CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA – Chú giải của Fiches Dominicales 13
NGƯỜI TÔI TRUNG CỦA THÊN CHÚA(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 18
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN – A.. 29
CHÚA GIÊSU LÀ AI?- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 29
CHIÊN THIÊN CHÚA– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 41
ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 49
LÀM CHỨNG ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG XÓA TỘI TRẦN GIAN – Lm. Đan Vinh HHTM 53
CHÚA LÀ CHIÊN THIÊN CHÚA – Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 69
GIỚI THIỆU- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 73
CHIÊN THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 77
CHIÊN THIÊN CHÚA- Lm. GB. Trần Văn Hào.. 83
TÔI TIN- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng.. 88
NGƯỜI LÀ ĐẤNG THIÊN CHÚA TUYỂN CHỌN- Lm. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh 97
MỘT HÀNH TRÌNH SỐNG ĐẠO- Lm. Pha0lô Lê Văn Nhơn.. 104
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta đặt ngươi như ánh sáng các dân tộc, để ngươi nên ơn cứu độ của Ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã phán cùng tôi: “Hỡi Israel, ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta được vinh danh nơi ngươi”.
Và bây giờ, Chúa phán, Người đã huấn luyện tôi khi tôi còn trong lòng mẹ, để tôi trở nên tôi tớ Người, để đem Giacóp về cho Người, và quy tụ Israel quanh Người. Tôi được ca tụng trước mắt Chúa và Thiên Chúa là sức mạnh của tôi. Người đã phán: “Làm tôi tớ Ta chẳng có là bao, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta đặt ngươi như ánh sáng các dân tộc để ơn cứu độ của Ta tràn lan khắp địa cầu”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 2 và 4ab. 7-8a. 8b-9. 10
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
Xướng: Con đã cậy trông, con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên con, và Ngài đã nghe tiếng con kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng con một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta.
Xướng: Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: “Này con xin đến”.
Xướng: Như trong quyển vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật Chúa ghi tận đáy lòng con.
Xướng: Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 1-3
“Nguyện cho anh em được ân sủng và bình an của Thiên Chúa, Cha chúng ta”.
Khởi đầu thư thứ I của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Phaolô, do thánh ý Chúa, được kêu gọi làm Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô, và Sôtênê, anh em chúng tôi, kính chào Hội Thánh Chúa ở Côrintô, những người được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang kêu cầu thánh danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe, Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 1, 29-34
“Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: “Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian. Này tôi đã nói về Ngài: Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi. Và tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ mình ra với Israel, nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước”. Và Gioan đã làm chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài. Nhưng Ðấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần”. Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
Ðó là lời Chúa.
CHIÊN THIÊN CHÚA (*)- Chú giải của Noel Quession
Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình…
Như ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng của Gioan mở đầu sứ vụ của Đức Giêsu bằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả trên bờ sông Giođan. Những, như những Thánh sử khác, và còn hơn thế, Gioan khởi đi từ sự kiện lịch sử này (xảy ra khoảng năm 27) để cho chúng ta một suy tư thần học (mà ngài có thời gian nghiền ngẫm đến chín muồi đến khoảng năm 95 lúc biên soạn).
Gioan không mô tả “phép rửa” của Đức Giêsu, ngài chỉ dùng một từ để gợi ra ý đó.” Gioan không nói rộng việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả kêu gọi hoán cải. Sau phần lời tựa (Ga 1,1-18) là một thứ thi ca về Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, Gioan “xây dựng” một thứ “tuần lễ đầu tiên” của Đức Giêsu, nhắc lại tuần lễ cao trọng đầu tiên của việc Sáng Thế: ngày đầu tiên (Ga 1,19): chứng từ tiêu cực của Gioan Tẩy Giả: tôi không Phải là Đấng Kitô… nhưng kìa người đến ở giữa các ông”. ngày thứ hai (Ga 1,29): chứng từ tích cực của Gioan Tẩy Giả đây là một đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay. Ngày thứ ba (Ga 1,35): theo sự chỉ dần của Gioan Tẩy Giả, bốn môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu. Ngày thứ tư (Ga 1,43): ơn gọi của Philípphê. Và của Na-tha-na-en. Ngày thứ bảy (Ga 2,1): “Ba ngày sau những cảnh diễn ra ở bờ ông Giođan gần với Gioan Tẩy Giả, có tiệc cưới ở Cana miền Galilê và Mẹ Đức Giêsu cũng ở đó, và Đức Giêsu cũng được mời các môn đệ” “Dấu chỉ” đầu tiên!
Trong suốt tuần lễ khai mạc này, và chắc chắn không phải bởi sự ngẫu nhiên, Gioan tích lũy những “tước hiệu” thần học mà những Tin Mừng khác tiết lộ tuần tự sau này.
Qua lởi tựa, Gioan đã tức khắc kéo chúng ta lên đỉnh cao. Đức Giêsu là “Ngôi Lời đã trở thành người phàm” (Ga 1,1-2-14) “Ánh sáng của thế gian” (Ga 1,4-9) “Con Một của Thiên Chúa Cha mà không một ai đã thấy bao giờ” (Ga 1,14-18) “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,29-36) “Đấng có trước” (Ga 1,15-30) “Con của Thiên Chúa có Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1, 32.33.34) “Thầy hay Rápbi” (Gioan 1,38-49) “Đấng Mêsia hay Kitô” (Ga 1,41) “Đức Giêsu Nagiarét con ông Giuse” (Ga 1,45) “Đấng mà Luật pháp vàcác Ngôn sứ đã nói” (Ga 1,45) “Con Thiên Chúa và Vua Israel” (Ga 1,49); và sau hết là Con Người (Ga 1,51). Bản văn rữc rỡ này, hoàn toàn đốt mọi giai đoạn mà các môn đệ phải từ từ khám phá ra căn tính của Đức Giêsu; nó báo cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể giữ mãi một cách đọc và lý giải nông cạn và có tính giai thoại.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con vượt qua những vẻ bề ngoài. Biết bao lần, chúng ta không biết nhìn những người sống với chúng ta, và khư khư với những sự đánh giá mặt ngoài.
Rất nhiều người vào thời Đức Giêsu. đã không hiểu Người là ai. Vậy chúng ta hãy lắng nghe những chứng từ của Gioan Tẩy Giả kèm theo một loại “phát xạ” bổ sung mà Gioan nhà thần học và là chứng nhân đã đưa vào bằng sự suy niệm lâu dài của ngài. Bởi vì lúc đó, Gioan Thánh sử cũng có mặt trên bờ sông Giođan ấy.
Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
“Đây là” không chỉ là môt tiếng bình thường, một từ dùng để chỉ. Từ gốc Do Thái ” in neh” hoặc “zeh” là một từ ngữ Kinh Thánh rất thường gặp để chỉ “một mặc khải”, bắt người ta phải tin: Chúng ta không trông mong gì, nhưng rồi đây là “Này (Đây là) trinh nữ sẽ thụ thai” (Is 7,14). “Đây là Môsê, chúng ta không biết điều đã xảy đến với ông” (Xh 32,1). “Đây là người sẽ nắm quyền trên dân Ta” (1 Sm 9,17).
“Chiên Thiên Chúa” “Đấng xóa bỏ tội trần gian”
“Chiên”! “Tội”! Hai tiếng ấy không đi vào trong những phạm trù trí tuệ của con người hiện đại hậu công nghiệp. Những từ mà chúng ta lặp lại và ca hát nhiều lần ở mỗi thánh lễ. Tuy nhiên, đó là những từ “phát xạ” nếu như chúng ta biết nhận ra sự tỏa sáng của chúng. Những từ dùng để tuyên xưng đức tin của các cộng đoàn đầu tiên.
Những từ chứa đựng cả một nền thần học cả một quan điểm về lịch sử và về con người. Những từ mà người ta không thể chỉ lấy ý nghĩa ngây thơ của chúng: sự hiền lành, yếu đuối và âu yếm của con chiên nhỏ. Những từ ấy chỉ có thể hiểu được trong sự sâu sắc của Kinh Thánh, bằng việc chấp nhận nền văn hóa mà những từ ấy chuyển chở. Chúng ta hãy thử để cho mình được “chiếu xạ” bởi sức chứa nóng bỏng của chúng, nhưng vẫn luôn ở trong hiện tại.
Đối với các thính giả Do Thái, sự ám chỉ về “chiên” xuất hiện rõ ràng ở đền thờ Giêrusalem, mỗi ngày, người ta hiến sinh một con chiên để thanh tẩy tội lỗi của dân. Với máu của một con chiên vượt qua bị cắt cổ vào mùa xuân khi sự sống hồi sinh sau mùa đông, người ta bôi máu đó lên cửa nhà; để nhớ lại kỷ niệm bồn chồn của ngày giải phóng khỏi sự áp bức của Ai Cập (Xh 12). Theo sau Giêrêmi, các ngôn sứ đã so sánh Israel bị lưu đầy với chiên con vô tội để người ta đem đi sát tế mà không mở miệng nói một lời nào (Is 53,7; Gr 11,19). Các giáo trưởng đã giới thiệu Đấng Mêsia sẽ đến như một con cừu đực vinh quang, với cặp sừng mạnh mẽ, sẽ quật ngã những kẻ thù của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta không còn có những chuồng chiên dịu dàng. Chúng ta bị chìm ngập trong tính thời sự khắp nơi. Bạo lực, đàn áp đủ loại. Mọi thời đại và thời đại của chúng ta cũng thế, niềm hy vọng giải phóng luôn chỗi dậy: NGÀY HÔM NAY. Khoa học tiến bộ kỹ thuật, những cuộc đấu tranh xã hội và chính trị được đẩy tới mức huyền thoại hóa những lãnh tụ đấu tranh thành những người cứu độ. Than ôi! Những cuộc cách mạng, khi đã hoàn thành thường chỉ là đổi chỗ những bất công và những sự chuyên chế áp bức. Và con người vẫn còn mãi đói khát một sự giải phóng, một sự cứu độ triệt để.
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Cơ cấu áp bức bên ngoài chỉ là sự biểu hiện một sức mạnh khác ở nội tâm: cái xấu, ác ở bên trong; trong tôi, trong bạn, trong họ. Tôi ở đây là danh từ dùng ở số ít, không phải là chuyện nhỏ mà phải hiểu là toàn thể! Đức Giêsu sẽ gánh lấy, và làm biến mất toàn thể tội lỗi của thế gian trong một cuộc chiến đấu đẫm máu, Người sẽ đổ hết máu mình làm vật hiến tế trước những tay đao phủ. Đức Giêsu, Cứu Chúa của chúng ta! Đấng cất bỏ tội lỗi. Ơ đây Thánh Gioan dùng một từ ngữ Hy Lạp có nghĩa kép mà thánh sử thích dùng cả hai: “airein”, vừa có nghĩa “gánh vác, lãnh nhận” vừa có nghĩa “cất đi, lấy đi làm biến mất” Đức Giêsu không phát triển công cuộc giải phóng bằng cuộc chiến đấu bên ngoài theo kiểu “đội đặc công” trả đũa áp bức bằng bạo lực; nhưng bằng cách lãnh nhận trên chính người, bằng cách chịu đựng trong sự liên đới với mọi người bị áp bức của thế giới.
Bạn hỡi! khi bạn hát đến những lời này trong thánh lễ, bạn hãy để cho những lời ấy làm bạn tỏa sáng, mà chớ dừng lại ở bề mặt các từ ngữ và cử chỉ. Đồng thời, nếu bạn làm một cử chỉ chúc bình an hãy nghĩ đến sự súc tích của cử chỉ ấy: Sự hòa giải chân thật, tình huynh đệ chân thật tình yêu thương chân thật với người đối diện. Mọi nỗ lực hiểu biết người khác không ở trong tầm tay của bạn, dù khi bạn luôn giơ tay mình ra. Đó là một ơn mà bạn phải nhận từ Thiên Chúa và mọi nỗ lực của bạn tuy cần thiết cũng không thể kiến tạo sự hiểu biết ấy. Bạn hãy mở bàn tay bạn ra. Bạn hãy nhận lấy Mình Chúa bi nộp vì bạn. Bạn hãy tiếp nhận Golgotha vào lòng bạn.
Chính Người là Đấng mà tôi đã nói tới khi bảo rằng: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người. Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel. tôi đến để làm phép rửa trong nước”.
Về mặt lịch sử và con người, Gioan Tẩy Giả đã được thụ thai và sinh ra trước Đức Giêsu. Nhưng phải vượt qua những vẻ bề ngoài, những sự hiển nhiên duy lý. Đức Giêsu đến từ nơi khác. Nếu Người có thể “cứu chúng ta một cách triệt để, bởi vì Người hơn một con người. Lấy lại sự suy niệm của lời tựa, Gioan nói lại với chúng ta sự có trước của Ngôi Lời. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành”, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời. Đức Giêsu thực hiện lại hành động Sáng Thế. Vũ trụ, bị tội lỗi làm hư hỏng, bị bao lực làm tổn thương, bị sự không có tình yêu làm cho nhiễm độc; sẽ được “tái tạo” toàn bộ, từ đầu đến cuối: Đó là “tuần lễ đầu tiên” của sự canh tân. “Tôi đã không biết Người” Gioan Tẩy Giả nói. Tuy nhiên đó là em họ của ông. Chúng ta không biết Đức Giêsu chừng nào chúng ta vẫn còn ở lại trên bình diện con người.
Ông Gioan còn làm chứng: tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuồng và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
Đàng sau vẻ bề ngoài tầm thường của con người Nagiarét, Cả một mầu nhiệm được che giấu. Người được xức dầu, thánh hiến, được thấm nhuần. Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên Người và ở lại trong Người! Sự hiện diện không ai biết. được che giấu. Tôi đã không biết Người. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng đón nhận” (Ga 1,5-10). Đôi khi chúng ta thường nghĩ rằng mình biết Đức Giêsu, thật ra chúng ta không bao giờ hết chấm phá ra Người. Chúng ta phải hoàn toàn nhỏ bé, nghèo khó, hoàn toàn mở ra cho sự mạc khải.
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.
Một vài thủ bản cho bản văn mà các nhà chú giải thấy đúng hơn và bản dịch tiếng Việt theo bản văn đó: “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” thay vì “Con Thiên Chúa”. Cách diễn tả này tương đương với “Người yêu dấu” “Con yêu dấu” “Con Một”; ám chỉ đến các bài thơ của Người Tôi Tớ mà chúng ta đọc hôm nay và Chúa nhật vừa qua trong bài đọc một (Is 42,1 – 49,5).
Bạn hỡi, vào lúc mà con yêu dấu bắt tay thực hiện một sự sáng thế mới, giải thoát mọi người khỏi tội lỗi đã bắt sự sáng thế đầu tiên phải hàng phục, lúc ấy bạn sẽ để cho mình được tái tạo. Phải chăng bạn sẽ chấp nhận Đức Kitô tái tạo bạn. Bạn sẽ chấp nhận phép rửa và sự nhúng chìm mình trong Chúa Thánh Thần, bạn sẽ để mình đổi mới từ bên trong; bạn sẽ để mình được nhân bản hóa đến cùng trong sự “tham dự vào bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Ngày nay, hai thanh niên gặp nhau đó là Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Một thế giới mới bắt đầu; một thế giới của tình yêu thương.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN – A
ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA – Chú giải của Fiches Dominicales
Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Trong một bối cảnh thù nghịch cuộc vận động của các thầy cả, thầy lêvi yêu cầu Gioan tự xác định vai trò trong cuộc chờ đợi Đấng Cứu Thế: “ông là ai”. Gioan Tẩy Giả đã trả lời trước hết bằng ba phủ định: ông không phải là Đấng Cứu Thế, không phải là Êlia, cũng không là một đại tiên tri. Rồi ông tuyên bố. “ở giữa anh”, “một người mà anh em không biết; chính Ngài đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giày cho người” (l,2-27).
Bây giờ, Gioan Phúc âm xác định là ngày hôm sau, đối diện với các môn đệ, sau khi nhóm người điều tra bỏ đi.
+ Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu “tiến về phía Ngài”. Không phải là để xin rửa tội như ta tự nhiên nghĩ tới vì phép rửa đã xảy ra, nhưng để làm ứng nghiệm lời sấm của Isaia 40,10 “Chúa đến”.
+ Cũng trong chiều hướng làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia 40,2 đã loan báo cho Israel biết rằng “tội lỗi họ đã được tha thứ”, Gioan tuyên bố: “Đây là hiểu ngầm một lời mời hãy nhận xem chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội tràn gian. Một nhận dạng mà ta sẽ gặp lại ở chương 1,36.
