CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TRIỀU ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA (*)– Chú giải của Noel Quesson. 6
VƯƠNG QUỐC CỦA THÁNH TỬ- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 14
ĐỨC GIÊSU KHAI MỞ TRIỀU ĐẠI CỦA NGÀI (*)- Chú giải của Fiches Dominicales 29
CHÚA GIÊSU LÀ VUA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 55
LỜI HỨA CỨU ĐỘ– ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên. 59
VẠN THẾ VƯƠNG ĐẾ CỦA THẾ GIỚI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 63
CHÚA GIÊSU, VUA TÌNH YÊU– Lm. Bùi Quang Tuấn. 68
VUA TÌNH YÊU, KHIÊM HẠ VÀ PHỤC VỤ– Lm. Giacôbê Tạ Chúc. 72
NGƯỜI CÔNG DÂN ĐẦU TIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 74
ĐÂY LÀ VUA NGƯỜI DO THÁI- Lm. GB. Trần văn Hào. 79
ĐỨC GIÊSU, VUA TÌNH YÊU– Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 86
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Họ xức dầu phong Ðavít làm vua Israel”.
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc Israel đến cùng Ðavít tại Hebron mà nói rằng: “Ðây chúng tôi là cốt nhục của ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: ‘Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel’”.
Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Ðavít ký kết với họ một giao ước trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Ðavít làm vua Israel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa” (c. 1).
Xướng: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”. Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.
Xướng: Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên.
Xướng: Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít.
Bài Ðọc II: Cl 1, 12-20
“Người đã đem chúng ta về Nước Con yêu dấu của Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Chúa Cha, Ðấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh trong ánh sáng. Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tôi.
Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người.
Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 11, 10
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavid tổ phụ chúng ta đã đến. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 23, 35-43
“Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người Này Là Vua Dân Do Thái”.
Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Ðó là lời Chúa.
LỄ CHÚA KITÔ VUA- NĂM C
TRIỀU ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA (*)– Chú giải của Noel Quesson
Lễ Đức Kitô Vua là một ngày lễ rất gần đây bởi vì lễ này đã cử hành lần đầu tiên năm 1925. Những canh tân phụng vụ thời nào cũng có. Thật vậy, việc cử hành thật sự vương quyền của Đức Giêsu là ngày lễ Thăng Thiên: Nhưng, trong Chúa nhật cuối cùng này của năm phụng vụ, chúng ta chiêm niệm “Triều đại của Thiên Chúa” đến từ từ xuyên qua, lịch sử và đạt đến sự thực hiện viên mãn vào thời cách chung.
Để mừng lễ Đức Kitô Vua chúng ta, một cách rất nghịch lý, Giáo Hội đưa ra cho chúng ta cảnh tượng mà Đức Giêsu khai mạc triều đại của Người: ngai vàng của Người là thập giá. Vương miện Người là một vòng gai làm đổ máu khuôn mặt Người… lễ phong vương của Người là một “danh hiệu” của việc kết án tử được đóng đinh bên trên đầu Người. “Đây là vua dân Do Thái! Hai chứng nhân, hai nam tước của Người, là hai tên gian phi bị kết án với Người.
Nghịch lý cao cả của Tin Mừng! Vua ư? Phải! Nhưng chắc chắn không như cách hiểu của những người hoặc muốn đứng về phe Người để hoan hô tôn phong Người hoặc là những đối thủ của Người để lên án Người. Vua “theo cách của Thiên Chúa”!
Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. Dân chúng đứng nhìn.
Vậy đây là đinh điểm!
Đó là “đỉnh núi” của Tin Mừng. Sau “Núi Bát Phúc” nơi Đức Giêsu lần đầu tiên công bố sứ điệp của Người… sau “Núi Ta-bo” nơi Đức Giêsu biến hình và nhận sự tấn phong của Chúa Cha: “Đây là Con Ta. Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Đây là đỉnh điểm thứ ba và cao siêu của Tin Mừng. Ở cổng vào thành phố Giê-ru-sa-lem và gần cổng Ép-ra-im, trong một nơi khai thác đá cũ những thợ khai thác đá còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5 mét. Đối với mọi người, đó là “Golgotha”, từ này có nghĩa là cái sọ (tiếng Hy-lạp là Kranion; tiếng La-tinh là Calvanô) vì hình dạng của tảng đá. Một truyền thuyết lâu đời cho rằng đó là cái sọ của A-đam được chôn cất mãi mãi ở đó! Đỉnh núi ấy của Tin Mừng là một ngọn “núi trọc”, một ngọn núi “cô độc”. Một nơi buồn thảm: một miếng đất nhỏ xíu, cao hơn mặt đất dùng để đặt giá treo cổ những tử tội, gần con đường có nhiều người đi qua, để mọi người có thể nhìn thấy các tội nhân bị hành hình và lấy đó mà làm gương!
Thật vậy đám đông đang ở đó… và nhìn… ao ước nhìn! Ở đây, Luca dùng một từ rất có ý nghĩa: Ngài không dùng từ “đám đông”, nhưng dùng từ “dân chúng” (tiếng Hy-lạp là saos), một từ thường dùng để chỉ “dân Thiên Chúa”. Cũng từ ấy dùng để nói “toàn dân say mê nghe Người giảng dạy trong Đền Thờ” (Lc 19,48) trong lúc mà các thượng tế và kinh sư cả các thân hào trong dân tìm cách giết Người (Lc 19,47). Luca thường ghi nhận rằng đối với Đức Giêsu, “dân chúng” khác với các thân hào (Lc 20,1 -20,45 – 21,38)
“Và dân chúng đứng nhìn” như biến cố làm họ chán ngán. Sự im lặng của dân chúng rất ấn tượng. Dân chúng Israel hiền lành không còn hiểu gì cả. Họ đã chờ đợi Đấng Mêsia như một “ông vua”, một vua Đa-vít mới. Trong lịch sử của họ, vương quyền không kéo dài được bao lâu và các ông vua của họ, không phải thiếu nhưng không có được tầm cỡ của vua Đavít và Salômôn; nhưng đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Mêsia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù làm vị thẩm phân của Thiên Chúa. Vâng họ cứ ngỡ rằng Đức Giêsu đến để “phục hưng vương quyền của Israel”. Họ đã thử tôn Người lên làm vua”: Người lại tránh né (Ga 6,15; Lc 19,38). Và giờ đây, Người kia kìa, bị kết án tử hình! Còn dân chúng đứng nhìn.
Còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
Khác với những người dân đen đang đứng nhìn, đã hẳn, ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh cười nhạo và buông lời thách thức. Thách đố của họ là Đức Giêsu hãy tỏ vương quyền của Người là Đấng Mêsia. Đấng được Thiên Chúa xức dầu là một danh hiệu vương đế bởi vì các vua Israel được gọi như thế, và quả thực đã “thánh hiến” bởi dầu thánh, (Chrême) làm họ trở thành những Đức Kitô (tiếng Hy-lạp Christos dịch từ tiếng Mêsia trong tiếng Do Thái). Nếu Đức Giêsu là Đức Kitô, Đấng được tuyển chọn (từ này lấy trong sách Isai-a 42,1) nếu Người là Cứu Chúa của thế gian trước tiên Người phải tự cứu lấy mình.
Những lời gào la chế nhạo ấy là tiếng vang của những lời ma quỷ cám dỗ trong sa mạc lúc Đức Giêsu bắt đầu đời sống công khai của Người (Lc 4,3); cũng là tiếng vang của những lời chê trách mà các người đồng hương Nagiarét đã nói với Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình” (Lc 4,23) Trong thế giới hiện đại của chúng ta, “những kẻ thế thạo Thiên Chúa” không còn lớn tiếng như thế, nhưng chẳng phải vẫn luôn có cùng một vấn đề, cùng một lời khinh chê: “Thiên Chúa phải tỏ mình ra đi, cho người ta thấy! Phải hiện ra đi, nếu Người hiện diện! Và câu trả lời của Thiên Chúa vẫn luôn là câu trả lời của Đức Giêsu: Người im lặng và không can thiệp vào bình diện các sự vật trần thế mà Người để chúng tồn tại hoàn toàn tự lập. Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực và không hiện hữu. Đức Giêsu, cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ để “hành động vì mình”, sử dụng sự Toàn Năng của mình chỉ vì chính mình.
Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!”
Đó là những binh sĩ La Mã, những dân ngoại trong đoàn quân xâm lăng; họ dùng từ “vua” mà họ nhìn thấy ghi phía trên đầu Người. Một sự chế giễu cao siêu lại một lần nữa nhắm vào kẻ bị loại trừ đó, bị treo trên thập giá… thở khò khè chờ tắt thở!
Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do thái”.
Nghi lễ lên ngôi của các ông vua bao gồm một bản phong vương: một Thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua “danh hiệu” của vua, như người ta thấy trong Thánh Vịnh 109: “Ngày đăng quang con nắm tuyển thủ lĩnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh con”.
Ở đây bên trên “ngai vàng” ứng biến là thập giá, bản án dùng làm bản phong vương, giống như Lời của Chúa Cha tấn phong Con Người trên sông Giođan ngày Người chịu phép rửa: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Trong Tin Mừng thánh Luca, bản án trên thập giá không được trình bày như một “lời lên án”. Đức Giêsu đã được giới thiệu như một ông vua, nhưng “Nước Người không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Trong một sứ vụ của Người, Người đã hết sức cẩn thận không cho người ta giải thích sứ vụ của Người theo nghĩa chính trị. Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế nhưng không cạnh tranh với “các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế”. Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của chủ nghĩa Đấng Mêsia vua dân Israel.
Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Câu chuyện của Luca được xây dựng theo kiểu bi kịch, trong sự căng thẳng tăng lên dần: dân chúng đứng “nhìn”, các thủ lãnh “cười nhạo”, lính tráng “chế giễu”, những tên gian phi “nhục mạ”.
Luật của Môsê đòi phải có “hai chứng nhân” để mọi hành động trở thành hợp pháp. Như thế, các chứng nhân của việc tôn phong Chúa: Biến hình là hai nhân vật chính của Cựu ước. Môsê và Êlia (Lc 9, 28.36). Hai chứng nhân của sự sống lại sẽ là hai người lữ hành dễ thương và bí hiểm trên đường trở về Emmau (Lc 24,18), trước đó ít lâu là hai chứng nhân không kém huyền bí của Ngôi Mộ trống (Lc 24,4). Nhưng ở đây, hai chứng nhân cho sự lên ngôi ở Núi Sọ chỉ là hai tên cướp tầm thường. Đức Giêsu, vị vua bị nhạo báng đến cùng!
Đức Giêsu, vị vua của ngày thứ Sáu Tuần Thánh là một vị vua bị bóp méo xuyên tạc mà người ta ngần ngại chỉ ra như một người bị nhạo báng, trần truồng, bị khạc nhổ và đầy những vết thương đẫm máu, hai bên có hai tên gian phi.
Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”
Trong tiếng ồn ào của sự khinh bỉ chung, đây là một tiếng nói yếu ớt và nghèo nàn dám nói chen vào. Chính Đức Maria ở dưới chân thập giá đã nghe được và đã thuật lại cho Luca, là người duy nhất đã kể lại cho chúng ta. Luca vị thánh sử của lòng “nhân hậu” và của những “người nghèo hèn” đã phải vui mừng đặc biệt về việc này. Triều Đại của Đức Ki tô, Nước Thiên Chúa chỉ mở ra cho những người “hối cải”. Đối với Đức Kitô, cách thực thi vương quyền của Người trên mọi người, kể cả những kẻ thù của Người, chính là ban cho họ ơn tha thứ (Lc 23, 34.43); một sự tha thứ không hạn chế? Để vào được Nước Chúa, không cần điều lớn lao là “công chính”. Người tội lỗi cũng có chỗ trong Nước Chúa với một điều kiện duy nhất: đón nhận ơn tha thứ mà Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho chúng ta. Người đầu tiên sống sự hòa giải hoàn vũ này là một “kẻ cắp”, kẻ đã biết nhận ra tội lỗi của mình và đồng thời công bố sự vô tội của Đức Giêsu.
Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
Đức Giêsu đúng là “Ađam mới”, giúp nhân loại về lại địa đàng đã mất. Chia sẻ “cùng một nỗi khổ cực như Đức Giêsu, chết, đó là bắt đầu “sống với Đức Giêsu”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
VƯƠNG QUỐC CỦA THÁNH TỬ- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ đã được Đức Pi-ô XI thiết lập, nhằm khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng hoàn vũ của Chúa Ki-tô trên cá nhân, gia đình và xã hội. Trong Thông Điệp “Quas primas” được ban hành vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI lên án đặc biệt chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa này phủ nhận triệt để vương quyền của Chúa Ki-tô. Đức Giê-su không những là Thầy, là Anh, là Bạn mà còn là Vua của chúng ta nữa.
2Sm 5: 1-3
Bài Đọc I gợi nhớ tổ tiên của Chúa Ki-tô là vua Đa-vít. Trước đó, Đa-vít đã được các chi tộc miền Nam tôn phong làm vua, bây giờ lại được các chi tộc miền Bắc tấn phong làm vua tại Khép-rôn. Như vậy, vua Đa-vít, tổ tiên của Đức Giê-su, đã thống nhất toàn thể dân Ít-ra-en và đã thiết lập vương quốc trong sự bình an thịnh trị.
Cl 1: 12-20
Trong thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê, chúng ta gặp thấy một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, tôn vinh Chúa Ki-tô, Ngài là Chủ Tể của vũ trụ và là Thủ Lãnh của Giáo Hội.
Lc 23: 35-43
Tin Mừng Lu-ca thuật lại tình tiết của người gian phi sám hối. Anh nhận ra ở nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh là Người Công Chính thập toàn, Vua Thiên Quốc, Đấng đầy lòng thương xót, Ngài có quyền dẫn đưa các tội nhân vào Vương Quốc của Ngài.
BÀI ĐỌC I (2Sm 5: 1-3)
Bản văn này đưa chúng ta trở lại bối cảnh của năm 1000 trước Công Nguyên. Trong thời gian dài, dân Ít-ra-en đã từ chối chọn cho mình một vị vua, vì Đức Chúa là vua duy nhất của họ.
*1.Hoàn cảnh đòi buộc:
Trong những giờ phút nguy kịch cần đến những hành động đúng lúc, các chi tộc chỉ định những vị đứng đầu tạm thời mà họ gọi các “Thủ Lãnh”. Nhưng trước mối nguy của quân Pha-lê-tinh càng lúc càng khẩn thiết và nghiêm trọng, toàn dân Ít-ra-en cảm thấy cần phải huy động mọi sức mạnh và phối hợp mọi thế lực. Ông Sa-mu-en, vị Thủ Lãnh cuối cùng đã xức dầu tấn phong vua Sa-un (vào năm 1030-1025 trước Công Nguyên). Nhưng vì vua Sa-un đã làm những điều trái mắt Đức Chúa, ngôn sứ Sa-mu-en được Đức Chúa sai đi xức dầu tấn phong cậu bé Đa-vít, con trai út của ông Gie-sê, thay thế vua Sa-un.
*2.Đa-vít được tấn phong làm vua:
Kể từ khi còn ở dưới trướng của vua Sa-un, Đa-vít đã tỏ ra là một người có tài thao lược. Vả lại, tên “Đa-vít” có nghĩa “thủ lãnh”, “người chỉ huy”. Thuộc hạ của ông đã ca ngợi nhân cách của ông, lòng quảng đại của ông trong việc phân chia chiến lợi phẩm. Đồng thời, việc ông xuất thân từ làng Bết-lê-hem chiếm được cảm tình của các chi tộc miền Nam, họ đã tôn ông lên làm vua tại Khép-rôn (vào năm 1010 trước Công Nguyên).
Vào lúc đó, các chi tộc miền Bắc vẫn trung thành với nhà Sa-un. Nhưng những cuộc tranh chấp quyền hành và những cuộc trả thù đã dẫn đến việc ám sát vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un. Vì thế, các chi tộc miền Bắc liên minh với vua Đa-vít. Đoạn trích hôm nay là chuyện tích về các chi tộc miền Bắc thần phục vua Đa-vít.
*3.Sấm ngôn về vua Mê-si-a:
Như vậy vua Đa-vít trở thành vua của toàn dân Ít-ra-en và cai trị một dân thống nhất; “vua Đa-vít lập giao ước” với toàn thể các chi tộc Ít-ra-en. Vua đã chiếm Giê-ru-sa-lem và thiết lập thành này làm thủ đô. Đa-vít là vị vua đầu tiên của thành thánh, thành này sẽ là biểu tượng nơi cư ngụ của Đức Chúa ở cõi thế.
Các ngôn sứ sẽ nêu bật nhân cách Đa-vít và sẽ loan báo rằng từ nhà Đa-vít sẽ sinh hạ vua Mê-si-a mà vương quốc của Ngài sẽ là vương quốc bình an và công chính.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 12-20)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê này chứa đựng một bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô, Chủ Tể của vũ trụ và Thủ Lãnh của Giáo Hội.
*1.Bối cảnh:
Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê được viết trong khi thánh Phao-lô bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61 và 63. Trong thời gian này, thánh Phao-lô đã suy nghĩ sâu xa về Chúa Ki-tô, trên cùng một mức độ như người ta gặp thấy trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thư này thuộc cùng một thời kỳ. Nhưng bài thánh thi, trung tâm phát triển đạo lý của thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, xem ra là một bài thánh thi phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi, cũng như bài thánh thi được trích dẫn trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê. Trong trường hợp thư gởi tín hữu Cô-lô-xê này, bài thánh thi là câu trả lời tốt nhất cho những biện luận sai lạc được phổ biến trong khắp các giáo đoàn miền Phygia. Thánh nhân đã được báo cho biết những biện luận sai lạc này: chúng giảm thiểu vai trò của Chúa Ki-tô trong công trình tạo dựng cũng như công trình cứu độ, vì quá đề cao những quyền năng trung gian, nhất là các thiên sứ.
Đoạn trích hôm nay gồm có hai phần: phần dẫn nhập (1: 12-14) và bài thánh thi (1: 15-20).m2.Phần dẫn nhập (1: 12-14):
*A-Vương Quốc của Thánh Tử:
Phần dẫn nhập mở đầu với việc chúc tụng Chúa Cha. Ở phần dẫn nhập này, chúng ta gặp thấy lần duy nhất trong Tân Ước diễn ngữ “vương quốc Thánh Tử chí ái”. Các tác giả Tin Mừng nói về Vương Quốc Thiên Chúa hay Nước Trời, chứ không Vương Quốc Thánh Tử. Thật ra, trước quan tổng trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã công bố mình là vua và Nước của Ngài không thuộc về thế gian này (Ga 18: 36). Ở đây, rõ ràng thánh Phao-lô ca ngợi vương quốc của Thánh Tử.
*B-Cảm tạ Chúa Cha:
Chính luôn luôn với Chúa Cha mà thánh Phao-lô dâng lên lời nguyện cầu của mình; và cũng chính luôn luôn về Chúa Cha mà thánh nhân quy chiếu nguyên lý cứu độ. Lời cầu nguyện của Giáo Hội cũng sẽ theo cùng một chuyển động như thế: cầu nguyện là hành vi cảm tạ Thiên Chúa, vì Đức Ki-tô và nhờ Đức Ki-tô.
Rõ ràng thánh nhân đang mời gọi các Ki-tô hữu gốc lương dân, chắc chắn họ chiếm đa số trong Giáo Đoàn Cô-lô-xê, hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng “đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng”. Ơn cứu thoát vốn là gia nghiệp được dành riêng cho dân Ít-ra-en xưa, nay Thiên Chúa cho dân ngoại cũng được dự phần vào (x. Cl 1: 11-13). Họ được dự phần vào nhờ phép Thánh Tẩy, tức là lìa bỏ mọi quyền lực tối tăm mà bước vào “trong cõi đầy ánh sáng”.
Đoạn, thánh Phao-lô chuyển từ “anh em” sang “chúng ta”: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm”. Thánh nhân không tách mình ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Không phải chính thánh nhân cũng đã được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm và được ánh sáng chói lòa của Đấng Phục Sinh quật ngã và chinh phục trên đường Đa-mát đấy sao?
*C-Ơn Cứu Độ:
Sau cùng, lời ca ngợi cao cả nhất dâng lên Thiên Chúa: “Người đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi”. “Ơn cứu chuộc” không gì khác hơn là giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ của tội lỗi, tức là ơn tha thứ tội lỗi, do sáng kiến của Chúa Cha, nhờ Đức Giê-su Ki-tô là Thánh Tử.
Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô dùng thì quá khứ: “Người đã đưa chúng ta vào vương quốc Thánh Tử chí ái”. Đây là nét đặc trưng của các “thư trong tù” của thánh nhân. Ơn cứu độ là một thực tại đã được thực hiện rồi và đang thành tựu. Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân cũng nói như thế: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6). Trong cảnh xiềng xích, thánh nhân đã chiêm ngắm mầu nhiệm; thánh nhân định lượng sự viên mãn của mầu nhiệm; thánh nhân chăm chú chiêm ngưỡng ơn cứu độ đã được thực hiện và đang đơm bông kết trái. Từ suy niệm, thánh nhân dẫn đưa chúng ta vào bài thánh thi tôn vinh Thánh Tử.
