CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CÁC MỐI PHÚC – Chú giải của Fiches Dominicales. 13
HẠNH PHÚC(*)- ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt. 22
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN – A.. 24
CÁC MỐI PHÚC LÀ TINH HOA TIN MỪNG- Lm. Ph rô Nguyễn Văn Hương 24
PHÂN TÍCH CHI TIẾT MỖI CHÂN PHÚC– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 32
MỐI PHÚC THẬT– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 55
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI – Lm. Đan Vinh HHTM.. 59
SỰ KHIÊM TỐN – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 75
HẠNH PHÚC- Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long.. 81
NẺO VỀ HẠNH PHÚC- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 85
PHÚC THẬT- PHÚC GIẢ- Lm. Bùi Quang Tuấn.. 90
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚC PHÚC- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 95
HẠNH PHÚC ƠI, MI LÀ AI?- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 100
CHÚA TÔN NGƯỜI KHIÊM HẠ- Lm. Minh Vận CRM.. 105
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn”.
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả các người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Chúa. Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào thánh danh Chúa. Kẻ sống sót của Israel sẽ không làm điều bất công, sẽ không nói dối, miệng chúng sẽ không nói lời phỉnh gạt, vì chúng sẽ được chăn dắt và nằm ngủ không bị quấy rầy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10.
Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5,3).
Xướng: Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. Ðáp.
Xướng: Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
Xướng: Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua từ đời này sang đời khác.
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 26-31
“Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy xem ơn kêu gọi của anh em: Vì (trong anh em) không có mấy người khôn ngoan theo xác thịt, không có mấy người quyền thế, không có mấy người sang trọng. Nhưng điều mà thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê, những điều không không, để phá huỷ những điều hiện hữu, hầu mọi xác thịt không thể vinh vang trước mặt Người. Chính do Người mà anh em ở trong Chúa Giêsu Kitô, Ðấng do Thiên Chúa, đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hoá và sự cứu rỗi cho chúng ta, ngõ hầu, như đã chép: “Ai tự phụ, thì hãy tự phụ trong Chúa”.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 1-12a
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời”.
Ðó là lời Chúa.
PHÚC THAY… (*)- Chú giải của Noel Quession
Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi…
Phải suy nghĩ về những lời dẫn nhập đầu tiên này của bài giảng trên Núi Thánh Matthêu giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ của Người, có một đám đông đi theo Người. Và những câu trước đó mô tả đám đông ấy gồm, những người bệnh hoạn, tật nguyền, những kẻ kinh phong, bại liệt… (Mt 4,23). Đức Giêsu là Đấng nhìn thấy đám đông lầm than vất vưởng mà chạnh lòng thương… như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngày hôm nay… tôi nhìn thấy ánh mắt của Đức Giêsu đẫm lệ xót thương những ai bị đè bẹp: bệnh hoạn, tật nguyền, những người không việc làm, những phụ nữ bị nhạo báng, những người nghèo thuộc mọi thành phần, “những người thu thuế và tội lỗi” cả một nhân loại ấy bên bờ tuyệt vọng.
Khi Đức Giêsu nhìn thấy tất cả nhữngđiều đó… Người làm gì? Người nói gì?
Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:
Phong cảnh này được cố ý dựng lên vĩ đại và long trọng. Đức Giêsu rất con người nhưng theo Tin Mừng của Matthêu cũng là “Đức Chúa Vinh quang”, uy nghi như một tranh thánh của phương Đông. Phong cảnh núi non là “bài giảng” Đây không phải là một phác họa cho diễm lệ, đó chính là khung cảnh vĩ đại của việc công bố luật mới là núi Xi-nai mới, đỉnh núi bốc khói nơi Thiên Chúa nói với dân. Và Đức Giêsu là Môsê mới, nhà làm luật, nhà giải phóng chân chính cho tất cả những ai đang sống trong nô lệ.
Vâng, bạn đang bị đè bẹp bởi một hoàn cảnh mà con người không thể chịu đựng nỗi, bạn hãy lắng nghe! Thiên Chúa muốn nói với bạn môt điều. Bạn đang khốn khổ bởi vì bạn cảm thấy bị tổn thương trong những khát vọng sâu nhất bạn hãy lắng nghe! Nếu bạn có cơ may “‘hiểu được, điều Người sắp nói với bạn, thì cuộc đời bạn sẽ được thay đổi. Hãy lắng nghe… Bạn hãy lắng nghe Thầy. Bạn hãy lắng nghe Đức Giêsu.
“Phúc thay… Phúc thay… Phúc thay…
Đó là chữ đầu tiên của tất cả các câu trong “bài giảng trên núi”.
“Phúc thay”!, “makarioi” trong tiếng Hy-lạp.
“Phúc thay”!, “asherei” trong tiếng Do Thái…
Vâng chủ đề của bài thuyết giáo đầu tiên của Đức Giêsu chính là hạnh phúc. Các mối phúc thật là một sự loan báo về hạnh phúc, một “tin mừng tóm lược toàn bộ Tin Mừng. Các bạn là những người nghèo khó, bị khinh miệt những người chán nản, thất vọng, các bạn có thể được hạnh phúc. Các bạn hãy hạnh phúc. Bởi vì hạnh phúc thật trước tiên không phải là công việc của sự giàu sang, của sự thành công, của lạc thú. Bạn đã tưởng rằng hạnh phúc không dành cho bạn… Đức Giêsu nói với bạn rằng bạn có thể được hạnh Phúc. Đức Giêsu muốn làm cho các môn đệ của người trở thành những người hạnh phúc. Bạn là Kitô hữu! bạn có biết rằng bạn đang hạnh phúc không? Nếu bạn không hạnh phúc, bạn không hỏi tại sao ư?
Nhưng vấn đề là hạnh phúc nào? Có nhiều loại hạnh phúc.Và hạnh phúc khi nào? Cho cuộc đời hiện tại hay cuộc sống mai sau?
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó…
Phúc thay ai hiền lành…
Phúc thay ai sầu khổ…
Phúc thay ai khao khát nên người công chính…
Phúc thay ai xót thương người…
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch…
Phúc thay ai xây dựng hòa bình…
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính…
Hạnh phúc mà Đức Giêsu nói đến không loại trừ những nghịch cảnh và sự đau khổ. Chúng ta đã thấy điều đó qua tất cả bản văn, một cách chính xác Đức Giêsu nhắm đến những người mà người ta coi như những người bất hạnh. Các mối phúc thật không nhắm đến “những”hạng người khác Những từ ngữ thay đổi ở đó chỉ để làm dôi lại một tư tưởng duy nhất: “Anh em hãy đến cùng tôi. tất cả những ai đang vất vả và nặng nhọc, và tôi, tôi sẽ cho anh em sự nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học vôi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mátthêu 11,28-30).
Vâng, Đức Giêsu đúng là Đấng mà người ta chờ đợi “Đấng đã được loan báo”, “Đấng phải mang lại Tin Mừng “cứu độ” Người ta hay quên rằng chữ “Tin Mừng” đã được chính Đức Giêsu lấy lại từ phần thứ hai của sách I-sai-a: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu (oint = chnstoa) tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…” (I-sai-a 61, 1.6 – Lc 4, 18)
Phúc thay… vì Nước Trời là của họ…
Tám mối phúc thật đầu tiên được đóng khung bằng sự bao gồm này, được lặp lại hai lần ở đầu và ở cuối (Mt 4,3 và 4,10). Bởi công thức này, Đức Giêsu trả lời hai câu hỏi của chúng ta: hạnh phúc nào? khi nào? Vấn đề là một hạnh phúc “từ bây giờ”. Nước trời đang ở trong anh em: Không phải chỉ là một hạnh phúc được hứa cho mai sau, cho đời sau. Phải hiểu rõ sự tế nhị trong tư tưởng của Đức Giêsu.
Sẽ là một sự hiểu sai khi biến nó thành một thứ “thuốc phiện của quần chúng để người ta hút và ngủ thiếp đi với lại hứa sẽ được hạnh phúc sau này, bên kia thế giới sau khi chết! Đức Giêsu nói rằng những ai bị đè bẹp bởi thế giới này thì được hoặc có thể được hạnh phúc một cách thiết thực ngay trong lúc mà Đức Giêsu nói điều đó với họ. Nhưng điều này không hiển nhiên. Phải ý thức về nó. Và điều ấy dĩ nhiên không loại bỏ viễn cảnh của một “thế giới
phải đến”, “Nước Thiên Chúa” nhưng niềm hy vọng ấy đã chuyển biến hiện tại. Tương lai hạnh phúc mà Đức Giêsu hứa ban cho tất cả những ai bị hoàn cảnh nhọc nhằn hiện tại đè bẹp…. tương lai ấy đã trở thành một thực tại hiện diện trong ngôi vị và tình bạn hữu của Đức Giêsu
Bởi vì hạnh phúc ấy, chúng cuộc, chính là Triều đại của Thiên Chúa”, chính là “Tinh yêu Thiên Chúa” ngay từ Hôm Nay nếu bạn muốn thật sự soi sáng hoàn cảnh đau khổ của bạn. Đức Giêsu không bao giờ định nghĩa “Nước Thiên Chúa (những chữ Nước, Triều đại, Vương quyền đều giống nhau trong tiếng Do Thái), nhưng nó gợi lên ý tưởng và người ta có về Đấng Quân Vương, Đấng Thiên Sai lý tưởng trong toàn bộ Phương Đông Cổ đại: chức năng đầu tiên của vua (Đấng quân Vương) là bảo đảm sự giải phóng khỏi mọi sức mạnh ngoại bang đang đe dọa… bảo đảm công lý và bảo vệ những người nghèo, trẻ nhỏ chống lại những người giàu sang và quyền thế là những người luôn luôn có khuynh hướng bóc lôt những người yếu đuối. Khi Đức Giêsu khẳng định rằng những người nghèo là những người được Thiên Chúa ban đặc ân, rằng triều đại của Thiên Chúa thuộc về họ, rằng công lý vương đế đứng về phía những người phận nhỏ….Đức Giêsu không nói rằng những người nghèo là những tốt nhất, đạo đức hơn những người khác. Vấn đề ở đây không phải là tâm lý hoặc đạo đức của những người nghèo. Trong. Những công bố này về các mối phúc thật, có một sự mạc khải một ý tưởng nào đó về Thiên Chúa: Thiên Chúa tự nhận mình có bổn phận là một ông vua tốt. Thiên Chúa đặt niềm vinh dự của Người trong việc đem lại “hạnh ‘phúc”, một cách mầu nhiệm, cho những người bị tước đoạt hết mọi hạnh phúc của con người. Cho cả bạn nữa, nếu bạn muốn! Hạnh phúc nghịch lý và không thể hiểu được đối với người nào đã không cảm nghiệm nó.
Vậy bạn hãy thử xem. Hãy bước vào hạnh phúc đó của Thiên Chúa. Ngay NGÀY HÔM NAY.
Nếu bạn đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa toàn diện” của các mối phúc thật, lúc đó bạn hãy lắng nghe cách thể hiện mà Matthêu đem lại. Sự công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa trình bày một chương trình sống cho người Kitô hữu: nếu bạn muốn hạnh phúc thì đó là cách mà bạn phải làm.
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Cùng một chữ Do Thái “anawim’: có thể được dịch là “nghèo khó” hay là “hiền lành”. Đó là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Chữ “anawim” gợi lên hình ảnh của một người “bị uốn cong”, thái độ của kẻ yếu không còn khả năng tự vệ bắt buộc phải nhường bước trước những người là nạmh nhất. Là người bị hạ nhục, bị làm cho thấp kém, người đó dù là nam hay nữ không làm sao để cho người ta tôn trọng các quyền của mình…. Người “hiền lành” chính là người không bực tức trước sự thịnh vượng của những vô đạo và họ không đánh mất lòng nhẫn nại. Đức Giêsu nói về người “Thầy hiền lành và khiêm nhường ở trong lòng (Mt 11,29-12, 18-21). Bị các kẻ thù công kích, Người tha thứ cho họ. Đức Giêsu đã sống mối phúc thật thứ nhất:
Phúc ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã khóc với Mát-ta và Ma-ri-a. Đức Giêsu hoàn toàn “tương ứng” với ý muốn của Chúa Cha: Người là Đấng Công chính. Người là lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Người đã tha thứ tha thứ và tha thứ… Tâm hồn Người “thanh khiết” vô song, không chút sai lầm, không chút quanh co: hành động và ý định của Người hoàn toàn thống nhất.
Phúc thay ai xây dựng hỏa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Đức Giêsu đến để đem lại hòa bình. Ồ, những ai xây dựng hòa bình thật hạnh phúc, họ hòa giải những cặp vợ chồng gây gỗ, cãi vã nhau, họ nối lại những tình bạn bất hoà? họ làm dịu bớt những xung đột giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, họ tạo ra sự lắng nghe và hiểu biết lẫn nhau. Không có sự phục vụ nào lớn hơn là phục vụ anh em mình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không như thế gian ban tặng”. (Ga 14,27). Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng” hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN – A
CÁC MỐI PHÚC – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Tin vui
Hai trong bốn tác giả Phúc âm tường thuật các mối phúc trong phần mở đầu cho bài đại diễn từ cương lĩnh của Đức Giêsu. Theo thánh Luca, bài diễn từ quan trọng này diễn ra “ở đồng áng”, vào lúc quan trọng nhắt của sứ vụ Đức Giêsu ở Galilê, trái lại theo thánh Mátthêu, nó diễn ra vào buổi đầu của sứ vụ Chúa Giêsu ở Galllê, và ở trên núi tượng trưng núi Sinai nơi Môsê mới sẽ công bố Lề Luật của Giao ước mới. Bốn mối phúc tương ứng với bốn lời chúc dữ theo trình bày của Luca chắc chắn gần với chính lời của Chúa Giêsu hơn tám mối phúc của Mátthêu vì Mátthêu nhằm áp dụng giáo huấn đích thực của Chúa Giêsu vào thực tại đời sống Kitô hữu nơi các cộng đoàn của ngài. Hạnh phúc mà các mối phúc công bố cũng như hạnh phúc cho những người sống các mối phúc này trong những hoàn cánh cụ thể của cuộc đời: “Phúc cho ai có lòng khó nghèo!…Phúc cho ai hiền lành!… không phải do chinh phục mà được, nhưng là ơn huệ Thiên Chúa ban qua con Ngài là Đức Giêsu Kitô. Họ được ban tặng hạnh phúc này ngay rừ bây giờ: “Nước Trời là của họ”. Hạnh phúc ấy sẽ triển nở dưới ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của các con sẽ lớn lao trên trời”. Cl. Tassin chú giải: “hạnh phúc” trong Kinh thành là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét. (Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr. 58).
của một hiện tại nhào nặn tương lai.
Bốn mối phúc đầu của Mátthêu tương tự nhau: ca ngợi người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối mọi bạo lực.
+ Phúc cho ai có lòng khó nghèo: vì Nước Trời là của họ. “Sự khó nghèo” mối phúc này nhắm tới không phải là sự khó nghèo về vật chất; nhưng là thái độ tinh thần của một người nghèo rự nhận mình không có quyền hành gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của người cha. Potel chú giải: “Người Kitô hữu trước hết nhìn nhận rằng mình đã mãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa mà Đức Giêsu dạy phải nhận ra và yêu mến Ngài như người. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm lặng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Một điều nghịch lý là sự khiêm nhường triệt để này lại tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thực vậy, phẩm giá này còn dựa trên sự giầu có cũng như nhận đức tính nhân bản nhưng trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu! (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centuion. 1994, tr. 146-147).
+ Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu thánh vịnh 36: “những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn”.
Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có một phương tiện thể lý hoặc pháp lý nào được bảo vệ vụ kiện của mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta nói nó là kết quả của sự không dùng bạo lực (sách đã dẫn, tr.147) + Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được an ủi dĩ nhiên phải hiểu là: họ sẽ được Thiên Chúa an ủi bởi vì các nhà chuyên môn gọi thì thụ động ở đây là thì phụ động thần học. Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một tia hy vọng: Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách. (Sách đã dẫn).
+ Phúc thay ai khát khao nên người công chmh, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh. Sự công chính có mối phúc thứ bốn được hiểu là tự điều chỉnh tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã lành Thiên Chúa ở đây là đấng đã đến gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện sự công chính”. Đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại (Sách đã dẫn).
Họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng Người Kitô hữu hiểu rằng cuối đời họ sẽ nhận được sư sống sung mãn từ Thiên Chúa giao ước. Và theo họ, nếu đời sống đạo đức bắt nguồn từ Thiên Chúa thì nó cũng sẽ hoàn tất nơi Ngài. Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô.
+ Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân rừ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Giêsu học biết tha thứ những xúc phạm, trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.
+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa. Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chinh trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm, giữa hành vi và động cơ sâu xa của nó. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.
+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa! Jean Potel giải thích: Đối với cuộc sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hoà hợp và an lành không đủ. Ngài đòi hỏi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, một công đoàn Kitô hữu, giữa các nhóm xã hội cũng như các dân tộc. Hòa bình không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Nhưng người đời sống hòa bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiện vụ của con là tiếp tục công việc của cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hòa bình đến cho con người. (Sách đã dẫn. tr. 148 ).
