CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN THEO GƯƠNG BÀ GÓA TRONG DỤ NGÔN – Chú giải của Fiches Dominicales. 14
TÍNH HỮU HIỆU CỦA LỜI CẦU NGUYỆN(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 20
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN – C.. 29
CẦU NGUYỆN KIÊN TRÌ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 29
BỔN PHẬN VÀ NIỀM VUI LỚN– Chú giải của William Barclay 43
CẦU NGUYỆN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 49
KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN – Lm. Đan Vinh HHTM.. 53
CHÚA MONG MUỐN THẤY NIỀM TIN NÀO KHI NGƯỜI TRỞ LẠI – Lm. Gioan Nguyễn văn Ty 65
KIÊN TRÌ TRONG CẦU NGUYỆN- Lm. GB. Trần Văn Hào.. 70
CẦU NGUYỆN LUÔN- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến.. 75
THẨM PHÁN BẠO NGƯỢC VÀ BÀ GÓA QUẤY RẦY- Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt 79
THIÊN CHÚA SẼ MINH XÉT- Lm. JB. Lê Ngọc Dũng.. 92
CẦU NGUYỆN VỚI NIỀM TIN SẮT ĐÁ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 97
KIÊN TÂM- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 102
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: “Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi”. Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
Xướng: Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất.
Xướng: Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say.
Xướng: Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm.
Xướng: Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời.
Bài Ðọc II: 2 Tm 3, 14 – 4, 2
“Người của Thiên Chúa được hoàn hảo, để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.
Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 1-8
“Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: “Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù’. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: ‘Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc’”.
Rồi Chúa phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Ðó là lời Chúa.
LUÔN NHẬN LỜI CẦU NGUYỆN(*)- Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.
Như thế, chúng ta không phải là những người đầu tiên gặp những khó khăn trong việc cầu nguyện. Chính các tông đồ cũng “nản chí”. Và Đức Giêsu bắt buộc phải nâng tinh thần họ lên.
Thật vậy thường thì chúng ta bắt đầu cầu nguyện với lòng quảng đại. Chúng ta đã quyết định dành một ít thời gian mỗi ngày cho việc cầu nguyện. Một đôi khi, chúng ta đây mua một tranh thánh để đặt ở góc nhà và nó nhắc chúng ta “phải cầu nguyện”. Và rồi trong một vài ngày hoặc một vài tuần, chúng ta dùng một đoạn Tin Mừng và chúng ta cũng đã thử. Nhưng không có gì đã xảy ra! Chúng ta chỉ đụng phải sự im lặng của Thiên Chúa. Những sự phân tâm, chia trí đã chiếm hết thời gian suy niệm của chúng ta. Thế rồi, chúng ta đã ngừng lại…
Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí! Lạy Chúa, Chúa nói với chúng con như thế. Biết được Chúa hiểu những khó khăn của chúng con, tốt cho chúng con biết bao. Có một ngàn lý do để không cầu nguyện. Mọi khung cảnh của thế kỷ XX đều nói với chúng ta về hiệu quả tức thì của năng suất. Khoa học và kỹ thuật đã làm cho chúng ta tin rằng sau cùng con người có thể làm được mọi việc, ngay lập tức. Và rồi, bị sự tiêu thụ gặm nhắm, chúng ta chạy hết tốc độ. Chúng ta không còn có thời gian để dừng lại trừ lúc bị nhồi máu cơ tim. Bạn biết đấy, giữa những thời gian, học tập, công việc, lúc thư giản, tham gia; tôi không có thời gian cầu nguyện. Buổi sáng Chúa nhật là thời gian duy nhất để tôi nghỉ ngơi. Bạn biết đấy, tôi không đi dự thánh lễ được.
“Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí!”
Và rồi, cầu nguyện để làm gì? Bạn thấy rõ Thiên Chúa không nghe lời cầu nguyện của bạn. Bất công tiếp tục tồn tại trong thế giới. Thế thì tốt hơn hết là phải chiến đấu chống lại nó một cách cụ thể thay vì mất thời gian để cầu khẩn cho “Nước Cha trị đến” bởi vì xem ra Nước Cha không bao giờ đến.
Phải cầu nguyện luôn luôn và liên tục
“Phải cầu nguyện không được nản chí… vững vàng trong sự cầu nguyện… với lòng can đảm, kiên trì…
Độ là hai hình thức rất thường gặp dưới ngòi bút của thánh Phaolô, thầy của Luca (2Tx 1,11; Cl 1,3; Phl 4; Rm 1,10; 2 Tx 3,13; 2 Cr 4,1-16; Gl 6,9; Ep 3,13).
Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: ‘Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.’ Một thời gian khá lâu, ông không chịu.
Một lần nữa, Đức Giêsu đã chọn một thí dụ hắc ám hết mức để làm cho chúng ta hiểu điều Người sắp nói. Một ông quan tòa phương Đông một mình làm nhiệm vụ trong một thành phố nhỏ, không có sự kiểm tra của cấp trên, và có thể kéo dài vụ kiện tuỳ thích. Một người chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng sợ hãi ma quỷ và khinh khi mọi người. Đối đầu với ông ta là một “bà góa”, chính là biểu tượng của những người nghèo không nơi nhờ cậy và không có tiền của, bị những người giàu có thù địch tha hồ bóc lột; “một người đàn bà” không có chỗ dựa về pháp lý, không không để bênh vực.
Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc’.
Đấy là trong một ít từ, vẽ ra chân dung của một người ích kỷ và vô liêm sỉ. Nếu có khi nào ông ta làm điều tốt lành, “trả lại công bằng” thì người ta chớ có ảo tưởng mà nghĩ rằng đó là hành động của lòng nhân từ. Đơn giản là một sự tình cờ may mắn đã lằm cho lời ích của người khác trùng hợp với lợi ích riêng của ông ta. Ong ta luôn luôn chỉ hành động “vì mình”. Khi làm đen tối thêm bức tranh về sự châm biếm mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn đẩy chứng minh của Người đến cùng cực. Mọi người đều chấp nhận rằng một người độc địa như thế có thể nhận lời một bà góa mà ông ta khinh miệt; đơn giản chỉ vì để bà góa đừng “quấy rầy” ông ta nữa.
Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?”
Vậy đây là một dụ ngôn dùng sự trạng phản, trong đó bài học được rút ra “trái ngược” với ví dụ được nêu ra: Một quan tòa bất chính, bất công, không có lương tâm và lòng nhân từ (1). ông ta từ chối (2) thực thi công bằng một thời gian dài. Sau cùng, bởi lòng ích kỷ phải nhường bộ một bà góa nghèo hèn (3) chẳng là gì đối với ông ta; để bà góa thôi quấy rầy ông ta nữa.
Trái lại, và với lý luận còn mạnh hơn rất nhiều, Thiên Chúa thì vô cùng (1) nhân từ, Người sẽ mau chóng “thực thi công bằng” cho những kẻ Người đã tuyển chọn (3) mà Người yêu thương vì những kẻ ấy kêu cầu Người.
Nếu một người độc ác như thế và nhẫn tâm sau cùng lại chấp nhận một lời cầu xin thì Thiên Chúa vốn nhạy cảm với những lời cầu nguyện của người nghèo sẽ còn phải làm nhiều hơn thế nữa.
Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người tuyển chọn sao?
Trong những dòng Tin Mừng này, bốn lần chúng ta nghe Đức Giêsu nói những từ đó lặp lại như một điệp khúc: Thực thi công bằng”; “Trả lại công bằng”; ông quan tòa bởi nghề nghiệp của mình phải là hiện thân của công lý. Công lý là một trong những giá trị cao nhất của nhân loại; liên quan đến những “quyền căn bản của con người”. “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người có quyền được xét xử công bình và công khai bởi một tòa án độc lập và vô tư” (Tuyên Ngôn Quốc Tế về Quyền Con Người: 10 tháng 12 năm 1948).
Đức tin Kitô giáo đòi buộc chúng ta phải bảo vệ và thăng tiến công lý. Lời cầu nguyện của chúng ta chỉ trở nên chân thật nếu chúng ta đi tìm công lý. Mà nếu chúng ta “không thực thi công lý” thì Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng chính Thiên Chúa, Người “sẽ thực thi công lý”.
Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.
Đúng vào lúc lên Giêrusalem, lúc mà Đức Giêsu sáng suốt ý thức rằng Người đang tiến đến một sự kết án bất công bởi các quan tòa không công bằng thì Luca đã báo tạo thuật lại các lời đó của Đức Giêsu: “Người sẽ mau chóng bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn”. Người sẽ mau chóng thực thi công lý. Khẳng định này có vẻ nghịch lý, khi chúng ta nói rằng sự bất công tiếp tục thống trị thế giới thì chẳng phải là chúng ta được mời Soi thanh luyện ý tưởng mà chúng ta tạo ra cho mình về sự chiến thắng của công lý? Chiến thắng của Thiên Chúa, quyền năng của Người phải được thực hiện theo một cách hoàn toàn khác với cách chúng ta chờ đợi. Chúng ta luôn có xu hướng thích những quan niệm của con người, những quan niệm thiển cận của chúng ta hơn là những quan niệm của Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện của chúng ta thường giống một thứ đòi nợ và chúng ta yêu cầu Thiên Chúa vâng lời chúng ta. Thiên Chúa như “máy phát quà tự động” là một thần tượng giả dối: bạn bỏ vào khe một đồng tiền, bạn kéo cái nút và cái máy đưa ra cho bạn một cái bánh sôcôla mà bạn yêu cầu!
Khi chúng ta có cảm tưởng không được nhận lời, chúng ta được mời gọi hiệp thông với Đức Giêsu. Người được nhận lời một cách khác! xin Cha cất chén này khỏi con”. Chén đau khổ không được cất đi. Nhưng, bởi cái chết, Người đi qua niềm vui mừng của sự Phục sinh.
Tuy nhiên bằng kinh nghiệm mà chúng ta biết điều này: Không phải lúc nào chúng ta cũng xin Thiên Chúa điều tốt nhất. Chúng ta không thể hiểu thấu tư tưởng của Chúa. Chúng ta sẽ ra sao nếu nhu mọi thói ngông cuồng ấu trĩ của chúng ta được nhận lời? Chúng ta giống như mọi sinh vật và cây cỏ: Cần phải có nhịp điệu của mùa màng, sự luân phiên của nắng mưa, của mùa hè và mùa đông và cả những cơn gió mạnh để lớn lên từ hạt đến hoa và đến quả. Một hạt mầm rẽ ra sao khi nó từ chối mọi thử thách trong dòng phát triển và muốn đòi có mùa gặt ngay hôm sau ngày gieo hạt?
Đức Giêsu biết rõ Chúa Cha! Người nói chúng ta phải có lòng trông cậy: “Thầy nói cùng anh em điều này, Thiên Chúa sẽ thực thi công lý cho những kẻ Người đã tuyển chọn ngày đêm hằng kêu cứu với Người”.
Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?
Thay vì có những “tín hữu” kêu cầu lòng nhân từ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đụng phải những người “vô tín” ngày đêm đều không cầu nguyện. Một câu nói thể nghi vấn và đau đớn. Phải chăng rồi sẽ có một ngày người ta sẽ không còn hỏi liệu Thiên Chúa có nhận lời cầu nguyện hay không, bởi vì sẽ không còn có những lời cầu nguyện?
Nỗi đau của Đức Giêsu, nỗi đau của Thiên Chúa… khi đến gần cái chết sẽ xảy ra, không có được đức tin của dân Người chọn. Mầu nhiệm của tự do con người; tự do có thể từ chối tin, từ chối cầu nguyện.
Bất chợt, chúng ta khám phá rằng Đức Giêsu cảm thấy nỗi lo âu. Người lo âu thật sự trước việc sứ mạng và sứ điệp của Người bị từ khước.
Chính những người được tuyển chọn bị đe dọa bỏ đạo, bỏ đức tin. Sự tuyển chọn bởi phép rửa tội không phải là một bảo đảm. Đời sống trong một cộng đoàn Giáo Hội trong một khoảng thời giàn nào đó không chắc làm cho người ta không trở thành vô tín. Thiên Chúa không bao giờ quên chúng ta; còn chúng ta? Một câu hỏi nặng nề: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất?” Ngày mai, tôi sẽ còn đức tin không? và trong ngày tôi sẽ chết? ngày mà Đức Giêsu sẽ đến để gặp tôi?
Sau khi đã lặp lại rằng Thiên Chúa nhân từ và luôn luôn nhận lời cầu nguyện, Đức Giêsu cho chúng ta thấy lý do thật sự những thất vọng của chúng ta: Thiếu đức tin, cùng lời cảnh cáo nghiêm khắc đó được lặp lại hàng ngàn lần trong Tin Mừng (Lc 4,18-26; 21,23,50; 8,5-15; 9,41; 10,21-24; 11,29-32 v.v…).
Ngày nay, người ta nói về “khủng hoảng đức tin”. Đức Giêsu đã nói về nó. Cám dỗ bỏ đức tin không phải chỉ thời đại chúng ta mới có. Ngay từ hôm nay, tôi sẽ làm gì để nuôi dưỡng đức tin? Phải chăng tôi cầu nguyện.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN – C
KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN THEO GƯƠNG BÀ GÓA TRONG DỤ NGÔN – Chú giải của Fiches Dominicales
I/. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1/. Từ thái độ vụ lợi của vị thẩm phán bất lương…
Chúa Giêsu tiến bước về Giêrusalem, thành trì Người sẽ ra đi (9,32). Người không ngừng hướng lòng về với Chúa Cha trong cầu nguyện. Với những kẻ đi theo, Người dạy họ về ngày trở lại của Con Người. Bây giờ, Người khích lệ họ vững lòng: Hãy cầu nguyện luôn, đừng nản chí.
Minh họa cho bài học này bằng một dụ ngôn, Người dàn dựng hai nhân vật:
– “Một bà goá”, mà Kinh Thánh thường coi như mẫu người cần được bênh vực.
– “Một thẩm phán” chẳng có lòng tin, cũng chẳng quan tâm đến luật pháp, chẳng kính Chúa, cũng chẳng nể người. Bà góa tội nghiệp kêu mãi ông không nghe. Rồi, ông cũng cứu xét, không phải vì lương tâm, mà vì ích kỷ: “bà này quấy rầy ta quá, thôi thì xử cho bà, kẻo đến nhức óc vì bà”.
2/. …Đến thái độ nhân hậu của Thiên Chúa Cha.
Và đây là áp dụng. Bản văn long trọng nhập đề: “Và Chúa thêm….”.
Bức tranh u ám vẽ về vị thẩm phán bất lương đã sáng lên khi Đức Giêsu phác họa Cha Người ân cần nhân ái với mọi người. Nếu một thẩm phán chẳng kính sợ Chúa, không tôn trọng con người, cuối cùng, cũng bênh vực quyền lợi chính đáng của bà goá, không lẽ Thiên Chúa nhân lành cả với kẻ bất lương (6,6) lại không nghe lời chúng ta cầu xin!
Như vậy, dụ ngôn không có ý dạy ta phải cư xử với Chúa thế nào, nhưng có ý mạc khải cho ta biết Chúa cư xử với chúng ta ra sao. Chiêm ngưỡng lòng nhân hậu của Chúa, Đấng hằng nghe lời ta kêu nài sẽ là một động lực khích lệ ta cầu nguyện tin tưởng hơn, kiên nhẫn hơn, và bắt chước bà góa mà không ngại kêu nài và quấy rầy Người.
Diễn từ kết thúc. Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhắc đến sự trở lại của Con Người vào ngày thế mạt. “Nhưng, khi Con Người trở lại, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất không?”. Một bài huấn dụ thật cảm động để các môn đệ vững vàng trong đức tin, bền chí trong đức cậy và kiên tâm cầu nguyện. Cơn cám dỗ làm lung lay Phêrô và các bạn ông (22,32 và 22,46) chính là cơn cám dỗ Đức Giêsu đã đối mặt trong cơn hấp hối ở vườn cây Dầu và đã chiến thắng thì Giáo Hội cũng sẽ đương đầu với nó suốt dọc lịch sử mình. Như vậy, cũng như Chúa Giêsu và các Tông đồ, Giáo Hội sẽ phải cảnh giác không ngừng trong cầu nguyện.
H. Cousin kết luận: “Đề tài cầu nguyện liên hệ với đề tài lòng tin, lòng trung thành. Sự liên hệ ấy rất cụ thể và bền chặt. Nếu suốt chiều dài lịch sử của mình, các Kitô hữu không liên lỉ cầu nguyện, không nuôi lòng tin của mình bằng những lời nài xin liên lỉ, thì khi Đức Giêsu trở lại, Người sẽ không nhận ra lòng tín trung nơi những kẻ tự xưng là thuộc về Người. Theo dòng thời gian, các thành phần Giáo Hội cần trả lời cho vấn đề Đức Giêsu đặt ra ở đây.” (“L’Evangile de Luc”, Centurion, trg 235).
II/. BÀI ĐỌC THÊM:
1/. Một Thiên Chúa, là Cha hơn một người cha, công minh hơn cả quan án (Đức Cha L. Daloz, trong “Dieu a visité son peuple”, DDB, trg 133).