*3.Bài thánh thi (1: 15-20):
*A-Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong công trình tạo dựng:
“Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử nắm quyền Trưởng Tử trên mọi loài thụ sinh, vì trong Người muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”.
Những câu mở đầu này áp dụng cho Đức Giê-su Ki-tô những từ ngữ ca ngợi tính ưu việt của Đức Khôn Ngoan, trong các bản văn trào lưu minh triết:
-“Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26).
-“Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.Ta đã được tấn phong từ đời đời, từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất… Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời…
Khi người đặt nền móng cho đất. Ta hiện diện bên Người như tay thợ cả…” (Cn 8: 22tt.).
Phần mở đầu của bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô vừa nguyên nhân tác thành vừa nguyên nhân cùng đích của vũ trụ:
“Vì trong Người muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”.
Thánh Gioan sẽ lấy lại những từ ngữ của thư gởi các tín hữu Cô-lô-xê này trong Tựa Ngôn của mình:
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có chi tạo thành. Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 3).
Viễn cảnh của bài thánh thi không mang tính vũ trụ, nhưng mang tính thần học: Đức Giê-su Ki-tô “thâu tóm” trong Ngài toàn thể vũ trụ:
“Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (1: 17).
*B-Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự siêu nhiên:
Nếu Đức Ki-tô là khởi nguyên công trình tạo dựng trong trật tự tự nhiên, thì Ngài cũng là khởi nguyên toàn bộ sự sống siêu nhiên. Ngài là đầu Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Ngài. Ngài là “Trưởng Tử trên mọi loài thụ sinh” như thế nào, thì Ngài là người đầu tiên từ cõi chết sống lại như vậy, nghĩa là Ngài đã khai mạc sự sống vinh quang; Ngài là Chủ Tể đời sống mới này. Thánh Gioan sẽ nói trong sách Khải Huyền: Đức Giê-su Ki-tô là “An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” (Kh 22: 13).
Chính Đức Giê-su Ki-tô là tác giả của ơn cứu độ:“Nhờ máu Người đổ ra khi chết trên thập giá,Thiên Chúa đem lại bình ancho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (1: 20).
Song đối với sự hài hòa của vũ trụ là sự hài hòa của các tâm hồn mà việc tha thứ tội lỗi mang lại: sự bình an trong tâm hồn này là thành quả hy tế của Đức Ki-tô.
Khi trích dẫn thánh thi ca ngợi tính ưu việt của Đức Ki-tô này, thánh Phao-lô đã thấy ở đây trước tiên một vũ khí chống lại những lời nói vớ vẩn của các triết gia Cô-lô-xê; nhưng đồng thời thánh nhân cũng đã gặp thấy ở đây diễn ngữ thần học, diễn tả sâu xa thần học của thánh nhân. Biến cố trên đường Đa-mát đã mặc khải cho thánh nhân tầm quan trọng hàng đầu của vai trò Đức Ki-tô. Con người Đức Ki-tô ngự trị trên quan điểm về ơn cứu độ, quan niệm về Giáo Hội, cũng như kinh nghiệm nội tâm của thánh nhân. Đức Ki-tô là tất cả trong mọi sự.
TIN MỪNG (Lc 23: 34-43)
Vào Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ này, năm phụng vụ của Tin Mừng Lu-ca, Giáo Hội trích dẫn Tin Mừng Lu-ca để gợi lên dung mạo của Vua Ki-tô.
*1.Bối cảnh:
Đức Giê-su bị đóng đinh, bị bêu xấu, đối tượng của những lời nhục mạ và chế nhạo. Ở đây, chúng ta có thể nhận ra Tv 22: 8:
“Thấy con ai nấy cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mĩa mai”. Ở trên đầu Ngài, một tấm bảng ghi bản án: “Đây là vua người Do thái”.
Thật ra, Tin Mừng Lu-ca bày tỏ thái độ thiện cảm của dân chúng đối với Đấng chịu đóng đinh. Họ không dự phần vào những lời nhục mạ; họ trầm ngâm đứng nhìn. Nhưng rồi một ánh sáng bất chợt lóe lên, những lời nói thốt lên trước khi mọi sự được hoàn tất. Đó là những lời nói phát xuất từ một trong hai tên gian phi chịu đóng đinh với Chúa Giê-su. Tình tiết này thuộc riêng thánh Lu-ca.
*2.Lời khẩn nguyện của người gian phi sám hối:
Trong khi một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài buông những lời phỉ báng mà hắn đã nghe các thủ lãnh Do thái nhục mạ Đức Giê-su: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!”, thì người gian phi kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không sợ!”, rồi công bố Ngài vô tội: “Chúng ta chịu như thế nầy là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm gì trái!”.
Ân sủng được ban ngay tức khắc cho người gian phi khiêm tốn này, anh xưng thú tội lỗi mà mình đã làm, và như thế mặc nhiên bày tỏ tâm tình sám hối của mình. Anh ta nhận ra Đức Giê-su là vua Mê-si-a và lời cầu xin đầy tin tưởng của anh chứng tỏ anh tin chắc là mình được tha thứ: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”.
Thật hiếm khi Đức Giê-su được gọi đích danh như thế. Chắc chắn, ở đây có một ghi nhận mang tính thực tế: tiếng kêu của một tội nhân ngỏ lời với người cùng chịu chung cảnh cùng khốn với mình: “Xin nhớ đến tôi”. Đây là lời mở đầu kinh nguyện Do thái mà những người hấp hối ngỏ lời với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con”, “Xin nhớ đến giao ước của Ngài”, vân vân.
*3.Lời đáp trả của Chúa Giê-su:
Đức Giê-su trả lời anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Đây là lời khẳng định long trọng: “Tôi bảo thật anh” mà Lu-ca hiếm khi sử dụng.
Tại Tin Mừng Lu-ca, “Hôm nay” là từ ngữ luôn luôn được kết nối với sự đăng quang của ơn cứu độ. Đó là “hôm nay” mà các thiên sứ đã loan báo ở Bết-lê-hem: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (2: 11); đó là “hôm nay” mà Chúa Cha đã công bố vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (3: 22); đó là “hôm nay” mà Chúa Giê-su đã tuyên bố ở hội đường Na-da-rét: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe” (4: 21), và cũng là “hôm nay” mà Ngài đã ngỏ lời với ông Da-kêu: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19: 9).
Kể từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, niềm tin vào sự sống lại vào ngày tận thế ló dạng, Thiên Đàng biểu tượng nơi ở mà những người công chính mong chờ sau khi qua đời. Thuật ngữ này luân phiên với diễn ngữ “trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham” mà Lu-ca nêu lên trong dụ ngôn ông phú hộ và anh La-da-rô khốn cùng. Anh La-da-rô qua đời, được vui hưởng niềm hoan lạc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham (16: 23).
*4. “Anh sẽ được ở với tôi”:
Trong lời khẩn nguyện khiêm tốn, người gian phi sám hối phó thác tương lai của mình vào Đức Giê-su. Tương lai này được tóm gọn vào lời Chúa Giê-su ngỏ với anh: “Anh sẽ được ở với tôi”, lời này định nghĩa đức cậy trông của Ki-tô giáo. Niềm hoan lạc của Nước Trời hoàn toàn được thu tóm ở nơi lời hứa này về cuộc sống thân mật với Chúa.
Chúng ta đừng quên nét đặc trưng của Tin Mừng Lu-ca là lòng Chúa xót thương. Chẳng hạn như chỉ thánh Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su tha thứ người phụ nữ nổi tiếng tội lỗi trong thành: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha thứ, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (7: 47), hay chỉ mình thánh Lu-ca ghi lại dụ ngôn: ‘Người cha nhân hậu” (15: 11: 32), dụ ngôn: “Người Sa-ma-ri nhân lành”, hoặc chỉ có mình Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su cầu nguyện cho thánh Phê-rô trước khi bước vào cuộc Thương Khó Tử Nạn của Ngài: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy cầu nguyện cho anh để anh không mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (22: 32).
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chỉ thánh Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su cầu nguyện trên thập giá cho những người hãm hại Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (23: 34) và câu chuyện thật cảm động của một người gian phi sám hối.
LỄ CHÚA KITÔ VUA – NĂM C
ĐỨC GIÊSU KHAI MỞ TRIỀU ĐẠI CỦA NGÀI (*)- Chú giải của Fiches Dominicales
Những lời nhục mạ mang hình thức bộ ba cám dỗ:
Khi đến nơi gọi là “Đồi sọ”, hay đồi Canvê, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, cùng lúc vởi hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái”. Người vừa mới xin ơn tha thứ cho những tên lính có nhiệm vụ hành quyết Người, và họ cũng đã chia nhau xong những tấm áo của Người.
Đang lúc dân chúng đứng “nhìn” thì “những lời nhục mạ” hai chi tiết này cùng ứng nghiệm lời Thánh Vịnh 21 – được “xổ” ra từ phía các thủ lãnh Do Thái, binh lính và một tên gian phi. Những lời nhục mạ của họ mang hình thức một bộ ba cám dỗ như dư âm của những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã chiến thắng hồi Người mởi bắt đầu thi hành sứ vụ. Thời ‘Lc 4,13’ cho cuộc chiến đấu cuối cùng nay đã tới.
Các “thủ lãnh” Do Thái diễn đạt tư tưởng cùng một kiểu như quỷ sa tan đã dùng xưa khi cám dỗ Chúa ở trong hoang địa: “Hắn hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Người được tuyển chọn”; hắn hãy dùng quyền mình có mà mưu ích cho mình đi!
“Lính tráng” cũng dựa vào bản án xử tội gắn trên đầu người mà chế giễu Người rằng: “Nếu ông, là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”.
Sau cùng, “một trong hai tên gian phi” lặp lại cùng một điệp khúc, tiếp thêm mấy lời là cứu cả chúng tôi với. Nếu Đức Giêsu yên lặng từ chối cho mình hưởng ơn cứu độ theo đúng nghĩa là ơn giải thoát, liệu người có thể từ chối cứu thoát kẻ khác chăng, bởi lẽ Người “chỉ có thể tỏ mình là Đức Kitô thực sự khi thực thi quyền năng của mình để cứu thoát người ta” (cf. Dupont).
Ơn tha thứ vương giả của một kẻ bị đóng đinh:
Thế rồi, xen giữa những lời phỉ báng nhạo cười, thì một tiếng nói khác cất lên, khác vởi các tiếng nói kia, tiếng nói của một tên gian phi khác.
Anh chính là điển hình cho con người hối cải, con người khốn khổ biết nhìn nhận mình có tội và chịu nhận hình phạt. Anh trả lời người bạn nhục mạ Chúa Giêsu: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Cùng lúc ấy anh tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội: “Ông này đâu có làm điều gì trái”. Hơn nữa, đang khi mọi người chế giễu tư cách là Đấng Mêsia và là Vua của Người, thì chính anh lại lên tiếng tuyên xưng niềm tin vào ông Giêsu này là Đấng Mêsia vua, mà vẫn nghĩ rằng quyền cứu thoát của Người sẽ chỉ được tỏ ra vào lúc tận cùng thời gian: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”.
