩa nào? (Xem Lv 2, 13).
- Làm sao dung hòa các câu 14- 16 với Mt 6, 1-18?
***
- Trong thế giới cổ xưa, muối và ánh sáng được xem như là hai thực tại chẳng ai có thể bỏ qua: không gì ích lợi hơn muối và mặt trời (Pline trưởng lão, Htst. nst. 31, 102). Cả hai cũng thường được nhắc đến trong Cựu ước.Muối là một sản phẩm cần thiết bậc nhất của dân Bedouin (Ả Rập phiêu cư) (Hc 39, 26); nó tiêu hủy những cái gì xấu (2V 2, 19- 21; Đnl 29, 22; Tl 9, 45; Gr 17, 6; Xp 2, 9; G 39, 6) Nó nên thực phẩm (G 6, 6; Cl 4, 6) và, vì là thứ gia vị chủ yếu của mọi bữa ăn và mọi hy tế (Xh 30, 35; Lv 2, 13; Ed 43, 24), nên muối trở thành biểu hiệu của sự hiếu khách, của minh ước và giao ước Lv 2, 3; Đnl 28, 69; Ed 4, 14). Sau hết nó là biểu tượng của sự khôn ngoan (xem Phụng vụ Bí tích rửa tội – liên hệ với Ed 16,4) mà thỉnh thoảng nó được nối kết với, trong lời giảng huấn của các giáo sĩ; bấy giờ nó chỉ sự khôn ngoan hoàn hảo mà người hiền triết sẽ thủ đắc trong thời thiên sai.
- Ánh sáng cũng năng được sử dụng như là một biểu tượng trong Thánh kinh, nơi nó thường chỉ sự mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Trong Isaia Đệ nhị, người Tôi tớ Giavê được công bố là” ánh sáng muôn dân (49, 6); Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (42, 6). Trong sách các giáo sĩ, tước hiệu, “ánh sáng thế gian” được gán cho Thiên Chúa, cho Ađam, cho Israel, cho lề luật, cho Đền thờ và cho Giêrusalem. Trong Tân ước người ta xác quyết Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian” (Lc 2, 32; Ga 8, 12; 12, 35). Và theo gương Người, các môn đồ phải trở nên ánh sáng của nhân loại (P 12, 15; so sánh với Ep 5, 8-14).
Kiểu nói trực tiếp trong Mt “Các con là muối… là ánh sáng, được giải thích qua sự kiện dụ ngôn đi tiếp theo Tám mối phúc thật. Nếu các môn đồ biết từ bỏ của cải, biết sống hiền lành khiêm nhượng, nhân ái từ bi, can đảm trong thử thách, kiên quyết theo đuổi sự hoàn thiện Kitô giáo, thì bấy giờ người ta mới có thể nói thực với họ: “Các vị là muối cho đời và là ánh sáng cho thế gian”. Phần tiếp của Diễn từ sẽ cụ thể cho thấy cách thức của người môn đồ tự tỏ mình là muối, là ánh sáng.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các con là”: Thành ngữ có lẽ mượn ở Xh 19, 6: “Các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và là một dân thánh cho Ta”. Giavê đã nói với dân Ngài đã chọn giữa muôn dân. Chúa Giêsu ở đây nói với môn đồ Người đã chọn giữa loài người. Như Giavê đã xác định ơn gọi của tuyển dân, Chúa Giêsu cũng minh định sứ mệnh của các môn đồ Người.
“Muối cho đời “: “Đời”, ám chỉ loài người, là một từ ngữ quen thuộc với Cựu ước. Ở đây “đời” song song với “thế gian” của câu 14. Người môn đồ chẳng phải là muối của đất, vì không bao giờ muối được dùng như phân bón, nhưng là muối cho đời cho thế gian. Ở đây Mt nhấn mạnh cốt để nói rằng “muối” không chỉ cần thiết cho bản thân người môn đồ, như là một phẩm chất nội tại, song còn cần thiết để chu toàn sứ mệnh của mình đối với nhân loại. Do đó phẩm chất cấu thành môn đồ không thể tách rời khỏi chức vụ truyền giáo của kẻ ấy. Đây là một nét nói lên chiều hướng phổ quát và truyền giáo mà Mt thích dùng.
“Nếu muối ra lạt”: Có thể giải thích hai cách:
- Hình ảnh dựa vào thứ muối dơ bẩn lấy ở phía Tây-Nam Biển Chết thời Chúa Giêsu (trên bờ dốc Djebel-ousdeum). Loại muối màu xanh lạt này, có pha trộn thạch cao và vôi, dễ biến thành bùn vô đụng dưới tác dụng của ẩm ướt. Ta vần có thể gọi nó là muối, nhưng thực ra không phải là muối nữa.
- Đúng hơn, có lẽ Chúa Giêsu đã muốn gợi lên một hình ảnh không thể có, để làm ta lưu tâm hơn đến tính cách nghịch lý của một môn đồ đã đánh mất cái tạo nên chính bản chất môn đồ.
“Thì lấy gì muối nó lại”: Phàm kẻ phải trở nên nguyên nhân hoàn thiện cho bao người khác thì không thể nhận lãnh từ họ cái mà y phải trao hiến cho họ. Nếu y đánh mất nhân đức, người khác không thệ hoàn lại cho y.
“Nó không còn ích gì”: Muối nhạt chẳng lợi ích gì nữa, ngay cả làm phân bón. Người môn đồ cũng vậy. Đánh mất sự cao quý của mình, kế đó trở nên đối tượng khinh khi, như thế mảng trong mình một sự thối nát đặc biệt; tình yêu ngày trước của y đi dần tới chỗ tiêu tán. Câu “Chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi “ gợi lên cảnh đường sá vương vãi rác rền cặn bã ở phương Đông ngay xứ. Đây là hình ảnh nói lên việc kết án người môn đồ đã mất tinh thần của ơn gọi mình.
“Ánh sáng của thế gian”: ánh sáng của thế gian có nghĩa là cho thế gian, chứ không phải thuộc về thế gian hay là bản chất của thế gian. “Một thành tọa lạc trên núi”: đây là hình ảnh của một xứ mà các thị trấn thôn làng thường được xây trên các cao điểm (để có vị thế chiến lược đề phòng mọi cuộc tấn công từ bên ngoài vào). Điều đó đặc biệt đúng đối với Giêrusalem, thành mà ta có thể thấy từ rất xa. Trong trường hợp này, tuyệt đối không thể che dấu thành được. “Ánh sáng của các con”: Lời Thiên Chúa được Chúa Kitô đem đến thì sống trong môn đồ và đơm hoa kết trái trong cách ăn nết ở của họ. Ánh sáng, chính là Chúa Kitô, Đấng đóng ấn người trên các môn đồ. Đức tin chân thành và ngay thật của họ phải tỏ hiện ra trong các việc họ làm. Các hành động này phải có một phẩm chất, một tính cách hoàn thiện thế nào đó khả dĩ khơi dậy được, lời những kẻ chứng kiến, lời ngợi ca Thiên Chúa.
“Ngõ hầu họ thấy việc lành các con làm”: Làm sao dung hòa câu này với 6, 1-18 (nhất là các câu 1-2. 5. 16)? Thưa động lực khác nhau trong hai bản văn: ở đây động lực là vinh quang Chúa Cha trên trời; còn trong 6, 1- 8 động lực là sự tìm kiếm lời khen ngợi bản thân để thỏa mãn lòng khoe khoang tự phụ (x. 6, 2-5: “hầu được vinh vang nơi người đời… hầu được bày ra cho người ta thấy…”). Cách hành động cũng khác nhau: ở đây, người môn đồ phải tỏ ra như là Kitô hữu: trong 6, 1-18 Chúa Giêsu kết án việc phô trương nhắm mục đích làm người ta chú ý.
KẾT LUẬN
Môn đồ Chúa Kitô nhất thiết phải ảnh hưởng trên nhân loại. Nếu chấp nhận hạnh phúc theo quan điểm của Chúa Kitô, thứ hạnh phúc của Bát phúc, thì người môn đồ mới có thể tỏa chiếu trong thế gian và ướp mặn môi trường sống của mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Người Kitô hữu toan thất vọng trước kết quả nghèo nàn của nỗ lực mình, phải can đảm lên bằng cách nhớ rằng mình thực sự quan trọng đối với thế giới hôm nay, mặc dầu bề ngoài có vẻ trái ngược, nhớ trong mình là muối và ánh sáng của trần gian. Nhân loại sẽ mất hết ý nghĩa nếu không có sự hiện diện là hành động của người Kitô hữu trong thế giới.
- Người Kitô hữu toan nhụt chí và bằng lòng với một cuộc sống tầm thường, cũng phải nhớ lại rằng, vì là muối và ánh sáng của vũ trụ, mình không thể chấp nhận đào ngũ hay buông thả mà không phản lại với bản tính sâu xa và lý do hiện hữu của mình.
- Chính việc can đảm thực hiện Bát phúc giúp người môn đồ Chúa ki tô trở nên muối và ánh sáng của vũ trụ. Còn tất cả mọi đường lối hoạt động khác chỉ đưa đến sự lạt lẽo vô vị hay tăm tối u minh.