Thánh Luca đã tường thuật giáo huấn của Đức Giêsu về lời cầu nguyện. Ngài còn nhấn mạnh để chúng ta thấy: cầu nguyện nhất thiết phải kiên trì, không được thất vọng. Dụ ngôn về viên quan tòa không có lòng kính sợ Chúa, chẳng tôn trọng con người, nhưng cuối cùng cũng nhượng bộ sự kiên trì của một bà góa cứ quấy rầy ông ta, tương tự như dụ ngôn về một người chịu thua ông bạn đến mượn ba chiếc bánh (11,5-8). Đức Giêsu không hư cấu những dụ ngôn này. Người lấy ngay trong đời thường những nhân vật với những tính tốt và nết xấu. Qua đó, Người tỏ bày Thiên Chúa là Cha còn hơn một người cha, công minh hơn cả một quan án. “Hãy nghe điều quan án bất lương đó nói. Và Thiên Chúa lại không đem điều chính trực lại cho những kẻ được chọn bằng kêu cầu Ngài ngày đêm sao?” Đức Giêsu không ngừng nói với chúng ta về Chúa Cha. Nhìn vào cách con người đối xử với tha nhân: một người làm phiền bạn mình lúc khuya, người cha nuôi con cái, quan án bênh vực người cô quạnh… Đức Giêsu lại nghĩ tới Chúa Cha. Ngay cả tật xấu của người đời, Đức Giêsu cũng dùng như một thí dụ để miêu tả sự săn sóc chu đáo của Chúa Cha: “Thiên Chúa lại không bênh vực…”. Người ta thấy trong con tim Chúa Con rạo rực lòng nhiệt thành đối với Chúa Cha. Và Đức Giêsu muốn chúng ta chia sẻ tâm tình đó với Người.
2/. Cầu nguyện (H. Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 15-16).
Cầu nguyện! Đó là từ ngữ của lòng tin! Một tín hữu không cầu nguyện có còn là tín hữu không? Tuy nhiên, cần nhìn nhận cho đúng. Cầu nguyện không dễ đâu. Đó là một thách thức, nhất là khi không được lồng vào một cử hành phụng vụ, hay một tập họp của cộng đồng. Cầu nguyện, đó là mặt sau của mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm Thiên Chúa sống động trong con người. Một nét phác thảo vô định, nhưng cháy bỏng.
Thiên Chúa chí thánh. Cầu nguyện trở thành lời ca ngợi.
Thiên Chúa nhân lành. Cầu nguyện trở thành lời van xin. Chẳng cần nhấn mạnh đến lời ca ngợi. Ngay trong kinh Lạy Cha đã nói tới rồi! Nguyện Danh Cha cả sáng. Yêu ai, chúng ta nói đủ mọi lời tỏ lòng tôn kính. Huống hồ, đối với Thiên Chúa.
Còn đối với lời cầu xin. Có vấn đề đây. Trước hết, những tâm hồn mạnh chủ trương cầu xin là vô ích và ấu trĩ. Chúa biết rành hơn mình rồi. Còn đối với những tâm hồn yếu, tôi muốn nói tới những kẻ cầu xin ơn này, ơn khác một cách vụng về, có khi lệch lạc. Chúa đâu phải là cái máy phân phối tự động các ơn huệ, hoặc ban ơn theo kẻo trao đổi: “Tôi dâng thứ này, Chúa ban lại ơn kia”. Hoặc tệ hơn, đòi dồn Chúa vào chân tường. Người ta đọc thấy trong sách Judith: “Đừng đòi Chúa bảo hành những ý định của Ngài. Đừng dồn Ngài tới chân tường như một phàm nhân. Đừng thôi thúc Ngài.” (8,16)
Không trao đổi, không tối hậu thư. Lời cầu xin đích thực chấp nhận trước rằng: có thể không được chấp nhận như mình muốn hoặc hoạch định. Không được như ý cũng là một ân huệ đấy. Thiên Chúa luôn ban điều Người đã hứa: Thánh Linh. Hãy xin chính Chúa và Thánh Linh của Người. Xin như vậy, bao giờ bạn cũng nhận được.
3/. Hiệp nhất để làm chứng (Tài liệu của Liên hiệp các nhà truyền giáo để cổ động Tuần lễ thế giới truyền giáo, trg 6)
“Đoạn Tin Mừng này dọi sáng chủ đề Hiệp Thông và Truyền Giáo dưới 3 khía cạnh:
a/. Dụ ngôn có ý dạy: “Hãy cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng” (Lc 18,1). Cầu nguyện là mệnh lệnh thứ nhất trong sứ mệnh truyền giáo. Nó kết hợp những người dấn thân truyền giáo. Nó nhắc người ta, đối với Chúa, đừng thất vọng bao giờ.
b/. Thiên Chúa không điếc trước tiếng kêu của những người nghèo khổ đang khát khao công bình. Trao đổi thông tin về thế giới, đó là mệnh lệnh thứ hai về sứ mệnh Truyền giáo. Nó làm cho kinh nguyện phổ quát có hương vị của một tâm hồn không còn gì hy vọng nhưng vẫn vững lòng cậy trông (Rm 4,18).
c/. Nhưng, khi Con Người trở lại, liệu còn thấy lòng tin trên trái đất? Đây là câu hỏi, không phải chúng ta đặt ra trước Chúa, mà là Chúa đặt ra trước chúng ta. Câu trả lời tùy thuộc một phần vào chúng ta, vào sự hiệp thông trong đức tin của chúng ta, vào ý chí chúng ta muốn trở thành chứng nhân cho Tin Mừng Đức Kitô trên khắp thế giới. Vấn đề là như vậy. Hy vọng câu trả lời sẽ tích cực. Mệnh lệnh thứ ba của sứ mệnh Truyền giáo là dâng hiến thời giờ, tài sản , và cả mạng sống cho Tin Mừng của Thiên Chúa.”
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN- C
TÍNH HỮU HIỆU CỦA LỜI CẦU NGUYỆN(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm C thắp sáng tính hữu hiệu của lời cầu nguyện.
Xh 17: 8-13
Sách Xuất Hành thuật lại ông Mô-sê cầu nguyện suốt ngày đến mệt nhoài cho dân Do thái trong cuộc chiến chống quân A-ma-lếch, và kết quả là dân Do thái đã chiến thắng.
2Tm 3: 14-4: 2
Trong thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhắc nhở người môn đệ thân tín của mình về ơn linh hứng Kinh Thánh, nhờ đó, người của Thiên Chúa được trang bị đầy đủ cho công việc mục vụ.
Lc 18: 1-8
Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn về quan tòa bất chính và bà góa. Dù ông quan tòa bất chính khăng khăng từ chối, bà góa vẫn cứ nhất quyết khẩn khoản nài van, cuối cùng ông đành phải chịu bênh vực bà; “huống hồ gì” Thiên Chúa giàu lòng xót thương lại không bênh vực cho những kẻ liên lỉ kêu cầu Ngài, không hề nản chí sao?
BÀI ĐỌC I (Xh 17: 8-13)
Chuyện tích Xuất Hành không nói rõ cho chúng ta ông Mô-sê cầu nguyện; nhưng đôi tay ông giơ lên trời diễn tả thái độ cầu nguyện. Đôi tay biểu tượng quyền lực của lời cầu nguyện: khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì quân A-ma-lếch thắng thế. Ông Mô-sê là người cầu nguyện tuyệt vời.
- Cây gậy của ông Mô-sê
Thật ra, ông Mô-sê cầm trong tay một cây gậy mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Trên đỉnh đồi, ông cầm gậy giơ lên cao để mọi người có thể nhìn thấy dấu hiệu về sự bảo vệ che chở của Đức Chúa. Trong Cựu Ước, có những giai thoại dân gian về cây gậy, như cây gậy của ông A-ha-ron, tức là cây gậy của gia tộc Lê-vi, “đã đâm chồi, trổ bông và kết trái hạnh đào”, còn mười một cây gậy của các gia tộc kia vẫn là khúc gỗ (Ds 17: 16-23).
Cây gậy của ông Mô-sê là cây gậy mà Chúa đã trao cho ông trên núi Khô-rếp (Xh 4: 20), khi Ngài ủy thác cho ông sứ mạng đưa dân Do thái ra khỏi đất Ai-cập. Cây gậy đã giúp ông Mô-sê chiến thắng chiếc đũa thần của những phù thủy của Pha-ra-ô (Xh 7: 12) và thực hiện một loạt những điềm thiêng dấu lạ khiến cho toàn thể triều thần Ai-cập phải khiếp đảm (Xh 7: 20; 9: 23; 10: 15). Sau cùng chính với cây gậy này mà ông Mô-sê đã “rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào” (Xh 14: 16). Trong câu chuyện hôm nay, chính cũng cây gậy này mà ông Mô-sê giơ lên trời với đôi tay cầu xin cho dân Ít-ra-en được chiến thắng.
Sau này, vài bản văn được tu chỉnh cho thấy một phản ứng chống lại những mê tín dị đoan thời xưa. Như sách Xuất Hành gán cho cây gậy của ông Mô-sê thực hiện phép lạ nước phun vọt lên từ tảng đá (Xh 17: 5-6), trái lại, trong cùng một câu chuyện, sách Dân Số gán cho “lời” của ông Mô-sê mới thực hiện phép lạ (Ds 20: 7-8).
- Người A-ma-lếch
Việc người A-ma-lếch tấn công dân Do thái là cuộc đối kháng đầu tiên mà dân Do thái gặp phải trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Dân chưa đến chân núi Xi-nai thì phải giao chiến rồi. Cuộc chiến đầu tiên này được lưu truyền trong ký ức qua nhiều thế kỷ.
Người A-ma-lếch là những bộ tộc du mục xuất thân từ miền Nam đất Pa-lét-tin; tổ tiên của họ là A-ma-lếch, hậu duệ của ông Ê-sau. Người A-ma-lếch này còn được kể lại trong vài giai đoạn lịch sử của dân Ít-ra-en (Ds 14: 40-45; Tl 3: 12-13; 6: 1-7; Sm 15: 30); nhưng truyền thống đã làm cho họ trở thành kẻ thù tiêu biểu của dân Ít-ra-en. Một đoạn văn sách Đệ Nhị Luật long trọng công bố: “Anh em hãy nhớ A-ma-lếch đã xử thế nào với anh em trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập: nó đã đón đường anh em và đánh tập hậu mọi kẻ lết theo sau, trong khi anh em mệt lả và kiệt sức; nó đã không kính sợ Thiên Chúa. Vậy khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em làm gia nghiệp để anh em chiếm hữu, thì anh em sẽ xóa hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến dưới gầm trời, không còn ai nhớ đến nó nữa: anh em đừng quên!” (Đnl 26: 17-19).
BÀI ĐỌC II (2Tm 3: 14-4: 2)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gửi cho ông Ti-mô-thê. Đây là một trong những bức thư được gọi là “thư mục vụ”. Trong cảnh giam cầm ở Rô-ma, thánh Phao-lô biết rằng giờ chết của mình sắp đến gần rồi, nên đã truyền ngọn lửa đức tin cho những người kế nghiệp ngài, như ông Ti-mô-thê ở Ê-phê-xô. Thánh nhân diễn tả ước muốn không khoan nhượng của ngài, đó là ông Ti-mô-thê phải tôn trọng tính toàn vẹn của sứ điệp. Đức tin phải được cắm sâu vào hai điểm tựa vững chắc: giáo huấn mà ông Ti-mô-thê đã học được, vì giáo huấn này bắt nguồn từ các Tông Đồ; và Kinh Thánh, vì đây là những bản văn được Thiên Chúa linh hứng.
- Giáo huấn mà ông Ti-mô-thê đã học được và đã tin chắc
Ông Ti-mô-thê phải kiên vững trong chân lý chặt chẽ của sứ điệp mà ông đã học được và đã tin chắc, không được thêm vào đây bắt cứ sở thích của riêng mình: “Phần anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc”.
Thánh Phao-lô là một trong số những thầy dạy của ông Ti-mô-thê, vì thế thánh nhân nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ: “Anh biết anh đã học với những ai”. Rõ ràng thánh nhân vừa mới nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ lại mọi điều mà ông đã thụ huấn khi được ở bên cạnh thánh nhân trong suốt cuộc đời truyền giáo của ông: “Phần anh, anh đã theo sát đạo lý, cách sống, dự định của tôi; anh đã thấy lòng tin, sự nhẫn nại, lòng yêu mến, sự kiên trì của tôi; anh đã biết những cơn bắt bớ, những sự đau khổ tôi đã gặp ở An-ti-ô-khi-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã biết tôi chịu bắt bớ như thế nào…” (2Tm 3: 10-11).
Nhưng thánh Phao-lô đã không là thầy dạy duy nhất của ông Ti-mô-thê. Chính không phải nhờ thánh nhân mà ông Ti-mô-thê lãnh nhận đức tin của mình. Quả thật, khi thánh nhân gặp ông ở Lýt-ra, thì ông Ti-mô-thê đã là người Ki-tô hữu rồi và thậm chí một người Ki-tô hữu được toàn thể cộng đồng đánh giá cao.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng việc loan báo Tin Mừng ở Ê-phê-xô và những vùng phụ cận đã được thực hiện sau khi Hội Thánh Giê-ru-sa-lem bị phân tán, tiếp theo sau việc giáo quyền Do thái bách hại những người Ki-tô hữu gốc Do thái theo văn hóa Hy-lạp (thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo đầu tiên vào dịp này). Trốn chạy khỏi Giê-ru-sa-lem, những người Ki-tô hữu gốc Do thái theo văn hóa Hy-lạp này mang Lời Chúa ra bên ngoài xứ Pa-lét-tin; họ là những nhà truyền giáo đầu tiên.
- Ơn linh hứng của Kinh Thánh
Bản văn này của thánh Phao-lô là lời khẳng định Ki-tô giáo đầu tiên liên quan đến ơn linh hứng Kinh Thánh: “Tất cả những gì được viết trong Kinh Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng”. Do thái giáo từ lâu đã công bố rằng Lề Luật (bộ Tô-ra, Ngũ Thư) là Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Đức Khôn Ngoan. Bên cạnh Lề Luật, còn có các Ngôn Sứ, những sứ giả của Thiên Chúa. Vì thế, khi thánh Phao-lô khẳng định ơn linh hứng Kinh Thánh, đồng lúc thánh nhân nhận ra sự liên tục của Do thái giáo với Ki-tô giáo.
Thánh nhân nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ rằng ông đã được thụ hưởng biết bao điều hữu ích khi ông đã được biết Kinh Thánh và đã được Kinh Thánh nuôi dưỡng “từ thời thơ ấu” như thế nào. Cha ông là người Hy-lạp còn mẹ ông là người Do thái. Vì thế, mẹ ông và bà ngoại của ông rất am tường những bản văn Kinh Thánh. Bà ngoại của ông đã theo đạo Ki-tô giáo trước, rồi đến mẹ ông: “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kêu, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2Tm 1: 5). Nhờ họ, ông Ti-mô-thê phải nhận ra rằng Kinh Thánh “có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô” và Kinh Thánh là dụng cụ “hữu ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn , và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành”.
- Công việc mục vụ lớn lao
Thánh Phao-lô tiếp tục những lời khuyên của mình khi long trọng công bố giá trị di chúc tinh thần: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Giê-su Ki-tô, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh”. Và thánh nhân khẩn khoản nài van ông Ti-mô-thê tuân theo chương trình mà thánh nhân đề ra cho ông về công việc mục vụ: “Hãy rao giảng Lời Chúa”, đây là công việc cốt yếu của người đảm nhận trọng trách trong Giáo Hội. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến một sự cố xảy ra trong cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi về việc các bà góa trong nhóm các Ki-tô hữu gốc Do thái theo văn hóa Hy-lạp bị bỏ quên. Bởi thế, nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6: 2-4).
Người lãnh đạo cộng đoàn phải chu toàn những trách nhiệm của mình: “Hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện”, phải là người hướng dẫn luân lý và tinh thần: “Hãy biện bác, ngăm đe”, phải là người mục tử có tấm lòng từ bi nhân hậu, đầy nhiệt huyết và chú tâm dạy dỗ: “Khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại”. Đây là bản tóm lược quyền giáo huấn của Giáo Hội mà thánh Phao-lô đề ra.
TIN MỪNG (Lc 18: 1-8)
Trong số các tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhấn mạnh nhiều nhất đến cầu nguyện: Chúa Giê-su cầu nguyện trong tất cả những giờ phút quan trọng khi thi hành sứ vụ của Ngài như khi Ngài chọn nhóm Mười Hai, những người môn đệ thân tín của Ngài (6: 12), khi thánh Phê-rô tuyên xưng Ngài là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (9: 18), khi Ngài biến hình trên núi cao (9: 28), khi Ngài dạy cho các môn đệ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (11: 1), ngay cả trước khi chết trên thập giá, Chúa Giê-su cũng cầu nguyện với Cha của mình (23: 46). Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẩn khoản kêu mời các môn đệ của Ngài: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”.
- Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí
Lời khuyên này gợi nhớ lời khuyên của thánh Phao-lô, thánh nhân mời gọi hãy chuyên tâm cầu nguyện, kiên vững trong lời cầu nguyện, cầu nguyện trong mọi lúc (x. Rm 12: 12; Ep 6: 18; Cl 1: 3, vân vân). Đôi khi người ta đặt nhan đề cho Tin Mừng Lu-ca là “Tin Mừng thánh Phao-lô”. Quả thật, những dấu ấn của thánh Phao-lô không thiếu trong sách Tin Mừng này. Thánh Lu-ca đã là môn đệ và là bạn đồng hành của thánh Phao-lô: sự cộng tác của họ, tình bạn trung thành và thân thiết của họ.