+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ!”. Trung thành thân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong Các Mối Phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của ngài là những người nghèo thực sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.
Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận ngài hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều Đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”. (sách đã dẫn, tr. 149).
BÀI ĐỌC THÊM:
“Lắng nghe lời Đức Giêsu trong tương quan sống động với con người của Ngài”. (Đức Cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần”, Desclée de Brouwer, 1994, tr.43-44).
Mấy lời dẫn nhập và “diễn từ” của Đức Giêsu được tập hợp lại trong bài “diễn từ”: “Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng”. Ta đừng khinh thường bỏ qua những hàng này. Nhờ chúng, toàn bộ diễn từ theo sau mới có ý nghĩa, bởi vì bài diễn từ này không chỉ đơn giản là một chuỗi những câu trống không nói lên những qui tắc về một lối sống đạo đức. Nó là lời của Đức Giêsu: Người mở miệng dạy họ rằng. Đừng quên con người Đức Giêsu. Ngài nói với đám đông và đám đông phản ứng: ở cuối bài giảng trên núi, tác giả Tin Mừng nói với chúng ta: “Khi Đức Giêsu Giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của Ngườ, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ.” (7,28-29) Điều đánh động đám đông không phải là giáo thuyết nhưng là con người của Đức Giêsu và thẩm quyền nơi lời của Ngài.
Chúng ta cũng vậy, hãy nghe lời Đức Giêsu không như những chân lý ngàn đời, nhưng trong mối tương quan sống động, với bản thân Ngài. Chính con người của Ngài làm cho giáo huấn của Ngài có thẩm quyền. Chiêm niệm những gì mình đọc là điều cần thiết, đừng chỉ suy tư về vẻ đẹp và về những đòi hỏi trong lời Đức Giêsu nói. Thẩm quyền lời Đức Giêsu biến thành một bảng xét mình cũng không đúng. Vì như vậy, lời Chúa sẽ trở thành một đối tượng chiếm hữu, một phương tiện sử dụng… để tạo dựng một đời sống tốt lành, một sự hoàn thiện cho chúng ta, như những người Biệt phái. Trái lại, chúng ta phải đón nhận lời từ miệng Đức Giêsu, phải chăm chú điều Ngài muốn nói với chúng ta… chứ không phải vào điều mà những lời này nói với chúng ta, vì làm như vậy có nguy cơ là những lời này chúng nói gì với chúng ta! Một nguy hiểm nghiêm trọng là ta thường đọc Tin Mừng chỉ như một bản văn đơn thuần, như một đối tượng để biến thành phương tiện sử dụng. Tin Mừng là nơi gặp gở, nơi lắng nghe. Khi ta không hiểu rõ lời Ngài nói chúng ta có thể xin Ngài giải thích để ta hiểu. Khi ta không thể thực hiện được điều Ngài đòi hỏi, ta xin Ngài giúp đỡ gặp gỡ Đức Giêsu, nghe Ngài, cầu xin Ngài cho ta có tai để biết nghe, cho ta sức mạnh để thực hiện, đó là cách ta đọc Tin Mừng. Ta hãy lắng nghe những gì Đức Giêsu nói trong bài diễn từ trên núi này. Cầu xin Ngài cho chúng ta hiểu lời Ngài dạy và đem ra thực hành.
“Các mối phúc: lời hứa và món quà hạnh phúc”. (J. Guillet, trong ‘Đức Giêsu trong đức tin của những môn đệ đầu tiên’ Dédée de Brouwer, 1995, tr. 96-97).
“Khi mở đầu sứ điệp của Ngài bằng các mối phúc, Đức Giêsu không muốn phác họa một còn đường đưa đến hạnh phúc, một lộ trình buộc ta phải theo, nhưng Ngài hứa: một quà tặng mà chỉ có Ngài mới có thể ban. Ngài không bảo ta đi tìm hạnh phúc hay chờ đợi nó. Đây chỉ là sư mơ ước theo tính toán của ta, niềm hy vọng phát sinh từ những ước muốn của ta. Ngay trước khi công bố các mối phúc, Đức Giêsu đã kêu gọi dân chúng sám hối và tin tưởng, anh em hãy sám hối là tin vào Tin Mừng! Khi mời gọi sám hối và công bố Tin Mừng trọng đại, Đức Giêsu xuất hiện như một tiên tri cao cả nhất từ trước tới nay. Khi tung ra các mối phúc, Ngài tỏ ra mình là người khôn ngoan và giới thiệu một kinh nghiệm. Tin Mừng vừa là lời tiên tri của một biến cố vĩ đại vừa là sự chuyển thông đức khôn ngoan.
Tin Mừng không phai là đi tìm hạnh phúc nhưng là lời hứa và quà tặng hạnh phúc vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người để họ được hạnh phúc. Nhưng đó không phải là thứ hạnh phúc mà họ ước mơ và hăng say chinh phục: Hạnh phúc đây chính là sự sống cua Thiên Chúa ban cho con người là trong hạnh phúc đó, ngài qui tụ tất cả con cái Ngài lại. Ta có thể làm sai lạc ý nghĩa của các mối phúc cũng như làm méo mó hình ảnh của Đấng Thiên Sai đến nỗi không còn nối kết hình ảnh ấy với Đức Kitô được nữa Ngài không nói: anh em nghèo khổ nên anh em sẽ được hạnh phúc; Ngài cũng không nói: anh em hãy nghèo khổ để được hạnh phúc. Ngài chỉ nói: anh em nghèo khổ, hạnh phúc đến với anh em. Ngài có thể nói điều đó bởi lời Ngài đem đến hạnh phúc này, bởi vì chính bản thân Ngài là niềm vui là hạnh phúc của Thiên Chúa. Nhưng để cảm nhận được điều này, phải tin và ưng thuận theo Ngài. Hạnh phúc này không thuộc về một thế giới khác với thế giới ta đang sống Nó cũng không được cất giấu ở một nơi bí mật. Nhưng ngay từ bây giờ nó đã được ban tặng cho tất cả mọi người, là trước hết là những người đau khổ. Những phép lạ Đức Giêsu đã gieo trên đường rao giảng là dấu chỉ cho thấy Ngài chính là cội nguồn hạnh phúc. Đây chỉ là những dấu chỉ, chúng không biến đổi hoàn cảnh ta đang sống, nhưng chỉ ra một lối thoát là cho ta nghe được lời mời: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi”. (Mt. 1l,28-30) Đó là phong cách và ngôn ngữ của một tôn sư về sự khôn ngoan của một người đã sống một kinh nghiệm và tự biết anh có thể truyền đạt nó. Đó cũng chính là người cộng tác mối phúc và ngôn ngứ vẫn là một: Phúc cho những ai hiền lành-Ta là Đấng hiền lành; nghỉ ngơi hòa bình. Từ dùng có thể thay đổi, nhưng vẫn là kinh nghiệm ấy, tiếng nói ấy, tấm lòng ấy. Chỉ có Ngài mới biết hạnh phúc là gì; chỉ có Ngài mới có thể ban hạnh phúc vì hạnh phúc là quà tặng của Thiên Chúa.”
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
HẠNH PHÚC(*)- ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt
Trong những ngày đầu xuân, chúng ta thường mơ ước hạnh phúc và chúc nhau hạnh phúc. Tìm hạnh phúc ở đâu? Ai chỉ cho biết con đường dẫn đến hạnh phúc? Đó là hai câu hỏi của mọi người. Điều ít ai ngờ là đó chính là hai câu hỏi do hai thánh vịnh đã đặt ra từ lâu lắm rồi.
Trong thâm tâm, ai cũng đi tìm hạnh phúc. Người nông dân vất vả cày cấy cũng như người học sinh cặm cụi học hành, tất cả đều đang đi tìm hạnh phúc. Nhiều người vướng vào ma túy cũng vì nghĩ rằng ma túy sẽ mang lại hạnh phúc. Ngay cả người đi ăn cướp cũng đi tìm hạnh phúc: người ấy nghĩ rằng những gì cướp được sẽ mang lại cho mình hạnh phúc. Có người làm đơn xin vào tù: người ấy nghĩ rằng vào tù ít là cũng hạnh phúc hơn cuộc sống đang có. Thậm chí có người tìm đến cái chết để thoát cuộc sống bất hạnh: người ấy không tìm được hạnh phúc nên không còn thiết sống nữa.
Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? (Tv 15,2). Tác giả thánh vịnh 15 hẳn là sống giữa những người chưa biết Thiên Chúa. Họ thờ các ngẫu tượng, mong các vị thần đem lại cho họ hạnh phúc. Nhưng tác giả ghi nhận: bản thân từng “sùng mộ” những ngẫu tượng; “thiên hạ tới tấp chạy theo” các ngẫu tượng; trong khi ấy, các ngẫu tượng “vẫn gia tăng tàn phá”. Giờ đây, tác giả nghiệm ra chỉ một mình Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc thật cho con người: Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống; trước thánh nhan, ôi vui sướng tràn trề; ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi. Con người thời nay không chạy theo các tượng bằng gỗ đá, nhưng vẫn tôn thờ các thần tượng thể thao, ca nhạc, điện ảnh, tiền bạc, danh vọng, quyền lực… Nhưng càng ngày những người biết thức tỉnh càng ý thức con người không chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn có nhu cầu văn hóa và nhu cầu tâm linh nữa. Các thứ thần tượng ấy chỉ đem lại thỏa mãn hời hợt và mau qua. Thánh Âutinh viết: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên con khắc khoải cho tới khi tìm được an nghĩ trong Chúa.” Câu hỏi đặt ra cho tôi hôm nay là tôi có tìm được hạnh phúc nơi Thiên Chúa chưa. Có thể tôi vẫn “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt?” Sau những loanh quanh và mỏi mệt, xin cho tôi chia sẻ xác tín của tác giả thánh vịnh: Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?
Biết bao kẻ nói rằng: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4,7). Chúa Giêsu là một con người hạnh phúc và Chúa chỉ cho ta những con đường để đạt tới hạnh phúc. Điều khó là chúng ta thường muốn tìm những thứ hạnh phúc dễ dãi, trong khi Chúa chỉ cho chúng ta đâu là hạnh phúc sâu xa và bền vững. Khi sống những mối phúc thật, trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, chúng ta sẽ nghiệm ra thế nào là hạnh phúc thật và ai là người chỉ cho chúng ta thấy hạnh phúc. Và qua chính cuộc sống hạnh phúc của mình, chúng ta trả lời cho thắc mắc của biết bao người về hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ cho chúng con thấy đâu là hạnh phúc, và Chúa đã theo con đường ấy đến cùng. Xin giải thoát chúng con khỏi những thần tượng thời nay và bước theo Chúa để tìm được hạnh phúc thật cho bản thân cũng như cho bao anh chị em khác.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CÁC MỐI PHÚC LÀ TINH HOA TIN MỪNG- Lm. Ph rô Nguyễn Văn Hương
Trang Tin Mừng của Chúa Nhật này là một trong những trang Kinh Thánh đẹp nhất của Kitô giáo. Bởi lẽ, đây là bài giảng hay nhất của Chúa Giêsu, được thánh Mátthêu gọi là các mối phúc. Các bậc thầy tu đức xem các mối phúc là luật tối thượng của đời sống Kitô hữu. Mặc dầu đây là những lời mời gọi của Chúa Giêsu, chứ không phải lệnh truyền, nhưng các mối phúc tạo nên chuẩn mực nền tảng của đời sống luân lý, là magna charta về tính xác thực của mỗi Kitô hữu. Bởi thế, chúng ta cần tìm hiểu cách vắn gọn từng mối phúc.
Mối phúc thứ nhất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). So với Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu chỉ nói cách đơn sơ là “người nghèo khó,” còn Mátthêu thì nói: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó.” Luca muốn nói đến sự từ bỏ triệt để bằng sự nghèo khó vật chất và thực tế. Đối với Mátthêu, sự khó nghèo được nói ở đây, không bao giờ là một hiện tượng thuần túy vật chất. Sự nghèo nàn về vật chất tự nó không phải là một nhân đức, không mang lại ơn cứu độ. Vì tâm hồn của những kẻ trắng tay có thể chai cứng, bị đầu độc, trở nên xấu xa, hay trong thâm tâm họ đầy sự thèm khát của cải, quên dần Thiên Chúa và bị của cải bên ngoài xâu xé.
Ở đây Mátthêu muốn nhấn mạnh “sự nghèo khó trong tâm hồn.” Nghĩa là những người có thái độ đúng đắn với của cải vật chất, không để mình dính bén trước những cám dỗ của tiền bạc và sở hữu vật chất; nhưng dám từ bỏ lối nghĩ, não trạng, để mở ra và đón nhận những mới mẻ; những người sống khiêm tốn, vị tha, tự do cho sứ vụ, sẵn sàng phục vụ tha nhân; họ hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Đó là sự nghèo khó về tinh thần, họ sẽ được chúc phúc. Theo thánh Mátthêu và Luca, những người này cùng nhận được lời hứa: “Vì Nước Trời là của họ.” Đó là phần thưởng dành cho họ. Họ sẽ được thuộc về Chúa, được ở trong Nước Chúa.
Mối phúc thứ hai: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4). Chúng ta đừng hiểu phúc này cho những hạng người ẻo lả, kiểu “bún thiu,” nhưng cho những người nhẫn nại, kiên nhẫn, người biết chịu đựng, đau khổ nhiều, nhưng không bao giờ nổi loạn, chống đối và bạo hành, những người biết chờ đợi mà không nóng giận; cho những người không lấy ác báo ác, nhưng lấy ân báo oán, cho người sống chan hòa, nhân ái với mọi người. Người bạo hành gặp khó khăn buông xuôi, người hiền lành thì kiên gan vững chí. Họ là người bám lấy Chúa, tin tưởng vào Chúa, phó thác cho Chúa. Nếu thế giới này có những con người sống hiền lành như thế, thế giới sẽ trở nên hòa bình. Họ sẽ được chúc phúc vì cuối cùng họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Mối phúc thứ ba: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5,5). Sầu khổ có tốt không? Sao lại được chúc phúc? Có hai loại sầu khổ: sầu khổ khi mất hy vọng, không còn tin tưởng vào tình yêu và từ trong thâm tâm phá vỡ chân lý, gây đổ vỡ con người, nhưng cũng có sầu khổ phát xuất từ sự lay động của chân lý, giúp con người sám hối, chống lại điều xấu. Giuđa nằm trong sự sầu khổ thứ nhất, còn Phêrô ở trong sầu khổ thứ hai. Như thế, sự sầu khổ mà Chúa nói là sự không thỏa hiệp với điều xấu, là cách thức chống lại điều xấu mọi người đang làm. Đối với thế gian, người ta tìm cách bách hại những người này và làm cho họ sầu khổ vì sống công chính. Nhưng họ sẽ được Thiên Chúa an ủi và hứa ban Nước Trời, đó là sự an ủi và phần thưởng đích thực.
Mối phúc thứ tư: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6). Sự công chính theo Cựu Ước là cách diễn tả sự trung thành với lề luật, trung thành với Lời Chúa, như các ngôn sứ khuyến khích. Đó là việc tuân giữ con đường đúng đắn do Thiên Chúa vạch cho, mà trọng tâm là thập giới. Tân Ước quan niệm người công chính là người sống theo đức tin. Người tin là người công chính, người “bước theo đường lối của Chúa” (x. Tv 1). Ở đây nhấn mạnh đến những người tìm kiếm những gì cao hơn, tìm kiếm sự công chính đích thực, sự thiện hảo chân thực. Đó là những người luôn dám lên đường để tìm kiếm chân lý, tình yêu và Thiên Chúa, những người có sự rung động nội tâm, có khả năng lắng nghe và nắm bắt những dấu chỉ mà Thiên Chúa gửi đến dù rất nhỏ. Edith Stein đã có lần nói: “Nếu ai luôn khắc khoải đi tìm chân lý, thì họ đang ở trên con đường dẫn đến Đức Kitô.” Những người đói khát sự công chính sẽ được chúc phúc vì sự đói khát này sẽ dẫn họ đến với Thiên Chúa, đến với Đức Kitô và vì thế trần gian sẽ mở rộng để đón Nước Thiên Chúa.
Mối phúc thứ năm: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Người biết thương xót là người có trái tim của Thiên Chúa, biết cảm thông và cảm thương với những nỗi đau của đồng loại, nhất là của những người nghèo khổ. Đó là những người biết tha thứ, những người có sáng kiến, vì không có gì cách mạng, mới mẻ cho bằng một người, đang lúc xung đột, bổng nhiên tha thứ. Đó là người dám làm cái gì mới mẻ và sáng tạo như Cha chúng ta trên trời. Là những người đối xử tử tế với những người vô liêm sĩ với mình, giúp đỡ những kẻ quay lưng lại với chúng ta: đó mới là những cử chỉ tự do và sáng tạo. Họ sẽ được chúc phúc.