- Lương dân sẽ trở lại trong mức độ thấy chung quanh họ có nhiều Kitô hữu xác tín sống không phô trương cũng chẳng khiếp nhược cuộc sống môn đồ Chúa Kitô trong nếp sinh hoạt đều đặn khiêm tốn thường ngày. Đó là “chứng tá của Kitô hữu, là hành động truyền giáo duy nhất có hiệu quả trong một thế giới tin vào việc làm nhiều hơn vào lời nói.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN -A
MUỐI CHO ĐỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong những dịp cuối năm, các bản tổng kết tình hình đều đánh giá cao những đóng góp của Giáo hội đặc biệt trong lãnh vực giữ gìn đạo đức xã hội. Nơi nào có đồng bào Công giáo sinh sống, tệ nạn xã hội không có hoặc có rất ít. Nghe những nhận định trên, tôi rất vui vì thấy anh chị em tín hữu đang sống đúng tinh thần trở thành muối cho đời như lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Khi nói đến muối Chúa Giêsu có ý dạy các môn đệ về cách thế hiện diện trong xã hội.
Đó là một hiẹn diện khiêm nhường
Hạt muối thật bé nhỏ. Chẳng ai chú ý tới sự hiện diện của nó. Bên cạnh thịt, cá, rau cỏ, muối chỉ đóng vai phụ. Người ta trưng bày những món ăn đắt tiền. Người ta giới thiệu những món ăn cầu kỳ. Không thấy ai trưng bày muối. Chẳng có ai giới thiệu muối trong bữa tiệc lớn. Xét về giá trị kinh tế, muối chẳng đáng giá bao nhiêu. Đó là một hiện diện quên mình.
Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích.
Đó là một hiện diện tích cực.
Tuy bé nhỏ khiêm nhường và vắng mặt, nhưng hiện diện của muối là một hiện diện tích cực. Tích cực vì góp phần bảo trì thực phẩm khỏi hư thối, vì nâng phẩm chất món ăn. Tích cực vì là một thành phần hầu như không thể thiếu trong các món ăn. Tuy không thấy và không nói ra, nhưng ai cũng ngầm hiểu trong mỗi món ăn đều có muối.
Khi dùng muối làm hình ảnh minh hoạ, chắc chắn Chúa Giêsu cũng muốn cho các môn đệ của Người có những đặc tính của muối.
Người muốn các môn đệ của Người sống giữa nhân loại như muối ở trong thức ăn. Người muốn các môn đệ của Người hiện diện thật kiêm nhường như những hạt muối bé nhỏ. Người muốn các môn đệ của Người hiến thân mình cho nhân loại như những hạt muối hòa tan trong thực phẩm.
Nhưng để sự hiện diện bé nhỏ khiêm nhường mang yếu tố tích cực, các môn đệ phải giữ được vị mặn của muối.
Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, là sống tinh thần Tám Mối Phúc như Chúa dạy trong bài Tin Mừng tuần trước.
Giữ được vị mặn của Phúc Âm và hiện diện âm thầm trong phục vụ quên mình, người môn đệ Chúa sẽ thực sự góp phần bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Dù không muốn, họ vẫn trở thành ánh sáng soi trần gian.
Lạy Chúa, Chúa tin tưởng con, nên đã gọi con là muối trần gian. Xin cho lòng con yêu mến Chúa tha thiết, để đem cho đời hương vị tình yêu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1-Bạn nghĩ gì về hình ảnh hạt muối?
2-Làm muối, dễ hay khó?
3-Bạn đã bao giờ cảm thấy niềm vui được chìm đi để anh em được nổi nang chưa?
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO ĐỜI – Lm. Đan Vinh HHTM
(13) “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc qưăng ra ngòai cho người ta chà đạp thôi. (14) Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (15) Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. (16) Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
- Ý CHÍNH: MUỐI ƯỚP CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIAN
Đây là đoạn Tin Mừng tiếp theo bài giảng về Tám Mối Phúc Thật, nhằm nói lên bản chất và sứ mệnh của người môn đệ trong xã hội trần thế. Bản chất việc tông đồ của họ là muối mặn ướp cho đời khỏi hư hỏng và là ánh sáng soi đường cho thế gian. Họ có sứ mạng loan truyền Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Để chu toàn được sứ mạng khó khăn này thì người môn đệ của Chúa phải trở thành thứ muối có chất mặn và là cây đèn có khả năng cháy sáng được đặt lên giá đèn cao để soi sáng mọi vật trong nhà giống như một thành phố được xây trên núi không tài nào che giấu được. Nghĩa là trước hết họ phải sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, để nhờ nếp sống tốt lành trổi vượt này, người đời sẽ được cảm hóa và sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Nước Trời do họ công bố.
- CHÚ THÍCH:
– C 13: + Muối cho đời: Muối là một chất phụ gia cần cho sự sống con người. Nó có tác dụng tẩy uế và sát trùng (x. Tl 9,45). Đức Giê-su muốn cho các môn đệ trở thành những người giữ cho xã hội khỏi hư hỏng tội lỗi, cũng giống như muối ướp thịt cá khỏi hư họai. Muối cũng làm cho đồ ăn được thơm ngon, là thứ gia vị tượng trưng cho giao ước được thêm vào các lễ phẩm dâng tiến cho Đức Chúa (x. Lv 2,13). Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải cải tạo xã hội loài người ngày một tốt đẹp hơn theo Thánh Ý Thiên Chúa, cũng như chất muối làm cho các món ăn thêm đậm đà ngon miệng. + Muối mà nhạt đi: Ở đây nói đến thứ muối bị biến chất, không còn vị mặn nữa. Nhưng thực ra muối nào mà chẳng mặn. Khi dùng kiểu nói này, Đức Giê-su muốn dạy rằng: Môn đệ nào không sống đúng vai trò muối mặn, là một môn đệ bị biến chất, không còn là môn đệ thực sự của Người nữa. + Nó đã thành vô dụng: Muối mà ra nhạt sẽ chẳng ích lợi gì, không được dùng dù chỉ là làm phân bón. Người môn đệ cũng vậy: một khi không sống theo Tám Mối Phúc Thật, là tự đánh mất sự cao quý của mình, và sẽ trở thành đồ hư vất bỏ đáng bị người đời khinh dể. + Chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi: Thời bấy giờ có nhiều người thường hay đổ các đồ phế thải ra ngòai đường cho người ta dẫm đạp. Số phận của người môn đệ biến chất cũng sẽ bị người đời chà đạp khinh khi như thế.
– C 14: + Ánh sáng: Có đặc tính chiếu soi, xua đuổi bóng tối và làm cho người ta nhìn thấy đồ vật chung quanh. + cho trần gian: Môn đệ là ánh sáng soi cho thế gian, phân biệt với Đức Giê-su chính là nguồn phát ra ánh sáng như lời Người nói: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46), và: “Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,36). + Một thành xây trên núi sẽ không tài nào che giấu được: Cũng vậy, ánh sáng có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta giống như thành phố xây trên núi khiến ai cũng dễ dàng nhìn thấy. Đời sống tốt lành của người môn đệ Đức Ki-tô cũng sẽ ảnh hưởng tới người khác. Điều này không trái nghịch với lời cảnh giác các môn đệ phải tránh thói phô trương công đức như các người Pha-ri-sêu giả hình (x. Mt 6,1).
– C 15-16: + Cái thùng: là một dụng cụ đo lường đựng được khỏang 9 lít, dưới chân đế có ba hoặc bốn cái chân. + “thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng”: cũng giống như câu “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường ? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao ?” (x. Mc 4,21). + Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi: Ở đây nhắc đến mục đích và phương cách làm việc tông đồ: Môn đệ sống tốt lành là nhằm cho người ta ngợi khen Chúa Cha trên trời, chứ không tìm tiếng khen nơi người đời. Thánh Ky-sô-lô-gô (Chrysôlôgô) nói: “Nếu người Ki-tô hữu sống xứng danh Ki-tô hữu, thì chắc sẽ không còn người ngoại giáo nữa !”.
- CÂU HỎI:
1) Muối có đặc tính gì ? Đức Giê-su muốn môn đệ làm gì khi ví các ông với muối mặn ? 2) Muối nhạt đi ám chỉ điều gì nơi các môn đệ ? 3) Số phận của họ sẽ thế nào nếu họ trở thành đồ vô dụng ? 4) Phân biệt giữa ánh sáng của các môn đệ với ánh sáng của Đức Giê-su khác nhau ra sao ? 5) Đời sống của người môn đệ sẽ có tác động thế nào đối với người khác ? 6) Khi dạy môn đệ phải chiếu giãi ánh sáng trước mặt người đời bằng các việc lành, phải chăng Đức Giê-su muốn các ông bắt chước lối sống giả hình như bọn Biệt Phái ?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ” (c. 16a).
- CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG SÁNG PHỤC VỤ CỦA MỘT NỮ TU:
Cách đây ít lâu một đoạn phim ngắn được chiếu trên đài truyền hình Pa-ri (Paris) nước Pháp: Đầu tiên người ta nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ một đôi bàn tay xinh xắn và nõn nà đang săn sóc một vết thương lở loét trông thật ghê sợ. Tiếp theo là cảnh một nữ tu bác ái đội voan chùm đầu đang phục vụ một người bị bệnh phong. Rồi đến cảnh một khán giả đang ngồi xem truyền hình nói với người bên cạnh: “Có cho tôi một ngàn phờ-răng, tôi cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm ấy !”. Cuối cùng là cảnh phóng viên hỏi chị nữ tu kia: “Xin hỏi chị đã phục vụ các bệnh nhân phong ở đây được bao lâu rồi ?” Nữ tu trả lời: “Thưa được gần 20 năm”. Phóng viên hỏi tiếp: “Thế mỗi tháng chị nhận được thù lao bao nhiêu ?” Nữ tu trả lời: “Thưa không có đồng nào cả !”. Câu hỏi tiếp: “Có người nói: Dù có cho họ một ngàn phờ-răng, họ cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm này. Vậy tại sao chị lại sẵn lòng làm việc này không công tới gần hai mươi năm ?” Nữ tu trả lời: Tôi cũng vậy, có cho tôi một triệu phờ-răng tôi cũng không muốn làm việc này. Nhưng chính do lòng yêu mến Chúa Giê-su mà những bệnh nhân này là hiện thân của Người, nên tôi sẵn sàng làm tất cả mà không cần bất cứ thù lao nào hết !”.
2) GƯƠNG TRUNG THÀNH CỦA MỘT CON CHÓ:
Tại một trạm xe điện ngầm bên Nhật Bản, có một bức tượng khá nổi tiếng, không phải tượng của một nhân vật danh tiếng, nhưng là tượng một chú chó. Ai đi qua cũng chăm chú nhìn tượng con vật được tạc trong tư thế nằm ngước mắt nhìn về phía trước như đang đợi ai đó. Bức tượng này là hình ảnh của một chú chó mà câu chuyện về sự trung thành của nó lay động lòng người như sau: Một công nhân Nhật có nuôi được một con chó khôn ngoan và trung thành. Nó luôn đi theo và quấn quít bên ông chủ. Ngày nào nó cũng tiễn đưa ông đi làm tại trạm xe điện ngầm gần nhà. Nó chờ cho chủ lên tàu và tàu đóng cửa lại rồi mới đủng đỉnh ra về. Chiều đến, nó lại xuất hiện đúng giờ xe điện về đến trạm, vẫy đuôi chào đón chủ và sau đó ngoan ngoãn đi theo ông về nhà. Ngày nào cũng vậy, sáng theo chủ đến bến, chiến lại đến bến để đón chủ. Nhưng rồi một buổi chiều kia, người chủ của nó đã không trở về do tai nạn sập hầm và ông bị chết trong đó. Hôm ấy con chó như mọi lần đã đến trạm chờ chủ. Nhưng chờ đến chuyến xe cuối cùng mà không thấy chủ. Nó đành thất thểu ra về khi màn đêm bắt đầu buông xuống. Hôm sau, trời vừa hừng sáng nó đã có mặt tại trạm xe điện và ngồi yên chờ chủ. Nhưng đến tối mịt không thấy ông, nó lại lui thủi trở về. Và ngày nào cũng vậy, con chó luôn có mặt và ra về đúng giờ dù không có ông chủ đi cùng. Chẳng ai thèm quan tâm tới con vật đáng thương ấy, ngoại trừ ông xếp nhà ga và mấy nhân viên phục vụ nhà ga. Người ta thấy càng ngày con chó càng gầy đi. Ai cho đồ ăn, nó cũng chỉ ngửi qua và không ăn. Đôi mắt nó ngày một buồn hơn, và bước đi của nó cũng ngày một loạng choạng chậm chạp hơn. Nó thất vọng vì bị mất ông chủ thật rồi !
Vào một buổi sáng kia, tiết trời giá rét, bên cạnh dòng người mặc áo ấm chen chúc nhau lên tàu, người ta thấy con chó trắng đã nằm chết co quắp bên vệ đường từ bao giờ. Thương hại con vật trung thành, ông xếp và các nhân viên nhà ga xe điện đã chôn cất nó tử tế. Và để tưởng nhớ một con vật trung thành, người ta đã đúc một bức tượng của nó và đặt ngay nơi nó thường nằm mỗi khi đến đưa đón chủ.
3) HAI LỐI ỨNG XỬ MANG LẠI HAI KẾT QUẢ TRÁI NGƯỢC:
Đức cha PHUN-TƠN SIN (Fulton Sheen) đã kể lại hai câu chuyện sau đây:
+ CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT: Tại một nhà thờ bên Nam Tư, một em lễ sinh đang giúp lễ cho cha già, đã vô tình đánh rơi làm bể lọ rượu lễ. Ngay lúc đó, vị linh mục dù đang dâng lễ, đã không kềm nổi sự tức giận, thẳng tay đánh em một bạt tai té giập vào tường. Ông còn thét lên: “Đồ nhãi ranh, làm ăn như vậy hả ? Mau cút ngay đi khuất mắt tao và nhớ đừng bao giờ vác mặt trở lại đây nữa nhé !” Cậu bé giúp lễ bị đánh rất tức giận. Cậu ta liền cởi ngay chiếc áo giúp lễ, rời khỏi nhà thờ và thề quyết sẽ không bao giờ thèm đặt chân vào nhà thờ nữa. Từ ngày đó, cậu ta trở thành kẻ thù của Giáo Hội. Về sau, khi đã trở thành người có quyền hành lớn lao, ông ta luôn gây khó dễ và quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội. Kẻ đó không ai khác hơn là thống chế Ti-tô, một thời cai trị đất nước Nam Tư cũ.
+ CÂU CHUYỆN THỨ HAI: Đức cha Phun-tơn tiếp tục kể câu chuyện về mình như sau: “Tôi còn nhớ rõ là hồi còn nhỏ, tôi đã ước muốn được giúp lễ phục vụ bàn thờ khi linh mục cử hành thánh lễ. Năm lên bảy tuổi, mẹ tôi rất có lòng đạo đã dẫn tôi đến gặp đức Tổng giám mục Giáo phận để xin cho tôi được vào ban lễ sinh giúp lễ tại nhà thờ. Một hôm, đến phiên tôi giúp lễ. Vì lần đầu làm công việc này, nên tôi bị lóng ngóng và lỡ tay làm rớt bình đựng rượu xuống nền cung thánh nhà thờ bể tan thành từng mảnh nhỏ. Ngay lúc đó tôi rất xấu hổ và sợ hãi, vì bọn giúp lễ chúng tôi kháo nhau rằng: Đức Tổng giám mục là một người rất nghiêm khắc. Thế nhưng biết tôi làm bể lọ rượu, mà ngài vẫn không mảy may phản ứng và cứ tiếp tục dâng thánh lễ như không có chuyện gì xảy ra cả. Sau khi thánh lễ kết thúc và cởi áo lễ xong, ngài gọi tôi đến gần. Tôi chuẩn bị tinh thần để nghe ngài quở mắng vì tội bất cẩn làm bể lọ rượu của mình. Nhưng sự thể lại diễn ra trái với tưởng tượng của tôi. Đức cha thân mật đặt bàn tay lên vai tôi rồi âu yếm nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi: “Này con, lớn lên con có muốn đi tu và vào đại học không ? Con có bao giờ nghe nói về đại học Lu-vanh (Louvain) chưa ?” Tôi đáp: “Thưa đức cha chưa ạ”. Ngài nói tiếp: “Con hãy về nhà thưa với mẹ con rằng: Đức cha bảo lớn lên con sẽ đi tu và sẽ vào học tại đai học Lu-vanh nhé”. Từ ngày đó, tôi cố gắng chăm chỉ học hành và mỗi năm đều đạt thứ hạng cao. Khi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, được cha mẹ đồng ý, tôi đã tự động đến gặp đức cha để xin ngài cho tôi được dâng mình cho Chúa và được vào chủng viện học làm linh mục. Vì là học sinh xuất sắc, tôi được đức cha cấp học bổng để vào đại học Lu-vanh là đại học rất danh tiếng thời đó. Sau 4 năm, tôi tốt nghiệp đại học với hạng ưu và được thụ phong linh mục, rồi một thời gian sau đó thành giám mục. Nghĩ lại cuộc đời của mình, tôi thấy phải cám ơn Chúa đã thương cho tôi có được cha mẹ thật tuyệt vời, đã yêu thương và nuôi nấng dạy dỗ tôi nên người. Nhưng người tiếp theo tôi phải đặc biệt ghi ơn chính là Đức Tổng giám mục Giáo phận. Ngài là người khoan dung độ lượng: đã không la mắng khi tôi sai lỗi mà thay mặt Chúa để kêu gọi tôi dâng mình cho Chúa ngay khi mới 7 tuổi. Cũng nhờ lòng khoan dung và sự quan tâm ưu ái của ngài, mà tôi mới được như ngày hôm nay.