Lời khuyên khởi đầu này dẫn vào dụ ngôn và trước tiên hướng sự chú ý đến bà góa. Theo truyền thống Kinh Thánh, bà góa gợi lên một con người cô thân cô thế, được liệt vào hàng những người nghèo khổ, những kẻ bé mọn, những người thua thiệt này mà Thiên Chúa lắng nghe những lời kêu cứu của họ và đứng ra báo oán cho họ.
Dụ ngôn giản dị này không xác định phải chăng bà góa chịu hàm oan; điều này chỉ là giả sử. Vả lại chẳng quan trọng gì. Chính tính kiên trì bền bỉ van nài kêu xin của bà được đưa ra làm gương và ruốt cuộc đã thắng sự khăng khăng từ chối của ông quan tòa bất chính. Đó là hiệu quả của lời khẩn nguyện, cứ lập đi lập lại không biết mệt, cho đến Chúa phải mệt.
- Tin tưởng vào sự công minh chính trực của Thiên Chúa
Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giê-su khai triển cách hành xử của ông quan tòa hơn là trên thái độ của bà góa. Trọng điểm của dụ ngôn là ông quan tòa bất chính “chẳng kính sợ Thiên Chúa và chẳng coi ai ra gì”. Ấy vậy, ông đành phải chịu thua trước những lời khẩn khoản nài van liên lĩ của bà góa cứ đêm ngày xin ông minh oan cho bà. Chúa Giê-su thốt lên: “Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó!”.
Người ta gặp thấy trong giáo huấn của các kinh sư những ví dụ thuộc loại này, được chọn lựa một cách rõ ràng ngỏ hầu câu kết có thể bắt đầu với liên từ “huống chi”, “huống hồ gì”. Đó là trường hợp dụ ngôn này. Nếu viên quan tòa bất chính đành phải minh oan cho bà góa vì những lời khẩn cầu van xin liên lĩ của bà; “huống hồ gì” Thiên Chúa là vị quan tòa từ bi, nhân hậu, giàu lòng xót thương, Ngài sẽ không kiềm lòng được nữa trước những lời khẩn cầu của “những người được tuyển chọn ngày đêm hằng kêu cứu với Ngài”.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca chỉ một lần duy nhất dùng danh xưng “Người Được Tuyển Chọn” được viết hoa, tước hiệu mà các vị thủ lãnh Do thái gán cho Đức Ki-tô trên thập giá (Lc 23: 35). Nhưng thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô dùng danh xưng này cho những người được tuyển chọn dự phần vào Nước Thiên Chúa. Vì thế, phần cuối dụ ngôn là quay trở lại những viễn cảnh cánh chung. Ở phần nầy, Chúa Giê-su trả lời cho sự nôn nóng của những người chờ mong ngày Quang Lâm của Con Người mau đến, đây là sự nôn nóng của thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên. Thiên Chúa nghe những tiếng kêu cứu của họ, dù trì hoãn đi nữa, thì chắc chắn Ngài cũng sẽ mau chóng bênh vực cho họ.
Nhưng một vấn đề được nêu lên: tại sao Thiên Chúa bắt họ phải chờ đợi? Ông quan tòa bất chính chậm trễ là do lòng chai dạ đá của ông, còn Thiên Chúa trì hoãn là do tấm lòng nhẫn nại và xót thương của Ngài. Những kiểu nói: “trì hoãn” hay “mau chóng”, là thuật ngữ Kinh Thánh được dùng để diễn tả Thiên Chúa chắc chắn can thiệp để cứu độ, mà không xác định một thời điểm nào. Trong Thư thứ hai của mình, thánh Phê-rô giải thích như sau: “Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn sám hối” (2Pr 3: 8).
- Đức tin
“Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Câu nói bí ẩn này là một trong những câu gây sửng sốt của sách Tin Mừng. Được đặt vào mạch văn ở đây, câu này ám chỉ đến tội bội giáo, tội này phải đi trước ngày Thiên Chúa ngự đến, theo những viễn cảnh được phát triển thông thường trong các sách khải huyền. Một nỗ lực kháng cự sau cùng của Xa-tan phải đặt đức tin của các tín hữu vào sự thử thách dữ dội. Thánh Mát-thêu viết: “Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người” (Mt 24: 10-12).
Trong Thư thứ hai gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô cũng kể ra: “Trước đó, phải có hiện tượng chối đạo, và người ta phải thấy xuất hiện người gian ác, đứa hư hỏng” (2Tx 2: 3). Các bản văn Qum-ran nói về cuộc chiến giữa con cái Ánh Sáng chống lại con cái Bóng Tối, cuộc chiến này sẽ đạt đến tột điểm. Ở đây, tư tưởng của Chúa Giê-su chính là mời gọi “Hãy cầu nguyện luôn, không được nản chí”.
- Truyền Giáo là trách nhiệm của mỗi người Ki-tô hữu
Chúa Nhật Truyền Giáo hôm nay nhắc cho mỗi người Ki-tô hữu nhớ đến sứ mạng loan báo Tin Mừng với niềm xác tín rằng “Kỳ thực Thiên Chúa kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn sám hối”. Công việc truyền giáo không đơn giản giao phó cho một nhóm người đặc biệt, nhưng là bổn phận và trách nhiệm của bất kỳ ai tự xưng mình là Ki-tô hữu.
Để công việc truyền giáo đạt được kết quả, trước tiên mỗi người Ki-tô hữu phải chuyên tâm cầu nguyện như lời mời gọi khẩn thiết của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Tương lai của công cuộc truyền giáo phụ thuộc phần lớn vào việc chiêm niệm. Nhà truyền giáo phải là một người chiêm niệm trong hành động để loan báo Chúa Ki-tô bằng cách thế mà người ta có thể tin được”.
Thứ nữa, mỗi người Ki-tô hữu phải làm chứng cho Tin Mừng bằng chính cuộc sống tràn đầy niềm vui của mình như lời dạy của Mẹ Ma-ri-a trong một lần hiện ra tại Lộ Đức: “Khi cầu nguyện, chúng con hãy tìm cách làm cho con tim được hạnh phúc. Mẹ muốn rằng qua các con, toàn thể thế giới nhận ra Thiên Chúa là niềm vui. Bằng chính đời sống của mình, các con hãy trở nên nhân chứng về niềm vui của Thiên Chúa”. Chớ gì cuộc sống tràn đầy niềm vui của chúng ta giúp cho tha nhân nếm cảm được hương vị ngọt ngào của tình Chúa thương ta.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN – C
CẦU NGUYỆN KIÊN TRÌ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : Nhờ Môsê cầu nguyện mà quân do thái đã chiến thắng quân của Amaléc.
– Tin Mừng : Gương kiên trì nài xin của một bà góa.
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Cầu nguyện và Tin luôn gắn liền với nhau : vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ cầu nguyện nên đức tin của chúng ta được củng cố thêm. Bởi thế Chúa Giêsu dạy các tín hữu Ngài phải cầu nguyện luôn, nghĩa là không chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện gì khó khăn, mà phải cầu nguyện trong mọi lúc.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa dạy chúng ta biết cầu nguyện và giúp chúng ta cầu nguyện luôn, để đức tin của chúng ta ngày càng thêm vững mạnh.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta thường mải mê với công việc mà lười biếng cầu nguyện.
– Tuy chúng ta có cầu nguyện nhưng chúng ta không cầu nguyện cách kiên trì.
– Nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà trong lòng không mấy tin tưởng vào Chúa.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I(Xh 17,8-13)
Chuyện này kể về thời dân do thái đang tiến vào Đất Hứa. Họ phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Đoạn này thuật cuộc giao chiến với quân Amaléc :
– Môsê giao cho ông Giôsuê dẫn quân đi giao chiến. Phần ông thì ở trên núi giang tay cầu nguyện.
– Khi nào Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Israel thắng thế ; ngược lại khi Môsê mỏi mệt quá bỏ tay xuống thì quân Israel thua. Người ta mới lấy một tảng đá kê cho Môsê ngồi, lại cử thêm hai người giúp Môsê nâng tay lên. Nhờ đó Môsê có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ, và kết quả là Israel đã toàn thắng.
Chuyện này muốn nói rằng chiến thắng không phải do sức mạnh của quân Israel, mà nhờ sự phù hộ của Chúa do lời cầu nguyện của Môsê.
- Đáp ca(Tv 120)
Thánh vịnh này tiếp nối ý tưởng của bài đọc I : “Ơn phù trợ tôi bởi nơi nao ? Ơn phù trợ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”
- Tin Mừng(Lc 18,1-8)
Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy “các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Dụ ngôn có hai vai :
– bà góa : trong xã hội do thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy đến kêu cứu với thẩm phán.
– thẩm phán : lẽ ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
* Bài học : một người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.
Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng : “Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?”.
- Bài đọc II(2 Tm 3,14–4,2) (Chủ đề phụ)
Phaolô biết rằng mình sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho môn đệ mình là Timôtêô để khuyên ông này giữ vững những gì đã học được từ Sách Thánh.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Vai trò của cầu nguyện
Không ai có thể sống đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.
Có 3 người bị kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này ?
– Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
– Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
– Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.
Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa ; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.
Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Trên đây là 3 thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện :
– Người thứ nhất coi cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được ?
– Người thứ hai coi cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.
– Người thứ ba tin tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.
* 2. Cầu nguyện luôn
Đoạn Tin Mừng hôm nay bắt đầu như sau : “Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện sau đây là câu trả lời cho những người ấy.
Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v.v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.
Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật : “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi”.
Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì :
– Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.
– Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.
– Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.
– Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.
– Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.
* 3. Hai tư thế cầu nguyện
Hồi còn bé, chúng ta được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chấp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy. (FM)
* 4. Cầu thay nguyện giúp
Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng : “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 30O đồng nhé”.
Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.
Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. HọÏ cũng mở ra đọc, thư viết như sau : “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng !”
*
Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé : Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.
Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ : “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.
Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.
Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy : “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết : “Pytago. đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.
Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở : “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.
*
Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.
Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen. (TP)
- Mảnh suy tư
a/ Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.
– Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
– Hoa trái của đức tin là tình yêu
– Hoa trái của tình yêu là phục vụ
– Và hoa trái của phục vụ là bình an.
b/ Lời cầu nguyện của ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình.
– Lời cầu nguyện của bệnh nhân được đáp lời, không phải khi anh khỏi bệnh, mà khi anh cảm nhận được Chúa vẫn ở cạnh mình, nhờ đó anh ý thức rằng cơn bệnh không phải là hình phạt của Chúa, cũng không phải là dấu Chúa đã bỏ anh.
– Có thể sự cầu nguyện không thay đổi thế giới, nhưng nó giúp ta có thể trực diện với thế giới.
c/ Hồi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy cầu nguyện bằng cách đọc kinh. Bây giờ đã lớn, chúng ta hãy học cầu nguyện bằng cách mở rộng cõi lòng ra cho Chúa.
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, trải qua bao thế hệ, Đức Kitô đã muốn cho Hội thánh, nhiệm thể của Người, phải không ngừng tiếp tục đời sống cầu nguyện và lễ tế hy sinh mà Người đã khởi sự khi còn sống ở trần gian. Với quyết tâm tuân giữ lệnh truyền của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Ngay từ đầu / các tín hữu đã chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy / luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu ngày nay / biết noi gương các tín hữu ngày xưa mà siêng năng nguyện cầu.
- Khiêm tốn và kiên trì khi cầu nguyện / là điều mà bài Tin mừng hôm nay muốn nói với tất cả mọi Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết khiêm tốn dâng lên Chúa lời cầu khẩn thiết tha của mình.
- Hội thánh kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện theo lối các Giờ Kinh Phụng vụ / kể cả những người mà luật không buộc phải cử hành Thần vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết sốt sắng tham dự các Giờ Kinh Phụng vụ / vì đây là một trong những phương tiện giúp chúng ta nên thánh.
- Lời kinh tuyệt vời Chúa Giêsu đã để lại cho người Kitô hữu là kinh Lạy cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vừa đọc vừa suy niệm / và sống tinh thần của lời kinh quan trọng nhất / trong đời sống đức tin của mình.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con : Phải cầu nguyện luôn và không bao giờ được chán nản. Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết triệt để thực thi lệnh truyền của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN- C
BỔN PHẬN VÀ NIỀM VUI LỚN– Chú giải của William Barclay
Dụ ngôn quan tòa bất chính được Chúa kể liên hệ trực tiếp đến sự giáo huấn các môn đệ về sự trở lại Ngài. Tuy nhiên, vẫn có giá trị khích lệ các tín hữu cầu nguyện qua mọi thời đại. Lý luận là thế này: nếu một quan án bất chinh, không sợ trời và cũng chẳng nể người, mà rồi cũng phải nhượng bộ trước lời kêu nài của một bà góa, thì huống chi Thiên Chúa công chính lại không sẵn sàng nghe lời cầu khẩn của những kẻ Ngài yêu thương sao?
Dụ ngôn này nói tới một việc đã thường xảy ra tại Pa-let-tin.
Có hai nhân vật trong chuyện này:
- Vị quan tòa:
Rõ ràng ông không phải là một thẩm phán Do-thái. Các việc tranh chấp tầm thường xảy ra giữa người Do-thái được xử trước mặt các trưởng lão chứ không bao giờ đem đến các tòa án công cộng. Và theo luật Do-thái, nếu có vấn đề phải phân xử, thì một người không đủ để lập phiên tòa. Bao giờ cũng có ba vị quan án, một vị do bên nguyên cáo chọn, một vị do bên bị cáo chọn, và một vị khác được chỉ định cách độc lập. Vị quan tòa trong chuyện này là một trong những quan tòa ăn lương được bổ nhiệm hoặc bởi vua Hê-rô-đê hoặc bởi người La-mã. Các vị này nổi tiếng tham ô. Trừ khi bên bị cáo có thế lực về tiền bạc đút lót cho sự việc đi tới kết thúc, còn thì người ta không hy vọng gì được quan tòa xét xử cho. Thiên hạ đồn rằng các vị này sẵn lòng khiến công lý thành “công lý” chỉ vì một đĩa thịt. Dân chúng còn mỉa mai họ bằng cách chơi chữ; họ chính thức được gọi là quan tòa đoàn phạt, nhưng quần chúng gọi là quan tòa ăn cướp.
- Bà góa này tượng trưng cho hết thảy những người nghèo nàn, cô thế, cô thân.
Dĩ nhiên, vì không có tiền bạc, bà ta chẳng hy vọng gì được xét theo lẽ công bình bởi một quan tòa như vậy. Nhưng bà ta có khí giới của sự kiên trì. Rất có thể, điều mà quan tòa này sợ là một loại bạo lực nào đó từ được dịch là quấy rầy có nghĩa: “kẻo nó làm cho mắt ta tối đen.” Chúng ta có thể tối mắt bằng hai cách:hoặc bằng giấc ngủ hoặc do một cú đấm! Dù sao, cuối cùng sự kiên trì của bà ta đã thắng. Dụ ngôn này cũng giống dụ ngôn về người bạn lúc nửa đêm… Dụ ngôn không có ý ví sánh Thiên Chúa với quan tòa bất chính, nhưng sách ngược lại với con người như thế, Chúa Giêsu có ý nói: “Thẩm phán bất chính còn như thế, lẽ nào Thiên Chúa không xem xét bênh vực những đứa con yêu ngày đêm kêu xin Ngài sao? Chắc chắn Ngài sẽ vội vàng cứu giúp họ.”
Chúng ta hãy nghe lời Đức Gio-an Phao-lô II nhắn nhủ giới trẻ về cầu nguyện dựa vào chính lời Chúa Giêsu bảo “phải cầu nguyện luôn đừng nản chí.” Tại sao chúng ta phải cầu nguyện?
- Chúng ta phải cầu nguyện, trước hết, là vì chúng ta là tín hữu:
Thật vậy, cầu nguyện là vì nhận biết những giới hạn và lệ thuộc của chúng ta: chúng ta đến từ Chúa, chúng ta sống nhờ Chúa và chúng ta sẽ trở về với Chúa. Do đó, chúng ta phải trao phó chúng ta cho Người, là Đấng Tạo Dựng và Cứu Chúa của chúng ta, với một lòng tín thác trọn vẹn… Trước hết cầu nguyện là một hành vi hiểu biết, tâm tình khiêm tốn và biết ơn, một thái độ tin yêu phó thác nơi Đấng vì yêu thương đã ban cho chúng ta sự sống. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại nhiệm màu, nhưng có thực, với Thiên Chúa, một cuộc đời diễn ra trong tin cậy và yêu mến.
- Vì là Kitô hữu, nên chúng ta còn phải cầu nguyện như Kitô hữu nữa:
Thật vậy, đối với Kitô hữu, việc cầu nguyện mang một sắc thái đặc thù là thay đổi bản chất và giá trị của cầu nguyện. Kitô hữu là môn đệ của Đức Giêsu, là người tin nhận Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là con Thiên Chúa xuống trần gian giữa loài người chúng ta. Với tư cách là một người, cuộc đời của Đức Giêsu là đời cầu nguyện liên lỷ, một hành vi liên tục kính thờ và yêu mến Cha, và rồi cao điểm của cầu nguyện là hiến tế thập giá, tiên báo qua bữa Tiệc Thánh cuối cùng trong nhà Tiệc Ly và truyền lại qua các thế hệ bằng thánh lễ. Thế nên, người Kitô hữu biết lời cầu nguyện của mình là Chúa Giêsu, mọi lời cầu nguyện của mình đến từ Chúa Giêsu, chính Ngài cầu nguyện trong chúng ta, với chúng ta, và cho chúng ta. Tất cả những ai tin vào Thiên Chúa đến cầu nguyện, những người Kitô hữu cầu nguyện trong Chúa Kitô: Chúa Kitô là lời cầu nguyện của chúng ta…!