Mối phúc thứ sáu: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Mối phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh sạch và không ô uế, vì một con tim biết yêu không chấp nhận những gì có thể làm hại, làm suy yếu hoặc gây nguy hiểm cho tình yêu ấy. Trái tim là trung tâm điểm của toàn bộ đời sống con người, nơi đó phát xuất mọi điều thiện hay ác. Bởi thế, Kinh Thánh sử dụng trái tim để mô tả những ý định thật sự của chúng ta, những điều chúng ta thật sự tìm kiếm và mong muốn, vượt xa tất cả những vẻ bề ngoài. Sách Châm Ngôn khuyên: “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Không có gì bị sự giả dối vấy bẩn mà có được giá trị thật sự trong mắt Chúa. Mối phúc này cũng muốn nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Một con tim biết yêu mến là một tâm hồn trong sạch. Chúa Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong sạch “sẽ thấy Thiên Chúa.” Giữ cho lòng mình khỏi vướng tất cả những gì làm cho tình yêu hoen ố: đó là sự thánh thiện.
Trong mối phúc thứ bảy, Chúa Giêsu nói: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Đây là mối phúc dành cho những ai không thể yên tâm sống trong tình trạng tranh giành, xung đột không lối thoát… Phúc cho những ai không thể chịu được câu: “Đành chịu vậy,” “biết làm sao bây giờ.” Cần phân biệt hòa bình khác hẳn với an phận. Không gì vất vả bằng việc thiết lập hòa bình thật sự giữa hai người. Không gì xáo trộn bằng việc để cho có sự bình an của Chúa. Cần phải có sự trong suốt hoàn toàn. Chúa chỉ ban bình an của Người cho những ai dám tự hiến mình cho Người vô điều kiện. Lời chúc phúc này mời gọi chúng ta phải sống và làm những gì Chúa Con làm, để có thể trở thành những người con của Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người được giao hòa với Thiên Chúa và với bản thân mới có thể thiết lập được hòa bình chung quanh mình và tỏa ra ngoài xã hội.
Mối phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,10). Đây là lời cảnh báo của Chúa về tình trạng Hội Thánh mà họ đang sống. Hội Thánh trở thành đối tượng bị bách hại, bị bách hại vì “lẽ công chính.” Những người bị bách hại vì sống công chính là những người sống từ sự công chính của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô bị đóng đinh là người công chính bị bách hại. Người trở thành mẫu mực cho sự công chính và ơn cứu độ. Vì thế, lời chúc phúc là lời mời gọi bước theo Đấng bị đóng đinh, lời mời gọi cho từng người cũng như cho cả Hội Thánh.
Chúa Giêsu còn thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Lời chúc phúc dành cho những ai bị bách hại vì đức tin, bị tố cáo, đấu tố, và bêu xấu vì Chúa Kitô. Nó thấy điều mới mẻ. Đức Giêsu hứa ban niềm vui, phấn khởi và phần thưởng lớn lao cho họ. Chúa sẽ ân thưởng xứng đáng cho những ai đã sống như thế.
Như vậy, tám mối phúc là đặc điểm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã sống nghèo khó, khiêm nhường, hiền hòa, nhân từ, kiến tạo hòa bình, bị bắt bớ. Các mối phúc dẫn đưa chúng ta vào chính đời sống của Thiên Chúa, mở ra con đường đích thực cao cả của Tin Mừng và thực hiện sự vĩ đại của ơn gọi con người. Amen!
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
PHÂN TÍCH CHI TIẾT MỖI CHÂN PHÚC– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
A- Chân phúc thứ nhất: những kẻ nghèo khó trong tinh thần (5, 3)
- Nội tâm hóa mối phúc:ý nghĩa đại cương của tiều tiết tôi pneumati, “trong tinh thần” (riêng Matthêu) thật rõ ràng: Matthêu chú trọng vào một thái độ tâm hồn hơn là vào giai cấp khó nghèo trong xã hội. Tin Mừng cũng cống hiến nhiều thành ngữ tương tự Trong 1 Cr 7,34, người trinh nữ được gọi là “thánh trong thân xác và thần hồn” (kai tôi somati kai tôi pneumati), vì bên cạnh việc thánh hiến thân xác, thành ngữ còn gợi lên một thái độ tâm hồn, thái độ nhờ đó người trinh nữ chú tâm làm đẹp, một mình Chúa. Xem Cv 18,25 (Apollô có tâm hồn nhiệt nồng); 20,22 (Phaolô bị xiềng trong tinh thần; Ng-Thế-Thuấn: bị xiềng bởi Thần khí). Trong bản 70, người ta cũng nêu ra được rất nhiều thành ngữ tương tự: “tinh sạch trong lòng”, “thẳng thắn trong lòng”, “tan nát tâm hồn”, “không cắt bì trong tiệm”… Hết thảy các công thức đó đều nói lên mối ưu tư muốn nội tâm hóa một tính cách, bằng cách xác định trung khu của nó là trong tinh thần; đấy là một thái độ tinh thần vậy.
- Các lối giải thích khác nhau về chân phúc này. Phải loại bỏ mọi cách giải thích cho rằng tinh thần là đối tượng, chứ không phải là trung khu của sự khó nghèo, cho rằng những ai có tinh thần nghèo khó là những kẻ nghèo nàn về tinh thần, những kẻ thiếu ơn Thần khí và đang cảm thấy nhu cầu, những kẻ mà sự bần cùng là ở chỗ không hiểu biết những điểm tinh tế trong các nố pháp luật (đối nghịch với các tiến sĩ Luật).
Còn lại hai lối giải thích xem tinh thần như là trụ sở của sự nghèo khó. Theo lối giải thích đầu, đấy là một thái độ từ bỏ và siêu thoát bên trong đối với của cải. Sự nghèo khó trong tinh thần ấy không tất nhiên mâu thuẫn với việc chiếm hữu của cải nhưng với lòng dính bén chúng từ bên trong. Tuy nhiên có một vấn đề được đặt ra: đâu là tương quan giữa đức siêu thoát nội tâm này với sự khó nghèo đích thực bên ngoài? Khi nhấn mạnh tới thái độ bên trong, phải chăng Matthêu muốn ngầm bảo rằng ta có thể thỏa mãn về thái độ ấy mà không cần cho sự nghèo khó tinh thần phải được một tình trạng cụ thể bên ngoài tương ứng? Matthêu minh định rằng sự khó nghèo nội tâm làm nên cái cốt yếu; ông không mấy để ý tới nỗi túng thiếu bên ngoài, vì nó chỉ có ý nghĩa trong tương quan với sự nghèo khó bên trong. Nhưng theo vặn mạch chung của các Tin Mừng, phải nhận trong khó quan niệm được một kẻ giàu có biết siêu thoát tài sản của mình.
Lối giải thích thứ hai coi người nghèo là những tâm hồn không chỉ dứt bỏ của cải, song còn biết từ khước chính mình và phó thác cho Thiên Chúa. Sự nghèo khó này chẳng những liên hệ đến tài sản vật chất, mà còn lan rộng tới các loại của cải khác như -tiếng tăm, khả năng, công nghiệp thiêng liêng tinh thần nghèo khó bấy giờ tương đương với khiêm hạ. “Nghèo khó trong tinh thần là những kẻ có ý thức đầy đủ và đau đớn về sự nghèo nàn thiêng liêng của mình, về tính cách bất toàn của tâm hồn mình, về sự thiện ít ỏi mình đang mang, về sự bần cùng luân lý mà phần lớn nhân loại sa phải. Chỉ có những kẻ nghèo biết mình nghèo mới đau khổ về sự túng cực của mình cùng cố gắng thoát ra khỏi đó. Và họ khác xa biết bao với các người giàu giả tạo, những kẻ tưởng mình kiện toàn, không thể cải thiện hơn, đúng phép với hết thảy, đẹp lòng Thiên Chúa và đẹp lòng mọi người; những kẻ này thiếu niềm ao ước và lòng hăng say leo lên tới một chóp đỉnh mà họ tưởng đã đạt, và họ sẽ chẳng bao giờ giàu sang, vì không biết được nỗi khốn khổ khôn dò của mình” (Papini).
Khó mà dứt khoát chọn lấy một trong hai cách giải thích trên. Lối giải thích sau có cái lợi là phù hợp với văn mạch Cựu Ước: sau lưu đày, các kẻ nghèo quả là những người có thân phận khiêm tốn, nhưng người ta vẫn nhấn mạnh hơn tới lòng trung thành với đạo và sự phó thác tin tưởng vào Thiên Chúa của họ. Khi xác định “trong tinh thần”, Matthêu có lẽ muốn đặt nặng khía cạnh tôn giáo của sự khó nghèo, cùng liên kết kẻ nghèo của mối phúc thứ nhất với các “khách hàng của Giavê” mà Cựu Ước đã nói tới, Ngược lại, lối giải thích thứ nhất rõ ràng muốn lưu ý nhiều đến tình trạng xã hội, là khởi điểm của ý niệm nghèo khó thiêng liêng. Tuy nhiên, theo cả hai, rõ ràng Matthêu từ chối gán giá trị nguyên cho sự nghèo túng vật chất. Điều đáng kể đối với ông chính là thái độ tinh thần, cái duy nhất mang giá trị luân lý và đáng ân thưởng.
B- Chân phúc thứ hai: những người hiền lành (5, 4).
- Xuất xứ của chân phúc này:Có hai lập trường đối nghịch: một: cho rằng chân phúc nằm trong tài liệu nguyên thủy, hai: lại bảo nó đã được một sao lục viên về sau thêm vào nguyên bản Matthêu. Lập trường đầu không mấy chắc chắn. Lập trường sau, trái lại, dựa trên nhiều bằng chứng đáng tin cậy như các thủ sao do dự về vị trí của mối chân phúc, có khi đặt nó nằm hàng nhì (trước mối phúc các kẻ ưu phiền); lúc lại hàng thứ ba; nếu coi nó như là một sự thoán nhập, thì các chân phúc lui lại còn 7, một con số Matthêu ưa thích; rồi việc đăng chèn nó có thể cắt nghĩa như một lời giải thích mượn từ Tv 37,11; sau cùng chân phúc này sẽ không khác chân phúc đầu tiên, nếu ta nại vào tiếng hy bá là tiếng hầu như đồng hóa chữ “hiền lành” với chữ “khó nghèo”. Dầu sao mấy lập luận trên chẳng có tính cách quyết định. Nên phần lớn các tác giả vẫn duy trì xác thực tính của mối phúc này. Mọi thủ sao thảy đều ghị lại nó, dầu một vài bản đặt vào hàng thứ ba.
- Điều hứa:Trong Tv 37,11 là Thánh vịnh gợi hứng cho mối chân phúc, có bân đến “Hứa địa”, đất Canaan. Chủ đề này bất nguồn từ lời Thiên Chúa hứa cho Abraham (St 15,7; 28,4), rồi được khai triển rộng rãi trong Đệ nhị luật (1, 8.39; 4,1.5.14) và mặc một sắc thái cánh chung trong Isaia đệ nhị (57,13; 60,21; 65,9). Nơi Matthêu, lời hứa chỉ muốn nhắm tới việc vui hưởng Nước Trời, như trong các mối chân phúc khác. “Đất” là gia sản được lời hứa thần linh bảo đảm (1Pr 1, 4-5). Chủ đề gia sản này thường gặp luôn trong Tân ước, nhưng thay vì thành ngữ “thừa hưởng đất”, người ta thích thành ngữ “thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Mt 25,34; 1Cr 6, 9-10…), “thừa ‘hường sự sống vĩnh cửu” hơn (Mt 19,29; Mc 10,27; Lc 10,25…). Vì gia sản thuộc về con cái là điều hợp lý, nên thừa hưởng gia sản, nói cách cụ thể, là nhận được tước hiệu con cái Thiên Chúa, như lời hứa nơi chân phúc thứ bảy, mối chân phúc của các kẻ xây dựng hòa bình (c.9), x.Kh 21, 6-7.
- Những người hiền lành:Vì chân phúc này phát xuất do tay một soạn giả Hy lạp (hoặc có thể là một sao lục viên nào đó) nên ông ta chắc đã muốn nói lên một cái gì khác hơn là nội dung chữ “khó nghèo” theo Cựu Ước, nếu không thì mối phúc thứ hai này trùng với mối phúc đầu tiên. Ta có thể xác định ý niệm “hiền lành” bằng cách đối chiếu mối phúc với Mt 21,5 và 11, 28-30. Trong đoạn nhất, Chúa Giêsu, quy việc vào thành Giêrusalem, tỏ ra khác biệt hoàn toàn với các vua chúa lương dân là những kẻ thống trị bằng bạo lực. Trong đoạn 2 (xin lưu ý: thành ngữ “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” chỉ một thái độ nội tâm), Chúa Giêsu chống lại sự nghiêm khắc khó tính của ông thầy như các Biệt phái. Theo văn mạch ấy được củng cố nhờ các thư Tân Ước (nhân đức hiền lành xuất hiện trong đó hơn 12 lần), “hiền lành” thiết yếu là nhân từ, có quan hệ một đàng với sự khiêm tốn, đàng khác với lòng thương xót tha nhân… Thế nên, các kẻ “hiền lành” gần với các kẻ “thương xót” vậy!
- Chân phúc thứ ba: các kẻưu phiền (5, 5).
Văn mạch chung của các chân phúc nơi như đã xác định trên kia, buộc ta phải coi nỗi ưu phiền này là một thái độ của tâm hồn. Có thể xác định đối tượng của nó không? Khó mà trả lời dứt khoát được. Động từ Hy lạp pentlleô nói lên sự đau đớn biểu lộ ra bên ngoài qua những tiếng rên rỉ kêu la. Như trong Tân ước, pentheô thường đi kèm theo các động từ “kêu la, than thở”. Ngoài Bát phúc, chỉ dùng động từ này một lần nữa thôi, khi nói các môn đồ sẽ than khóc như bị tang chế sau ngày chia lìa Tân lang (9,15).
Có thể giả thiết rằng mối chân phúc thứ ba đề cập đến nỗi ưu phiền tương tự nỗi ưu phiền tang chế, đề cập đến các Kitô hữu than khóc vì cảm thấy phải chia lìa Thiên Chúa do tội lỗi mình. Họ ý thức một cách đau đớn tội mình đã phạm và nỗi khổ tinh thần do chúng gây nên (so sánh với 1 Cr 5,2; 2 Cr 12, 21; Gc 4, 9).
Niềm “an ủi” hứa ban cho họ bấy giờ hệ tại chỗ thứ tha tội lỗi. Do văn mạch cánh chung của những lời hứa khác, trước tiên phải đặt việc tha thứ này vào lúc phán xét sau cùng.
D- Chân phúc thứ tư: những kẻ đói khát công chính (5, 6).
- Ý niệm “công chính” trong Thánh Kinh:Trong Thánh Kinh, ý niệm “công chính” cổ truyền ám chỉ điều gì phù hợp với ý muốn Thiên Chúa và luôn luôn hiểu như là một đời sống cụ thể của con người trong lịch sử được Thiên Chúa, là vua và quan án nhân loại, chấp nhận chuẩn y. Trong Matthêu, ý niệm “công chính” được dùng lại theo nghĩa cổ truyền, hợp với Thánh Kinh. Nó chỉ cách ăn nết ở của Kitô hữu, rập khuôn theo thánh ý Thiên Chúa mà Chúa Kitô đã công bố. Cho nên sự “công chính” cần thiết để tham dự vào nước Trời này chẳng phải là một lý tưởng luân lý trừu tượng nhưng chính là thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ ra bên ngoài qua các việc thiện Kitô hữu làm.
- Sự công chính người ta đói khát (Mt 5, 6): Trước hết phải loại trừ hai lời giải thích không phù hợp với văn mạch thần học của Matthêu: Tách biệt ra, chân phúc thứ tư có thể nói đến sự công bình đối lập với bất công xã hội dưới mọi hình thức. Nhưng lối cắt nghĩa này thích hợp với văn mạch lạc chứ không với Matthêu. Nơi Matthêu, chữ “công chính” có một nghĩa rộng hơn và sâu hơn là chữ công bình xã hội: sự công chính diễn tả toàn thể thái độ Kitô hữu được Thiên Chúa chuẩn y.
Ta cũng có thể nghĩ đến sự công chính siêu việt của Thiên Chúa, sự công chính sẽ tỏ hiện ra vào ngày chung thẩm để trừng phạt quân vô đạo và ban thưởng Nước Trời cho người công chính. “Đói khát công chính” bấy giờ có nghĩa là “nao nức mong chờ sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa vào lúc cứu rỗi cánh chung”. Tuy nhiên văn mạch Matthêu không quy hướng chúng ta về sự công chính mà Thiên Chúa sẽ thực thi, nhưng về sự công chính mà con người phải nỗ lực đạt cho được trước mặt Thiên Chúa, bằng cách thi hành thánh ý Ngài.