- SUY NIỆM:
1) ANH EM LÀ MUỐI ƯỚP THIÊN HẠ VÀ LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI CHO ĐỜI:
“Thế nào là một Ki-tô hữu?”. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã trả lời cho vấn nạn ấy qua hai hình ảnh là muối và ánh sáng như sau:
– Muối mặn: Như chất muối mặn thấm vào đồ ăn, để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư hỏng và thêm ngon miệng thì người tín hữu cũng phải sống chan hòa với mọi người chung quanh để cải hóa họ nên tốt hơn. Vị mặn là bản chất của muối. Nếu muối không còn chất mặn thì không còn phải thực sự là muối nữa. Một khi người tín hữu mất đi đức tin, thể hiện qua việc không quan tâm giữ các giới răn và không có tình thương người theo tinh thần của “Tám Mối Phúc”, chứng tỏ chất muối đức tin nơi họ đã biến chất, bấy giờ họ không còn có giá trị nữa và đáng bị khinh khi như muối lạt bị quăng ra đường cho mọi người chà đạp.
– Ánh sáng: Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là nguồn sáng (x. Ga 8,12). Nhưng Người cũng muốn các tín hữu hôm nay phải giãi ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Muốn chiếu giãi ánh sáng của Chúa cho người khác, trước hết chúng ta phải có Chúa là nguồn sáng trong tâm hồn mình. Lòng tin cậy mến Thiên Chúa phải được thẻ hiện qua các việc lành như : chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói, khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật, chăm sóc những người già cô đơn và những trẻ em mới sinh bị bỏ rơi… Nhờ đó lương dân sẽ nhận biết Thiên Chúa là “nguồn ánh sáng và là ơn cứu độ” (Tv 27,1) và tin theo Đức Giê-su qua các tín hữu như Người đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2) THỰC TRẠNG THẾ GIỚI HÔM NAY:
Nhiều người tín hữu chúng ta thường hay phàn nàn rằng: xã hội hôm nay ngày một suy đồi xuống cấp về nhân bản và tình người. Nhưng ít ai trong chúng ta dám nhận sự xuống cấp đó cũng có phần trách nhiệm của mình. Thực vậy: Xã hội suy đồi có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó cũng có một phần do lỗi của các tín hữu chúng ta: Có thể do muối Tin Mừng nơi chúng ta đã bị biến chất, tình Chúa tình người nơi chúng ta đã ra nhạt… nên chúng ta thường nhắm mắt làm ngơ trước những nhu cầu của tha nhân, chúng ta không đủ nhiệt tình để dấn thân cải thiện môi trường là gia đình, khu xóm, và xã hội nên đoàn kết và giúp nhau sống tốt hơn. Có thể do cây đèn đức tin của chúng ta đã cạn dầu ân sủng và không còn đủ sức chiếu sáng bác ái được nữa, nên xã hội và thế giới chung quanh chúng ta ngày càng trở nên tối tăm và sa đọa tội lỗi hơn.
3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Đọc Tin mừng chúng ta nhận ra rằng môn đệ của Chúa chính là người làm chứng và loan báo Tin mừng. Muối nơi chúng ta phải mặn. Ánh sáng trong chúng ta phải sáng tỏ như thành phố được xây trên núi, nghĩa là Nước Trời được công khai xây dựng bằng cả vật chất, bằng cả con người, bằng lời nói, thái độ cử chỉ hành động… để ai nhìn thấy cũng nhận ra Đức Giê-su đang sống và làm việc trong chúng ta. Hôm nay Đức Giê-su đã trao sứ mạng làm chứng về Chúa cho các Tông đồ và cho Hội Thánh để mọi dân nước được mặn lại đức Tin, được ánh sáng Lời Chúa soi chiếu và Nước Trời sẽ có nhiều người gia nhập và ngày một lan tỏa đến khắp cùng bờ cõi trái đất.
Mỗi người tín hữu cần ý thức nguyên nhân của sự xuống cấp xã hội hiện nay là do sự xuống cấp suy đồi của chính chúng ta, để từ đó biết khiêm tốn cầu xin Chúa Giê-su đổ ơn Thánh Thần chỉnh đốn những sai lệch, tăng cường độ mặn Tin Mừng cho chúng ta. Cần xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa tin yêu bằng dầu ân sủng nhờ năng lãnh nhận các phép bí tích, nhất là tham dự các buổi hiệp sông chia sẻ Lời Chúa và cầu nguyện sám hối chung cộng đoàn, năng xưng tội và rước lễ cách sốt sắng để chu toàn sứ mạng.
Hiện nay vẫn có nhiều người tín hữu tuy có khả năng ướp mặn tha nhân, có đủ sức chiếu tỏa ánh sáng tin yêu của Thiên Chúa, nhưng lại không dám dấn thân vì sợ nguy hiểm. Cần có thêm nhiều tín hữu Công giáo trở thành những điểm sáng về các lãnh vực như: ca nhạc, sản xuất kinh tế, những gương điển hình tiên tiến về các công tác bác ái xã hội được tôn vinh trên các phương tiện truyền thông, những mẫu gương hy sinh quên mình được nhiều người biết đến và đề cao trên báo chí, các trang mạng internet và truyền thanh truyền hình… Các tín hữu chúng ta phải tỏa sáng qua những hoạt động tốt đẹp phục vụ người nghèo khó, bị khinh dể và bị bỏ rơi trong các cô nhi viện, nhà nuôi người già, người mù lòa khuyết tật, nhà chăm sóc bệnh cùi hay si-đa… để mọi người được sống chan hòa yêu thương trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em của nhau như sách Khải Huyền đã diễn tả: “Bấy giờ tôi thấy Trời Mới Đất Mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21,1-2).
- THẢO LUẬN:
1) Trong lịch sử Việt Nam, bạn có biết những nhân vật người Công giáo nào đã để lại những công trình ích quốc lợi dân, làm rạng danh Thiên Chúa trước mặt đồng bào Việt Nam mà đại đa số là lương dân hay không ? Cụ thể: Đức cha A-lếch-xăng đờ Rốt đã để lại công trình nào ? Ông Nguyễn Trường Tộ đã làm gì ? Hàn Mặc Tử đã làm gì ? Pe-trus Ký đã làm gì ? 2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để chiếu soi ánh sáng tình thương của Chúa giúp đồng bào Việt Nam hôm nay nhận biết tin thờ Thiên Chúa ?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã ban cho chúng con mặt trời chiếu sáng ban ngày và mặt trăng soi chiếu ban đêm. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã dạy các tín hữu chúng con phải trở thành ánh sáng giữa thế gian, là muối mặn ướp cho tha nhân khỏi bị hư hỏng. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là một trách nhiệm phải chu toàn. Xin cho chúng con luôn có ánh sáng của Chúa trong lòng, để đi đến đâu chúng con cũng đẩy lùi tăm tối tội lỗi, bất công và thù hận đến đó. Xin giúp chúng con luôn giữ gìn ngọn lửa đức ái trong tim, và luôn đi theo con đường mà Chúa đã soi dẫn và đi trước chúng con. Trong thực tế, xin cho chúng con luôn biết quên mình yêu thương phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, để nên muối ướp cho đời, trở thành ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương công chính, hòa thuận, khiêm tốn và đạo đức để giáo dục đức tin cho con cái. Xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui của Chúa khi phục vụ những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi… là hiện thân của Chúa.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN – Lm. Micae Võ Thành Nhân
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn nói đến bản chất của chúng ta, các Kitô hữu của Chúa là muối là ánh sáng cho trần gian.
Muối rất quan trọng cho cuộc sống. Có muối thì có diễn ra quá trình trao đổi chất trong cơ thể con người, nếu thiếu muối thì không thể xảy ra quá trình trao đổi chất và không thể duy trì sự sống được. Nó được dùng để tăng thêm hương vị hoặc để ướp đồ ăn, tránh ẩm mốc, hôi thúi thức ăn.
Chúng ta được Chúa ví như muối. Chúng ta rất cần cho cuộc sống đời này. Thế giới không thể tồn tại được nếu không có chúng ta. Những danh lợi thú, những đam mê xác thịt, những tính hư tật xấu, những tham sân si trong cuộc sống, khi có chúng ta, chúng ta làm theo ý Chúa, và đó sẽ như muối để ướp mặn, không làm cho xã hội ra hôi thúi, băng họai, chúng ta sẽ đẩy lui các điều xấu xa này ra khỏi cuộc sống.
Ánh sáng cũng quan trọng không kém. Có ánh sáng là có sự sống, có niềm vui. Chúng ta được Chúa ví như là ánh sáng. Chúng ta sống ở đâu thì ở đấy có sức sống, có niềm hoan lạc, có sự hy vọng, có trật tự, có lối đi để mọi người đến với Chúa; do đó, Chúa mời gọi chúng ta hãy làm điều Chúa dạy bảo ( Yêu Chúa, thương người ), để: “ Ánh sáng các việc làm của chúng con phải được chiếu tỏa ra bên ngoài để thiên hạ trông thấy mà ngợi khen Cha các con trên trời “ ( Mt 5, 16 ), hoặc là: “ Người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà “ ( Mt 5, 15 ).
Những việc làm của chúng đây sẽ là ánh sáng như Lời Chúa trong bài đọc một được trích sách tiên tri Isaia đã nói tới: “ Hãy chia bán của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành mạnh nhanh chóng; công lý của ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang của Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi “ ( Bđ I ). Đàng khác, ánh sáng của chúng ta được chiếu tỏa ra cho mọi người, bằng cách chúng ta dấn thân thực hiện, mà cụ thể như thánh Phanxicô đã nói trong Kinh Hòa Bình: “ Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vòa nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa, xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn người được hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân “.