Sự đối chiếu với Chiên Thiên Chúa có thể có 3 nền tảng trong Cựu ước. Hoặc con chiên của Israel 53,7: “Như con chiên bị đưa đến lò bát tế, như cừu đến trước mặt kẻ xén lông… Trong trường hợp này, thánh sử Gioan đã thấy nơi Đức Giêsu khuôn mặt của Người Tôi Tớ đau khổ gánh lấy tội lỗi thế giới. Nhưng cũng nên biết rằng cùng một từ ngữ Aram ấy có thể có 3 nghĩa: “trẻ em”, “tôi tớ” hoặc “con chiên”. Hoặc con chiên bị sát tế và đứng trong sách Khải Huyền, có thể thắng vượt tội lỗi và sự chết, là Đức Kitô phục sinh (Kh 5,6; 14,10; l.7,14). Hoặc con chiên vượt qua. Thực vậy, theo Gioan 19,14, Đức Giêsu bị kết án vào giờ mà các thầy cả bắt đầu sát tế chiên để mừng lễ Vượt qua. A. Marchadour nhận định: “Một tước hiệu như thế có thể có 3 ý nghĩa. Một độc giả không am hiểu bối cảnh Kinh Thánh của từ ngữ sẽ ghi nhận rằng có 2 so sánh vay mượn. Ở thế gian động vât: con chiên Thiên Chúa và chim bồ câu từ trời xuống. Hai hình ảnh của sự bất bạo động này rất thích hợp với bản chất của Đức Giêsu và với công cuộc nối kết với thế giới của Thiên Chúa”. Và làm chứng: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Rồi, khi gợi lại phép rửa ở sông Giođan, Gioan Baotixita, người đã loan báo trước về Đấng Messia mà không biết (“Tôi không biết Ngài câu 31 và 33), đã làm chứng: “người đã thấy Ngài quả quyết 2 lần như vậy (câu 32 và 34): “Mọi người sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và ơn cứu độ Nơi Đức Giêsu, trên Ngài Gioan đã nhìn thấy “Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống từ trời và đậu lại”, Thiên Chúa đã mạc khải cho ông biết đó là Con Thiên Chúa…X lon Dufour nhận xét: “Sự chứng nhận này hiển nhiên phù hợp với lời tuyên bố của Thiên Chúa khi Đức Giêsu chịu phép rữa: Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người (Mt 3,17). Nhưng đây không phải là tiếng nói từ trời cao. Đó là tiếng nói của người phàm, Gioan Tiền hô đã nói.
Trong tước hiệu “Con Thiên Chúa” độc giả Kitô hữu tìm ra ý nghĩa vượt quá lời tuyên xưng về Đấng Messia, tước hiệu ấy nối kết với tước hiệu “Con duy nhất” đã được nhấn mạnh ở phần nhập đề. Đó chính là ý nghĩa mà bản văn này nhẩm tới, vì Phúc âm đã viết “để anh em tin rằng Đức Giêsu, Đấng Messia là con Thiên Chúa (20,31).
BÀI ĐỌC THÊM:
1/. Dấu chỉ đến từ Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, “Nous avons vu ta gloire”, DDB).
Nơi ngọn nguồn của việc tỏ mình ra của Đức Giêsu, chứng từ của Chúa Cha: “Đấng mà trên Người ngươi sẽ thấy. Thần Linh xuống và ở lại, chính người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần”. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu sau lời mạc khải của Chúa Cha. Đức Giêsu thường nhắc lại: “Ai nghe lời Cha và đón nhận thì đến với Ta” (6,45). Và chính Thánh Thần do Chúa Cha sai đến đã chỉ cho Gioan Tẩy Giả biết Đức Giêsu. Nhờ ông, ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu khi Thánh Thần Thiên Chúa đến mở mắt và chỉ cho ta thấy. Nếu không có Thánh Thần, không có lời chứng của các chứng nhân, ta sẽ không nhận biết Người. Người đâu phải là đối tượng của khoa học nhân văn mà ta có thể nhận dạng nhờ việc nghiên cứu và suy gẫm. Người là ngôi vị Con Thiên Chúa mà ta chỉ nhận biết được khi chính Thiên Chúa tỏ ra cho ta. Người là đối tượng của một chứng từ, không ai có thể nhận biết Người nếu họ không có trái tim rộng mở đón nhạn những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.
2/. Con đường của Con Chiên. (H. Denis, 100 mots pour dire la foi. DDB).
Hằng bao lần ta đã chẳng đọc và nghe: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian sao? Thư thánh Phêrô sử dụng một đề tài Kinh Thánh cổ xưa như chuyện phiêu lưu của Môsê bên Ai Cập, tôi muốn cùng các bạn đi lại con đường của Con Chiên Thiên Chúa, Người đi từ sự báo oán giải phóng đến sự bất bạo động hoà bình.
Con đường ấy khởi đi từ một lịch sử đẫm máu. Dân Thiên Chúa được cứu khỏi Ai Cập nhờ máu Con Chiên. Con Chiên sẽ trở nên biểu tượng của công cuộc giải phóng Israel. Vì, ta đừng quên điều này, cuộc gặp gỡ của Môsê ở bụi gai cháy đỏ không, phải là một câu chuyện thần bí phóng đại hoặc truyện trẻ em ham thấy Chúa Mẹ hiện ra. Không, Môsê đã giết ngọt một tên Ai-cập đáng ngờ và Thiên Chúa của ông, dù chưa rõ tên Ngài, đã hứa nghe thấy dân Ngài đang bị nô lệ kêu xin. Như thế Con Chiên thuộc về phía cánh tay báo oán của Thiên Chúa, cùng với tất cả sức mạnh của Người. Nhưng chẳng bao lâu, đặc biệt với các ngôn sứ (Is 53, Gr 11…) Con Chiên này sẽ trở nên kiểu mẫu của những ai chết cho dân Người, như con cừu câm rùn bị dẫn tới lò sát sinh…
Thiên Chúa rời bỏ ngai Đấng toàn Năng. Ta nói rằng Người đứng về phía Con Chiên chịu đau khổ. Như thể thời gian dần dần chín mùi để đón nhận một Đức Giêsu nào đó, được Gioan tuyên xưng là Đấng xoá tội trần gian, còn thư Phêrô thì nhận là Con Chiên không khiếm khuyết, không tì vết, giải thoát ta khỏi cuộc sống không mục đích như là chiên vất vưởng lầm lạc. Nhưng sự đảo ngược hình ảnh chưa hoàn toàn. Cuộc giải phóng bằng việc báo oán của Thiên Chúa chưa chuyển hoá thành lễ dâng của một vát hy sinh tự nguyện và tự hạ. Thật vậy, Con Chiên phải mặc lấy những màu sắc và những hình thức của Sự Sống thực sự và của Vương triều thiên quốc. Đó chính là Con Chiên của sách Khải Huyền, hiện diện trong biết bao trang sách khi thời gian viên mãn. Điều đó nhắc tôi nhớ tới một bức bích hoạ rất đẹp và rất cổ xưa ở vùng ngoại ô Lyon, trong đó ta thấy Đức Kitô vinh hiển dưới hình Con Chiên mặt người. Đó là cuộc khải hoàn của niềm bình an, sức mạnh của sự bất bao động của Thiên Chúa. Vâng, chỉ Con Chiên mới có thể ban sự Bình An của lễ Phục Sinh, niềm bình an được hứa ban cho thế giới đã được giải phóng. Xin ban bình an cho chúng con.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
NGƯỜI TÔI TRUNG CỦA THÊN CHÚA(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay đều xoay quanh một chủ đề: Người Tôi Trung của Thiên Chúa có sứ mạng cứu độ muôn người.
Is 49: 3, 5-6
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo rằng Người Tôi Trung mà Thiên Chúa ủy thác sứ mạng không chỉ dẫn đưa dân Ngài trở về với Ngài, nhưng còn là ánh sáng cho muôn dân.
1Cr 1: 1-3
Thánh Phao-lô tự giới thiệu mình với các tín hữu Cô-rin-tô rằng Thiên Chúa đã gọi thánh nhân làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô.
Ga 1: 29-34
Sau cùng, Gioan Tẩy Giả là người tôi tớ tự xóa mình trước Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị và làm chứng cho Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 49: 3, 5-6)
Trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), có bốn bài thơ về “Người Tôi Trung”. Chân dung “Người Tôi Trung” được phác họa trong bốn bài thơ xem ra liên quan đến lúc thì toàn thể dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật biệt phân lãnh nhận một sứ mạng đặc thù. Vào Chúa Nhật II Thường Niên này, chúng ta sẽ đọc bài thơ thứ hai trong bốn bài thơ này. Khía cạnh tập thể và khía cạnh cá nhân đan quyện vào nhau rất rõ nét ở nơi bài thơ thứ hai này.
Trước hết, điểm nhấn được đặt trên khía cạnh tập thể, vì trong bài thơ này cốt là ơn gọi của dân Ít-ra-en: là vinh quang của Đức Chúa, quy tụ cho Thiên Chúa một dân tín trung, và là ánh sáng muôn dân.
1.Vinh quang của Đức Chúa:
Như ở bài ca thứ nhất, hoàn cảnh lịch sử của bài thơ thứ hai là cảnh giam cầm ở Ba-by-lon. Dân Ít-ra-en mà vị ngôn sứ ngỏ lời, qua giọng nói của Người Tôi Trung mầu nhiệm, là cộng đoàn của những người lưu đày, cộng đoàn trong cơn thử thách, bị thương tổn và ê chề nhục nhã. Nhưng Thiên Chúa sẽ can thiệp (tất cả mạch văn của chương này đều theo chiều hướng này); Ngài sẽ giải thoát dân Ngài. Các quốc gia ngoại giáo nghĩ rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en không còn nhớ đến dân Ngài, nhưng rồi họ sẽ thấy rằng bằng quyền năng, Thiên Chúa này sẽ tiêu diệt những kẻ áp bức. Dân Ít-ra-en sẽ là vinh quang của Ngài.
2. “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng”:
Sau một thời gian dài Thiên Chúa thinh lặng, nay Thiên Chúa lại lên tiếng; Thiên Chúa quan tâm đến dân Ngài, dân mà Ngài để ý đến ngay từ khi còn trong trứng nước:
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ
lúc tôi chào đời, Người đã nhắc tên tôi” (49: 1)
Diễn ngữ “từ khi tôi còn trong lòng mẹ” trở thành kinh điển để nhấn mạnh tính tiền định của ơn gọi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là vị ngôn sứ đầu tiên đã sử dụng diễn ngữ này (Gr 1: 5) và thánh Phao-lô lấy lại diễn ngữ này mà áp dụng vào ơn gọi của mình: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1: 15-16). Chính ở đây vấn đề được đặt ra: phải chăng Người Tôi Trung biểu thị cộng đoàn của những người lưu đày hay một nhân vật được tác riêng ra để trở thành vị lãnh đạo hay người hướng dẫn của dân?
3.Sứ mạng kép của Người Tôi Trung:
Dù Người Tôi Trung này là cộng đoàn của những người lưu đày – quả thật, trong lịch sử cứu độ, cộng đoàn này đóng vai trò của “một nhóm nhỏ còn sót lại” – hay đây là một nhân vật biệt phân đi nữa, thì sứ mạng hàng đầu của Người Tôi Trung này là:
“Đem nhà Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người” (49: 5)
Chắc chắn phải hiểu “đem về” theo nghĩa kép, vừa địa lý vừa luân lý: đem những người lưu đày về quê cha đất tổ của họ và đem một dân bất trung và bị trừng phạt về với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn làm cho dân này thành hạt nhân vững chắc, qua đó Ngài sẽ tái lập dân tộc thánh.
4. “Quy tụ dân Ít-ra-en”:
Một trong những bận lòng lớn lao của những người lưu đày, đó là quy tụ tất cả các chi tộc bị tản mắc khắp nơi. Vai trò của Người Tôi Trung sẽ là tái lập sự hiệp nhất. Đây là sứ mạng tràn đầy niềm tin tưởng, công việc đầy phấn khởi. Người Tôi Trung thẩm định vinh dự được dành cho mình: “Thế nên tôi được Thiên Chúa trân trọng”. Nhưng công việc này thật khó khăn, phải nương tựa vào ơn trên: “Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”.
5.Ánh sáng muôn dân:
Đức Chúa cho rằng công việc tái lập dân Ngài này là chưa đủ:
“Người phán: ‘Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (49: 6).
Bài thơ này nối kết và làm sáng tỏ bài thơ thứ nhất qua diễn ngữ: “ánh sáng muôn dân”. Rõ ràng sứ mạng của dân Ít-ra-en – hay ở đây có thể sứ mạng của “nhóm nhỏ còn sót lại”, tức là những người lưu đày được cứu thoát – chính là làm cho ánh sáng cứu độ được bừng sáng, đó không gì khác hơn chính là công việc của Đức Chúa.
Thánh Phao-lô đã cảm thấy một cách sống động những điểm tương đồng của ơn gọi Người Tôi Trung, được tuyển chọn cách đặc biệt để là “ánh sáng muôn dân”, với ơn gọi của chính mình. Thánh nhân áp dụng vào chính mình những lời của vị ngôn sứ, với cung giọng thống thiết, trong hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a khi mạnh dạn nói với những người Do thái cứng lòng tin rằng, từ nay, thánh nhân quay về phía dân ngoại, vì họ mở rộng lòng mình đón tiếp lời Chúa hơn (Cv 13: 46-47).
6.Khía cạnh Mê-si-a:
Trong viễn cảnh xa, ẩn hiện dung mạo Người Tôi Trung thập toàn, tức Chúa Ki-tô, ở nơi Ngài Chúa Cha sẽ được tôn vinh. Chính Ngài sẽ quy tụ dân Do thái và lương dân thành một dân duy nhất, Ngài sẽ là “ánh sáng thế gian” và nguồn ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đó cũng là những ngôn từ của bài ca “An Bình Ra Đi” của cụ già Si-mê-on:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
và vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2: 29-32).
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 1-3)
Thánh Phao-lô đã thiết lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Đây là thành phố thương mại, có một vị thế địa lý đặc biệt với hai hải cảng. Thành phố này đang trên đà phát triển, với những tương phản xã hội: những nhà tài chính và thương mại giàu có bên cạnh những phu khuân vác và nô lệ. Thủ phủ xa hoa tráng lệ với đền thờ tôn kính nữ thần Aphrodite được hàng ngàn nữ tư tế phụng thờ, tức là những cô điếm thánh. Sau cùng, với tư cách là cái nôi văn hóa, thành phố Cô-rin-tô được mệnh danh là nơi có nhiều trường phái triết học trăm hoa đua nở.
1.Một cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi:
Thánh Phao-lô đã trải qua mười tám tháng ở Cô-rin-tô và đã để lại ờ đây một Giáo Đoàn sống động. Nhưng ngay sau khi thánh nhân ra đi, Giáo Đoàn đã gặp phải biết bao những khó khăn nghiêm trọng khiến thánh nhân phải bận lòng: buông thả luân lý, bất đồng nội bộ, ngờ vực đạo lý, lạm dụng phụng vụ. Thánh nhân viết thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô để can thiệp, nhưng thư này bị thất lạc không được lưu truyền đến chúng ta.
Cuộc khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, thánh nhân sai cộng tác viên của mình viếng thăm cộng đoàn này. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem theo một loạt câu hỏi mà thánh Phao-lô trả lời trong thư được gọi là “thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô” này, nhưng thực ra đây là thư thứ hai. Quả thật, thánh Phao-lô đã viết bốn bức thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong số đó, bức thư thứ nhất và bức thư thứ ba bị thất lạc. Bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất, thực ra là thư thứ hai; và bức thư mà chúng ta gọi thư thứ hai, thực ra là thư thứ tư.
Thánh nhân viết thư thứ nhất này từ Ê-phê-xô vào mùa xuân năm 55.Những chia rẻ xé nát cộng đoàn non trẻ này và sẽ là đối tượng phần thứ nhất của bức thư này. Đây là những lời khuyên bảo phải nên “một lòng một ý” với nhau mà chúng ta khởi sự đọc vào Chúa Nhật hôm nay và tiếp tục đọc vào những Chúa Nhật kế tiếp.
2.Khủng hoảng nghiêm trọng:
Chúng ta không thể đọc thư này mà không xúc động, và đồng thời thán phục những lập luận thần học của thánh Phao-lô hay phương pháp huấn giáo của thánh nhân. Đối với thánh nhân, cuộc khủng hoảng xảy ra ở Giáo Đoàn Cô-rin-tô là một sự thử thách nghiêm trọng, vì thánh nhân không chỉ thấy công trình của mình bị đe dọa, nhưng ngài còn phải chịu những lời lăng mạ liên quan đến cá nhân mình. Thánh nhân quyết định viết một bức thư nghiêm khắc “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em” (2Cr 2: 4).
Tấn thảm kịch này giúp cho chúng ta nhận ra biết bao khó khăn trong việc cấy Ki-tô giáo vào môi trường ngoại giáo, môi trường này vốn đã được đào luyện bởi một nền văn hóa hoàn toàn khác với Do thái giáo và Giáo Hội vào lúc đó chỉ vừa mới hình thành nên chưa có đủ những quy định chặc chẻ.
3.Lời mào đầu:
Đoạn trích thư hôm nay là lời mào đầu, phù hợp với tập quán thư tín của thời ấy, bao gồm: tên và phẩm chất của người gởi, cũng như tên và phẩm chất của người nhận.
Ngay từ đầu thư, thánh Phao-lô giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô tự ý kể ra rằng thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình trực tiếp từ Thiên Chúa: thánh nhân là Tông Đồ với cùng tước hiệu như nhóm Mười Hai. Tiếp liền sau đó, thánh Phao-lô nêu tên “ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi”: “người anh em” là danh xưng mà những người Ki-tô hữu xưng hô với nhau.
Người nhận là những Ki-tô hữu, họ hình thành nên “Hội Thánh của Thiên Chúa” ở Cô-rin-tô (đây là diễn ngữ ưa chuộng của thánh Phao-lô). Họ cũng đã được kêu gọi làm “dân thánh”, nhưng ngay tức khắc, thánh nhân mời gọi họ hãy khiêm tốn khi đặt mình trên cùng một bình diện với anh chị em của họ trong đức tin: thánh nhân cho họ thấy rằng phẩm chất đích thật của các Ki-tô hữu là hiệp nhất với nhau, vì thế mọi sự chia rẻ đều biểu lộ tình trạng kém phẩm chất của Ki-tô giáo.