- Cuối cùng, chúng ta phải cầu nguyện vì chúng ta yếu đuối và tội lỗi.
Cần phải khiêm tốn và thành thật nhận thức rằng chúng ta là những tạo vật hèn kém, với những ý nghĩ mơ hồ, hay thay đổi và yếu đuối, luôn cần nhận được nâng đỡ và an ủi. Cầu nguyện ban sức mạnh để theo đuổi lý tưởng cao cả, gìn giữ đức tin, cậy, mến, trong sạch, quảng đại; cầu nguyện mang lại can đảm để thoát khỏi tình trạng ù lỳ, và dần dần nếu chẳng may đã nhường bước cho cám dỗ và yếu đuối; cầu nguyện soi sáng để thấy và thẩm định các biến cố đời sống riêng tư mình và cả lịch sử trong viễn tượng cứu độ của Thiên Chúa và của đời đời. Thế nên, đừng bao giờ các con bỏ cầu nguyện! Đừng để một ngày nào qua đi mà chúng con không cầu nguyện một ít.
Cầu nguyện là một bổn phận, nhưng cũng là một niềm vui lớn! Vì đó là cuộc đối thoại với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô. Kiên trì lễ ngày Chúa nhật, và nếu có thể dự lễ nhiều lần trong tuần, cầu nguyện sáng chiều, và những lúc thuận tiện!”
Dụ ngôn này Chúa dạy liên hệ trực tiếp đến việc trở lại của Ngài. Do đó, không phải chỉ khuyến khích cầu nguyện tổng quát, mà đặc biệt là sự đến và đặc biệt hơn là ân huệ do đó mà ra. Tuy nhiên sức mạnh của dụ ngôn là kể lại cho Hội Thánh sự yếu đuối và cô đơn, và Hội Thánh trong khoảng thời gian từ lúc Chúa chịu đóng đinh cho đến khi Người trở lại. Chúa Giêsu vừa mô tả tình trạng của thế giới lúc Ngài trở lại. Ngài đã chụp hình thái độ vô tình, lơ là và miệt mài những chuyện trần tục, rồi bầy giờ Ngài muốn thúc giục kẻ theo Ngài hãy kiên nhẫn và hướng lòng về Ngài trong cầu nguyện.
Sau khi kể xong thí dụ, Chúa hỏi một câu đượm vẻ đau buồn: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa không?” Có còn những kẻ thật lòng tin Đấng Kitô, yêu Ngài và trông đợi sự trở lại của Ngài? Câu hỏi đó chính là lời cảnh cáo long trọng về hiểm họa tinh thần thế tục và vô tín sẽ thịnh hành. Chúng ta không nên tuyệt vọng bi quan, Hội Thánh lúc nào cũng có kẻ thù, Hội Thánh luôn luôn canh giữ ảnh hưởng của thế tục đang vây quanh. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện liên kết mật thiết với nhau. Thánh Âutinh phát biểu: “Chúng ta tin để cầu nguyện, và để niềm tin và với niềm tin đó chúng ta cầu nguyện khỏi chao đảo, chúng ta ta cầu nguyện. Niềm tin làm phát sinh cầu nguyện, và cầu nguyện một khi đã phát sinh sẽ đem lại chắc chắn trong niềm tin.”
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN -C
CẦU NGUYỆN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đây là một dụ ngôn dễ hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai tình ảnh trái ngược. Một bên là bà goá nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan toà bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà goá, cầu nguyện luôn không được nản chí. Bà goá nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4 thái độ sau:
Thái độ khiêm nhường.Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ nghèo hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khoẻ để chống lại người ác. Không người bênh vực chống lại bất công. Không có cả tiền bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả. Chẳng còn gì. Chẳng có gì. Nói gương bà, khi cầu nguyện ta phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo nàn yếu đuối, biết mình chỉ là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã cùng đường, không còn nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực không thể thoát khỏi hoàn cảnh bi đát này.
Thái độ phó thác.Bà goá này không còn nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan toà như lối thoát duy nhất. Bà đặt niềm tin vào ông quan toà. Đó là niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng. Bà bám víu lấy ông quan toà. Bà phó thác vận mạng trong tay ông quan toà. Sự sống của bà ở nơi ông quan toà. Cũng thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh cho Chúa. Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta. Hơn nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa con bé nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng Chúa sẽ sắp xếp cho ta những gì tốt đẹp nhất.
Thái độ kiên trì.Chỉ còn một con đường duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng. Thất bại không làm bà nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc. Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế, khi cầu nguyện ta hãy kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác trong tay Chúa. Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng thương ta.
Thái độ khao khát.Bà khao khát vì đó là con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không ngồi đó chờ đợi. Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao khát đó. Bà không chán nản an nghỉ. Nhưng bà làm việc liên lỉ cho ước nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu nguyện ta phải có lòng khao khát cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ trong hành động. Ta không ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động. Không lùi bước trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng khao khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng với nỗ lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.
Chiêm ngắm tấm gương của bà goá, ta nhận thấy rất nhiều khi ta chưa cầu nguyện cho đủ. Chưa thực hiện sự khiêm nhường nhận biết sự thực về mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận mệnh trong tay Chúa. Chưa biết kiên trì đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức ta tích cực làm hết sức mình cho nguyện ước đó. Hôm nay với bài học của Chúa, ta sẽ biết cầu nguyện hơn. Khi biết cầu nguyện hơn, chắc chắn lời cầu nguyện của ta sẽ đẹp lòng Chúa và đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn ta hơn.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Kể ra những thái độ của bà goá mà ta cần noi theo khi cầu nguyện.
- Đối với bạn Chúa là gì? Có phải là nguồn hy vọng duy nhất? Hay chỉ là một chỗ cậy nhờ như những chỗ khác?
- Bạn có phấn đấu làm việc cho ước nguyện của mình không? Hay bạn chỉ ngồi chờ Thiên Chúa ban tặng?
- Trong 4 thái độ cần có, bạn thiếu thái độ nào nhất?
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN- C
KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN – Lm. Đan Vinh HHTM
Ý CHÍNH: Tin mừng Lu-ca kể ra dụ ngôn của Đức Giêsu về bà góa và ông quan tòa nhằm dạy các môn đệ: “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Một người bất lương như ông quan tòa mà còn phải chịu thua lòng kiên trì nài xin của bà góa nghèo. Phương chi Thiên Chúa là Cha nhân lành lại không mau chóng bênh vực những kẻ hằng kêu xin Người đêm ngày hay sao? Tuy nhiên có nhiều kẻ vì thiếu kiên trì khi gặp gian nan thử thách nên đã sớm bị mất đức tin. Vì thế Đức Giêsu đã phải thốt lên lời than phiền như sau: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”.
CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn…: Câu dẫn nhập này báo trước ý nghĩa của dụ ngôn: Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ kiên trì và liên lỉ cầu nguyện để chuẩn bị cho ngày Người tái lâm. +Trong thành kia có một ông quan tòa: Ông này bị coi là bất lương vì ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng nể nang người đời. Những quan tòa như thế có nhiều trong dân Ít-ra-en, nhất là trong thời kỳ đất nước bị ngoại bang cai trị. Những quan tòa này nhiều lần đã bị các ngôn sứ lên án (x. Is 1,23; Gr 5,28; Am 5,7). +Trong thành đó cũng có một bà góa: Bà góa là một mẫu người nghèo thường được đề cập tới trong Thánh kinh. Do các bà không có chồng bảo vệ nên dễ bị kẻ xấu chèn ép bóc lột. +“Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi”: Bà góa này xin quan tòa giúp minh oan trước kẻ đang kiện cáo mình.
– C 4-5: +Một thời gian khá lâu, ông không chịu…: Lúc đầu ông quan tòa hành động vì ích kỷ, nhưng cuối cùng ông cũng đành phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa nghèo để đứng ra bênh vực bà, hầu tránh khỏi bị bà đến quấy rầy mãi.
– C 6-8: +Rồi Chúa nói: Lu-ca nêu tước hiệu “Chúa” 20 lần trong các bài tường thuật. Tước hiệu “Chúa” ám chỉ Đức Giêsu đã được tôn vinh sau khi phuc sinh (Pl 2,6-11). Khi dùng tước hiệu “Chua” này Lu-ca muốn nhấn mạnh vương quyền mầu nhiệm của Đức Giêsu. +“Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó: Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn…”: Mục đích so sánh Thiên Chúa với quan tòa bất chính là để làm nổi bật sự tương phản giữa lối hành xử bất lương của viên quan tòa với lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa. Một con người ngang ngược ích kỷ vô tín mà còn biết bênh đỡ người yếu thế để tránh sự quấy rầy như vậy, phương chi Thiên Chúa nhân từ lại có thể nhẫn tâm từ chối lời cầu xin của những kẻ đầy lòng cậy trông phó thác nơi Ngài hay sao? +Dù Người có trì hoãn: Chắc chắn Chúa sẽ can thiệp, nhưng theo cách thức của Người. Mỗi khi cầu xin mà lâu vẫn chưa được như ý, chúng ta hãy nhớ lại trường hợp Đức Giêsu trong vườn cây Dầu: đã cầu xin Chúa Cha cho khỏi uống chén đắng và đã không được Cha ưng thuận, nhưng nhờ đó mà loài người chúng ta mới được hưởng ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và phuc sinh của Đức Giêsu. Trong thực tế, có nhiều điều chúng ta cố nài xin Chúa ban cho mình, vì tưởng là điều tốt cho mình, nhưng thực ra lại có hại cho phần rỗi đời đời của ta, nên vì tình thương mà Chúa đã không ban theo ý ta như Đức Giêsu đã nói: ”Có ngừoi cha nào đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá?….”. Trật tự thế giới này sẽ ra sao nếu các ước muốn ngông cuồng ấu trĩ của mọi người đều được Chúa chấp nhận? +Người sẽ mau chóng bênh vực họ: Ở đây cũng như ở nhiều nơi khác (x. Mt 9,1; 13,30). Đức Giêsu báo trước sẽ có một cuộc phán xét để bênh vực những kẻ Người tuyển chọn (x. Lc 17,22-37). +Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?: Trong cơn thử thách, những kẻ được tuyển chọn cũng vẫn có thể trở thành vô tín nếu không kiên trì (x. Mc 13,20-22). Vì thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ tránh lối sống buông thả, nhưng phải vững tâm cầu nguyện, giống như bà góa trong dụ ngôn đã luôn kiên trì cầu xin trước thái độ thờ ơ của vị quan tòa bất lương. Trong thời gian dài từ khi Đức Ki-tô về trời đến khi Người lại đến vào ngày tận thế, các tín hữu phải “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
CÂU HỎI: 1) Câu nào trong Tin mừng cho thấy bài học Đức Giêsu muốn dạy môn đệ về sự tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa? 2) Phải giải thích thế nào nếu Thiên Chúa trì hõan không nhận lời cầu xin xem ra chính đáng của chúng ta? 3) Câu nào cho thấy vào ngày tận thế nhiều người có thể mất đức tin vì đã không kiên trì cầu nguyện khi gặp gian nan thử thách? 4) Chúa đã hứa:”Hãy xin sẽ được…”, vậy tại sao tôi cầu xin hoài mà vẫn không được Chúa ban như ý của mình?
- SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng đến kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn?” (Lc 18,7).
- CÂU CHUYỆN:
– CỨ KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN THÌ CHẮC SẼ ĐƯỢC CHÚA CHẤP NHẬN: Một nhân viên bưu điện phi ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín để phát thư. Ông gõ cửa nhưng không thấy ai ra mở cả. Ông biết trong nhà có người, vì đã thấy bóng họ thấp thóang qua khung cửa sổ. Do đó, ông vừa la lớn vừa đập mạnh vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 5 lần thì một lỗ nhỏ trên cánh cửa được mở ra và có tiếng người trong nhà hỏi: “Ông muốn gì?”. Ông trả lời: “Muốn gì ư? Tôi đã kêu cửa mấy phút rồi mà không thấy ai ra mở cửa để lấy thư cả!” Bấy giờ người trong nhà mới vặn chốt mở rộng cửa ra và giải thích như sau: “Xin ông thông cảm cho. Mỗi ngày chúng tôi phải chịu đựng lũ trẻ hàng xóm đến phá quấy: Chúng cứ tới đập cửa ầm ầm, rồi khi chúng tôi ra mở cửa thì lại chẳng thấy ai cả. Khi nãy lúc đầu chúng tôi cứ tưởng là lũ trẻ đến phá rối như mọi khi, nên không ra mở cửa. Nhưng về sau thấy cửa cứ bị đập hòai, nên chúng tôi biết là có khách đến thăm thực sự”.
– CẦU NGUYỆN ĐÃ ỨNG NGHIỆM SAU NHIỀU NĂM: Tạp chí Hướng Đạo có đăng một câu chuyện thú vị về một cô giáo trẻ. Câu chuyện được tóm tắt như sau: Cô giáo Ma-ry được điều về dạy ở một trường học nọ. Trong lớp cô phụ trách có một học sinh ngỗ nghịch tên là Bill. Em này thường gây cho cô giáo trẻ sự bực bội và biến lớp học thành một nơi bát nháo. Một buổi sáng kia, cô Ma-ry đến lớp sớm hơn và ngồi ở bàn thầy giáo hí hoáy viết tốc ký lên một trang giấy, thì bất ngờ Bill xuất hiện. Cậu bé tiến lại gần bàn cô giáo và nói: “Cô đang viết gì vậy?” Ma-ry đáp: “Cô viết lời cầu nguyện với Chúa đó”. Bill chế giễu: “Chúa có thể đọc được chữ tốc ký hay sao?” Ma-ry đáp: “Người có thể làm được mọi sự. Ngay cả việc nhậm lời cầu xin này của cô!”. Nói xong, cô để mảnh giấy kia vào trong cuốn Kinh thánh, và quay lên viết bài học trên bảng cho cả lớp. Lợi dụng lúc cô giáo loay hoay viết, Bill đã lén lấy cắp mảnh giấy có ghi lời cầu nguyện của cô giáo và bỏ vào trong cuốn tập của cậu. Hai mươi năm sau, Bill đã trở thành giám đốc của một công ty lớn. Một hôm ông ta lục tìm một đồ vật cũ để trên gác xép ngôi nhà xưa của cha mẹ ông. Bill tình cờ cầm lên một cuốn sổ ghi bài học thuở nhỏ và đột nhiên thấy một mảnh giấy vàng ố rơi xuống sàn. Đó là mẩu giấy có ghi chữ tốc ký. Bill không hiểu nội dung những dòng chữ ấy. Ông gấp tờ giấy kia lại, mang đến văn phòng nhờ cô thư ký đọc giúp. Cô ta đã viết lời dịch vào một tờ giấy khác và đưa cho Bill. Ông nhận ra đó là lời cầu nguyện của cô giáo Ma-ry năm xưa, nội dung lời cầu ấy như sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con bị thất bại trong nghề giáo của con. Con không thể làm cho lớp con đang dạy vào khuôn khổ kỷ luật được, vì có một cậu học trò tên là Bill hay phá bĩnh. Xin Chúa hãy uốn nắn tâm hồn cậu bé này. Vì theo con nhận xét: Cậu bé ấy có thể trở thành một người hoặc rất tốt hoặc rất xấu sau này”. Câu cuối cùng như một nhát búa nện vào đầu Bill, bắt ông phải suy nghĩ. Thật ra chỉ vài giờ trước đó, Bill có dự tính lao vào một vụ làm ăn buôn lậu, hy vọng sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Ông cầm tờ giấy kia lên gấp lại cho vào chiếc ví để trong túi quần. Rồi trong suốt một tuần lễ kế tiếp, mỗi khi có dịp là ông lại lôi tờ giấy kia ra đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuối cùng thì lời cầu nguyện của cô giáo được viết trước đó hai mươi năm đã phát huy tác dụng và làm thay đổi ý định buôn lậu của Bill. Mấy tuần sau, khi có dịp ngang qua nhà cô giáo cũ, ông đã tìm đến thăm cô và kể cho cô nghe về lời cầu nguyện của cô cách đây 20 năm đã có sức mạnh làm thay đổi cuộc đời hiện tại của ông ra sao.
- SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện để sẽ được Chúa ban ơn cứu độ. Nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyên và phải cầu nguyện thê nào?