Như vậy để trở thành muối và ánh sáng cho trần gian, chúng ta phải sống Lời Chúa dạy bảo trước; điều này rất khó khăn, phải có ơn Chúa trợ giúp thì chúng ta mới thực hiện được. Vì bản tính chúng ta yêu đuối, hỗn độn, hay phạm tội, chúng ta có nguy cơ làm muối của mình lạc đi, là ánh sáng bản thân trở thành bóng tối. Muối lạc thì bị ném ra ngoài cho người ta chà đạp, ánh sáng trở thành bóng tối thì mất hiệu năng, bị nguyền rủa, bị chửi bới. Cho nên chúng ta phải thường xuyên cậy dựa vào Chúa thật là nhiều qua các việc thiện, việc lành, việc phúc chúng ta làm có lợi cho anh chị em của chúng ta: “ Như thế, ngươi gọi, Chúa sẽ trả lời, ngươi la lên, Chúa sẽ phán: Này Ta đây “ ( Bđ I ).
Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô đã nói đến kinh nghiệm của ngài khi đến với các tín hữu, ngài không dựa vào tài năng riêng tư của ngài mà dựa vào Chúa: “ … Nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng, để đức tin của anh em không dựa vào sự khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa “ ( 2Cor 2, 5 ). Chúng bắt chước ngài là chỉ dựa vào Chúa thì mọi sự sẽ tốt đẹp thành toàn. Chúng ta sẽ là muối và ánh sáng cho gian trần mà chúng ta đang sống.
Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng của Chúa Cha, ánh sáng này có từ thuở đời đời. Chúa đến trần gian, Chúa đem ánh sáng vào trần gian, Chúa chiếu tỏa ánh sáng của Chúa vào nhân thế. Chúng con không là ánh sánh. Chúng con chỉ đón nhận ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng Chúa ra bên ngoài cho anh chị em của chúng con qua đời sống yêu thương phục vụ. Xin Chúa ban ánh sáng của Chúa cho chúng và giúp chúng con dấn thân đi khắp nơi rao truyền Chúa cho mọi người.
Lạy Chúa, Chúa là muối đất của nhân trần, Chúa ướp thế gian này bằng các gương lành và lời rao giảng của Chúa. Xin cho chúng con là muối đất như Chúa để chúng con ướp thế trần qua các việc chúng con làm theo ý Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là con cái trong nhà, chỉ đứng vững khi dựa vào ơn Chúa, xin Chúa hằng che chở chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
VÌ ĐỜI VÀ CHO ĐỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và hình ảnh ấy cũng nói đến những con người đóng vai trò giáo dục, có bổn phận và trách nhiệm “bảo vệ và gìn giữ” những vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng, những giá trị đạo đức nhân phẩm để con người sống “nên người”, sống “cho ra người” hơn. Ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.
Muối là gia vị làm cho thức ăn được ngon miệng, mặn mà. Từ đó nó gợi cho con người hình ảnh tình nghĩa đậm đà mà con người cần phải có để cuộc đời thêm đẹp, thêm ấm áp. Nếu không tình đời sẽ “lạt như nước ốc, bạc nhơ vôi”.
Ánh Sáng
Ánh sáng chiếu soi vạn vật, nhờ ánh sáng con người chiêm ngưỡng được vẻ đẹp cảnh vật quanh ta.
Nhờ ánh sáng, con người định hướng được hướng đi của đời mình. Nhờ ánh sáng con người vượt qua được nguy hiểm, tiếp tục cuộc hành trình an toàn, và đến bến bờ hạnh phúc. Như ánh sáng Hải Đăng cần thiết cho những cuộc hành trình ở Đại Dương bao la.
Ánh sáng thiên nhiên gợi cho ta hiểu ánh sáng tâm hồn. Đôi mắt mùa lòa làm cho con người đau khổ vì sống trong tăm tối, nhưng đôi mắt tâm hồn “mùa lòa” sẽ dẫn con người đến sự sụp đổ hoàn toàn. Mùa Xuân thiên nhiên có thể không đến với những con người mà đôi mắt đã bị cướp đi ánh sáng, nhưng nếu tâm hồn họ đã vươn lên được niềm hạnh phúc cao cả, nếu đôi mắt tâm hồn của họ đã nhìn xuyên thấu những giá trị cao quý của đời người, dù sống trong tăm tối, tâm hồn họ vẫn rực sáng với muôn điều hạnh phúc kỳ diệu sẽ đến trong thế giới nhiệm mầu của riêng họ.
Điểm chung của muối và ánh sáng
Muối và ánh sáng đều đem lại sự an bình. Không hư hao, và tránh những điều xấu có thể đến.
Muối và ánh sáng đem lại cho đời những điều tốt đẹp hơn. Mặn mà và tươi sáng.
Muối và ánh sáng đều chịu hao mòn. Tan biến và dần dần tự hủy đi tạo ra muôn thứ tốt đẹp và hữu ích. Những hạt muối hòa tan và mất đi để có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để cho đời ánh sáng. Mặt trời một ngày nào đó cũng tắt khi nguồn năng lượng cạn kiệt.
Muối và ánh sáng đều thầm lặng hy sinh. Khi dùng những món ăn ngon, người ta khen thịt, cá, rau, quả…không ai khen muối. Khi ngắm cảnh đẹp, người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời… không ai khen ánh sáng.
Vì đời và cho đời
Muối thì phải mặn. Nếu muối mà không mặn thì có còn là muối không?
Ánh sáng thì phải chiếu sáng. Nếu ánh sáng mà không chiếu sáng, thì có còn là ánh sáng không?
Môn đệ thì phải theo gương thầy. Môn đệ mà không giống thầy, thì có còn là môn đệ thầy không?
Chúa Giêsu, Thiên-Chúa-làm-người. Ngài dành cả cuộc đời ở trần thế nầy để “vì đời và cho đời”.
Vì đời và cho đời như “muối và ánh sáng”.
Hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, từ Bê-lem đến đỉnh Can-vê! Còn ai “vì đời và cho đời” hơn như thế không?
Nên môn đệ Chúa Giêsu phải là “muối” và “ánh sáng” theo gương của Thầy Chí Thánh của mình là Chúa Giêsu.
Chính anh em là muối cho đời (Mt.5,13).
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5,14).
“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”.
Và tất cả múc nguồn từ Chúa Giêsu Ki-tô.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Ga.1,14).
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119,105).
“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”, để đời có Niềm Tin, Hy Vọng và Vui Sống. Để đời biết sống đúng ý nghĩa kiếp người và tìm về bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu trong Tình Yêu Thiên Chúa.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga.14,6).
Lạy Chúa,
Xin dạy cho con,
và soi sáng cho con,
biết suy nghĩ và hành động,
theo thánh ý Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN-A
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO ĐỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Cá dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư.
Cá tươi mới mua ở chợ về, chỉ để đến hôm sau là ươn thối.
Một thanh niên đang tuổi xuân phơi phới, không may bị nạn lăn ra chết. Qua mấy ngày sau, thi thể ấy bắt đầu sình thối.
Một người đang sống tốt lành gương mẫu được mọi người mến phục, nếu không khéo giữ mình cũng có thể vấp ngã và hư hỏng, đánh mất hết uy tín, mất hết phẩm chất cao đẹp của mình và trở thành người bị khinh dể chê cười.
Muốn giữ cho cá khỏi ươn, người ta cần dùng muối để ướp mặn nó. Vậy muốn cho con người khỏi hỏng, cũng cần một thứ muối khác để bảo toàn. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta trở nên thứ muối nầy.
Qua Tin Mừng Mat-thêu chương 5, câu 13, Chúa Giê-su mời gọi: “Chính anh em là muối cho đời.”
Vậy chúng ta phải thực hiện sứ mạng làm muối ướp mặn đời như thế nào đây?
Bắt đầu với một người
Một ít muối không thể ướp mặn cả thùng cá. Một cá nhân khó có thể cảm hoá được nhiều người. Tuy nhiên, mỗi người rất có thể giữ cho một người khác khỏi hư.
Để thực hành sứ mạng làm “muối cho đời” như Lời Chúa truyền dạy, trước tiên, mỗi người chúng ta hãy bắt đầu thực hiện với một người, bằng cách kết thân với một cá nhân trên đà hư hỏng, dành nhiều tình yêu và lòng quý trọng cho người bạn đó – chỉ có tình yêu và lòng quý trọng mới có thể cảm hoá tâm hồn – rồi dần dà giúp cho người đó bỏ đi những thói hư tật xấu.
Rồi sau khi đã thành công với người thứ nhất, ta sẽ “làm muối ướp mặn” thêm một người khác nữa. Cứ thế, giúp cho từng người một, hết người nầy đến người khác, dần hồi, chúng ta sẽ giúp cho khá nhiều người khỏi hư hỏng. Đó là một sự nghiệp cao đẹp tuyệt vời.
“Ướp mặn” người khác cách nào?
Trước hết là bằng đời sống gương mẫu, nói khác đi, là hãy trở nên đèn sáng. Người ta thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Hãy nêu cao gương sáng cho người chung quanh như Chúa Giê-su kêu mời qua Tin Mừng hôm nay: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5, 15-16)
Tiếp theo là bằng những lời khuyên đượm tình yêu thương.