Trong lời nguyện chúc sau cùng: “Xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”, thánh Phao-lô hiệp nhất lời chào Hy lạp “ân sủng” và lời chào Do thái “bình an”, ngầm ủy thác cho họ những nguồn phong phú mới trong Đức Giê-su Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 1: 29-34)
Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật II Thường Niên Năm A này được trích dẫn từ Tin Mừng Gioan chứ không Tin Mừng Mát-thêu như theo lẽ thường của Phụng Vụ năm A. Một cách nào đó, đoạn Tin Mừng này tiếp nối với đoạn Tin Mừng của ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rữa. Tuy nhiên, đây không là đọc lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng là lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, tất cả phần mở đầu của Tin Mừng Gioan được xoay chung quanh vai trò quan trọng của Gioan Tẩy Giả với tư cách nhân chứng.
Tựa Ngôn bị gián đoạn hai lần để đưa nhân vật Gioan Tẩy Giả vào nhằm nhấn mạnh vai trò chứng nhân của thánh nhân: lần thứ nhất, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su là ánh sáng (1: 6-8); và lần thứ hai, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su cao trọng hơn ông (1: 15). Đoạn Tin Mừng hôm nay lập lại cùng những ngôn từ với lời chứng của Gioan Tẩy Giả về sự cao trọng của Chúa Giê-su. Đây là điểm nhấn của Tin Mừng Gioan.
Tình tiết xảy ra vào những ngày Chúa Giê-su, sau khi trở về từ hoang địa, sắp bắt tay vào sứ mạng công khai của Ngài. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra sự cao trọng của Đấng mà ông đã làm phép rửa; vì thế, thánh nhân lên tiếng làm chứng cho Ngài:
-Thánh nhân đồng hóa Đức Giê-su với Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian,
-Thánh nhân khẳng định cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su và tính ưu việt của Ngài,
-Thánh nhân chứng thực điều mà thánh nhân đã thấy và đã nghe: Đức Giê-su, được Chúa Thánh Thần tấn phong, đích thật là Con Thiên Chúa.
1.Chiên Thiên Chúa:
Lời chứng thứ nhất của Gioan Tẩy Giả về Đức Giê-su:“Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Đây là tước hiệu mầu nhiệm, nhưng được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, chắc chắn đây là tước hiệu Mê-si-a. Đối với những người Ki-tô hữu mà Tin Mừng Gioan ngỏ lời, tước hiệu này gợi lên việc Chúa Ki-tô bị sát tế, Ngài sẽ nhận án tử thập giá vào giờ mà các con chiên lễ Vượt Qua bị sát tế. Một quan điểm như thế không thể nào là quan điểm của vị Tiền Hô được.
Quả thật, Cựu Ước đã mô tả Người Tôi Trung “bị ngược đãi, cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Đối với Gioan Tẩy Giả, xem ra còn hơn thế nữa, chiên là hình ảnh của sự vô tội và tinh tuyền. Đấng mà vị Tiền Hô đã không muốn làm phép rửa vì ông nhận ra Ngài là một con người vô tội, chính Đức Giê-su này hiện có mặt ở đó và đang tiến về phía mình: Ngài như con chiên không tì vết mà Lề Luật truyền lệnh dâng hiến thành hy lễ.
Mặt khác, văn chương khải huyền, vẫn còn nở rộ vào thời Chúa Giê-su, hình dung Đấng Mê-si-a đến dưới hình dạng của một con chiên yếu ớt, nhưng Thiên Chúa ban cho Ngài sức mạnh và quyền năng, và làm cho Ngài thành một con chiên khải hoàn. Chính xác, tác giả Tin Mừng Gioan sẽ lấy lại trong sách Khải Huyền của mình hình ảnh Con Chiên khải hoàn mà thánh nhân sẽ đồng hóa với hình ảnh Con Chiên bị sát tế.
Đây là kiểu nói độc nhất trong toàn bộ Tân Ước và được lập lại mỗi lần cử hành Thánh Thể: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến tham dự bàn tiệc Thiên Chúa”. Tin Mừng Gioan nói về tội lỗi ở số ít. Khi đặt tội lỗi ở số ít, thánh sử hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh tội lỗi của người Do thái và tội lỗi của lương dân, vì diễn ngữ “trần gian” chỉ tất cả nhân loại.
2.Cuộc sống tiền hữu và tính ưu việt của Chúa Giê-su:
Lời chứng thứ hai của thánh Gioan Tẩy Giả: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi”, đã được đưa vào trong Tựa Ngôn rồi, được lập lại ở đây vừa khẳng định cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su vừa tính ưu việt của Ngài.
Quả thật, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm đưa gia phả của Chúa Ki-tô lên đến tổ phụ Áp-ra-ham (Tin Mừng Mát-thêu) hoặc lên đến nguyên tổ A-đam (Tin Mừng Lu-ca), thì Tin Mừng Gioan lại đưa gia phả của Đức Giê-su lên cho đến lúc khởi đầu tuyệt đối:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (1: 1).
Như vậy, ở nơi lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả, cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su được nêu bật rất rõ nét bởi một sự đối lập rất mạnh giữa “có người đến sau tôi” ở phần đầu và “có trước tôi” ở phần sau cùng: về phương diện con người, Đức Giê-su chào đời sau Gioan Tẩy Giả, nhưng về phương diện Thiên Chúa, Ngài có trước Gioan Tẩy Giả.
3.Con Thiên Chúa:
Lời chứng thứ ba của Gioan Tẩy Giả nhắm đến tước vị làm Con Thiên Chúa của Đức Giê-su được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa. Trong khi ba Tin Mừng Nhất Lãm gán lời khẳng định này cho tiếng phán từ trời, thì Tin Mừng Gioan đặt tiếng phán này trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả. Chính thánh nhân là người công bố: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Con Thiên Chúa”.
Đồng thời thánh Gioan Tẩy Giả xác định sứ mạng tiền hô của mình: sứ mạng của thánh nhân chính là bày tỏ Đức Giê-su cho dân Ít-ra-en. Tự bản thân mình, thánh nhân đã không biết chân tính của Đức Giê-su: “Tôi đã không biết Người” (động từ “biết” có một nghĩa rất sâu xa trong Tin Mừng Gioan); nhưng nhờ cuộc Thần Hiển vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa mà thánh nhân xác nhận tính siêu việt của Đấng mà thánh nhân loan báo. Hơn nữa, Thánh Thần đã báo trước cho thánh nhân rồi.
Mặt khác, Tin Mừng Gioan là Tin Mừng duy nhất nhấn mạnh Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần tấn phong khi nói rằng Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su. Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Chúa Giê-su, chiếm đoạt lấy Ngài. Quả thật, Chúa Giê-su, sinh hạ bởi quyền năng của Thánh Thần, được Thánh Thần hằng ở cùng ngay từ khi thụ thai.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su ở đây loan báo ngày lễ Ngũ Tuần: các Tông Đồ cũng được Chúa Thánh Thần tấn phong trước khi các ngài bắt tay vào việc loan báo Tin Mừng. Cũng vậy, người Ki-tô hữu vào lúc chịu phép Rửa lãnh nhận sức sống của Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong họ.
4.Khía cạnh lịch sử:
Cuối cùng, chúng ta không thể loại trừ rằng Tin Mừng Gioan đã có một hậu ý biện giáo, hay đúng hơn truyền giáo, khi nhấn rất mạnh tính trổi vượt của Chúa Giê-su trên Gioan Tẩy Giả. Quả thật, một thời gian dài sau khi vị Tiền Hô qua đời, vẫn còn có những cộng đoàn xem thánh nhân là Đấng Mê-si-a và họ tiếp tục thực hành phép rửa sám hối. Sách Công Vụ nói cho chúng ta biết có một nhóm như thế ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7). Vì thế, Tin Mừng Gioan muốn xóa tan mọi ngộ nhận như vậy bằng cách khẳng định rằng Gioan Tẩy Giả không phải là Đấng Mê-si-a.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA GIÊSU LÀ AI?- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Từ hôm nay bắt đầu mùa thường niên: Phụng vụ muốn dẫn chúng ta từng bước đồng hành với Chúa Giêsu. Việc đầu tiên là phải biết Ðấng mà mình đồng hành là ai.
Xin Chúa cho chúng ta biết Ngài, yêu mến Ngài và gắn bó đi theo Ngài trọn cuộc hành trình dương thế của chúng ta.
- GỢI Ý SÁM HỐI
- Tuy là môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng chúng ta chưa cố gắng tìm hiểu để biết rõ Ngài.
- Chúng ta chưa “yêu mến Chúa trên hết mọi sự.”
- Chúng ta thường đi theo đường lối của riêng mình chứ không đồng hành với Chúa trên con đường của Chúa.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc 1: Is 49,3.5-6
Ngôn sứ Isaia hình dung Ðấng Messia là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Ðoạn trích này thuộc bài thứ hai trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ:
- Người Tôi Tớ của Thiên Chúa được giao sứ mạng “quy tụ dân Israel trước mắt Thiên Chúa”.
- Người Tôi Tớ của Thiên Chúa còn là “ánh sáng của các dân tộc”, làm cho “ơn cứu độ của Thiên Chúa tràn lan khắp địa cầu”.
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Chúa Giêsu.
- Ðáp ca: Tv 39
Tv này bày tỏ tâm tình của người tín hữu đối với Thiên Chúa: cậy trông nơi Thiên Chúa, hân hoan hát mừng ca tụng Ngài, và nhất là luôn thực thi thánh ý của Ngài.
Không ai ngoài Chúa Giêsu có những tâm tình hoàn hảo ấy.
- Tin Mừng: Ga 1,29-34
Theo bố cục của Tin Mừng thứ tư, đây là lần đầu tiên Ðức Giêsu xuất hiện trước dân chúng. Vì dân chúng chưa biết Ðức Giêsu, nên Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài, bằng hai kiểu nói:
- Ðức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa“: Trong lễ nghi Ðền tội của Do Thái Giáo, tội nhân đem một con chiên lên Ðền thờ, úp tay mình xuống con chiên tỏ ý trút hết tội mình lên nó; tiếp theo, tư tế sẽ giết con chiên. Nó chịu chết để đền tội thay cho tội nhân. Bao nhiêu tội lỗi của tội nhân đều được tẩy xóa. Ngay từ buổi đầu gặp Chúa Giêsu, Gioan Tẩy giả đã biết Ngài sẽ chịu chết để chuộc tội cho nhân loại, nên ông giới thiệu “Ðây là Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian”.
- Ðức Giêsu là “Con Thiên Chúa“: Nhờ ơn soi sáng đặc biệt của Chúa Thánh Thần trong biến cố làm phép rửa cho Ðức Giêsu, Gioan Tẩy giả còn được biết Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Thực ra, trong lịch sử, các vua Israel cũng xưng mình là con của Thiên Chúa. Nhưng đó chỉ là một cách nói, ngụ ý họ được Thiên Chúa nhận làm con nuôi, nghĩa tử. Riêng đối với Ðức Giêsu, Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài là con ruột của Thiên Chúa và cũng chính vì thế cho nên Ðức Giêsu sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
- Bài đọc 2 (chủ đề phụ): 1 Cr 1,1-3
* Từ Chúa nhựt II đến Chúa nhựt VIII, bài đọc II đều trích từ thư 1 Côrintô.
Côrintô là một thành phố cảng với những nét đặc trưng là: dân cư hỗn tạp (nhiều sắc dân khắp nơi đến làm ăn), đời sống kinh tế và trí thức tương đối khá, nhưng không đoàn kết, xã hội có nhiều tệ đoan. Chính dân Côrintô đã đuổi Phaolô ra khỏi thành phố này.
Khi ở Êphêxô, Phaolô nghe nhiều tin tức không tốt về giáo đoàn này, nên ông viết bức thư này cho họ nhằm củng cố một số điểm giáo lý và sửa sai một số tệ nạn.
Ðoạn này chỉ là những lời chào đầu thư Thánh Phaolô gởi đến các tín hữu Côrintô. Tuy vậy nó cũng xác định rõ tư cách của người viết thư và những người nhận thư:
- Người viết thư (Phaolô) là kẻ được Thiên Chúa kêu gọi làm tông đồ của Ðức Giêsu Kitô.
- Những người nhận thư (tín hữu Côrintô) là những kẻ được kêu gọi nên thánh và được thánh hóa trong Chúa Giêsu Kitô.
- GỢI Ý GIẢNG
- Ðộc hành hay đồng hành
Khi phải làm một chuyến hành trình dài, người ta cần có bạn đồng hành, để có bạn đường mà chia vui xẻ buồn, nói chuyện với nhau, và giúp đỡ nhau. Hai môn đệ hành trình Emmau nhờ đi chung với nhau nên đã san sẻ cho nhau nỗi buồn nặng trĩu sau những biến cố đau thương xảy ra tại Giêrusalem. Họ lại có được một bạn đồng hành nữa là Ðức Giêsu Phục Sinh. Chính Người Bạn đồng hành này đã xóa tan mọi sầu lo của họ và làm cho niềm tin của họ sống lại.
Ðời người trên dương thế là một cuộc hành trình dài thăm thẳm, không biết bao giờ mới xong, cũng không chắc sẽ đi đến đích hay không. Vậy mà có nhiều người cứ mãi độc hành: một mình tìm đường, một mình đi, một mình xoay trở trước những khó khăn… Thật là phiêu lưu!
Mùa thường niên của năm Phụng vụ cũng là một cuộc hành trình, nhưng không phải độc hành, mà là đồng hành với Chúa Giêsu: chúng ta cùng với Ngài đi qua những chặng đường từ Nadarét đến Galilê để tới Giêrusalem; từ gian khổ đến vinh quang; từ chết đến sống lại. Có Ngài cùng đi với chúng ta, chúng ta không sợ lạc đường. Cùng đi với Ngài, cho dù nhiều lúc gặp khó khăn, chắc chắn chúng ta sẽ tới đích. Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta nghĩa là Ngài sẽ vui khi chúng ta vui, Ngài sẽ buồn khi chúng ta buồn; chúng ta đồng hành với Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta sẽ được vui niềm vui của Ngài và buồn với nỗi buồn của Ngài. Ðời ta không cô độc, buồn tẻ…
Tuy chỉ là “mùa thường niên” không có những lễ trọng, nhưng nếu chúng ta sống mùa này như một người đồng hành với Chúa, cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ rất có ý nghĩa.
- Người Con và Người Tôi Tớ
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu với hai nét tương phản nhau: Ngài là Người Con yêu quý của Thiên Chúa cao sang, và Ngài là Người Tôi Tớ khiêm tốn thấp hèn.
Thực ra hai nét trên không đối chọi nhau mà làm nổi bật nhau và soi sáng cho nhau: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cao sang do cách Ngài sống như một Người Tôi Tớ; và Ngài là Người Tôi Tớ tuyệt hảo bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa cao sang.
Nhìn Chúa Giêsu, chúng ta rút ra được một triết lý sống: sống cao thượng trong hoàn cảnh tầm thường; và sống hoàn cảnh tầm thường với tâm hồn cao thượng.
Cùng sống với Chúa Giêsu qua những biến cố mỗi tuần trong Mùa thường niên này, chúng ta có thể thực hiện được triết lý sống tuyệt vời ấy.
- Con Chiên gánh tội trần gian
Thời Cựu Ước, trong ngày lễ Ðền tội, người Do Thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư Tế đọc một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó Tư Tế đặt tay trên đầu con chiên, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi đuổi nó vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Khi Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Ðức Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, Ðấng gánh tội trần gian”, phải chăng Thánh Gioan cũng có ý rằng Ðức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi chúng ta nên từ nay loài người không còn tội gì nữa? Ðơn giản và dễ dàng thế sao?
Quả thực Ðức Giêsu đã gánh lấy tội trần gian. Việc này có nghĩa là nhờ Ngài mà tội lỗi chúng ta được tha thứ. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không phải làm gì cả.
Cần phân biệt rõ giữa tội và thân phận tội lỗi. Ðức Giêsu gánh lấy và tha thứ tội lỗi chúng ta, như con chiên đã mang tội lỗi dân Do Thái vào sa mạc. Nhưng thân phận tội lỗi của chúng ta vẫn còn. Và Ðức Giêsu muốn giúp chúng ta cải thiện thân phận ấy, dĩ nhiên là với sự hợp tác của chúng ta.
– Ngài giúp chúng ta thế nào? Bằng cách đến với chúng ta, sống gần chúng ta, gieo vào mảnh đất tâm hồn chúng ta hạt giống sự tốt lành và thánh thiện của Ngài.
– Chúng ta hợp tác thế nào? Bằng cách tiếp nhận Ngài, sống với Ngài và để cho những hạt giống ấy lớn lên trong lòng mình.
Sự tha thứ của Chúa và bí tích giải tội không phải là một thứ phù phép, mà là một trợ lực, một hạt giống.
- “Ngài cao trọng hơn tôi”
Ngày xưa một vì vua bảo một ông quan: “Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người tốt”. Ông quan này tính tình hung dữ, gian dối và không có bạn. Sau một thời gian đi tìm, ông trở về triều, tâu: “Thần đã đi khắp nơi, gặp hết mọi người. Nhưng chẳng tìm được người nào tốt cả. Ai cũng hung dữ, gian dối và không có bạn”.