Vậy thì đâu là văn mạch của Matthêu cho phép xác định chân phúc thứ tư này? Nơi 21,32 chữ “công chính” (“Gioan đã đến với các ông theo đàng công chính”) chỉ sự khắc khổ của Gioan Tẩy giả. Nơi 3,15 và 5,17, Matthêu lại viết Chúa Giêsu đến hoàn thành Lề luật và các Ngôn sứ: như thế nghĩa là sự “công chính” của Chúa Giêsu, hoàn hảo hơn sự công chính của Lề luật nằm trong đường hướng sự công chính phải được thực thi. Việc thêm chữ “và sự công chính của nó” trong 6,33 (“Trước tiên hãy tìm ‘Nước’ và sự công chính của nó”) hình như nhằm nhấn mạnh rằng người ta không chỉ nên cầu mong cho Nước Thiên Chúa đến để hưởng được mọi của cải của thế giới bên kia, nhưng phải cố công đạt cho được sự hoàn thiện Kitô giáo bằng cách làm việc lành: Luca nhấn mạnh tới ý hướng, còn Matthêu minh định ý hướng phải diễn ra hành động. Sự “công chính” của các môn đồ Chúa Giêsu phải vượt quá sự công chính của Ký lục và Biệt phái (Mt 5,20): vượt quá, nhưng vẫn cùng một loại. Sự “công chính” này sẽ đáp lại những đòi hỏi sâu xa hơn các đòi hỏi của Lề luật và lời giải thích chính thức về Lề luật, nhưng đó vẫn là sự công chính người ta thực thi bằng cách ăn ở phù hợp với Luật ấy. Phải giữ mình đừng thực thi nó một cách phô trương (Mt 6,1): các đòi hỏi của sự “công chính mới” chẳng những liên hệ tới các hành vi bên ngoài, mà còn lan rộng đến các ý hướng. Ở đây vẫn vậy, cũng chỉ là sự nối dài đường hướng xưa nay.
Thành ra kẻ đói khát sự công chính là các Kitô hữu nhiệt thành ao ước sống theo ý Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. “Sự công chính” họ mong muốn là một sự công chính luân lý, do toàn thể những công việc có tính chất Kitô giáo xây nên. Sự công chính luận lý này là lý tưởng của sự hoàn thiện Kitô hữu, lý tưởng được quan niệm như một sự vượt quá hay đào sâu lý tưởng luân lý mà Lề luật đã đề ra cho người Do thái. Hạnh phúc của Nước Trời dành cho những ai hết sức ao ước thực thi sự hoàn thiện đó trong cuộc đời họ.
E- Chân phúc thứ năm: những kẻ biết thương xót (5, 7).
- Điều hứa:lòng thương xót của Thiên Chúa: Văn mạch các chân phúc của Matthêu cho thấy lời hứa này trước tiên nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót sẽ biểu lộ vào ngày cánh chung, lúc phán xét, khi Chúa Kitô đem các kẻ “biết xót thương” vào Nước Người so sánh với Gd 21; 2 Tm 1,18).
- Điều kiện:bổn phận xót thương: ý niệm sau đây rất quen thuộc với Do thái giáo và Kitô giáo: để chắc chắn được Thiên Chúa thương xót ngày chung thẩm, phải biết tỏ lòng nhân ái với tha nhân. Có nhiều bản văn nói về hậu quả này trong ngụy thư Do thái và sách giáo sĩ, chẳng hạn câu: “Ai biết thương người, sẽ được thương xót trên trời; ai không thương người, trên trời sẽ chẳng xót thương họ”. Cũng vậy trong Tân Ước (Gc 2, 13: “án xử sẽ tàn nhẫn cho người bất nhân”) và nơi các Tông phụ (1 Clêm. 13, 2; Polycarpô 2, 3).
Matthêu nhấn mạnh bổn phận nhân ái này. Chỉ mình ông trích lại, và trích đến hai lần, bản văn Hs 6,6: “Ta muốn lòng nhân chứ không muốn hy lễ” (9,13; 12,7). Trong cả hai trường hợp, đó là một bài học cho Biệt phái, những kẻ đòi phải tuân giữ lề luật phụng tự mà bỏ quên lòng nhân ái (so sánh với Mt 23, 23). Nơi lời cầu xin thứ 5 của kinh Lạy Cha, chỉ mình Matthêu chú giải thế này: “Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ xúc phạm, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha cho các người…” (6,14-15). Sau cùng dụ ngôn người tôi tớ bất nhân (Mt 18, 23-35) soi sáng một cách cụ thể cái bổn phận xót thương bằng cách tha thứ cho anh em mình.
- Chân phúc thứ sáu: những kẻ tinh sạch trong lòng
- Điểm tương tự với chân phúc đầu tiên:Như chân phúc các kẻ nghèo, chân phúc của những người trong sạch chuyển một tính cách thể lý sang bình diện tinh thần. Đầu tiên, sự “tinh sạch” gợi lên sự sạch sẽ của thân xác. Tiếp đó nó mặc một ý nghĩa tế tự, chỉ định tính cách của kẻ phải có đầy đủ các điều kiện cần thiết để trình diện trước bàn thờ Thiên Chúa. Sau cùng, hạn định từ “trong lòng”, tương đương với “trong tinh thần” của chân phúc thứ nhất, đặt tính cách này vào nội tâm.
- Mạch văn Kinh Thánh:Chân phúc thứ 6 là âm vang của Thánh vịnh 24, 3-6 (so sánh với Tv 15, 1-3). St 20,5 đặt đối lập sự trong sạch ý hướng với sự nhơ bẩn chiếu theo lề luật (Abimélek đã vô tình lấy vợ của Abraham). “Tinh sạch trong lòng”; như các thành ngữ tương tự: “thẳng thắn trong lòng”, “đơn sơ trong lòng”, bao giờ cũng chỉ sự ngay thẳng của lương tâm. Thành ra nó “không có nghĩa tinh sạch như hiện thời” (I. Fransen), nhưng nói lên sự vắng bóng lòng tráo trở, dạ bất lương. Người tinh sạch trong lòng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân “hết tâm hồn”, không tính toán tư lợi hay giả bộ đạo đức. Việc chuyển dịch từ bình diện nghi lễ sang bình điện luân lý cũng gặp lại trong Tân Ước. Nhưng khi được thiêng liêng hóa, ý niệm tinh sạch vẫn không mất đi âm hưởng phụng tự (ví dụ 2 Tm 1,3; 2,22; Gc 4,8).
- Quan điểm luân lý của Matthêu:Chữ “thấy Thiên Chúa” gợi lại bối cảnh phụng tự nguyên thủy của sự tinh sạch: trong Tv 24, 6 và 17, 15, “thấy Thiên Chúa “có nghĩa là “trình diện trước nhan Ngài”, tại Đền thờ Ngài ở Giêrusalem; trong Matthêu, thành ngữ chỉ hạnh phúc Nước Trời, được gợi lên dưới hình ảnh một sự tham dự vào phụng tự diễn ra trước mặt Thiên Chúa (Kh 22, 3-4; Dt 12,14).
Tóm lại, để được nhận vào trước nhan Thiên Chúa, cần phải tinh sạch. Sự tinh sạch này không chỉ có tính cách nghi lễ; nó còn nằm nơi sự hoàn toàn ngay thẳng bên trong. Đây không phải là những hành vi, song là một thái độ tâm hồn, thái độ làm căn nguyên cho mọi hành vi của ta và ban cho chúng ý nghĩa luân lý đích thực.
G- Chân phúc thứ bảy: những kẻ tác tạo hòa bình (5, 9).
- Điều hứa:“Họ sẽ được gọi” tương đương với “họ sẽ là” Thường thường, trong ngôn ngữ Kinh Thánh, người ta không nhấn mạnh đến sự kiện được nhận một tên cho bằng đến hiệu quả tương ứng với tên đó nơi người nhận. Do đấy thể thụ động “được gọi ” hầu như có nghĩa là “trở nên”.
Họ sẽ được gọi như thế do ai và khi nào? Nhiều tác giả, với nhiều cách giải thích khác nhau, cho rằng đó là lòng kính trọng mà người đời dành cho những kẻ xây dựng hòa bình. Nhưng động từ ở thể thụ động, như nơi các câu 4.6.7, diễn tả hành động của Thiên Chúa. Thể thụ động này được gọi là “thể thụ động thần linh” (passif divin), là một đặc ngữ sêmita dùng để gán một hành động cho Thiên Chúa mà khỏi phải nhắc tên Ngài. Hơn nữa, mọi lời hứa của các chân phúc trong Matthêu đều có tính cách cánh chung: hết thảy chúng liên hệ tới hạnh phúc Nước Trời. Các kiểu nói khác nhau chỉ có mục đích gợi lên những khía cạnh dị biệt của cùng một thực tại. Thành ra phải kết luận rằng chính Thiên Chúa, vào ngày sau hết, sẽ công bố các kẻ xây dựng bình an là con cái Ngài (x. Kh 21, 7) và thiết đặt họ trong vinh hạnh ấy.
- Các kẻ tác tạo hòa bình:Nếu lấy văn mạch Tân Ước minh giải ý tưởng “kiến tạo hòa bình” của chân phúc thứ bảy (Cl 1, 20; Ep 2, 15-16; Gc 3, 14-18) ta sẽ phải kết luận rằng trên thực tế nó đồng hóa vơi ý tướng giải hòa. Vì hoà bình là cái nối tiếp tình trạng thù nghịch hay tranh chấp. Đó không trực tiếp là thứ bình an nội tâm hay tôn giáo mà mọi cá nhân thủ đắc được, song là những tương quan tốt đẹp giữa các cá nhân, hoặc giữa kẻ “hiếu hòa” và người lân cận (Mt 5, 23-24), hoặc giữa những kẻ mà người “hiếu hòa” giải hòa lại với nhau (Cv 7, 26). Thành ra trọng tâm nằm trên sự đoàn kết giữa con người, và điều đó mặc nhiên giả thiết một thái độ trước của tâm hồn. Trái ngược với các chân phúc khác, chân phúc này thoạt tiên không nhắm tới một thái độ nội tâm, song là một hành vi bên ngoài. Làm một con người hiền hòa, yêu mến bình an không đủ mà còn phải ra công xây đắp bình an bất cứ nơi nào có bất hòa ngự trị.
H- Chân phúc thứ tám: những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính (5, 10).
Chân phúc sau cùng này nằm trong hai trào lưu tư tưởng: một gồm loạt bản văn đưa ra những lời quở trách đối với hạng người Do thái bách hại, hai gồm loạt bản văn song hành chứa đựng nhiều lời khuyên bảo các môn đồ phải cơn bắt bớ.
- Lời chúc dữ kẻ bách hại:Chủ đề này vẫn thường gặp trong Do thái giáo (1V 19, 10. 14; 2Sk 36, 15- 16; Nh 9,26). Trong Kitô giáo, nó được khai triển bắt đầu từ Tin Mừng (Mt 23, 29-36; Lc 11, 47-51) cũng đã được Stêphanô (Cv 7, 51-52) và Phaolô (1Tx 2, 15-16) nối tiếp âm vang. Justinô, khoảng năm 160, đã trùng hợp các yếu tố chính của chủ đề như sau: các ông đã giết Đấng Công chính, và trước đó đã giết các ngôn sứ của Người: bây giờ các ông lại khai trừ những kẻ hy vọng vào Người, cùng khai trừ Đấng đã sai người đến là Thiên Chúa toàn năng và tác giả vũ trụ. Vì Ngài ở trong các ông, nên khi chửi rủa họ trong hội đường, các ông làm nhục những kẻ tin vào Chúa Kitô ” (Dial, 16, 4).
Hành động của những người bắt bớ và hình khổ họ sẽ chịu đặc biệt có tính cách cánh chung. Họ “đổ đầy lường” của tổ tiên họ (Mt 23, 32); hành động của họ làm nên một sự kết liễu, hoàn thành; vì thế nó chuẩn bị cho họ một tai ương thảm khốc, tai ương này sẽ là hình phạt mọi tội mà tổ tiên họ đã phạm. “Cơn nghĩa nộ đã giáng xuống trên họ cho đến cùng” (1Tx 2, 16): lời phán quyết này, vào ngày chung thẩm, sẽ kết án họ phải chịu khổ hình hỏa ngục muôn đời.
Đặc điểm thiên sai -“vì cớ Con Người” (Lc 6, 22), “vì cớ Ta” (Mt 5,11)- liên kết với khía cạnh cánh chung. Tai họa của những kẻ bách hại không những xuất phát từ sự kiện họ đàn áp con người, nhưng trước hết từ sự kiện họ truy lùng những ai có liên hệ với Chúa Kitô. Xét cho cùng, họ bách hại chính “Con Người”, Đấng rồi đây sẽ xuất hiện trên mây trời để hoàn thành cuộc chung thẩm kẻ sống và kẻ chết.
- Lời khuyên nhủ những người bị bắt bớ.Trong mọi bản văn sau đây, màu sắc thiên sai đều hiện lên rõ ràng đậm nét:
Trước hết là những lời Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn-đệ về vấn đề bách hại. Các đoạn chính nằm trong “Khải huyền Nhất lãm” (Mc 13, 9-13; Mt 24, 9-14, 10, 17-21; Lc 21, 12-19). Đặc điểm Kitô luận, “vì cớ Ta”, “vì danh Ta” gặp thấy khắp đó đây. Hạnh phúc của kẻ bị bách hại xuất phát từ chỗ họ phải đau đớn vì đã nên một với Đấng Xét xử của mình. Thành ra chân phúc trước tiên xuất hiện như một lời khẳng định có tính cách thiên sai từ phía Chúa Giêsu.Và lời khẳng định này không tách rời với bối cảnh cánh chung.
Tiếp đến là các đoạn đặt nổi mối tương quan chặt chẽ giữa số phận đời đời của con người và thái độ họ đã chọn lựa trước Chúa Kitô.
– Những bản văn liên kết với viễn tượng cuộc bắt bớ: “Ai mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại ” (Mt 10, 19; x. 16, 25; Mc 8, 35; Lc 9, 24) — Kẻ nào hổ thẹn chí Ta và các lời Ta trước mặt thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó khi Người đến trong vinh quang Cha Người với các thiên thần” (Mc 8, 38; x. Lc 9, 26; Mt 10, 32- 33, Lc 12, 8-9).
– Những bản văn liên hệ tai các sự thiếu thốn tự do chấp nhận và các hành vi bác ái tự do thực thi vì Chúa Kitô: “Không ai bỏ nhà cửa hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì Tin Mừng…” (Mc 10, 29-30; x. Mt 19, 29-30). -“Kẻ nào tiếp đón một trẻ nhỏ thế này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta” (Mc 9,37; x. Mt 18,5; Lc 9,48; Mt 10,40; Lc 10,16). -Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước vì danh nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô…” (Mc 9,41; x. Mt 10,42). So sánh với Mt 25, 31-46: cái định đoạt số phận đời đời của còn người, đó là cách thức họ đối xử với các kẻ nhỏ và người cùng khốn, vì có một sự liên đới nhiệm mầu nối kết những hạng này với Chúa Kitô.
- Sự công chính mà vì đó người ta cam chịu bắt bớ(Mt 5, 10). Thiết tưởng nên hiểu việc bắt bớ vì sự công chính này như một việc bắt bớ phải chịu cách bất công. Như thế ta mới đối chiếu được mối chân phúc với 1Pr 3,14: “Nếu anh em phải khổ vì sự công chính thì phúc cho anh em”. Bối cảnh của 1 Pr 3, 14 quá rõ ràng: đó là những đau khổ mà Kitô hữu phải cam chịu dầu chẳng đáng. Thế mà chân phúc thứ 9, vế nhì của chân phúc thứ 8, có bao hàm chi tiết “sỉ mạ”.
Tuy nhiên, khó mà nghĩ rằng tiếng “công chính” ở đây khác nghĩa với tiếng công chính của chân phúc thứ 4 và của nhiều đoạn Tin Mừng Matthêu khác. Vì vậy, đây là vấn đề những đau khổ các môn đồ Chúa Kitô phải chịu vì sống phù hợp với lý tưởng Kitô giáo của mình. Người ta không còn nhấn mạnh như trước đến sự thiếu lý do xác đáng để gây nên bắt bớ, nhưng tích cực hơn, đến sự kiện phải đau khổ vì là Kitô hữu, một Kitô hữu biết tỏ ra lý tưởng của mình qua thái độ sống. Do đó phải liên kết thành ngữ “vì sự công chính” (chân phúc thứ 8) với chi tiết “vì Ta” trong chân phúc tiếp theo: “sự công chính” vì vậy xuất hiện như dấu ấn của Chúa Kitô trên lý tưởng và thái độ của môn đồ người. Ta cũng có thể đối chiếu Mt 5,10 với Mt 13, 21, nơi nói rằng sự bách hại được chịu dựng: “vì Lời” nghĩa là vì lý tưởng được Tin Mừng đề ra. Lời giải thích này không xa lời giải thích trước: 1 Pr 4, 14-19 cổ võ các tín hữu hãy đau khổ chỉ vì là Kitô hữu, để người ta không thể tìm trong họ bất cứ hành vi sai trái nào biện minh cho việc bắt bớ.