Chỉ làm gương sáng mà thôi không đủ, cần có những lời khuyên nhủ, động viên, nhắc nhở đượm tình yêu thương kèm theo.
Nhắc nhở khuyên can mà không có tình yêu thương kèm theo sẽ làm người khác xa lánh ta nên không đem lại hiệu quả. Khuyên lơn, động viên trong tình yêu thương và lòng tôn trọng sẽ cảm hóa được lòng người và giúp người khác khỏi đi vào đường hư vong.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa yêu thương trân trọng từng người và Chúa không muốn bất cứ một ai phải hư mất. “Chúa không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói…” (Mt 12, 20)
Xin cho chúng con biết trân trọng yêu quý những anh chị em đang vướng mắc những thói hư tật xấu và cố gắng giúp cho những người nầy đứng vững trước những thử thách, cám dỗ trong cuộc đời.
Có như thế, chúng con mới có thể chu toàn trách nhiệm làm muối và ánh sáng mà Chúa đã trao phó cho chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
MUỐI, ÁNH SÁNG- Lm. Gioan M. Cao Vũ Nghi
Toyohiko Kagawa từ tuổi ấu thơ đã mồ côi cha mẹ. Gia đình một người họ hàng đã nhận bé về nuôi, nhưng đã bị họ đối xử cách tàn tệ. Dầu vậy, Kagawa vẫn nhẫn nhục chịu đựng và đã trở nên một người thành công trong xã hội. Nhưng rồi đau thương một lần nữa lại đến viếng thăm: Ông Kagawa đã mắc phải bệnh phổi, và chỉ còn chờ chết. Một hôm, ông thấy một luồng sáng bao bọc ông và ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Liền sau đó, ông đã được chữa lành, không những về phần xác, mà tâm hồn ông cũng được biến đổi. Từ ngày đó, ông đã hiến thân phục vụ những người bần cùng nghèo khó nhất trong xã hội. Ông đã hoàn toàn quên mình phục vụ những con người xấu số này: an ủi, thông cảm, lắng nghe họ; cung cấp đồ ăn áo mặc cho họ. Một thời gian sau, ông bị nhiễm trùng mắt, và vì đó đã bị mù một mắt, nhưng ông vẫn tiếp tục phục vụ cho tới ngày ông từ biệt cõi đời.
Toyohiko Kagawa đã được lãnh nhận ơn Chúa, và ông đã cảm thấy bị thúc bách phải đáp trả bằng cách phục vụ anh chị em đồng loại của mình. Qua tấm gương phục vụ của ông, nhiều người đã tìm được ánh sáng cứu độ và nhận ra tình thương của Thiên Chúa. Toyohiko Kagawa đã là một ngọn đèn sáng Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay.
Hai ngàn năm trước đây, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và Ngài là đã là ngọn đèn chiếu giải ánh sáng cứu độ cho những người sống trong tội lỗi, ánh sáng bình an hy vọng cho những người bệnh tật và những người bị xã hội ruồng bỏ, và ánh sáng đức tin cho những người chưa nhận biết Thiên Chúa chân thật. Để ánh sáng cứu độ, bình an và hy vọng của Chúa được tiếp tục chiếu sáng và lan rộng mãi trong trần gian, Chúa đã mời gọi những người đã được ơn Chúa thánh hóa tiếp tay với Chúa. Với các môn đệ, Chúa đã sai họ đi rao giảng tin mừng, chữa lành những người bệnh tật, và giải thoát những người bị quỉ ám (xem Matthêu 10:8); với người Chúa mới chữa khỏi quỉ ám, Chúa dạy”Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con” (Marcô 5:19); hay ít nữa là như người đàn bà ngoại tình, Chúa đã khuyên bà: “Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Gioan 8:11). Nhưng cả khi Chúa chưa mời gọi, cũng có người khi được chữa lành, đã cảm thấy bị thúc bách để cao rao danh Chúa, như người được chữa khỏi bệnh cùi (xem Lk 17:15)
Ngày nay, tùy hoàn cảnh và tùy bậc sống của mỗi người, Chúa còn tiếp tục kêu mời mọi Kitô hữu, những người đã được cứu độ nhờ nước Rửa tội, được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Thánh Chúa, và được chữa lành nhờ phép Giải Tội và Xức Dầu, hãy là ánh sáng cho trần gian. Có thể chúng ta được Chúa mời gọi theo gương các vị tử đạo để làm chứng cho Đức Tin trong những nơi Kitô giáo còn đang bị bắt bớ, có thể chúng ta được kêu gọi để như ông Kagawa làm rạng sáng đức Bác Ái Kitô giáo cho thế giới, hay có thể được kêu gọi để đem ánh sáng bình an hy vọng cho những tâm hồn cô đơn trong những viện dưỡng lão, hay những tâm hồn sầu khổ và bệnh tật trong các bệnh viện, và cũng có thể chúng ta được mời gọi để nói về tình thương của Chúa cho những người đang bị đè nặng bởi những khổ đau trong cuộc đời. Lẽ dĩ nhiên, để đáp lại lời mời gọi của Chúa, đòi chúng ta phải có sự cố gắng và phải chấp nhận những khó khăn. Chúng ta có thể như ngọn đèn ẩn náu dưới đáy thùng, sống an phận cho xong kiếp làm người, nhưng vì là những người đã được lãnh nhận, chúng ta có bổn phận để chia sẻ hồng ân Chúa cho anh chị em của chúng ta.
Ước chi mỗi người chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, để cùng nhau chúng ta hãy là ngọn đèn dập tắt bóng tối của hận thù, ghen ghét, và bất công trong thế giới, và thay vào đó là ánh sáng bình an và hy vọng của Chúa Kitô.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
MUỐI ĐẤT- Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Tất cả chúng ta đều đã có lần nếm một món ăn nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người Việt chúng ta thường dùng nước mắm để nêm các món ăn. Tuy thế vẫn phải thêm muối, món ăn mới thêm hương vị và mặn mà! Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.
“Muối đất”: ngày xưa, khi khám phá ra phân bón, người ta dùng muối để làm đất trồng thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và đồ ăn để giữ được lâu.
Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt Nam chúng ta, đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo rằng nhà có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn này đem lại niềm vui và thu hút mọi người.
Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. “Các con là sự sáng thế gian”. Đây không phải là lời xác nhận sự ưu thế của các môn đệ, nhưng là một công tác truyền giáo: qua đời sống của mình, qua lời nói và hành động, người Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần mò trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa là Cha của họ và là Cha chung của mọi người. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.
Chúng ta nhận xét thấy Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian. Nhưng Ngài nói: các con là muối và là ánh sáng bởi vì các con là môn để của ta, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
“Các con là sự sáng thế gian”. Sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: “Ta là sự sáng thế gian” (Ga 8:12). Ngài muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: “Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.
Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh nhưng cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi “lạt” và ngọn đèn luôn chiếu sáng: đó là sống bác ái: chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc… Khi ấy, “ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.
Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại: đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc nho nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói nhã nhặn, lịch thiệp, những cử chỉ bác ái, khiêm nhường, kiên nhẫn, biết lắng nghe, tha thứ, biết nghĩ đến người khác v…v…
Bài Phúc âm hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ của tất cả chúng ta. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, có lẽ chúng ta không cần giảng đạo nhiều, vì chính đời sống, việc làm, việc bác ái của chúng ta sẽ mang lại hương vị cuộc đời cho mọi người và chiếu tỏa trong bóng đêm như ánh sáng ban ngày, giúp đỡ họ, đồng hành với hot đến với Chúa là “nguồn ánh sáng và ơn cứu độ” (Tv 26:1)
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN-A
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Chính anh em là muối cho đời”
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Chúa Giêsu đề cập đến muối và ánh sáng ngay sau Hiến chương Tám Mối Phúc. Phải chăng Người muốn giải thích tám phúc qua hai hình ảnh cụ thể: Muối và ánh sáng.
Ý nghĩa muối và ánh sáng có vẻ tương phản như kiểu nói: nghèo khổ, sầu đau, bị bách hại lại được phúc. Thực ra, kiểu nói đó không có gì là mâu thuẫn nhưng hoàn toàn ăn khớp với nhau, có sức làm nổi cộm những ý nghĩa sâu sắc như những hình ảnh nổi trên màn ảnh không gian ba chiều, muối như nền không gian ba chiều cho những ánh sáng nổi lên rõ nét.
Chắc chắn Chúa Giêsu không muốn nói đến cấu trúc khoa học của muối và ánh sáng, mà chỉ nêu ra những công dụng rất hữu ích và cần thiết của chúng.
1/ Ai cũng biết công dụng của muối là ướp đồ ăn khỏi hư thối, thêm hương vị đậm đà và dễ tiêu hóa, muối còn được dùng trong nhiều ngành công nghệ để làm chất thanh tẩy trong bột giặt, cho thủy tinh trong suốt, tơ sợi bền dai. Muối rất hữu ích, nhưng tự nó hòa tan dễ dàng. Hòa tan mà vẫn không biến chất: “Hòa nhi bất đồng”. Hòa tan bỏ mình đi để muối có sức thấu nhập tận cốt tủy của đồ ăn, của chất liệu cần dùng nó. Nhờ đó muối bảo tồn, gìn giữ vật khỏi hư thối, nguyên liệu được thanh tẩy, hương vị được thơm ngon đậm đà.