- Có mấy thái độ cầu nguyện?:
– Trong một vụ động đất lớn khiến nhiều nhà cửa trong thành phố bị sụp đổ. Có ba người bị kẹt trong văn phòng một tòa nhà của một công ty xây dựng. Bấy giờ văn phòng bị tối thui vì cúp điện và một khối bê-tông lớn từ tầng trên rơi xuống đã chắn ngang cửa sổ và cửa ra vào văn phòng. Trước tình huống này, người thứ nhất là trưởng phòng không có đức tin và đã bỏ không đên nhà thờ từ lâu. Ông ta bực tức không ngừng chửi rủa viên kỹ sư thiết kế và là chủ thi công công trình tòa nhà đã không chịu gia cố thêm sắt thép khi xây dựng chân móng và đà cột, khiến tòa nhà dễ dàng sụp đổ khi bị động đất mạnh. Anh thứ hai là nhân viên vệ sinh của công ty có lòng đạo đức bình dân, khi bị kẹt trong văn phòng liền quỳ gối lần chuỗi kinh mân côi thật sốt sắng cầu xin Đức Mẹ thương ra tay cứu giúp. Anh thứ ba là nhân viên bảo trì máy móc của công ty là người có đức tin trưởng thành đã tỏ ra bình tĩnh khi gặp sự cố. Anh ta âm thầm đối thoại cầu xin Chúa như sau: “Lay Chúa, Chúa muốn con làm gì để thoát khỏi hoàn cảnh này?” Sau đó anh lấy ra búa và đục trong giỏ đồ nghề luôn mang theo và bắt đầu đục phá khối bê-tông bít lối ra vào kia. Cứ sau một lúc làm việc, anh dừng tay nghỉ mệt và lại thầm thĩ thưa chuyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin giúp con đủ sức đục bể khối bê-tông này để cả ba người chúng con mau thoát ra ngoài”. Cuối cùng anh ta đã phá được một mảng lớn bê-tông và cả ba người đã chui ra ngoài an toàn.
- Tại sao phải cầu nguyện?
Câu chuyện trên cho thấy ba thái độ cầu nguyên: người thứ nhất do mất đức tin, cho rằng cầu nguyện vừa mất thời giờ lại vừa vô ích, nên không cầu nguyện khi gặp khó khăn. Anh ta chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh và tha nhân, mà không tích cực giải quyết vấn đề. Người thứ hai có đức tin thụ động: Khi gặp sự cố chỉ biết khoanh tay đọc kinh để cầu xin phép lạ, thay vì chủ động giải quyết vấn đề. Có lẽ đại đa số các tín hữu chúng ta vẫn đang có lối cầu nguyện thụ động này, nhất là khi chúng ta cầu xin Chúa cho người khác. Người thứ ba có đức tin tích cực chủ động: tuy tin vào quyền năng của Chúa, nhưng đồng thời cũng ý thức phải sử dụng các phương tiện Chúa ban để chủ động giải quyết sự cố mà không quên cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp. Đây là cách cầu nguyện đúng đắn đẹp long Chúa mà các tin hữu chúng ta cần phải áp dụng trong cuộc sống đời thường.
- Chúng ta phải làm gì?
– Kiên trì cầu nguyện: Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương ông Mô-sê quì giang tay suốt cả ngày để cầu xin cho quân Ít-ra-en thắng trận (Bài đọc 1); Hay như bà goá bị kiện cáo oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông ta minh oan (Bài Tin Mừng). Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
– Không nên đòi hiệu quả tức thời: Khi cầu nguyện, chúng ta tin chắc Chúa sẽ đáp lời cầu xin của chúng ta. Nhưng Ngài không ban lập tức theo ý riêng của chúng ta, mà ban vào thời gian và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta. Thời gian Chúa nhậm lời có thể kéo dài lâu hơn chúng ta nghĩ và cách Ngài ban ơn cũng có thể khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng thích hợp nhất và ữu hiệu nhất cho hạnh phúc của chúng ta.
– Hãy cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phao-lô đã dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Như thế, cầu nguyện không phải là xin ơn theo kiểu vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là sự liệt kê những nhu cầu để xin Chúa ban theo ý riêng của ta. Nhưng cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, xin Ngài giúp chúng ta vâng theo thánh ý Ngài, noi gương Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Tuy nhiên con người vốn yếu đuối dễ nản chí, nên Đức Giêsu đã cảnh báo: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8).
- THẢO LUẬN: 1)Bạn cần đọc kinh dự lễ như thế nào để tránh bị lo ra chia trí và để lời cầu nguyện xứng đáng được Chúa chấp nhận? 2)Ngoài việc đọc kinh dự lễ, bạn cần làm gì để biến đời bạn trở thành một lời cầu nguyện liên lỉ?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA CHA giàu lòng từ bi thương xót. Chúa hằng nhận lời cầu xin của con. Qua dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu đã dạy con rằng: Ông quan tòa dù là kẻ bất chính và ích kỷ mà còn sẵn sàng đáp lại lời cầu xin kiên trì của một bà góa nghèo, phương chi là Chúa, Đấng hằng thương yêu săn sóc con như gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh. Con tin tưởng vào Chúa và phó thác cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng. Xin Chúa thương nâng đỡ và ban ơn giúp con.
– LẠY CHÚA. Điều làm cho Chúa đau lòng là nhiều người đã bị mất đức tin, trong đó có thể có cả con nữa. Nhiều lúc chính con đã không tin vào hiệu lực của lời cầu xin. Khi gặp khổ đau hoạn nạn, con thường hay than thân trách phận, mà không cầu xin Chúa nâng đỡ. Cũng có những lúc con chỉ cậy vào sức riêng mình, dựa vào thế lực của tiền bạc hay của những kẻ nhiều quyền lực… mà không cậy dựa vào ơn của Chúa. Nhiều lúc con chán nản thất vọng vì cầu xin mãi mà không được Chúa ban theo ý con xin. Xin giúp con kiên trì cầu nguyện và không bao giờ nản chí. Xin cho con ý thức rằng: Những ai tin cậy vào Chúa, sẽ không bao giờ phải thất vọng hổ ngươi.
*X) Hiệp cùng Mẹ- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN- C
CHÚA MONG MUỐN THẤY NIỀM TIN NÀO KHI NGƯỜI TRỞ LẠI – Lm. Gioan Nguyễn văn Ty
Câu chuyện dụ ngôn hôm nay trình bày một phản diện, phản diện gay gắt với niềm tin vào một Thiên Chúa như Đức Giêsu muốn trình bày! Phản diện trong hình ảnh ông quan tòa không có bất cứ niềm tin nào: ‘Chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì’. Ông không có bất kỳ một lý do nào để xót thương bà góa nghèo hèn van xin ông giúp đỡ. Cuối cùng thì chỉ vì không chịu nổi sự quấy rầy đeo bám, ông đã buộc phải ‘ra tay làm phước’ cho bà góa cô thế cô thân; cuối cùng thì vị quan tòa vô tâm đó đã ‘buộc phải’ xót thương, cho dù đó chỉ là bề ngoài và hoàn toàn bất đắc dĩ.
Khi đem một hình ảnh tiêu cực đến như thế để đối chiếu với Thiên Chúa nhân lành: “Anh em nghe ông quan tòa bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ người đã tuyển chọn, hằng đêm ngày kêu cứu với Người sao?” chắc hẳn Đức Giêsu phải có một lý do gì sâu sắc lắm.
Trước hết, ông quan tòa nọ đã bị chính Đức Giêsu gán cho thuộc từ ‘bất chính’;ông bất chínhkhông phải vì đã làm điều gì phạm pháp. Không, tuyệt nhiên không! Tương tự như ông phú hộ trong câu chuyện ‘chàng La-da-rô nghèo khổ’, ông này bị Đức Giêsu gọi là ‘bất chính’ chỉ vì một lý do duy nhất: ông đã không có một chút lòng trắc ẩn, xót thương nào.
Điều này cho chúng ta một gợi ý: thay vì tin vào một Thiên Chúa công chính, như người Do Thái vẫn thường gọi, căn cứ vào giao ước đã ký kết, thì Đức Giêsu, dầu vẫn dùng các từ ngữ cũ, mời gọi các môn đệ hướng tới sự công chính theo một nội dung hoàn toàn mới. Thiên Chúa công chính vì Người từ bi và giầu lòng xót thương (xem nội dung thư thứ nhất của Gio-an, đăc biệt các câu 2:29 và 3:7). Người là trọn vẹn công chính, bởi vì Người là Thiên Chúa trọn vẹn từ nhân! Yếu tính lớn nhất của Người là “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…, để khỏi bị lên án, nhưng được cứu độ” (Ga 3:16-18). Dấu hiệu của Thiên Chúa từ nhân đó đã được nói tới trong Cựu Ước trong hình ảnh con rắn được Mô-sê giương cao trong sa mạc. Không may các người Do Thái đã hầu như hoàn toàn quên mất hình ảnh này… Tân Ước trái lại đã biểu lộ tình yêu này bằng Thập Giá; Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy (Ga 3:14)): Thiên Chúa của Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa ba lần Thánh, nhưng không phải vì sự thánh thiện cao xa tự tại nơi một mình Người. Đối với chúng ta và cho chúng ta, Người là thánh vì Người yêu mến con người tội lỗi với tất cả lòng xót thương. Tôi ngạc nhiên khi nghe Đức Giêsu nói: ‘Thiên Chúa yêu thế gian’. Sau này khi Gio-an cho định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”,ông không quên giải thích liền sau đó: ‘Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống’ (1 Ga 4:8-9).
Thế nhưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương như thế, một phản diện gay gắt với ông quan tòa bất chính trong dụ ngôn, ngay cả đối với Ki-tô hữu chúng ta, cũng có thể trở thành rất mong manh; Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa xót thương vẫn có thể bị ngay chính các Ki-tô hữu mau chóng quên lãng.
Chưa khi nào ta bắt gặp một Đức Giêsu bi quan và ngờ vực đến thế: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Ngài còn thấy niềm tin trên mặt đất nữa chăng?” Tôi thiển nghĩ: nếu là niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, thì cho dầu có bị thử thách tới mấy đi nữa, chắc chắn nó sẽ vẫn mãi mãi tồn tại nơi nhân loại; niềm tin cầu khẩn với một Thiên Chúa quyền phép cũng sẽ không bao giờ kết thúc, kể cả khi con người đã hoàn toàn no đủ. Nhưng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương, và biểu lộ lòng tin này cách mãnh liệt trong cầu nguyện với thái độ tin tưởng phó thác như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã làm, thì lại luôn có nguy cơ bị nhạt nhòa, ngay cả trong chính Giáo Hội Công Giáo. Lịch sử minh chứng: đã từng có những thời kỳ mà lòng tin vào Thiên Chúa xót thương đã hoàn toàn bị lu mờ ngay trong chính nội bộ Giáo Hội, thay vào đó người ta đề cao và quảng bá một Thiên Chúa công thẳng luận phạt tới mức đáng sợ. Sự phổ biến của học thuyết Giăng-sê-nít hay Thanh Giáo một thời trong suy nghĩ của nhiều tín hữu và giáo sĩ cho thấy điều đó. Lòng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ rất có nguy cơ bị biến mất. May mắn thay, việc quảng bá học thuyết ‘Con Tim’ của thánh Phan-xi-cô Sa-lê (Salesian spirituality), và gần đây hơn, việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa cho thấy niềm tin này đang có dấu hiệu phục hồi. Rất mong lòng tôn sùng này sẽ sớm trở thành một niềm tin chân chính, chứ không chỉ là việc đạo đức bề ngoài…, để rồi, một khi trở lại trong vinh quang Thập Giá, Người sẽ vui mừng thấy niềm tin này đã lan rộng trong Hội Thánh và trên toàn trái đất.
Công việc của tôi, một linh mục của Đức Ki-tô cứu độ và xót thương, chính là thắp lên và chăm sóc cho ngọn lửa niềm tin này bừng sáng nơi tâm hồn nhiều tín hữu!
Lạy Chúa từ nhân, đã có một lần Chúa ngự đến trong giờ chết của con, và may mắn thay lần đó Chúa còn tìm thấy niềm tin này nơi con còn tồn tại chút ít. Xin Chúa tiếp tục phát huy và duy trì trong con, và trong tất cả tâm hồn các Ki-tô hữu, niềm tin vào Thiên Chúa từ ái xót thương; để bất cứ khi nào Chúa đến, cho dầu có đột ngột tới mấy, Chúa vẫn tìm thấy niềm tin này tiếp tục tồn tại, nhất là nơi con, và nơi tâm hồn các giáo dân con phục vụ, hướng dẫn. Xin Chúa tiếp tục củng cố đức tin này trong con. Amen.
CHÚA NHẬT XXix THƯỜNG NIÊN- C
KIÊN TRÌ TRONG CẦU NGUYỆN- Lm. GB. Trần Văn Hào
Tôn giáo nào cũng đề cao việc cầu nguyện. Cầu nguyện là xác lập mối tương giao giữa con người với Thượng đế, giữa thụ tạo với Đấng Tạo thành. Trong Kitô giáo, cầu nguyện không những là bổn phận, nhưng còn là một nhu cầu thiết yếu để tăng triển đức tin. Như nước cần cho cá, hơi thở cần cho các sinh vật, việc cầu nguyện cũng cần thiết để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Các tác giả Tin Mừng cũng nhiều lần thuật lại mẫu gương cầu nguyện nơi Chúa Giêsu. Chính Ngài cũng dạy các học trò phương thức cầu nguyện với Kinh Lạy Cha. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến sự kiên trì trong việc cầu nguyện qua dụ ngôn về một người đàn bà góa đến trước cửa quan để khẩn nài. Vậy, chúng ta phải thực hành việc cầu nguyện như thế nào?
Cầu nguyện với tâm tình con thảo cách đơn thành.
Việc cầu nguyện trong Kitô giáo khác xa với việc cầu nguyện nơi các tôn giáo khác. Sự khác biệt lớn nhất chính là đối tượng. Đấng mà chúng ta cầu khẩn không phải là một vị thần ở tít trên cao, nhưng là một người Cha rất gần gũi và thân tình. Chúa Giêsu đã nói khá nhiều về điều ấy trong cả 4 sách Tin Mừng. Một người con đến thưa chuyện với cha của mình không cần phải nhiều lời, khi người con biết rằng người bố rất yêu thương nó và biêt rõ nó đang cần gì. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một vị quan tòa khó tính hay cáu gắt, nhưng là một người Cha nhân hậu lúc nào cũng dang rộng đôi tay ôm đón chúng ta vào lòng. Vì thế khi đến với Chúa, chúng ta phải loại bỏ sự sợ hãi, nhưng cần đơn thành trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu mà Thiên Chúa hiến trao. Chúng ta cũng cần thâm tín rằng cầu nguyện không phải chỉ là xin xỏ điều này hay điều nọ. Chúa biết rõ chúng ta đang thiếu thốn những gì. Thái độ nội tâm căn bản cần phải có khi cầu nguyện là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa là Cha nhân lành, rất quảng đại và giàu lòng thương xót. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 kể lại một kinh nghiệm mà Ngài không bao giờ quên. Lúc còn nhỏ, Ngài đi tham dự một cuộc hành hương cùng với thân phụ. Giữa một biển người mênh mông, đứa bé đứng dưới đất không nhìn thấy gì. Thấy vậy, thân phụ của Đức Thánh Cha đã đặt Ngài trên đôi vai mình. Ngài cảm thấy rất tuyệt vời. Cũng vậy, khi chúng ta đến với Chúa, Chúa ôm chúng ta trong vòng tay trìu mến. Chúa cũng đặt chúng ta trên đôi vai Ngài. Trong vòng tay yêu thương của Chúa, chúng ta không còn lý do để sợ hãi.
Cầu nguyện với tâm tình phó thác và tin tưởng.
Tại một giáo xứ nọ, người ta tổ chức học hỏi và hội thảo về việc cầu nguyện. Câu hỏi gợi ý được nêu ra là, chúng ta phải có thái độ như thế nào khi cầu nguyện? Một vị đứng lên chia sẻ như sau: “Khi cầu nguyện, chúng ta phải quỳ gối xuống, tay chắp lại để tôn thờ Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta đang đối diện. Đây là thái độ khiêm cung mà Đức Maria đã nêu gương, đặc biệt trong biến cố truyền tin”. Một vị khác nói: “Không đúng. Khi cầu nguyện chúng ta phải đứng thẳng lên, 2 tay giang rộng, đôi mắt hướng lên trời như Moise khi quân đội của ông tiến đánh quân A-ma-lếch (bài đọc 1 hôm nay). Có như thế, Môise mới chiến thắng. Khi mỏi chân và mỏi đôi tay, Moise ngồi xuống, 2 tay buông thõng và quân đội của ông bị thua tan tác”. Cuộc tranh luận khá sôi nổi với nhiều ý kiến trái chiều. Cuối cùng một chàng thanh niên đứng lên trình bày: “Kính thưa quý vị, khi cầu nguyện không biết chúng ta nên đứng hay nên quỳ, đôi tay giang ra hay chắp lại, cặp mắt mở to hướng về trời hay nhắm lại và cúi xuống cách khiêm cung. Quý vị đã tranh cãi khá nhiều. Riêng tôi, tôi đã trải qua một kinh nghiệm cụ thể. Tôi là thợ điện, một lần trèo lên cao để sửa chữa, tôi trượt chân và rơi xuống. Rất may, tôi bám được một cành cây. Hai chân chổng lên trời vướng vào một cành cây khác, đầu chúi xuống đất. Một tay tôi bám chặt vào thân cây, còn tay kia giơ ra vung vẩy để kêu cứu. Trong lúc nguy kịch, tôi đã cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Không biết ở trong tư thế như vậy để cầu nguyện, tôi có đẹp lòng Chúa hay không, nhưng chắc chắn Chúa đã nhận lời tôi, bằng chứng là tôi còn được sống đến ngày hôm nay”. Lời kết luận của chàng thanh niên rất ý nghĩa để chúng ta suy nghĩ. Đến nhà thờ cầu nguyện với quần áo lịch sự và thái độ trang nghiêm sốt sắng là điều rất tốt cần phải làm. Nhưng quan trọng hơn cả là thái độ nội tâm của cõi lòng chúng ta đối với Chúa. Nếu chúng ta đến với Chúa với quần áo sạch sẽ mà tâm hồn lại quá bẩn thỉu, đầy dối gian lọc lừa, thì chúng ta cầu nguyện làm sao được. Chúng ta không thể cầu nguyện với Chúa mà tâm hồn nhét đầy dao găm hay lựu đạn của oán thù, thì những lời cầu nguyện của chúng ta hoàn toàn giả dối và rống tuếch.