I- Chân phúc thứ chín: những kẻ bị bách hại vì Chúa Kitô. (5, 11)
Chân phúc thứ 9 xem ra chỉ lặp lại chân phúc thứ 8, những nơi Mt nó đóng vai trò hiện tại hóa; thực vậy, nó nói lên việc chuyển từ lý thuyết được đề ra sang thực tại cụ thể được cảm nhận và sống đồng thời với việc hành văn gián tiếp chuyển qua hành văn trực tiếp, thành ngữ “vì sự công chính” của câu 10 trở thành “vì Ta”. Đối với ai đã khám phá ra tính cách thời sự của Chúa Kitô hiện diện trong đời mình, thì không còn nghi ngờ gì nữa; và vào thời Mt viết Tin mừng của ông, cộng đoàn Kitô hữu đă nắm được ý nghĩa của mối chân phúc giữa lòng cơn bắt bớ mà họ đang chịu từ phía người Do thái.
“Hãy vui sướng và hân hoan”: Hai động từ này, mà Mt chỉ dùng ở dây, thường được Cựu Ước sử dụng để suy tôn, ca mừng những hành vi cứu rỗi của Thiên Chúa (x. Hb 3, 18) với một âm điệu cánh chung; chúng trở lại trong thư lPr để diễn tả, như ở đây, niềm vui của các Kitô hữu bị bắt bớ ( 1Pr 1, 8; 4, 13-14). Lúc mà người môn đồ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử nạn của Chúa Kitô, thì họ nhận ra rằng Nước Trời thực sự đã đến.
KẾT LUẬN
Matthêu đã trình bày các chân phúc trong một bài giáo lý Kitô giáo ngắn gọn, theo cách thức khắc vào tâm trí những nguyên tắc và việc thực thi lý tưởng sống riêng biệt của Kitô giáo. Ông dạy rằng Nước Trời là phần thưởng cho những ai biết làm cho mình trở nên xứng đáng với Nước ấy nhờ thái độ nội tâm và nhờ cách thức sống sứ điệp Tin Mừng. Như vậy; các mối phúc thật của Matthêu có một ý nghĩa khuyến thiện: chúng chẳng những công bố song còn kêu mời. Lối giải thích này của Matthêu liên kết chặt chẽ vào giáo huấn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã rao giảng một nền luân lý bên ngoài của Biệt phái. Các mối phúc, như phần tiếp của diễn từ, đưa ra những điều kiện phải chu toàn để được thông phần vào sự sống, những điều kiện của một nền luân lý hoàn toàn nội tâm.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Mọi người đều ao ước hạnh phúc.Chúa Giêsu đã đến để thỏa mãn cái khát vọng hạnh phúc đang dày vò tâm hồn nhân loại ấy. Người đến bảo cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, nổi tiếng, những nhà đại chinh phục, đại thiên tài, song là các kẻ nghèo hèn, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hòa bình và chịu bách hại vì đức tin… Tiêu chuẩn hạnh phúc của Chúa Giêsu quả khác xa với các tiêu chuẩn của người đời vậy.
- Các thánh, hạng người đã sống Bát phúc, là những kẻ hạnh phúc đích thực của thế giới này.Dù gặp đau khổ, họ vẫn có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi tràn ngập hân hoan giữa những cơn bắt bớ”. Vì đối với Kitô hữu, nỗi đau khổ không xung khắc với niềm vui, vì nó được chịu “vì” Chúa Giêsu, vì nó trở nên cơ hội cho ta liên kết mật thiết hơn và giống hơn với Bạn Tình.
- Nói cho cùng, tám chân phúc đều quy về một mối:Phúc cho ai giống Chúa Giêsu. Vì nếu Chúa Giêsu đã tuyên bố Bát phúc trong diễn từ trên núi thì trước tiên Người đã sống chúng trong cuộc đời Người: chẳng ai từ bỏ bản thân, hiểu rõ nỗi khốn cùng nhân thế, rộng lòng xót thương, ao ước thi hành thiên ý, thẳng thắn và đơn sơ, xây dựng hòa bình và cam chịu bắt bớ bằng Người. Và chính vì thế Người đã có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui chúng nên trọn vẹn” (Ga 17, 13).
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN -A
MỐI PHÚC THẬT– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nghe bài “Phúc Thật Tám Mối” trên đây, nhiều người ngạc nhiên sửng sốt. Những hạnh phúc Chúa hứa ban sao quá khác với những quan niệm về hạnh phúc mà ta thường có. Người ta ai cũng mong có nhiều của cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người nghèo”. Người ta ai cũng mong được khôn ngoan, được có uy quyền, được người khác nể phục. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người hiền lành”. Người ta ai cũng mong được an bình, sống thoải mái, vô lo. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho các con khi các con bị bắt bớ”.
Chúng ta ngạc nhiên, không hiểu Lời Chúa, vì chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh phúc và về đạo.
1) Về hạnh phúc, chúng ta thường tưởng lầm rằng cứ có tiền bạc, có địa vị, có tình yêu là có hạnh phúc. Nhưng không phải như vậy. Không thiếu những người giàu tiền bạc, có địa vị cao, nhưng luôn bất hạnh.
Marilyn Monroe, nữ minh tinh thần thoại của thế giới phim ảnh là người có sắc đẹp mê hồn, được mọi người tôn thờ, và chắc chắn không thiếu tiền bạc. Thế mà nàng phải sống cuộc đời cô đơn buồn thảm. Sau cùng phải tự kết liễu đời mình trong buồn tủi, lo âu. Giờ nhắm mắt không có một người yêu bên cạnh.
Ngày nay xuất hiện nhiều “Tây ba lô”, những người nước ngoài ăn mặc thô sơ, vai đeo ba lô, đi gặp gì cũng ăn, ngủ bờ ngủ bụi. Tại sao họ không chọn ăn mặc chải chuốt, ngủ nghỉ trên chăn êm nệm ấm trong những khách sạn sang trọng? Thưa vì họ thích đơn sơ, thích khổ cực, thích phấn đấu, thích sống với thiên nhiên. Đó là hạnh phúc của họ.
Tiền bạc, tiện nghi, danh vọng, địa vị, tình yêu chắc chắn làm cho đời sống dễ chịu hơn. Nhưng vẫn chưa phải là hạnh phúc đích thực.
2) Về đạo, chúng ta lầm tưởng rằng điều cốt yếu của đạo là giáo lý. Thưa không phải như thế. Đi đạo không phải là đi theo một giáo lý. Đi đạo là đi theo một người. Điều cốt yếu của đạo là gặp được Chúa. Giáo lý chỉ là phương tiện giúp ta gặp được Chúa. Chúa mới là đích của đời ta. Chúa chính là hạnh phúc đích thực. Gặp được Chúa rồi, linh hồn ta sẽ toại nguyện, không còn mơ ước điều gì khác.
Thánh Augustinô khi còn tuổi trẻ đã chạy theo dục vọng, đi tìm lạc thú trong những buổi ăn chơi trác táng, những cuộc tình đắm mê. Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối, nhưng chẳng thấy mãn nguyện. Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn thống hối ăn năn. Ngài trở về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa rồi, ngài đã thốt lên một lời bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Hiểu như thế rồi ta sẽ thấy Tám Mối Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét vẽ nên chân dung Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người nghèo. Sinh ra không nhà. Sống không nhà. Chết cũng không nhà.
Chúa Giêsu đầy quyền năng. Người đã chế ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất hiền lành khiêm nhường. Bị kết án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết, Người vẫn im lặng chấp nhận.
Chúa Giêsu có một trái tim xót thương, sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người hoạn nạn, cứu chữa người tật nguyền.
Chúa Giêsu đem đến cho ta niềm bình an, hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau.
Chúa Giêsu đã bị bắt bớ, giết chết vì rao giảng Tin Mừng.
Tám mối phúc chính là con đường Chúa đã đi qua. Là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu. Đi vào con đường ấy, ta chắc chắn gặp được Người. Sống theo con đường ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên một với Người. Khi ta từ bỏ hoàn toàn ý riêng, để Người hoàn toàn chiếm đoạt, ta sẽ đạt tới hạnh phúc, hạnh phúc đích thực, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đối với bạn, hạnh phúc là gì?
2) Có bao giờ bạn cảm được niềm vui khi sống trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo chưa? Nếu có, xin chia sẻ với anh chị em.
3) Những đau khổ của bạn thường do những nguyên nhân nào?
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI – Lm. Đan Vinh HHTM
Ý CHÍNH: Tám mối phúc thật.
Mát-thêu đã tóm lược giáo lý của Đức Giêsu làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay cũng gọi là bản “Hiến Chương Nước Trời”. Đây là Tám Mối Phúc mà chính Đức Giêsu đã nêu gương và đòi hỏi các tin hữu phải thực hành trong cuộc sống, như tiêu chuẩn để được gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập. Chẳng hạn: Phải có tâm hồn nghèo khó nghĩa là sống siêu thoát đối với của cải vật chất, rồi phải ăn ở hiền hòa, có lòng sám hối, giữ đức công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, ăn ở hòa thuận, sẵn sàng chịu bách hại vì đức Tin. Chỉ những ai sống theo các tiêu chuẩn nói trên mới đủ điều kiện để được hưởng hạnh phúc Nước Trời là thiên đàng đời sau.
CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Đoàn lũ đông đảo: Gồm các Tông đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính phổ quát của sứ điệp Đức Giêsu. + Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một quả đồi ở gần thành Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng “núi” để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước và ban Lề Luật cho Ít-ra-en trên núi Si-nai. + Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị tôn sư khi giáo huấn môn đồ (x. Mt 13,1). + Phúc thay: Đây là kiểu nói thường được sử dụng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giêsu dùng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ… sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai…, đang khi Lu-ca thì viết: Phúc cho anh em… (6,20-26).+ Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là tinh thần khiêm tốn với lối sống đơn giản, không tham lam tiền bạc; giống như trẻ em không tranh giành địa vị quyền hành. Đây là điều kiện để được gia nhập vào Nước Trời (x. Mt 18,1-11). Nghèo khó cũng đồng nghĩa với sự siêu thoát, sẵn sàng chia sẻ của cải vật chất cho người nghèo như điều kiện để đi theo làm môn đệ Đức Giêsu và đáng được Nước Trời làm phần gia nghiệp (x. Mt 19,16-22).
+ So sánh sự khác nhau giữa hai câu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3), và câu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20) giống và khác nhau thế nào?
Hai câu trên trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca đều đề cập đến điều kiện phải có để được gia nhập vào Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên Tin Mừng Lu-ca nhấn mạnh những người nghèo khó không cơm ăn áo mặc sẽ được Chúa bù đắp cho ưu tiên gia nhập Nước Thiên Chúa, khác với Tin Mừng Mát-thêu cho biết để được gia nhập vào Nước Trời đòi người ta phải có tâm hồn nghèo khó, nghĩa là phải hóa nên như trẻ thơ không ham mê địa vị quyền hành (x. Mt 19,13-14), sẵn sàng chấp nhận ngồi chỗ thấp trong bàn tiệc (x. Lc 14,10-11). Họ sẽ được Thiên Chúa nâng lên và cho ưu tiên hưởng hạnh phúc là ơn cứu độ muôn đời (x. Lc 1,53; 16,25).
– C 4-5: + Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và thiếu thốn. + Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11). + sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong chờ ơn cứu độ của dân Ít-ra-en như ông Si-mê-on đã ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,25). + Được Thiên Chúa ủi an: Sự đau buồn này sẽ được Thiên Chúa bù đắp bằng niềm an ủi và còn được Chúa xét xử khoan dung trong ngày tận thế.
– C 6-8: + Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính nghĩa là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy như ông Giu-se (x. Mt 1,19) và tránh thói giả hình của người pha-ri-sêu (x. Mt 5,20). + Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước trời sẽ được dành để ban thưởng cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện. + Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri-a nhân hậu đã sẵn lòng giúp đỡ người gặp nạn (x. Lc 10,33-37). + Sẽ được Thiên Chúa xót thương: Có lòng thương xót và biết tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình thì sẽ được Thiên Chúa xót thương và được tha tội nợ (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). + Lòng trong sạch: Trong sạch ở đây không những là đức khiết tịnh, mà còn ám chỉ một lương tâm ngay thẳng, hết lòng phụng sự Chúa và tha nhân, không màng danh lợi… + Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được tiếp xúc thân mật với Chúa như ông Mô-sê xưa đã được gặp gỡ đàm đạo với Đức Chúa “diện đối diện” (x. Xh 33,11).
– C 9-10: + Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Sứ mạng của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em của nhau. Người tín hữu cần sẵn sàng làm hòa với những ai đang bất bình với mình, để lễ dâng lên Chúa xứng đáng được chấp nhận (x. Mt 5,23-24). + Được gọi là con Thiên Chúa: Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai sống yêu thương thì mới ở trong Thiên Chúa và trở nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn được bình an (x. 2 Cr 13,11). + Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Có phúc vì nên giống Đức Giêsu, Đấng đã bị các đầu mục Do thái hãm hại. Người đã phải trải qua cuộc khổ nạn như vậy rồi mới được vào trong vinh quang phục sinh. Đây là một sự điên rồ đối với người Do thái và là điều không dễ chấp nhận, ngay cả các môn đệ Đức Giêsu cũng vậy (x. Mt 16,22). Tuy vô tội, nhưng Đức Giêsu săn sàng bị người Do thái bắt bớ giết hại trên cây thập giá để đền tội thay cho nhân loại chúng ta (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói thêm như sau: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc !” (1 Pr 3,14).
– C 11-12a: + Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đang bị bách hại. + Anh em hãy vui mừng hớn hở: Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14). + Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Chính khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, các tín hữu sẽ được nên giống Người và sau này còn được Người đón nhận vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc viên mãn với Người.
CÂU HỎI:
1) Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trời do Chúa Giêsu thiết lập. Trong Tám Mối Phúc này, mối phúc nào quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác ? 2) So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca giống và khác nhau thế nào ? 3) Tại sao Chúa Giêsu lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi chỉ người giàu có mới có điều kiện giúp xóa đói giảm nghèo ? 4) Ý nghĩa của các mối phúc còn lại như thế nào: Phúc cho ai hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì danh Chúa ?
- SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).
- CÂU CHUYỆN:
1) Nghịch lý của Kitô giáo: Tonner, một nhân vật nổi tiếng hiện nay của Mỹ, là một tỉ phú giàu có, một trong các sáng lập viên của hệ thống truyền hình CNN. Gần đây trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí The New York, Tonner cho biết không phải lúc nào cũng thành công. Ông đã từng bị thất bại và đi đến thất vọng đến nỗi đã nghĩ tới việc tự tử. Một người là một trong những nhân vật quyền thế nhất nước Mỹ, nhất là sau khi đã tặng hàng tỉ Mỹ kim cho Liên Hiệp Quốc, giờ đây phải thú nhận mình đang là nạn nhân của một cuộc chiến về mọi mặt, từ việc kinh doanh đến cuộc sống gia đình và ngay cả niềm tin tôn giáo. Thất bại trong đời sống hôn nhân là điều tệ hại nhất đối với Tonner. Ông và nữ tài tử Folda đã ly hôn sau tám năm chung sống. Lý do chính khiến cho hai người chia tay là vì Folda đã theo đạo để trở thành một tín hữu Ki-tô. Tonner tỏ ra không mấy thiện cảm với đức tin tôn giáo. Ông cho rằng Ki-tô giáo là một tôn giáo chỉ dành cho những kẻ thua cuộc thất bại. Ông đã gọi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một tên ngu ngốc. Với tất cả những gì đang chiếm hữu, Tonner thật có lý khi coi các tín hữu Kitô là những kẻ thất bại nghèo đói. Nhưng điều nghịch lý nhất của Ki-tô giáo mà Tonner không sao hiểu được là người tín hữu Ki-tô chọn đi con đường: “thua để thắng”, “mất để được” như Đức Giêsu đã chọn và Tông đồ Si-mon Phê-rô đã phản kháng. Đó là con đuờng “Qua đau khổ của sự chết để vào trong vinh quang phục sinh” (x. Mt 16,21-23), Nghịch lý này về sau đã được thánh Phan-xi-cô Át-si diễn tả trong lời cầu của kinh Hòa Bình. (nguồn: radio veritas Asia).
2) Sống siêu thoát hiền hòa như Phanxicô Átsi
Phan-xi-cô thành Át-si (Phanxicô Assise) là con một nhà quý tộc giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ và tình cờ nghe một vị linh mục giảng về Tám mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa Giêsu: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2). Từ hôm ấy, anh luôn suy nghĩ xem mình phải sống thế nào để trở thành một người nghèo thực sự theo lời dạy của Chúa? Rồi một ngày nọ, anh đi đến quyết định sống cuộc đời siêu thoát, từ bỏ mọi sự để hoàn toàn phó thác cuộc đời cho Chúa quan phòng. Anh đã bán gia sản của cha mình và đem phân phát cho những người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đã đến tai người cha khiến ông này nổi cơn thịnh nộ. Ông đã đến tịch thu tất cả những gì còn sót lại của Phan-xi-cô và tuyên bố từ không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Ngày hôm ấy Phan-xi-cô đã bỏ lại tất cả quần áo, giầy dép sang trọng đang mặc để ra kihỏi nhà với hai bàn tay trắng. Anh đã viết nhật ký như sau: “Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”. Từ ngày đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã chọn lựa là “từ bỏ tất cả mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày, trong bộ quần áo vải thô, chân không giày dép, Phan-xi-cô đã đi bộ ngang qua các đường phố làng mạc để khất thực. Tối đến, anh thức khuya đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng giây da để hành xác. Anh đã được Chúa in năm dấu thánh trên hai bàn tay, hai bàn chân và cạnh sườn để nên giống Chúa Giêsu bị đóng đinh chân tay và chịu lưỡi đòng đâm thâu trên cây thập giá. Anh đã thực hành đúng theo Lời Chúa dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Lối tu luyện khổ hạnh của Phan-xi-cô đã được Hội Thánh đánh giá cao và dòng “Anh em hèn mọn” do Phan-xi-cô sáng lập đã trở thành một dòng tu lớn bậc nhất trong Hội Thánh. Sau khi qua đời, anh đã được Hội Thánh phong lên bậc hiển thánh là thánh Phan-xi-cô Át-si hay Phan-xi-cô Năm Dấu, kính nhớ vào ngày 04 tháng 10 hằng năm.