Đáp lời anh thỉnh nguyện, Chúa Giêsu long trọng loan báo cho anh ơn giải thoát: “Tôi bảo thật anh…”. Và ơn giải thoát Chúa báo cho anh đây, không phải chỉ xảy ra vào cuối thời gian, mà diễn ra ngay “hôm nay”: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Thiên đàng theo truyền thống Do Thái là nơi tượng trưng bằng cây sự sống mà tất cả những ai sau khi chết được Chúa xét là công chính sẽ được hưởng.
Thiên đàng ấy anh sắp được biết nó rồi, và cốt lõi của nơi hạnh phúc và được sống mãi ấy, chính là được “ở với Người” là Đức Giêsu. J. Dupont kết luận: “Như thế, Đức Giêsu đã trả lời thách thức là coi khinh tất cả những gì mà người ta đã nhục mạ Người trước đó; Người đã cứu thoát một tên gian phi, một con người, không phải bằng cách cứu cho anh khỏi cái chết đời này, nhưng làm cho anh biết dùng cuộc sống này như bước vượt qua tiến đến sự sống thật và hạnh phúc thật “.
BÀI ĐỌC THÊM:
Trên thập giá, tình thương mạnh hơn hận thù. (“Missel Emmaus”, trg 1l58).
Cuộc đời Đức Kitô được hoàn tất trên thập giá. Vì thế một vấn đề căn bản được đặt ra, vấn đề tách biệt ai là kẻ tin và ai là người không tin.
Cuộc đời Người là một thất bại ư? Ngay cả một số người vốn ngưỡng mộ Người cũng nghĩ như thế. Đối với họ, Đức Giêsu là một người có một nhân cách tuyệt vời đấy. Nhưng Người đã sống trên một giấc mơ đã sụp đổ. Bất công đã chiến thắng và vẫn tiếp tục chiến thăng trong thế giới của ta đây. Rất tiếc nhưng đó là một thực tế.
Cũng là thất bại, dưới con mắt của những kẻ chống đối Người. Nhung con người này tỏ ra vui mừng, nhân danh lạc thú của họ, hoặc nhân danh Lề Luật là cả chính tôn giáo nữa.
Thế mà kìa, anh chàng bị đóng đinh bên cạnh Đức Giêsu, một tên cướp, lại đang mở to mắt, ngỡ ngàng: ông này là ai vậy, mà phải chết như thế này? Nơi anh đang diễn ra cảnh đảo lộn cả một khung trời anh đang sống. Với con người như thế, Đức Giêsu, mặc dầu đang hấp hối lại dám hứa rằng: “Hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng”. Ảo tưởng hết chỗ nói chăng? Hay là vén màn lên cho thấy một thực tại không thể ngờ được?
Đối với người có lòng tin, thì đây chính là thời điểm quang vinh. Tình thương đã chứng tỏ mạnh hơn hận thù. Triều đại của Đức Giêsu bắt đầu.
Phục vụ Đức Kitô-vua, chẳng có sức mạnh nào cưỡng ép được nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương. Quyền lực của Người tuy là vô biên, nhưng lây lan dần nhờ những đốm lửa nhỏ của Tình yêu.
“Một sự đảo ngược tình thế lạ thường”
Đức Giêsu bị ngay cả những người cùng chịu khổ hình với mình khinh chê, nhục mạ, sỉ nhục đến thế là cùng. Thế nhưng, giờ đây lại xảy ra một sự đảo ngược tình thế lạ lùng: một trong hai tên gian phi từ chối hùa theo những lời xúc phạm mà tên kia tuôn ra; anh thú nhận cả hai đều có tội, nhìn nhận Đức Giêsu vô tội, rồi diễn tả lòng tin của anh bằng lời thỉnh cầu khiêm tốn. Đức Giêsu đáp lại lòng tin này bằng cách báo cho anh biết anh sẽ được như lời thỉnh cầu ngay lúc ấy: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (23,43).
Chính bằng cách đó, Luca đã chứng thực hiệu quả hy lễ của Đức Giêsu: thập giá Đức Giêsu biến đổi thế giới, khi làm nẩy sinh ơn sám hối nơi các tâm hồn và mở cửa thiên đàng cho họ. Cùng vởi người trộm lành, chính mỗi người chúng ta phải coi mình như được mời gọi gẫm suy cho kỹ những đau khổ của Đức Giêsu và tự vấn lương tâm: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng… chứ ông này, đâu có làm điều gì trái” (23,41).
Vừa khơi dậy lòng sám hối thập giá Đức Kitô còn làm nẩy sinh sự đổi mới lạ lùng với lòng tin cậy của trẻ thơ: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (23,42). Và câu trả lời của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng lòng tin tưởng của trẻ thơ kia hoàn toàn có cơ sở Đấng Chịu-đóng-đinh đang mở toang mọi cánh cửa của lòng thương xót (cf. Lc 6,36; 18,9-14): Người thực hiện điều mà tên gian phi thứ nhất kia đã thách thức Người làm, nhưng ở một bình diện hoàn toàn khác, bình diện thiêng liêng, nơi tâm hồn: “Ông hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với” (23,39).
CHÚA GIÊSU LÀ VUA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Chúa Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
Gợi ý sám hối
Chúng ta đã tôn thờ những “vua” khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v. v.
Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. Lời Chúa
Bài đọc I (2 Sm 5, 1-3)
Đoạn này thuật cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Cần nhớ rằng sau khi Vua Saun chết, các chi tộc miền Nam đã phong Đavít làm vua của họ. Một thời gian sau, vì mến mộ tài đức của Đavít nên các chi tộc miền Bắc cũng phong Đavít làm vua họ nữa. Như thế là đất nước thống nhất dưới quyền lãnh đạo một vị vua duy nhất.
Trong biến cố này, Thiên Chúa cũng lên tiếng. Ngài nói với Đavít: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân của Ta”. Câu này rất ý nghĩa: vua Đavít chỉ là “người chăn dắt” dân “của Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa mới là Vua thật của “dân Ngài”.
Đáp ca (Tv 121)
Đây là một ca khúc lên đền, nghĩa là ca khúc mà những người hành hương hát khi họ tiến đến gần đền thờ Giêrusalem.
Tuy những người hành hương tiến đến nơi có đặt “ngai vàng của vương triều Đavít”, nhưng họ ý thức rằng họ là những “chi tộc của Chúa” vì chính Chúa mới là vua thật của họ.
Tin Mừng (Lc 23, 35-43)
Đoạn Tin Mừng này mô tả cảnh Chúa Giêsu trên thập giá:
Phía dưới thập giá, dân chúng “đứng nhìn” cách bàng quan như không liên can gì đến mình, các thủ lãnh Do Thái thì chế nhạo “Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô”, lính tráng cũng chế diễu “Nếu ông là vua dân Do Thái thì hãy cứu lấy mình đi”.
Trên đầu Ngài có bảng viết “Đây là vua người Do Thái”
Bên cạnh Ngài có hai tên gian phi: một tên hùa theo đám người phía dưới để chế diễu Ngài; tên kia công nhận Ngài là vua nên nói với Ngài “Khi ngài vào Nước của Ngài thì xin nhớ đến tôi”.
Nghĩa là: thánh Luca đã cố ý trình bày Chúa Giêsu trên thập giá như một vị vua đang ngự trên ngai của mình. Nhưng đa số những người ở dưới và bên cạnh, vì đã quá quen với hình ảnh một ông vua trần gian nên chẳng những không nhận ra Ngài mà còn chế nhạo Ngài.
Bài đọc II (Cl 1, 12-20)
Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bày địa vị của Chúa Giêsu Kitô:
Đối với Thiên Chúa: Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa.
Đối với công trình sáng tạo: nhờ Chúa Giêsu mà muôn vật được tạo thành.
Đối với công trình cứu độ: nhờ cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa.
Như thế, Chúa Giêsu là Vua tối cao trên toàn thể vũ trụ.
Gợi ý giảng
* 1. Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan: “Homo homini lupus”: con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên: lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Chúa Giêsu gọi đó là Sự Thật; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
* 2. Chân lý cuối cùng
Trong những Chúa nhựt cuối của năm phụng vụ, Lời Chúa mời chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, để thấy trước khi ấy tình hình sẽ như thế nào, và nhờ đó mỗi người cũng biết điều chỉnh cuộc sống mình trong hiện tại cho phù hợp với viễn ảnh cuối cùng ấy.
Bằng ngôn ngữ khải huyền, các sách Tin Mừng mô tả lúc đó mặt trời mất sáng, mặt trăng tối sầm lại và các tinh tú trên trời rụng xuống. Qua những hình ảnh lạ lùng ấy, tác giả muốn nói rằng khi đến lúc tận cùng của thời gian, tất cả mọi thứ mà xưa nay người ta coi là quyền lực đều sụp đổ hết, để chỉ còn quyền lực của Thiên Chúa tồn tại và ngự trị.
Còn sách Huấn ca Ben Sira thì mô tả một cách thi vị hơn và bằng những hình ảnh gần gũi hơn:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa…
Hoa nào không phai tàn. Trăng nào không khuyết
Ngày nào mà không có đêm. Yến tiệc nào không có lúc tàn
Phù hoa nối tiếp phù hoa… “
Một thi sĩ khác cũng có những suy nghĩ tương tự, ông suy nghĩ về thời gian:
“Khi tôi là một đứa trẻ… tôi thấy thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên… tôi thấy thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành… tôi thấy thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín muồi thì thấy thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất
Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa”
Những dẫn nhập khá dài dòng trên chỉ nhằm giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay theo đúng hướng mà Phụng vụ của ngày Chúa nhựt cuối năm Phụng vụ muốn chúng ta hiểu. Trong hướng đó, chúng ta thấy được một số chân lý sau đây:
Thứ nhất: Đến lúc tận cùng của thời gian, nghĩa là đến ngày tận thế, hoặc ngày chết của mỗi người, thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều sẽ sụp đổ: tiền bạc, danh vọng, sức khoẻ, thế lực, thú vui…. Tất cả đều không còn ý nghĩa và tầm quan trọng gì đối với bản thân mình hết. Đúng như lời của bài thơ chót mà tôi vừa đọc: “Lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến thì ngoài Ngài ra không còn gì là quan trọng nữa”.