Cầu nguyện với tâm tình biết ơn.
Có một bà cụ quê mùa nhưng rất đạo đức. Nhà bà quá nghèo phải đong gạo từng bữa. Một hôm nhà hết gạo, bà không biết xoay sở cách nào, nhưng vẫn thành tâm cầu nguyện xin Chúa ban lương thực hằng ngày. Anh chàng thanh niên bặm trợn nhà kế bên nghe thấy bà cầu nguyện như thế liền lấy một bịch gạo quẳng sang, lúc bà không để ý tới. Khi vừa thấy bịch gạo, bà dâng lời tạ ơn Chúa ngay lập tức. Thấy vậy, chàng thanh niên nói vọng sang: “Bà ơi, không phải Chúa cho bà đâu, bịch gạo của cháu đấy, chẳng có Chúa nào hết”. Nghe nói vậy, bà cụ lại ngước mắt lên trời và cầu nguyện tiếp: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã xui khiến anh chàng Giuđa này đem gạo đến cho con. Chúa có nhiều cách để thi ân. Con xin cảm tạ Chúa.” Tâm tình biết ơn là chìa khóa để chúng ta có thể mở toang cánh cửa của ân sủng. Mọi sự chúng ta có đều là của Chúa. Chúng ta hãy học lấy thái độ khiêm cung của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chứ đừng bắt chước thái độ kiêu căng trịch thượng của ông Pharisiêu. Cũng vậy, người Samari phong hủi sau khi được chữa lành đã quay lại cám ơn Chúa, được Chúa trân quý và xem đó như động thái biểu tỏ đức tin nơi anh ta. Chúa nói: “Hãy đứng dậy mà về, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
Kết luận
Pascal đã nói: “Con người nhỏ bé và yếu ớt như cây sậy. Nhưng chúng ta sẽ trở nên vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện” Xin Chúa giúp chúng ta biết siêng năng cầu nguyện với sự kiên trì và thành tâm như lời Chúa dạy hôm nay.
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN-C
CẦU NGUYỆN LUÔN- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến
Dụ ngôn nầy liên hệ chặt chẽ với đoạn trước bởi chủ đề là Con Người đến lúc nào và như thế nào không ai biết cả (17,22-37); bởi đó phải kiên trì cầu nguyện để giữ vững đức tin cho đến lúc Người đến (18,1.8). Dụ ngôn được trình bày trong các câu 18,2-5; trước là dẫn nhập và mục đích của dụ ngôn (c. 1), sau là lời giải thích và kết luận (cc. 6-8).
Ngay trong câu dẫn nhập, Luca nói ngay mục đích của dụ ngôn sắp được kể ra là “phải cầu nguyện luôn và đừng nản lòng” (c. 1). Chữ “phải”, dei, diễn tả ý muốn của Thiên Chúa (x. 2,49; 4,43; 9,22…). Luca nhấn mạnh nhiều đến việc phải cầu nguyện, nhất là trong những lúc thử thách (x. 22,40.46). Câu kết của dụ ngôn (c. 8) cho thấy mục đích của việc cầu nguyện là giữ vững đức tin cho đến ngày Chúa đến. Trong khi chờ đợi Chúa đến, cầu nguyện là phương thế tuyệt hảo nhất để khỏi mất đức tin.
Ông thẩm phán trong một thành phố (c. 2). Tư cách đạo đức của ông là “không sợ Thiên Chúa và chẳng kiêng nể ai cả”. Người “không kính sợ Thiên Chúa” là người không giữ lề luật của Thiên Chúa (x. Đnl 8,6). Đối lại với ông là những người xuất hiện đầu tiên trong tin mừng Luca: Zacharia (1,13), Maria (1,30), các mục đồng (2:9.10), các môn đệ đầu tiên (5,10). Họ kính sợ Thiên Chúa và đi trong đường lối của Người (x. 1,74-75). Động từ entrepō có túc từ trực tiếp có nghĩa là “tôn trọng” (20,13), “quan tâm”. Thẩm phán nầy “không kính sợ Thiên Chúa và chẳng tôn trọng ai” sẽ được gọi là “bất chính” (c. 6).
Bà goá kiên trì (c. 3). Bà goá thuộc những người nghèo, yếu đuối và không được bênh đỡ (x. 2,37; 4,25; 7,12; 20,47; 21,3-4). Điều bà nài xin là xử cho bà khỏi những bất công do kẻ thù gây nên. Động từ ekdikēo (cc. 3.5), danh từ ekdikēsis (cc. 7.8) có nghĩa là “trả thù”, “trừng phạt”, “bảo đảm sự công bình”. Luca không xác định rõ bà muốn xử cho công bình điều gì, mà chỉ nhắc đến “kẻ thù” gây nên bất công cho bà. Thể hiện tại chưa hoàn thành của động từ “đi đến”, erchomai, cho thấy bà kiên trì lui tới nài xin với vị thẩm phán nầy chưa chấm dứt.
Lúc đầu “trong một thời gian” (c. 4) ông thẩm phán chẳng muốn xử cho bà, vì ông “không muốn”. Ông muốn làm theo ý ông, chứ không theo chức vụ và bổn phận của người thẩm phán. “Sau thời gian ấy”, ông bắt đầu nói với chính mình. Mốc thời gian nầy phân chia hai cảnh của dụ ngôn. Lời mô tả về ông (c. 2) được ông nhắc lại trong lời nói với chính mình (c. 4b) cho thấy quyết định phân xử của ông cho bà goá là do động lực ích kỷ của ông “bà goá nầy cứ quấy rầy mình”, chứ không do một sự kính sợ nào cả. Động từ hypōpiazō có nghĩa là “đấm vào mặt”, “tra tấn”, “đối xử tàn tệ”. Vì lời nài nỉ của bà goá tra tấn ông thẩm phán nên ông phải phân xử cho bà.
Lời giải thích (c. 6-7). Câu chuyện dụ ngôn đã xong. Mệnh lệnh “Hãy lắng nghe” mời gọi chú ý đến điều ông thẩm phán nói để nhận ra cách hành động của Thiên Chúa. Câu 7 giải thích điều nầy: một thẩm phán bất công như vừa được mô tả trong dụ ngôn trên cuối cùng đã phân xử cho bà goá ngày đêm năn nỉ; phương chi Thiên Chúa, Người không lắng nghe những người được tuyển chọn cầu nguyện như Người dạy sao (c. 1)? Vậy người môn đệ không được nản lòng bỏ cầu nguyện cho đến lúc Người đến (x. 11,2). Bà goá được ví như “người được tuyển chọn” dựa trên điểm chung là “cầu nguyện”. Câu kết luận (c.8). Chắc chắn là Chúa đến và sẽ mau đến. Người sẽ phân xử cho những người cầu xin với Người. Điều Người đặt ra là còn tìm thấy đức tin trên mặt đất nữa không. Có mạo từ, chỉ đức tin của người môn đệ Chúa Giêsu.
Khi lo lắng cho sự sống còn của đức tin nơi môn đệ trong khi trông đợi Người đến, Chúa Giêsu đã chỉ cho họ một phương thế hữu hiệu. Đó là cầu nguyện. Vậy chỉ còn một điều lo lắng nơi Người là người môn đệ bỏ cầu nguyện.
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN- C
THẨM PHÁN BẠO NGƯỢC VÀ BÀ GÓA QUẤY RẦY- Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt
Câu nhập đề (c.1) xác định ý nghĩa dụ ngôn: việc cầu nguyện kiên trì, trong các hoàn cảnh thất vọng nhất (pantote: trong mọi hoàn cảnh, dù thế nào đi nữa) không chỉ là một bổn phận hay một nhân đức, mà là một nhu cầu thiết yếu phải là (dei). Phải kiên trì và liên lỉ cầu nguyện, không thoái nhượng, giảm sút, không buông thả (egkakeo). Ngoài Lc với một lần duy nhất dùng chữ đó, người ta chỉ thấy động từ egkakeô nơi Phaolô (Eph 3,13; Gal 6,9; 1Th 3,13; 2Cor 4,1.16). Cách dùng động từ này hầu như luôn có màu sắc cánh chung và Chúa Giêsu đã nhiều lần khuyên bảo kiên trì cầu nguyện như thế ngay sau khi gợi lên cuộc quang lâm của Ngài (Lc 21,36; Mc 13,32-37), nên mệnh lệnh “không buông thả” có một ý nghĩa chuyên môn. Nghĩa là, trong khi chờ ngày Đức Kitô trở lại, đấy là thời thử thách, các môn đệ không được trì trệ hay buông thả việc cầu nguyện. Thay vì chán nản vì lời khẩn cầu xem ra vô vọng, họ phải phấn đấu chống lại mệt mỏi và tiếp tục việc bổn phận ấy chừng nào có thể.
Câu nhập đề này phải luôn qui hướng để hiểu dụ ngôn. Đây không chỉ là lời giáo huấn về việc cầu nguyện nói chung, mà là lòng kiên trì bền chí khi cầu nguyện; sự kiên trì này vừa là thái độ chính yếu của môn đệ trong thời cánh chung, vừa cũng là môt thử thách cam go của thời sau hết. Đó là điều dụ ngôn muốn xác quyết trước hết: chiếm hữa sự công chính, nghĩa là sự giải thoát dành cho các người được chọn lúc Chúa tái giáng; đoạn nói đến lý lịch của các thính giả: “Ngài nói với họ”, với chính các môn đệ đã từng nghe các giáo huấn trước kia; sau cùng câu kết luận gợi lên việc Con Người trở lại (c.8) và kết thúc bằng việc tiên báo ngày Ngài đến lần cuối (17,22-24). Không thể hiểu sự đối chọi giữa lời cầu xin bền bỉ của bà góa và tính ù lì của vị thẩm phán, nếu không chú ý đến chủ đề cánh chung này. “Dụ ngôn này liên hệ chặt chẽ với những điều trước, nghĩa là với các khó khăn các tín hữu sẽ gặp, và với việc Con Người đến: (Lagrange). Nhiều tác giả cũng đồng ý như thế: Godet, Zahn, Rengstorf, Schlatter, Oesterley, Creed, Vaganay.
Khi được các người biệt phái hỏi về thời gian Vương quốc Thiên Chúa sẽ đến (17,20), Chúa Giêsu trả lời biến cố này không thể quan sát được, vì Vương quốc có bản tính thiêng liêng. Ngay sau đó, Ngài quay lại nói với các môn đệ về những điều kiện của việc tái hiện, vừa thình lình và nhanh như chớp. Quả thực, sau khi Ngài ra đi, các tín hữu phải sống trong mọt thời kỳ bị kìm kẹp, đầy khổ hình, nên đã khẩn khoản van nài Đức Kitô vinh hiển tỏ mình ra cách khải hoàn chiến thắng, và đến can thiệp bênh đỡ họ: “Các ngươi ao ước thấy được một ngày của Con Người mà thôi nhưng cũng không thấy được ” (17,22). Ước nguyện sôi nổi được giải phóng khỏi người hung dữ được nhận lời. Chúa sẽ tỏ mình ra cách hữu hình. Do đó phải chờ đợi trong đức tin cho đến ngày cuối cùng, là ngày Ngài sẽ xuất hiện sáng láng, “như chớp lòe từ phương trời này đến phương trời kia” (17,24). Lúc đó, có nhiều người vẫn ngủ mê, sống cách vô tư, không bận tâm đến đời sống tôn giáo, tự cho mình đã được an toàn, giống như ngày hôm trước xảy ra lụt hồng thủy; và ngày tàn phá Sôđoma (17,26-30). Vì ngày quang lâm đến bất ngờ, nên các môn đệ được khuyên nhủ phải luôn sẵn sàng (17,31-33). Vì cũng như các đại họa trước, Con Người sẽ đến thình lình, không ngờ trước được, do đó quá chậm trễ, khi đến giây phút cuối cùng mới nghĩ đến những dự phòng cần thiết để được cứu thoát. Bài học thật rõ ràng: trái với lần xuất hiện thứ nhất, tiệm tiến và thấy được, lần tái hiện sẽ thình lình và nhanh như chớp; nhưng vì còn lâu mới đến, nên sẽ đến bắt chợt từng người. Do đó phần đông không còn nghĩ đến ngày đó nữa, và đắm chìm trong trạng thái hôn mê thiêng liêng. Ngay những kẻ đã từng kêu xin Chúa đến cứu giúp xem ra quá thất vọng và trong tâm khảm không còn niềm ao ước thuở ban đầu là nhìn thấy ngày của Con Người nữa. Chính để dạy về việc phải luôn nhiệt tâm, phải cầu nguyện không ngừng – Khi Chúa chậm đến và xem ra giả điếc trước các lời kêu xin – mà Ngài đưa ra dụ ngôn người thẩm phán bạo ngược và bà góa kiên trì này.
Dụ ngôn đã vắn tắt phác họa chân dung con người ích kỷ.Nếu y làm việc thiện, đó không phải vì y quyết định trở nên tốt, nhưng một tình cớ nào đó đã may mắn tạo nên sự trùng phùng giữa việc thiện người khác và ích lợi riêng tư của y: trong trường hợp đang gặp, khi minh xử cho bà góa cứng đầu này, chỉ vì y muốn được yên thân.
So sánh một người như thế với Cha trên trời là một điều không thể được. Dụ ngôn sẽ làm ta khó chịu, nếu so sánh trực tiếp như thế; nhưng nếu được xem như một chủ đề tương phản (thème à contraste), dụ ngôn thật tuyệt diệu và ý nghĩa. Hình ảnh đáng ghét của người ích kỷ, bây giờ trở nên châm biếm: “Hỡi các thính giả, đâu là lý luận của các người, các người chấp nhận một vị thẩm phán bạo ngược ích kỷ có thể vui lòng minh xử cho một người không liên hệ gì với y, còn các người lại nghi ngờ Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại có thể từ chối lời cầu xin của các người được chọn sao?”. Từ câu 7 trở đi, vị thẩm phán bạo ngược là đề tài tương phản. Chính Chúa Giêsu đưa ra phản đề: hãy nghe vị thẩm phán bất lương phán. Y nói gì? Ta sẽ minh xử cho bà, hầu bà để ta yên thân. Còn Thiên Chúa thì không giải oan minh xử sao? Cách đặt câu hỏi như thế này là để làm cho câu phản đề được mạnh hơn. Để đối chiếu với vị thẩm phán chỉ yêu chính mình, không sợ Thiên Chúa cũng như loài người, đối với y, bà góa chỉ là một người quấy rầy, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người cha trên trời vô cùng nhân từ, luôn lo lắng cho kẻ được chọn, luôn kêu cầu Ngài ngày đêm. Sự kiên nhẫn cầu nguyện được qui chiếu với tính cứng đầu của bà góa. Cũng như bà ta, các môn đệ sẽ bị ngược đãi trong thế giới, phải chịu những bất công, không được ai bênh vực chở che. Họ chỉ có Thiên Chúa lưu tâm đến. Nếu họ bền chí tiếp tục cầu nguyện không sờn lòng. Vị thẩm phán tới cao sẽ không thể làm ít hơn “vị thẩm phán bất công và bạo ngược”.
Sự kiên trì đầy công nghiệp này, điều kiện để được nhậm lời, giả thiết là “trong một thời gian dài” Thiên Chúa kiên nhẫn và lặng thinh, xem ra bất màng đến con cái mình. Do đó phải hiểu câu 7b: kai makrotthumei ep autois, là câu đã được giải thích nhiều cách. Một số tác giả đã nối kết hai động từ của câu: “Và Thiên Chúa chẳng minh xử cho các kẻ được chọn hằng kêu cầu Ngài ngày đêm và Ngài lại trì trệ với họ sao?”.
Thực ra, cần phải lưu ý trước tiên đến thì của các đông từ, nó không cho phép nối thì hiện tại makrothumei với subonctif aoriste pôiêsêi, nhưng đòi nối kết lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa với tiếng van nài liên lỉ và hiện thực của các môn đệ. lúc ấy, câu 7 lập lại 2 chủ đề của dụ ngôn: một đàng, cầu nguyện không bao giờ buông thả. Đàng khác, sự trì hoãn của vị thẩm phán giả điếc làm ngơ không chịu giải quyết vấn đề. Mệnh đề cuối cùng, thay vì là câu nói lên một tư lợi phụ thuộc, đã xác định tương đồng giữa vị thẩm phán và Thiên Chúa: cả hai đều trì hoãn, dù có tiếng kêu cầu.
Makrothumein là động từ mà các bản papyrus không hề dùng, các bản văn cổ điển ít xử dụng, nhưng được thánh kinh dùng nhiều. Trong Tân Ước nó có nghĩa “kiên nhẫn chịu đựng, bao dung”, và có ý ám chỉ lòng kiên nhẫn – tính bao dung của Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người. Đó là một ý chí kiên trì hằng muốn tha thứ, thay vì giận dữ tội nhân, tìm thời cơ và chuẩn bị các dịp thuận tiện để giúp tôi nhân ăn năn hoán cải. Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là một trong những thành tố hữu hiệu nhất để thực hiện ơn cứu độ phổ quát (Rm 2,4; 9,22; 1Tm 1,16). Từ đó, sự bất động hay bất can thiệp của Thiên Chúa, thay vì được coi như là dấu hiện Ngài tỏ ra thờ ơ lãnh đạm, lại là bằng chứng lòng nhân từ của Ngài; không có gì đáng tức giận, như bà góa đã không tức giận trước sự chậm chạp và chống đối của thẩm phán. Chính trong thời gian trì hoãn này mà ta phải tiếp tục bền chí cầu xin, không sờn lòng, vì kinh nguyện nằm trong chương trình kiên nhẫn của Thiên Chúa.
Cần phải trích dẫn trọn vẹn thần học cánh chung của 2P 3,9-15: “không phải Chúa chậm trễ giữ điều đã hứa (lời Chúa Giêsu hứa sẽ trở lại) như có kẻ cho đó là trễ tràng, nhưng Ngài xử khoan dung đối với anh em (makrothumei), bởi không muốn ai phải hư đi, nhưng là hết thảy tìm đường hối cải. Còn ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm; trong ngày đó các tầng trời xèo xèo biến sạch; ngũ hành cháy rụi; đất và các công trình trên đất bị bắt gặp… Vì muôn vật sẽ bị tiêu tan như thế, thì anh em phải nên người thế nào về đức hạnh thánh thiện, và lòng đạo đức trong sự ngóng đợi và cố hối mau cho ngày Thiên Chúa chóng tỏ hiện, ngày sẽ làm các tầng trời bốc cháy tiêu tan và ngũ hành bị thiêu… Trời mới và đất mới đó là điều ta ngóng đợi chiếu theo lời hứa của Ngài… Bởi thế, trong lúc chờ đợi, anh em hãy cố gắng để nên tinh toàn vô tì tích, mà sống trong bình an trước mặt Ngài, vì hãy nghĩ rằng lòng khoan dung kiên nhẫn (makrothumia) của Chúa chúng ta là ơn cứu rỗi của anh em.
Vậy giờ đây, việc Thiên Chúa trì hoãn đã được biện minh trong dụ ngôn vị thẩm phán ù lì. Vâng, Thiên Chúa trì hoãn; đúng là Ngài không can thiệp, dù biết bao,lời kêu van đến Ngài; và chính vì thế mà câu 7b kai makrothumei ep autois nhấn mạnh. Chữ kai có thể có nghĩa concessive, tương tự như ei cai của câu 4: “dù rằng”, hay như kaitoi, kaiper, nhưng đúng hơn nên mặc cho nó nghĩa adversative, đã được Tân Ước dùng nhiều (Lc 13,17; 10,24; Mc 4,17; Gio 7,19; 16,32; 20,29; Cvsđ 7,5…) và tương đương với chữ Waw trong ngôn ngữ Sêmit. Dù sao, chữ kai nói lên sự trùng phùng giữa hai hoạt động và đồng nghĩa với “thực vậy, thực ra” (Cvsđ 22,28; 1Th 2,19; 1Cor 14,19; Col 3,8; 4,3). Phải chăng Thiên Chúa sẽ không minh xử cho các người được chọn mà Ngài hằng yêu mến họ và họ hằng kêu cầu Người, trong lúc thực ra Ngài trì trệ việc nhận lời, phải chăng Ngài điếc? Nói các khác, Chúa xác quyết tính cách hiệu nghiệm của lời cầu nguyện bền chí (dù xem ra vô hiệu) như gương cầu nguyện của bà góa.
Đây là một mầu nhiệm. Theo thói quen, Chúa Giêsu không minh giải thêm nhưng tái xác quyết lời trấn an: “Ta bảo thật các ngươi, Ngài sẽ kíp minh xử cho họ” (c.8a). “Ta bảo thật các ngươi” là tiếng mời ta nghĩ ngay đến uy quyền của Chúa. Phải tin, dù bề ngoài có vẻ thất vọng: quả thực, Thiên Chúa trì hoãn, nhưng ta bảo đảm cùng các ngươi, ngày kia Ngài sẽ minh xử, như vị thẩm phán này đã minh xử.
Vị thẩm phán này đã bất ngờ tự ý quyết định xử án, không có gì tiên báo ông sẽ can thiệp cả.Thiên Chúa cũng sẽ minh xử một cách tương tự như thế, en tachei. Thành ngữ này nói lên tính cách gấp rút, vội vã nhưng cũng có nghĩa thời gian sắp hành động: sắp đến; hay chỉ cách thức hành động: hành động “bất ngờ”, “thình lình”, như cạm bẫy đột xuất xảy đến, gây nên kinh ngạc, sửng sốt. Chính trong nghĩa cuối cùng này mà ta phải hiểu thành ngữ en tachei mà Lc thường dùng ở 3 chỗ khác nữa (Cvsđ 12,7; 22,18; 25,4).
Vì thế trong dụ ngôn này, en tachei không nhằm nói lên việc Thiên Chúa sắp can thiệp, vì như thế là đi ngược lại với giáo huấn minh nhiên của dụ ngôn cũng như lời xác quyết trì trệ của câu 7a, nhưng nói lên cách Ngài sẽ can thiệp: thật bất ngờ và thình lình để cứu rỗi các kẻ đã được chọn. Thiên Chúa có thể trì hoãn cho đến lúc nào Ngài muốn ra tay hành động; nhưng khi Ngài thể hiện công bằng và quyền năng của Ngài (công bằng và quyền năng mà con cái Ngài hằng kêu xin từ lâu), Ngài không thể hiện cách từ từ, tiệm tiến, nhưng cách nhanh lẹ khôn tả: “Trong một nháy mắt” hay “như chớp từ phương trời này đến phương trời kia” (Lc 17,24), như Ngài đã làm khi xảy ra lụt hồng thủy và khi thiêu đốt Sodôma (Lc 17,26-33).
Tuy nhiên có sự khác giữa ngày quang lâm và các đại họa đó.Noê, “người công chính” (2Pet 2,5) là một tâm hồn mạnh tin, điều này đã cứu ông và gia nhân (Dth 11,7); nhưng vào thời sau hết và vì các cuộc bách hại, đức tin sẽ biến mất (2Th 2,3), đức ái của một số đông sẽ nguội dần (Mt 24,12). Sau một thời gian thinh lặng, Chúa Giêsu ưu sầu gợi lên việc chối đạo tổng quát: “Nhưng khi Con Người đến, hỏi còn thấy đức tin trên trái đất này nữa chăng?” (c.8b). Những kẻ được chọn, nhờ lòng đạo đức sốt sắng của họ, là những kẻ phải cố hối cho ngày Đức Kitô tái giáng mau đến (2P 3,12), sẽ bị thử thách đến nỗi lòng kiên nhẫn của họ sẽ bị ảnh hưởng và Thiên Chúa phải rút ngắn các ngày đó, “bằng không, sẽ không ai được cứu thoát” (Mc 13,20.22). Chính vì thế mà Chúa Giêsu khuyên môn đệ mình đừng buông thả, nhưng phải tiếp tục cầu nguyện liên lỉ dù gặp hoàn cảnh nào, như bà góa kia luôn bền chí trước vị thẩm phán ù lì: trong thời gian (có vẻ khá lâu) giữa việc Đức Kitô ra đi và trở lại (x.Lc 19,12), “phải cầu nguyện liên lỉ, chớ nhàm chán” (c.1). Vì đó là ơn cứu rỗi.
KẾT LUẬN
Sau khi dài dòng nhắc đến việc Chúa Cứu Thế sẽ đến cách khải hoàn để báo thù, và sau khi vấp phải sự kiên nhẫn và im lặng của Thiên Chúa, con người sẽ vô cùng ngạc nhiên về ngày quang lâm. Nhưng sự kiên nhẫn của các người được chọn luôn luôn cầu nguyện và không hề buông thả, phải luôn phù hợp với lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa. “Các ngươi cứ bền đỗ, mới cứu vãn được linh hồn các ngươi” (Lc 21,19).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Chúa Giêsu vừa loan báo cho các tông đồ những biến loạn mà nhân loại sẽ gặp khi Ngài hiển hiện vào ngày thế mạt.Vì biến cố này trì trệ và sự kiên nhẫn của người tín hữu sẽ bị ảnh hưởng. Chúa Giêsu phán dạy dụ ngôn này nhắm giúp họ có một thái độ thích hợp. Đó là điều chúng ta vừa đọc được.
Tác giả phúc âm xác định mục đích câu chuyện, là khuyến khích chúng ta “liên lỉ cầu nguyện, chớ nản lòng”.
Và Chúa Giêsu kể trong thành nọ có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa và khinh thường mọi người. Một bà góa đến xin xử kiện, ông từ chối, nhưng bà này, vì không thể “chạy chọt” cho ông, nên nhờ đã gan lì mà được điều bà xin.
Chúa Giêsu kết luận là nếu vị thẩm phán đã minh giải cho bà vì bà làm “ông điên đầu”, phương chi Cha trên trời sẽ nghe và minh giải cho những người được chọn, sau khi đã dành nhiều thì giờ để tội nhân có thể ăn năn trở lại.
Dụ ngôn nói đến kỳ hạn Thiên Chúa dùng để nhận lời cầu xin của chúng ta.Sâu xa hơn nữa, dụ ngôn đặt câu hỏi: lời cầu nguyện được chấp nhận, có nghĩa gì? Khi xin Thiên Chúa một điều gì rõ ràng, ví dụ, bánh hàng ngày, chúng ta có biết tất cả ý nghĩa sâu xa tiềm ẩn trong điều chúng ta xin không? Chúng ta có biết Thiên Chúa chấp nhận đến mức độ nào không, vì Ngài luôn nhậm lời chúng ta cầu xin? Chúng ta chỉ là những con người sống trong giới hạn thời gian, luôn phân chia thành giờ, ngay hôm nay, ngày mai. Chúng ta không muốn ước vọng kinh nguyện mình ngày mai mới được thực hiện: mà muốn được liền, ngay tức khắc. Nhưng Thiên Chúa thấy chúng ta cách khác, vượt quá thời gian và không gian, Ngài nhận lời chúng ta nhưng luôn để ý đến những nhãn giới của số mệnh chúng ta bây giờ và tương lai. Thiên Chúa vượt quá “cái tức khắc”. Do đó hãy biết điều này:
a/ Thiên Chúa luôn nhậm lời chúng ta, tại sao? Vì Ngài là Cha vô cùng nhân từ. Xác tín việc Thiên Chúa luôn nhậm lời chúng ta là một trong những cột trụ vững chãi nhất của cuộc sống Kitô hữu. Nghi ngờ điểm này là phạm đến đức cậy. Do đó, khi cầu nguyện chúng ta đừng nhiều lời, vì TC biết trước và rõ hơn chúng ta những điều chúng ta xin. Thiên Chúa, Cha chúng ta luôn luôn sẵn sàng ban cách dư thừa điều chúng ta cần; phúc âm luôn xác quyết như thế. Nhưng tại sao phải cầu xin? Việc cầu xin có lợi gì không?
b/ Lợi ích của việc cầu nguyện. Vì tôn trọng tự do của chúng ta Thiên Chúa không áp đặt trên chúng ta những ân huệ của Ngài, Ngài đáp ứng các ước vọng của chúng ta. Lòng quảng đại của Ngài thỏa mãn vượt quá lời chúng ta cầu xin, nhưng Ngài muốn chúng ta cầu xin. Tại sao Ngài thường có vẻ trì hoãn đáp lời chúng ta? Vì lòng ước muốn càng nung nấu, lời cầu xin càng bền chí, tâm hồn và con tim chúng ta càng rộng mở hơn. Việc cầu nguyện trước hết có ích cho chính chúng ta. Hơn nữa, khi trì hoãn ban ơn, chẳng phải là vì Thiên Chúa muốn tự hiến chính Ngài đó sao?
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN- C
THIÊN CHÚA SẼ MINH XÉT- Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Trong cuộc đời, khi những gian lao khốn khó xảy đến, chúng ta chạy đến Thiên Chúa để cầu xin Ngài cứu giúp; các người khác thì cũng vậy, chạy đến Trời, đến Phật hay một vị thần linh nào đó để cầu xin.
Nhiều người đã được ơn thoát khỏi hiểm nguy khốn khó. Tuy nhiên nhiều người khác lại thấy mình chẳng được ơn ích gì cả. Họ cũng kiên trì cầu nguyện, họ cũng đã cầu xin lâu bền mà vẫn chẳng thấy được ơn. Những điều họ xin nhiều khi rất là chính đáng nhưng đã không được đáp trả. Họ xin cho khỏi bị bóc lột áp bức, bất công; xin cho được cơm bánh, khỏi nghèo đói nhưng vẫn không thấy được.
Sáng ngày 16/10 vừa qua (2019), Ngày Lương thực Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gởi một bức thư đến Liên Hiệp Quốc. Có những đoạn ngài viết:
“Ngày Lương thực Thế giới vang vọng hàng năm với tiếng khóc của rất nhiều anh em chúng ta, những người tiếp tục chịu những bi kịch về đói kém và suy dinh dưỡng.”
“Thật tàn nhẫn, không công bằng và nghịch lý … trong khi có những khu vực trên thế giới thực phẩm bị lãng phí, vứt đi, tiêu thụ quá mức hoặc dùng vào các mục đích khác”.
Chúng ta hãy thử suy nghĩ xem: Phải chăng những người bị nghèo đói đó đã không cầu nguyện? Sao Chúa không trả lại công bằng cho họ, cứ để mà Điều Đức Giáo Hoàng nói là: Thật tàn nhẫn, không công bằng và nghịch lý…?
Phải chăng những người nghèo đói, những người bị áp bức bất công đó, đã không kiên trì cầu nguyện, hay là họ không có đủ đức tin?
Chắc chắn là không. Có thể họ đã cầu nguyện ngày này qua ngày khác với lòng tin, nhưng họ vẫn không được nhận lời!
Quả thật là khó hiểu, vì có cái gì đó không ăn khớp với nhau giữa dụ ngôn và thực tế! Những khó hiểu này, đòi chúng chúng ta phải tìm hiểu kỹ hơn về dụ ngôn Chúa Giêsu đã dạy.
Có một số chi tiết trong dụ ngôn khiến chúng ta phải để ý. Bà góa đã xin điều gì? Bà đã không xin một ân huệ, không xin có cơm bánh hằng ngày, không xin được lành bệnh, như kẻ mù xin được thấy, kẻ điếc xin được nghe, người câm xin nói được… mà bà chỉ xin được vị quan tòa “minh xét” vì bà đang bị đối phương hãm hại.
Bà này là một bà góa, một người bé nhỏ trong xã hội, một kẻ thấp cổ bé họng. Bà chỉ xin được xét xử công bằng trước những bất công của cuộc đời, vì bà đang bị đè bẹp trước những áp bức bất công.
Rồi chúng ta hãy nhìn về ông quan tòa. Chúa Giêsu gọi ông là vị quan tòa “bất chính”. Ông cũng kiêu hãnh, tự coi mình là người chẳng kính sợ Thiên Chúa và chẳng coi ai ra gì. Thế mà cuối cùng lại chịu xét xử cho bà góa. Ông đã làm một điều mà ông không muốn làm, chỉ vì bà ta cứ quấy rầy, làm ông nhức đầu nhức óc. Ông nghĩ rằng xử đi cho xong chuyện.
Chắc chắn rằng, Chúa Giêsu không có ý mô tả Thiên Chúa giống như ông quan tòa, nhưng ngài muốn nhấn mạnh đến sự kiên trì cầu nguyện và khẳng định Thiên Chúa sẽ “minh xét” cho những kẻ Ngài đã “tuyển chọn”, ngày đêm hằng kêu cứu đến Ngài. Một người bất chính xấu xa như ông quan tòa kia mà còn chịu nghe lời van xin, huống chi là Thiên Chúa lại không nghe lời kêu xin của những người Ngài đã tuyển chọn.
Tìm hiểu dụ ngôn tới đây, ta vẫn thấy khó hiểu cho những trường hợp người ta đã kêu xin mà vẫn không thấy nhận lời. Kẻ nghèo đói vẫn cứ nghèo đói, kẻ bị áp bức vẫn cứ bị áp bức. Cường hào ác bá sao vẫn cứ sống phây phây…! Không thấy Chúa minh xét đâu cả!
Một đàng Ngài nói sẽ minh xét cho chúng ta, đàng khác thì chúng ta lại không thấy được minh xét. Sự trai trái như vậy, có thể làm cho chúng ta không tin vào Chúa nữa. Vì vậy, không lạ gì, ngay sau dụ ngôn Chúa Giêsu nói thêm: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng”?
Và ở câu trước đó, Chúa Giêsu nói: “Lẽ nào Ngài bắt họ chờ đợi mãi?”. Những chữ Chúa Giêsu nói ở cuối dụ ngôn: “kẻ Người đã tuyển chọn”, “chờ đợi”, “Con Người ngự đến” cho chúng ta thấy dụ ngôn này được đặt vào bối cảnh của ngày cánh chung, của ngày tận thế, ngày mà thế gian sẽ qua đi và Nước Thiên Chúa sẽ đến. Đây chính là điều chúng ta phải chú ý đến để hiểu toàn bộ dụ ngôn.