Nhà vua sai một quan khác: “Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người xấu”. Ông này có lòng nhân từ, quảng đại và được mọi người thương mến. Sau một thời gian đi tìm, ông cũng trở về triều và tâu: “Hạ thần không thể chu toàn sứ mạng mà Bệ Hạ giao phó. Hạ thần đã gặp nhiều người gian lận, trộm cắp, tham lam… Nhưng chẳng có người nào thực sự xấu cả. Dù họ đã làm những điều ấy, nhưng trong thâm tâm ai cũng tốt”
Câu chuyện trên muốn nói rằng ta có khuynh hướng nhìn người khác không theo lòng họ mà theo lòng ta.
Thánh Gioan Tẩy giả thì không thế. Nếu như mọi người thì Gioan sẽ coi thường Ðức Giêsu, bởi Ngài đến sau ông; chẳng những thế ông còn coi Ngài là đối thủ của ông, bởi Ngài đang lấn dần ảnh hưởng của ông. Nhưng Gioan đã nghe theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần nên đã hiểu đúng về Ðức Giêsu và đã nhiệt tình giới thiệu Ngài cho mọi người: “Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi vì Ngài cao trọng hơn tôi”.
- Ðược kêu gọi nên thánh
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô định nghĩa tín hữu là “những người được kêu gọi nên thánh”.
Nhưng “thánh” là gì? Theo thần học, chỉ có một mình Thiên Chúa là “thánh” (Kinh Sáng Danh: “Chỉ có Chúa là Ðấng Thánh”). Theo Thánh Kinh, những ai và những gì thuộc về Thiên Chúa cũng được gọi là “thánh”, chẳng hạn Ðền thánh, Luật thánh, thánh nhân…; việc dâng hiến một người hoặc một vật cho Chúa được gọi là thánh hiến.
Vậy tín hữu là những người được kêu gọi nên thánh có nghĩa là tín hữu được mời gọi ngày càng thuộc về Chúa hơn, ngày càng giống Chúa hơn.
Nhưng làm thế nào để được như vậy? Cách tốt nhất là thường xuyên ở bên Chúa, nhìn vào Chúa và noi gương Chúa. Ðó là điều mà phụng vụ các ngày chúa nhựt quanh năm muốn giúp chúng ta.
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người là Ðức Giêsu Kitô nhập thế làm người, chịu chết trên Thập giá để xóa tội lỗi trần gian. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
- Chúa đã đặt Hội Thánh làm dấu chỉ ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh luôn trung thành với sứ mạng của mình.
- Cánh đồng truyền giáo này nay thật bát ngát bao la / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phấn dân Chúa / ý thức được trách nhiệm rao giảng Tin Mừng của mình / và dùng chính đời sống theo Tám mối phúc thật / để giới thiệu Chúa cho những ai chưa nhận biết Người.
- Sống an bình và hạnh phúc / là ước mơ tha thiết của mỗi người đang hiện diện trên trái đất này / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới hôm nay được hòa bình và thịnh vượng / để điều mà môi người chân thành ước mơ / có thể sớm trở thành hiện thực.
- Như Thánh Gioan tẩy giả / mỗi kitô hữu đều có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta hiểu rằng / giới thiệu Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ hết lòng / là cách tốt nhất để giúp người khác nhận biết Chúa.
CT: Lạy Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã thương ban cho chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con chỉ tin tưởng cậy trông và phó thác cuộc đời chúng con trong bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa mà thôi. Chúng con cầu xin…
- TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu là Con duy nhất của Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã thương chia sẻ quyền làm con ấy cho chúng ta nữa. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
– Trước Rước lễ: Ðức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Ngày xưa Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Ðức Giêsu thế nào, thì hôm nay Giáo Hội cũng giới thiệu Ðức Giêsu cho chúng ta như thế: “Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian…”
VII. GIẢI TÁN
Trong Thánh Lễ này, anh chị em đã biết Chúa Giêsu là ai, đã được cảm nghiệm tình yêu thương của Ngài. Lễ đã xong, giờ đây anh chị em hãy đồng hành với Ngài trên những bước đường của cuộc sống.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
CHIÊN THIÊN CHÚA– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Này là Chiên của Thiên Chúa”: Người ta bảo rằng cái lập luận vững vàng bênh vực lập trường “Con chiên Vượt Qua tiên trưng con Chiên mà Gioan Tẩy Giả làm chứng ở đây” phát xuất từ chính thánh sử, từ chính trình thuật Tử nạn (19, 36-37). Vì theo thời biểu của Gioan, Chúa Giêsu chết vào chính lúc hoàn tất nghi thức sát tế chiên dành cho bữa ăn Vượt qua trong Đền Thờ. Người ta lại còn phỏng đoán Gioan đã thay đổi thời biểu với chủ ý ngầm bảo độc giả rằng Chúa Kitô chịu sát tế thay thế chiên Vượt Qua của Cựu Ước.
Từ ngày khám phá các thủ bản ở Biển Chết, vấn đề thời biểu trên lại được tranh luận hơn nữa. Nhưng hình như có thể bỏ qua. Thật vậy, lời giải thích mà chính thánh sử đưa ra về các hoàn cảnh của cái chết Chúa Giêsu tự nó đã dứt khoát. Đặc biệt ông thấy việc không bẻ gẫy xương (Ga 19,36b) và nhát lưỡi đòng (Ga 19, 37b) là dấu hoàn thành một sấm ngôn Cựu Ước. Người ta bảo bản văn đầu đưa ta về lại một chi tiết đặc biệt trong pháp chế liên hệ đến chiên Vượt Qua trong Xh 12, 46 và Ds 9, 12. Nhưng ta cũng có thể thấy đó là một câu trích dẫn Thánh Vịnh 34, 2. Thật vậy, bản văn Gioan tương hợp với bản văn Thánh vịnh hơn nhiều. Lại nữa, ngoại trừ câu 19,37 (= Dcr 12, 10), 6 câu trích dẫn khác trong phần 2 của Gioan đều xuất phát từ sách Thánh Vịnh. Nhận xét này cho ta một dấu hiệu đáng lưu tâm. Ngoài ra, ý tưởng được trình bày trong Thánh Vịnh đặc biệt ăn khớp với bản văn ta đang nghiên cứu và với toàn thể thần học Gioan. Thật vậy, Thánh Vịnh quả quyết Giavê sẽ bảo vệ người công chính bị bách hại, đến nỗi chẳng một xương nào của ông bị dập gãy. Trong Ga 19, Chúa Cha không để cho thân xác Chúa Giêsu ra hư hoại do việc đánh gãy xương, vì nó cần phải nguyên vẹn để được phục sinh. Vào giờ chết, trong lúc Chúa Giêsu xem ra hoàn toàn bị ruồng rẫy, thì Chúa Cha không bỏ rơi Người: Gioan thích diễn đạt tư tưởng ấy (8,29; 16,32). Cái ý tưởng sự chết dẫn đến chiến thắng đó cũng nằm trong câu trích dẫn Dcr 12,10. Bản văn Hy Bá nguyên thủy kém sáng sủa, nhưng câu trích dẫn trong Gioan không có gì mơ hồ. Các kẻ đâm Chúa Giêsu sẽ phải nhìn lên Người, như nhìn một vị chiến thắng, để đón nhận từ Người, từ cạnh sườn họ đã đâm thâu, ơn cứu độ nhờ nước và máu, biểu tượng của phép Thanh Tẩy và Thánh Thể.
Thành thử hai câu trích dẫn của Ga 19, 36-37, điều hợp với nhau, hình như không đưa ta đến sự song đối kiểu mẫu với con chiên Vượt Qua; trái lại chúng ám chỉ tới khuôn mặt người Tôi tớ đau khổ và được tôn vinh nhờ nỗi khổ đau của mình.
“Đấng khử trừ”: Động từ Hy Lạp airoin có nghĩa là nâng lên và do đó có nghĩa là mang lấy, gánh lấy trên mình hoặc mang đi, cất đi, làm biến đi. Ga thường sử dụng động từ theo nghĩa sau cùng (x. 2, 16; 5, 8- 12; 10, 18; 1 Ga 3, 5).
“Tội thế gian”: Kiểu nói số ít này nhắm toàn thể các tội lỗi của thế gian trong trương độ và hàm súc của chúng.
KẾT LUẬN
Cho đám đông tội lỗi mà ông đã dẫn đến chỗ ý thức các tội phạm của mình cùng ao ước một sự thanh tẩy đích thực mà phép rửa bằng nước của ông không thực hiện được, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu như kẻ được chỉ định để ban ơn cứu độ thiêng liêng đích thực bằng cách thực hiện các sấm ngôn về người Tôi tớ khổ đau: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội thế gian” hay nói cách khác: đây là người Tôi tớ thời danh của Thiên Chúa, Đấng sẽ chấp nhận từ bàn tay Thiên Chúa, cách ngoan ngoãn và vô tội như một con chiên, mọi thử thách cần thiết để cứu rỗi các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Gioan Tẩy Giả nói đến một người tên là Giêsu. Đấy chẳng có gì lạ lùng, mặc dù đức tin của ta vào Chúa Kitô thường hay bỏ quên mầu nhiệm nhập thể. Khi nghĩ tới Người, ta dễ hình dung ra một loại nhân vật thần thoại, không phải người cũng chẳng phải Thiên Chúa, hoàn toàn đứng riêng ra, thoát khỏi sự truyền nhiễm của tội ác, là do đấy được ưu đãi đến độ không còn gì chung với chúng ta nữa. Thế mà, khởi điểm của chứng tá ta nghe hôm nay chính là: con người Giêsu ấy đã được sinh ra từ một người nữ như bao kẻ khác, “đã được Thiên Chúa nắn đúc từ lòng mẹ” như Isaia xác định (49,5), vì sự che chở đặc biệt không bớt đi tí gì thực tại nhân loại của Người. Nhưng con người ấy có một định mệnh đặc biệt: Isaia sẽ gọi Người là “Tôi tớ”. Gioan Tẩy Giả còn cho Người tước hiệu lạ kỳ hơn: “Chiên Thiên Chúa”. Và ông làm điều ấy một cách cụ thể, rõ ràng: khi Chúa Giêsu đi qua, Gioan Tẩy Giả chỉ Người mà bảo: “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
- Hai thành ngữ “Tôi tớ” và “Chiên Thiên Chúa”, dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ vừa là Đấng vô tội vừa bị con người trừng phạt như một tội nhân. Khi gọi Người như vậy, Isaia và Gioan Tẩy Giả muốn công bố sự công chính, đức vâng phục lệnh Thiên Chúa và định mệnh hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của ông, Phêrô sẽ nói “máu của Người châu báu như máu con chiên vô tật vô tì” (1Pr 1,19). Chúa Giêsu là người công chính sẽ trả nợ cho nhân loại, sẽ bị vây bắt, hành hạ và giết chết bởi những kẻ Người đến cứu vớt. Khi gọi Người như Con Chiên và Tôi tớ của Thiên Chúa, hai vị ngôn sứ đều muốn bảo Người là kẻ thừa kế, là kẻ thực hiện mọi lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.
- Đó là điều Gioan Tẩy Giả khám phá lúc bấy giờ khi giải thích cho ta hay làm sao ông đã “nhận biết” Chúa Giêsu. Dù là anh em họ, ông đã không biết Người trong chính thực thể của Người. Nhưng Chúa Thiên Chúa đã cho ông một dấu hiệu: “Ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Người…”. Và Gioan đã tuyên bố: tôi đã thấy Thần khí, như một chim câu, từ trời đáp xuống và lưu lại trên Người. Rồi tiếp đó ông thản nhiên bảo: tôi đã thấy và xin đoan chứng: chính người là “Tuyển nhân của Thiên Chúa”. Việc mô tả Chúa Giêsu dần dà trở nên rõ hơn dưới sự linh ứng của Thiên Chúa: “Chúa Giêsu là Tuyển nhân của Thiên Chúa”. Về sau thánh Phaolô sẽ gọi Người là “Chúa chúng ta, Chúa của họ cũng như của chúng ta” (1Cr 1,2). Kể từ lời khẳng quyết này, các từ ngữ không thể đi xa hơn nữa và trí óc của ta chỉ còn có thể tìm những tiếng tương đồng, những thành ngữ cắt nghĩa được nhiều hay ít những gì vừa nói mà thôi.
- Chúa Giêsu là một con người, một ngươi công chính bị hiểu lầm, bị khai trừ và sau cùng bị giết bỏ; và Đấng công chính ấy là Chúa của nhân loại. Đó là lời khẳng định chính yếu ban bố cho ta hôm nay, một lời khẳng định dị thường đến nỗi khó tưởng tượng rằng có một ai khác đã sáng tác ra, trừ phi được chính Thiên Chúa soi sáng.
- Gioan Tẩy Giả lại giải thích điều ấy trong một ngôn ngữ khá lạ lùng. Ông nói đến Đấng tới sau ông. Đó là Chúa Giêsu, trẻ hơn ông một chút, nhưng chưa ai biết tên tuổi, trong lúc ông, Gioan, đã nổi tiếng như cồn khắp xứ Palestine và đã thành công rực rỡ. Đấng ấy vượt lên trước ông, vì Người ngày càng trở nên quan trọng trong lúc ông, với nhiệm vụ giới thiệu Người, sắp dần dần lui vào bóng tối. Phải như vậy “vì Người đã có trước tôi”. Thành ra không phải nhờ nhân đức, quyền năng chữa bệnh hay tài hùng biện của Người, nhưng là nhân bản tính của Người vậy. Mặc dầu sinh sau Gioan, Chúa Giêsu đã hiện hữu trước ông. Gioan biết điều đó nhờ một ơn soi sáng đặc biệt và ông đã nói ra cho mọi người.
- Gioan Tẩy Giả dùng hai thành ngữ khác nhau để nói về sứ mệnh của Chúa Giêsu: “Người khử trừ tội thế gian” và “Người thanh tẩy trong Thánh Thần”. Người khử trừ, Người cất đi tội lỗi như thể đó là một gánh nặng, một chướng ngại. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ này gởi lên hình ảnh Chúa Kitô đến thực hiện một cuộc giải phóng và cho thấy con người như thể bị giới hạn trong tư tưởng hay trong hành động bởi những trở ngại nặng nề cản ngăn họ đi đến cùng đích số mệnh. Vì thế Chúa Kitô đến cất đi các xiềng xích đang trói buộc trái tim con người trong ích kỷ, tham vọng, chai đá, nhục dục, ghen tương, oán hờn, thụ động. rồi “Người thanh tẩy trong Thánh Thần”. Chúng ta biết rằng hạn từ “thanh tẩy” có nghĩa là: dìm sâu.
Chúa Kitô sắp tái tạo con người bằng cách dìm nó trong Thần khí Thiên Chúa, bằng cách làm cho nó thấm nhuần Thánh Thần của Ngài. Nhờ vậy, con người sẽ được biến đổi một cách sâu xa; ta có thể bảo rằng sở dĩ nó được cứu, là vì nó đã bị hủy tiêu và thay thế bằng một kẻ khác dầu sao vẫn tốt hơn chính nó.
- “Phần tôi, tôi đã không biết Người”. Câu này giúp ta nhìn sâu vào định mệnh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền hô đã làm việc, đã rao giảng một thời gian lâu dài, trong ý thức đơn sơ là vâng theo một sứ mạng, thế mà chẳng biết Đấng mình loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của ơn gọi đích thực? Ai có sứ mệnh dọn đường cho Chúa Kitô đến trong một tâm hồn, trong một môi trường, trong thế giới, đừng tưởng rằng mình sẽ biết chắc Chúa Kitô đứng đấy. Không! Phải nhẫn nại làm việc trong đức tin và để mặc Chúa chọn thời cơ thuận tiện để biểu lộ dấu chỉ của việc Thần khí đáp xuống. Nếu lòng trung thành nhẫn nại của Gioan Tẩy Giả sau cùng đã được ân thưởng bằng thị kiến ở sông Giođan, thì lòng trung tín của ta cũng sẽ được ân thưởng bằng một sự hiểu biết ngày càng sống thực hơn về Chúa, và sau cùng bằng thị kiến diện đối diện với Đấng mà chúng ta vẫn hằng mong gặp.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN -A
ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”. Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.
Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.
Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu. Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân. Người Do Thái nhớ đến con chiên. Con chiên đã chết cho họ được sống. Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng. Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.
Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.
Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.
Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn. Xóa là đứng ngoài cuộc. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người. Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ. Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.
Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.
Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.
Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con,
Xin thương xót con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) “Chiên Thiên Chúa” gợi lên những ý tưởng nào nơi bạn?
2) Là ‘con chiên của Chúa’ bạn phải sống thế nào cho xứng đáng danh hiệu ấy?
3) Thánh Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với tất cả ý nghĩa sâu xa của danh hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, nếu phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người chung quanh, bạn sẽ dùng danh hiệu nào?