Phải chăng đây là ý nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hơn cả, nơi chính mình Người và cho môn đệ Người. Chính Ngài là Thiên Chúa đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa vinh quang, hủy mình đi (Semetipsum exinanivit… Phil. 2, 7). Hòa tan vào thân phận nô lệ phàm nhân để thanh tẩy mọi ô uế của phàm nhân, làm cho phàm nhân nên tươi tốt, đậm đà thơm ngát trong tình yêu Thiên Chúa, làm cho phàm nhân nên trong suốt phản chiếu ánh sáng chí thánh của Ngài để tỏa sáng vinh quang Ngài khắp nơi.
Ai tin theo Chúa Kitô cũng phải bỏ mình đi để hòa tan như Thánh Phaolô: “Tôi sống không còn phải là tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Tại sao phải hủy mình đi? Bài đọc II cho thấy rõ lý do: “Khi tôi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt, run rẩy… nhưng tôi chỉ dựa vào Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá… chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh thần và quyền năng Thiên Chúa”.
Đức Kitô là muối, Phaolô cũng phải là muối để hòa tan biến đi, từ bỏ mình đi, hạ mình xuống làm nền như tảng đá để xây lên những thành phố cao, để làm chân đế của những ngọn đèn sáng chiếu soi cho mọi người trong nhà và trong khắp thế gian.
2/ “Anh em là ánh sáng cho trần gian”
Ánh sáng soi cho ta thấy mọi vật muôn sắc ngàn màu tươi đẹp. Ánh sáng kích thích cây cối hoa màu sống phát triển mạnh mẽ. Thiếu ánh sáng chúng bị úa, bị chết yểu. Thế kỷ thứ XX mệnh danh là thế kỷ ánh sáng. Biết bao nhiêu phát minh tân kỳ từ đèn điện, bếp điện đến những phát thanh truyền hình, rađa, quang tuyến, siêu âm, vi tính, cáp quang.
Từ những công dụng kỳ diệu của ánh sáng tự nhiên, Chúa Giêsu cho ta thấy một thứ ánh sáng siêu nhiên vô cùng lạ lùng.
Ánh sáng siêu nhiên vô cùng đó phát ra từ chính Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là nguồn sáng” (Tv. 1,1), là Đấng tạo thành ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú (St. 1,16; Tv. 135, 7-9; Ga. 1,17). Cho nên uy linh Ngài như cẩm bào ánh sáng. Ngài hiện xuống núi, đến với dân trong ánh lửa (Xh. 19,12). Làm cho dung nhan Môsê tỏ ánh hào quang (Xh. 34,29). Lời Ngài như tia sấm sét (Xh. 20,18), nhưng thật êm dịu như ánh trăng thanh và dịu ngọt dường bao, hơn mật ong ngậm trong miệng (Tv. 118, 103-105).
Huyền diệu thay! Êm ái ngọt ngào thay! Ánh sáng chính là Ngôi Lời: “Ngôi Lời là Thiên Chúa… là ánh sáng thật đã đến trong thế gian, chiếu soi vào bóng tối cho mọi người… Ngôi Lời đã trở thành người phàm và ở trong chúng ta” (Ga. 1, 1-9).
Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta như Người đã xác nhận: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không mất đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga. 8, 12) và ban cho chúng ta ánh sáng, Người nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Người đã đến chiếu soi vào bóng tối cho mọi người thế nào?
Thưa Người “loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố ân xá cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”, “Tất cả những ai đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn đều được Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ lành, quỷ cũng xuất khỏi nhiều người” (Lc. 4, 18-19… 40-41). Người làm nhiều hơn thế: cho kẻ chết sống lại, chính Người đã chịu chết trên Thập giá để soi cho mọi người thấy ánh sáng dẫn tới nguồn sống.
Tất cả những ai đi theo ánh sáng đều phải là ánh sáng chiếu vào bóng tối soi cho mọi người như vậy: “Gần đèn thì rạng” “Hữu xạ tự nhiên hương”. Bài đọc I đã đề ra một số việc cụ thể của con cái ánh sáng phải thi hành là cứu người đói nghèo, đau khổ, bệnh tật, biết chia cơm xẻ áo, tiếp giúp kẻ bơ vơ không nhà, đẩy lùi áp bức, gông cùm.
Có ra sức chiếu sáng như thế mới được Người cho quyền trở nên con cái Thiên Chúa và được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác từ nguồn sung mãn của Người (Ga. 1, 12… 16).
“Hãy cảm tạ Chúa, vì Người nhân từ:
Cho Thái Dương soi sáng ban ngày,
đặt trăng sao hướng dẫn ban đêm” (Tv. 135, 7-9).
“Cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng cho những ai ngồi trong tăm tối và bóng tử thần; dẫn ta bước vào nguồn sáng bình an” (Lc. 1, 78-79).
Vậy chúng ta hãy:
“Chúc tụng Chúa đi, các Thiên sứ của Người; muôn ngàn đời hãy chúc tụng suy tôn.
Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng.
Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú muôn ngàn.
Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây.
Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài muông thú.
Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người.
Nào chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Muôn ngàn đời cùng ca tụng suy tôn”
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
GIÁC NGỘ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Nghe từ Giác Ngộ xem ra có vẻ nhuốn chút suy tư đạo lý của Phật Giáo. Tôi thích từ Giác Ngộ, đồng nghĩa với từ Thức Tỉnh (to awake, awaken). Mấy năm trước đây, tôi vẫn thường gặp và thăm hỏi thầy Thích Thiện Chí. Có một lần, thầy tâm sự rằng thầy mới được giác ngộ. Thầy kể rằng một ngày kia khi đang tụng kinh, thầy cảm thấy như có một lóe sáng trong đầu và từ giây phút đó thầy bắt đầu thao thao giảng dạy và chia sẻ những gì mà trước đây thầy không thể làm được. Thầy Thích Thiện Chí rất khiêm nhu và hiền lành. Thời gian trước thầy trụ trì tại Chùa Thập Phương nay đổi sang phục vụ tại Chùa Chiếu Kiến ở vùng Bronx, Nữu Ước.
Giác ngộ chính là được thức tỉnh. Mỗi người đều có những khoảnh khắc tự giác và nhận thức. Trước đó không bao giờ nhận ra dù có kinh qua bao nhiêu ngày sống. Giây phút giác ngộ hay thức tỉnh là một khởi đầu rất qúy báu. Có những vị thánh đã được thức tỉnh qua lời Chúa trong Kinh Thánh như thánh Antôn, Tu Viện Trưởng. Một ngày kia, Antôn ghé vào nhà thờ vừa khi bài Phúc âm đang đọc nói về người giầu có: Đức Giêsu đáp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”(Mt. 19, 21). Ngay lập tức, Antôn rời nhà thờ và về làng quê bán hết của hồi môn và 200 mẫu đất, rồi đem phân phát cho người nghèo. Lần kế tiếp, ngài vào nhà thờ nghe bài phúc âm khác: Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt. 6,34). Không do dự, ngài dâng biếu tất cả những của cải còn lại cho người nghèo. Sau đó, Antôn vào ẩn tu và tự tay lao động nuôi thân cùng giúp đỡ người khác. Đây chính là sự giác ngộ thực sự. Giác ngộ và tiếp tục sống ơn soi sáng thúc đẩy để thánh hóa cuộc đời.
- Sống thức tỉnh
Giây phút ánh sáng chói lòa biến đổi cuộc đời. Saulô đang trên đường đi ruồng bách những tín hữu của Chúa Kitô, đã bị luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và làm lòa mắt. Saulô không còn thấy đường đi mà phải nhờ người dẫn dắt. Saulô được chính Chúa Giêsu, nguồn ánh sáng chọn, gọi và cải đổi đời sống. Chúa Kitô đã biến đổi một Saulô đang ruồng rẫy bách hại các Kitô hữu trở thành Phaolô nhiệt thành rao giảng tin mừng Nước Chúa. Phaolô đã trở nên muối, nên men và ánh sáng cho mọi người, nhất là các dân ngoại. Thánh Phaolô đã mang ánh sáng tin mừng của Chúa đi cùng khắp. Ngài đã là chứng nhân đích thực và là đèn sáng để trên giá cao soi cho mọi người ở mọi thời, mọi nơi.
Giác ngộ như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị trong lễ đăng quang nhận chức vị chủ chăn của Giáo Hội ngày 22 tháng 10 năm 1978. Câu đầu tiên trong bài giảng khai mạc là: Anh chị em đừng sợ. Ngài được linh hứng qua lời Chúa, trong Thánh Kinh đã có trên 100 lần nhắc đến từ “Đừng Sợ”. Đừng sợ khi phải đối diện với những nghi nan, khó khăn hay thách thức. Đức Giáo Hoàng đã nỗ lực vượt ra ngoài tiền lệ đã gặp gỡ nhiều người, đi tới nhiều nơi và nhiều nước. Ngài đã hòa giải và xin lỗi toàn nhân loại vì những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài chính là muối ướp mặn và là ánh sáng thế gian. Ngài đã đến với giới trẻ để ướp thêm vị mặn cho khỏi bị nhiễm mùi thế tục. Ngài đã sống chứng nhân đích thực của Chúa Kitô cho đến hơi thở cuối cùng.