- SUY NIỆM:
1)Thế nào là hạnh phúc ? Làm sao để có hạnh phúc thực sự?
Hạnh phúc là một khát vọng tự nhiên của con người muốn được thỏa mãn các nhu cầu cả về thể xác cũng như tâm hồn, mà sau khi đã được thỏa mãn người ta sẽ cảm thấy vui vẻ sung sướng không còn bị khát khao nữa. Có hai thứ hạnh phúc: Một là hạnh phúc tự nhiên khả giác và hai là hạnh phúc siêu nhiên tinh thần như sau:
– Về hạnh phúc tự nhiên: Người ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi được thỏa mãn điều mình khát vọng như: Được có nhiều tiền của vật chất, được sống chung với người mình yêu, được khen ngợi thành tích đã đạt được, được thi đậu vào trường học hay được cấp visa nhập cảnh ra nước ngoài, được thăng quan tiến chức theo ý muốn… Tuy nhiên, thứ hạnh phúc này thường không bền lâu và nhiều khi hạnh phúc hôm nay lại trở thành nguyên nhân gây ra bất hạnh sau đó.
– Về hạnh phúc siêu nhiên: Tin Mừng hôm nay đề cầp đến thứ hạnh phúc tinh thần của các tín hữu Ki-tô là « Tám Mối Phúc ». Đây là bản Hiến Chương Nước Trời do Đức Giêsu- Mô-sê Mới của thời Tân Ước đã công bố cho dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh, để kiện toàn Thập Giới do Mô-sê của thời Cựu Ước đã công bố cho dân Ít-ra-en trên hai bia đá trong cuộc Xuất Hành.
2) Về tám mối phúc của Đức Giêsu:
Đây là những tiêu chuẩn mà những ai muốn được ơn cứu độ của Đức Giêsu phải thực hành trong cuộc sống như sau:
+ Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó: Người có tâm hồn nghèo khó là người không tham lam tiền của, không tranh giành địa vị chức quyền, nhưng luôn sống đơn giản siêu thoát và khiêm nhường phục vụ noi gương Đức Giêsu, nên họ sẽ được ban thưởng Nước Trời đời sau.
+ Phúc thay ai hiền lành: Người hiền lành là người có lòng từ bi nhân ái, không cố tình làm hại ai, nhưng luôn biết nhẫn nhịn chịu đựng những xúc phạm của tha nhân vì lòng mến Chúa, nên họ sẽ được Chúa bù đắp các thiệt thòi bằng hạnh phúc là đất hứa Thiên Đàng.
+ Phúc thay ai sầu khổ: Người sầu khổ là người ý thức giá trị thanh luyện của đau khổ nên sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày, nên họ sẽ được Chúa đoái thương “lau khô giọt lệ” và được Người động viên an ủi bằng hạnh phúc Thiên Đàng sau này.
+ Phúc thay ai khao khát nên người công chính: Người công chính là người luôn hướng thượng, muốn nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên Trời, nên họ sẽ được thỏa lòng mong ước nhờ tin vào Chúa Giêsu và ăn ở công minh chính trực giống như Người.
+ Phúc thay ai xót thương người: Người biết xót thương là người luôn cảm thông chia sẻ niềm vui nỗi buồn với tha nhân như thánh Phao-lô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), nên họ sẽ được Chúa xót thương và ban ơn tha thứ trước tòa phán xét sau này.
+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: Người có tâm hồn trong sạch là người có nếp sống lành thánh trong tư tưởng lời nói và hành động, nên cặp mắt tâm hồn của họ sẽ nên trong sáng để có thể nhìn thấy Chúa nơi đang hiện thân nơi những người đói khổ bất hạnh (x. Mt 25,40), và sau này họ còn được “mặt giáp mặt” Chúa trên nước thiên đàng (1 Cr 13,12).
+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Người xây dựng hòa bình là người luôn nhẫn nhịn chịu đựng, biết ứng xử theo nguyên tắc “dĩ hòa vi quý” để sống hòa thuận với tha nhân, nên họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (x. Mt 5,45) và trở nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu (x. Ga 13,35).
+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Người bị bách hại vì sống công chính là người do tin theo Chúa Giêsu nên đã bị bọn người gian ác thù ghét bách hại, nên họ sẽ được hưởng ơn cứu độ là hạnh phúc nước thiên đàng đời đời do Thiên Chúa thưởng ban.
Đối với những người không có đức tin thì bản Hiến Chương Nước Trời của Đức Giêsu là những điều nghịch lý khó lòng chấp nhận. Vì làm sao một người có thể được hạnh phúc khi đang trong tình trạng đói nghèo, buồn sầu, bách hại…? Nhưng đối với các tín hữu thì những điều nghịch lý nói trên lại trở thành hữu lý nhờ tin vào Chúa Giêsu và đi theo con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” như Người đã ba lần tiên báo với các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,22-23; 20,17-19).
3) Mối phúc căn bản: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó:
Người có tâm hồn nghèo khó được Chúa chúc phúc phải sống nghèo khó vì người khác và cho người khác. Nếu một người sống nghèo khó vì mình, hà tiện không dám tiêu xài để mình ngày càng giàu thêm thì đó là thói hư hà tiện chứ không phải nhân đức khó nghèo của Tin Mừng. Rất nhiều người đã tưởng lầm mình có đức khó nghèo khi họ hà tiện không dám ăn uống, may mặc, hay chữa bệnh… vì sợ bị tốn tiền. Số tiền dư ra thay vì để chia sẻ giúp đỡ cho người nghèo thì họ lại gửi vào nhà băng hay mua vàng cất giữ. Khó nghèo như thế không mang lại ích lợi cho tha nhân và cũng sẽ không được hưởng lời Chúa chúc phúc.
Tâm hồn nghèo khó không những là sự quảng đại chia sẻ cơm áo tiền bạc vật chất, mà còn gồm cả sự quảng đại chia sẻ cho tha nhân về tinh thần. Chẳng hạn: Dành thời gian nghỉ ngơi để dấn thân làm công tác xã hội như: giúp chống dột, vệ sinh khu vực nhà thờ hay khu phố nên sạch đẹp… Một người dù có nhiều tiền bạc và phương tiện sống vẫn có thể được Chúa chúc phúc nếu biết chia sẻ vật chất tinh thần cho tha nhân, đang khi những kẻ nghèo khó do lười biếng ỷ nại vào người khác giúp đỡ, hoặc tham lam tiền bạc của cải cách bất công… thì cũng không thực sự có đức khó nghèo đáng được Chúa chúc phúc.
4) Các mối phúc đều là kết quả của việc thực hành giới răn “Mến Chúa Yêu Người”:
Mối phúc căn bản của tám mối phúc nói trên chính là lòng vị tha bác ái. Chính tình mến Chúa yêu người sẽ trở thành động lực khiến các tín hữu chúng ta sẵn sàng chịu đựng các sự thiệt thòi và đau khổ do kẻ gian ác gây ra cho mình. Điều quan trọng là chúng ta cần quyết tâm thực hành giới răn mến Chúa yêu người. Nhờ lòng mến mà mọi việc chúng ta làm sẽ được Chúa chúc phúc.
Mỗi mối phúc đều có hai vế: từ nguyên nhân đến hậu quả, từ việc gieo hạt giống đến mùa lúa bội thu; Từ “mình vì mọi người” đến chỗ “mọi người vì mình”; Từ “đi gieo trong nước mắt” đến “sẽ gặt trong vui mừng”… Sự nghèo khó, hiền lành, sầu khổ sẽ trở nên nguồn hạnh phúc nếu chúng ta biết chịu đựng vì lòng mến Chúa yêu người. Nếu không có tình thương làm nền tảng thì các sự nghèo khó, hiền lành, sầu khổ nói trên sẽ là tai họa và hình phạt mà thôi.
- THẢO LUẬN:
1) Hiện nay điều gì đang làm bạn vui vẻ hạnh phúc hay bị đau khổ bất hạnh ? 2) Khi gặp một sự rủi ro trái ý, một thất bại ê chề, một điều không vui do người khác gây ra, bạn thường phản ứng thế nào ? 3) Để có được hạnh phúc thật của Chúa, bạn nên làm gì để biến sự rủi ro trở thành may lành, biến đau khổ thành niềm vui trong Chúa ?
- NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Trong tám mối phúc thật Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa, nên sẽ cầu nguyện không ngừng; Là người ý thức về sự bất lực của mình, nên không bao giờ khinh dể tha nhân nhưng luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường noi gương Chúa khi xưa.
– Lạy Chúa. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh đầu lên cao thì lại càng có ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có Nước Trời làm phần gia nghiệp đời này và đời sau.
- X) Hiệp cùng Mẹ- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
SỰ KHIÊM TỐN – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một hôm, vào ngày lễ thánh Têrêxa, một nhà Dòng kín mở cửa cho bà con thân thích vào thăm. Các tín hữu xóm làng cũng lợi dụng cơ hội để vào xem nếp sống của các nữ tu chuyên hãm mình cầu nguyện. Một trong số những người hiếu kỳ không thể hiểu được lý do của cuộc đời tu trì khắc khổ. Có ông nghĩ bụng rằng: Hẳn đây là những người nghèo khổ không có đủ cơm ăn áo mặc. Chỉ có hạng người xấu số mới có can đảm hiến thân sống khó khăn như vậy. Rồi ông lân la nói truyện với một chị nữ tu đang tuổi xuân thì. Chỉ vào một tòa nhà đồ sộ nằm phía bên kia nhà dòng, ông nói: Này chị, giá chị có được một tòa nhà giầu sang như vậy, với những lạc thú người ta đang vui hưởng trong nhà ấy, chị có thể hy sinh để chôn mình vào bốn bức tường nhà kín này được không? Chị nữ tu kia giơ tay vuốt chiếc lúp trên đầu, nhìn ra và trả lời với một nụ cười đơn sơ chân thành: Thưa ông, đó chính là nhà của tôi.
Của cải trần gian không là cùng đích của cuộc sống nhưng chỉ là phương tiện. Sự giầu có của cải chưa chắc đã mang lại sự hạnh phúc và niềm vui an lạc cho cuộc đời. Có một điều gì đó cao quí hơn gấp bội những danh vọng, tiền bạc và thú vui trần đời. Tiên tri Sôphônia đã mở cửa dẫn chúng ta vào con đường hạnh phúc: Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả những người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Thiên Chúa (Soph 2,3). Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Ngài sẽ ban cho. Tìm kiếm Chúa là nguồn sự khôn ngoan. Thiên Chúa là chủ tể của toàn thể vũ trụ bao la vô tận. Trong khi con người chỉ sở hữu một mảnh không gian nhỏ nhỏ và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sự vận chuyển tự nhiên của không gian và thời gian. Thế mà có nhiều người dám tự đắc kiêu ngạo khoe khoang chối bỏ sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa.
Thiên Chúa tao dựng con người có xác hồn, có ý chí và tự do. Con người biết suy tưởng những sự cao siêu nhưng rất giới hạn. Càng suy, tâm trí con người càng chìm sâu vào biển cả mầu nhiệm cao siêu. Sự hiểu biết của tâm trí con người thật bé nhỏ và giới hạn trong mọi lãnh vực. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường biết nhận ra sự yếu đuối và mỏng dòn của mình mới có thể đào sâu ý nghĩa đích thực của sự sống. Sôphônia đã nhận biết giá trị của đức khiêm nhường. Thiên Chúa không ưa thích kẻ kiêu căng, Ngài lật đổ những người quyền thế: Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào danh Chúa (Soph 3, 12). Sự khiêm tốn không phải là sự hèn nhát và yếu đuối, nhưng là một nhân đức. Khiêm tốn là một năng lực kỳ diệu thắng mình và thắng người. Kẻ khiêm nhu có thể đối diện được với tất cả mọi trạng huống của cuộc sống. Người biết sống khiêm hạ sẽ dễ dàng thuyết phục tâm tư của người đời.
Thiên Chúa đứng về bên những người nghèo khổ, cô đơn, khiêm hạ và chân thành. Đường lối của Chúa đi ngược lại với những tham vọng của con người. Chúa Giêsu xuống thế làm người đã chọn đi con đường nghéo khó và khiêm nhượng. Thiên Chúa cao cả hạ thân xuống cùng tận của sự khó nghèo và từ đó, Thiên Chúa đưa dẫn loài người lên chức bậc làm con Chúa. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho giáo đoàn Corintô đã diễn tả: Những điều thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi (1Cor 1, 27). Sự khôn ngoan của thế gian là tìm thỏa mãn những ước mơ, đòi hỏi và tham vọng của tâm trí để đặt con người lên làm chủ mọi loài. Đã qua bao nhiêu thế hệ, sự hiểu biết về vũ trụ và sự sống cũng chỉ như giọt sương mai.
Thánh Phaolô mời gọi như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa (1Cor 1, 31). Tự hào trong Chúa có nghĩa là tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua mạc khải, chúng ta học biết lẽ sống và cùng đích của con người và vạn vật. Câu truyện về Kinh Thánh: Một vị tuyên úy trên bãi chiến trường đã đến gặp một người lính trẻ bị thương đang ẩn núp dưới hầm. Vị tuyên úy hỏi: Anh muốn tôi đọc vài đoạn trong cuốn sách Kinh Thánh này không? Người thương binh nói: Tôi đang qúa khát. Tốt hơn hãy cho tôi một chút nước. Vội vàng, vị tuyên úy mang cho anh chút nước. Anh thương binh nói: Cha có thể đặt cái gì đó dưới đầu của tôi không? Tuyên úy cởi áo choàng, cuộn lại và nhẹ nhàng đặt dưới đầu của anh ta như chiếc gối. Bây giờ, cha có thể phủ trùm thân tôi vì tôi đang lạnh run. Tuyên úy cởi cả áo ngoài và đắp cho anh ta để giữ ấm. Anh thương binh nhìn thẳng vào mắt vị tuyên úy và nói: Nếu có bất cứ điều gì mà cuốn sách đó đã thúc đẩy một người thi hành giúp người khác những điều mà cha đã làm cho tôi, vậy làm ơn đọc lời Kinh Thánh, bởi vì tôi mong muốn được nghe lời đó. Kinh Thánh là lời của sự khôn ngoan. Nghe, đọc Lời Chúa và đem ra thực hành thì như người xây nhà trên đá tảng vững chắc.
Bài giảng trên núi nói về Tám Mối Phúc Thật là một lời mời gọi lội ngược dòng. Những điều Chúa Giêsu giảng dạy qua tâm từ bi phản ánh một sự khiêm nhu thật sự. Chúa chúc phúc cho nhưng tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đau buồn, đói khát điều công chính, thương xót người, lòng trong sạch, ăn ở thuận hòa và chịu sự bách hại vì lẽ công chính, họ sẽ được no hưởng niềm vui của Nước Trời. Tám Mối phúc thật là Kim Chỉ Nam sống đạo và là các nhân đức cao qúy cần thực hành. Đường dẫn vào Nước Trời có rất nhiều nẻo. Mỗi nẻo đường đều cần có đức khiêm nhượng làm căn bản. Trong sự phấn đấu để nên trọn lành, tâm hồn chúng ta cần có sự kiên tâm, nhịn nhục và hạ mình. Chịu mất mát thua thiệt để chiến thắng. Người ta thường nói: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân.
Càng ở chức vụ cao, càng phải khiêm hạ phục vụ. Sự giầu có trong của cải, danh vọng và địa vị là dấu chỉ được chúc phúc. Người giầu có cần chia sẻ cho những người túng thiếu. Người giầu có của cải vật chất vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. Họ biết dùng của cải đời tạm này như phương tiện phục vụ. Tiền cho đi là đồng tiền có giá trị cả lượng lẫn phẩm. Chúa Giêsu phán dạy: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ (Mt 5, 3). Người nghèo dễ có tâm tình khiêm nhượng hơn, vì họ không cậy dựa vào chính họ. Người nghèo là người thấp cổ bé miệng dễ bị đàn áp và bóc lột, nên họ cần được sự bao vệ chở che và giúp đỡ. Chúa Giêsu cũng đã trải nghiệm đời sống trong cảnh nghèo. Sống khó nghèo là một nhân đức. Một trong ba lời khấn quan trọng của các tu sĩ dòng là lời khấn sống khó nghèo. Chúng ta biết khi buông bỏ được sự tham lam tiền của và danh vọng, cuộc sống sẽ thanh thản hơn. Các tu sĩ không giữ tiền bạc làm của riêng, nhưng chia sẻ đời sống cộng đoàn để cùng nâng đỡ lẫn nhau.