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
LÀM CHỨNG ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG XÓA TỘI TRẦN GIAN – Lm. Đan Vinh HHTM
(29) Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. (30) Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, vì có trước tôi. (31) Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”. (32) Ông Gio-an còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. (33) Tôi không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. (34) Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
- Ý CHÍNH:
Đây là lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su. Ông xác nhận Đức Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa, có sứ mệnh xóa bỏ tội trần gian. Người là Đấng mà Gio-anđược sai đến trước để dọn đường qua dấu chỉ Thánh Thần ngự xuống. Gio-an đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su khi làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan, nên ông đã làm chứng: “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
- CHÚ THÍCH:
– C 29-30: + Đây là Chiên Thiên Chúa: Chiên Thiên Chúa hay Chiên Vượt Qua thời Xuất Hành (x. Xh 12,3-46). Tin Mừng Gio-an cho thấy Đức Giê-su chính là Con Chiên lễ Vượt Qua qua ba sự kiện: Một là thời gian quan Phi-la-tô xét xử Đức Giê-su vào Giờ Thứ Sáu (tức 12 giờ trưa) trong ngày lễ áp lễ Vượt Qua (x. Ga 9,14), trùng với giờ các tư tế giết chiên trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để mừng đại lễ Vượt Qua. Hai là cành hương thảo: Người Do thái lấy một bó hương thảo, nhúng vào chậu đựng máu chiên và quét lên khung cửa nhà. Điều này giống như một tên lính đã lấy miếng bọt biển thấm giấm, buộc vào cành hương thảo đưa lên miệng Đức Giê-su nếm (x. Ga 19,29). Ba là chỉ thị của Mô-sê cấm đánh gãy xương của con Chiên bị giết trong biến cố Vượt Qua: quân lính không đánh dập ống chân của Người trên cây thập giá (x. Ga 19,34). + Về con chiên gánh tội : Trong lễ Xá Tội, người Do Thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư Tế sẽ đọc một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó, Tư Tế đặt tay trên đầu con chiên, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi đuổi nó vào sa mạc. Người ta cử hành nghi lễ sám hối này để xin Đức Chúa xóa hết tội cho mình (x. Lv 1,4). Con chiên Vượt qua là hình bóng Đấng Cứu thế như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: “Chính các bệnh tật của chúng tôi. Ngài đã vác. Ngài đã bị đâm vì những phản nghịch của chúng tôi. Vì tội vạ của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền tán… Ngài đã chịu đựng, không mở miệng, như chiên con dẫn đến lò sát sinh… Thiên Chúa đã ái mộ Ngài, đã phục sinh Đấng đã làm lễ hy sinh tạ tội. Ngài đã được trường sinh bất tử” (Is 53, 4-5.7.10). + Đấng xóa bỏ tội trần gian: Thay vì dùng chữ gánh tội, Tin Mừng Gio-an đã dùng chữ “xóa” theo nghĩa “làm mất đi” (x. 1 Ga 3,5). Và như vậy “xóa tội” nghĩa là giải thoát khỏi tội lỗi. Trong cuộc Vượt Qua, nhờ máu chiên được sát tế và quét lên khung cửa nhà mà các con trai đầu lòng của người Do thái khỏi bị tiêu diệt (x. Xh 12,23). Cũng vậy, nhân loại nhờ việc Đức Giê-su chịu chết sẽ được xóa bỏ tội lỗi, giống như bỏ đi gánh nặng đè trên mình họ. + Có người đến sau tôi, vì có trước tôi: Tuy về thời gian, Đức Giê-su được sinh ra sau Gio-an 6 tháng (x. Lc 1,24.26), nhưng về bản tính Thiên Chúa thì Người luôn hiện hữu cả trước khi Gio-an ra đời.
– C 31-32: + Tôi đã không biết Người: Kiểu nói “không biết” có nghĩa là Gio-an đã không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Cái “không biết” của Gio-an cũng giống như “không biết” của người Do thái trong câu “Ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết” (Ga 1,26). + Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en: Việc Gio-an làm phép rửa cho Đức Giê-su chính là cơ hội để Người tỏ mình là Đấng Thiên Sai cho dân Do thái. + Ông Gio-an còn làm chứng: Do những dấu chỉ “Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”, mà Gio-an đã nhận ra thân phận của Đức Giê-su: Người thực là “Con Thiên Chúa”, là “Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn”. + Thánh Thần như chim bồ câu: Kiểu nói này không khẳng định Thánh Thần hiện ra dưới hình của chim bồ câu, nhưng đáp xuống trên Đức Giê-su giống như tiếng rung nhè nhẹ của loài chim ấy. + Và ngự trên Người: Việc “Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và lưu lại trên Đức Giê-su” tượng trưng cho hiệu quả của việc tuôn đổ ơn Thánh Thần, là ban sự sống để thiếp lập một dân Ít-ra-en mới. Cũng vậy, trong ngày lễ Hiện Xuống, “Lưỡi Lửa” không trực tiếp tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, nhưng tượng trưng cho việc các Tông Đồ được Thánh Thần ban cho “nói tiếng lạ” để công bố Tin Mừng khắp thế gian.
– C 33-34: + Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Câu này được lặp lại để nhấn mạnh việc Gio-an không tự nhận biết Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa nhưng là do chính Thiên Chúa, Đấng sai Gio-an làm phép rửa đã dạy cho ông biết. + Đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần: Làm phép rửa trong Thánh Thần là một thành ngữ ám chỉ công việc chính của Đức Giê-su là “xóa bỏ tội lỗi” bằng cách tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống trên kẻ tin và lãnh nhận phép rửa để được tha tội (x. Ga 3,5-8). + Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn: Gio-an xác định việc ông làm chứng “Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn” là do Thiên Chúa soi sáng. “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” đồng nghĩa với “Con Thiên Chúa”, như lời sấm của I-sai-a: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn…” (Is 42,1). Việc Đức Giê-su được Thiên Chúa tuyển chọn gắn liền với việc Người được ban Thần Khí để chu toàn sứ mạng Thiên Sai.
- CÂU HỎI:
1) Nội dung lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su thế nào ? 2) Ba điều Tin Mừng Gio-an nêu ra chứng minh Đức Giê-su chính là con chiên cứu độ là gì ? 3) Gio-an muốn nói điều gì khi giới thiệu Đức Giê-su là “Đấng xóa bỏ tội trần gian” ? 4) Tại sao Gio-an lớn hơn Đức Giê-su 6 tháng, mà ông lại nói Người đã có trước ông ? 5) Từ “Không biết” trong câu “Tôi đã không biết Người” nghĩa là gì ? 6) “làm phép rửa trong Thánh Thần” là gì ? 7) “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” đồng nghĩa với “Con Thiên Chúa” trong lời sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a ?
- SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA: Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,36).
- CÂU CHUYỆN:
1) ĐƯỢC SỐNG NHỜ CON CHIÊN:
Một anh thợ nề kia đang làm việc chống dột trên mái nhà thờ GUƠ-ĐEN (Werden) nước Đức. Khi anh đang đu mình trên tường để sửa lại phần mái của Nhà thờ thì sợi dây an toàn anh mang trên mình lâu ngày bị mục, không chịu nổi sức nặng của anh nên bị đứt và anh bị rơi từ độ cao 20 mét xuống sàn nhà thờ. Nhưng rất may là bấy giờ có một con chiên đang ăn cỏ trong thửa vườn ở phía sau nhà thờ, tự nhiên lại chạy tới chỗ anh thợ đang làm việc trên cao, và anh đã ngã đè lên con chiên đáng thương kia. Anh thợ may mắn thoát chết và chỉ bị gãy xương chân, nhưng con chiên bị anh té đè lên thì lại bị chết bẹp. Về sau, để tỏ lòng biết ơn con chiên đã cứu mình, anh đã nhờ người chạm trổ một bức tượng chiên bằng đá quí. Được Cha Sở cho phép, anh làm một tượng đài mang tên “Con Chiên Cứu Độ” ngay tại nơi anh bị té để tưởng niệm con chiên đã chết cho anh được sống. Nhưng thực ra Chúa Giê-su mới là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Người đã hy sinh chịu chết để tấy xóa tội lỗi nhân loại. Nhờ cuộc tử nạn và sự phục sinh vinh quang của Người mà mọi người chúng ta được tham phần vào cuộc chiến thắng sự chết và bước vào vinh quang phục sinh với Người.
Chúa Giê-su khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh mọi tội lỗi của nhân loại, từ tội nguyên tổ Ađam cho đến tội của hết mọi người. Với cuộc khổ nạn và sự chết đau thương tủi nhục trên cây thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của mọi người chúng ta.
2) CHÍNH TA MỚI CHỊU CHẾT ĐỀN TỘI THAY CHO TỘI NHÂN:
Trong một Nhà thờ ở Tây Ban Nha, có một cây thánh giá cổ xưa trên tòa giải tội mà cánh tay phải của Chúa tách rời khỏi đinh. Cây thánh giá này có lịch sử như sau:
Ngày nọ, một tù nhân đến xưng thú tội mình dưới chân thánh giá này sự thống hối chân thành. Cha giải tội đã ban phép giải tội cho ông ta.
– Tôi ban phép giải tội cho ông. Tuy nhiên ông phải hứa sẽ không tái phạm nhé!
Tội nhân xin hứa và đã giữ lời hứa được một thời gian. Nhưng rồi ông lại sa ngã phạm lại tội cũ và chính lòng thống hối một lần nữa thúc đẩy ông đến tòa giải tội. Vị linh mục bảo ông:
– Lần trước ông đã quyết tâm chừa cải mà sao ông lại tái phạm ?
– Con đã thành tâm sám hối, nhưng con yếu đuối phạm lại tội cũ. Xin hãy tha tội cho con!
Cha Giải Tội tha thứ và nói thêm:
– Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho ông nhé!
Một thời gian khá lâu sau đó, một phần do thói quen, một phần vì yếu đuối, ông ta lại tái phạm và đến xin xưng tội.
– Bây giờ thì dứt khoát tôi không tha cho ông. Ông hãy về nhà đi.
– Thưa Cha, con rất chân thành. Nhưng con cứ sa đi ngã lại tội đã dốc lòng chừa.
Lúc đó vị linh mục nghe có tiếng khóc phát ra từ cây thánh giá phía trên tòa giải tội. Ông nhìn lên thì thấy cánh tay phải của Chúa Giê-su đã rời khỏi thánh giá trong tư thế giơ lên để ban ơn tha thứ cho tội nhân. Đồng thời ông cũng nghe thấy tiếng Chúa phán với mình rằng : “Chính Ta chứ không phải con đã chịu chết đền tội cho nó !”
Quả thật, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và đã đã trở thành con chiên chịu chết để đền tội thay cho loài người chúng ta.
3) CHỊU OAN ỨC ĐỂ ĐỀN TỘI THAY CHO KẺ GIAN ÁC:
Một cô gái đang có người yêu, nhưng một hôm chẳng may đã bị kẻ cướp hãm hiếp có thai ngoài ý muốn. Sau đó cô còn đau khổ hơn nữa khi bị người yêu ruồng bỏ và mọi người khinh dể xa lánh. Một hôm cô đến xưng tội với đức cha Fulton Sheen. Sau khi trình bày hoàn cảnh oan ức đang gặp phải, cô đã hỏi đức cha: “Tại sao con vô tội mà lại phải chịu nỗi đau khổ oan ức quá nhiều như thế?” Với thái độ cảm thông, đức cha Sheen đã an ủi cô gái như sau: “Con vô tội mà phải chịu nỗi đau khổ bất công như vậy là do con đang chịu đền tội thay cho tên cướp đã làm hại đời con”.
Rồi Đức Cha Sheen nói với mọi người đang nghe ngài giảng: «Nếu chỉ vì phải gánh tội cho một người mà cô gái kia đã phải chịu đau khổ như thế, thì Chúa Giê-su khi phải gánh tội của nhân loại bằng cái chết tủi nhục trên cây thập tự, còn phải chịu đau khổ biết chừng nào! »
- SUY NIỆM:
1) ĐỨC GIÊ-SU LÀ CON CHIÊN LỄ VƯỢT QUA:
Câu chuyện về đại lễ Vượt Qua kể lại rằng: Khi Mô-sê được Đức Chúa sai đến gặp Pha-ra-ô nước Ai-cập để thuyết phục nhà vua trả tự do cho dân Ít-ra-en, để họ được giải thoát khỏi kiếp sống nô lệ cho người Ai-cập, vào trong sa mạc để thờ phượng Đức Chúa tại núi Si-nai nơi Mô-sê đã gặp Chúa. Lúc đầu Pha-ra-ô cương quyết từ chối. Mô-sê đã phải sử dụng cây gậy Chúa ban để lần lượt thi thố 10 phép lạ chứng minh quyền năng Đức Chúa của con cháu Gia-cóp mạnh hơn các tà thần của dân Ai-cập. Nhưng chỉ đến phép lạ thứ mười là tiêu diệt các con trai đầu lòng của người Ai-cập, thì Pha-ra-ô mới chịu khuất phục và đồng ý cho con cháu Gia-cóp ra đi. Hôm ấy, Mô-sê vâng lệnh Đức Chúa truyền cho dân Ít-ra-en mỗi nhà phải giết một con chiên đực một tuổi để ăn thịt chiên với bánh không men và rau diếp đắng. Họ phải lấy máu chiên bôi trên thành cửa nhà của họ. Đêm hôm ấy, thần sứ hủy diệt của Đức Chúa đánh phạt Ai cập bằng việc giết chết các con trai đầu lòng của dân Ai-cập, còn những nhà có bôi máu chiên trên thành cửa, thì các con trai đầu lòng của họ khỏi phải chết (x. Xh 12,3-13). Thánh Phao-lô đã nói về con chiên cứu độ đó chính là Đức Giê-su như sau: “Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế chúng ta đừng lấy men cũ là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng Đại lễ” (1 Cr 5,7-8).
2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ CON CHIÊN HIẾN TẾ ĐỀN TỘI:
Trong Đền Thờ hai lần sáng và chiều mỗi ngày, người ta đều giết chiên dâng lên Đức Chúa làm của lễ dâng tiến để đền tội thay cho dân (x. Xh 29,31). Khi giới thiệu Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Gio-an Tẩy Giả đã làm chứng Đức Giê-su là lễ vật mới của thời Tân Ước, được dâng tiến cho Thiên Chúa trên bàn thờ thập giá, thay thế cho lễ vật là con chiên được dâng theo Luật Mô-sê của thời Cựu Ước. Về việc thay lễ vật chiên cừu cũ bằng lễ vật mới là chiên Thiên Chúa, tác giả thư Do thái đã viết như sau: “Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10,8-10). Ngôn sứ I-sai-a đã nói tiên tri về người Tôi Tớ của Chúa, một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên như sau: “Bị ngược đãi người cam nhịn nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội rồi bị thủ tiêu… Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, Tôi Trung của Ta, sẽ làm cho môn đệ người nên công chính, và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,7.11b).
3) ĐỨC GIÊ-SU, CON CHIÊN KHẢI HOÀN:
Trong sách Khải Huyền, Tác giả đã áp dụng tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” cho Đức Giê-su 28 lần. Trong đó, nhấn mạnh Con Chiên ngự trên ngai vương quyền. Là Đấng chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang. Con Chiên được ca ngợi như sau: “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta” (Kh 5,9-10). “Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai lớn tiếng hô: Con Chiên đã bị giết, nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc. Amen” (Kh 5,12).
Tóm lại, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” gợi lên ba hình ảnh sống động về ơn cứu độ của các con chiên thời Cựu Ước như sau:
– Chúa Giê-su là Con Chiên Cứu Độ: Máu Người đổ ra trên thập tự trở thành giá chuộc muôn người, giống như máu con chiên được bôi trên thành cửa đã cứu các con trai đầu lòng của dân Do thái khỏi bị hủy diệt trong ngày Vượt Qua.
– Chúa Giê-su chính là Con Chiên gánh tội và xóa tội trần gian, khi chịu hiến tế trên bàn thờ Thập Giá để đền thay cho tội lỗi chúng ta, giống như con chiên thanh sạch phải gánh tội và xóa tội cho toàn dân trong lễ Xá Tội của đạo Do Thái.
– Chúa Giê-su là Con Chiên Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh vinh quang để ban ơn cứu độ cho nhân loại như sách Khải Huyền đã ghi nhận (x Kh 5,9-10).
Do đó, dù Đức Giê-su có nhiều tước hiệu như : “Ánh Sáng trần gian”, “Mục Tử nhân lành”, “Bánh Hằng Sống”… nhưng trong thánh lễ Giáo Hội đã dùng tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” trong phần hiệp lễ: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…”.
4) PHẢI LÀM CHỨNG CHO CHÚA THẾ NÀO NOI GƯƠNG GIO-AN ?
– Làm chứng là giới thiệu Chúa cho tha nhân: Gio-an Tẩy Giả đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và giới thiệu Người cho môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian… Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. (Ga 1,29.34).
– Làm chứng là nói về Chúa và đề cao vai trò của Người: Gio-an luôn nói về Chúa cho mọi người và làm mọi việc để giới thiệu Chúa: “Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước” (Ga 1,30-31).
– Làm chứng bằng lối sống khiêm hạ để Chúa được lớn lên còn mình nhỏ bé đi: Gio-an không buồn khi thấy dân chúng bỏ mình và lũ lượt kéo đến xin Đức Giê-su làm phép rửa cho (x. Ga 3,26). Ông đã trấn an các môn đệ đang bất bình về điều này và nói cho họ hiểu về vai trò tiền hô của mình như sau: «Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói : Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi » (Ga 3,28.30).