Thức tỉnh như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận trong những ngày lao tù đầy khổ sở tại Vĩnh Phú. Nơi đây đa số tù nhân là những người không thuộc Đạo Công Giáo. Trong lúc cô đơn, buồn chán, thất vọng và nhớ nhung những sinh hoạt của giáo phận. Ngài kiên tâm cầu nguyện và được ơn soi sáng từ đáy tâm hồn mời gọi và đã thức tỉnh ngài là “Hãy chọn Chúa, chứ không phải là công việc của Chúa”(Escoge a Dios y no las obras de Dios). Nhận thức Chọn Chúa, ngài đã mở ra Con Đường Hy Vọng. Đức Cố Hồng Y Phanxicô là đèn sáng soi rọi gian trần. Ánh sáng cuộc sống của ngài đã lan tỏa từ trong ngục tù tối tăm, lạnh vắng đến kinh thành Rôma ánh sáng, trung tâm của Giáo Hội. Đèn vẫn cứ cháy sáng cho dù với chỉ một người lính canh hay cả ngàn ngàn người tụ họp bên ngài. Nơi ngài tỏa sáng niềm tin hy vọng vào Chúa Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô được phản ảnh qua đời sống đạo hạnh của ngài. Ngài là ánh sáng cho trần gian.
- Nhận thức
Trong cuộc đời, ai trong chúng ta cũng có những giây phút hay khoảnh khắc thức tỉnh, giác ngộ hay lóe sáng tâm linh. Có nhiều khía cạnh và nhiều thể loại thức tỉnh khác nhau tùy theo mức độ nhận thức. Nhận thức từ những vật thể tới cảm xúc và tinh thần. Có những vật quý giá bao năm bị bỏ quên lãng, đột nhiên một ngày chúng ta nhận ra giá trị và sự tuyệt đẹp của nó. Có khi bao năm chúng ta bị nghiện ngập sống trong trụy lạc, bài bạc, rượu chè và khói thuốc, vào một ngày tự nhiên chúng ta phát hiện sự nguy hại và rồi chúng ta dứt bỏ nó. Có khi người bạn hiện diện ngay bên mà không nhận ra, cho đến lúc được thức tỉnh trong tình yêu, người ta gọi là tiếng sét ái tình. Hoặc khi trải qua những tại họa thương đau mất mát, chúng ta mới chợt tỉnh thức tiếc nuối những gì đã qua và bắt đầu lại. Có những thức tỉnh trong tâm hồn nhờ một biến cố, một lời linh ứng, một phát hiện hay một thúc đẩy từ đáy tâm hồn. Sự giác ngộ hay thức tỉnh đây mới chỉ là một khởi đầu trong cảm xúc, chúng ta phải phấn đấu và sống với tia sáng soi dọi đó bằng ý chí và cả cuộc đời. Sự giác ngộ mới có ý nghĩa và mang lại hoa qủa đích thực.
Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt lại từ đầu. Chúng ta biết rằng vạn sự khởi đầu nan. Giây phút khởi đầu bất cứ một việc gì cũng rất quan trọng. Người ta nói: Xảy một li, đi một dặm. Trong kinh nghiệm cuộc sống, chúng ta có nhiều cơ hội may mắn xảy đến trong đời. Nếu ai biết chộp bắt cơ hội, họ có thể làm giầu, thành công và đạt thắng lợi. Về đời sống tinh thần cũng thế, đến một lúc nào đó, chúng ta cảm nhận được sự an vui khi lòng mình ở ra và con tim thắp sáng lên niềm tin yêu hy vọng. Chúng ta hãy kiên tâm học hỏi, tìm hiểu và cầu nguyện, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt. 7,7).
- Muối và Ánh Sáng
Lời Chúa Giêsu xác tín rằng anh em là muối và là ánh sáng. Muối mặn để ướp đời. Ánh sáng trên giá soi sáng cho mọi người. Mỗi người chúng ta được chịu phép rửa trong Chúa Kitô và được trao nến sáng. Chúng ta đều mang danh là Kitô hữu, có nghĩa là chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Thuộc về Chúa Kitô thì đương nhiên chúng ta phải là muối và ánh sáng. Mỗi lời nói, cử chỉ và việc hành xử của chúng ta đều mang danh là Kitô hữu. Mọi việc chúng ta thực hiện tốt hay xấu cũng đều mang danh là người công giáo. Người công giáo phải là muối, là men và là ánh sáng. Muối thì phải có chất mặn. Chất mặn sẽ ướp đời khỏi ôi rữa hay hôi thối. Người Kitô hữu có sứ mệnh nên gương cho mọi người trong môi trường sinh sống của mình. Chúa Giêsu đã phán: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi (Mt. 5, 13).
Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Con người tốt sẽ phát huy những việc tốt.Trong thực tế lại không luôn là thế, người tốt vẫn có thể sai lầm, sa ngã và phạm tội. Thánh Phaolô khuyên dạy: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Tm.10,12). Cây cối sinh chồi nẩy lộc và hoa trái theo mùa tự nhiên, nhưng con người có ý chí tự do và chọn lựa cách sống. Sinh hoa trái tốt lành đạo đức là một ân huệ và sự cố gắng. Muốn được giác ngộ trong ơn gọi của mình, chúng ta cần sự kiên nhẫn cầu nguyện và ý thức về việc làm của mình. Chúa Giêsu tin tưởng truyền dạy rằng: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được (Mt. 5,14). Chúng ta phải là ánh sáng soi cho mình trước khi dọi sáng cho người khác. Thường thì chúng ta thích soi mói và nghe truyện người, hơn là nhớ truyện mình. Đèn của mình đã tắt mà lại muốn soi lối chỉ đường cho người khác. Mỗi người chúng ta cần tự giác và tỉnh thức luôn, đừng để mình bị rơi vào sự mù lòa trong tăm tối. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (Lc. 6,39).
- Nhân chứng
Chúa Kitô chính là nguồn và là ánh sáng đến trong trần gian. Ánh sáng của Chúa được tiếp nối qua đời sống của người tín hữu. Chúng ta không thể chối từ trách nhiệm là đèn sáng soi vào bóng tối. Cuộc sống con người đang dần bị tục hóa qua các trào lưu hưởng thụ và chạy đua với các nhu cầu đòi hỏi. Thế giới đang cần các ngọn hải đăng chiếu sáng. Mỗi Kitô hữu hãy khơi dậy ngọn đèn cháy sáng để đẩy lùi bóng tối. Chúng ta hãy thắp đèn và đặt trên giá để soi cho mọi người chung quanh. Nhân loại đang cần vị mặn của muối để thanh tẩy, cần ngọn lửa để sưởi ấm và cần những gương sáng để soi đường.
Mỗi người đều được mời ra đi làm nhân chứng tùy theo ơn gọi của mình. Có người sống trong bậc gia đình, người sống độc thân và người sống đời dâng hiến trong chức vụ linh mục, tu sĩ… ai ai cũng có thể trở thành ánh sáng soi lối cho tha nhân. Giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên, học sinh hãy nên muối, nên men giữa môi trường lớp học. Các kỹ sư, công nhân, chuyên viên, thợ máy hãy nên ánh sáng tại các công xưởng. Các thương gia, người buôn kẻ bán, các chủ tiệm, người làm công đều được mời gọi nên gương mẫu của sự công bằng và bác ái. Các bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên nên gương tận tâm phục vụ như đèn sáng nơi nhà thương bệnh xá. Các chính khách, quân nhân, cảnh sát, công chức và các nhân viên phục vụ công quyền phải nên gương sáng trong khi thi hành chức vụ. Các nhà truyền thông, báo chí, văn nhân thi sĩ, kịch sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ… cần dùng khả năng chuyên nghiệp của mình truyền rao chân, thiện, mỹ cho cuộc sống. Các tu sĩ, thiện nguyện viên, linh mục, phụ huynh hãy nên muối men phục vụ tại gia đình, cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta đừng dấu đèn sáng sau lưng, đừng bưng bít hoặc tắt đèn để được tự do hòa chung vào những cách sống không xứng danh là Kitô hữu. Là Kitô hữu, đừng sợ, chúng ta hãy tiên phong sống gương mẫu và là chứng nhân cho sự sáng và sự sống giữa dòng đời. Chúa Giêsu đã khuyến khích: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”(Lc. 12,32).
Tóm lại, ước chi ánh sáng của ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội được cháy sáng mãi. Ngọn nến của niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Mỗi người tự vấn lương tâm, chúng ta đã góp được gì để xây dựng đời sống của Giáo Hội. Chúng ta đã làm được những lợi ích gì qua những ân huệ, khả năng và thời gian Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống? Chúng ta đừng cất giữ muối và ánh sáng cho riêng mình, hãy để muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi. Xin Chúa là nguồn ánh sáng vĩnh cửu sưởi ấm và đốt lửa mến yêu trong tâm hồn chúng con, để chúng con tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatvthuongniena #suyniemloichuagpbr