Sống nhân đức khiêm nhượng cũng đòi hỏi sự từ bỏ ý riêng của mình. Hãm bớt cái ‘tôi’ kiêu căng, tham lam và độc tài. Khi biết bước xuống là chúng ta đang tiến lên một bước. Hạ mình xuống, chúng ta không đánh mất mình, nhưng là cơ hội để nhận diện chỗ đứng của mình rõ ràng hơn. Kinh nghiệm thực tế, chẳng khi nào chúng ta sống khiêm tốn cho đủ. Đôi khi chúng ta nhận định để tự an ủi rằng: Nhìn lên tôi chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống tôi cũng còn hơn nhiều người. Biết rằng mỗi người đều có cá tính riêng biệt. Chúng ta không thể so sánh hay xếp loại vị thế. Sự khiêm nhường không cần thứ bậc trong phục vụ, nếu làm được việc gì giúp ích cho đồng loại, chúng ta cố gắng sẵn sàng.
Lạy Chúa, đôi khi chúng con muốn đến để đựơc phục vụ thay vì phục vụ tha nhân. Chúng con muốn ăn trên ngồi trốc và ra lệnh điều khiển hơn là bỏ công sức phục vụ. Xin cho chúng con học biết thái độ khiêm tốn để phục vụ tốt cho anh chị em.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
HẠNH PHÚC- Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Hạnh phúc cần thiết cho đời sống mỗi người từ khi mở mắt chào đời cho tới khi nhắm mắt từ giã cuộc sống trần thế, ai củng mong muốn có hạnh phúc và ra công gắng sức để tìm hạnh phúc. Nhưng nếu hỏi hạnh phúc là gì, và làm thế nào để có được hạnh phúc? Có lẽ không mấy ai có thể cắt nghĩa cho rõ ràng được! Vì hạnh phúc không là điều đơn giản có thể thu tóm trong một định nghĩa hay một công thức, hay một bài viết. Hạnh phúc cũng không giống như chiếc áo, chiếc xe, hay cái nhà mà có thể vẽ ra thành hình hài có màu sắc, hay có thể mua sắm làm ra được.
Hạnh phúc là điều cảm thấy trong tâm hồn, trong cuộc sống, khi một biến cố, một lời nói cử chỉ mang lại niềm vui, mà họ chờ đợi từ lâu. Thí dụ, khi thi đỗ hay lam ăn phát đạt gặp dịp may, con cháu khỏe mạnh mau lớn, học hành giỏi giang, cước được người hằng mong ước, sang đoàn tụ với gia đình, được khen tặng tán thưởng, được khích lệ an ủi, thoát khỏi tai bay vạ gió, bình phục khỏe mạnh trở lại sau cơn bạo bệnh…
Trong Phúc âm, những người được Chúa chúc phúc, những người được gọi là hạnh phúc, lại có đời sống trái ngược. Họ phải gánh chịu cuộc sống đâu có gì sáng sủa mang lại hạnh phúc như chúng ta hiểu. Trái lại họ phải chịu phần thiệt thòi, sống hy sinh chịu đựng nhiều hơn là đàng khác! Tại sao Chúa lại gọi họ là những người có hạnh phúc? Phải chăng đó chỉ là những lời an ủi để họ bằng lòng với số phận “chịu vậy” cho xong?
“Phúc thay cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ” (Mt 5,3). Tất cả mọi người ai cũng cần có cuộc sống no đủ cơm ăn áo mặc, nhà ở, việc làm, cơ hội học hành thăng tiến cuộc sống cho xứng đáng nhân vị đời sống con người. Nhưng đời sống con người đâu chỉ gói trọn trong phạm vi bốn bức tường nhà ở của mình. Nó còn liên đới lan rộng và tùy thuộc với môi trường, với mọi người xung quanh nữa. Và đời sống con người đâu phải chỉ có nhu cầu cho thể xác, cho bao tử, cho sức khỏe, nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng tinh thần nữa: Lòng tin tưởng biết ơn Đấng Tạo Hóa.
Người nghèo khó trong tâm hồn là người nhìn nhận Chúa là Cha đời mình và sống bác ái, chia sẻ với người xung quanh mình. Chính tình liên đới đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.
Dưới con mắt của mọi người, những ai lâm cảnh hoạn nạn buồn sầu tủi khổ, họ là những người bất hạnh – Thử lòng trong đời đã có ai chưa một lần nào lâm cảnh này? – Nhưng đức tin dạy chúng ta: Thiên Chúa không bỏ họ một mình trong lúc sầu khổ, như Ngài đã hứa: “Con đừng sợ, trong cơn sầu khổ, Ta sẽ cứu độ con” (Is 43,1). Và trong hoàn cảnh bước đường cùng vẫn có những người anh chị em đồng loại sẵn sàng an ủi, giúp đỡ nhau. Điều này rất cần cho con người. Và chính điều này mang lại hạnh phúc cho cuộc sống.
Trong lúc gặp bước đường cùng khổ gian nan, mà biết có người cùng chia sẻ, cùng đồng hành với, sẽ cảm thấy được an ủi. Đời sống được an ủi, là đời sống có hạnh phúc.
Chúa chúc phúc cho những người có lòng nhân từ, lòng thông cảm với người khác (Mt 3,7-8). Có thể họ bị người đời cho là khờ dại hay “ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng xóm”. Nhưng đâu phải như thế. Họ là những người kiến tạo hoà bình. Vì họ không lợi dụng người anh chị em mình lúc yếu thế sa cơ để kiếm lợi cho riêng mình như cảnh “dậu đổ bìm bịp leo!”, nhưng tìm cách tương trợ lẫn nhau “chị ngã em nâng”.
Họ là những người không tìm cách, tìm dịp xa gần nhục mạ bôi nhọ danh dự người khác. Lòng đạo đức nhân bản là nền tảng đời sống đức tin của họ, như lời Chúa dạy: Yêu thương, tha thứ cả kẻ bách hại các con (Mt 5,44).
Và trong đời sống, thiết tưởng ai cũng đã có kinh nghiệm quý báu này: Ngày hôm nay người này có thể là người thù địch, hay người không đồng ý kiến, tư tưởng với ta, nhưng ngày mai họ có thể sẽ trở thành bạn, người làm ơn cho ta! Nhà chí sĩ Nguyễn Trãi thuở xưa trên bình diện quốc gia dân tộc trong hịch Bình Ngô Đại Cáo đã kêu gọi: “Lấy chí nhân thay cường bạo!” làm nền móng xây dựng hòa bình cho xã hội, kiến tạo tình người, bắc chiếc cầu thông cảm tha thứ làm hoà với nhau.
Những người được Chúa chúc phúc, được Chúa hứa cho đời sống hạnh phúc là những ai? Họ là những người tin theo Chúa, sống rao giảng tình yêu Chúa, tình yêu bác ái tha thứ, thắp sáng niềm hy vọng cho mọi người bằng chính đời sống mình trong môi trường họ sinh sống.
Qua đời sống như thế “Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến”. Và người khác tìm thấy niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn khi nhận ra tình yêu thương, tương trợ nhau.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN-A
NẺO VỀ HẠNH PHÚC- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 – 762). Ông tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế. Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao…
Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.
Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên càng làm ngây ngất lòng thi sĩ. Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên thơ. Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh. Mảnh trăng diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.
Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say đắm lâu nay.
Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.
Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm cười chế giễu ông.
Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.
Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.
Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.
Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.
Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.
Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.
Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.
Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là ‘Vầng Trăng’ thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”.
Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:
* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban…
* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người…
* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác…
* Khao khát trở nên người công chính,
* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người…
* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công…
* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…
* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm…
Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.
Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.
Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
PHÚC THẬT- PHÚC GIẢ- Lm. Bùi Quang Tuấn
“Bài Giảng Trên Núi” hay “Hiến Chương Nước Trời” là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Đức Kitô. Và “Tám Mối Phút Thật” chính là nền tảng căn bản nhất của “Bài Giảng Trên Núi” đó.
Thế nhưng không tránh khỏi một câu hỏi đầy tính hiện sinh: làm sao nghèo hèn, hiền từ, ưu phiền, đói khát, bị bắt bớ…mà lại có phúc được? Phải chăng Đức Giêsu đang ru ngủ hạng bần cùng khốn khó, như Marx có lần tuyên bố: Kitô giáo biện chứng cho sự nghèo đói của nhân loại và làm lụn bại tinh thần đấu tranh vượt thoát áp bức. Phải chăng là như thế?
Dựa vào đâu để khẳng định nghèo khó, ưu phiền, đau khổ là có phúc, đang khi thực tế lại như những “vô phúc” đáng loại trừ?
Một nhà tư tưởng đã có lý khi nhận định: ấy là dựa vào con người của Đức Giêsu, vì Ngài chính là hiện thân của khó nghèo, hiền lành, lắng lo, khát khao, thương xót, tinh tuyền, hoà bình, và khốn khổ vì công chính.
Không phải bởi lâm vào tình cảnh bế tắc nên Ngài phải chịu vậy, song đây là một sự tự nguyện chọn lựa để làm nên mẫu gương ân phúc cho con người. Ví dụ, có lần ma quỉ đến nói với Đức Giêsu: “Nếu ông cúi mình bái lạy tôi thì tất cả vinh quang giàu sang của thế gian sẽ thuộc về ông”. Như vậy Chúa Giêsu có khả năng để nên giàu có, và giàu có lắm, vì được cả thế gian chứ không phải thường. Nhưng Ngài từ chối bái lạy “cha của bọn dối trá”.
Hay sau khi hóa bánh cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu được người ta tôn vinh làm vua. Khi làm vua, chắc là sẽ sung sướng và cao sang hơn người. Ấy thế mà Kinh thánh lại nói: “Ngài trốn lên núi”. Tại sao trốn? Phải chăng Đức Giêsu muốn khẳng định một điều: giá trị cao quí và cần thiết vô cùng không ở nơi của cải, cao sang, sức mạnh, chức quyền nhưng là nơi Thiên Chúa. Ai chọn lựa Thiên Chúa, ai đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài chính là người có phúc nhất. Thánh vịnh đã xác nhận điều đó khi nói: “Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa”. Vì sao? Vì khi đặt niềm tin tưởng như thế:
“Họ như cây trồng bên suối nước,
Trổ sinh hoa trái đúng mùa
Lá cây không bao giờ tàn úa
Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt”.
Thịnh đạt trong mọi công việc chính là phần phúc dành cho những ai chọn Thiên Chúa làm lẽ sống và con đường ngay thẳng của Tin mừng để bước đi, dù rằng nẻo đường đó không thiếu chật hẹp, gian nan, đau khổ và rướm máu. Thế nhưng có bước theo Chúa và gắng nên giống Ngài mới là phúc thật, còn ngược lại, thì dù được xem như thành công, giàu có, hạnh phúc, an lành, người ta vẫn là những kẻ vô phúc trong thiên hạ.
Mới đây, làng điện ảnh Hollywood thường đề cập đến nữ minh tinh Demi Moore, người rất được khán giả Hoa kỳ ái mộ, và cũng từng là vợ của Bruce Willis, một tài tử danh tiếng khác.
Nổi tiếng và giàu có, nhưng Demi lại đang sống trong tình trạnh mặc cảm, lo sợ, hối hận dày vò. Số là trước khi bước chân vào nghề điện ảnh, Demi đã làm một nghề tồi bại: cho chụp hình playboy thân xác của mình.
Mặc dầu đã tốn khá nhiều tiền mua lại các phim gốc, hầu xóa bỏ dấu tích của một thời thiếu đoan trang, Demi vẫn mang trong mình nỗi bất an lo sợ. Vì hiện nay đang có dấu hiệu xuất hiện các hình ảnh xấu xa của cô trên Internet.
Demi lo cho danh dự của mình một phần, nhưng nguy hiểm hơn, cô đang sợ một ngày kia, ba đức con gái bé bỏng của cô là Rumer, Scout, và Talluah sẽ nhìn thấy các hình ảnh “không nết na” của mẹ chúng trên Internet, hoặc bị bạn bè bắt gặp và đem ra trêu chọc. Demi không muốn chứng kiến cảnh các con ngây thơ vô tội phải xấu hổ đau khổ vì mình. Cô tâm sự: “Giấc mơ lớn lao nhất của tôi là tìm mọi cách thu hồi những tấm ảnh playboy đó và ném vào một đống lửa cho cháy tiêu tan”. Demi cũng cho hay cô không kiêu hãnh chút nào khi có người khen cô đẹp vẹn toàn, bởi vì cô đã phạm một lỗi lầm rất lớn là để cho người ta chụp hình khỏa thân hầu sớm nổi danh và giàu có.
Thế đó, cứ tưởng vừa giàu sang có sang trọng, vừa xinh đẹp và được mến mộ thì hạnh phúc lắm. Nhưng sung sướng gì khi thâm tâm cứ bị dày xéo cắn rứt không nguôi.
Thử hỏi sống như thế là có phúc hay vô phúc? Thành ra có nhiều điều người ta tưởng “sướng lắm” hay “phúc lắm”, nhưng khi đạt được rồi mới thấy bức rức, hụt hẫng, dày vò, dơ nhớp… bởi vì nỗi khát khao háo hức không phải là công chính và thẳng ngay.
Như vậy, con người chỉ có phúc thật khi khao khát Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Con người chỉ có bình an và thoả lòng thật sự khi bước đi trên nẻo đường thập giá của Phúc âm. Và con người chỉ có thể vui cười chiến thắng khi can đảm chiến đấu và chiến thắng bao dục vọng đam mê thế trần.
Đường lên thiên đàng khi nào cũng nhỏ hẹp và vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy bóng mát thênh thang. Nhưng can đảm chọn lựa bước theo Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚC PHÚC- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Thường người ta nghĩ rằng, những người được chúc phúc là những người giỏi, thông thái, người giầu sang, người có sức mạnh, người được việc, người thành công trên đời. Nhưng Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn khác. Những người được chúc phúc là những người nghèo, người hiền lành, người thương cảm người, người nhân ái, người kiến tạo hoà bình, người đơn sơ trong sáng, người khao khát điều tốt lành, và cả những người bị bách hại nữa.
- Phải chăng người giầu hạnh phúc
Tiền bạc là một yếu tố rất quan trọng trong đại đa số đời sống con người. Nó ảnh hưởng đời sống gia đình, ảnh hưởng tâm lý cá nhân, và đôi khi là yếu tố chính yếu chi phối đời sống cá nhân và gia đình. Tiền bạc ảnh hưởng đặc biệt trên những người coi tiền bạc là quan trọng. Với những người này, “đồng tiền là Tiên là Phật”, đồng tiền có thể điều khiển tất cả, thậm chí cả lề luật: “kim ngân phá lề luật”. Dùng tiền, người ta mua được tất cả: “có tiền mua tiên cũng được”. Với những người này, tiền bạc có thể mua được vợ được chồng (nhưng họ không mua được tình yêu), có thể mua được hạnh phúc kiểu “nhất dạ đế vương” (nhưng họ không mua được hạnh phúc sâu thẳm trong tâm hồn mà bình an là dấu chỉ).
Trên đời, rất nhiều người đi tìm tiền bạc. Họ nghĩ rằng có tiền, là có quyền lực, danh giá, được trọng vọng, và hạnh phúc. Tuy vậy, thực tế không hoàn toàn như vậy. Bao nhiêu người giầu sang cũng khổ. Chưa đủ làm con người hạnh phúc khi chỉ thoả mãn những đòi hỏi vật chất. Gia đình là một yếu tố rất quan trọng. Nếu có tiền của, mà có người vợ hoặc chồng không chung thuỷ, mà con cái hư hỏng, thì làm sao người đó hạnh phúc được. Tiền bạc, không là một yếu tố làm người chồng hoặc vợ chung thuỷ, làm con cái ngoan và tốt lành. Nếu một người coi tiền bạc là quan trọng, và người chồng hoặc vợ, con cái họ cũng quan niệm như vậy, thì điều gì sẽ xảy ra? Những người này có thể nghĩ: tại sao tôi phải trung thành với người chồng hay vợ của tôi, khi người khác có thể cung cấp cho tôi hơn điều người chồng hay vợ hiện tại cung cấp cho tôi, tại sao tôi phải trung thành khi tôi thích người này người kia, tại sao tôi phải “sống tốt” theo tiêu chuẩn luân lý, mà cha hoặc mẹ tôi không sống theo đó. Tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ gian ác. Nếu người nào coi tiền bạc như phương tiện, người đó sẽ tốt; nhưng nếu ai coi tiền bạc là nhất, và họ chỉ biết đi tìm tiền, thì họ sẽ bất hạnh.
Biến cố của những cuộc đảo chánh chính trị, những cuộc chiến tranh, những tai họa, chẳng hạn cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Đình Diệm, biến cố 30 tháng 4, biến cố 11 tháng 9 ở World Trade Center, cuộc chiến Afganistan mới đây. Bao người giầu và quyền thế, bỗng chốc trở thành bình thường. Những biến cố đó, tuy dù tiêu cực, nhưng cũng giúp con người nhận ra sự thật về con người.