Thứ hai: Nếu khi đó chỉ có Chúa là quan trọng thì từ trước tới lúc đó trong cuộc sống, chỉ những ai gắn bó và nương dựa vào Chúa mới thấy yên lòng; còn những người quen tìm kiếm, chạy theo và nương dựa vào những thế lực khác như tiền bạc, quyền lực, thú vui v. v. sẽ thấy chới với, cô đơn, trơ trụi…
Thứ ba: Khi đó, đối với tất cả mọi người, dù tin hay không tin, dù tốt hay xấu, mọi người đều mở mắt và nhận thực rằng Chúa Giêsu chính là Kitô và là Vua thật. Kitô nghĩa là Đấng Cứu Vớt, Vua nghĩa là Đấng thống trị. Nhiều người trong lúc còn sống đã tưởng rằng nguồn cứu vớt của họ và thế lực hỗ trợ họ là tiền tài danh lợi thế gian, nhưng khi đó họ sẽ biết họ lầm. Chẳng hạn các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay: Các thủ lãnh Do Thái, quân lính, Philatô và tên gian ác ở bên trái Ngài. Chiều hôm đó trên đồi Sọ, họ tưởng Chúa Giêsu đang thất thế vì rõ ràng Ngài đang bị treo, bị đóng đinh dính cứng vào thập giá. Họ chế nhạo Ngài “Nào có giỏi thì thử xuống khỏi thập giá đi”. Họ cũng gọi Ngài là Kitô đó, cũng gọi Ngài là Vua đó, nhưng gọi một cách mỉa mai, gọi để nhạo báng: chẳng qua hắn chỉ là một tên Kitô dỏm, một ông vua cỏ mà thôi! Nhưng đến ngày cùng tận, tất cả những người ấy sẽ sửng sờ khi thấy kẻ bị họ nhạo báng ấy lại xuất hiện với tất cả uy quyền và vinh quang, để xét xử và trừng phạt họ. Ngài đúng là Kitô và là Vua. Chiều hôm ấy trên đồi sọ, chỉ có một người đã nhận biết Ngài, đó là người trộm lành ở bên phải. Anh đã tin Ngài là Vua nên anh nói “Khi nào Ngài vào Nước của Ngài”; anh cũng tin Ngài là Đấng Kitô cứu thế nên mới thưa “Xin Ngài cứu tôi, xin hãy nhớ đến tôi”. Và chúng ta hãy suy nghĩ: hiện bây giờ người trộm lành ấy đang ở đâu? Chắc chắn anh đang ở bên Chúa và hưởng hạnh phúc trong nước Chúa, như lời Chúa Giêsu đã hứa với anh chiều hôm ấy: “Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng”. Thật hạnh phúc thay cho người trộm lành, cả một đời gian ác tội lỗi, nhưng cuối cùng đã gặp được hạnh phúc thiên đàng, nhờ anh đã hiểu được phải trao cuộc đời cho ai và bám víu vào ai.
Cái chân lý mà mãi đến phút cuối đời người trộm lành mới thấy được ấy, Phụng vụ muốn chỉ cho chúng ta thấy ngay từ hôm nay: Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô cứu vớt, Ngài chính là Vua. Ngoài Ngài ra không có ai, không có cái gì là vua thật và có thể cứu chúng ta thật. Vậy ngay từ hôm nay chúng ta hãy quyết định trao gởi cuộc đời mình cho Ngài, sống gắn bó với Ngài, và từ bỏ tất cả những gì nghịch với Ngài. Có như thế chúng ta mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời bên cạnh Ngài, là Kitô thật và là Vua thật của chúng ta.
* 3. Cơn cám dỗ cuối cùng
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tuỳ tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi:
– Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười?
Án tử trả lời:
– Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
*
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói!ên vương quyền của Chúa Giêsu: “Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấâng Ki tô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn” (Lc 23, 35). “Đấng Kitô” chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. “Người Thiên Chúa tuyển chọn” chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người: “Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi” (Lc 35, 42).
Tuy nhiên, nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá” cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người (Ga 13, 32). Người đã không “cứu lấy chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh Thánh rằng: “Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân” (ls 53, 12). Người đã hoà mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người: “Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi” (Mi 11, 19).
Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng “khối” tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người,
Thần dân đầu tiên mà vị Vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người: Anh mắng người trộm dữ: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!” (Lc 35, 40-41). Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Người nhận lời tức khắc: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 35, 43).
Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì Vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính” (Lc 23, 48).
Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, môi được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
*
Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.
Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Hai tên gian phi
Các sách Tin Mừng ghi nhận rằng cùng bị đóng đinh chung với Chúa Giêsu hôm ấy còn có hai tên gian phi. Phần Tin Mừng theo thánh thì phân biệt có một người đã sám hối, còn người kia thì không. Chúng ta hãy xem xét từng người.
Trước tiên là tên gian phi không sám hối. Hắn chẳng còn tình cảm, chẳng còn lương tri, chẳng còn nhân tính gì nữa cả. Bởi vì tới lúc sắp chết mà hắn cũng không chút hối hận. Ngay cả Chúa Giêsu cũng chẳng thể cứu hắn. Thực vậy, chẳng ai có thể cứu được người không chịu để cho mình được cứu. Tấm lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn có sẵn đấy, nhưng tối thiểu con người phải muốn đón nhận. Oscar Wilde viết: “Kẻ đang ở trong tình trạng nổi loạn không thể nhận được ơn sủng”.
Chúng ta nhìn sang tên gian phi sám hối. Nhiều người đã nghĩ rằng người này được cứu độ dễ dàng quá: sau một đời tội lỗi, anh ta chỉ cần nói với Chúa Giêsu một lời thôi thì được tha thứ hết. Anh đã ăn trộm mọi thứ, và cuối cùng lại ăn trộm luôn thiên đàng nữa. Có người khắt khe nghĩ rằng ít ra Thiên Chúa phải bắt anh ta ở trong luyện ngục một thời gian nào đó mới phải.
Thực ra nếu tìm hiểu kỹ trường hợp anh ta, chúng ta sẽ thấy rằng anh đã làm được một việc không phải là nhỏ và cũng không phải là dễ:
Khi bị treo trên thập giá, anh không buông theo khuynh hướng xấu có sẵn trong mình mà bực bội và bất mãn để rồi có những phản ứng như tên gian phi kia, là thù người và hận đời rồi chửi bới lung tung. Thay vào đó, anh nhìn lại chính cuộc đời của mình. Anh đã thấy gì? Thấy cả đời anh chỉ là một đống rác rưởi chẳng có chút gì tốt cả. Từ đó anh ý thức rằng mình đã làm hỏng tất cả: không phải chỉ làm hỏng nhiều việc, mà còn làm hỏng chính cuộc đời mình. Anh biết tội mình, anh nhận trách nhiệm về đời mình.
Sau đó anh lên tiếng can gián tên gian phi kia đừng chửi rủa Chúa Giêsu nữa. Và anh quay sang kêu xin Ngài “Ông Giêsu ơi, khi nào Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi”.
Người ta vẫn có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác chứ không chịu nhận trách nhiệm vào mình. Chuyện gì cũng nói “tại cái này”, “bị cái khác”, “do người này”, “vì người nọ” v. v. Nhiều người còn viện vào khoa tâm lý mà ngụy biện rằng chẳng có gì là tội thực sự cả, tất cả chỉ do hoàn cảnh đẩy đưa; con người bị tác động bởi nhiều động cơ vượt tầm kiểm soát của mình.
Người gian phi sám hối bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài nhiều lắm chứ: những đau đớn thể xác làm anh khó chịu, những tiếng la ó của dân chúng làm anh tự ái, án tử hình thập giá làm anh nhục nhã Những thứ ấy đều xúi anh nổi loạn. Ngoài ra cái chết gần kề cũng xúi anh thất vọng: tới giờ phút này còn hy vọng gì sửa đổi tình thế được nữa; vả lại tội anh đã quá nhiều và quá rõ…
Có thể sám hối được trong hoàn cảnh như thế không phải là một việc dễ. Tuy nhiên anh đã sám hối. Việc sám hối ấy đã mang lại cho anh chẳng những ơn tha thứ, mà còn cả thiên đàng.
Người gian phi sám hối dạy cho chúng ta biết rằng: không bao giờ là quá trễ để quay về với Chúa, không tội nào là quá nặng để không được thứ tha, bao lâu ta còn thở là ta còn cơ hội để hưởng lòng thương xót Chúa.
* 5. Chúa Giêsu là vua như thế nào?
Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói: «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá», v. v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Chúa Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1, 3; xem 1, 10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25, 34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10, 11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4, 8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
Chúa Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách:
Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ.
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu, một «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4, 13). (Nguyễn chính Kết)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, khi bị đóng đinh trên thập giá, người trộm lành đã thưa với Chúa Giêsu: Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi. chúng ta cũng mượn lời khẩn cầu ấy để thân thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta:
- Hội thánh là một bà mẹ hiền / yêu thương hết thảy mọi con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử luôn nhớ đến những người nghèo khổ bất hạnh / và tìm mọi cách giúp họ sống xứng nhân phẩm của mình.
- Chúa Giêsu Kitô là vị Vua đem lại hòa bình thật sự cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm mống chiến tranh / hận thù và bạo lực / để hết thảy mọi người được an cư lạc nghiệp.
- Hiện nay / có một số anh chị em tận tụy hy sinh / phục vụ những người bị nhiễm HIV / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn nâng đỡ những sứ giả của tình thương / đang xả thân vì đồng loại của mình.
- Chúa Giêsu là vị Vua nhân ái / luôn chia sẻ mọi vui buồn với thần dân của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho vị vua đầy lòng nhân ái này.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con cũng biết yêu thương và giúp đỡ hết thảy mọi người như Chúa đã luôn luôn yêu thương và không ngừng nâng đỡ chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Trong ngày lễ kính Chúa Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
– Trước rước lễ: Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Chúa Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.
Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa Giêsu đã cho biết: “Nước tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô.
Đó là Vương quốc của lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai. Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa Cha: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời.
Đó là Vương quốc của sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ trói buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người khỏi ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do. Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối đầu” (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn” (Mt 4,3). “Nếu Ông là Đức Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do, Người đã đi vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con người.
Đó là Vương quốc của tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.
Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đã bao giờ bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng, lạc thú chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?
2) Hình ảnh về Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong bạn tâm tình nào?
3) Tuần này bạn sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh?
LỄ CHÚA KITÔ VUA- NĂM C
LỜI HỨA CỨU ĐỘ– ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.
Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là “Lời nói gỗ – Langue de bois”, có nghĩa là không thực và chỉ là những “xảo ngôn”, hứa cho qua.
Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).
Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì “Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được” (Kinh Trông cậy).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.