- THẢO LUẬN:
Khi bị hiểu lầm, bị vu khống oan uổng, chúng ta nên làm gì để kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian ?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thật cảm động khi thấy Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mà vì yêu thương con đã tình nguyện trở thành của lễ hiến tế để đền tội thay cho loài người và giao hòa nhân loại với Thiên Chúa, hầu chúng con được tham phần vào vinh quang phục sinh của Chúa. Mỗi lần dự lễ, xin cho chúng con biết dâng những lời cầu nguyện, dâng các việc bác ái, sự hãm mình và những điều rủi ro trái ý… để biến chúng nên lễ vật kết hiệp với lễ vật cao trọng trên bàn thờ là Chiên Thiên Chúa tiến dâng lên Chúa Cha. Nhờ đó chúng con sẽ được tham phần vào vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
- X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
CHÚA LÀ CHIÊN THIÊN CHÚA – Lm. Micae Võ Thành Nhân
Thánh Gioan Tẩy Giả là tiền hô của Chúa, được Chúa sai đi trước để dọn đường cho Chúa. Ngài ý thức được điều quan trọng này cho nên ngài chu toàn một cách hoàn hảo, tốt đẹp. Ngài rao giảng rằng anh em hãy sám hối vì Nước trời đã đến gần ( Mt 3, 2 ).
Nước Trời là Nước của Chúa, Chúa ở đâu thì Nước Trời ở đó. Muốn đón nhận Chúa thì con người chúng ta cần phải ăn năn sám hối, vì Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng, tuyệt hảo vô cùng, mà chúng ta là kẻ có tội. Chính tội lỗi của chúng ta phạm đã cản trở Chúa đến với chúng ta. Thánh Gioan Tẩy Giả là người giúp chúng ta sám hối, dẹp bỏ tội lỗi qua cách ngài nói đầy ý nghĩa là hãy bạt núi đồi xuống, nghĩa là đừng phạm tội trọng, tội nhẹ nữa, phải lo tránh tội và chừa tội; hãy lấp thung lũng, hố sâu cho đầy, nghĩa là làm các việc lành phúc đức để đền bù những thiếu sót, tội lỗi trong bổn phận gây ra; đường cong queo hãy sửa cho thẳng, nghĩa là hãy suy nghĩ trong sáng liêm chính theo như Chúa đã dạy…..
Khi nghe lời thánh Gian Tẩy Giả rao giảng như thế, mọi người đã đến với ngài, từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến ( Mt 3, 5 ). Để tỏ lòng ăn năn sám hối, họ đã xin chịu phép rửa của ngài tại dòng sông Giođan. Điều quan trọng là ngài đã sống tâm tình chờ đợi Chúa đến trước khi ngài rao giảng. Ngài cầu nguyện, chay tịnh, làm các việc lành phúc đức và gặp gỡ đươc Chúa nơi các việc này. Nhất là Chúa nâng đỡ ngài vì ngài có lối sống khiêm nhường thẩm sâu: “ Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn “ ( Mt 3, 4 ), nên ngài rao giảng về Chúa cho mọi người có sức thu hút rất lớn. Phải nói rằng ngài là chứng nhân, tiền hô của Chúa: “ Tôi đã thấy và tôi làm chứng: Chính Ngài là con Thiên Chúa “ ( Ga 1, 34 ).
Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan giữa những người tội lỗi xong và rồi Chúa bước lên bờ, hôm sau, khi thấy Chúa tiến về phía mình, thánh Gioan Tẩy Giả lại tiếp tục giới thiệu Chúa cho các môn đệ của ngài mà mọi người rằng: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian “ ( Ga 1, 29b ). Qua sự giới thiệu của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta thấy:
+Chúa là Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa ( Bđ I ): Chúa sống hiền lành, khiêm nhường, Chúa không cãi vã, chẳng ai nghe thấy Chúa lên tiếng giữa phố phường, cây lau bị dập, Chúa không bẻ gãy, tim đèn lao lét, chẳng nỡ tắt đi… ( Mt 12, 21 ), và Chúa im lặng chịu dẫn đến lò sát sinh ( Is 53, 7 ).
+Chúa gánh lấy tội lỗi chúng ta trên mình Chúa: Phải nói rằng tội lỗi của con người chúng ta phạm từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế nhiều hơn lá cây trên rừng, Chúa đều gánh lấy để rồi Chúa phải chịu bằng cách Chúa đi vào cuộc khổ nạn, chịu đòn vọt, sỉ nhục, chết một cách đau đớn tủi nhục trên thập giá là vì chúng ta ( Is 53, 12 ).
+Chúa là Chiên Vượt Qua: Chúa là Đấng cứu chuộc chúng ta, mà khởi đầu là Chúa cứu dân Do Thái ra cảnh nô lệ của Ai Cập. Đây là cuộc Vượt Qua lần đầu ( Xh 12, 3 – 14 ), và sau đó là cái chết của Chúa trên thập giá để cứu độ con người chúng ta. Bây giờ, mỗi lần chúng ta lãnh nhận các Bí tích trong Hội Thánh của Chúa, chúng ta làm một cuộc Vượt Qua để chúng ta đi từ tình trạng tội lỗi đến tình trạng ân sủng, từ cõi chết tiến đến sự sống đời đời ( 1Cr 5, 7 ).
Cuộc đời của Chúa khi đến trần gian này là ở với chúng ta và cứu chúng ta khỏi chết trong tội lỗi, đem chúng ta về với Chúa Cha để hưởng hạnh phúc đời đời. Chúa làm điều này bằng cách Chúa đi con đường thập giá, con đường khổ chế, hy sinh, từ bỏ, dấn thân, bởi vậy mà Chúa đã nói: “ Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người “ ( Mc 10, 45 ). Chúng ta hãy bắt chước Chúa mà cứu giúp phần rỗi của anh chị em của chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con là những sứ giả của Chúa, chúng con được Chúa sai đi để làm chúng cho Chúa nơi mọi người ( Mc 16, 16- 17 ). Trước hết chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thương chọn gọi chúng con, tin tưởng chúng con, cho chúng con cộng tác với Chúa trong sứ mạng cao cả, trong đại và linh thánh này, mặc dù chúng con tội lỗi để chúng con giới thiệu cho anh chị em chúng con. Sau đó chúng con xin Chúa ban ơn giúp sức cho chúng con nơi thánh lễ, nơi Bí tích Thánh Thể, nơi Lời Chúa, nơi kinh nguyện mỗi ngày để chúng con có sức mạnh, lòng hăng say, sự nhiệt thành dấn thân làm chứng, giới thiệu Chúa cho mọi người xung quanh qua đời sống bác ái yêu thương phục vụ của chúng con.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, xin rủ thương chấp nhận lời dân Chúa khẩn cầu mà ban cho thời đại chúng con đang sống được bình. Amen.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
GIỚI THIỆU- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Trong đời sống tương quan với xã hội, mỗi khi gặp người mới lạ, người ta thường giới thiệu nhau, để biết người đó là ai.
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy kể lại một số trường hợp giới thiệu. Chẳng hạn như: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và khi vừa bước lên khỏi nước thì có tiếng từ trời vọng xuống: “Đây là con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta” (Mt 3,17). Đó là lời giới thiệu của Thiên Chúa Cha.
Thánh Anrê tông đồ, sau khi gặp gỡ Đức Giêsu, thì lại giới thiệu cho anh em mình rằng:”Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia…”(Ga 1,41) rồi ông đưa Phêrô đến gặp Đức Giêsu.
Tin Mừng hôm nay kể lại Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng biết: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).
Thế thì, tại sao Gioan tẩy giả không giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, hay là Đấng Cứu Thế, mà là đây là Chiên Thiên Chúa? Thưa rằng: Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả mang tính thần học và mang tính lịch sử cứu độ.
Phụng vụ dân DoThái thời xưa, vào ngày Lễ Đền Tội, người ta bắt một con chiên không tì vết rồi đem đến cho vị tư tế. Vị tư tế đọc danh sách các thứ tội của dân chúng, ông kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó, vị tư tế đặt tay trên đầu con chiên, ngụ ý trút hết các thứ tội trên đầu nó, rồi đánh đuổi nó vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Trong sách Xuất Hành ghi rằng tại đền thờ, các tư tế mỗi ngày sát tế hai con chiên làm của lễ toàn thiêu dâng Thiên Chúa để đền tội. Tiên tri Isaia trong bài ca về người tôi tớ đã nhắc đến con chiên hy sinh. Con chiên hiền lành bị đem đi xén lông và bị giết làm của lễ gánh tội trần gian.
Nhưng thưa anh chị em, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ thân thế sự nghiệp người đó. Càng biết rõ người đó bao nhiêu thì việc giới thiệu càng chính xác bấy nhiêu.
Như vậy, để giới thiệu chính xác về Đức Giêsu, Gioan tẩy giả đã phải dành rất nhiều thời giờ sống trong hoang địa. Chính nơi đây Gioan đã suy niệm kinh thánh và sống gắn bó mật thiết với Chúa, nhờ đó đã giúp ông biết rõ về Đức Giêsu, để rồi sau này, ông ra đi rao giảng và giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng.
Đối với chúng ta cũng vậy, khi lãnh nhận Bí tích rửa tội được gắn liền với việc sai đi. Cho nên Chúa sai chúng ta đi là để giới thiệu Chúa cho người khác bằng đời sống cầu nguyện, bác ái yêu thương, đó là bổn phận của mọi người Kitô hữu chúng ta.
Thế nhưng, để giới thiệu Chúa cho hiệu có hiệu quả, thì việc đầu tiên chúng ta phải nói với Chúa trước khi nói về Chúa, cùng với việc học hỏi Thánh kinh. Thánh Giêrônimô nói rằng: “Ai không biết Thánh kinh là không biết Đức Kitô”.
Có nghĩa là chúng ta phải có kinh nghiệm sống gắn bó với Chúa như Gioan Tẩy, thì mới có khả năng giới thiệu Chúa cho người khác được. Thế thì, khi giới thiệu là chúng ta giới thiệu về Chúa những gì?
Thưa có nhiều cách thế, nhưng có thể chúng ta giới thiệu về một Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình. Một Thiên Chúa Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót yêu thương con cái mình. Và tất cả mọi người đều là anh em với nhau con cùng một Cha trên trời. Thế nhưng mà trong thực tế, nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với vai trò giới thiệu của mình.
Bởi vì, tất cả chúng ta là con cùng một Cha trên trời, ấy thế mà lòng vẫn còn đố kỵ chia rẽ, vẫn còn sống không chân thành với nhau, có khi ngay trong mái ấm gia đình, trong làng xóm ngõ, họ hàng ruột thịt của mình. Đời sống đạo của chúng ta nhiều khi chẳng tốt lành hơn những người ngoại giáo. Lúc đó thay vì giới thiệu Chúa, thì lại làm méo mó, làm lem luốc gương mặt của Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương và đạo yêu thương của mình.
Anh chị em thân mến,
Lời giới thiệu của Gioan tẩy giả năm xưa, nay vẫn còn nhắc lại trong phụng vụ trước khi chúng ta rước lễ “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…”. Qua đó mẹ Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta hãy ý thức rằng: Đức Giêsu vì yêu thương mà xuống thế làm người để gánh lấy tội lỗi chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức trong đời sống người Kitô hữu, là có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho người khác bằng gương sáng của mình. Vì như lời Chúa nói: “Sự sáng của các con cũng phải chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc làm của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”(Mt 5,16). Amen.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN-A
CHIÊN THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúng ta vừa kết thúc phụng vụ Mùa Giáng Sinh. Những trang trí hoa đèn của mùa Noel đã được tháo gỡ và hạ xuống. Bầu khí khu thánh đường trở lại vẻ lặng lẽ và bình thường trong khí trời tuyết lạnh. Giờ đây chúng ta bắt đầu tiếp tục suy gẫm về sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu. Chúng ta được thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu: Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian (Ga 1, 29). Khai mở một triều đại mới của Nước Trời. Chúa Giêsu đã hiện diện đồng hành với Dân Người. Chúng ta cần học hiểu về ý nghĩa thần học của con chiên. Chúa Giêsu được ví như cửa chuồng chiên, người chăn chiên tốt lành và chủ chiên. Chủ chiên đi trước và đàn chiên bước theo sau. Trong Cựu Ước hình ảnh quen thuộc của những con chiên tinh tuyền bị hiến tế, con chiên gánh tội, con chiên hiền lành bị xén lông và bị giết để lấy máu chiên đuợc bôi trên cửa, rảy trên dân chúng và thịt chiên nướng làm của ăn.
Tiên tri Isaia đã tiên báo nhiều điều về Đấng sẽ ban ơn cứu độ. Ngài là ánh sáng và nguồn qui tụ mọi con dân về một mối: Người đã phán: “Làm tôi tớ Ta chẳng có là bao, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta đặt ngươi như ánh sáng các dân tộc để ơn cứu độ của Ta tràn lan khắp địa cầu” (Is 49, 6). Khoảng 600 năm trước Chúa Giêsu, Isaia đã có những thị kiến ngưỡng vọng về một tương lai huy hoàng. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi con cái đang tản mát khắp nơi về một nguồn sống. Ơn cứu độ sẽ lan tràn khắp chốn và vinh quang của Thiên Chúa sẽ được chiếu tỏa khắp mọi nơi: Chúa đã phán cùng tôi: “Hỡi Israel, ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta được vinh danh nơi ngươi” (Is 49, 3).
Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri sau cùng nối kết giữa Cựu Ước và Tân ước. Chương trình cứu độ được thể hiện qua dòng dõi của một Dân tộc mà Chúa đã chọn. Trải qua thời gian, cho dù dân chúng có ngỗ nghịch, ương ngạnh và từ bỏ Chúa, Thiên Chúa vẫn tín trung giữ lời đã giao ước với các cha ông. Gioan được sai đến như vị tiên hô để chứng dám và giới thiệu cho toàn dân về Đấng Cứu Thế: Và Gioan đã làm chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài (Ga 1, 32). Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô và chuẩn bị lòng dân đón Chúa. Ông đã được nhìn xem tận mắt và chứng kiến Đấng đến sau ông và ông không xứng đáng cúi xuống cởi giây giầy cho Ngài.
Gioan kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị đường lối của Chúa cho ngay thẳng. Có nhiều người đã chạy đến với Gioan xin lãnh nhận phép rửa sám hối. Một số người thật lòng sám hối ăn năn và sửa đổi đời sống. Cũng có những vị tai mắt trong dân thuộc nhóm Biệt Phái và Xa-đốc chạy đến với Gioan xin nhận phép rửa, nhưng Gioan đã đọc được tâm tư của họ, ông nói với họ: Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? (Mt 3, 7). Gioan đã mạnh mẽ rao giảng sự thật giúp mọi người chuẩn bị đón nhận Nước Trời. Ông đã không vị nể người quyền thế, nhưng đã dám đối diện thách thức các vị chức sắc trong xã hội và tôn giáo. Gioan đã vạch rõ con đường nội tâm phải sửa đổi cho ngay thẳng và chân thành.
Có một vị giảng thuyết ngoài đường phố đặt một thùng xà phòng ở một góc đường có đông người qua lại. Ông ta can đảm rao giảng về Chúa và sự cần thiết có Chúa trong đời sống, nhưng người qua kẻ lại chỉ đáp lại với thái độ thờ ơ lãnh đạm. Đột nhiên, ông thay đổi cách thế rao giảng. Kìa có một viên chức trong văn phòng biệt thự đi ra ngoài để ăn trưa, vị giảng thuyết nhìm chăm chăm vào mắt ông và đưa ngón tay chỉ thẳng vào mặt ông và la lớn: Có tội. Rồi ông giữ im lặng vài giây, chọn từ khác ‘nạn nhân’ để cố gắng kéo sự chú ý của vị khách. Ông đưa cánh tay phải lên và chỉ ngay mặt và la to: Tội phạm. Sự đáp trả rất ngoạn mục, khi mới khởi đầu ra rao giảng, sự đáp trả chỉ là một sự khinh rẻ và cười nhạo hay chỉ là vô tư. Tuy nhiên, bây giờ, sự trả lời là một sự quấy động nội tâm và mỗi vị trong các viên chức văn phòng thực sự bắt đầu cảm thấy có điều lỗi. Có vẻ như là vị giảng thuyết đang đụng chạm tận cửa nhà và hình như người ta nghĩ vị giảng thuyết đã biết những sự thầm kín của họ.
Tuy thời gian không dài nhưng ông Gioan Tẩy giả đã hoàn thành được sứ mệnh của người dọn đường. Ông đã xác tín một điều mà muôn dân đợi trông: Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa” (Ga 1, 34). Ngày nay chúng ta có cơ hội học biết về toàn thể lịch sử ơn cứu độ. Chúng ta có một bức tranh diễn tiến qua từng giai đoạn đón chờ của Dân Thánh. Chúng ta học biết một cách rõ ràng hơn về cách thế Thiên Chúa đã dẫn dắt lịch sử. Chúng ta biết rằng dân Do-thái thuở xưa đã phải lần bước trong đêm tối của đức tin với niềm hy vọng. Ngày nay có rất nhiều người Do-thái vẫn còn trong tâm tình chờ đợi. Những lời tiên báo, những dấu chỉ và sự xuất hiện của Ngôi Lời đã đến cách đây cả hai thiên niên kỷ. Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao nhiều người Do-thái trong thời đó đã không nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng xóa tội trần gian? Vì Chúa Giêsu đã ẩn mình xuống thế làm người như chúng ta.
Chiên Thiên Chúa đã xuất hiện và đã làm rất nhiều phép lạ để tỏ bày uy quyền trên mọi tạo vật. Có rất nhiều người đã được ơn chữa bệnh, được ăn bánh, cá và được nhìn xem những dấu chỉ lạ thường, nhưng họ vẫn không tin. Từ dòng dõi này qua dòng dõi kia, họ vẫn còn trong tâm tình chờ đợi khao khát ơn cứu độ. Thánh Gioan Tẩy Giả đã đọc được những tâm tình của những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Các thượng tế nắm chặt truyền thống và trung thành với Giáo Ước cũ. Nhưng lạ thay, các nhà chiêm tinh ngoại giáo đã nhìn thấy dấu chỉ và tìm đến cung đình để hỏi vua Hêrôđê về Vua của Dân Do-thái. Vua Hêrôđê đã tụ họp các Thượng tế và Kinh sư cẩn thận tìm hiểu lời tiên báo của các ngôn sứ nói về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Phần ngươi, hỡi Belem, miền đất Giuđa, người đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì người là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời (Mt 2, 6).
Chúa Giêsu Kitô đã đến và rao giảng tin mừng Nước Trời. Trong thời gian ngắn ngủi, Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời do miệng các tiên tri đã phán dậy. Ngài đã hiến thân mình như con chiên hiền lành bị đem đi giết. Chính Ngài đã hiến dâng mình để cứu độ và giải thoát con người khỏi tội lỗi, sự tối tăm và sự dữ. Ngài đã chiến thắng tử thần, đã sống lại từ cõi chết và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Danh thánh của Ngài được truyền rao qua mọi thế hệ. Trong thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho giáo đoàn Corintô đã trình bày: Kính chào Hội Thánh Chúa ở Côrintô, những người được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang kêu cầu thánh danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (1 Cor 1, 2). Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian xin thương xót chúng con. Chúa Chiên Lành đã yêu thương ẵm vác trên vai những con chiên bị thương tích và đưa dẫn chiên lạc lối trở về. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa đến đồng cỏ xanh tươi, có nguồn suối mát và chúng con sẽ được nghỉ ngơi an bình.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
CHIÊN THIÊN CHÚA- Lm. GB. Trần Văn Hào
Phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Ngài là Chiên Thiên Chúa, Đấng đã bị sát tế trên Thập giá, và cũng là đối tượng đức tin của mọi Kitô hữu. Cái chết của ‘Chiên Con khải hoàn’ đã khai mở cho chúng ta kỷ nguyên ơn cứu độ.
Hình ảnh Con Chiên trong Thánh kinh
Thánh Kinh nói khá nhiều về con chiên. Bên bờ sông Giordan, Thánh Gioan tiền hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho đám đông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, vị chủ tế cũng nhân danh Giáo hội đọc lại văn thức này trước lúc mọi người tiến lên hiệp lễ. Khi chúng ta rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta được ngồi vào bàn tiệc cưới Con Chiên, Đấng đã bị hiến tế, và máu của Ngài thanh tẩy mọi tội lỗi nơi chúng ta.
Trong xã hội Do Thái ngày xưa, hình ảnh con chiên đã trở nên rất quen thuộc trong sinh hoạt thường ngày của người dân, vốn sống đời du mục. Trong đêm xuất hành khỏi đất Ai Cập, người Do Thái cũng ăn bữa tiệc vượt qua với thịt chiên. Máu chiên được bôi lên cửa như dấu chỉ sự can thiệp nhiệm mầu của Thiên Chúa, Đấng cứu dân Ngài khỏi ách nô lệ. Bữa ăn vượt qua năm xưa là hình ảnh tiên báo bàn tiệc cánh chung mà sách Khải Hoàn gọi là ‘Tiệc Cưới Chiên Con’. Những ai tham dự bàn tiệc này, đều mặc áo trắng tinh, tấm áo đã được giặt trong máu con chiên vô tội, dấu chỉ của sự trinh trong và vinh thắng khải hoàn. Sách khải hoàn đã lập đi lập lại tất cả 27 lần hình ảnh con chiên sát tế này.
Bài học của Thánh Gioan Tiền Hô.
Gioan đã giới thiệu và làm chứng về Đức Giêsu cho mọi người. Ngài là một ngôn sứ lỗi lạc, nhưng đã ẩn mình để Đức Giêsu được lớn lên. Thánh Gioan công bố: “Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài”. Được Thần Khí thúc đẩy, vừa thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, Gioan đã giới thiệu Đấng Messia cho mọi người.”
Cũng như Gioan, chúng ta đã biết về Đức Giêsu và trở nên môn đệ Ngài. Nhưng sự hiểu biết về Đức Giêsu không phải chỉ dừng lại trên bình diện tri thức, song còn phải biến trở thành hành động, bằng một lối sống cụ thể. Mỗi lần chúng ta đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, chúng ta có thực sự đến để tiếp cận Đức Giêsu – Chiên Thiên Chúa, hay chúng ta đi tham dự Thánh lễ chỉ vì bổn phận hoặc theo thói quen. Khi lên rước lễ, chúng ta có thực sự ý thức ‘đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xóa tội trần gian’, hay chúng ta chỉ tiến lên một cách máy móc như một cái xác vô hồn. Chúng ta cần phải đi sâu vào cảm thức đức tin để trong cuộc sống, chúng ta luôn sống xứng đáng là những môn đệ của Đức Giêsu một cách đích thực.
Thánh Gioan đã cảm nhận ra Đấng Cứu Thế nơi nhân vật đang tiến về phía mình. Ngài liền lên tiếng giới thiệu Chúa cho mọi người. Giáo hội mời gọi chúng ta cũng hãy học lấy thái độ của Thánh Gioan, không chỉ đào sâu niềm tin vào Đấng Cứu Thế, song còn phải giới thiệu Chúa cho những người khác, qua chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.
Sứ điệp của Đức Giêsu, Chiên Thiên Chúa.
Trong bài đọc một, tiên tri Isaia cũng phác vẽ hình ảnh Đấng Messia, như một người tôi tớ của Giavê. Người tôi tớ đó đã được Đức Chúa đặt làm ‘Ánh sáng muôn dân’ để đem ơn cứu độ đến tận cùng thế giới. Cũng vậy, khi Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Ngài cũng gợi nhắc về hình ảnh con chiên bị sát tế rất hiền lành và khiêm tốn, một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng. Chúa Giêsu cũng đã từng mời gọi các học trò: “Các con hãy học với Ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đây là bài học căn bản nơi Đức Giêsu, con chiên bị sát tế trên Thập giá, mà chúng ta phải học hỏi, phải học mãi, và học cho đến suốt đời.”
Đức Cha Roncali, khi còn làm Sứ thần Tòa thánh ở Bungari đã nhận được một bức thư mà một linh mục nọ đã viết để bêu xấu Ngài. Vị linh mục chỉ trích Ngài một cách thậm tệ, nhưng Đức Cha không hề buồn giận chút nào. Ngài vẫn cầu nguyện cho người anh em linh mục đó. Hai mươi năm sau, Ngài được bầu chọn làm Giáo hoàng với tước hiệu Gioan 23. Trong một lần về Rôma để yết kiến Đức Thánh Cha, vị linh mục kia cũng ghi danh vào trong phái đoàn để gặp gỡ vị chủ chăn đáng kính. Vị linh mục này hy vọng rằng thời gian đã lâu, vả lại với bao công việc bề bộn, có lẽ Đức Thánh Cha chẳng còn nhớđến bức thư năm xưa. Nhưng khi vào triều yết, vị linh mục này rất ngạc nhiên khi được Đức Thánh Cha chào đón niềm nở và hỏi thăm công việc mục vụ của Ngài rất chân tình. Sau đó vị chủ chăn tiến đến bàn làm việc lấy ra cuốn sách nguyện, trong đó có kẹp lá thư mà vị linh mục kia đã gửi cho Ngài trước đây. Đức Thánh Cha nói: “Con yên tâm, Cha cảm ơn con nhiều lắm. Cha vẫn giữ món quà quý giá này và để nó trong sách nguyện của Cha. Cha vẫn thường đọc lại bức thư đó để xét mình hằng ngày”. Sau đó, Đức Thánh Cha ôm hôn vị linh mục một cách thắm thiết”. Đây là hình ảnh rõ nét về một vị mục tử chân chính, luôn diễn bày sự khiêm tốn và hiền lành đối với hết mọi người, nhất là đối với các anh em linh mục.
Kết luận
Trên nóc nhà thờ Werden ở một ngôi làng nhỏ bên Đức, thay vì đặt một cây Thánh gía, người ta cho đúc tượng một con chiên. Truyền thuyết kể lại rằng khi xây dựng nhà thờ, một anh công nhân từ trên tháp chuông đã bị rơi xuống đất, ở dưới có mấy con chiên đang gặm cỏ. Người công nhân rơi trúng một con chiên ở dưới. Con chiên đã chết, còn anh công nhân vẫn không hề hấn gì. Truyền thuyết đó gợi nhắc về Đức Giêsu, là Con Chiên vượt qua, Đấng đã chết để cho chúng ta được sống và sống dồi dào.
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta giặt chiếc áo linh hồn mình trắng tinh trong máu Con Chiên vô tội và được tham phần vào bàn tiệc Nước Trời. Đây là món quà lớn nhất mà Thiên Chúa ban trao. Chúng ta hãy tham đự Thánh lễ với cảm thức đức tin sâu xa này, để đến lượt mình, chúng ta cũng biết quảng diễn tình yêu cứu thế của Chúa Giêsu cho mọi người.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
TÔI TIN- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Có một câu chuyện đời xưa, mang tên “cây kiếm gỗ”, nội dung thế này:
Ngày xưa, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu của mình, và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở nên mối nghi ngờ, và tương lai trở nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ông thấy họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phát và không lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an và không lo lắng.
Ngày kia, vị vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời.
Vị vua giả dạng hỏi:
– “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?”
Người nghèo đáp:
– “Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay.”
Vị vua giả dạng hỏi tiếp:
– “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?”
– “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Người nghèo đáp.
Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin người thợ giày. Ông ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết mình bị cấm hành nghề sửa giày dép, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối.
Tối đến, vị vua dưới dạng người ăn mày thăm người nghèo. Người nghèo vẫn thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày cùa mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, vị vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. Thật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, nhưng hằng tháng. Dầu vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc.
Vị vua giả dạng thăm ông và hỏi:
– “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?”
– “Tôi được làm lính cho vua.” Người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng: “Làm lính nhận lương mỗi tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.”
Nhà vua giả dạng hỏi tiếp:
– “Nhưng nếu ông phải rút gươm ra vào ngày mai thì sao?” Người nghèo vẫn thản nhiên, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người nghèo này sẽ không thể thực hiện được việc này, và như thế để xem thử niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp ông hay không.
Tên tử tội quì mọp xuống chân anh lính và thống thiết van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Anh nhà nghèo trong tranh phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn tiếng:
– “Lạy Đấng Tối Cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Nếu người này vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ.”
Ngay tức khắc, anh rút lưỡi gươm và lưỡi gươm anh cầm trên tay là lưỡi gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên:
– “Đây là phép lạ,” và người bị kết án được tha.
Vị Vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng:
– “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm”.
Dòng đời bất an.
Trong cuộc sống, thế nào cũng có lúc ta cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa dòng đời. Điều đó khó có thể tránh được, nhất là những lúc ta đau khổ. “Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì’. Người ta cố gắng đi tìm ý nghĩa đích thực của kiếp người ngắn ngủi, nhưng xem ra, tiếng than thở thì nhiều, niềm vui không có bao nhiêu. “Ngày vui ngắn chẳng tày gang” (ND), thế nên, triết lý sống hiện tại là “hưởng thụ”. Hưởng thụ để bù lại những thiệt thòi mất mát vì sự hữu hạn của kiếp người, để tự tạo cho mình thứ hạnh phúc tạm bợ chóng qua thay vào hạnh phúc khát vọng mà con người không thể nào với tới được.
Nhưng càng chạy theo hưởng thụ, con người càng hụt hẫng, chới với. Tham vọng thì vô bờ, và cuối cùng, đời người là tiếc nuối.
Tìm hạnh phúc chỉ với hưởng thụ, chỉ với sở hữu vật chất, con người không thể nào có hạnh phúc. Dấu hiệu của sự vắng bóng hạnh phúc là sự bất an. Sự bất an ở trong lòng mỗi người đi đến bất an của nhân loại, bất an của thế giới.
Ai cho ta sự bình an?
Trong thế giới đã từng có những vĩ nhân góp phần thay đổi thế giới. Thay đổi bằng nhân sinh quan mới mẽ hay bằng chiến tranh chinh phục. Thay đổi bằng những phát minh khoa học, những khám phá phát triển kinh tế, những sáng kiến thành lập những tổ chức toàn cầu để cuộc sống con người được tốt đẹp hơn.
Rõ ràng, thế giới đã có nhiều thay đổi: giàu có hơn, văn minh hơn, gần gũi nhau hơn… Nhưng, thật đáng tiếc, thế giới cũng bất an hơn: vũ khí tân tiến hơn, phương tiện chiến tranh hiện đại hơn, tốc độ phát triển vũ khí giết người hàng loạt nhanh hơn, tranh chấp, phân tán, chia rẻ nhiều hơn, khủng bố, giết người… Bất an đáng sợ nhất đó là đạo đức sa đọa ngày một cao hơn: thứ bình an trong tội lỗi!
Thế nên, điều cần làm ngay, đó là con người cần thay đổi chính mình.
Thay đổi theo đường hướng nào? Theo chỉ nam nào? Theo mẫu mực nào? Con người cần có một vị Thầy dạy dỗ và dìu dắt.
Người đó chính là Ngài – Giêsu.
Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29).
Chỉ với một lời giới thiệu ngắn gọn, chứa đựng trọn vẹn chân lý cuộc sống và niềm hy vọng của con người.
Ở nơi Giêsu – Con Người là “Chiên Thiên Chúa” – nhân loại nhận ra bài học của Thầy chí Thánh Giêsu bài học Tình Yêu. Đấng dạy cho nhân loại Tình yêu Thiên Chúa, giá trị nhân phẩm của con người là Con Thiên Chúa, và bình an của con người là tình huynh đệ cùng là con Thiên Chúa.
Ở nơi Giêsu, nhân loại nhận biết và tin vững con người từ đâu đến, sống để làm gì, và rồi, con người sẽ đi về đâu.
Ở nơi Giêsu, con người thấu hiểu được vì sao nhân loại bất an, và hạnh phúc phù phiếm chóng qua. Con người biết mình phải làm gì để thoát khỏi tuyệt vọng.
Ở nơi Giêsu, con người mới thấy đâu là chân giá trị kiếp nhân sinh, vì con người bước đi trong ánh sáng.
Ở nơi Giêsu, con người tìm thấy tất cả những câu giải đáp cho thân phận của mình.
Và, con người vững tin nơi Giêsu, vì bài học của Giêsu không phải là bài học lý thuyết suông được viết bằng giấy mực, mà được viết bằng chính cuộc đời của Ngài. Một cuộc đời yêu thương con người, và chết cho con người. Đó là một cuộc đời Hiến Tế vì nhân loại và cho nhân loại. Ngài là Đấng Cứu Thế. Giêsu, “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
Người đó chính là Ngài – Chúng ta bước theo Ngài. “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (Ga.1,25).
Người đó chính là Ngài – Ta an tâm phó thác. “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!”. Đức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ” (Mt.8,23-26).
Người đó chính là Ngài – Ta vững lòng cậy trông. “Khi đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Người vào Thập Giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. (Lc.23,33-34).
Người đó chính là Ngài – Ta về đến bến bờ hy vọng. “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang với con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian đã tạo thành” (Ga.17,24).
Người đó chính là Ngài – Giêsu, Hạnh phúc đời ta. Không có ai khác, hay bất cứ điều gì khác có thể thay thế được Ngài. “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga.6,68).
Và, bên Giêsu, ta bình an thanh thản tâm hồn xiết bao!
Lạy Chúa Giêsu, Chiên Thiên Chúa!
Lòng con bình an trong Chúa.
Con tin vào Ngài. Amen.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN-A
NGƯỜI LÀ ĐẤNG THIÊN CHÚA TUYỂN CHỌN- Lm. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
Chúng ta đều biết Mùa Phụng Vụ Thường Niên được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn sau Mùa Giáng Sinh và giai đoạn sau Mùa Phục Sinh. Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh bao giờ cũng ngắn hơn Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Cách đây hơn ba tuần lễ, Giáo Hội mới cử hành biến cố Chúa Kitô Giáng Sinh, nay cử hành việc Người đã xuất thân loan báo Tin Mừng Nước Trời. Phải nói là Chúa Giêsu lớn quá mau theo tiến trình phụng niên. Tuy nhiên, nếu hiểu ý nghĩa Phụng Vụ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh và Hậu Phục Sinh khác nhau thế nào, chúng ta cũng sẽ hiểu được về thời gian dài ngắn của Mùa Thường Niên được chia làm hai giai đoạn này.
Theo tôi, nếu Phụng Vụ là việc Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, thì trong Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác, tức Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra cho thế gian biết Người thực sự là Đấng Thiên Sai, Đấng đến không phải để làm theo ý mình song ý Đấng đã sai (x Jn 6:38). Và nếu Chúa Kitô “đến để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37), làm chứng về mình là Đấng Thiên Sai như thế, thì Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác này đã thực sự được kết thúc ở Mầu Nhiệm Vượt Qua, một Mầu Nhiệm Chúa Kitô được Giáo Hội long trọng cử hành trong Mùa Chay, Tam Nhật Thánh, Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh. Vậy nếu giai đoạn thứ hai của Mùa Thường Niên được Giáo Hội sắp xếp sau Mùa Phục Sinh thì chắc chắn phải có một liên hệ mật thiết về ý nghĩa với Mùa Phục Sinh, như liên hệ ý nghĩa của giai đoạn Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh với Mùa Giáng Sinh vậy. Theo tôi, nếu ý nghĩa hay chủ đề của cả Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh là việc Chúa Kitô tự chứng về mình, thì ý nghĩa và chủ đề của cả Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh là việc Chúa Kitô được Thánh Thần làm chứng về Người qua Giáo Hội, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang, thời điểm kết Mùa Thường Niên nói riêng và Phụng Niên nói chung ở Lễ Chúa Kitô Vua. Như thế, chúng ta có thể suy ra, sở dĩ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh ngắn, là vì Mầu Nhiệm Chúa Kitô Thừa Tác hay Tự Chứng chỉ xẩy ra có 3 năm, trong khi Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh dài, là vì Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở cùng Giáo Hội bằng Thần Linh của Người kéo dài “cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Tuy nhiên, Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh được mở màn chẳng những với Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, như chúng ta đã cử hành tuần trước, mà còn được tiếp nối bằng một Chúa Nhật chuyển tiếp nữa là Chúa Nhật Thứ Hai hôm nay đây. Tại sao lại nói Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên hôm nay đây là Chúa Nhật chuyển tiếp?
Thưa, là vì Giáo Hội đã xen kẽ ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan vào cả ba chu kỳ phụng vụ A, B, C thay cho Phúc Âm riêng của mỗi chu kỳ, Phúc Âm Mathêu cho Năm A, Marcô cho Năm B và Luca cho Năm C. Mà nội dung của ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai của cả ba chu kỳ A, B, C là gì, nếu không phải là những bài mang ý nghĩa chuyển tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, chuyển tiếp liên tục nhau một cách rất khít khao từ năm A tới năm C. Thật vậy, bài Phúc Âm Thánh Gioan của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay cho thấy Gioan Tiền Hô, tiêu biểu cho các tiên tri thời Cựu Ước, đã xác nhận Chúa Giêsu “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Mà “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” này, trong bài Phúc Âm cũng theo Thánh Gioan ở Năm B, sau khi hai người môn đệ của Gioan Tiền Hô đến ở với Người, đã được họ cảm nhận là “Đấng Thiên Sai”. Và “Đấng Thiên Sai” như họ cảm nhận đây, trong bài Phúc Âm cũng theo Thánh Gioan ở Năm C, đã “tỏ vinh quang của Người ra để các môn đệ tin vào Người”. Từ đó, từ việc bắt đầu tỏ mình ra trước hết cho các môn đệ tiên khởi của mình này, Chúa Giêsu mới chính thức công khai tỏ mình ra, như được các Thánh Ký Nhất Lãm đề cập đến ở ba bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Thường Niên tuần tới.
Đề tài của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên
Chủ đề của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm A hôm nay thực sự là lời của Thánh Gioan Tiền Hô chứng nhận về Đấng đến sau mình, “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”. Thật ra, Chúa Giêsu cũng có thể tự làm chứng về mình. Tuy nhiên, trước mắt thế gian, nhất là vì thiện ích thiêng liêng cho dân Do Thái, Người cũng cần đến cả chứng của loài người nữa, như chính Người đã minh định với người Do Thái trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 5 câu 34 như thế này: “Quí vị đã sai người đến với Gioan, vị đã làm chứng cho sự thật. (Bản thân Tôi không cần đến một thứ chứng từ như thế, song chỉ vì phần rỗi của quí vị mà Tôi nhắc đến những điều này mà thôi)”. Đúng thế, “để danh chính ngôn thuận”, nhân vật Giêsu Nazarét vô danh tiểu tốt (x Jn 7:52) trước mắt dân Do Thái mới xuất đầu lộ diện bấy giờ cần phải có một người đỡ đầu cho, một người có thế giá lớn, được dân chúng kính phục như một vị tiên tri, chẳng hạn Gioan Tẩy Giả, giới thiệu cho thì mới được công nhận và đáng tin. Và, một khi đã được Gioan Tiền Hô giới thiệu thế nào, Chúa Giêsu phải đóng đúng vai trò của mình như thế. Bằng không, một là chứng của Gioan là chứng dối, hai là Chúa Giêsu chỉ là một kitô giả. Tuy nhiên, nếu Gioan Tẩy Giả làm chứng Chúa Giêsu “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” thì ngài phải có bằng cớ khiến cho ai cũng phải công nhận.
Vậy bằng cớ của vị tiền hô để ngài có thể làm chứng về Chúa Giêsu thực sự “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, tức là Đấng Thiên Sai, Đấng dân Do Thái mong đợi đây là gì, nếu không phải, như ngài thành thực cho biết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Như tôi nói là Tôi không hề biết Người. Đấng sai tôi làm phép rửa bằng nước bảo tôi biết rằng ‘Khi nào ngươi thấy Thần Linh xuống đậu trên ai thì vị ấy chính là Đấng rửa trong Thánh Thần’”.
Đúng thế, “là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, theo Mạc Khải Cựu Ước, trước hết phải là Đấng được tràn đầy Thần Linh, qua sự kiện được “Thần Linh đậu xuống” trên mình, và sau nữa, nhờ đó, nhờ Thần Linh và bởi Thần Linh, vị này có cả tư cách lẫn khả năng “rửa trong Thánh Linh”, tức có thể thực hiện những việc Thần Linh sai khiến. Đó là lý do, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Thường Niên Năm C tuần tới, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tuyên bố ứng nghiệm nơi trường hợp của mình lời tiên tri Isaia nói về vị được Thần Linh Chúa chẳng những “đậu xuống”, ở chỗ ngự trị và xức dầu, mà còn có khả năng “rửa trong Thánh Thần”, ở chỗ được sai đi rao giảng và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, nếu Tiên Tri Isaia trong bài đọc một nói đến ý định của Đấng tuyển chọn là: “Ta sẽ làm cho ngươi trở thành ánh sáng soi các dân nước, để ơn cứu độ của Ta chiếu đến tận cùng trái đất”, thì Thánh Vịnh 40 trong bài Đáp Ca cũng cho thấy phản ứng tương hợp của một vị thực sự là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, ở chỗ: “Lạy Chúa, này tôi xin đến để thực thi ý Chúa”, bằng việc “tôi đã loan truyền đức công minh của Ngài nơi đại hội; Ôi Chúa, Chúa biết rồi, tôi chẳng hề ngậm môi”.
Vấn đề thực hành sống đạo:
Bài đọc Thứ Hai hôm nay, Thánh Phaolô nhắc nhở Kitô hữu giáo đoàn Corintô qua bức thư thứ nhất của ngài về ơn gọi và vai trò cao quí của họ là: “những người được thánh hiến trong Chúa Giêsu Kitô và được kêu gọi là một dân thánh”. Tuy nhiên, được “Thiên Chúa tuyển chọn” “trong Chúa Giêsu Kitô” như thế, Kitô hữu chúng ta đã có một tâm hồn như câu Đáp Ca thứ ba của bài Thánh Vịnh 40 tuyên tụng hay chưa: “Ôi Chúa Trời ơi, tôi hân hoan thực thi ý Chúa, luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng tôi!”? Nghĩa là chúng ta đã hết sức nỗ lực để sống như Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai hay chưa, ở chỗ, có luôn sẵn sàng làm theo ý Đấng đã tuyển chọn để sai phái mình đi sinh hoa trái (x Jn 15:16) hay chưa? Hoa trái của chúng ta là những gì? Vì chỉ có sinh hoa kết trái Thần Linh, chúng ta mới thực sự chứng tỏ chúng ta chẳng những đã được “rửa trong Thần Linh” (Jn 3:5) khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mà còn như Chúa Kitô thực hiện được cả việc “rửa trong Thánh Thần” nữa.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
MỘT HÀNH TRÌNH SỐNG ĐẠO- Lm. Pha0lô Lê Văn Nhơn
Tôi muốn nói gì? Thưa: sẽ là chán ngấy, nếu chỉ như một kịch bản diễn đi diễn lại hằng năm. Chúa Giêsu giáng sinh với hình hài bé thơ trong ánh đèn màu. Một thoáng mây trắng bay trên bầu trời trong xanh của dòng Jordan thơ mộng, đã là một người lớn “trạc độ 30 tuổi”. Không phải thế, mùa Phụng vụ là hành trình sống đạo của Hội thánh và của mổi người Kitô hữu chúng ta. Bằng vào sự biến chuyển của thời tiết, loài người trên hành tinh nầy gọi bốn mùa: Xuân Hạ Thu Đông, cứ tưởng chẳng ảnh hưởng gì, nào ngờ….” Một phen xuân đến một phen già”. Không nghi ngờ gì, tạo Hóa đã an bài trong mỗi mùa những chất dinh dưỡng thiết yếu cho sự sinh tồn và phát triển của muôn loài. Mùa Phụng Vụ, Thiên Chúa toàn năng giàu lòng yêu thương đã tiên liệu những hồng ân đầy đủ để mổi người chúng ta theo đuổi sự nghiệp thánh hóa đời mình. Mùa Giáng Sinh chúng ta đem tất cả niềm tin đón mừng Con Thiên Chúa làm người,giành cho Ngài một miền đất sống trong tâm hồn chúng ta. Mùa Quanh năm chúng ta đón nhận hồng ân củng cố sự lựa chọn mang tính hiện sinh ấy, và triển nở đến đỉnh cao trưởng thành và viên mãn của Thân Thể nhiệm mầu Chúa Giêsu Kitô.
Lời chứng của Gioan Tẩy Giả
Trong tầm nhìn vỹ mô ấy, Lời Chúa hôm nay muốn xây dựng niềm tin vào Con Thiên Chúa trên chứng từ của thánh Gioan Tẩy Giả,một cửa sổ đặc biệt có thể mở ra đón ánh sáng Thần Khí ngay từ trong lòng mẹ. Không một con cái người nữ nào trên mặt đất nầy có thể nói như trong mơ rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi làm Phép Rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy và tôi làm chứng: Chính Ngài là Con Thiên Chúa.” Chuyện kể rằng hồi kết của Lời chứng ấy thấm nhuộm máu đào. “ Các môn đệ đem xác Ngài về an táng trong phần mộ”. Tôi không nghi ngờ gì, nhưng quả thật Ngài làm tôi choáng váng vì
Một điều kỳ diệu quá lớn lao!
Đấng Mê-xi-a, cũng gọi là Đấng Kitô, người muôn dân trông đợi,chính là Con Thiên Chúa sao?
Suốt dòng Kinh thánh cựu ước, ngay cả cụm từ Con Thiên Chúa cũng như ngọn đèn khi tỏ khi mờ.Không phải ánh sáng Thần Khí không đủ sáng, nhưng vì tầm trí năng của các ngôn sứ không đủ kích cở để có thể đón nhận và phản chiếu ánh sáng chói chan của Thần Khí. “Cho đến thời Ông Gioan” Tẩy giả, Thiên Chúa toàn năng sáng tạo một cửa sổ đặc biệt ngay từ trong lòng mẹ. Lần gặp gở đầu tiên Đấng Mê-xi-a, Gioan đã nhảy mừng. Bằng một tác động bình thường của thai nhi, em bé thông truyền ánh sáng Thần Khí cho mẹ mình khiến “bà đầy Thánh Thần và thốt lên ôi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Còn hơn một ngôn sứ nữa, ông Gioan là người cao cả, Chúa Giêsu đã nói về thánh Gioan tẩy giả như thế. Trong Phúc Âm của mình thánh Gioan tông đồ cho biết “Gioan không phải là Sự Sáng nhưng Ông đến để chứng minh Sự Sáng”
Lời Chứng của Đức Maria
Thánh Am-brô-xi-ô tập chú vào sự kiện Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-za-bết nơi Tin mừng thánh Luca: “Bà mẹ đón nhận Đức Maria đến thăm,còn người con lại cảm thấy Chúa ngự đến…Con trẻ nhảy mừng, bà mẹ đầy tràn ơn thánh. Không phải bà mẹ được đầy ơn trước, nhưng vì con được đầy tràn Thánh Thần nên cũng làm cho mẹ được đầy tràn”. Được thúc đẩy bởi Thánh Thần Đức Maria vội vã ra đi lên miền rừng núi xứ Giu-đê-a viếng thăm bà chị họ Ê-li-za-bết. Vì lòng bác ái chăng? Đúng vậy, nhưng trước hết để chu toàn sứ mệnh cao cả Thiên Chúa ủy thác. Đức Maria phải có mặt trong biến cố nầy để xác nhận Lời loan báo của Thánh Thần qua vị ngôn sứ của Ngài: “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Đúng vậy, Thiên Chúa đã ký gởi cho Mẹ Điều kỳ diệu quá lớn lao ấy.
Lời chứng cho chính mình
“Ta có chứng cao trọng hơn chứng của Gioan: đó là những việc Cha Ta đã giao cho Ta thực hiện, chính các việc mà Ta đang làm minh chứng rằng Cha đã sai Ta”. Thánh Gioan tông đồ đã cẩn thận ghi lại những lời vàng ngọc ấy là vì “để anh em tin mà được sống đời đời”. Con chim Phượng hoàng bay vút thinh không ấy thật diểm phúc: vì “Không ai biết Cha trừ ra Con, cũng không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ Con muốn mạc khải cho”. Lần khởi đi từ Lời Chứng nầy, hồi nhớ về biến cố năm 12 tuổi: Người ở lại trong đền thờ Giê-ru-sa-lem(nơi mà sau nầy Người gọi là Nhà Cha Ta) giữa các nhà thông thái đang nghiên cứu Thánh Kinh, sẵn sàng giải đáp những thắc mắc mang tính hàn lâm cao khiến các ông vô cùng kinh ngạc – Là vì Lời đã làm người mà các ông không hay biết – Điểm sáng bỏ qua cảnh ấy, hội tụ đến một nơi rất quan trọng. Trước sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Giuse (chính xác là dựa vào tình phụ tử trần gian) Lời chính thức loan báo về chính mình:
– “Thầy Mẹ tìm con làm gì? Thầy Mẹ không biết rằng CON phải thu xếp các công việc cho CHA con ư?”(lời dịch của Đức Hồng y Trịnh văn Căn từ Bản Phổ Thông)
– “Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là CON phải ở nơi nhà CHA con sao?”
(Lời dịch của cha Nguyễn thế Thuấn từ bản văn Hy Lạp)
Cơ hồ là một huyền nhiệm ẩn dấu từ muôn thuở. Phải chính Lời tỏ ra khi đến thời gian viên mãn.
Thiên Chúa Cha đích thân Xác nhận
Bước lên từ dòng sông Jordan lửng lờ trôi như dòng lệ sám hối của sứ điệp thánh Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu đang cầu nguyện. Bỏ qua lời thoại giải thích của thánh Matthêô, thánh Luca đi ngay vào quang cảnh Thần hiện: “Trời mở ra và Thánh Thần lấy hình dáng thể xác như chim câu, đáp xuống trên Ngài, và từ trời một tiếng phát ra:
Con là Con chí ái Ta, Kẻ Ta đã sủng mộ
Một nơi khác, Chính Chúa Giêsu xác nhận, Lời ấy phán ra vì anh em có nghĩa là vì sự cứu độ của muôn người, hay diển tả như thánh Gioan tông đồ “Là để anh em tin mà được sống muôn đời”.
Lời Chứng của Hội Thánh
Chính Chúa Giêsu đã tiên liệu Lời chứng mang tính pháp lý nầy,khi dẫn Phê-rô, Giacôbê, và Gioan lên núi Taborê cầu nguyện. Nơi quang cảnh Thần hiện ấy, từ trong đám mây có tiếng phán ra: “Nầy là CON rất yêu dấu của TA, các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời Chứng nầy mang tính pháp lý, vì khi thánh Phê-rô làm chứng điều nầy Ngài đã cố ý dùng từ chúng tôi có nghĩa là Lời chứng có giá trị trước tòa án theo như luật pháp lúc bấy giờ quy định. Lời chứng của ba nhân chứng.
Niềm tin vào CON THIÊN CHÚA
Những Lời chứng trên đây rốt cuộc cũng chỉ là dấu chỉ của đức tin,là lời mời gọi Hãy tin vào Con Thiên Chúa. Thật vậy,có lẽ ai đó còn có nhiều Lời chứng sâu sắc rộng rãi hơn, nhưng khi đối diện với lòng mình tôi vẫn cảm thấy bàng hoàng sợ hãi. Một sự sợ hãi kinh hoàng bao phủ tôi giống như sự sợ hãi của dân Do-thái khi đứng trước ngỏ cụt, trước là biển cả,phía sau quân thù đuổi bắt!
Trước mặt tôi là vực thẳm tăm tối,nhưng trong tôi vang lên lời thôi thúc: hay tín thác vào bàn tay uy quyền toàn năng như một bàn tay nhiệm mầu đủ sức đưa tôi từ nơi tối tăm kinh hoàng đến nơi ánh sáng kỳ diệu. Tôi đã nhảy vào vực thẳm ấy: Niềm tin vào CON THIÊN CHÚA.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suynieloichuachuanhatiithuongniena #syniemloichuagpbr