Trước ngày cánh chung, hay tận thế, các tín hữu, những người được Thiên Chúa “tuyển chọn”, sẽ phải chịu những bất công, những bách hại. Những điều này không chỉ xảy ra vào thời các Tông đồ mà còn vào mọi thời, mọi nơi. Các Kitô hữu cần phải kiên trì cầu nguyện trước những gian nan thử thách, khi bị bách hại, khi bị đối xử bất công. Các Kitô hữu phải tin tưởng chắc chắc rằng Thiên Chúa sẽ minh xét cho họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại không minh xét cho chúng ta ngay ở đời này, nếu có thì cũng ít khi, vì những sự ở đời này cũng sẽ qua đi, nhưng Ngài sẽ minh xét cho chúng ta ở đời sau, một đời sống hạnh phúc vĩnh cữu, tồn tại mãi mãi.
Chính Đức Giêsu, một con người, con của Bà Maria và Ông Giuse, cũng là người được Thiên Chúa “tuyển chọn”, đã bị bách hại, bị kết án bất công, chịu chết, chết nhục nhã trần truồng trên thập giá. Chắc Đức Giêsu cũng đã cầu xin tha thiết với Thiên Chúa là hãy minh xét cho Ngài; và Ngài cũng tin tưởng mạnh mẽ rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời. Và quả thật, Thiên Chúa đã nhận lời, đã cho Ngài Phục Sinh vinh hiển và đã tôn vinh Ngài.
Mỗi người chúng ta cũng là những kẻ được Thiên Chúa “tuyển chọn”, hãy noi gương Đức Giêsu Kitô, là hãy kiên trì cầu xin và tin tưởng vào sự “minh xét” của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN-C
CẦU NGUYỆN VỚI NIỀM TIN SẮT ĐÁ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Ngày 17/09/1789, người ta thấy một bà cụ già đi cạnh một tù nhân đang bị điều ra pháp trường. Bà cụ hết sức cầu nguyện, an ủi, khuyến khích con can đảm chịu chết vì đạo. Khi đầu con bị chém rơi xuống đất, bà mẹ bình tĩnh đến trước mặt quan tòa nói: Bẩm quan, khi con tôi còn sống thì thuộc quyền quan, nay con tôi đã chết, xin quan cho tôi được lãnh xác mang về chôn cất, hay ít nữa là được chiếc đầu. Quan truyền lính trao cho bà chiếc đầu. Bà cụ nhẹ nhàng lấy vạt áo bọc lấy đầu con. Đó là chiếc đầu của thánh tử đạo Linh mục Emmanuel Triệu.
Nhờ đâu ở thời sơ khai của Đạo Công Giáo Việt Nam, một Bà cụ quê mùa, mù chữ đã bình tĩnh, can đảm, sáng suốt dậy dỗ con được như vậy? Phải chăng chính là nhờ sự cầu nguyện với lòng tin sắt đá của bà đã biết dậy con mến Chúa và hiến dâng con làm Linh mục cứu các linh hồn và được ơn phúc làm thánh tử đạo.
Bà Mẹ Thánh Triệu không nài xin quan tòa minh oan cho con, nhưng bà đã cầu nguyện với niềm tin kiên trì sắt đá hơn cả bà góa xin quan tòa xử cho bà. Đây là điều Đức Giêsu muốn nhấn mạnh trong Tin Mừng hôm nay.
Sự hiệu nghiệm do lời cầu nguyện với niềm tin bền vững được bày tỏ qua câu chuyện giữa hai nhân vật điển hình: Bà góa với ông quan toà. Theo đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu muốn so sánh chúng ta với bà góa, và cực lắm Người phải so sánh Thiên Chúa với quan tòa.
Ông quan tòa được mô tả là người chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. Chẳng kính sợ Thiên Chúa có nghĩa là ông vô đạo, vô lương tâm, coi trời đất bằng không. Do đó, ông vô trách nhiệm, muốn làm gì thì làm, muốn bỏ thì bỏ. Muốn xử ai theo ý ông thì xử. Ông chẳng coi ai ra gì, tức là ông là nhất, chẳng sợ cấp trên, chẳng nể cấp dưới. Chẳng ai bảo được ông, ông mặc sức độc tài, hoành hành, tác yêu, tác quái. Đó là hạng quan tòa bất công, bất nhân đã rất ngạo ngược.
Ông khác xa Thiên Chúa một trời một vực. Thiên Chúa là Đấng công minh chính đại, xét xử thưởng phạt vô cùng công bằng. Thiên Chúa lại rất nhân từ, rất thương xót mọi người, luôn luôn bênh đỡ những kẻ bé mọn kêu cầu Người. Trước một Thiên Chúa công minh và từ bi nhân ái như thế, tại sao chúng ta không biết tha thiết cầu khẩn Người?
Có lẽ chúng ta đối với Thiên Chúa còn kém quá xa bà góa đối với ông quan tòa. Bà góa là hạng người thân phận hẩm hiu, xấu hổ, cô thế, cô thân, luôn bị kẻ khác đàn áp khốn khổ. Bà quá nghèo túng chẳng có gì đút lót cho quan tòa, nhưng bà có thái độ rất đáo để, rất kiên trì, rất cương quyết. Bà tin chắc cứ kêu nài, cứ van xin, cứ quấy rầy, thế nào quan tòa cũng phải chịu xét xử. Ông không xử vì thương bà, không sợ ai, nhưng ông phải sợ sự quấy rầy. Bà không để cho ông được yên lúc nào, không để ông rảnh rỗi ăn chơi, buộc ông phải đau đầu, nhức óc, ông muốn khỏi khổ với bà, ông phải xử cho xong. Xong ở chỗ cho bà phải thắng kẻ thù bất công, vì bà không thể để cho kẻ thù ức hiếp bà. Đó là lý do chính đáng thúc đẩy bà phải kêu nài tòa xử cho bằng được.
Đối với Thiên Chúa, thân phận của chúng ta được ưu đãi hơn nhiều thân phận của bà góa đối với quan tòa. Chúng ta không bị cô thế, cô thân như bà góa, vì chúng ta có Đấng trung gian là Đức Giêsu cứu giúp chúng ta trước mặt Chúa Cha. Người đã thương yêu hy sinh chịu chết để cứu chuộc chúng ta, tuyển chọn chúng ta làm con Thiên Chúa. Bà góa cần minh oan thế nào, thì chúng ta phải khẩn thiết cầu nguyện để Chúa cứu chữa chúng ta khỏi tay ba thù hơn thế. Ba thù đó là ma quỷ, thế gian và các dục vọng xấu xa, chúng luôn luôn hãm hại chúng ta rất khủng khiếp như Thánh Phêrô nói: “Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr. 5, 8). Chúng ta muốn sống đời đời, chúng ta phải siêng năng cầu nguyện kiên trì với lòng tin sắt đá thì “Thiên Chúa, nguồn mọi ân sủng, là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô, sẽ cho anh em nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường”. (1Pr. 5,10).
Phải kiên cường cầu nguyện như mẹ của Thánh Emmanuel Triệu mới giải thoát con mình khỏi sợ hãi gươm chém và anh dũng hiên ngang ra pháp trường để lãnh triều thiên vinh quang tử đạo.
Phải kiên trì cầu nguyện suốt 20 năm trường như bà thánh Monica, Chúa mới ban cho đứa con tội lỗi, lạc giáo trở về làm thánh Giám mục Tiến sĩ Hội thánh.
Một đại chủng sinh đã viết: “Con lấy làm vinh dự sống trong gia đình nghèo hèn, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh mì và thịt, họa may đôi ba lần trong một năm. Tuy gần 20 đứa con lớn bé đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn với chúng con”. Bà mẹ đó chính là mẹ Đức Giáo Hoàng Gioan 23, một vị Giáo Hoàng vĩ đại của hòa bình, được cả thế giới mến phục, được thưởng Nobel Hòa Bình, và là Giáo Hoàng của Công đồng Vatican II vĩ đại. Nhờ đâu một bà mẹ quê mùa, nghèo khó đã biết dậy dỗ con nên người vĩ đại như vậy: Thưa chính là nhờ cầu nguyện với niềm tin sắt đá.
Liệu bây giờ, Chúa còn thấy được lòng tin kiên trì cầu nguyện nơi chúng ta nữa không?
Lạy Chúa, xin cho con mạnh bạo thưa với Chúa rằng: Chúng con vẫn còn lòng tin kiên trì cầu nguyện đó, nhưng xin Chúa luôn luôn nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con.
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN- C
KIÊN TÂM- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Wilma Rudolph bị bạo bệnh ngay từ lúc mới sinh. Cô là một đứa trẻ sinh non thiếu tháng, bị viêm phổi, cảm hồng chẩn và bị bại liệt. Bệnh bại liệt làm cho một chân bị teo cơ và bàn chân mang tật. Tới lúc 11 tuổi, Wilma chân đi khập khễnh bị niềng bởi miếng kim loại. Tại nhà, cô bé xin chị coi chừng, trong khi cô thực tập bước đi không mang vật niềng. Cô bé tập tành mỗi ngày, nhưng sợ rằng cha mẹ của cô khám phá ra việc cô đang làm và có thể ép buộc cô phải ngưng. Cuối cùng, cảm thấy có lỗi. Cô trình bày mọi sự việc đang diễn tiến, bác sĩ qúa ngạc nhiên. Tuy nhiên, ông cho phép cô tiếp tục thực tập nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn. Dù thế nào đi nữa, câu truyện rút ngắn lại. Wilma tập bước đi cho tới khi cô bé đã rời bỏ đôi nạng vĩnh viễn. Cô bé tiến bộ trong việc tập chạy. Khi cô lên 16 tuổi, cô đã thắng giải huy chương đồng trong cuộc chạy đua tiếp sức ở Melbourne Olympics. Bốn năm sau, tại Rome Olympics, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử thắng ba huy chương vàng môn điền kinh. Cô trở về với băng ghi dấu được đón chào tại Hoa Kỳ và gặp riêng tổng thống Kennedy và nhận Giải Thưởng Sullivan (Sullivan Award) như vận động viên nghiệp dư hàng đầu của quốc gia.
Trong cuộc lữ hành về Đất Hứa, dân Do-thái gặp nhiều bước gian truân cả đối nội lẫn đối ngoại. Đối đầu gian khó cả tinh thần lẫn thể chất. Thiên Chúa thanh luyện lòng dân qua rất nhiều biến cố khó khăn. Họ lo lắng về nơi ăn chốn ở và sự an toàn cuộc sống. Dân sống chết với cuộc sống bấp bênh lang thang trong hoang địa. Đi qua các vùng dân cư ngoại bang, họ phải tranh đấu để sống còn. Có nhiều nhóm dân thù nghịch đã dấy lên gây chiến với họ. Người Amalec đã đưa quân chinh phạt Israel: Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim (Xh 17, 8). Ông Môisen đã phải cầu khẩn với Thiên Chúa suốt ngày. Ông giang tay kiên tâm cầu nguyện, luôn đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa để cầu xin cho dân thắng trận: Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế (Xh 17, 11). Ông Môisen và dân chúng một lòng kiên trì cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Quyền phép của Chúa thức hiện nhãn tiền qua từng giây phút.
Môisen đã kết hợp lòng trí một cách rất chân thành với Thiên Chúa Giavê. Ông khẩn cầu cùng Thiên Chúa trong mọi bước đường sướng khổ. Chúa đã dùng ông như khí cụ dẫn đưa Dân riêng ra khỏi Ai-cập để vào miền Đất Hứa. Chương trình cứu độ tiếp tục trải dài suốt dọc lịch sử của Dân Do-thái cả mấy ngàn năm. Đôi khi chúng ta tự hỏi, tại sao Thiên Chúa chuẩn bị chờ đợi một thời gian qúa dài để đón nhận Đấng Cứu Thế xuống trần? Chúng ta không thể nào hiểu thấu ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu đi vào thời gian và không gian hữu hạn. Thiên Chúa luôn kiên trì chờ đợi sự tiến triển của con người. Tính theo thời gian năm tháng của đời sống con người trần thế thì qúa lâu dài. Đã có biết bao nhiêu dòng dõi nối nghiệp cưu mang sứ vụ đón nhận ơn cứu độ.
Thiên Chúa bước vào tiến trình lịch sử của một dân tộc và đồng hành từng bước cùng với sự u mê, ương ngạnh và dại khờ của con người. Thiên Chúa dõi bước qua mọi trạng huống thăng trầm của lịch sử. Chúng ta biết tâm hồn, tính tình và cõi lòng của con người đổi thay chẳng tốt lành gì. Kinh Thánh đã nêu danh một số vị tiêu biểu được Chúa chọn làm người lãnh đạo như vua Saulê, Đavít, Solômon và các vua kế vị, nhưng được mấy vị tốt lành và trung tín. Thiên Chúa ưu đãi và ban muôn ân phước lộc cho các vị lãnh đạo, nhưng hầu như vị vua nào cũng nhiều lần bị sa ngã phạm tội và rơi vào tham sân si của trần đời. Dân Riêng cũng đã nhiều lần quay lưng phản bội lại với Thiên Chúa để chạy theo tôn thờ các thần dân ngoại. Thiên Chúa luôn tín trung với lời đã hứa. Chúa kiên tâm chờ đợi. Chúa đánh phạt họ, rồi Chúa lại tha.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn dạy các tông đồ về sự kiên trì trong lời cầu nguyện, đừng khi nào chán nản: Chúa Giêsu dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng (Lc 18, 1). Dụ ngôn nói về sự kiên tâm của người đàn bà góa trước quan tòa. Vì bà quấy rầy qúa, nên ông đã xét xử cho bà. Chúa dùng hình ảnh việc hầu tòa để nói về sự cầu nguyện luôn. Chúng ta cần kiên trì trong cầu nguyện. Có nhiều khi điều chúng ta xin hôm nay không được, ngày mai lại đổi sang lời cầu khác. Chúng ta muốn được Chúa đáp lời cho thỏa mãn các nhu cầu ngay lập tức. Đôi khi chính chúng ta cũng không biết mình cần gì hay xin gì cho phải lẽ. Mỗi lần cầu xin chúng ta kể ra một chuỗi dài những ơn cần thiết, nhưng chúng ta lại chẳng thiết tha chờ đợi. Nghĩ rằng cầu xin rồi, Chúa muốn ban hay không cũng chẳng sao. Có thể chúng ta cầu mà chưa được vì cầu xin không đúng cách. Chúng ta dễ chán nản trong lời cầu xin là thế!
Với tâm tình khoan dung nhân hậu, Chúa Giêsu dạy chúng ta cách cầu nguyện. Không lẽ nào Thiên Chúa không nhận lời chúng ta cầu xin, nếu chúng ta thiết tha kêu cứu đêm ngày: Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? (Lc 18, 7). Đây là chìa khóa của việc cầu nguyện. Hãy tập trung tinh thần cầu nguyện kết hợp mật thiết với Chúa. Vì không phải xin nhiều hay nói nhiều là được nhiều. Chúng ta phải biết cầu xin và biết lắng nghe. Lời cầu cần sinh ích lợi cho phần rỗi của linh hồn của chúng ta. Nhìn lại cuộc đời, Chúa đã ban cho chúng ta nhiều hơn điều chúng ta mong ước cầu xin.
Cầu nguyện cần sự kiên trì. Kiên trì chờ đợi như người mẹ mang thai chờ đợi sinh con. Người mẹ không thể cắt bớt thời gian năm tháng phát triển của thai nhi trong cung lòng. Thời gian là nguồn ân phước để cưu mang và sinh thành. Cuộc sống của chúng ta cũng thế, thời gian và môi trường chung quanh vẫn cứ trôi. Mọi loài thụ tạo theo tiến trình tự nhiên cứ phát triển. Con người cần có sự kiên nhẫn đợi chờ trong tất cả mọi diễn tiến tự nhiên. Chúng ta không thể cắt bớt thời gian để tìm đạt kết qủa ngay. Người ta nói: Dục tốc bất đạt. Trong vấn đề cầu nguyện cũng thế, cầu xin là trải lòng ra một cách khiêm tốn để nhận biết thân phận yếu hèn, tội lỗi, thiếu thốn và bất xứng, xin Chúa đoái thương và ban ơn phúc.
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy biết sống lời Chúa để sinh hoa trái trong cuộc sống đạo. Tất cả chân lý mạc khải về Thiên Chúa và vũ trụ con người đã được ghi chép trong Kinh Thánh: Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính (2Tm 3, 16). Lời linh hứng sống động được truyền đạt qua bao đời. Giáo Hội có một kho tàng khôn ngoan vô giá là Thánh Kinh và Thánh Truyền. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa được in ghi trong lịch sử cứu độ để giúp con người đạt tới cứu cánh của mình. Chúng ta không phải tìm nơi nguồn nào khác. Thánh Kinh giúp chúng ta tìm ra tận nguồn chân thiện mỹ.
Đừng ngại dùng Lời Chúa để rao giảng, thuyết phục và hướng dẫn. Phaolô đã nhấn mạnh: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn (2Tm 4, 2). Chúng ta không xấu hổ vì rao giảng lời Chúa. Không sợ hãi khi làm chứng nhân cho Chúa. Không hổ thẹn khi trưng dẫn lời Chúa. Chúng ta hãy can đảm đọc, lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
Lạy Chúa, Chúa rất nhân từ và khoan dung đại lượng. Chúa chẳng bỏ rơi những ai chạy đến với Chúa xin ơn trợ giúp. Xin cho chúng con biết tín trung và bền vững dõi theo bước đường Chúa đã đi.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxixthuongnienc #suyniemloichuagpbr