- Nghèo làm sao hạnh phúc
Những người bị bách hại, là những người không còn hoặc không có quyền lực, bị người khác đàn áp và làm khổ. Mạng sống họ bị đe doạ, nhân phẩm không được tôn trọng, không có quyền lợi; tất cả những điều này giúp họ nhận ra điều gì trường tồn, đâu là giá trị thật trên đời. Trong hoàn cảnh khốn cùng, họ nhận ra giá trị đích thực của giầu có, tài năng, và chức vị. Thiên Chúa lúc đó là hy vọng cuối cùng của họ.
Khi một người nhận biết thực tại quan trọng “Thiên Chúa và con người”, và rồi thương cảm người bất hạnh, thương những người túng thiếu, thương cảm những người đang bị nô lệ bởi bao ràng buộc vật chất và tinh thần, và sẵn sàng giúp đỡ những người này, thì họ là những người được chúc phúc. Họ hạnh phúc ngay trong cuộc sống này.
Lời Chúa trong thư gởi tín hữu ở Corintô cho thấy, đa số các Kitô hữu không là những người khôn ngoan thông thái theo tiêu chuẩn người đời, không phải là những người giầu sang quý phái, không phải là những người thế lực, nhưng Thiên Chúa đã chọn để mặc khải cho họ biết điều làm con người hạnh phúc.
- Hạnh phúc đích thực
“Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong được vào”. Có nhiều người sau một thời gian dài trong cuộc sống, mới nhận ra điều mà các Kitô hữu được nhận biết qua lời dạy của Chúa về tiền bạc, về danh vọng, về quyền lực. Họ phải trả một giá khá đắt để nhận ra bài học đó, và đôi khi khá trễ trong đời.
Hạnh phúc đích thực hệ tại một đời sống trong sáng, coi con người là quan trọng, yêu thương giúp đỡ người khác, nhân ái tha thứ những lỗi lầm của con người. Hạnh phúc ở đây không nhằm thoả mãn những đòi hỏi của xác thịt vật chất, nhưng là hạnh phúc khi thấy người khác vui và hạnh phúc, khi thấy mình giúp người khác bớt buồn và vui hơn.
Hạnh phúc đích thực có Thiên Chúa là nền tảng. Hạnh phúc đích thực không chỉ là hạnh phúc đời sau, nhưng là hạnh phúc ngay ở đời này. Niềm vui con người cảm nghiệm từng ngày trong đời, khi họ nhận ra những hồng ân Thiên Chúa ban, khi họ nhận ra Thiên Chúa dùng mình để giúp người khác nhận ra sự thật, giúp người khác được giải phóng khỏi quan niệm sai lầm để vui sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Xin bạn kể một vài người giầu không hạnh phúc, một vài người nghèo hạnh phúc mà bạn biết qua kinh nghiệm.
- Đâu là những bất lợi của giầu và nghèo? Nếu được chọn giữa giầu và đẹp (nữ), giữa giầu và giỏi (nam), bạn chọn điều nào? Tại sao?
- Hiện tại bạn có hạnh phúc không? Tương lai bạn có thể hạnh phúc không? Tại sao?
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN-A
HẠNH PHÚC ƠI, MI LÀ AI?- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Cái tựa đề bài viết có vẻ như là tựa đề một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không phải vô tình nhưng xin thú thực là có chủ ý. Kitô hữu chúng ta, nếu là người trưởng thành và được “xem là ngoan đạo” thì chắc chắn thuộc nằm lòng kinh “phúc thật tám mối”. Mẹ Giáo hội đã minh nhiên khẳng định rằng “tám mối phúc” chính là bản Hiến Chương Nước Trời”. Dưới một góc độ nào đó thì bản Hiến Chương cũng gần tương tự với bản Hiến Pháp của một quốc gia. Chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về tầm quan trọng cũng như vị trí, vai trò tối thượng của bản Hiến Pháp trong việc định chế các luật lệ để điều hành các tổ chức, sinh hoạt của một đất nước. Vị trí, vai trò của bản Hiến Chương trong các tổ chức xã hội lớn bé cũng có tầm quan trọng không thể phủ nhận, cho dù trong thực tế, có thế lúc này, lúc kia, nơi này nơi nọ, việc tuân thủ không được chặt chẽ và nghiêm túc.
Một ngộ nhận thường thấy khi đề cập đến các mối phúc của Tin mừng đó là người ta dễ bị cám dỗ tìm cách giải thích, biện luận và minh chứng vì sao khó nghèo là có phúc, vì sao sầu khổ là có phúc… Trong khi đó hạnh phúc thật mà Chúa Kitô loan báo không ở cái vế đầu của câu nói mà ở vế sau. Để hiểu rõ điều này xin đan cử câu chuyện đã từng xảy ra về một ông lão nghèo hành nghề bán vé số kiếm kế sinh nhai bỗng nhiên thành tỉ phú. Một ngày kia, vé số bán không hết, ông lão mệt quá nên không đem số vé dư trả lại đại lý. Ai ngờ có trong số vé dư ấy có một cặp mười lại trúng giải độc đắc. Người ta bèn nói rằng ông lão bán vé số có phúc vì trúng số độc đắc bạc tỉ. Như thế cái được gọi là có phúc không phải ở vế “làm nghề bán vé số” hay ở vế “không trả lại số vé không bán được” mà ở nơi vế “trúng giải độc đắc bạc tỉ” kiểu như trên trời rơi xuống.
Vậy chúng ta cần khẳng định rằng hạnh phúc thật chính tình trạng được ở trong Nước Trời, được có Nước Trời làm gia nghiệp, được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được nhìn thấy Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa ân thưởng trên trời, nghĩa là các vế thứ hai của các mối phúc. Các vế thứ nhất của các mối phúc không phải là những điều kiện để có hạnh phúc, nhưng chỉ là những tình trạng được ban phúc, những tình trạng đã đón nhận hạnh phúc được ban.
Để hiểu điều này chúng ta cần đối chiếu với Tin Mừng thánh Luca. Các nhà nghiên cứu Tin Mừng đồng thuận với nhau rằng thánh sử Luca tường thuật các dữ kiện liên quan đến các mối phúc thì sát thực tiển hơn so với Tin mừng thánh Matthêu. “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ‘Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng…”(Lc 6,20-23).
Hạnh phúc thật là Nước Trời, là chính Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã đoái thương ban hạnh phúc ấy cho tất cả mọi người, cho cả những người mà dưới con mắt thế gian hay theo nếp nghĩ của con người là bất hạnh là kém cõi là ngu dại, là kém phận… Thực tế cho thấy khi Chúa Kitô đi rao giảng tin mừng, thì rất nhiều người vốn bị xem như là bé phận, hèn mọn đã biết mở rộng tâm hồn đón nhận ân phúc Người ban. Trái lại, có nhiều người mà thế gian cho là may mắn thì không nhận được ân phúc ấy, nói đúng hơn là họ đã chối từ hạnh phúc được ban. Thánh sử Luca sau khi tường thuật những lời chúc phúc của Chúa Kitô thì tường thật tiếp liền những lời cảnh báo về các mối họa với những người giàu có, những người đang được no nê, vui cười, đang được mọi người ca tụng (x.Lc 6,24-26).
Những hạng người này bị chúc dữ hay nói đúng hơn là cảnh báo về tại họa không phải vì họ giàu, đang được no nê hay vui cười…nhưng vì họ đã đặt hạnh phúc thật sai chỗ, sai đối tượng. Họ đã lầm tưởng rằng của cải, các hoàn cảnh thuận lợi, danh phận đời này là hạnh phúc thật. Chính vì thế họ đã khước từ Chúa Kitô, khước từ Nước Trời mà Thiên Chúa ban tặng.
Các mối phúc thật hay Bản Hiến Chương Nước Trời không chủ ý nói đến những điều kiện để có hạnh phúc nhưng là trình bày nội dung của hạnh phúc đích thật. Đó là Thiên Chúa, là Nước Trời mà Người ban tặng cho nhân loại. Hạnh phúc đích thật chính là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, một quà tặng vượt quá mọi khả năng chiếm hữu của con người. Con người chỉ có thể đón nhận ân phúc ấy bằng lòng tin. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng nhấn mạnh chân lý này trong thư gửi tín hữu giáo đoàn Galata và giáo đoàn Rôma (x.Gl 2,16.19-21; Rm 3,28-30).
Có thể nói rằng tám mối phúc như khó nghèo, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người…là những cách thế biểu lộ niềm tin, những con đường sống đức tin. Và chúng ta cũng có thể nói rằng ngoài những con đường, những cách thế rõ nét ấy thì vẫn có đó muôn vàn con đường sống đức tin, muôn muôn vàn cách thế biểu lộ niềm tin. Có thể xem đây là sự giao thoa giữa tám mối phúc đã được kể. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !”(Lc23,42). Không biết người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã đi con đường nào của bát phúc, nhưng anh ta đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu. Và anh đã được trao ban hạnh phúc đích thực là Nước Trời ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,43).
Cũng như Bản Hiến Pháp của một quốc gia vừa có tính hướng dẫn, vừa có tính quy định những thể chế, tổ chức, luật lệ của quốc gia ấy, thì Bản Hiến Chương Nước Trời khi cho biết đâu là hạnh phúc thật và con đường để có hạnh phúc thật sẽ có tính hướng dẫn và quy định các tổ chức, sinh hoạt…của đoàn tín hữu Kitô không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách là đoàn dân của Thiên Chúa. Mong sao mọi tổ chức sinh hoạt của Giáo hội, mọi nghi tiết Phụng vụ, mọi luật lệ được ban hành… biết lấy Bản Hiến Chương Nước trời làm tiêu chuẩn quy chiếu. Và ước gì được một lần trong đời chúng ta không chỉ cất tiếng hát mà còn thực sự cảm nhận và xác tín lời một bài thánh ca khá quen thuộc: “vì ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc…?”
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- A
CHÚA TÔN NGƯỜI KHIÊM HẠ- Lm. Minh Vận CRM
Đang lúc thi hành việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do tay một Linh Mục bất mãn viết. Đọc xong bức thư, Đức Cha Roncalli không nói một lời, bình tĩnh, thản nhiên và vẫn yêu thương Linh Mục ấy.
Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris, rồi Hồng Y Giáo Chủ tại Venezia và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII năm 1958.
Năm ấy, vị Linh Mục viết bức thư bất mãn kia hãy còn sống. Một hôm gặp dịp Giáo Dân vùng đó tổ chức cuộc hành hương Roma để triều yết Đức Tân Giáo Hoàng, cũng là vị nguyên Tổng Giám Mục yêu kính của họ, Linh Mục ấy cũng ghi tên theo phái đoàn. Đến Roma, ngài lại xin đặc ân được tiếp kiến riêng Đức Thánh Cha. Lời thỉnh cầu được Đức Thánh Cha chấp thuận. Sau đây là câu truyện do chính Linh Mục ấy thuật lại:
“Trong lúc ở phòng đợi đến phiên được triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm qua, chắc Đức Thánh Cha cũng đã quên rồi. Nhưng rủi mà ngài còn nhớ thì sao? Mà thôi, đã lỡ xin gặp riêng, bây giờ rút lại cũng không được nữa. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp. Hy vọng ngài nhân hậu sẽ bỏ qua và tha thứ cho tôi.
Đang lúc miên man suy nghĩ thì cánh cửa mở, Đức Ông phụ trách dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở đưa tay bắt và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo Phận và bùi ngùi nhắc đến những bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, không trừ ai, như thể xứ sở tôi là chính quê hương của Ngài vậy.
Lúc ấy tôi đang khấp khởi, vì tưởng Đức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào. Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn Thánh Kinh và từ từ mở ra. Ngài để trước mặt tôi bức thư khốn nạn. Hồn phách lạc xiêu, tôi xấu hổ và sợ hãi quá đỗi, ước chi được độn thổ cho khuất. Có ngờ đâu mấy chục năm qua mà bức thư vẫn còn nguyên. Tôi đang lúng túng với muôn ngàn âu lo, thì Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng sợ, Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con, Cha cũng là con người, cũng có những yếu đuối, Cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày đọc vào đó mà hồi tâm kiểm điểm, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỗi có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Nghe xong, linh hồn tôi chu du phương xa lúc ấy mới trở về. Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, ôm hôn từ giã tôi. Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung vị Giáo Hoàng nhân hậu khiêm nhu đến thế”.
- CHÚA TUYỂN CHỌN NGƯỜI KHIÊM HẠ
Qua bài sách tiên tri Sophonia và bài thánh thư của Thánh Phaolô gởi Giáo Đoàn Corintho hôm nay, chúng ta nhận thấy cái diễm phúc của chúng ta được Chúa tuyển chọn làm con cái Chúa, làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, không phải vì chúng ta tốt lành xứng đáng, nhưng chính là vì chúng ta hèn mọn bất xứng. Theo giáo huấn Thánh Phaolô thì, không phải chúng ta là người khôn ngoan, quyền thế, sang trọng mà Chúa đã tuyển chọn; nhưng trái lại, chỉ vì chúng ta hèn hạ, đáng khinh chê trước mắt trần gian mà chúng ta đã được Chúa đoái thương; để không ai trong chúng ta có thể tự hào được, rồi Thánh Nhân đã kết luận: “Nếu ai muốn tự phụ, thì hãy tự phụ trong Chúa” (xem 1 Cor 1:26-31).
Tìm hiểu Tin Mừng là cuốn lịch sử tình yêu thương của Chúa, chúng ta thấy Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria, một thôn nữ khiêm hạ thành Nazareth để làm Mẹ sinh ra Con Một Chúa và thỉnh mời Mẹ cộng tác với Ngài trong sứ mạng Cứu Thế. Rồi thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng Cứu Thế của Chúa, Chúa đã chọn một nhóm ngư phủ vô danh tiểu tốt, chất phác quê mùa. Cũng nhờ nhóm dân thuyền chài quê mùa đó, mà Chúa đã thi thố biết bao việc lạ lùng trên trần gian: Một Giáo Hội vĩ đại lan rộng khắp thế giới, đến nỗi không một ai, kể cả những kẻ thù nghịch, những người chống đối, thù ghét bách hại cũng phải kính nể, phải đầu hàng, như chính lời Chúa đã tiên báo cho Thánh Phêrô: “Con là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, dù các quyền lực của hỏa ngục cũng không thể phá hủy được”.
Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng còn thấy, biết bao việc vĩ đại Chúa đã dùng các tôi trung con thảo khiêm nhu của Chúa thực hiện. Biết bao kẻ chống đối, phi bác, nhưng Giáo Hội vốn đứng vững. Biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ Chúa thực hiện qua những dụng cụ đơn sơ chất phác khiêm hạ, như Gioan Vianney Cha sở xứ Ars, Bernadetta thôn nữ chăn chiên, Labourée Chị Dòng khiêm tốn, ba trẻ Fatima đơn sơ bé mọn.
- CHÚA BAN ƠN CHO NGƯỜI KHIÊM HẠ
Quả thật, theo lời Thánh Pherô và Giacobê Tông Đồ: “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm hạ”, và theo lời Đức Mẹ trong kinh Ngợi Khen: “Chúa truất phế khỏi ngai vàng những người quyền thế; và tôn vinh những kẻ hèn mọn khiêm nhu”. Chính Chúa Kitô cũng đã trịnh trọng tuyên bố: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thánh Phaolô đã dám quả quyết minh bạch giáo huấn chân thật của Chúa Kitô: “Những điều mà thế gian cho là điên dại thì Chúa đã tuyển chọn, để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; những điều mà thế gian cho là hèn hạ, thì Thiên Chúa đã kén chọn để làm cho những người mạnh mẽ phải hổ ngươi; hầu cho không ai còn có thể huyênh hoang được” (xem 1 Cor. 1:26).
Do đó, theo lời tiên tri Sophonia khuyên nhủ chúng ta: “Hãy tìm Chúa, hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhu, nếu chúng ta muốn được đẹp lòng Thiên Chúa, được Chúa cứu độ và đạt tới Đích Thánh Thiện như Chúa mong muốn” (xem Soph 2:3;3:12-13).
Kết Luận
Các Thánh là những sinh viên ưu tú và thành tâm thiện chí đã tốt nghiệp nơi trường đại học của Thầy Chí Thánh, các ngài đã đạt tới bậc tối ưu trong môn học thần diệu Chúa dạy: “Các con hãy học theo gương Thầy, vì Thầy hiền dịu và khiêm nhu thật lòng” (Mt 11:29). Chính vì thế mà các Thánh tới Đích Thánh Thiện, đã làm vinh danh Chúa, đã chu toàn được sứ mạng chinh phục các linh hồn về với Chúa, đã nêu cho nhân loại những tấm gương đáng khâm phục và noi theo bắt chước.
Xin Chúa cho chúng ta được thấu hiểu giá trị đích thực bài học khiêm tốn của Chúa, được thấm nhuần tình thần cao cả này và can đảm đem ra thực hiện trong đời sống hằng ngày, để chúng ta cũng được Chúa hài lòng như Chúa đã hài lòng với Mẹ Maria và các Thánh.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhativthuongniena