CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA – Chú giải của Fiches Dominicales 13
PHÉP RỬ CỦA LÒNG SÁM HỐI(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 20
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG – A.. 39
XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA TRONG CÔNG BÌNH VÀ BÁC ÁI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 39
LỜI CÔNG BỐ CỦA GIOAN TẨY GIẢ– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 53
CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 75
SINH HOA QUẢ XỨNG ĐÁNG VỚI LÒNG SÁM HỐI – Lm. Đan Vinh HHTM 81
HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN – Lm. Phêrô Trần Minh Đức.. 95
XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA TRONG BÁC ÁI VÀ CÔNG LÝ- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng 99
NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN BÊN- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến 107
HÃY SÁM HỐI- Lm. Fx. Lê văn Nhạc.. 113
LỜI CÔNG BỐ CỦA GIOAN TẨY GIẢ- Lm. Giuse Nguyễn An Khang 118
HÃY SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 123
DỌN CHO CHÚA MỘT CON ĐƯỜNG- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng 127
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chúa lấy sự công minh mà xét xử người nghèo khó”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.
Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng, và lấy sự trung tín làm đai lưng.
Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương.
Ngày ấy gốc Giêsê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân. Các dân sẽ khẩn cầu Ngài, và mộ Ngài sẽ được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 12-13. 17
Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người (c. 7).
Xướng: Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực.
Xướng: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.
Xướng: Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống người cùng khổ.
Xướng: Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca khen người.
Bài Ðọc II: Rm 15, 4-9
“Chúa Kitô cứu rỗi hết mọi người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, những gì đã viết ra là có ý để giáo huấn chúng ta, hầu nhờ Thánh Kinh thêm sức và an ủi, chúng ta được cậy trông. Xin Thiên Chúa, nguồn kiên tâm và an ủi, ban cho anh em biết thông cảm với nhau theo gương Chúa Giêsu Kitô, để anh em đồng thanh tôn vinh Chúa là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Vì thế, anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. Vì chúng tôi quả quyết với anh em: để chứng tỏ sự chân thật của Thiên Chúa, Ðức Giêsu Kitô đã phục vụ những người chịu phép cắt bì, hầu xác nhận lời hứa cùng các tổ phụ. Còn dân ngoại, họ tôn thờ Thiên Chúa vì lòng nhân từ Người, như lời chép rằng: “Vì vậy, lạy Chúa, con sẽ cao rao Chúa và sẽ ca tụng danh Chúa giữa các dân ngoại”.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia! – Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 3, 1-12
“Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Ngày ấy, Gioan Tẩy Giả đến giảng trong hoang địa xứ Giuđêa rằng: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: “Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Bởi vì chính Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Bấy giờ dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan.
Thấy có một số đông người biệt phái và văn nhân cũng đến xin chịu phép rửa, thì Gioan bảo rằng: “Hỡi nòi rắn độc, ai bảo các ngươi trốn lánh cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối. Chớ tự phụ nghĩ rằng: tổ tiên chúng ta là Abraham. Vì ta bảo cho các ngươi hay: Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Ðây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Phần tôi, tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi được lòng sám hối; còn Ðấng sẽ đến sau tôi có quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách giày Người. Chính Ðấng ấy sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt”.
Ðó là lời Chúa.
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN(*)- Chú giải của Noel Quession
Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.
Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng
Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.
Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”
Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.
Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói… hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).
Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.
Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?
Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!
Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.
Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.
Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!
Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.
Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.
Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.
Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.
Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.
Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!
Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.
Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.
“Người ngự đến… còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.
Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu’. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG – A
HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1/.Nước trời đã gần đến.
Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng ấy, với thánh Matthêu, ta cùng đến vào thời đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Một câu nói đủ gợi lên sự nhập vai của Gioan: “Vào những ngày ấy, Gioan xuất hiện, loan báo trong hoang địa rằng: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” Vào lúc ấy một công thức báo trước một giai đoạn mới. Một bắt đầu mới. “… Gioan xuất hiện”
+ Sự bắt đầu mới này loan báo việc nhập vai của Gioan, giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giêsu, trong câu 3,13: “Bấy giờ, Đức Giêsu đến từ Galilêa, xuất hiện bên bờ sông Giôđan”.
+ Ở đây, Gioan nhận lấy biệt danh: Tẩy Giả (người làm phép rửa), danh hiệu xếp ông vào vòng ảnh hưởng những nhóm tu sĩ thực hành nghi thức làm phép rửa, vào thời Đức Giêsu; một nghi thức mà các Kitô hữu sẽ du nhập. Và có thể đó là dấu vết của sự căng thẳng liên lỉ, mãi cho tới thời thánh Matthêu, giữa một số môn đồ của Gioan Tẩy Giả và cộng đoàn các môn đệ Đức Gìêsu?
+ Ông loan báo trong hoang địa xứ Giuđê.
Trong ký ức tập thể của dân Israel, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi tình nghĩa cha con của Thiên Chúa, và là nơi của mọi khởi đầu. Chỉ cần gợi lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của tiên tri cha trên đường về nơi Herob, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giêsu nơi hoang địa, bắt đầu sứ vụ của Ngài.
+ Ông loan báo điều gì? “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến. Trọng tâm của lời giảng của Gioan Tẩy Giả, trong Phúc âm Matthêu, cũng sẽ là trọng tâm của lời công bố của Chúa Giêsu (Mt 4,l7), cũng như sẽ là trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội, theo Tông đồ Công vụ 10,7. Điều Gioan loan báo đã là Phúc âm rồi: Phúc âm của Đức Kitô, Phúc âm của Giáo Hội Ngài. Từ nay, theo sự hướng dẫn của Matthêu, chúng ta có thể hiểu con người của hoang địa này hơn, ngài vừa nhập vai mở màn cho một đoạn mới của lịch sử ơn cứu độ
+ Vấn đề một tiên tri mà sứ mạng làm trọn lời tiên báo của Isaia 40: trong sa mạc có tiếng kêu: Hãy dọn đường Chúa, hãy săn phẳng lối Ngài”.
Cl. Tassin chú giải: “Ngày xưa, Isracl sinh ra từ hoang địa trong cuộc xuất Hành, rồi từ chuyến trở về từ nơi lưu đày. Ngày nay, phải tái sinh nhờ lắng nghe lời tiên tri, và phải dọn đường Chúa đến. Chính Đức Giêsu sẽ làm gương qua việc Ngài chịu phép rửa và thời gian ở trong hoang địa”
+ “Y phục ngài bằng lông lạc đà, nghệ thuật làm tượng thường trình bày như thế, có thể là rất lạ lùng đối với chứng ta ngày nay. Vào thời đó, nó có giá trị biểu tượng rất lớn, bởi vì nó gợi nhớ y phục của Elia (xem sách Các Vua, quyển thứ hai 1,8), mà theo truyền thống Do Thái, sự trở lại phải mở đầu cho chính Đấng Cứu Thế đến (xem Mt 11,4).
+ Còn sự toả lan ra của lời giảng của ngài, thì cũng giống như của Đức Giêsu trong câu 4,23-25, “Giêrusalem, tất cả xứ Giuđêa và khắp miền sông Giođan”. Theo lời kêu gọi của tiên tri trong sa mạc, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ đã vượt qua để vào Đất Hứa: “Họ để ông làm phép rửa trong sông Giôđan khi nhìn nhận tội lỗi họ. Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh thành mới được chuẩn bị kỹ lưỡng. Jean Perron kết luận trong “Lire la Bible”, số 52, trang 14-15: “Thu tóm trong chính mình tất cả những tiên tri từ thời Elia, Đấng tiền hô rõ ràng lời tiên tri sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo; kết thúc tiên tri và mở đầu Phúc âm, ngài là bản lề nối kết Cựu ước và Tân ước”.
2/.Sự cấp bách trở về.
Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về những đám đông tuốn đến sông Giođan, tác giả Phúc âm kể ra những loại người đặc biệt: “Những người biệt phái và những người Sađuceo” đến “chịu phép rửa” rất đông?
+ Xuất thân từ giới bình dân, danh xưng biệt phái (Pharisêu) chỉ “những người tách biệt”, “những người tinh sạch”, họ rất lo lắng đến sự tinh sạch và tuân theo lề luật đó cũng là một khuynh hướng nệ luật triệt để và nẹ hình thức tôn giáo.
+ Xuất thân từ giới thượng lưu và tư tế, những người thuộc phái Saduceo, đồng minh với trật tự đã được thiết lập, chấp nhận sự có mặt của người Roma, khác với những người biệt phái, nỗi tiếng bảo thủ trong vấn đề tôn giáo. Tuy hoàn toàn đối lập họ với nhau, hai nhóm tôn giáo này cùng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giođan theo lời kêu gọi của Gioan, cũng như chẳng bao lâu sau, họ sẽ cùng liên kết với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu Nagiarét. Vị tiên tri của sa mạc không nể nang họ. Vừa nhìn thấy họ, ông đã mạt sát: “Hỡi loài rắn độc” nghĩa là: “những môi miệng chỉ tuôn ra những lời độc địa”, ai đã chỉ dạy cho các ngươi tránh khỏi cơn thịnh nộ sắp tới?”. Liệu những con người độc địa, túi tiết ra nọc độc có thể thoát khỏi sự phán xét sắp tới của Thiên Chúa không? Lời nói nghiêm khắc nhắm vào họ tựu trung ở hai điểm, bằng một lời đe doạ tương tự như nhau: ở câu 10, “cái rìu đã ở kề gốc cây”, và ở câu 12, “tay Người cầm nia”.
+ Điểm thứ nhất là một lời khuyến khích “sinh hoa kết quả”, một hoa trái diễn tả sự trở về của các anh”. Kêu nài đến Abraham cũng không ích lợi gì cả. “Con cái đích thực của Abraham” không phải là những người nói hay nghĩ những điều đúng đắn về Thiên Chúa, mà là những người sống theo ý Thiên Chúa. Cl. Tassin chú giải: “Như thế, trái ngược với một phép rửa cứu thoát một cách tự động, Gioan đòi phải có một sự trở lại thục sự (OC. trang 40).
+ Sau cùng, trong điểm thứ hai, Gioan trình bày phép rửa “trong nước dẫn đến sự trở lại” như để chuẩn bị cho một phép rửa khác, một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. Bởi vì kẻ “đến sau ông (một từ ngữ chỉ môn đệ), thực ra lại “mạnh mẽ” hơn ông. Đến độ Gioan nhìn nhận rằng mình “không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, là nhiệm vụ dành riêng cho người nô lệ. Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đâ nhận nhiệm vụ dọn đường.
BÀI ĐỌC THÊM
1/.Không thể có Phúc Âm hóa mà không có sự trở lại.
“Gioan chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông: hoang địa, y phục, lương thực… Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giêsu nhắc lại điều đó: “Các ông nhìn thấy gì nơi hoang địa. Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy thì các ông thấy gì? Một người ăn mặc lịch sự sang trọng ư? Nhưng những người ăn mặc lịch sự sang trọng thì ở trong cung điện nhà vua” (11,7-8). Tiên tri là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón tiếp Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình: Hãy ăn năn thống hối Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của Gioan Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là nước không được nhận biết, không được chấp nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Phúc âm. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ? dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Phúc âm, trình bày Phúc âm không phai là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Phúc âm là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Phúc âm khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa của phép rửa của Gioan: trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Giođan”.
2/.Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận.
Gioan không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Giođan. Bởi vì họ đã dầm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.
Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới can hệ. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa: một ngọn lửa tinh luyện và đức rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên huy hoàng vinh quang. Chúng ta thấy đó: không phải là vấn đề giả bộ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động thì Ngài sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời se đầy tràn chan chứa. Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại! Hãy từ bỏ sự tự mãn! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn! Các bạn hãy thành thật đi! Đừng tìm cách đánh lừa, Thiên Chúa, hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời!
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- A
PHÉP RỬA CỦA LÒNG SÁM HỐI(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này nêu bật những viễn cảnh thời Mê-si-a: viễn cảnh xa: sấm ngôn của I-sai-a vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; viễn cảnh gần: lời loan báo của thánh Gioan Tẩy Giả vào thời Đức Giê-su. Hai viễn cảnh này sẽ được thực hiện ở nơi Chúa Ki-tô và bởi Chúa Ki-tô, như thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu điều này.
Is 11: 1-10
Ngôn sứ I-sai-a tiên báo rằng một vị vua công chính, thuộc dòng dõi Đa-vít, sẽ đến trong tương lai. Ngài sẽ quan tâm đến những người khiêm hạ, sẽ làm cho sự công chính hoàn hảo ngự trị và sẽ thực hiện sự hòa giải giữa muôn loài thọ tạo.
Rm 15: 4-9
Thánh Phao-lô mời gọi những người tín hữu Rô-ma phải nên tâm đầu ý hợp với nhau, theo tinh thần Chúa Ki-tô, Đấng đã hiệp nhất và hòa giải người Ki-tô hữu gốc Do thái với người Ki-tô hữu gốc lương dân; người đầu tiên là con cái của Lời Hứa, người thứ hai, con cái của Lòng Xót Thương.
Mt 3: 1-12
Tin Mừng Mát-thêu, qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả, giới thiệu cho chúng ta một biến cố được chờ mong và chuẩn bị trong suốt nhiều thế kỷ: Đấng đến, Ngài sẽ tuyển lựa giữa thóc mẩy được đưa vào kho và thóc lép bị thiêu đốt. Không có lối thoát nào có thể ngoài tấm lòng hoán cải, đó là điều kiện tất yếu.
BÀI ĐỌC I (Is 11: 1-10)
Bản văn này là một trong ba sấm ngôn về Đấng Mê-si-a được gặp thấy ở đầu sách I-sai-a, ở các chương 7, 9 và 11. Trong Năm Phụng Vụ, Năm A này, chúng ta đọc cả ba sấm ngôn này, vào Chúa Nhật II Mùa Chay, vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng và vào ngày lễ Giáng Sinh.
- Bối cảnh:
Cả ba sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đều nêu bật “Đấng Mê-si-a vương đế”, vì chúng được định vị vào trong sự nối dài của sấm ngôn Na-than cho vua Đa-vít: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi…Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 12-16). Vì thế, cả ba sấm ngôn này đều hướng đến cuộc sinh hạ của một con trẻ thuộc hoàng tộc Đa-vít, mà tên của con trẻ này là“Em-ma-nu-en” (Is 7: 14-17), nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Con trẻ này sẽ giải thoát dân Thiên Chúa khỏi cảnh đời tối tăm và áp bức (Is 9: 1-6), sẽ thiết lập triều đại công minh chính trực và kiến tạo một nền hòa bình viên mãn (Is 11: 1-9).
Cả ba sấm ngôn này được công bố cho dân thành Giê-ru-sa-lem vào hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Đối với toàn dân Ít-ra-en, đây là thời kỳ bi thảm: thế lực của đế quốc Át-sua đang bành trướng, bắt triều cống và cuối cùng tiêu diệt vương quốc miền Bắc vào năm 721 trước Công Nguyên. Vương quốc miền Nam cũng không thể tránh khỏi, phải chịu số phận chư hầu và nhận biết những đột biến đầy bi thảm.
Bản văn chúng ta đọc vào Chúa Nhật này là sấm ngôn thứ ba trong ba sấm ngôn này; niên biểu của nó thật khó xác định; chắc chắn phải đặt nó vào một trong những giờ phút lịch sử nghiêm trọng này (có thể vào cuối thế kỷ thứ tám khi vua Xan-khê-ríp, vua Át-sua, xâm lăng và bao vây thành đô Giê-ru-sa-lem?). Dù hoàn cảnh lịch sử có nghiêm trọng đến mấy đi nữa, sấm ngôn này là bài ca tràn đầy niềm hy vọng.
- Một niềm hy vọng lớn lao:
“Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non”. Hình ảnh này chắc chắn gợi lên tình trạng bi thương của vương tộc Đa-vít được ví như một cây bị chặt cả thân lẫn cành chỉ còn trơ trọi một gốc cây; nhưng vương tộc này sẽ sống lại, như gốc rễ mà người ta tưởng là đã chết lại đâm chồi nẩy lộc. Trong sấm ngôn, vị ngôn sứ tránh nêu tên Đa-vít, thậm chí cả tước hiệu vương đế nữa; ông chỉ kể một tên duy nhất: Gie-sê.
- Gốc tổ Gie-sê:
Việc không nêu tên Đa-vít có thể xem ra khác thường. Nhưng nếu khảo sát Kinh Thánh, chúng ta nhận ra rằng ông Gie-sê luôn luôn được gọi là “người Bê-lem”, trong khi vua Đa-vít gắn liền tên tuổi mình vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Về phương diện lịch sử, ông Gie-sê vẫn là một nông dân khiêm tốn của làng Bê-lem. Có thể qua cách phác họa đạm bạc này, vị ngôn sứ có một linh cảm: hậu duệ tương lai của ông Gie-sê sẽ là một con trẻ Bê-lem khiêm tốn.
- Thánh Thần xức dầu tấn phong:
“Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này”. Những ân huệ của Chúa Thánh Thần được liệt kê từng cặp, theo lối sê-mít:
– thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
– thần khí mưu lược và dũng mãnh,
– thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.
Như vậy tổng cộng là sáu ân huệ. Bản Bảy Mươi, bản dịch Hy lạp, đã thêm vào “lòng xót thương” để cho có bảy ân huệ, bởi vì con số bảy là con số chỉ sự viên mãn. Đây là nguồn gốc bảy ơn Chúa Thánh Thần của chúng ta.
Việc nhấn mạnh đến những ân huệ phong phú và thường hằng của Chúa Thánh Thần thật đáng chú ý. Nhân vật thuộc hậu duệ Gie-sê sẽ lãnh nhận ơn phù trợ, không phải tùy dịp, nhưng thường hằng. Chúng ta biết rằng Đấng mà Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong này bắt nguồn từ chữ Hy bá “Mê-si-a”, được dịch sang Hy ngữ “Christos” và được phiên âm“Ki-tô” nghĩa là “Đấng được xức dầu” phong vương.
- Triều đại của vua công chính:
“Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở”. Chân dung của vị vua lý tưởng trước hết là chân dung của vị vua công chính: đức công chính của vua được thể hiện ở nơi việc bênh vực những kẻ nghèo hèn trong xứ sở, vốn là những kẻ thấp cổ bé miệng không có tiếng nói trong xã hội, những nạn nhân của những kẻ quyền cao chức trọng, giàu có.
Được cai trị theo lẽ công minh, vương quốc của Ngài sẽ được hưởng một nền hòa bình chân thật và viên mãn. Những bất công xã hội mà các ngôn sứ không ngừng tố cáo và lên án sẽ không còn nữa. Sẽ không còn cảnh người bốc lột người, sẽ không còn cảnh áp bức và cấu xé lẫn nhau như lang sói, thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình. Cảnh thái bình này được vị ngôn sứ diễn tả bằng những hình ảnh rất sống động: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cùng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.
Phải chăng ở nơi bức tranh diễm tình này chúng ta thấy chủ đề vườn địa đàng đã mất nay được tái lập? Thực ra, đề tài này thì hiếm tại các văn sĩ kinh thánh, họ quan niệm lịch sử thánh theo chiều hướng đi lên: nhân loại tiến bước đến một trật tự mới của các tạo vật, họ hướng đến một Đấng. Cuộc trở về “thời hoàng kim” thuộc văn chương ngoại giáo hơn, ở đó lịch sử được quan niệm như một chu trình: “hết hồi bĩ cực lại sinh thời thái lai”.
Vì thế, chắc chắn đề tài được đề cập ở nơi sấm ngôn này là đề tài Kinh Thánh, đề tài về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh của con người. Chúng ta có thể trích dẫn nhiều ví dụ về đề tài này. Chẳng hạn như vào Chúa Nhật tới chúng ta sẽ đọc thấy rằng sa mạc tưng bừng nở hoa hân hoan chào đón bước chân của những người lưu đày Ba-by-lon trở về cố hương (Is 35: 1-10).
- Sự hiểu biết Thiên Chúa:
Thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình chân thật, bởi vì mọi người đều được hiểu biết Thiên Chúa cách sung mãn: “Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển”. Đó là những dấu chỉ của thời đại Mê-si-a, thời mà sự hiểu biết Thiên Chúa sẽ tràn ngập giữa con người. Đó sẽ là công trình của chồi non Gie-sê. Không có sấm ngôn nào tốt hơn sấm ngôn này về việc mặc khải Chúa Cha mà Chúa Con đem đến.
Câu cuối cùng này đã được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời hậu lưu đày, lấy lại hầu như theo sát từng từ, và đặt vào trong viễn cảnh cánh chung: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa…Sói với chiên con sẽ cùng ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò, còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta” (Is 65: 17 và 25).
- Cờ hiệu cho các dân tộc:
“Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”. Đề tài này rất gần với chủ đề mà ngôn sứ đã khai triển ở chương 2, chương nói về thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ, thật sự lôi cuốn tâm trí của toàn thể nhân loại.
BÀI ĐỌC II (Rm 15: 4-9)
Trong đoạn trích thư gởi cho các tín hữu Rô-ma này, thánh Phao-lô đề cập đến hai chủ đề: tầm quan trọng của Kinh Thánh trong việc nâng đỡ đức tin và đức cậy của người Ki-tô hữu và lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân.
- Tầm quan trọng của Kinh Thánh:
Ở đoạn văn trước, thánh Phao-lô đã trích dẫn Thánh Vịnh 69 mô tả những nỗi đau khổ của người công chính bị bách hại: “Lời kẻ thóa mạ Ngài, này chính con hứng chịu”. Đây là một ví dụ tuyệt vời cho thấy một sấm ngôn đã được chứng thực ở nơi con người và sứ vụ của Đức Ki-tô. Đây cũng là dịp để thánh nhân nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc đọc Kinh Thánh: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiễn nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy”.
Chúng ta lưu ý rằng trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, khi nói về người Do thái đọc Kinh Thánh, thánh Phao-lô viết: “Cho đến nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ” (2Cr 3: 14). Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “Cựu Ước” xuất hiện trong văn chương Ki-tô giáo. Thánh Phao-lô biết Kinh Thánh rõ hơn bất cứ ai, vì trước kia khi còn là một người Do thái nhiệt thành với niềm tin của cha ông, thánh nhân đã nghiên cứu Kinh Thánh một cách cẩn trọng qua việc thọ giáo với kinh sư Ga-ma-li-en danh tiếng; bây giờ đã là môn đệ của Chúa Ki-tô, thánh nhân thích thú đọc và chiêm niệm những mầu nhiệm loan báo cuộc đời của Đức Ki-tô trong Kinh Thánh.
Lời khuyên bảo của thánh nhân cho ông Ti-mô-thê-ô, vừa là người môn đệ vừa là cộng tác viên thân tín của mình, chứng thực điều đó: “Tất cả những gì viết trong Kinh Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2Tm 3: 16-17). Giờ đây, lời khuyên bảo tương tự như thế được gởi đến cho các tín hữu Rô-ma: “Quả thế, mọi lời xưa đã chếp trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trong cậy”. Lời khuyên này chứng thực rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân đã bắt đầu học Kinh Thánh mà không cần phải học tiếng Hy-bá, vì họ đã có trong tầm tay bản Bảy Mươi, bản dịch Kinh Thánh bằng Hy ngữ.
Thật có ý nghĩa biết bao khi mà trong các sách Tin Mừng những lời trích dẫn Cựu Ước hầu như luôn luôn được trích dẫn từ bản Bảy Mươi chứ không từ bản Hy-bá. Sự kiện này ghi nhận một điều rất quan trọng theo đó, ngay từ khởi đầu Giáo Hội, những Ki-tô hữu gốc lương dân đã được Lời Chúa quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Hy-lạp. Hiện nay cũng thế, các Ki-tô hữu thuộc mọi dân mọi nước trên thế giới được quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ các bản dịch Kinh Thánh sang tiếng mẹ đẻ của mình. Bởi lẽ đối với mỗi người Ki-tô hữu, trước hết Kinh Thánh chính là Lời Thiên Chúa, và trên tất cả là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thứ nữa, khi đọc Kinh Thánh, họ ý thức với một niềm xác tín sâu xa rằng không đơn thuần đọc lại những lời nói và những hành động của Thiên Chúa trong quá khứ mà cốt yếu là nhận ra rằng vị Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, vẫn tiếp tục nói và hành động trong Giáo Hội và trong cuộc đời hiện nay của họ qua từng biến cố nhỏ to.
- Lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau:
“Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Giê-su Ki-tô đòi hỏi”. Lời khẩn cầu này khai mào chủ đề thứ hai và nói lên nỗi bận lòng sâu xa của vị Tông Đồ: sự hiệp nhất của cộng đồng gồm những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân, mà biết bao những đối kháng ngay từ đầu có nguy cơ dẫn đến sự đối lập giữa họ.
Đây không là một vấn đề đặc thù mà cộng đoàn Rô-ma gặp phải, tất cả thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên đều đã nhận biết những căng thẳng như thế. Tuy nhiên, trong thủ đô của đế quốc, tình trạng đã trở nên trầm trọng hơn vì hoàn cảnh lịch sử. Hoàng đế Claudius đã ban chiếu chỉ vào năm 49 ra lệnh trục xuất những người Do thái khỏi kinh thành Rô-ma, lấy cớ những rối loạn “do bởi ông Ki-tô”. Có lẽ lời rao giảng của Ki-tô giáo đã gây nên những xáo trộn trong cộng đồng Do thái, một cộng đồng quan trọng trong thủ đô Rô-ma. Và vì không thể phân biệt giữa những người Do thái trung thành với luật Mô-sê và những người Do thái theo Ki-tô giáo, nên chiếu chỉ này được áp dụng cho cả hai (chính vì thế mà ông bà A-qui-la và Pơ-rít-ki-la rời Rô-ma và đến lánh nạn ở Cô-rin-tô: Cv 18: 2-3).
Sau khi hoàng đế Claudius băng hà vào năm 54, những Ki-tô hữu gốc Do thái trở lại Rô-ma. Ấy vậy, chỉ sau vài năm, Giáo Đoàn Rô-ma chỉ còn toàn những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Những xích mích khó mà tránh khỏi giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô đã viết thư này vào mùa xuân năm 57. Những sự cố vẫn còn hiển hiện trong bức thư này.
“Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa”. Lời khuyên bảo của thánh Phao-lô chủ yếu gởi đến những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ phải cho thấy mình là anh em đối với những người con của Lời Hứa, tức người Ki-tô hữu gốc Do thái; vì chính họ, những lương dân, nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, đã trở thành những người con mới của Lời Hứa, nhờ đó họ cũng có thể tôn vinh Thiên Chúa chân thật.
Và như để nhắc lại lời khẳng định ban đầu về giá trị của Kinh Thánh, thánh Phao-lô kết thúc bằng lời trích dẫn Tv 18: “Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa”. Qua hình thức đóng khung này, thánh Phao-lô một lần nữa nhắc cho họ nhớ rằng không phải lời giáo huấn của thánh nhân, nói cách chính xác lời khuyên bảo của thánh nhân chỉ là phục vụ Lời Chúa mà thôi, nhưng chính Lời Chúa quy tụ và hiệp nhất tất cả các tín hữu, dù người Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái hay từ lương dân, và thậm chí cả người Do thái nữa. Đó cũng là phương sách mà Đấng Phục Sinh đã vận dụng khi đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau “bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24: 27).
TIN MỪNG (Mt 3: 1-12)
Thánh Mát-thêu dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực hoạt động của Gioan Tẩy Giả mà không có bất kỳ lời mào đầu nào. Chính nhờ một tác giả Tin Mừng khác, thánh Lu-ca, mà chúng ta nhận biết nhân cách của Gioan Tẩy Giả, gia đình của ông, hoàn cảnh chào đời của ông, vân vân (Lc 1: 5-25, 57-80). Như vậy, chắc hẳn khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với sự xuất hiện đột ngột của vị Tiền Hô và sứ điệp của ông. Sách Tin Mừng Mác-cô và sách Tin Mừng Gioan xác nhận lời chứng này, theo cùng một hướng đi như phần mở đầu đột ngột của Tin Mừng Mát-thêu. Phân đoạn mà chúng ta thường gọi là “Tin Mừng Thời Thơ Ấu” theo Thánh Mát-thêu (ch. 1-2) đã được thêm vào sau như Tựa Ngôn.
- Hoang địa miền Giu-đê-a:
Việc thánh Gioan Tẩy Giả chọn hoang địa làm khung cảnh cho lời rao giảng của ông không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đối với dân Ít-ra-en, hoang địa gợi lên biết bao kỷ niệm sống động trong tâm trí của họ. Hoang địa là nơi dân Ngài gặp gỡ Thiên Chúa của mình, là nơi Thiên Chúa kết giao đính ước với dân Ngài và cũng là nơi dân Ngài đã trải qua kinh nghiệm tôn giáo trong những gian nan thử thách. Đã có một khoa thần bí về hoang địa, mà sự hiện diện của cộng đoàn Qumran trong vùng đất này làm chứng. Cộng đoàn này chuẩn bị tâm hồn trong đời sống khổ chế, cầu nguyện và thanh tẩy để chờ đón kỷ nguyên Mê-si-a. Mặt khác, hoang địa ban cho “nước” ý nghĩa tròn đầy của nó: hơn bất cứ nơi nào khác, ở đây nước là sự sống, đồng nghĩa với ơn cứu độ. Sau cùng, hoang địa còn mang biết bao giá trị biểu tượng: chính hoang địa khô khan cằn cỗi của những tâm hồn mà Gioan Tẩy Giả mời gọi biến thành những mảnh đất tâm linh phì nhiêu.
- Nước Trời đã đến gần:
“Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. “Ăn năn sám hối” được dịch từ động từ Hy lạp, có nghĩa: suy nghĩ lại, thay đổi tâm tư tình cảm, thay lòng đổi dạ, thay đổi cách ăn nếp ở, hoán cải, tức là từ bỏ đàng tội lỗi mà quay trở về cùng Thiên Chúa. Nguyên do của việc hoán cải là vì “Nước Trời đã đến gần rồi”.
Động từ Hy ngữ được dùng trong câu: “Nước Trời đã đến gần” ở thì hiện tại hoàn thành, vì thế, phải hiểu: “Nước Trời đã đến và hiện có mặt ở đây rồi”. Thánh Mát-thêu hầu như luôn luôn dùng diễn ngữ: “Nước Trời”, khác với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca: “Nước Thiên Chúa”. Đây là kiểu nói sê-mít để tránh gọi tên cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, từ Hy-lạp “basileia” có nghĩa, “nước” hay “vương quốc”, hoặc “triều đại”. Thuật ngữ “triều đại” thích hợp hơn, vì trong Tin Mừng thuật ngữ này được dùng để chỉ không là một thực thể địa lý: một nước, một quốc gia, hay một vương quốc, nhưng là thời điểm thánh ý Thiên Chúa sẽ được thực hiện ở dưới đất cũng như ở trên trời. Đó là mục đích mà Thiên Chúa nhắm đến cho toàn thể vũ trụ như trong lời kinh Chúa dạy: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Thánh Gioan Tẩy Giả cất tiếng kêu gọi sự hoán cải. Nhiều ngôn sứ đã cất cao lời mời gọi như thế rồi. Nhưng từ lâu, đã không còn có ngôn sứ nào xuất hiện trong dân Ít-ra-en kể từ ngôn sứ Ma-la-khi, Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ cuối cùng, ông công bố Đấng Mê-si-a sắp đến rồi, ông là vị Tiền Hô mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẳn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Trong bối cảnh của mình, vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc hồi hương trở về của những người lưu đày Ba-by-lon sắp đến và mời gọi những người lưu đày này hãy chuẩn bị chờ đón Đức Chúa, Ngài sẽ thực hiện một cuộc xuất hành mới để dẫn dân Ngài hồi hương trở về quê cha đất tổ.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu trích dẫn Is 40: 3 theo bản Bảy Mươi chứ không theo bản gốc Hy bá. Có hai điểm khác nhau giữa bản văn Hy bá và bản văn Hy lạ về cách ngắt câu và về từ ngữ. Về cách ngắt câu, trong bản văn Hy bá cụm từ chỉ nơi chốn: “trong hoang địa” đi theo với câu sau và có một sự khác biệt của dụng ngữ giữa bản Bảy Mươi và bản Hy bá: thay vì “hãy mở một con đường” và “hãy vạch một con lộ”, bản Bảy mươi lại viết: “hãy dọn sẵn một con đường” và “hãy sữa cho thẳng những nẻo đường”. Như vậy, bản Hy-bá viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”, thì bản văn Bảy Mươi điều chỉnh lại: “Có tiếng người hô trong hoang địa: ‘Hãy dọn sẵncon đường cho Đức Chúa, hãy sữa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Vì thế, qua việc ngắt câu khác và qua các việc sữa đổi vài từ ngữ, bản Bảy Mươi đem lại cho sấm ngôn I-sai-a một chiều kích tâm linh hơn.
Các sách Tin Mừng Nhất Lãm trích dẫn Is 40: 3 theo bản Bảy Mươi, tuy nhiên các tác giả Tin Mừng có vài sữa đổi cho phù hợp với bối cảnh hiện nay của mình. Thay vì kiểu nói mơ hồ không xác định: “Có tiếng hô trong hoang địa” của bản Bảy Mươi, Tin Mừng Nhất Lãm thêm từ “người”: “Có tiếng người hô trong hoang địa”, nhờ đó Tin Mừng Nhất Lãm có thể áp dụng câu này vào sứ mạng của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đấng Mê-si-a. Và thay vì kiểu nói: “sữa lối cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta” của bản Bảy Mươi, thì Tin Mừng Nhất Lãm lại thay từ “Người” cho từ “Thiên Chúa”: “sữa lối cho thẳng đểNgười đi”, nhờ đó Tin Mừng Nhất Lãm dể dàng quy chiếu đến Đức Giê-su.
- Cách sống của thánh Gioan Tẩy Giả:
Cách ăn mặc quá đạm bạc của Gioan Tẩy Giả cho thấy mẫu gương của đời sống khổ chế và tấm lòng sám hối: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da. Cách ăn mặc này gợi nhớ cách ăn mặc của các ngôn sứ nhiều lần được mô tả trong các bản văn Kinh Thánh, nhất là ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ đã chọn cách ăn mặc như thế để bày tỏ sự phản kháng của mình chống lại thói xa hoa và hư hỏng của vương quốc Ít-ra-en (2V 1: 8). Ấy vậy, rõ ràng ngôn sứ Ê-li-a là vị ngôn sứ mà dân chúng đang mong đợi sự trở lại của ông vào thời đại Mê-si-a. Còn về châu chấu và mật ong rừng, mà vị Tiền Hô dùng làm lương thực, là những thức ăn được gặp thấy trong hoang địa này.
- Phép rửa tỏ lòng sám hối:
Nghi thức phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng như dấu chỉ bày tỏ sự hoán cải là nghi thức rất phổ biến vào thời đó. Các vị lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi các tân tòng muốn gia nhập vào cộng đoàn Ít-ra-en phải lãnh nhận phép rửa, ngoài phép cắt bì. Người Do thái thực hành nhiều nghi thức thanh tẩy, và họ còn thêm một số lượng lớn vào thời hậu lưu đày. Những nghi thức này được thực hành hằng ngày tại cộng đoàn Qumran. Tuy thế, phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng là một nghi thức thanh tẩy độc nhất vô nhị; bởi vì ngoài việc thanh tẩy bên ngoài, nghi thức này là dấu hiệu của việc thanh tẩy nội tâm: chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng chưa có quyền năng tha thứ tội lỗi.
- Khắp miền Giu-đê-a:
“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê-a, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông”. Việc Gioan Tẩy Giả rao giảng thành công là điều chắc chắn. Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết rằng có những cộng đoàn tự nhận mình là môn đệ của vị Tiền Hô lâu sau khi Gioan Tẩy Giả qua đời. Những cộng đoàn này đã được hình thành thậm chí vượt ra bên ngoài miền Giu-đê-a nữa, như ở Ê-phê-sô (Cv 19: 1-7) và ở A-lê-xan-ri-a (Cv 18: 24-25). Nhưng kiểu nói của thánh Mát-thêu “khắp miền Giu-đê-a” là kiểu nói phóng đại có chủ ý để nhấn mạnh trước sự tương phản mà sau này đám đông dân chúng căm thù Đức Giê-su bày tỏ ra.
- Những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc:
Đây là lúc tác giả Tin Mừng cất cao giọng: qua Gioan Tẩy Giả, thánh ký lớn tiếng tố cáo thói giả hình của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, như sau này Chúa Giê-su cũng sẽ làm như vậy. Những người này đến chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối, nhưng tự thâm tâm, họ tự hào tự phụ rằng mình chẳng có gì phải sợ sự phán xét của Thiên Chúa cả, vì mình là “con cháu ông Áp-ra-ham” (x. Ga 8: 33-40; Rm 9: 7-8).
Thánh ký liên kết trong cùng một tiến trình hai nhóm người rất đối lập với nhau, bất đồng sâu xa về thái độ tôn giáo, xã hội và chính trị; nhưng họ đại diện những đối thủ tiêu biểu của Chúa Giê-su cũng như của Giáo Hội tiên khởi sau này. Những lời chỉ trích sinh động được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, tiên báo hoàn cảnh căng thẳng mà Chúa Giê-su và Giáo Hội tiên khởi sẽ trải qua.
– Phái Xa-đốc cốt yếu là giai cấp giáo sĩ; họ đại diện khuynh hướng bảo thủ tôn giáo: chỉ chấp nhận truyền thống văn tự mà các tư tế là những người chú giải duy nhất, chứ không các kinh sư giải thích Luật; họ thuộc vào giai cấp giàu có và tán thành cuộc chiếm đóng của đế quốc Rô-ma. Phái này biến mất sau năm 70, tức là, sau khi kinh thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ và Đền Thờ bị phá hủy.
– Phái Pha-ri-sêu, đông hơn phái Xa-đốc nhiều, đại diện yếu tố sống động của Do thái giáo. Ngoài truyền thống văn tự, họ còn chấp nhận các truyền thống miệng. Nhưng lòng nhiệt thành của họ đối với Lề Luật đã sinh ra muôn vàn luật cảnh huống nghiêm nhặt; họ hình thành nên một tầng lớp trung lưu; họ không là những người phục vụ Đền Thờ nhưng phục vụ các hội đường; chính qua các kinh sư thuộc phái của họ mà họ có ảnh hưởng trên dân chúng. Những kinh sư danh tiếng nhất đều thuộc phái Pha-ri-sêu, như kinh sư Ga-ma-li-en, thầy của thánh Phao-lô sau này.
Gioan Tẩy Giả chỉ trích nặng lời hai nhóm này bằng ba câu. Trước hết, “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?”. “Ai”được ám chỉ ở đây nếu không là quỷ? Do đó, việc kể ra con rắn độc là ám chỉ đến con rắn của sách Sáng Thế, con rắn dẫn đưa con người đến chỗ xa rời Thiên Chúa.
Thứ đến, thánh Gioan nhắc nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham vì “Thiên Chúa có thể làm cho những viên đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Câu nói lạ lùng này dựa trên lối chơi chữ không thể dịch được: theo ngôn ngữ A-ram, từ “con cái ” là “benê” và “những viên đá” là “abênê”; tuy nhiên, ý nghĩa thì rất rõ ràng, thánh Gioan nhắc cho họ nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham, vì không có gì Thiên Chúa không làm được.
Và cuối cùng, “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Trong Cựu Ước, dân Ít-ra-en được ví như cây không sinh quả tốt như lòng Thiên Chúa mong đợi. Như vậy, hành vi sám hối mà thánh Gioan mời gọi không đơn giản đón nhận nghi thức phép rửa mà phải phát sinh những việc lành phúc đức. Đó là điều Thiên Chúa chờ đợi ở nơi từng người tín hữu.
Theo văn mạch, chắc chắn những lời này nhắm đến tính phụ tự mãn của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, nhưng bài học cũng được gởi đến cho bất cứ những ai lấy cớ này hay cớ nọ để ru ngủ tiếng lương tâm mình.
- Đức khiêm hạ của vị Tiền Hô:
Gioan Tẩy Giả có một cảm thức sâu xa về sự cao cả của Thiên Chúa, đồng thời ông có một ý thức sắc bén về tội lỗi. Hai thái độ này chung chung được liên kết với nhau trong con người của Gioan: ông nhận ra sự nhỏ bé của mình trước Đấng đến sau ông đến mức ông không xứng đáng xách dép cho Ngài. Hình ảnh so sánh này rất sinh động: những hối nhân cởi dép để bước xuống sông Gio-đan. Quả thật, truyền thống dạy rằng không được bắt những nô lệ gốc Do thái làm những việc quá nặng nhọc hay thấp kém, như “cởi dép cho chủ hay rửa chân cho chủ”. Như vậy, thánh Gioan Tẩy Giả tự đặt mình vào hàng nô lệ rốt hết để ghi nhân một khoảng cách quá lớn giữa thánh nhân, vị Tiền Hô, và Đấng Mê-si-a mà thánh nhân có sứ mạng loan báo.
Sau cùng, thánh nhân tuyên bố phép rửa mà ông làm thì chưa đủ, bởi vì phép rửa trong nước này chỉ để giục lòng ăn năn sám hối chuẩn bị đón nhận ơn tha thứ mà Đấng Mê-si-a đem đến. Còn Đấng mà ông loan báo đến sau ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Phép rửa của Ngài mới có quyền năng tha thứ tội lỗi.
- Đấng Mê-si-a Thẩm Phán:
Gioan Tẩy Giả thoáng thấy Đấng Mê-si-a đến như một vị Thẩm Phán. Quả thật, đây là một chủ đề thường hằng của trào lưu ngôn sứ, các ngài loan báo “Ngày của Chúa” như Ngày Chung Thẩm và trình bày kỷ nguyên Mê-si-a như tham dự trước kỷ nguyên cánh chung. Đức Giê-su thật sự sẽ là vị Thẩm Phán của thời cuối cùng: sự hiện diện của Ngài sẽ đòi buộc một sự chọn lựa dứt khoát.
Hình ảnh mùa gặt là hình ảnh kinh điển để chỉ về cuộc tụ họp vĩ đại của ngày cánh chung, ví dụ như Is 27: 12: “Rồi ngày kia Đức Chúa sẽ đập lúa từ sông Cả cho tới suối Ai-cập. Và anh em, hỡi con cái Ít-ra-en, từng người một, anh em sẽ được Chúa mót nhặt về”. Chủ đề“lửa” xuất hiện ở đây với hai giá trị: lửa thanh luyện người công chính và ngay lành, vì thế, tác dụng của lửa gần với tác động của Chúa Thánh Thần: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thần Khí và lửa”; đồng thời cũng là lửa trừng phạt không hề tắt sẽ thiêu hủy những kẻ bất chính và bất lương.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã thấy sự xuất hiện của Đức Giê-su như vị Thẩm Phán: thưởng những người lành thánh và phạt những kẻ gian ác. Vì thế, thánh nhân so sánh hành động của Ngài như một người tiều phu dùng rìu hạ những cây nào không sinh trái tốt và như một người nông dân sàng sẩy sân lúa, lúa tốt thì chất vào khó lẫm, còn lúa xấu thì sẽ dùng lửa không hề tắt mà thiêu hủy.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA TRONG CÔNG BÌNH VÀ BÁC ÁI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Ngôn sứ Isaia nói tiên tri về nền hòa bình trong Nước Thiên Chúa (Bài đọc I)
– Tv 71 cầu nguyện cho Nước hoà bình ấy mau đến (Đáp ca)
– Gioan Tẩy giả loan báo Nước ấy sắp đến (Tin Mừng)
– Thánh Phaolô dạy những công dân Nước Thiên Chúa phải sống thế nào (Bài đọc II)
Lời Chúa trong Chúa nhựt vừa qua hé mở cho chúng ta thấy một tương lai tốt đẹp đang sẵn chờ chúng ta, và kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức sẵn sàng để đón nhận nó. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ hơn tương lai tốt đẹp ấy chính là Nước Thiên Chúa. Trong Nước này, chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp cai trị và mọi công dân sẽ sống rất hạnh phúc trong công bình và bác ái.
Trên cơ bản, Giáo Hội chính là Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, trên thực tế Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Nước Thiên Chúa vì ở một số phương diện vẫn còn rất nhiều lỗi lầm sai sót. Bởi đó mỗi người trong Giáo Hội cần phải sám hối sửa đổi cuộc sống mình để Giáo Hội ngày càng xứng đáng là Nước Thiên Chúa hơn.
– Công dân Nước Thiên Chúa phải phục quyền Thiên Chúa là vua của mình. Nhưng chúng ta thường không vâng phục Thiên Chúa.
– Công dân Nước Thiên Chúa phải sống hòa thuận với nhau. Nhưng chúng ta thường bất hòa với nhau.
– Công dân Nước Thiên Chúa phải tích cực xây dựng và mở mang Nước Thiên Chúa. Nhưng chúng ta rất thờ ơ với trách nhiệm này.
Với Isaia, chúng ta đang ở thế kỷ VIII trước công nguyên. Khi ấy, dân do thái thất vọng chán chường về những ông vua đã và đang cai trị họ : chỉ lo cho bản thân và gia đình mình chứ không lo cho dân, xã hội đầy dẫy bất công, luân lý suy đồi, tín ngưỡng nguội lạnh…
Đúng lúc đó Ngôn sứ Isaia lên tiếng tiên báo rằng sẽ có ngày Thiên Chúa sai Đấng Messia của Ngài đến để thiết lập Nước Thiên Chúa :
– Đấng Messia ấy sẽ sinh ra từ gốc tổ Giêsê. Ngài sẽ đầy tràn thần linh Thiên Chúa, tức là thần khôn ngoan, thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho dân Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.
– Ngài sẽ xét đoán công minh, bênh vực người hiền lành, trừng trị những kẻ áp bức.
– Dân sẽ sống hoà thuận hạnh phúc : “sói sống chung với chiên con, beo năm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau… trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc…”
Tv 71 diễn tả lời cầu xin của dân chúng cho triều đại ấy mau đến : “Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại Người cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng”.
Gioan Tẩy giả cho biết Đấng Messia mà ngôn sứ Isaia tiên báo sắp đến rồi và do đó Nước Thiên Chúa ấy cũng gần đến. Vậy mọi người hãy dọn đường cho Ngài. Dọn đường bằng cách :
– Sám hối từ bỏ tội lỗi
– làm việc lành cho xứng với lòng sám hối ấy.
Đấng Messia chính là Đức Giêsu. Nước Thiên Chúa mà Ngài thiết lập chính là Giáo Hội.
Thánh Phaolô dạy các kitô hữu, tức là những công dân trong Nước Chúa, phải sống với nhau như thế nào : thông cảm với nhau, tiếp rước nhau, phục vụ nhau.
Khi đọc sách lịch sử, hoặc đọc báo mỗi ngày, chắc hẳn là nhiều lần chúng ta phải xấu hổ vì mình đã làm người. Lịch sử loài người thế nào ? Thưa là chiến tranh, chiến tranh và chiến tranh. Bao nhiêu là chết chóc, bao nhiêu là sợ hãi, bao nhiêu là nước mắt. Một triết gia đã than : Homo homini lupus ! (Con người là sói dữ của con người)
Các nhà du hành vũ trụ là những người đầu tiên được nhìn thấy trái đất từ bên ngoài. Từ ngoài vũ trụ nhìn vào, họ thấy trái đất như một gia đình đông đúc cùng cư ngụ trong một mái nhà chung. Một nhà du hành kể : ngày thứ nhất trong vũ trụ, mọi người chúng tôi ai cũng nhìn xuống tìm đất nước của mình ; ngày thứ hai tìm lục địa của mình, và ngày thứ ba ai nấy đều ý thức mình cùng chung một trái đất.
Trên đây là hai cái nhìn vào trái đất và loài người : một cái nhìn từ bên ngoài và một cái nhìn từ bên trong.
Trong bài đọc I, Ngôn sứ Isaia cũng dùng một cái nhìn từ bên ngoài để mô tả cảnh thái bình mà ông nghĩ sẽ được thực hiện vào thời đại Messia : “Sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau ; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm ngủ chung với nhau ; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô ; trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc ; các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào…”
Đức Giêsu chính là Đấng Messia. Khi Ngài đến, Ngài đã thiết lập thời đại thái bình ấy. Thánh Marcô kể rằng trong 40 ngày ở hoang địa, Đức Giêsu đã sống chung một cách hòa thuận với các dã thú, và các thiên sứ hầu hạ Ngài (Mc 1,12). Giáo Hội thời sơ khai cũng là một cảnh thái bình. Sách Công vụ tông đồ viết : “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ Bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến” (Cv 3,44-47).
Nhưng rồi cảnh thái bình ấy đã dần dần biến mất : con người đối xử với nhau còn tệ hơn dã thú, thay vì chia sẻ cho nhau thì lại tranh dành với nhau, thay vì tất cả đồng tâm nhất trí thì mỗi người một ý không ai chịu ai… Trong Mùa Vọng, chúng ta hãy nỗ lực tái tạo cảnh thái bình ngày xưa, ít ra là trong gia đình mình, trong khu xóm mình, trong tập thể mà mình đang sống.
Khi Thánh Phaolô muốn dạy các tín hữu phải sống với nhau thế nào để cộng đoàn Giáo Hội của họ thực sự là một cuộc sống hạnh phúc trong Nước Chúa, Ngài đã chỉ họ 3 việc : thông cảm nhau, tiếp rước nhau và phục vụ nhau.
– Thông cảm : phải chăng lý do khiến người ta buồn giận nhau, chỉ trích nhau, kết án nhau… là vì người ta không thông cảm cho nhau ?
– Tiếp rước : phải chăng nguyên cớ của những cảnh “mạnh ai nấy sống”, “đèn nhà ai nhà nấy sáng”, “sống chết mặc bây”… là vì người ta không tiếp rước nhau ?
– Phục vụ : phải chăng nguồn gốc của những chèn ép, tranh dành, ích kỷ… là vì người ta không phục vụ nhau ?
Thử tưởng tượng một tập thể mà ai nấy đều thông cảm, tiếp rước và phục vụ mọi người khác. Cảnh tượng sẽ chẳng kém gì giấc mơ thái bình của ngôn sứ Isaia và bức tranh tuyệt vời của cộng đoàn tín hữu sơ khai.
“Hãy dọn đường Chúa”, đó là lời Thánh Gioan Tiền hô kêu gọi.
Xin được phép gợi lên một vài suy nghĩ hơi thi vị về những con đường.
Thánh kinh có nói tới nhiều con đường :
– Con đường dân Do thái đã đi qua trong sa mạc : một con đường quanh co đi hoài đi mãi suốt 40 năm lang thang để tìm về Đất Hứa.
– Con đường từ Giêrusalem xuống thành Giêricô : một con đường hiểm trở đầy những ổ phục kích của bọn cướp, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về một người lữ hành đi qua con đường đó bị bọn cướp đánh dở sống dở chết.
– Con đường của Chúa Giêsu và các tông đồ một lần kia đi ngang qua xứ Samaria ngoại đạo : một con đường đã bị chặn lại không cho đi vì những thành kiến thù nghịch giữa hai dân tộc.
– Con đường thập giá của Chúa Giêsu : một con đường khổ đau rải rác những giọt máu của Đấng Cứu thế.
– Con đường về làng Emmau mà có lần sau phục sinh, hai môn đệ của Chúa Giêsu đã cùng Ngài sánh bước : một con đường mù sương che mắt khiến hai ông không nhận ra Thầy mình.
– Và con đường là chính Chúa Giêsu “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống”.
Những con đường trong Thánh kinh ấy, thực ra là hình bóng của những con đường trong đời người : trong cuộc đời, có :
– có những con đường chăng dây kẽm gai : con đường của những kẻ thù hận nhau, nó ngăn chận những tương giao qua lại.
– Có những con đường đầy ổ phục kích : con đường của những kẻ cạnh tranh nhau, chờ cơ hội để khai thác nhau, lợi dụng nhau, làm hại nhau.
– có những con đường hầm u tối : con đường của những kẻ lọc lừa, gian dối.
– có những con đường quanh co trong rừng rậm : con đường của những kẻ lén lút sống trong vòng tội lỗi.
– có những con đường gồ ghề lồi lõm : con đường của những kẻ mang một tật xấu thâm căn cố đế, hoặc kiêu căng, hoặc hà tiện, hoặc đam mê sắc dục…
– có những con đường cỏ dại mọc đầy : con đường của những kẻ không vướng mắc tội nặng nhưng còn rất nhiều tội nhẹ.
– Có những con đường sa mạc cát nóng : con đường của những kẻ khô khan việc đạo.
– và cũng có những con đường cái quan thẳng tắp : con đường bình an của những kẻ đạo hạnh, ngày càng tiến nhanh về Chúa.
Cuộc đời mỗi người chúng ta là một con đường : con đường hai chiều đưa ta đến với Chúa và Chúa đến với ta, hay đưa ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta.
– Đó chính là con đường mà Chúa Giáng Sinh muốn đi, đi để đến với ta, và qua ta để đến với tha nhân : đến để mang cho ta và cho anh em ta muôn ơn lành : ơn bình an, ơn hạnh phúc, ơn đạo hạnh.
* Hội Thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội Thánh có Lời Hứa của Chúa. Hội Thánh là một phép lạ liên lỉ. Tuy nhiên đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Cũng đừng vì đó mà tha hồ làm gương xấu để Chúa phải làm phép lạ mỗi ngày (ĐHV 264)
Nữ tu đời Ange Hattei, trong tác phẩm “Jesus caritas” có thuật lại câu chuyện như sau :
Trước Công đồng Vaticanô II, một hôm có người bạn vô thần tôi yêu mến đã nhận định với tôi rằng : Hội Thánh là một thế lực tiền bạc, là điểm tựa của các nhà độc tài và đại tư bản. Ông ta thắc mắc về các vị lãnh đạo Hội Thánh độc đoán và phe phái, về các tín hữu tự cho mình là tốt mà hành động xấu xa, về các Linh mục lo lắng thụ hưởng và làm giàu… Tôi kiên nhẫn lắng nghe ông rồi nói : “Tôi đã làm gì mà anh hạ nhục tôi như vậy ?” Ông ta sừng sỏ bảo : “Tôi sỉ nhục cô ư ? Nhưng tôi đâu có nói gì cô ! Không nói gì cô mà cũng chẳng nói gì về một người bạn nào của cô cả, như Linh mục X, hay chị Y chẳng hạn. Tôi nói đến Hội Thánh cách chung mà !” Tôi trả lời : “Hội Thánh cách chung là tôi, Hội Thánh cách chung là tất cả những người mà anh chỉ trích, những kẻ mà anh loại trừ. Họ trộn lẫn với nhau một cách không thể phân ly được. Hội Thánh cách chung là họ, là tôi, là tất cả những người ấy”. Ông bạn tôi từ đó không bao giờ còn thắc mắc với tôi về Hội Thánh. Và nhiều lần trước mặt tôi ông còn tìm cách làm nổi bật những dấu hiệu tích cực về sự hiện diện của Hội Thánh trong thế giới này nữa. (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)
CT : Anh chị em thân mến
Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi người kitô hữu cố gắng làm nhiều việc lành phúc đức để chứng tỏ lòng thống hối thực sự và quyết tâm đổi mới đời sống. Với lòng sám hối chân thành, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện :
1- Hội Thánh không ngừng nhắc nhở các kitô hữu sám hối tội lỗi và canh tân đời sống / để nên hoàn thiện như Cha trên trời. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu / biết luôn khiêm tốn lắng nghe / và hết lòng thực hiện lời giáo huấn của Hội Thánh.
2- Ngày nay / tội ác vẫn hoành hành trên khắp thế giới / tạo nên một bầu khí bất an / đe dọa nếp sống yên lành của những người lương thiện. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu / biết nỗ lực sống thánh thiện / để nêu gương sáng cho những người chung quanh.
3- Ngôn sứ Isaia đã mô tả một thế giới lý tưởng / trong đó không còn hận thù / không còn chiến tranh / không còn những thảm cảnh đau lòng / vì muôn loài muôn vật đều chung sống hòa bình với nhau. / Nhưng tiếc thay / cho đến ngày hôm nay / đó chỉ là một giấc mơ đẹp. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho ước mơ này sớm trở thành hiện thực / để mọi người đang hiện diện trên trái đất / đều sống trong an bình và hạnh phúc.
4- Thánh Gioan kêu gọi : / “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trong Mùa Vọng này / biết can đảm dứa khoát với tội lỗi / khôn ngoan xa lánh dịp tội / cố gắng sửa chữa các tật xấu / và nhất là quyết tâm làm nhiều việc thiện / như giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh / những ai đang đau khổ vì bệnh tật / đang gặp hoạn nạn vì thiên tai.
CT : lạy Chúa là Cha nhân ái, tất cả chúng con đang buồn sầu vì tội lỗi đã phạm. Chúng con hết lòng sám hối ăn năn. Cúi xin Chúa đoái thương thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, để xứng đáng đón mừng Ngôi Hai Con Chúa giáng trần. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha : Hôm nay khi cùng nhau đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho “Nước Cha trị đến”.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin ban cho chúng con một lòng sám hối chân thành để chuẩn bị đón Con Cha lại đến. Xin đoái thương ban cho những ngày chúng con đang sống được bình an… đang khi chúng con đời chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô Đấng cứu độ chúng con ngự đến”.
– Chúc bình an : Ngôn sứ Isaia viết “Trong ngày ấy, sói sống chung với chiên, beo nằm chung với dê…”, nghĩa là mọi người không ai làm hại ai, mọi người đều hòa thuận với nhau. Chúng ta hãy chúc cho nhau được hưởng sự hòa thuận đó.
– Trước rước lễ : “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng mà thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu cho chúng ta là Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến…”
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta lo dọn đường cho Chúa đến. Trong tuần này, anh chị em hãy tích cực dọn đường cho Chúa đến với tâm hồn mình và với anh chị em mình.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- A
LỜI CÔNG BỐ CỦA GIOAN TẨY GIẢ– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
- Mt dùng cùng một động từ “xuất hiện” để đưa Gioan (3, 1) và Chúa Gỉêsu (3,13) vào câu chuyện; sứ điệp của Gioan (3, 2) và của Chúa Giêsu (4,17) đều giống nhau; lời ngôn sứ Isaia được trích ra trong câu chuyện của cả hai nhân vật: sự song đối này có ý nghĩa gì? Mt có đưa vào những yếu tố dị biệt không ?
- Đâu là chủ đề rao giảng của Gioan? Chủ đề đó đóng vai trò nào trong trình thuật Tin Mừng?
- Vào thời Chúa Giêsu, đâu là những bè phái hay khuynh hướng tôn giáo khác nhau? Chúng có đặc điểm nào?
- Trong tất cả đoạn này, chủ đề sa mạc gợi lên những âm hưởng nào trong Cựu ước?
- Vào thời Chúa Giêsu, có những thiên sai chủ nghĩa hiện hành nào? Chúa Giêsu tỏ thái độ gì đối với chúng?
CHÚ GIẢI
- Để hiểu việc nhập cuộc của Gioan, cần nhớ rằng vào thời ấy, thời đô hộ của đế quốc Rôma, thời ra oai tác quái của vua Hêrôđê, người Do thái tìm mọi cách để được giải phóng. Giữa lòng Do thái giáo và đặc biệt tại Giêrusalem, nhiều “phe phái” dần dần thành hình. Nhóm Biệt phái (hay phái cách biệt), phát sinh từ thời Macabê (x.1 Mcb 2, 42) mà Flavius Josèphe bảo là có hơn 6000 phần tử (Antiquités Juives, XVIII,42), đã quy tụ được một vài tư tế với một số lớn thường dân, thường mộ từ các ký lục hay tiến sĩ Luật. Nhờ trung thành với lề luật, với khẩu truyền của tổ tiên, họ trở thành những nhà lãnh đạo tinh thần của dân chúng thời Chúa Gìêsu; do đó ảnh hưởng tôn giáo và luân lý cua họ rất đáng kể; trên phương diện chính trị, họ bênh vực sự tự trị của dân tộc Do thái và tỏ ra dè dặt trong việc tiếp xúc với người Rôma. Bên cạnh họ, nhóm Saducêo, con cháu Sađốc, vị thượng tế thời Salomon (1V 2, 35), làm thành phái các tư tế, vì quy tụ những gia đình tư tế khá giả. Họ chấp nhận các phong tục Hy lạp và thích nghi với chế độ thống trị của Rôma; thừa nhận sách Torah hay Ngũ kinh trên phương diện tôn giáo, nhưng chối bỏ khẩu truyền, chối bỏ đức tin về sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và việc Thiên Chúa quan phòng. Người ta cũng thấy có nhiều khuynh hướng cực đoan. Một trong những khuynh hướng đó là phái Nhiệt thành (Zélotes), một đảng chính trị và tôn giáo quá khích, được Giuđa người Galilê lập năm thứ sáu kỷ nguyên chúng ta. Với niềm mơ ước một quốc gia thần quyền, họ cho rằng chỉ Giavê mới là vua Israel và nhằm dùng bạo lực bẻ gấy ách thống trị của Rôma. Họ từ chối đóng thuế và lánh vào hoang địa để chuẩn bị cuộc thánh chiến; cuộc thánh chiến này sẽ thực sự bùng nổ vào năm 66, khi xảy ra “vụ nổi loạn của người Do thái”. Ngược lại những người Essêni cũng rút vào sa mạc, nhưng để âm thầm chuẩn bị cho cộng đoàn thiên sai của giao ước. Chính trong môi trường đa diện ấy đã hiện ra khuôn mặt vĩ đại của Gioan Tẩy Giả, con người đang cực lực kêu gọi toàn dân Israel hối cải trở về.
- Lời công bố kiểu ngôn sứ của ông có ý nghĩa gì? Đối với Gioan, nó xác quyết rằng sự chờ mong của toàn dân đã đến ngày loại nguyện; như các người đương thời, ông tin rằng người ta chỉ được thỏa lòng chờ mong khi xuất hiện Đấng Thiên Sai, Đấng mà ông sẽ giới thiệu như vị Thẩm phán của thời sau hết (3, 10-12). Thực vậy, giữa thời Gioan rao giảng và “ngày tận thế”, chỉ còn chỗ cho một biến cố duy nhất, việc Quang lâm của Đấng đến để chấm dứt thế giới. Gioan lớn hơn một ngôn sứ nhiều (11, 9),ông là kết tinh của mọi ngôn sứ, vì ông không loan báo một biến cố xảy ra trong lịch sử, mà loan báo biến cố chấm dứt lịch sử (Guillet).
- Như các vị ngôn sứ tiền nhiệm, Gioan Tẩy Giả tố cáo sự giả hình của lối sống đạo thuần túy bên ngoài (Am 5,21-27; Is 1,10- 20; 29, 13-14; Gr 7, 1 – 8, 3; v.v…). Ông chống lại óc duy luật, thái độ tự mãn, tự trấn an rằng mình là con cháu Abraham (3, 9). Đức tin đâu phải là một di sản giống nòi: Đức tin là một dấn thân đích thực, một cuộc tự đặt lại vấn đề không lúc nào nguôi. An phận trong ơn gọi là một cạm bẫy không ngừng đối với Israel, trong lúc sự hối cải đích thực đòi hỏi phát sinh những hoa trái bên ngoài (3, 10; 7, 17- 19; 12, 33). Gioan đã đặt giai cấp lãnh đạo Do thái trước sự phán xét của Thiên Chúa, y như Chúa Giêsu sẽ làm về sau (ch.23). Như vậy, qua việc trình hãy vai trò của Gioan và Chúa Giêsu trong lịch sử cứu rỗi cũng như trình bày thái độ các ngài chống lại Israel cứng lòng, Mt đã liên kết cả hai lại. Có sự liên tục hoàn toàn giữa Gioan và Chúa Giêsu. Sự liên tục này nhất thiết cũng có ở mọi ngôn sứ thuộc mọi thời đại, vì sự cứng lòng và giả hình là một đe dọa thường xuyên đối với bất cứ cộng đoàn nào tự cho mình là cộng đoàn được cứu độ. Và đấy là lý do sâu xa khiến Mt đưa vào trong Tin Mừng của ông những lời xỉ vả của Gioan: các lời quở trách thủ lãnh Israel ấy cũng nhắm đến những kẻ điều hành cộng đoàn Mt, cũng như cộng đoàn Kitô hữu, nhắm đến những kẻ lãnh đạo chẳng hề quan tâm đến việc phát sinh “hoa quả tốt lành” (3, 10). Thái độ của họ là cách duy nhất giúp người ta nhận ra họ là ngôn sứ giả vậy (7,16).
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Câu 1 nói đến việc Gioan Tẩy giả xuất hiện trong sa mạc Giuđêa. “Trong những ngày ấy” không phải là một tiếng xác định thời gian, vì những sự kiện tường thuật trong chương 3 xảy ra khoảng 30 năm sau những biến cố của chương 2, song là một công thức chuyển mạch có ít nhiều tính chất thần học, một công thức các ngôn sứ Cựu ước quen dùng để chỉ thời đại phục hưng của Đấng Thiên sai (Is 25, 9; 26, 1; 27, 1 .2.6. 12. 13…). “Xuất hiện”: động từ được dùng ở thì hiện tại để đặc trưng việc Gioan và Chúa Giêsu đến (3, 1. 13) và gợi lên tính cách hiện thực của lời các ngài loan báo. “Rao giảng” (kêrussôn, kerygma): một từ ngữ chuyên môn trong Tân ước (61 lần) dùng để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan, Chúa Giêsu, các sứ đồ. Đối tượng của việc công bố bao giờ cũng là Tin Mừng, Nước Trời hay một cái gì tương đương. Mượn từ Cựu ước (38 lần theo bản 70), có lẽ từ Is 61, 1 , từ ngữ “rao giảng” như vậy liên kết Gioan Tẩy giả với truyền thống lớn của bao lời giảng có tính cách tiên tri, thiên sai và khải huyền. “Trong sa mạc Giudêa”: sa mạc nằm giữa tuyến đường Giêrusalem- Hêbron và Biển chết.
Câu 2 tóm tắt lời rao giảng của Gioan và tương ứng từng chữ một với lời rao giảng của Chúa Giêsu ở 4, 17. Viết như thế, Mt muốn nhấn mạnh rằng lời loan báo của Gioan Tẩy giả hoàn toàn liên lục với lời của Chúa Gỉêsu. Như Chúa Giêsu, Gioan chuyên rao giảng việc thống hối.
“Hãy hối cải”: Metanocô, theo nguyên ngữ, là “nghĩ lại, suy tư tiếp sau “, do đó mà có nghĩa là: “thay đổi ý kiến” rồi “hối tiếc, ăn năn, hoán cải”. Bản 70 dùng động từ này đặc biệt trong các lời ngôn sứ kêu gọi Israel từ bỏ tà thần và trở về (shub) với Giavê. Ngôn ngữ Hy-lạp bình dân hiểu tiếng này theo một nghĩa rất đơn sơ: thay đổi ý kiến, hối tiếc một hành động, chứ không hối tiếc một tình trạng. Trong – Tân ước, metanocô nói lên việc đi từ tình trạng này sang tình trạng khác. Nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện, biểu lộ ra trong toàn thể thái độ sống. Việc thay đổi ấy bao hàm một phương diện tiêu cực (bỏ đàng xấu xa tội lỗi) và một phương diện tích cực (hướng cả con người về với Thiên Chúa). Nguyên nhân hối cải là vì Nước thiên sai gần đến. Câu 2 này tiên báo 3, 7-10 (lời kêu gọi hoán cải) và 3, 11- 12 (lời công bố Đấng Thiên Sai sắp thiết lập Vương quốc). “Đã gần bên”: công thức chung cho lời rao giảng của Gioan lẫn của Chúa Giêsu đây mô phỏng theo công thức sách Isaia đệ nhị đã dùng để nói về sự công chính và ơn cứu rỗi cánh chung đang “đến gần” (với dộng từ Hy bá qârab, được bản 70 dịch ra là eggizein, động từ mà Mt dùng ở đây = có lẽ ám chỉ Is 46, 1 3; 50, 8; 51, 5; 55, 6; 56, 1; 58, 2). Khi minh nhiên tham chiếu Isaia trong câu tiếp theo, Mt muốn dạy rằng lời rao giảng của Gioan Tẩy giả dựa trên chính quyền bính của Thiên Chúa.
Câu trích dẫn Is 40, 3: Đầu “Sách an ủi” (Is 40- 55), Thiên Chúa loan báo Ngài sẽ nâng đỡ dân Ngài, lúc phục hưng họ sau thời lưu đày (Is 40, 1-2). “Tiếng hô” nơi Is 40, 3 xem ra khác tiếng Thiên Chúa (Is 40, 1), vì lời công bố của Thiên Chúa đã chấm dứt nơi câu 2, trong khi câu 3 mở đầu với một “tiếng hô” đưa vào lời công bố tiếp; hơn nữa, khó mà hiểu được Thiên Chúa lại bảo: “Hãy vạch một con đường cho Thiên Chúa chúng ta”. Cho nên đấy là một tiếng nói mông lung, có lẽ của một thiên thần. Thể song đối của câu này khiến các nhà chú giải thời nay đặt hai chấm trước chữ “trong sa mạc”: Có tiếng hô: “trong sa mạc hãy dọn đường cho Giavê, trong đồng cỏ hoang hãy vạch thẳng lối cho Thiên Chúa chúng ta”. Theo bản Hy bá, nơi vang lên tiếng vô danh ấy không được xác định rõ ràng. Tiếng hô loan báo rằng Thiên Chúa sắp dẫn đầu dân Ngài trong một cuộc tiến rước khải hoàn. Ngài sẽ dẫn Israel từ Babylon về Giêrusalem. Bỏ lộ trình thông thường đi qua miền lưỡi liềm phì nhiêu, đoàn người sẽ trực liếp ngang qua sa mạc Siri Ả-rập. Nhân danh Thiên Chúa, tiếng nói ra lệnh phải sửa đường cho bằng phẳng, thẳng tắp. Khi dịch câu này, bản 70 có đổi một ít chi tiết. Chữ “trong sa mạc” được nối liền với chữ “một tiếng hô”. Các tác giả Tin Mừng Nhất lãm lấy lại nguyên văn bản 70, trừ nơi đoạn cuối, họ bỏ chữ “Thiên Chúa chúng ta” mà thay bằng chữ “của Người”. Vậy là “tiếng của người hô trong sa mạc” bấy giờ rõ ràng trở thành Gioan Tẩy giả. “Chúa” trong thành ngữ “đường Chúa” ở đây chỉ Chúa Kitô: “Chúa” là tước hiệu chính mà Giáo Hội gán cho Chúa Giêsu sau khi người phục sinh, một tước hiệu cho thấy trong cuộc tôn vinh đó lời Tv 2,7 đã được hoàn thành. Việc thay chữ “Thiên Chúa chúng ta” bằng chữ “của Người” xác nhận lối giải thích chữ “Chúa” theo ý nghĩa thiên sai. Như trong nhiều câu trích dẫn khác ở đây Tân ước gán cho Chúa Giêsu một phẩm vị mà Cựu ước thường dành cho Giavê. “Hãy sửa lối đi của Người cho thẳng” nghĩa là hãy sửa lối của Đấng Thiên Sai đang đến gần. Bởi vì tiếng hô được đồng hóa với Gioan, nên những lời này là lời ông ngỏ với dân để chuẩn bị cho họ đón. Đấng Messia tới, việc sửa soạn đó là hối cải, điều kiện cần thiết để được tha tội.
Việc bốn Tin Mừng đồng trích dẫn Is 40, 3 cho thấy “chứng từ” đó được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội sơ khai. Đàng khác, Isaia là vị ngôn sứ có ảnh hưởng nhất trong Giáo Hội thời ấy; ông được Tân ước nhắc đến tên 22 lần và như vậy là cuốn sách Cựu ước được trích dẫn nhiều nhất.
“Trong sa mạc”: Vì sống trong sa mạc từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), nên Gioan đã xa lánh mọi tiện nghi của đời sống (Mt 11, 8; Lc 7, 25), nhất là xa hẳn những khuôn khổ đạo đức Do thái, đặc biệt của Đền thờ và của hội đường. Nét đó đưa ông đến gần những người phái Qumrân. Tại sao Gioan lại thi hành sứ vụ trong sa mạc thay vì rao giảng như Chúa Giêsu trong. Các hội đường? Không chắc là vì chỉ để làm phép rửa tại sông Giođanô. Về điểm này, Gioan xem ra gắn liền với một truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống ấy, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ lúc ra khỏi Ai-cập đến khi vào Đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, thời kỳ tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7; 8, 2- 5; Gr 2, 25; Hs 2,16). Vì thế người ta tin rằng vào thời cánh chung, Nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu từ trong sa mạc và Đấng Mêsia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24, 26). Do đó một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào sa mạc (Cv 21, 38).
Y phục và thức ăn của Gioan (c.4) biểu lộ con người đã từ bỏ mọi tiện nghi để trở thành người của Thiên Chúa. Qua lối sống đó ông cũng gợi lên hình ảnh ngôn sứ chính danh. Song ở đây ông đặc biệt gợi lên hình ảnh Elia, kẻ thường mang “một bộ lông và ngang lưng quấn xiêm da” (2V 1 ,8). Theo một truyền thống kỳ cựu (2 V 2), Elia đã được đưa lên trời không chết, truyền thuyết xác nhận thế) và sẽ trở lại làm tiền hô cho Ngày cánh chung (Mt 3, 23). Khi phục sức cho Gioan giống Elia, Mt măc nhiên bảo rằng Gioan Tẩy giả chính là Elia, nghĩa là kẻ thi hành chức vụ Elia, chức vụ tiền hô. Nên lưu ý là theo Dcr 13, 4, chiếc áo lông tượng trưng nét đặc biệt của các ngôn sứ “Châu chấu” và “mật ong dại” là hai thức ăn đơn giản của Gioan, nhưng Mt không quả quyết là Gioan chỉ sống bằng châu chấu và mật. Châu chấu chẳng phải là một thức ăn lạ lùng đâu: Tài liệu Damas (Document de Damas, của Qumrân) có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn; người Béđouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Còn mật thì hoặc là mật ong tìm trong hốc đá, hoặc là nước rỉ của cây tây hà liễu (tamaris).
Câu 5 ghi nhận ảnh hưởng sâu xa của Gioan trên dân chúng. “Và trẩy đến với ông” (nguyên tự: và đi ra đến với ông – kai exseporeueto): có thể động từ này gợi lại Is 48, 20 và 52, 11 (lời khuyên bả o đi ra khỏi Babylon để thanh tẩy). Từ thời Isaia đệ nhị, hình ảnh một cuộc hành hương thanh tẩy tội lỗi luôn nằm trong cánh chung luận Do thái. “Tất cả” dân chúng: trái với những người Essêni, Gioan ngỏ lời với toàn thể Israel chứ không với một giai cấp nào đặc biệt. Dầu sao đây là một thành ngữ phóng đại, vì ta biết rằng nhóm Biệt phái và Sađucêo đã từ chối sứ điệp và phép rửa của Gioan (Mt 21, 32; Mc 9, 13; 11, 31; Lc 7, 29tt). Kiểu nói phóng đại này, vừa gợi lên thành công Gioan thu đạt được, vừa nối kết sứ mệnh Gioan với Is 40, 3, nơi mà “tiếng của người hô” ngỏ cho toàn dân và chuẩn bị mọi người đón chờ Đấng Messia đến.
“Xưng thú tội lỗi”: Exsomologeô, “thừa nhận, tuyên xưng, cáo mình công khai”. Trong bản 70, động từ này đặc biệt diễn tả sự khen ngợi, lòng tạ ơn (so sánh với Mt 11, 25). Việc xưng thú tội lỗi hình như đi liền sau phép rửa hoặc xảy ra ngay trước đó. Có lẽ đây chỉ là một lời xưng tội tổng quát.
“Ông thấy nhiều người Biệt phái và bè Sađucêo đến chịu thanh tẩy”. Xét theo lịch sử, khuynh hướng của hai nhóm này thường đối nghịch nhau. Tuy nhiên Mt gộp chung họ lại (x. 16, 1; 16, 11 -12), đặt họ cùng hứng những lời quở mắng của vị Tẩy giả. Đó là vì Mt muốn tấn công trực tiếp các thủ lãnh của dân, muốn vạch trần thái độ tráo trở và tự mãn của họ, thái độ mà mỗi người có thể khám phá thấy nơi chính mình. Chắc hẳn, vào thời Mt biên soạn Tin Mừng, nhóm Sađucêo đã mất ảnh hưởng, nhất là từ lúc thành Giêrusalem bị tàn phá; tuy nhiên mối tranh chấp giữa các cộng đoàn Do thái và Kitô giáo ngày càng thêm sâu rộng. Trong bối cảnh ấy, thành ngữ “Biệt phái và Sađucêo” có ý chỉ các lãnh tụ tôn giáo nói chung, thường dân lẫn giáo sĩ. “Đến chịu thanh tẩy”:.giới từ epi ở đây xem ra hàm hồ, vì có thể làm cho người ta nghĩ rằng Biệt phái và Sađucêo đến xin chịu thanh tẩy. Thật ra, sau này ta sẽ thấy, Biệt phái không tin vào Gioan và chẳng chấp nhận phép rửa của ông (Mc 11, 27- 33; Mt 21, 32; Lc 7, 30); ở đây có lẽ họ đến là để điều tra về ông (Ga 1, 19- 28). Ta biết rằng Do thái giáo chính thức đã bắt bớ những người Essêni ở Qumrân. Do đó có thể nghĩ rằng nhóm Biệt phái cũng có thái độ thù nghịch tương tự đối với Gioan là kẻ cũng đang đứng bên lề tôn giáo chính thức.
“Nòi rắn độc” nghĩa là con cháu Satan. St 3 đã từng trình bày con rắn như là tiêu biểu của tính xảo trá lừa lọc. Về sau rắn được liên kết với Satan; Kh 12, 9 mô tả Satan như “con rắn thuở xưa”. Lời của Gioan Tẩy giả ở đây đối nghịch dữ dội với mặc cảm tự tôn của Biệt phái (x. “con cái Abraham” ở câu 9).
“Cơn Thịnh nộ hòng đến”: Cơn Thịnh nộ, theo nghĩa tuyệt đối là cơn thịnh nộ của “Ngày giao”. Truyền thống ngôn sứ Cựu ước đã liên kết hai ý niệm này với nhau Is 13, 6-9; Xp 2, 2; Ml 3, 2. 23- 24). Nó là yếu tố chính mà niềm hy vọng thiên sai hằng chờ đợi. Mặc dầu các ngôn sứ đã quả quyết: Cơn Thịnh nộ cánh chung ấy sẽ giáng xuống trên các tội nhân (x. Am 3, 2), Do thái giáo thời Tân ước vẫn quan niệm rằng nó chỉ dành cho lương dân (tức những kẻ chẳng phải là “con cái Abraham”), những kẻ bị coi là tội lỗi. Quan niệm độc đoán ấy bắt nguồn từ thời bách hại của các vua Hy lạp dòng dõi Séleucos (tk IV-I) do ảnh hưởng của luồng tư tưởng khải huyền. Cơn Thịnh nộ ấy của Thiên Chúa, một cơn thịnh nộ tiêu diệt bọn lương dân thống trị Israel, đã được đưa vào trong một thuyết thiên sai đầy màu sắc chính trị. Phản ứng của Gioan là nhằm đưa người ta trở về viễn tượng đích thực của các sứ ngôn: cơn giận Thiên Chúa sẽ đè nặng trên mọi tội nhân, bất kể họ là ai. Bởi đấy mà ông tuyên bố, như Chúa Giê su (Mt 4, 17; Mc 1, 15) là mọi người cần phải hối cải và lãnh nhận phép rửa, một điều tương đương với việc tái nhập vào Israel đích thực, y như người tân tòng đi vào cộng đoàn Israel qua phép rửa vậy. Thánh Phaolô đã lấy lại thành ngữ “Cơn Thịnh nộ hòng đến” (1Tx 1, 10; Rm 5, 9) để khẳng định rằng Chúa Kitô sẽ cứu ta khỏi cơn giận ấy.
“Hy sinh quả phúc đức xứng với lòng hối cải”. Hối cải, một tình cảm nội tâm, phải được minh chứng ra bên ngoài bằng những hành vi tương ứng. Hình ảnh được lấy từ câu 10: cây sinh trái (so sánh với Mt 7, 16- 19; kết luận của Diễn từ trên núi, và với Lc 13, 6: cây vả cằn cỗi).
“Chúng tôi có cha là Abraham” (so sánh với Ga 8, 33). “Cha Abraham” là một thành ngữ các giáo sĩ Do thái năng dùng. Nó đã xuất hiện trong Is 51, 2. Tân ước cho thấy nó cũng được sử dụng thường xuyên vào thời ấy (Lc 16, 24; Cv 7, 2; Rm 4, 1). Từ ngữ nhắc đến một trong những lý do vững tâm của Israel: lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và cho “các tổ phụ” vẫn có giá trị cho hậu duệ. Thế mà theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy mà trong Do thái giáo có câu châm ngôn quả quyết ai thuộc dòng máu Do thái thì chắc chắn sẽ được cứu rỗi: “Toàn thể Israel được tham dự vào thời tương lai”. Một châm ngôn kiểu đó giả thiết rằng mỗi người Do thái đều được một quyền lợi mà Thiên Chúa phải thỏa mãn; họ không còn là người tôi tớ trông chờ Chủ mình thương xót ban ơn. Thứ an toàn đó tự nhiên dễ làm cho một số người Do thái sống phóng túng về mặt luân lý và giải thích được thái độ tự mãn kiêu căng của nhóm Biệt phái.
“Vì Thiên Chúa có thể lấy các viên đá này mà gầy nên con cái cho Abraham cũng được”. Ở đây có một lối chơi chữ theo tiếng Aramêo: abenyyâ “viên đá” và benayâ “con cái”. Do thái giáo ít ra mặc nhiên kết luận rằng Thiên Chúa, vì bị trói buộc bởi lời hứa cứu rỗi với Abraham, nên cần có Israel để trung thành với chính lời mình. Phản ứng của Gioan là đòi lại tự do hoàn toàn cho Thiên Chúa, Đấng vẫn chu toàn lời hứa được khi loại trừ con cháu Abraham theo xác thịt nếu họ từ chối hối cải và tạo nên một Israel mới. Bằng cách đó, rõ ràng là Gioan khai mào cho lời công bố của Chúa Giêsu: Israel sẽ bị khai trừ và lương dân sẽ được kêu gọi làm thành một lsrael mới phát sinh hoa quả (Mt 8, 11- 12; 21, 43; so sánh với Rm 9, 6- 8). Tuy nhiên tư tưởng của Gioan chưa có tính cách phổ quát như tư tưởng Chúa Giêsu. Tầm nhìn của ông vẫn còn giới hạn nơi Israel. Ông chỉ trực tiếp tấn công ảo tưởng kiêu căng dựa trên những đặc quyền quốc gia, thứ ảo tưởng muốn chối bỏ tự do Thiên Chúa và miễn cho Israel khỏi thống hối trở về.
“Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây”: Trong Cựu ước, cây là hình ảnh các dân tộc. Chắc ta còn nhớ hình ảnh cây thông bị đốn ngã (Is 6, 13) hay cây trắc bá vĩ đại tượng dưng Israel bị quân xâm lăng tàn phá (Ed 31,10- 13), một hình ảnh đã được Đanien lấy lại để diễn tả sự bành trướng và tàn lụi của đế quốc Babylon (Đn 4,7-12). Ở đây các động từ đều ở thì quá khứ hay hiện tại, chứ chẳng bao giờ ở tương lai: nghĩa là cuộc phán xét tương lai được xem như hiện tại. Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, thì cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn đoán phạt. Bài diễn từ trên núi cũng chứa một lời cảnh cáo tương tự (7, 19): Mt tái xác nhận sự hòa hợp hoàn toàn giữa lời rao giảng của Gioan và của Chúa Giêsu vậy.
“Người sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần”: Đối với Mt và cộng đoàn của ông, đó là việc ban Thần khí của Thiên Chúa (x. Lc 24, 49; Cv 1, 5; 11, 16; 19, 1 -7). Phép rửa trong Thần khí để ban sự sống mới ấy đã hoàn thành lời hứa của Ge 3, 1 mà Is 44, 3; Ed 11, 19; 18, 31; 36, 25tt; Dcr từng loan báo.
“Trong Thánh Thần và lửa”, lai pu ri: Thành ngữ này tạo nên một khó khăn cổ điển. Ta có thể hiểu nó bầng hai cách. Hoặc lửa, liên kết với Thánh Thần, tượng trưng cho sự thanh tẩy mà Ngài thực hiện, thanh tẩy hiệu lực hơn là với nước hoặc lửa là hình ảnh cuộc phán xét cánh chung mà Đấng Thiên Sai đang đến thi hành.
Sau đây là vài chỉ dẫn chính của khoa chú giải giúp ta giải thích đoạn văn. Cũng một giới từ en (tương đương với dia, chỉ nguyên nhân tính dụng cụ) đứng đầu “Thánh Thần” và “lửa” cho phép ta nghĩ rằng Mt cố ý nối kết “lửa” với “Thánh Thần” và cả hai phải hiểu trong tương quan với nhau. Tuy nhiên văn mạch gần đó lại cho thấy là “lửa” tượng trưng sự phán xét. Quả vậy, “lửa” xuất hiện trong ba câu liên tiếp nhau. Thế mà trong câu 10 và 12, “lửa” rõ ràng tượng trưng sự phán xét. Vậy thì làm sao “lửa” của câu 11, đóng khung bởi “lửa” phán xét, có thể có một nghĩa khác được? Vả lại tất cả sứ điệp của Gioan đều nhấn mạnh đến vai trò Thẩm phán cánh chung của Đấng Thiên sai: “cơn thịnh nộ hòng đến” (c.7), “rìu” và “lửa ” (c. 10), việc phân biệt người công chính và kẻ tội lỗi (c. 12).
Nhưng nếu khảo sát văn mạch xa hơn, ta nhận thấy rằng “lửa” được liên kết với Thần khí trong quang cảnh ngày Hiện xuống: việc ban Thánh Thần được biểu trưng bằng các ngọn lửa (Cv 2,3). Thế mà Chúa Kitô phục sinh đã loan báo việc ban Thần Khí đó như là một phép rửa” (Cv 1, 5; so sánh với Cv 11, 16). Đoạn Cv 1, 5 này liên hệ chặt chẽ với bản văn của ta đây bởi vì Chúa Giêsu, như ở đây, cũng đặt phép rửa nước của Gioan gần kề phép rửa bằng Thánh Thần. Về phần Cựu ước, người ta biết có tới hai lời loan báo về thời đại cánh chung: loan báo Thần khí (Is 44,3; Ed 11, 19; 18, 31; 36, 25- 28; Ge 3, 1tt) và loan báo lửa báo thù quân vô đạo (Is 30, 33; 34, 9tt; Ml 3, 19). Biểu tượng lửa tương quan với Thiên Chúa thường được nhắc tới trong Cựu ước. Giavê biểu lộ sự hiện diện của Ngài bằng lửa. Lửa trừng phạt quân vô đạo nhưng thanh tẩy người công chính (ví dụ thị kiến khai mạc của Is 6). Lửa loại trừ những gì xấu xa và biểu lộ sự đòi hỏi thánh thiện của Thiên Chúa.
Tất cả mọi chỉ dẫn chú giải ấy đều có giá trị, nhưng lại đẩy bản văn chúng ta theo hai hướng khác nhau: lửa của Thần khí và lửa của phán xét. Chọn một trong hai cách giải thích là độc đoán phủ nhận các lập luận vững chắc. Giả thuyết dung hòa hơn cả là cho rằng trước tác sau cùng của Mt đã giữ lại câu nói của Gioan với ít nhiều thay đổi mà người ta đã thêm khi lưu truyền lại bằng miệng hoặc bằng viết. Vào thời đầu lúc mới lưu truyền, lời ấy loan báo cuộc phán xét, và tiếng “lửa” của câu 11 có cùng một nghĩa như nơi câu 10 và 12 so sánh Ml 3, 1- 3). Kiểu nói lúc bấy giờ có lẽ là: “Người sẽ thanh tẩy các ngươi trong gió (tiếng aramêo rua và tiếng Hy lạp tương ứng: pneuma đều có nghĩa là “gió” và “sinh khí” hay “thần khí”) và “lửa” “Gió ” và “lửa” đồng tượng trưng việc phán xét, như câu 12 về việc sảy sạch bằng rê lúa cho thấy. Phép rửa lúc bấy giờ là hình ảnh của việc hủy diệt (Mc 10, 38tt; Lc 12, 50). Ẩn dụ này đã từng được dùng trong Cựu ước rồi: con người gặp cảnh đau khổ được Cựu ước trình bày như kẻ bị đắng chìm, ngụp lặn trong đó (Tv 69, 2- 4; 124, 4- 5). Như vậy, vào thời đầu ấy, người ta không nói có sự đối nghịch giữa phép rửa của Gioan và một nghi thức cao cả hơn; đối nghịch đúng ra nằm trong ngôn từ (thanh tẩy bằng nước và thanh tẩy bằng lửa), và ám chỉ rằng phép rửa của Gioan là cơ hội sau cùng giúp người ta tránh được một phép rửa khủng khiếp hơn, tức là cuộc phán xét.
Một thời gian sau khi lưu truyền câu đó, các Kitô hữu, được giáo huấn Chúa Giêsu và kinh nghiệm Hiện xuống soi sáng, đã đọc lại và khai triển lời loan báo của Gioan. Câu nói nguyên thủy có lẽ đã muốn đặt nổi vai trò Thẩm phán cánh chung của Chúa Kitô. Còn các Kitô hữu lại muốn nói đến vai trò cứu rỗi của Chúa Kitô, Đấng đã ban Thần khí, đã dùng Thần khí hầu tái tạo nhân loại. Để phù hợp với quan điểm đó, có lẽ người ta đã thêm chữ “thánh” vào chữ “thần khí” (pneuma) để hiểu chữ này theo nghĩa Thánh Thần Chúa Kitô đã ban, cùng hiểu từ ngữ “lửa” theo nghĩa “biểu tượng của Thánh Thần”. Thành ra trong đoạn này, Mt đã gán cho Gioan lời loan báo: phép rửa chuẩn bị của ông đối nghịch với phép rửa chung quyết trong đó con người sẽ được Thần khí của Thiên Chúa biến đổi từ bên trong.
Câu 12 đưa ra một hình ảnh mới về Đấng Mêsia-thẩm phán. Lối so sánh trong câu mượn từ các ngôn sứ. Các ngôn sứ mô tả việc Giavê đến lần sau hết như một người, sau khi gặt lúa xong, bắt đầu sàng gạo để bỏ vào kho và quét trấu dọn sạch sân lúa (Hs 9, 1- 2; Mca 4, 11 -13; Gr 4, 11); ngọn lửa thiêu hủy và thanh tẩy diển tả việc Thiên Chúa hăng say trừng phạt quân vô đạo (Am 1, 4-2, 5; Ed 22, 18- 22; Xp 1, 18; Ml 3, 2- 19; Is 66, 15-16). Biểu tượng của việc phán xét thần linh ấy ta sẽ thấy lại trong dụ ngôn cỏ lùng (Mt 13, 30). “Lúa” dĩ nhiên chỉ những kẻ đã hối cải và sinh hoa quả thống hối trước khi cuộc phán xét xảy ra. “Trấu” nói đến những quân vô đạo không chịu’sinh hoa kết quả. Lửa “không hề tắt” (Is 66, 24; Mt 13, 42. 50) là một kiểu nói Gioan dùng để diễn tả số phận chung cục, vĩnh viễn của con người tội lỗi.
KẾT LUẬN
Sứ vụ của Gioan khai mạc một chương mới trong lịch sử cứu rỗi: các ngôn sứ đã loan báo việc Chúa đến, còn ông là kẻ sửa soạn cho Người. Với tấm lòng nhiệt thành, Gioan xứng danh là Elia mới, người chuẩn bị cho Đấng Thiên sai đến và là kẻ mà thiên hạ mong chờ. Sự cao cả của ông là ở chỗ đó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Mọi Kitô hữu đều có thể bị cám dỗ bắt chước người đương thời của Gioan Tẩy giả, những kẻ tự hào về danh hiệu “con cái Abraham”, khi tự nhủ mình rằng: tôi đã chịu thanh tẩy trong Giáo Hội, tôi thuộc về một giới trọng vọng, tôi đi lễ thường xuyên, như vậy là tôi được bảo đảm trước mặt Chúa. Gioan Tẩy giả bấy giờ sẽ trả lời cho ta như cho người Biệt phái: không phải hễ được mang danh hiệu tín hữu, đã chấp nhận nghi thức như một thứ bùa chú hộ mệnh, là được miễn thực thi trong thân xác, tâm hồn và trí tuệ việc sám hối mà Chúa đòi hỏi khi Người khai mạc Nước trời.
- Chấp nhận việc Chúa đến trong ngày Giáng Sinh là mong cho ngọn lửa mà Chúa Kitô mang tới sẽ thanh tẩy và biến đổi ta, là muốn rằng Thánh Thần của Người trở thành sự khôn ngoan và sức mạnh cho ta.
- Lòng ăn năn đích thật, sự hối cải chân thành không nằm nơi những tình cảm đẹp đẽ suông hay nơi những nghi thức bên ngoài, nhưng nơi những công việc và hành vi cụ thể lôi kéo toàn thể con người ta.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG -A
CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?
Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.
1) Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.
Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.
Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.
Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.
Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.
Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.
2) Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.
Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.
Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.
3) Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.
Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.
Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.
Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:
Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…
Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.
Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Thánh Gioan Tiền Hô chuyển đến ta những sứ điệp nào?
2) Đối với bạn, sứ điệp nào cấp bách hơn cả?
3) Cấp bách và triệt để là hai đặc tính của sám hối Phúc Âm. Bạn có quyết tâm làm lại cuộc đời của mình hoàn toàn và ngay hôm nay không?
4) Bạn đã bao giờ cảm nghiệm niềm vui thiêng liêng do cầu nguyện, sám hối và tự chế chưa?
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- A
SINH HOA QUẢ XỨNG ĐÁNG VỚI LÒNG SÁM HỐI – Lm. Đan Vinh HHTM
Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay tường thuật sứ mạng tiền sứ của Gio-an Tẩy Giả. Ông chính là “Tiếng hô trong hoang địa kêu gọi người ta dọn đường đón Đấng Thiên Sai”. Ông đã thi hành sứ mạng bằng một lối sống khổ hạnh, nên được dân chúng tín nhiệm và kéo đến nghe giảng, thú tội và chịu phép rửa tại sông Gio-đan. Ông kêu gọi sự sám hối thực sự, tránh thói đạo đức giả và loan báo về sứ mạng của Đấng Thiên Sai sắp đến.
CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Ông Gio-an Tẩy Giả: Là con trai của tư tế Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Gio-an là tên mà sứ thần đã đặt cho khi hiện ra với cha của ông là Da-ca-ri-a trong Đền Thờ (x. Lc 1,13). Gio-an là anh họ của Đức Giê-su và lớn hơn Người sáu tháng tuổi (x. Lc 1,36). Ông được đặc ân khỏi tội tổ tông truyền biểu hiệu qua việc nhảy mừng trong dạ mẹ, khi bà nghe lời chào của Đức Ma-ri-a đang cưu mang thai nhi Giê-su đến viếng thăm (x. Lc 1,44). Ngay từ nhỏ Gio-an đã ẩn mình trong hoang địa. Trước khi Đức Giê-su ra giảng đạo, ông đã đến rao giảng tại vùng sông Gio-đan và làm phép rửa cho những ai thành tâm sám hối dọn lòng đón Đấng Mê-si-a hay Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Lc 3,3-6). Cuối cùng ông đã bị vua Hê-rô-đê giết chết vì đã dám đứng ra ngăn cản nhà vua lấy bà chị dâu làm vợ (x. Mt 14,3-12). + Đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê: Đây là vùng đồi núi khô cằn phía Nam thành Giê-ri-khô, cách Biển Chết 6 cây số. + Anh em hãy sám hối: Sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là: nghĩ lại, thay đổi ý kiến, hoán cải, thay đổi hoàn toàn con người từ nội tâm đến cách sống để trở về với Thiên Chúa. +Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời hay Nước Thiên Chúa (trong các Tin Mừng khác). Đây là kiểu nói tránh nêu thánh danh Thiên Chúa. Người Do thái thời Đức Giê-su đang mong đợi Đấng Mê-si-a đến thiết lập một Nước Trời mang tính thế tục. Ở đây Gio-an kêu gọi dân chúng sám hối để chuẩn bị gia nhập Nước Trời thiêng liêng do Đấng Mê-si-a sắp đến sẽ thiết lập. + Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới…: Ngôn sứ I-sai-a sống vào thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên. Ngôn sứ này đã tuyên sấm về thân thế, nơi sinh và triều đại của Đấng Thiên Sai. Lời tuyên sấm của I-sai-a (40,3-5), gợi lại cuộc giải phóng và hồi hương của người Do thái từ xứ Ba-by-lon. Lời này được một ngôn sứ vô danh loan báo sắp xảy ra như một cuộc Xuất Hành thứ hai của dân Do thái. Lời tuyên sấm ấy được ứng nghiệm nơi Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su.
– C 4-6: + Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà: Cách ăn mặc của Gio-an giống như ngôn sứ Ê-li-a (x. 2V 1,8). Ông có sứ mạng tiên báo về “Ngày của Thiên Chúa” sắp đến (x. Mt 3,1-23). + Ông làm phép rửa cho họ: Thời bấy giờ, người Do thái đã quen với các nghi thức tự mình thanh tẩy theo tục lệ và Lề luật. Ở đây Gio-an cử hành nghi thức thanh tẩy bằng nước cho những ai đến nghe giảng để bày tỏ lòng sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón chờ Đấng Mê-si-a sắp đến. Phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi lễ biểu lộ lòng sám hối, chứ không tha tội như bí tích Rửa tội do Đức Giê-su thiết lập sau này.
– C 7-9: + Phái Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một nhóm người có khuynh hướng duy linh, ái quốc quá khích, nhiệt tình với Luật Mô-sê và tuân giữ nhiều luật truyền khẩu. Về đời sống luân lý và đạo đức, họ thường chú trọng hình thức bên ngoài. Về mặt chính trị, họ là những kẻ thù của đế quốc Rô-ma, nên được dân chúng dành cho nhiều thiện cảm. + Phái Xa-đốc: Xa-đốc hay Văn nhân là nhóm người xu thời và phóng khoáng, không nhìn nhận truyền thống mà chỉ tuân giữ Lề luật. Họ theo khuynh hướng duy vật, thích văn hóa Hy-lạp. Họ giữ địa vị cao trong hàng hàng giáo phẩm và thường là người giàu có, nên dù chỉ là thiểu số nhưng họ rất có thế lực. Họ ủng hộ chính quyền Rô-ma, nên bị dân chúng không ưa. + Nòi rắn độc kia: Trong Kinh Thánh, loài rắn đồng nghĩa với sự xảo trá lọc lừa (x St 3,1). + Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống: Theo các ngôn sứ, cuộc chung thẩm và báo oán sẽ xảy ra khi thời đại của Đấng Mê-si-a bắt đầu. Lúc đó, mọi kẻ tội lỗi đều bị loại khỏi Nước của Đấng Mê-si-a (x. Is 30,27-33). Ông Gio-an tiên báo vị thẩm phán thời cánh chung sẽ đến trong uy quyền, đang khi Đức Giê-su lại xuất hiện như một người tôi tớ hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 12,18-21). + Sinh hoa quả xứng với lòng sám hối: Việc ăn năn sám hối trong lòng phải được chứng minh bằng những việc làm bác ái cụ thể. + Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham: Áp-ra-ham sống vào thế kỷ 20 trước Công Nguyên. Ông là tổ tiên của người Do thái và tên ông nghĩa là “Cha của những kẻ tin vào Đức Chúa”. Người Do thái cho rằng chỉ cần là con cháu của Áp-ra-ham là đương nhiên được cứu độ như lời Đức Chúa đã hứa (x. Lc 1,55). Nhưng họ đã lầm, vì để được cứu độ người ta còn phải tuân phục thánh ý Thiên Chúa nữa (x. Mt 8,11). + Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham: Thiên Chúa sẽ chỉ ban ơn cứu độ cho những ai có lòng ăn năn sám hối.
– C 10-12: + Cái rìu đã đặt sát gốc cây: Trong Cựu Ước, cây là hình ảnh ám chỉ các dân tộc (x. Is 6,13). Cái rìu để sẵn gốc cây nhằm diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa dành cho dân Do thái đã sắp xảy ra. + Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước…: Gio-an đã cho thấy sự khác biệt giữa mình với Đấng Thiên Sai như sau: Một là ông chỉ làm phép rửa bằng nước sông để khơi dậy nơi người chịu phép tâm tình sám hối, còn Đấng Thiên Sai sẽ thanh tẩy người ta nhờ ơn của Chúa Thánh Thần và lửa tin yêu. Hai là ông chỉ là người có thân phận thấp kém đang khi Đấng Thiên Sai lại mang thân phận cao quý. Ba là ông chẳng có quyền hành gì, đang khi Đấng Thiên Sai có quyền xét xử để thưởng người lành và phạt kẻ dữ. + Tay Người cầm nia…: Các ngôn sứ Cựu Ước thường diễn tả ngày tận thế bằng hình ảnh của một người đang sàng sảy sân lúa của mình (x. Is 9,2). Ở đây vai trò của Đấng Thiên Sai được diễn tả như ông chủ trong dụ ngôn Nước Trời giống thửa ruộng có pha lẫn cỏ lùng (x. Mt 13,30).
CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy Giả là ai? 2) Sứ mạng của ông là gì? 3) Phái Pha-ri-sêu khác với phái Xa-đốc ở những điểm nào? 4) Áp-ra-ham là ai? Điều kiện để được ơn cứu độ là gi? 5) Gio-an so sánh sự khác biệt giữa ông với Đấng Thiên Sai thế nào về phép rửa, thân thế và quyền năng?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2).
- CÂU CHUYỆN: SÁM HỐI CÓ SỨC HÓA GIẢI THÙ HẬN:
Giăng-Kai (Zenkai) là một thanh niên Nhật bản khỏe mạnh, là con trai của một gia đình Công giáo. Anh đến thành phố Ê-đô lập nghiệp. Anh được nhận làm cận vệ cho một quan chức cao cấp của thành phố này. Giăng-kai đem lòng yêu cô vợ trẻ của ông chủ và rồi “cây kim lâu ngày cũng lộ ra”, một hôm ông chủ đã bắt gặp hai người phạm tội thông dâm với nhau. Đang lúc nóng giận, ông đã thách đấu kiếm với Giăng-kai. Trong cuộc đọ sức, Giăng-kai khỏe và tài giỏi hơn nên đã đâm ông chủ một nhát trúng ngực và ít ngày sau thì ông qua đời, để lại một đứa con trai mới được 7 tuổi. Giăng-kai đem bà vợ ông chủ đi chạy trốn. Hai người đến một vùng đồi núi hẻo lánh và phải sống những ngày nghèo khổ đói khát, nhiều khi phải đi trộm lương thực của dân địa phương ăn cho đỡ đói. Nhưng khi sống gần nhau, Giăng-kai mới phát hiện ra người phụ nữ trẻ đẹp kia chỉ là một mụ đàn bà lăng loàn trắc nết. Nhiều lần chị ta đã nặng lời mắng chửi Giăng-kai và sau cùng đã bỏ rơi anh để theo làm hầu thiếp cho một người giàu có thế lực trong vùng. Anh cảm thấy buồn bã không thiết đến ăn uống. Càng suy nghĩ anh lại càng thấm thía cho tình đời đen bạc. Rồi anh quyết tâm sám hối bằng việc dành trọn quãng đời còn lại làm một công việc nào đó hữu ích để chuộc lại phần nào tội lỗi của mình.
Một hôm thấy trên sườn núi gần nơi đang ở có một đường đèo lồi lõm trơn trượt rất nguy hiểm cho người qua lại. Nhiều người đã bị té xuống vực sâu chết thảm khi đi qua đoạn đường này. Anh quyết định sẽ đào một con đường hầm xuyên qua núi để giúp người ta khỏi bị tai nạn tương tự. Ban ngày anh vào làng làm thuê kiếm sống. Đêm đến anh đốt đèn và miệt mài đào hầm xuyên qua vách núi. Mười ba năm sau, khi Giăng-kai được 40 tuổi, thì con đường hầm đã gần hoàn tất. Ước tính chỉ hai năm nữa là anh sẽ hòan thành đường hầm. Ngày nọ, đứa con trai của ông chủ cũ giờ đây đã trở thành một trang thanh niên 20 tuổi khỏe mạnh tìm đến gặp Giăng-kai và đòi thách đấu để trả thù cho cha. Giăng-kai đồng ý nhưng yêu cầu hoãn lại 2 năm để có thời giờ hoàn thành tâm nguyện và được anh kia đồng ý. Rồi khi thấy Giăng-kai hằng ngày phải làm việc quá vất vả, anh ta đã tình nguyện giúp một tay cho công việc chóng xong hầu sớm trả thù cho cha. Nhưng trong thời gian làm việc chung, chàng thanh niên rất khâm phục trước dũng khí và sự chuyên cần của kẻ thù đã giết cha. Cuối cùng thì công việc đào hầm cũng xong và dân chúng hai bên đã có thể qua lại cách an toàn. Bấy giờ Giăng-kai nói với chàng thanh niên: “Tâm nguyện của ta đã hoàn tất. Vậy anh hãy lấy đầu của ta để báo thù cho cha anh”. Nhưng chàng thanh niên kia đã nghẹn ngào xúc động nói: “Bây giờ làm sao con có thể giết chết thầy được, khi mà thầy đã thật lòng sám hối và đã làm được một việc lớn lao như thế kia để đền tội?”.
Chính tinh thần sám hối và sự quyết tâm làm việc thiện của Giăng-kai đã có sức mạnh cảm hóa và biến một kẻ vốn là kẻ thù trở thành bạn hữu của mình. Một con người mang tâm trạng thù hận mà còn mủi lòng trước sự thành tâm sám hối như vậy, phương chi Thiên Chúa lại chẳng đoái thương tha thứ và ban ơn cứu độ cho những tội nhân thật lòng sám hối hay sao?
- SUY NIỆM:
1) “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”:
Đây là lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trong hoang địa miền Giu-đê. Sứ mạng tiền hô cho Đấng Thiên Sai của Gio-an đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm như sau: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Ông mang dáng vẻ của ngôn sứ Ê-li-a ngày xưa qua việc mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng giống Ê-li-a.
Nội dung những điều Gio-an Tẩy Giả loan báo đã được Tin Mừng Mát-thêu tóm lại như sau: Hãy chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Thiên Sai sắp đến thiết lập Nước Trời. Đấng ấy sẽ là vị Thẩm Phán công minh tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như người nông dân phân biệt thóc mẩy với thóc lép: “Thóc mẩy thì thu vào kho, thóc lép thì bỏ vào lửa mà đốt đi” (Mt 3,12). Người sẽ thanh tẩy người ta nhờ quyền năng Thánh Thần và trong lửa tin yêu như trong ngày lễ Ngũ Tuần sau này. Muốn được ơn cứu độ thì ngay từ bây giờ người ta phải thực lòng sám hối ăn năn.
2) Phải thực lòng sám hối bằng việc sinh quả tốt:
Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông Gio-an. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến xin chịu phép rửa, Gio-an đã nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” Gio-an biết việc đến xin chịu phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” mà thôi, chứ bọn người này không thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gio-an chỉ là một nghi thức để tránh bị Thiên Chúa trừng phạt. Thái độ trọng hình thức bề ngoài là căn bệnh cố hữu của những người Pha-ri-sêu và Xa-đốc vốn tự coi mình là người công chính! Gio-an đã nghiêm khắc cảnh cáo họ như sau: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10).
Thực ra Đấng Thiên Sai là Đức Giê-su không phải là vị Thẩm phán ưa trừng phạt như Gio-an đã rao giảng, nhưng lời kêu gọi sám hối của ông vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay các tín hữu chúng ta cũng không sám hối do sợ hãi, nhưng sám hối nhờ tin vào tình thương của Đức Giê-su là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mùa Vọng là thời kỳ thôi thúc chúng ta sám hối để chờ đón Đấng Thiên Sai sắp đến. Đức Giê-su đã đến trong âm thầm ở Bê-lem cách đây hơn hai ngàn năm, và Người sẽ lại đến vào ngày tận thế để phán xét nhân loại. Ngày nay Người vẫn đang đến với mỗi người chúng ta qua bí tích Thánh Thể và trong các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc đời chúng ta.
3) Sám hối là giao hòa với Thiên Chúa và hòa giải với tha nhân:
– Sám hối thực sự là ăn năn vì đã làm những điều xấu khiến khuôn mặt Đức Giê-su trở nên méo mó trước mặt thế gian. Sám hối đòi mỗi người tự vấn lương tâm về lời nói việc làm đã gây ra sự thù oán với người khác, về những hành động thiếu khoan dung đã xử với đồng loại. Sám hối là khiêm tốn nhận phần trách nhiệm của mình trước bao cái xấu cái ác đã và đang xảy ra trên thế giới hôm nay. Một tín hữu có lòng sám hối ăn năn thực sự chính là bước đầu để nên hoàn thiện. Một Hội Thánh can đảm sám hối, dám nhìn nhận phần thiếu sót của mình trong lịch sử là dấu chỉ Hội Thánh ấy đang quyết tâm vươn tới sự thánh thiện thực sự.
– Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gio-an đã kéo chúng ta ra khỏi thái độ tự mãn của người Pha-ri-sêu xưa khi ông nói: “Đừng tưởng có thể nghĩ rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham” (Mt 3,8). Cũng vậy, người tín hữu hôm nay đừng nghĩ rằng khi chịu phép rửa tội trở thành người Công Giáo là đương nhiên sẽ được vào Nước Trời, đừng tưởng rằng cứ đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật theo luật buộc, cứ đọc kinh lần hạt hằng ngày cách máy móc là đương nhiên sẽ được hưởng ơn cứu độ. Hôm nay Gio-an dạy chúng ta: muốn được vào Nước Trời thì điều quan trọng nhất là phải nhìn nhận tội lỗi của mình để giao hòa với Thiên Chúa, và phải “sinh quả tốt” là làm các việc lành. Trong ngày phán xét, Vua Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta không dựa trên đức tin hình thức nhưng trên đức tin thực sự biểu lộ qua đức ái cụ thể. Bấy giờ Vua Thẩm Phán sẽ nói với những kẻ không làm việc lành như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không cho ăn, Ta khát các ngươi đã không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi đã không tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã không cho mặc. Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom” (Mt 25,41-43).
4) Sám hối đòi phải quyết tâm hoán cải cụ thể:
Trong những ngày Mùa Vọng này, ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Vọng và lãnh bí tích giao hòa để dọn tâm hồn mừng Chúa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta còn phải hoán cải đời sống cách cụ thể bằng việc quyết tâm tu sửa một thói hư đang mắc phải như: hạn chế uống rượu say sưa, bớt hút một điếu thuốc để dành tiền cho người nghèo; Kiềm chế tính nóng giận, đi lễ trước giờ cử hành 5-10 phút, mỗi ngày làm ít nhất một việc tốt phục vụ tha nhân… để cuộc đời chúng ta ngày một nên tốt hơn hầu xứng đáng được hưởng ơn cứu độ như lời Gio-an rao giảng.
- THẢO LUẬN:
1) Hiện nay bạn thấy Giáo xứ, Hội đoàn hay Gia đình của bạn có điều gì chưa phù hợp với đòi hỏi bác ái yêu thương của Đức Ki-tô, và nên cớ cho lương dân khinh thường đạo Chúa không? 2) Hiện giờ bạn thấy mình cần cấp thời hoán cải và canh tân điều gì trong những ngày Mùa Vọng này?
- NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Sám hối không phải là điều dễ làm, vì chúng con thường không đủ khiêm tốn để nhìn nhận lỗi lầm của mình. Xin cho chúng con biết dũng cảm điều chỉnh những sai lỗi, luôn tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng về sự thánh thiện của mình và tránh thói đạo đức giả hình của người Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc xưa đã bị ông Gio-an nặng lời quở trách.
– Lạy Chúa. Con cảm thấy những lời quở trách của Gio-an trong Tin Mừng hôm nay rất phù hợp với thực trạng tâm hồn con. Nhiều lần con cũng tự mãn về lòng đạo đức hình thức và nghĩ mình đáng hưởng ơn cứu độ. Thực ra muốn được Chúa ban ơn cứu độ, ngòai việc cầu nguyện dự lễ, con còn cần phải hồi tâm sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống để nên giống Chúa hơn. Xin cho con trong Mùa Vọng này quyết tâm phát sinh trái tốt bằng việc tập làm các việc tốt ngược lại thói xấu con đang mắc phải như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” để xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Chúa.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- A
HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN – Lm. Phêrô Trần Minh Đức
Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.
Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.
Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!
Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.
Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: ‘Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối’, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: ‘Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em’.
Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.
Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.
CHÚA NHẬTII MÙA VỌNG- A
XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA TRONG BÁC ÁI VÀ CÔNG LÝ- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Chúa nhật II mùa Vọng bắt đầu đưa chúng ta đi vào vương quốc lý tưởng mà Chúa Giêsu thiết lập trên trái đất dành cho nhân loại chúng ta.
Chúa nhật II mùa Vọng bắt đầu đưa chúng ta đi vào vương quốc lý tưởng mà Chúa Giêsu thiết lập trên trái đất dành cho nhân loại chúng ta. Nhưng không phải cứ ai muốn là được vào vương quốc ấy. Để có quyền đi vào, đòi hỏi phải thực hiện một số điều kiện. Trước hết là muốn trở nên những cộng sự thiết lập với Đức Kitô, điều này đòi hỏi phải biết dấn thân đổi mới tận căn con người của mình từ suy nghĩ đến hành động. Như Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA
- Bài đọc I: Is 11,1-10
Đấng Messia, Vị Vua Công Chính và Hòa Bình
Bằng những ngôn từ giàu tình cảm và hình tượng, Tiên tri Isaia miêu tả sự xuất hiện của Đấng Messia và vương quốc của Ngài thiết lập. Đấy là một vương quốc loại trừ hận thù và sự dữ, chỉ có tình yêu và công lý hiển trị.
- Dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, dân Do Thái sống trong sự chờ đợi Đấng Cứu Thế, thuộc dòng dõi Vua Đavít và Giêsê.
- Được tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa, Đấng Messia sẽ thiết lập một kỷ nguyên công lý và hòa bình.
- Hơn hai ngàn năm sau khi Chúa Giêsu đến, thế giới chúng ta vẫn còn rất xa những gì mà vương quốc của Đấng Messia có được. Lỗi ở đâu? Chính bởi lỗi lầm của Kitô hữu, của lòng người ích kỷ, bởi sự hèn nhát không dám đón nhận và sống sứ điệp của Đức Kitô, Đấng Messia của Thiên Chúa.
- Bài đọc II: Rm 15,4-9
Phổ quát tính của ơn Cứu độ
Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Rôma một cách sống động: hãy biết cảm thông đón nhận nhau theo gương Đức Kitô, Đấng đã đến đón nhận cứu độ tất cả mọi người.
- Cộng đoàn tín hữu Rôma tiên khởi được hình thành do những người đến từ mọi miền khác nhau. Do đó, sự cảm thông, nhất trí của mọi người xem ra khó được thực hiện.
- Thánh Phaolô nói với họ, cần phải bắt chước Đức Kitô, Đấng đã mang ơn Cứu độ cho tất cả mọi người không phân biệt cội nguồn, văn hóa; Do Thái hay dân ngoại.
- Một khi đã tin theo Đức Kitô thì phải tạo dựng trong cộng đoàn của mình sự hiệp nhất với nhau trên nền tảng của đức tin và đức ái.
- Tin mừng: Mt 3,1-12
Chỉ dẫn của Gioan Tẩy giả
Đức Kitô đã đến khởi sự sứ mạng của Người. Thánh Gioan, người bà con của Đức Kitô với tính hăng say và mạnh mẽ của một vị tiên tri kêu mời người Do Thái hãy chuẩn bị đón Đấng Cứu Độ đang đến bằng việc thay đổi cuọc sống của mình.
- Sứ vụ của Gioan khai mạc môt giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Các tiên tri loan báo việc Chúa Giêsu đến, còn ông chuẩn bị cho Người. Ông xứng danh là một Êlia mới. Vai trò của ông mang hai tác vụ: rao giảng và thanh tẩy.
- “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”: Câu này tóm tắt lời rao giảng của Gioan và tương ứng với từng câu từng chữ lời rao giảng của Chúa Giêsu ở Mt 4,17. Như thế lời loan báo của Gioan thống nhất với lời của Chúa Giêsu. Mạc khải về Mầu nhiệm Nước Trời đã đến trong thế gian, phải sám hối để xứng đáng là người của Nước Trời.
- Như các vị tiên tri tiền nhiệm, Gioan tố cáo sự giả hình của lối sống đạo bên ngoài. Cũng như Chúa Giêsu, lời rao giảng của Gioan nhấn mạnh đến thái độ nội tâm để có sự hoán cải, canh tân thực sự.
- GỢI Ý BÀI GIẢNG
- Sám hối canh tân – một đòi hỏi khẩn thiết:
“Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến”, sứ điệp của Thánh Gioan Tẩy giả trong Tin mừng hôm nay tương ứng với lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu. Sám hối là điều cần thiết để đi vào Nước Trời. Nếu không biết canh tân hoán cải cuộc đời thì không thể nào xứng đáng là công dân của Nước Thiên Chúa. Nước Trời đã gần đến thì việc sám hối cần phải làm ngay không thể chần chờ được nữa. Lời của Thánh Gioan là một lời mời gọi khẩn thiết, thúc bách con người phải hành động ngay. “Cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây, cây nào không sinh trái tốt sẽ phải chặt đi và cho vào lửa”.
Sám hối luôn là một đòi hỏi khẩn thiết phải làm ngay. Với mỗi Kitô hữu hôm nay sứ điệp của Tin mừng vẫn còn nguyên giá trị, không hẳn vì tận thế đã đến nơi, cũng có thể không hẳn vì mình đã sắp chết nhưng điều quan trọng vì con người phải biết vươn lên sống một đời sống thánh thiện xứng đáng là con cái Chúa. Bản tính con người vốn dĩ yếu đuối trước mọi cám dỗ, dễ sa ngã. Vì vậy, để luôn sống trong tình trạng ân sủng thì cần phải biết nhận thức sự yếu đuối, tội lỗi của mình và phải cố công hoán cải biến đổi mình tốt hơn. Đó cũng chính là thái độ tỉnh thức và sẵn sàng mà Chúa Giêsu kêu gọi.
- Sám hối – một sự biến đổi tận căn:
Thánh Gioan Tẩy giả đã cảnh cáo những người Biệt phái, văn nhân và những người tự phụ mình là con cái Abraham: Hãy sám hối, hãy làm việc lành, chớ tự phụ, vì Thiên Chúa cũng có thể khiến những hòn đá thành con cái Abraham. Không có bất cứ một sự miễn trừ nào nếu không biết thành tâm hối cải sống theo Thánh ý Chúa. Như thế việc là con cái Abraham, là Dân riêng của Chúa không phải chỉ là tên gọi, một danh xưng, một ân sủng nhưng cũng là một nỗ lực của con người sống xứng đáng với những gì đã lãnh nhận, nghĩa là lúc nào cũng phải sống đúng phẩm giá đã được Thiên Chúa trao ban. Điều này đòi hỏi phải nỗ lực không ngừng trong cuộc sống.
Nhiều người ngày nay cũng dễ có thái độ tự hào mình là Kitô hữu, đi lễ, kinh kệ thường xuyên như vậy là có một bảo đảm trước mặt Chúa rồi. Không bao giờ, những điều bên ngoài đó sẽ không có giá trị gì nếu không có một tâm tình bên trong thực sự. Sẽ chỉ là giả hình nếu bên trong tâm hồn không thực lòng sống theo Chúa. Danh hiệu Kitô hữu, Bí tích Thánh tẩy đã lãnh nhận không đủ bảo đảm cho chúng ta được ơn Cứu độ nếu không hoán cải mình nên con người mới.
- Sám hối – một thể hiện của niềm tin tưởng và hy vọng vào Thiên Chúa:
Việc sám hối không phải là việc làm thêm hay làm theo thời vụ xuân thu nhị kỳ, năm đôi ba lần vào mùa Vọng và mùa Chay. Nhưng là một việc làm thể hiện một niềm tin, một niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Sám hối để đón chờ Chúa đến, sám hối để xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu độ của Ngài. Chính vì tin vào Chúa, chính vì hy vọng vào sự phán xét công minh của Ngài mà người ta sám hối. Thánh Gioan Tẩy giả đã cho thấy mối liên hệ giữa niềm tin và lòng sám hối: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, để các ngươi có lòng thống hối. Còn Đấng đến sau tôi … Ngài sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và Lửa”. Như thế, sám hối là điều kiện để đón nhận hồng ân của Chúa Giêsu. Do đó, phải có niềm tin mới sám hối. Vì tin nên sám hối; sám hối vì hy vọng sẽ đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa.
Ngày nay, vào mùa Chay, mùa Vọng người ta lại lũ lượt đến với tòa giải tội. Nhìn bề ngoài thì chắc chắn đó là biểu lộ cụ thể của một lòng tin, lòng sám hối. Nhưng bên trong tâm hồn xem ra chưa hẳn như thế. Có nhiều người sám hối vì thói quen, vì luật buộc hơn là vì tin; có người sám hối vì muốn thể hiện sự đạo đức của mình hơn là vì hy vọng trông chờ tình yêu tha thứ của Chúa.
* Dẫn vào Phụng Vụ Thánh Thể:
Để xứng đáng đón nhận Chúa đến, chúng ta cần phải có lòng sám hối. Nơi Bí tích Thánh thể hôm nay chúng ta cũng đón Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Giờ đây chúng ta cùng hân hoan tiến đến Bàn tiệc thánh với Chúa Giêsu.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, vì yêu thương muốn cứu độ chúng ta, Thiên Chúa mời gọi chúng ta sám hối quay về với Ngài. Trong niềm tin tưởng vào lòng quảng đại của Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Qua Bí tích Giao hòa được cử hành trong Giáo hội, Thiên Chúa mời gọi mọi người sám hối và lãnh nhận ơn Cứu độ của Ngài. Chúng ta cùng cầu nguyện cho tinh thần sám hối, hòa giải được đề cao trong lòng mọi thành phần Dân Chúa.
- Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong xã hội chúng ta, đặc biệt cho các nhà lãnh đạo quốc gia mạnh dạn quyết tâm tiêu trừ mọi tệ nạn xã hội đang làm băng hoại đời sống đạo đức của bao lớp người.
- “Hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã gần đến”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi gia đình trong cộng đoàn chúng ta, biết thực thi lòng sám hối với tất cả niềm tin, lòng trung thành và tình yêu mến dành cho Thiên Chúa.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương sai Con Một của Chúa là Đức Giêsu đến cứu độ nhân loại. Xin cho mọi người chúng con được lãnh nhận hồng ân của Chúa để tất cả biết hoán cải, canh tân đời sống, xứng đáng với tình yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG-A
NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN BÊN- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến
Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3,1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,13-17), và chịu cám dỗ (4,1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4,12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4,17).
Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6); – Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3,7-10); – Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3,11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeō (3,2.8 ) và “phép rửa” baptizō (3,1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3,2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3,13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.
Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6): – Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3,1-2); – Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4); – Dân chúng đến với ông (3,5-7).
Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3,13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4,17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2,1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40,1-11).
Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3,2; 4,17; 10,7)
Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1,4; Lc 3,3). Động từ metanoeō theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeō có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21,29.32; 17,2); và “noeō” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeō nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15,17; 16,9.11). Liên quan đến động từ metanoeō, trong 11,20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11,20.21; 12,41). Cũng thế, trong 12,41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.
Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12,28; 19,24; 21,31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19,23-24). Động từ “gần đến”, egizō, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21,1; 26,45-46); cũng thế về mùa gặt (21,34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.
Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4)
Câu 3,3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40,1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40,4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3,4; 2 V 1,8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11,14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3,2; 4,17; 10,7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11,9).
Dân chúng đến với ông (3,5-6)
“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3,2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4,25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2,3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3:11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1,21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3,13-17).
Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- A
HÃY SÁM HỐI- Lm. Fx. Lê văn Nhạc
Tin mừng Mt 3: 1-12 Đấng Thiên Sai đã đến và đã đến từ lâu. Kỷ nguyên mới đã mở ra. Muốn gặp gỡ Ngài cùng với triều đại của Ngài, chúng ta phải cấp tốc “bố trí” lại cỏi lòng và cuộc đời của mình.
Mùa Vọng là hướng tới tương lai. Các tiên tri là những người đã nhìn thấy tương lai. Các tiên tri lãnh sứ mạng loan báo cho Dân chúa một tương lai huy hoàng, một niềm hy vọng phấn khởi vào thời đại Thiên Sai Cứu Thế sắp đến.
Tiên tri Isaia trong bài đọc 1 hôm nay đã mô tả thời đại Thiên Sai như một thời đại thái bình, bằng những hình ảnh thật là thi vị: “chó sói chung sống với chiên con, sư tử gặm cỏ với bò và trẻ em chơi chung với rắn lửa…”. Đó là cảnh thơ mộng của vườn Địa Đàng với những con thú dữ nằm kề bên thú hiền mà không cắn xé nhau. Tiên tri Isaia muốn nói đến một thời đại chung sống hòa bình trên trái đất. Ở đây không nhằm vào các con thú cho bằng nói đến con người, nói đến các dân tộc trên trái đất mà tiên tri Isaia sánh ví với các con thú hiền và các con thú dữ đã trở thành bạn hữu thân thiết, thành anh em. Thời đại hòa bình ấy sẽ đến, khi mọi người đều nhận biết Thiên Chúa và từ Thiên Chúa, con người tìm đường để đi đến với nhau.
Còn đối với Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng, thì thời đại của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là thời kỳ thịnh nộ, thời phán xét của Thiên Chúa đối với dân Israel. Gioan Tẩy Giả kêu gọi Dân Chúa hãy sám hối tội lỗi. Khác hẳn với giọng điệu dịu hiền trong Tin Mừng của Chúa Kitô, Gioan Tẩy Giả còn đưa ra “cái rìu và cái nia” để hù dọa dân chúng: “Đây cái rìu để sẵn dưới gốc cây: cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa”. Và đây nữa: “Tay Ngài cầm cái nia, Ngài sẽ rê lúa trong sân. Lúa chắc hạt thì thu vào kho lẫm, còn lúa lép thì làm mồi cho lửa, thứ lửa không hề tắt!”
Lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng này vang lên theo một cung điệu thắm thiết: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Gioan Tẩy Giả tố cáo sự giả hình của lối sống đạo thuần túy bên ngoài. Ông chống lại óc vụ luật, thái độ tự mãn, tự trấn an mình là con cháu Abraham. Gioan Tẩy Giả kêu gọi sự hối cải đích thực, đòi hỏi sự phát sinh hoa trái bên ngoài.
Thưa anh chị em,
Đấng Thiên Sai đã đến và đã đến từ lâu. Kỷ nguyên mới đã mở ra. Muốn gặp gỡ Ngài cùng với triều đại của Ngài, chúng ta phải cấp tốc “bố trí” lại cỏi lòng và cuộc đời của mình.
Trong phim “Người giàu cũng khóc”, mãi lâu lắm Luis mới khám phá ra Mariana chính là ánh sáng của đời mình. Sự khám phá này vẫn chưa tức thì đem lại hạnh phúc cho anh. Một quá khứ lôi thôi, với những tật xấu cùng những hậu quả xã hội của nó vẫn dai dẳng ngăn cản không cho anh bắt đầu một đời sống mới như anh hằng mơ ước khi yêu Mariana. Phải bố trí lại cách sống, phải sửa chữa lại những hậu quả xưa cũ, phải vượt qua rất nhiều khó khăn, Luis mới hội đủ điều kiện cần thiết để xây dựng một cuộc sống yêu thương hạnh phúc trong lành.
Cũng thế, không phải khi Đấng Thiên Sai xuất hiện là mọi ước vọng của con người lập tức được mãn nguyện. Bởi vì, con người vẫn có khả năng từ chối Đấng Thiên Sai, và trong thực tế vẫn thường xuyên từ chối chính bản thân của Đấng Thiên Sai, cũng như khước từ con đường Ngài đề nghị cho con người. Cõi lòng ngổn ngang tù túng của con người phải được sắp xếp bố trí lại. Mọi chướng ngại như đồi cao, hố sâu phải được san bằng, lấp đầy, thì bước chân của Đức Kitô mới tiến vào được. Lời của Gioan Tẩy Giả đã vang lên trong chiều hướng này: “Hãy dọn đường cho Chúa… hãy làm việc lành phúc đức để chứng tỏ lòng ăn năn sám hối”.
Lại quay về với cuốn phim quen thuộc: Khi biết chắc Mariana và Leonardo hứa hôn với nhau, chàng Luis rơi vào cơn hoảng loạn. Trước tình thế có thể mất Mariana vĩnh viễn, anh lao vào cuộc như điên như dại. Anh không thể làm khác, vì anh quá yêu Mariana, anh không thể sống thiếu nàng.
Trong tầm nhìn của đức tin, đối với ta, Đức Giêsu còn hơn hẳn Mariana đối với Luis. Vì Ngài là tất cả niềm hy vọng, là trọn vẹn tương lai, và cũng là sự sống hiện tại của ta. Ngài phải là tình yêu tha thiết của ta, thúc đẩy ta cấp tốc “bố trí” lại cuộc đời mình, để cuộc chung sống giữa ta với Ngài có thể thực hiện được và thực hiện ngay bây giờ, không trì hoãn. Cuộc sống chung này sẽ mở ra một kỷ nguyên êm đềm tươi thắm diệu kỳ mà ta phải cấp bách đạt được bằng bất cứ giá nào. Sự chậm trễ trong việc thay đổi cách sống là dấu chứng ta chẳng hề yêu Ngài, và như vậy thì thật là không có gì tệ hại hơn. “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”: không có tình yêu Đức Giêsu, cây sẽ không sinh trái và chỉ còn có một cách là đốn ngay đi mà quăng vào lửa.
Anh chị em thân mến,
Lời mời gọi của Chúa Nhật 2 Mùa Vọng là tiếng kêu “Hãy sám hối” của Gioan Tẩy Giả. Sám hối ở đây đồng nghĩa với kitô hóa, nghĩa là “hãy để Đức Kitô chiếm hữu con tim của ta, hãy để cho Ngài cuốn hút ta vào một kỷ nguyên mới.” Muốn vậy, hãy hâm nóng tình yêu và cấp tốc bố trí lại cõi lòng cũng như cách sống của mình.
Chúng ta lại sắp được nên một với Đức Giêsu trong Thánh lễ hôm nay, điều đó càng đòi hỏi chúng ta sửa sang lại tâm hồn ngay bây giờ và trong từng giây phút cuộc đời… Rồi thì những điều kỳ diệu sẽ đến đáp ứng cho mọi khát vọng khôn nguôi của chúng ta.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- A
LỜI CÔNG BỐ CỦA GIOAN TẨY GIẢ- Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính là tiếng kêu trong hoang địa mà ngôn sứ Isaia tiên báo, có nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sống trong hoang địa từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), Gioan xa lánh mọi tiện nghi (Mt 11,8; Lc 7,25), xa lánh những khuôn khổ đạo đức Dothái, đặc biệt của đền thờ và hội đường. Ông gần những người Esseniens ở Qumrân. Mátthêu khi phục sức cho Gioan Tẩy giả giống Êlia, mang một bộ áo da lông, ngang lưng thắt dây da (2V 1,8). Mátthêu mặc nhiên bảo, Gioan Tẩy giả chính là Êlia. Theo truyền thống, ÊLia đã được đưa lên trời, không chết, sẽ trở lại làm Tiền hô cho ngày cánh chung, ngày Đấng Messia đến (Mt 3,23).
Trong hoang địa, Gioan lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn. Mátthêu không quả quyết Gioan chỉ sống bằng hai thức ăn đó. Châu chấu chẳng phải thức ăn lạ thường. Người Bédouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Tài liệu Damas ở Qumrân có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn. Còn mật hoặc mật ong tìm trong các hốc đá, hoặc nước rỉ của cây Tây hà liễu.
Bởi cuộc sống đơn sơ đạm bạc, Gioan không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, tiểu đường hay dư cholesterone. Gioan, một con người với thân hình khoẻ mạnh và khắc khổ, nhưng nơi ông toát ra một tâm hồn thánh thiện. Hữu xạ tự nhiên hương, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông.
Thi hành sứ vụ trong hoang địa, có lẽ Gioan muốn gắn liền với truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ Ai cập vào đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7). Vì thế, người ta tin, thời cánh chung, nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu trong hoang địa và Đấng Messia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24,26). Do đó, một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào hoang địa (Cv 21,38).
Ở hoang địa Gioan rao giảng gì? Gioan kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến”. Sám hối hay hối cải, tiếng Latinh “conversio”, tiếng hy lạp “metanoia”, có nghĩa thay đổi não trạng, ăn năn trở lại, canh tân đổi mới. Trong Cựu ước, từ này có nghĩa bỏ tà thần trở về với Đức Giavê. Trong Tân ước, nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện bao hàm cả về phương diện tiêu cực bỏ đàng tội lỗi, lẫn phương diện tích cực hướng con người về Thiên Chúa.
Với Gioan, chốn hoang địa không còn là nơi cô tịch, nó đã trở thành trung tâm khơi động một phong trào sám hối, đầy nghịt những người. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến chịu phép rửa, Gioan nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” Tại sao Gioan gọi họ như thế? Có lẽ Gioan thấy nơi họ có sự gian dối, giống con rắn trong sách Sáng thế. Họ đến chịu phép rửa không để được tha tội, nhưng để dò xét ông (Ga 1,19-28).
Tuy gọi là “nòi rắn độc”, nhưng Gioan vẫn cho họ một lời khuyên: “Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối, đừng nghĩ: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham.” Người Dothái thường tự hào là con cháu Abraham. Họ quan niệm: Ngày cánh chung, ngày Giavê sẽ biểu lộ cơn thịnh nộ của Người. Cơn thịnh nộ ấy sẽ giáng trên lương dân, những kẻ tội lỗi. Còn toàn thể con cái Israel được tham dự vào thế giới tương lai, bởi lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và các tổ phụ vẫn có giá trị cho hậu duệ. Theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy, trong Dothái có câu châm ngôn quả quyết, ai thuộc dòng máu Dothái, chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Một châm ngôn kiểu đó dễ làm cho một số người Dothái sống phóng túng về mặt luân lý và làm cho những người Pharisiêu và Sađốc tự mãn kiêu căng. Đối với Thiên Chúa là con cháu Abraham hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là có giữ giao ước, có yêu mến và thực thi ý Người hay không. Nếu Israel không trung thành với Thiên Chúa, không tin vào Đấng Người sai đến, Người sẽ làm cho những hòn đá trở nên con cháu Abraham, nghĩa là loại trừ Israel và kêu gọi lương dân làm thành một Israel mới phát sinh hoa trái (Mt 8,11-12).
Bởi thế, Gioan đã kêu gọi họ sám hối. Nếu họ không sinh quả phúc đức để chứng tỏ lòng sám hối, họ không thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Theo Gioan điều đó cần thiết và cấp bách, không trì hoãn được, vì Nước trời đã đến: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn oán phạt.
Đấng sáng lập đến sau ông, quyền thế hơn ông. Sánh với Người ông chẳng là gì. Phép rửa ư? Phép rửa của Gioan là phép rửa tạm thời, phép rửa bằng nước, giục lòng sám hối. Phép rửa của Người là phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, là sự thanh tẩy tuyệt đỉnh, ban ơn tha tội và sự sống mới. Con người ư? Ông chỉ là Tiền hô, là người dọn đường không đáng xách dép cho Người. Người là Đấng Messia, là Đấng thẩm phán đầy quyền năng: tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Thật tuyệt vời, Gioan Tẩy giả đã khiêm nhường tự xóa mình đi trước Đấng mà ông đã nhận nhiệm vụ dọn đường. Đức Giêsu phải lớn lên, ông phải nhỏ đi. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ là lúc ông vào nhà tù Macheronte, ở đó ông đã bị chém đầu. Với cái chết, Gioan đã hoàn thành sứ vụ Tiền hô dọn đường. Ông là người vĩ đại. Jean Perron viết: “Thu tóm trong chính mình tất cả những ngôn sứ từ thời Êlia, đấng Tiền hô rõ ràng là ngôn sứ sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo, kết thúc ngôn sứ và mở đầu Phúc âm, ông là bản lề nối Cựu ước và Tân ước”. Đức Giêsu quả quyết: “Trong các người nam không ai trọng hơn Gioan Tiền hô”.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG-A
HÃY SÁM HỐI VÌ NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN ĐẾN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Việc rao giảng của Gioan Tẩy giả, của Chúa Giêsu và các tông đồ đều khởi đầu bằng câu: “Hãy ăn năn trở lại vì nước trời đã đến gần (Mt. 4, 17; 10, 7; Cv. 2, 38). Đây là việc khẩn trương, không thực hiện thì sẽ diệt vong. Khi nghe những lời hô hào của các nhà bác học về cứu thế giới khỏi ô nhiễm môi trường, khởi tệ nạn ma túy và dịch bệnh sida, thì ai cũng lo thực hiện những phương pháp đề phòng, trừ hạng cố chấp liều mạng lao đầu vào chốn tử thần. Lời hô hào của Gioan mang tính chất cứu nguy cho cả thế giới hôm qua, hôm nay và mãi mãi, nếu muốn sống trong nước Trời.
I- Nước Trời là gì cho con người được sống?
Nếu thế giới vật chất muốn tồn tại cần có thiên nhiên nguyên thủy trong lành như Thiên Chúa đã dựng nên nó, thì thế giới loài người muốn trường tồn bất tử còn cần hơn nữa một nước trời như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa đã muốn một nước trời lạ lùng mà tiên tri Isaia chỉ có thể mô tả bằng những hình ảnh kỳ diệu trong bài đọc một:
1- Về Đấng cai quản nước trời: đó là Đấng thần trí Chúa, thần trí khôn ngoan, minh mẫn, thấu hiểu, anh dũng, sáng suốt, sùng tín và sủng ái của Thiên Chúa. Công việc của Ngài là xét xử công minh nhân từ cho người thấp cổ bé miệng, phán quyết vô tư, bênh kẻ nghèo. Lời Ngài như gậy đập tan bọn cường hào, hơi thở Ngài giết chết phường gian ác (Isaia). Ngài là nguồn kiên nhẫn, an ủi và đầy lòng thương xót. Ngài đến phục vụ Do-thái và các dân ngoại (Phaolô).
2- Về dân trong nước trời là ai? đó là tất cả các dân tộc: Do thái cũng như dân ngoại. Họ là những người ăn năn trở lại, được rửa bằng Thánh thần và lửa. Họ được sống trong triều đại đua nở hoa công lý và thái bình thịnh vượng trong hạnh phúc, như beo sống với dê con, bò ăn chung với sư tử và gấu.
II- Điều kiện sống trong nước trời vinh phúc là ăn năn trở lại.
Ăn năn trở lại hay sám hối trở về là từ bỏ tình trạng tội lỗi trở về sống ơn cứu độ, từ bỏ lối sống xa Chúa, về sống với Chúa (Os. 14, 2; Ger. 3, 14), như thế ăn năn trở về là biến đổi sâu xa của hai trạng thái tâm lý: đổi mới não trạng và đổi mới nội tâm do Thần trí Đức Kitô tác động.
a/ Đổi mới não trạng nhờ trí khôn nhận ra và hối tiếc về tội mình (metanoia: repentir). Đây là công việc của trí khôn luôn luôn xét mình, kiểm tra cuộc sống mình đối chiếu với lời Chúa, luật Chúa. Sự ăn năn sám hối được thể hiện qua nhân vật điển hình: người thâu thuế. Khi nhận ra lầm lỗi của mình, ông đã khiêm tốn đấm ngực ăn năn, cúi mặt xuống đất, nhận mình tội lỗi và cũng không dám xin tha. Não trạng ông đã đổi mới vì hoàn toàn nhận ra mình khốn nạn trước mặt Chúa. Trái lại, người biệt phái không thấy tội lỗi mình, chỉ thấy mình đầy công đức, đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên khen mình và chê trách người thu thuế.
b/ Đổi mới nội tâm nhờ ý chí quyết tâm trở về nguồn gốc vinh quang của mình (epistrephein: revenir), mình đã bỏ nguồn gốc ra đi, cuộc đời lang thang bơ vơ, trụy lạc, chỉ gặp những khốn cùng “cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Đó là thứ con thiêu thân, như đứa con hoang đàng: ôm hết của cha đi ăn chơi trác táng, gặp nạn đói cùng khốn khó mới nhận ra mình xúc phạm đến cha hiền. May thay, anh đã kịp thời ăn năn khóc lóc hối cải, chỗi dậy tiến về nhà cha, nguồn gốc tổ ấm chan hòa tình thương vui mừng hạnh phúc chân thật. Phaolô cũng nhận ra tình thương vô biên đó, đã trở lại và đã mạnh mẽ tuyên bố trước vua Agripa “Tôi đi rao giảng kêu gọi chư dân sám hối và trở về cùng Thiên Chúa” (Cv. 2 6, 20). Đó là nước Trời thật.
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG- A
DỌN CHO CHÚA MỘT CON ĐƯỜNG- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
TỪ TIẾNG KÊU SA MẠC…
Thành tâm đón nhận:
Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi chập chùng cằn khô sỏi đá, hoặc là những vùng đất cát thênh thang trải dài như bất tận. Điều kiện sống ở đây khắc nghiệt quanh năm, nên hầu như không có ai lai vãng đến đây. Sự sống ở đây là một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến đấu thanh luyện để tồn tại.
“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắc lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt.3,4).
“Lạc đà” là biểu tượng của sa mạc. Hầu như đó là phương tiện duy nhất để di chuyển trên sa mạc. Người ta gọi con lạc đà là “con thuyền sa mạc, con thuyền trên biển cát”. “da”, “châu chấu”, “mật ong rừng” là những thứ hoang dã. Gioan đã tự nguyện thành “người sa mạc” để thanh luyện mình. Tiếng “người hô trong sa mạc” không phải là người thành phố sang trọng vào sa mạc để réo gọi, Nhưng đó chính là người thật sự đang sống với cung cách sống ở sa mạc, đã kêu lên bằng chính tiếng nói và đời sống của mình. Đời sống được thanh luyện để lời nói được trong sáng, đủ sức chuyên chở thông điệp của Thiên Chúa về ngày Thiên Chúa đến. Như hình ảnh các ngôn sứ xưa, mang sứ mạng chuyển tải Lời Chúa đến với dân riêng Ngài. (2V.1,8).
Tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi. (Mt.3,3). (Bản dịch của Cha Thuấn).
Tiếng vọng từ sa mạc, chỉ có ai biết tìm về sa mạc mới nghe thấy được. Tìm về nơi thanh vắng, tìm về cõi tĩnh lặng để lắng nghe tiếng gọi vang vọng trong chính tâm hồn mình.
“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-dê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. (Mt. 3,5-6).
Đón nhận cách giả hình:
“Có tiếng người hô trong sa mạc…” (Mc.1,3).
Sao không là tiếng hô trong thành phố? Sao không là tiếng hô ở Giêrusalem? Vì con người cần phải vào sa mạc. Sa mạc ở đâu? – Sa mạc ngay tại lòng mình.
Đó là cõi nội tâm thênh thang với những buồn vui, những yếu đuối, những khát vọng của kiếp người. Trong thinh lặng nội tâm, ta dễ dàng nhận ra tiếng lòng mình. Tiếng Chúa hướng dẫn đời ta. Đó là giây phút gặp gỡ Chúa một cách thân tình. Đó là giây phút cầu nguyện, ta biết ta yếu đuối và ta biết Chúa yêu thương ta. Ta dọn đường Chúa đến với niềm tin yêu vững vàng. Ta loại trừ những chướng ngại đang vây quanh ta, làm cản bước Chúa đến với ta. Những chướng ngại mà từ lâu ta tưởng chúng bảo vệ ta, hóa ra chúng cô lập ta, chúng làm ta mất liên lạc với Chúa. Chúng ta được vây bọc bởi những tham vọng và thụ hưởng trần tục, và chính ta biết những điều ấy không phải là những điều thuộc về Thiên Chúa, trong sâu xa cõi lòng mình, ta biết mình đang ở vị trí nào trên nấc thang đạo đức, trên nấc thang vươn lên Thiên Chúa ta còn ở vị trí là đà trên mặt đất, nhưng lòng ta vẫn muốn mọi người tin rằng ta cao cả, ta đang ở trên cao, và, thế là, ta sống giả hình. Ta khoát lên mình chiếc áo đạo đức giả hình đề che dấu một tâm hồn kiêu căng và gian dối.
“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27).
Thế nên, phải dọn cho Chúa một con đường nội tâm chân chính. Con đường ấy là một cuộc hành trình sa mạc đầy thử thách gian nan, như dân It-ra-en trải qua 40 năm sa mạc để về miền Đất Hứa. Con đường ấy, trong ánh sáng mạc khải Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, đó là Con Đường Thập Giá.
“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt.3,7-8)
… ĐẾN TIẾNG GỌI TRONG LÒNG
Tình Yêu và Chân Lý có tiếng nói mạnh mẽ trong con tim mỗi người, khó mà chối bỏ được. Nhiều khi vì danh vọng, bạc tiền, tư lợi nào đó, người ta tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Người ta khóa chặt cửa lòng từ chối đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình. Nhưng tiếng gọi trong lòng vẫn không hề tắt lịm. Tiếng gọi thiêng liêng vẫn mãi mãi còn đó như Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người mãi mãi còn đó. Con người chối bỏ là sự chọn lựa của chính mình. Là do con tim nguội lạnh. Ngọn lửa tình yêu không còn bùng cháy trong trái tim nữa.
“Thầy đã đến ném lửa trên thế gian và Thầy mong biết bao nhìn thấy nó bùng lên” (Lc.12,49).
Con người chối bỏ Thiên Chúa, vì con người không đón nhận Thánh Thần. Không lớn lên trong Thánh Thần. Không có Thánh Thần con người không thể được nâng lên khỏi lãnh vực xác thịt, không thể trở nên con Thiên Chúa, không có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha.
“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).
Chính vì thế, chúng ta phải dọn cho Chúa một con đường để Ngài đến với ta. Để Ngài thật sự thuộc về ta, ta thuộc về Ngài. Chỉ có Ngài – Đấng Cứu Thế – mới có thể ban phát cho ta hồng ân vô biên đó, vì được làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, là hạnh phúc lớn nhất mà con người tìm kiếm.
“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt.3,11).
Khi ấy, lòng ta trải rộng, Ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta một cách trọn vẹn. Hình ảnh Thiên Chúa không còn đóng khung trong trí tưởng tượng hẹp hòi của con người. Con tim ta sẽ mở ra, để đón nhận và cho đi suối nguồn tình yêu mà nhờ Chúa Giêsu Kitô ta được ban phát dồi dào đến vô tận. Khi ta khát khao tìm Chúa, ta mới được Chúa soi sáng tâm trí để nhận ra chân dung đích thực của Chúa. Có nhận ra được chân dung đích thực của Chúa, ta mới cảm nhận được sự cao cả và ngọt ngào của Thiên Chúa Tình Yêu. Và đó là niềm tin yêu và hy vọng mà ta hằng luôn ấp ủ trong tận cùng khối óc và con tim ta trong suốt cả đời. Và đó cũng là Mùa Vọng của một đời người.
Có một câu chuyện kể về một bé trai sống trong viện mồ côi: Một đêm nọ, nó giật mình thức giấc. Trời vẫn tối đen, nhưng nó biết rằng hừng đông chẳng mấy chốc nữa sẽ tới. Nó cảm thấy rất nóng lòng muốn thấy cảnh bình minh bên bờ hồ, nhưng các quy định trong viện thật khắt khe: không có lý do chính đáng thì không một em nào được thức dậy trước chuông và cấm ngặt không được ra khỏi phòng ngủ tập thể cho đến khi được phép. Nhưng nó quyết định liều một phen. Nó vội vàng mặc quần áo, cầm giày trên tay và bò ra ngoài để khỏi đánh thức ai. Nó bò một hồi đến hành lang dài và không muốn bắt gặp những cái nhìn không tán thành của các hình ảnh trên tường.
Sau cùng cũng đến được bờ hồ, trong bóng tối, nó ngồi đợi hừng đông. Và kìa! Ngày mới đang bắt đầu, ánh dương ngả từ màu cam sang màu đỏ. Nó mải mê ngắm những tia sáng phản chiếu trên mặt hồ, say sưa với vẻ đẹp tinh khôi. Thình lình nó chợt nhớ đã hết giờ. Lúc này mọi người hẳn đã thức dậy. Nó sẽ trễ mất. Nhất định gặp rầy rà rồi. Nghĩ vậy, nó đứng lên và nói những lời sau cùng với hồ nước: “Bây giờ mình phải về đây. Cám ơn bạn. Mình không lo nếu có bị phạt, bởi vì mình đã hiểu ra rồi. Bây giờ mình biết rằng Thiên Chúa của hồ nước vĩ đại hơn Thiên Chúa của viện mồ côi (Gallagher).
Lạy Chúa,
Xin soi sáng lòng trí con,
Để con nhận ra những lỗi lầm.
Sửa đổi cuộc đời con,
Để nên một con đường,
Ngài đoái thương thăm viếng. Amen.
#ccabaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatiimuavongc #suyniemloichuagpbr