VẠN THẾ VƯƠNG ĐẾ CỦA THẾ GIỚI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Họa sĩ Louis David đã vẽ một bức tranh thời danh về cái chết của Socrate: Một con người tráng kiện, một tay chỉ lên trời, một tay giơ ra cầm chén thuốc độc, mặt quay nhìn các môn đệ với ánh mắt sáng ngời. Ông mặc chiếc áo vải thô, sống rất tầm thường, khác với bọn ngụy biện ăn mặc sang trọng để lôi cuốn dân thủ đô Athen. Ông cũng khác với các hiền triết xưa, ông không có chức vụ gì quan trọng. Ông bị Quốc hội Athen Hy Lạp văn minh nhất thời đó kết án phải uống thuốc độc chết vì tội đầu độc lớp thanh niên và tôn sùng vị thần khác với các thần của thành phố (năm 470-399 trước công nguyên).
Suốt đời ông rảo khắp đất nước rao giảng chân lý với đôi chân trần chai sạn. Mục đích của ông giúp các thanh niên thức tỉnh, tự truy tìm chân lý ở nội tâm mình: “Anh hãy tự biết mình” (connais-toi, toi même) bằng phương pháp đối thoại gợi ý (Maieutikê). Tự biết mình để giải thoát mình khỏi những thành kiến sai lầm, những độc đoán ngụy biện, những chính sách chính trị. Trước khi chết ông đã cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con sự trong sáng nội tâm – “Mon Dieu, donne-moi la purité intérieure” Triết gia Hégel đã gọi ông là “anh hùng của nhân loại” (héros de lhunanité). Giáo sư Didier Julia gọi ông là điển hình của một tông đồ đem lại tự do chân chính. Socrate đã làm chấn động tận gốc những tập tục cổ hủ và chuẩn bị lương tri con người đón nhận một sứ điệp khác: Sứ điệp Kitô giáo (Dictionnaire de la philosophie: Larousse). Platon, môn đệ của ông đã chứng kiến cái chết của Socrate, đã tôn thầy mình là Đấng sáng lập nền trí thức về tình yêu, về Thiên Chúa, về lời mời gọi đi tới huyền nhiệm. Socrate là “vạn thế sư phụ của Tây phương” cũng như Khổng Tử là “vạn thế sư biểu của Đông phương”.
Còn, Đức Giêsu là “vạn thế vương đế của thế giới”. Cũng như Socrate, Đức Giêsu là thường dân áo vải, đã rảo khắp đất nước và các lân bang để rao giảng chân lý: Chân lý về tình yêu muôn thuở, về mầu nhiệm nước trời, về Thiên Chúa là Cha nhân lành hằng ban sự sống vinh quang để giải phóng con người khỏi nô lệ cổ truyền bất nhân, khỏi gông cùm sự dữ. Những chân lý đó đánh bật tận gốc những tham vọng ích kỷ, hẹp hòi, đê tiện của các tầng lớp xã hội bất công. Những chân lý đó giống như luật lệ chống tham nhũng, chống mafia. Những ai can đảm thực thi những luật lệ chân chính đó đều bị bọn tham ô và mafia diệt trừ.
Đức Giêsu là Vua công chính, lại bị bọn bất chính kết án tử hình. Bọn bất chính đó là các thủ lãnh trong hàng ngũ biệt phái, Sa đốc, thượng tế, tư tế và quyền đời như Hêrôđê và Philatô. Họ đang đắc thắng nhạo báng Đức Giêsu rằng: “Hắn cứu được thiên hạ, có giỏi thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô, được Thiên Chúa tuyển chọn”. Họ đã biết rõ Người cứu thiên hạ, đã chữa bao nhiêu bệnh nhân, cho những kẻ chết sống lại, trừ khử quỷ ám. Nhưng họ kiêu ngạo chụp mũ Người đã dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, kết án Người là kẻ tội lỗi vì cứu chữa bệnh nhân trong ngày nghỉ Sabát, ghép Người vào hàng ô uế tội lỗi và bọn thâu thuế. Họ cho mình trong sạch, không đi lại với dân ngoại, không động đến kẻ phong cùi, kẻ bị cướp đánh nửa sống nửa chết nằm giữa đường. Và khi họ đã đóng đanh Người, họ còn bất nhân, tàn nhẫn chế nhạo và thách thức Người. Họ như thằng quỷ cám dỗ Người khi Người ăn chay 40 đêm ngày: “Nó đến nói với Người: Nếu Ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho hòn đá này hóa bánh”. Họ cũng giống những người Nazaret nói với Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói Ông đã làm ở Capharnaum, Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê Ông xem nào!” (Lc. 4, 3-23). Trước những lời mỉa mai đó, Đức Giêsu đã lặng thinh. Người không tự bào chữa, Người để họ tố cáo Người như một kẻ bất lực, bất tài. Họ cứ tưởng rằng Đấng Kitô là Vua Do Thái, sẽ giải phóng dân tộc, sẽ là anh hùng vĩ đại bách chiến bách thắng như Vua David, khôn ngoan bắt cả thế gian phải thần phục mình như Salômôn.
Noi gương các sếp thủ lãnh nhạo báng, bọn lính cũng a dua chế diễu: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì tự cứu mình đi”, chua chát thay! Chúng vừa nói móc vừa đóng bảng án phía trên đầu Người để kết tội: “Người này là Vua Dân Do Thái”. Đó là cách phong vương của quân dữ.
Nghi thức phong vương thường lệ là thầy thượng phẩm nhân danh Thiên Chúa xức dầu tấn phong ai làm vua trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến và nhiệt liệt tung hô (Bài I). Còn nghi lễ phong vương của Thiên Chúa thì khác: Thiên Chúa sai ngôn sứ đến xức dầu cho người Chúa chọn, như Thiên Chúa đã bảo Samuel đến xức dầu cho David. Thần khí Thiên Chúa đã đáp xuống David làm cho con người bé nhỏ trở nên phi thường. Nhờ đó David đã tung ná bắn đá vào trán Gôliat té nhào chết. Gôliat là điển hình sức mạnh vũ bão của loài người, còn David là đứa bé hèn mọn đã đánh Gôliat với danh Thiên Chúa (1Sm. 16, 11-13; 17, 4-50). Việc tấn phong Đức Giêsu làm Vua, không phải do con người mà do chính Thiên Chúa dùng Thánh Thần xức dầu phong vương cho Đức Giêsu khi Người chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là con của Cha …” (Lc. 3, 22). Với sức mạnh Thánh Thần, Đức Giêsu đã thực hiện sứ mệnh là Vua Cứu thế đến tột đỉnh trên ngai vàng thập giá, đầu đội triều thiên gai. Đó là những dụng cụ để chiến thắng sức mạnh của các thủ lãnh và quân lính thế gian, chiến thắng đau khổ và thần chết.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết đứng kề Thánh giá với Đức Mẹ, Thánh Gioan và các Thánh nữ, biết nhìn vào Trái tim Chúa đang chảy máu và nước ra như viên sĩ quan, để cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này thật là công chính”, và biết kêu van: “Lạy Ngài khi Ngài vào nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Hay ít nhất, cho con biết đấm ngực ăn năn như dân chúng để thú tội và mến yêu Ngài là Vua Tình thương tha thứ, Vua Hy sinh chịu chết cứu độ con. Amen.
LỄ CHÚA KITÔ VUA- NĂM C
CHÚA GIÊSU, VUA TÌNH YÊU– Lm. Bùi Quang Tuấn
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hòa bình chân thật, nhưng hòa bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình thương và Hoàng tử Bình an.
Về sau, khi có cuộc cải cách Phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vu, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phúc cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân Rômma đóng đinh ai cũng đều kèm tho một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua dân Do thái.” Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là Hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc 33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc 23:42).
Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả lời: Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xóa hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi.”
“Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta” (Lc 23:43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng.”
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình Yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hòa bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
LỄ CHÚA KITÔ VUA- NĂM C
VUA TÌNH YÊU, KHIÊM HẠ VÀ PHỤC VỤ– Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Nói đến Vua là nói đến quyền lực, sức mạnh, sự giàu sang phú quý. Nhưng với vị vua Giêsu thì điều hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh nơi Ngài là tình yêu, quyền lực của Ngài là sự khiêm hạ, và giàu sang của Ngài là phục vụ. Giáo Hội suy tôn Ngài là Vua vũ trụ, bởi chính Ngài là khởi thủy, và cùng tận.
Vua tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu. Định nghĩa của Gioan rất đơn giản nhưng chứa đựng cả một bể khơi nguồn tình yêu. Đức Giêsu đã tế hiến cuộc đời của mình cho tình yêu nhân loại. Ngài là vua của tình yêu. Vương quốc của Ngài không xây dựng trên bạo lực, bạo quyền, mà được xây dựng trên tình yêu thương. Khí giới Ngài dùng là đỉnh cao Thập Giá. Phía trên đầu Ngài là tấm bảng được ghi: “Đây là vua người Do Thái” (Lc 23, 38).
Vua khiêm hạ
Thông thường các vị vua chúa trần gian hay kiêu căng, ác độc. Hê-rô-đê bạo chúa đã gây biết bao tội ác và đưa đến cái chết cho Gioan Tẩy Giả. Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành đã nhuộm đỏ máu xương của biết bao người. Kiêu ngạo và độc ác đã gây nên biết bao là oan khiên. Còn Đức Giêsu, vị vua không biên cương lãnh thổ, không triều đình không quân lính. Vị vua cỡi trên lưng lừa trong ngày vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc đời mình, với cái chết cô đơn trên Thập Giá, giữa những người gian phi.
Vua phục vụ
Ngài đến trần gian là để hầu hạ và phục vụ con người. Bao năm rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã tận tụy phục vụ một cách nhưng không cho con người. Ngài rong ruổi khắp nơi, để tìm kiếm và cứu chữa con người. Những người đau ốm, những kẻ bị quỷ ám, những người đơn côi, những kẻ tội lội đều được Ngài tận tình chăm sóc cả hồn lẫn xác. Cử chỉ phục vụ của Ngài được thể hiện cô đọng lại trong đêm bị trao nộp. Ngài đã cúi xuống và rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ của một người tôi tớ phục vụ cho các ông chủ của mình. Ta đến không phải để phục vụ mà là phục vụ muôn người: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, thì hãy nên như người phục vụ” (Lc 22, 25-26).
Lạy Đức Vua Giêsu, xin cho chúng con là những kẻ tôi tá Ngài biết sống yêu thương, khiêm nhường và phục vụ anh chị em mình. Xin cho chúng con chỉ biết phụng sự, và tôn thờ một mình Ngài là Vua của chúng con. Amen.
LỄ CHÚA KITÔ VUA- NĂM C
NGƯỜI CÔNG DÂN ĐẦU TIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trên thập giá, ngay trước khi tắt thở, Đức Giêsu đã hé mở cho thấy một điều vĩ đại vượt quá sức hiểu biết của tất cả mọi người: thiên đàng là vương quốc không chỉ dành riêng cho các kẻ đạo đức thánh thiện, mà trước hết là gia nghiệp biếu không cho tất cả các tội nhân cầu mong được xót thương tha thứ; điều này có thể làm nhiều người chúng ta ngạc nhiên, ngạc nhiên tới độ cảm thấy bị sốc, bị xúc phạm. Ta vẫn thường nghĩ: công dân thiên đàng phải là các bậc đạo đức thánh thiện, nếu không xuất chúng trổi vượt như các bậc đại thánh được tuyên phong thì chí ít cũng phải là lương thiện tốt lành tới một mức độ nào đó. Ấy vậy mà công dân đầu tiên và tiêu biểu của vương quốc Vua Kitô, công dân được chính Vua Kitô long trọng kết nạp ngay trên thập giá, lại là một tên đại gian đại ác tới độ xã hội loài người phải tìm cách loại bỏ bằng cách lên án tử.
Ngay cả Giêsu đang bị bị đóng đinh trên thập giá cũng bị thiên hạ bên dưới bêu rếu nhạo cười: nhạo cười vì chính tước hiệu ‘Vua’ mà ông đã tự gán cho mình; ‘Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Do Thái lúc đó đồng nghĩa với một dân tộc nhược tiểu, bị trị… và quan tổng chấn Phi-la-tô, khi cho viết, đã hàm ý đó; thậm chí cả các người Do Thái cũng cảm thấy bị nhục mạ vì cách nhạo cười bêu rếu này…, nên họ đã cực lực phản đối. Thế nhưng, người duy nhất đã nghiêm túc xác nhận lời bêu rếu trên là chính đáng, lại là chính người đang bị nhạo cười; ‘Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?” Người trả lời: “Chính ngài nói đó!” Thế thì quả thật Đức Giêsu đã khảng định cách công khải: Người là Vua, và cùng với lời tuyên bố đó, một Vương Quốc mới đã bắt đầu lộ diện, một Dân Riêng mới, một Do Thái mới. Tuy nhiên vấn nạn được đặt ra là: vương quốc đó thực tế là gì, và sẽ dành cho những ai? ai mới xứng đáng được gia nhập vương quốc của vị Vua bị đóng đinh này? Chắc chắn đó là những câu hỏi cần tìm được lời giải đáp! Trong vương quốc Do Thái của Cựu Ước, công dân là những người như tổ phụ Áp-ra-ham, đặt trọn niềm tin vào lời hứa của Đức Chúa; và họ cụ thể hóa niềm tin đó bằng việc nắm giữ trọn vẹn các lề luật do Mô-sê để lại. Vậy thì, nếu công dân vương quốc cũ đã phải là như thế thì công dân của vương quốc Do Thái Mới sẽ phải làm gì đây, đồng thời họ phải hội đủ các điều kiện nào để được gia nhập? để giải đáp vấn nạn này ta chỉ cần nhìn vào người công dân đầu tiên và tiêu biểu của Vương Quốc ấy là đã hiểu ra ngay, cả về bản chất lẫn điều kiện để được gia nhập.
Trong trình thuật thương khó của Phúc Âm Lu-ca, diện mạo người công dân đó đã được phác họa cách rõ nét: Lu-ca mô tả tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá là công dân đầu tiên của vương quốc mới thiết lập. Sẽ không ai gọi hắn là ‘lành’ vì cả đời tên này đã sống gian hùng và từng phạm nhiều trọng tội tới độ xã hội phải tuyên án tử. Một tên đại gian đại ác như thế mà lại được chính Đức Giêsu trực tiếp công bố rằng: anh được kể như người thứ nhất được nhận vào Vương Quốc mình thiết lập: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Ta thắc mắc: tại sao lại như thế, hắn đã làm được gì? – thưa, điều duy nhất mà tên gian phi này đã may mắn làm được trước khi chết là kêu nài tới lòng xót thương của Tân Vương: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi!” Đơn giản chỉ có thế, và thế là anh ta đã được nhận vào Vương Quốc, được trở thành công dân đầu tiên của Nước Trời!
Tín hữu của mọi tôn giáo đều có chung một tư duy: ‘thiên đàng hay thiên cung’ là nơi chỉ dành cho những con người tốt lành thánh thiện. Riêng Tin Mừng của Đức Giêsu mới cho thấy điều ngược lại: trên thiên đàng của Cha Người xuất hiện một hạng người ‘lành thánh mới’, phù hợp hơn với Vương Quốc được Thập Giá tình yêu cứu độ thiết lập. Nếu ‘lành thánh cổ điển’ là tu thân tích đức, là đạo đức khôn ngoan…, chí ít cũng phải ăn ngay ở lành, thì ‘lành thánh mới’ chỉ đơn giản là đón lấy lòng thương xót vô biên mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho mọi người trong Đức Kitô Giêsu. Nếu tên trộm trở nên ‘lành’, hay tên tướng cướp trở nên ‘thánh’ thì cũng chỉ vì hắn đã nại tới lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa.
Quan trọng hơn nữa: chúng ta không được coi người công dân đầu tiên này chỉ như một biệt lệ, một luật trừ hiếm hoi. Đúng hơn: anh ta phải được nhìn nhận như một nguyên mẫu (prototype) của mọi công dân trong Vương Quốc mới của Vua Kitô. Điều này đã được chứng minh qua thị kiến tông đồ Gio-an ghi lại trong sách Khải Huyền: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?” “Họ là những người… giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên… Và Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:13-14. 17). Thiên đàng mới hầu như gồm toàn những con người như thế cả, nói cách khác: mọi công dân Nước Trời đều phải là như thế. Vương quốc của Vua Kitô không phải là một thiêng đàng đầy khoái lạc được dùng để ân thưởng cho những thần dân trung tín tốt lành; Vương Quốc của Vua Kitô Giêsu Thập Giá chan hòa tình yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa. Vương quốc này sẽ đón nhận hết thảy mọi người, kể cả những kẻ gian hùng tội lỗi nhất, miễn là họ biết khiêm tốn đưa tay ra lãnh lấy tấm thẻ công dân được lòng thương xót Chúa ban tặng cho cách nhưng không. Đúng hơn, càng những ai nhận biết thân phận bất xứng tội lỗi của mình, thì lại càng dễ dàng mau mắn đưa tay ra đón nhận hơn. Như thế công việc và điều kiện duy nhất cần chu toàn để gia nhập Vương Quốc của Vua Kitô chỉ có thể là: khiêm tốn đón lấy ơn cứu độ đầy xót thương mà Thiên Chúa không ngừng trao ban!
Chúng ta được Hội Thánh nói cho biết: trong Vương Quốc ấy có một công dân rất tiêu biểu và uy tín: công dân Maria, người nữ đã từng khiêm tốn thốt lên tự đáy lòng mình: “Thiên Chúa đấng cứu độ tôi, đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn này!” (Lc 1:48) Chính vì khiêm tốn tột độ chân nhận Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của mình, mà Ma-ri-a mới thật sự xứng đáng trở thành Nữ Hoàng trong Vương Quốc của Vua Giêsu Kitô nhân ái.
Ngay cả một linh mục như tôi cũng không có cách nào khác để trở thành công dân Nước Trời! hơn nữa, nếu muốn trở thành công dân cao cấp hơn trong Vương Quốc đó, tôi sẽ phải nỗ lực trong diện nào hơn hết? Nếu trả lời được các vấn nạn trên, thời con đường ‘thánh thiện – công chính’ của tôi sẽ rộng mở hơn bao giờ hết; và rồi thì công tác mục vụ tôi đảm trách sẽ minh bạch và trực diện hơn nhiều!
Lạy Vua Kitô của vương quốc tình yêu cứu độ, xin hãy tiếp nhận con vào vương quốc của Người; xin cũng hãy nói với con như Chúa đã từng công bố với tên gian phi: “ngay hôm nay con sẽ ở với Cha trong vương quốc”. Xin hãy ban cho con ơn trọng đại nhất: là khi giờ chết đến, con biết ném mình vào lòng nhân hậu vô biên của Chúa. Xin cho con sở đắc vĩnh viễn được cái cảm giác tuyệt vời mà đã một lần con được nếm cảm trong giờ chết lâm sàng…, là được tan biến trong vòng tay nhân ái thứ tha, và được vòng tay này ôm ấp đến muôn đời. Amen.
ĐÂY LÀ VUA NGƯỜI DO THÁI- Lm. GB. Trần văn Hào
Chế độ quân chủ tại Việt Nam với một ông vua cai trị đất nước kéo dài hàng chục thế kỷ đã thực sự cáo chung vào năm 1945, sau khi vị vua cuối cùng là Bảo Đại bị truất phế. Ngày nay, ý niệm về một thể chế quân chủ đã hoàn toàn trở nên xa lạ đối với tâm thức con người sống trong các nước văn minh. Trên thế giới chỉ còn vài quốc gia như Anh quốc, Thái Lan, Nhật Bản… vẫn duy trì chiếc ghế của nữ hoàng hay hoàng thân, nhưng chỉ là sắc nét văn hóa theo truyền thống, còn thực quyền thì không có. Thể chế dân chủ được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Con người ngày càng văn minh càng thích sống bình đẳng, không ai muốn người khác đè đầu đè cổ mình. Cũng chẳng ai thích sống trong một chế độ mà quyền hành chỉ tập trung nơi một cá nhân, thậm chí vị lãnh đạo ấy nắm trong tay cả quyền sinh sát giống như các vua chúa ngày xưa.
Như vậy mừng lễ Chúa Kitô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi con người thời đại ngày hôm nay hay không, đặc biệt nơi giới trẻ? Đức Giêsu có thực sự là Vua hay đây chỉ là một lối nói cường điệu hóa giống như chúng ta suy tôn lãnh tụ một cách hình thức? Còn nếu Ngài đích thực là Vua, Ngài có bóp nghẹt tự do và nhân quyền của chúng ta hay không?
Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay sẽ gợi mở cho chúng ta câu trả lời.
Ông có phải là vua không?
Hai ngàn năm trước, Philatô đã nêu ra câu hỏi này khi Đức Giêsu bị điệu đến trước mặt ông như một tên tội phạm. Sách Tin mừng thứ tư thuật lại mẩu đối thoại này. Philatô dồn dập đặt ra nhiều nghi vấn, khi ông đối diện trước một con người đã từng được dân chúng tung hô là ‘Con Vua Đavit’, đã từng được mọi người nể phục như một ngôn sứ vì đã làm nhiều điều lạ lùng không giải thích được. Philatô càng ngạc nhiên hơn bởi lẽ, một ông vua phải có dáng vẻ oai phong và hiển hách, nhưng trước mặt ông chỉ là một con người rất bình thường, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ, không có một chú lính quèn để hộ tống. Ông mở to con mắt nhìn vào Đức Giêsu với sự kinh ngạc. Nếu ở vào vị trí của Philatô chắc hẳn chúng ta cũng sẽ đặt nghi vấn giống như vậy. Tuy nhiên khi đối diện với Philatô, Đức Giêsu đã không cần che dấu căn tính của mình. Ngài trả lời: “ Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là Vua, và Ngài đến trong trần gian để khai mở Vương quốc của sự thật. Những thần dân của Ngài sẽ nghe tiếng Ngài vì họ là những công dân của Vương quốc ấy. Philatô không hiểu và hỏi lại: “ Sự thật là gì?” Ông chắc chắn không hiểu nổi vì ông đâu có phải là thần dân của vương quốc mà Đức Giêsu đã khai sáng (Ga 18, 33-38).
Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng nói khá nhiều về ‘sự thật’. Ngài mặc khải tiệm tiến về Vương quốc mà chính Ngài sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã vén mở một nền phụng tự mới trong Vương quốc ấy: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn sinh, Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Đức Giêsu sẽ ra đi, tiến nhận cái chết và khai lập vương quốc của chân lý. Đồng thời Ngài cũng chính là sự thật, là con đường dẫn đưa chúng ta đi vào vương quốc vĩnh cửu để chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10). Đối diện trước Philatô, Chúa đã khẳng quyết căn tính của mình, nhưng chắc chắn Philatô không hiểu nổi vì ông ta không ở trong quỹ đạo Nước Trời. “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Philatô đã cho treo một tấm bảng đóng trên Thập giá với hàng chữ:‘Đây là vua người Do thái’. Có lẽ đây không phải là một sự tình cờ, song Thiên Chúa đã định liệu và sử dụng một ông quan ngoại giáo để công bố cho cả thế giới biết Đức Giêsu chính là Vua đích thật. Tuy nhiên chúng ta cần suy tư sâu xa hơn để tìm hiểu xem, trong vương quốc sự thật ấy, Chúa đã hành xử vương quyền như thế nào?
Đức Giêsu quả là một vị Vua rất khác người, chẳng giống ai. Vương miện của Ngài là một vòng gai thấm máu đầy nhục nhã. Cẩm bào Ngài khoác chỉ là một tấm thân trần trụi bị treo thân vào khổ giá như một tên tử tội. Ngai vàng cao sang của Ngài là chỗ chuyên để hành quyết những tên cướp đáng sợ. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người, bị đầy đọa, bị chửi rủa, bị khinh miệt và cuối cùng bị giết chết. Vương quốc Nước Trời mà Ngài nói tới là một Vương quốc đảo lộn mọi bậc thang giá trị mà con người vẫn thường đặt định. Sống trong Vương quốc đó, ‘ai làm lớn nhất phải trở nên người bé nhất’. Chính Ngài là một vị Vua cai trị theo một cung cách khác thường, đó là “Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
Philatô không hiểu là phải, bởi vì ông chưa làm ‘thẻ chứng minh nhân dân’ để trở thành công dân của một vương quốc xem ra có vẻ quái chiêu và nghịch thường đến như vậy. Nói tắt một lời, Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập chính là Vương quốc của tình yêu. Đó không phải là một quốc gia hùng mạnh về quân sự, về dầu hỏa, về đôla hay về khí tài. Vương quốc của Đức Giêsu đích thực là Vương quốc tình yêu. Chỉ sống trong tình yêu chúng ta mới có được thẻ ID, thẻ căn cước để vào Nước Trời, nước của Ngài.
Vương quốc của tình yêu
Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các học trò. Ngài nói với họ: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Việc rửa chân cho khách đến nhà là công việc của những tôi tớ, thường là những tên nô lệ được ông chủ mua về. Người nô lệ không có một quyền hành nào cả và họ phải làm mọi công việc theo ý chủ. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Vua Chúa hay là bậc Tôn sư của các môn đệ. Nhưng Ngài đã khiêm tốn hạ mình xuống để phục vụ như một tôi tớ hèn mọn. Vì thế trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói đi nói lại cho các học trò về khuôn mẫu của tình yêu. “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu chính là ‘bộ luật dân sự’, là hiến pháp căn bản của Vương quốc Nước Trời. Tình yêu cũng chính là tên gọi của Thiên Chúa, hay nói cách khác tình yêu là chính Vương hiệu của Đức Kitô. Trên Thánh giá, Đức Giêsu cũng hành xử vương quyền Ngài để phong thánh cho một tên trộm khét tiếng. Nếu không đi vào quỹ đạo tình yêu và lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ không thể hiểu động thái khác thường này.
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Piô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ thai nhi để bảo toàn tính mạng cho người mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Cô đã cầu nguyện trong nhiều ngày và kiên quyết từ chối lời đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con của tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mà cô ta hết lòng thương mến. Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được truyền thụ lại từ chính người mẹ của mình. Đó là người phụ nữ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con bà được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tôn phong Chân phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu theo dấu chân của Đức Giêsu. Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Đức Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) để chứng minh mình là công dân Nước Trời.
Kết luận
Một nhà tâm lý học đã nói: “Trong tình yêu, con người rất dễ trở thành người điên.” Điều đó rất đúng nếu chúng ta ngắm nhìn Thập giá Đức Giêsu và Vương quốc của Ngài. Hêrôđê đã mặc cho Chúa chiếc áo đỏ để chế diễu Ngài như một ông vua nửa điên nửa khùng. Khi chịu đóng đanh trên Thập giá, chiếc áo đỏ của Chúa đã bị lột ra, nhưng sự điên rồ vẫn còn rất đậm nét. Cũng trên Thập giá điên rồ ấy, Đức Giêsu khai mở Vương quốc sự thật, đó là Vương quốc của tình yêu. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng trở nên thần dân của Vương quốc cao cả này. Lúc bấy giờ “Ai nấy sẽ thấy Người, kể cả những kẻ đã đâm người. Kìa Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1, 7).
LỄ CHÚA KITÔ VUA- NĂM C
ĐỨC GIÊSU, VUA TÌNH YÊU– Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Yêsu Kitô Vua.
Vua: người trổi vượt trên tất cả
Vua là người trổi vượt hơn người khác, thắng được tất cả, nên có quyền trên người khác. Lịch sử Việt Nam cho thấy, sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên thắng được các sứ quân và là vị vua đầu tiên “Đinh Tiên Hoàng”. Ngày nay khi người ta nói vua bóng đá, người ta nhắc tới người chơi bóng đá rất giỏi và trổi vượt hơn người khác, chẳng hạn như Pélé và Maradona. Khi nhắc tới môn cờ vua, người ta nhắc tới tên những vua cờ như Karpov và Kasparov.
Đức Yêsu là Vua. Ngài là vua các vua, ngài làm vua cả hoàn vũ này, vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đều đã được ban cho Ngài (Mt.28, 18). Đức Yêsu chấp nhận thân phận con người trọn vẹn, Ngài bất lực như tất cả mọi người khi Ngài đang sống đời tại thế, nhưng khi Ngài chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, và ban cho Ngài quyền năng trên tất cả trời và đất. Đức Yêsu là vua cả hoàn vũ này.
“Chính để anh em được tự do mà Đức Yêsu đã giải phóng anh em” (Gl.5, 1). Với tình yêu và bằng tình yêu, Đức Yêsu đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả, để chúng ta được tự do và làm chủ tất cả. Tình yêu giải phóng chúng ta khỏi nô lệ, và giúp chúng ta làm chủ, làm vua và là người tự do.
Đức Yêsu: người “yêu” trổi vượt tất cả những người đang yêu
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu ở Colôsê cho thấy Thiên Chúa biểu lộ quyền năng và tình yêu của Ngài nơi Đức Yêsu. Đức Yêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Nhờ Ngài, mọi vật được tạo thành, hữu hình hay vô hình. Mọi vật được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài. Ngài là đầu của Giáo Hội, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Ngài hoà giải tất cả với Thiên Chúa trong máu Ngài.
Đức Yêsu trổi vượt trên tất cả vì yêu. Ngài là vua tình yêu, không ai yêu mãnh liệt như Ngài. Ngài dám chết, để người Ngài yêu được sống. Ngài hiến mạng Ngài, để thành lương thực nuôi dân Ngài. Ngài để lại cho họ một mệnh lệnh rất đơn sơ: hãy yêu nhau như Ngài yêu họ: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga.13, 35). Ngài không đòi con người làm điều gì khác ngoại trừ yêu thương, ngài muốn tất cả những người thuộc về Ngài làm mọi công việc vì yêu thương. “Yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”.
Trước những lời nhạo báng của những người ghét Ngài, Ngài vẫn không oán hận. Ngài tha thứ. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Ngài vẫn luôn độ lượng, quên mình để yêu thương người khác: “hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Lời của Đức Yêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và ban bình an.
Con vua lại được làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua
Vua là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền trên tất cả, Ngài thống trị vũ trụ, vì vũ trụ đều do Ngài tạo dựng, tất cả phải tùng phục Ngài. Thiên Chúa khi tạo dựng nên con người, Ngài đã trao cho con người sứ mạng và quyền thống trị trên cá biển chim trời (St.1, 28). Làm chủ vũ trụ này, là sứ mạng của con người và của mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài tạo dựng chúng ta qua cha mẹ mỗi người chúng ta. Ngài không tạo dựng chúng ta như những người nô lệ, nhưng như những người tự do, để chúng ta làm chủ vũ trụ này, để chúng ta được cai trị vũ trụ này. “Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Thiên Chúa, Ngài cho chúng ta quyền thống trị trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta làm chủ vũ trụ này với lý trí và tài năng Ngài ban cho chúng ta.
“Được làm vua, thua làm giặc”. Người thắng, làm chủ, làm vua. Người thua, làm nô lệ, làm tôi đòi. Thiên Chúa muốn chúng ta làm chủ, Ngài không muốn chúng ta làm nô lệ, Ngài mời gọi chúng ta chiến thắng chính con người chúng ta, chiến thắng những khuynh chiều xấu nơi mỗi người. Nếu chúng ta thua, chúng ta làm nô lệ cho những khuynh chiều hạ đẳng, chúng ta làm nô lệ xác thịt, nô lệ tiền bạc, nô lệ danh vọng hão huyền. Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng, Ngài muốn chúng ta làm vua với Ngài, với Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Điều gì quý nhất Đức Yêsu đã làm cho bạn?
- Cách hành xử của bạn có giống cách hành xử của Đức Yêsu không, khi có ai chọc tức làm cho bạn muốn nổi khùng, hoặc khi bạn bị oan ức? Trên đời, liệu có ai có cách hành xử giống cách hành xử của Đức Yêsu không?
- Nếu được gọi Đức Yêsu với một tước hiệu mà bạn ưng ý nhất, thay vì gọi Đức Kitô Vua thì bạn gọi Ngài bằng tước hiệu nào?
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemlochuachuanhatlechuakitovuavutru #suyniemloichuagpbr