CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HÃY BIẾT CẢM TẠ ĐẤNG CỨU ĐỘ TA – Chú giải của Fiches Dominicales 14
TÂM TÌNH CẢM TẠ VÀ TRI ÂN(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 22
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – C.. 35
TÂM TÌNH BIẾT ƠN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
XỨNG ĐÁNG VỚI TÌNH THƯƠNG VÀ LÒNG NHÂN TỪ– Chú giải của William Barclay 50
ĐÓN NHẬN ƠN CỨU ĐỘ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 57
HÃY TẠ ƠN THIÊN CHÚA – Lm. Đan Vinh HHTM.. 61
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA DIỄN TẢ QUA TRIGN GIAN CON NGƯỜI – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ. 77
BIẾT ƠN VÀ TẠ ƠN- Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 82
TÂM TÌNH TẠ ƠN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 86
HÃY CHI SẺ HẾT LÒNG VỚI ĐỨC GIÊSU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 90
VÔ ƠN VÀ BIẾT ƠN- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng.. 95
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI CÙI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 99
LÒNG BIẾT ƠN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 104
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng Chúa”.
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, quan lãnh binh của vua xứ Syria, xuống tắm bảy lần ở sông Giođan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông”.
Tiên tri trả lời rằng: “Có Chúa hằng sống, tôi đang đứng trước mặt Người: Thật tôi không dám nhận đâu”. Naaman cố nài ép, nhưng tiên tri không nghe. Naaman nói thêm rằng: “Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Xướng: Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
Xướng: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
Xướng: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
Bài Ðọc II: 2 Tm 2, 8-13
“Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Ðức Kitô”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi dòng dõi Ðavít, đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích! Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời! – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 11-19
“Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Thấy họ, Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria.
Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”. Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: “Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯƠNG NIÊN -c
ĐỨNG DẬY VỀ ĐI(*)- Chú giải của Noel Quession
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi…
Một lần nữa, Luca nhắc chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống những tuần lễ cuối cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để dừng lại trên từng chữ đó: Đức Giêsu… đi… lên… Giêrusalem. Chúng ta hãy thử hình dung cảnh tượng. Hãy thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc Người đang tiến bước. Giêrusalem! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê
Luca nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đi qua miền Samari. Người không theo các quan điểm về chủng tộc của những người đồng thời: Người không ngần ngại đi qua miền đất ấy mà người dân ở Giêrusalem đã tuyệt thông. “Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với Người Samari” (Ga 4,9).
Khi vương quốc ở miền Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước công nguyên. Quân đội chiến thắng Át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư lại trên miền Samari. Những đoàn dân ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển về tạo thành một sự pha trộn về chủng tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở Giêrusalem vẫn coi họ như những người dị giáo.
Quan điểm phóng khoáng của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta. Chúng ta đã không giữ lại những hơi hướng khinh thị đối với một số hạng Người, một số chủng tộc, một số môi tường đó sao?
Điều lý thú mà Luca mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Chính trong tỉnh này mà “sứ vụ Tin Mừng hóa” đã thực hiện những bước đầu tiên bên ngoài vùng Giu-đê. Khúc dạo đầu của việc phát triển to lớn của Giáo Hội trong những vùng đất của dân ngoại.
Đối với những Kitô hữu, phải có những con người khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã mở đầu. Ngày hôm nay, có phải tôi tránh xa những “miền Samari”.
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Trong miền đất bị chúc dữ này; đây là những người bị chúc dữ nhiều nhất. Ở đây cũng vậy, tôi phải dám tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ ngữ “phong hủi”, trong tâm thức của Kinh Thánh (Lv 13 và 14); người ta gọi chung mọi bệnh tật trên da thịt, bề ngoài rất ghê tởm và không chỉ bệnh phong hủi theo nghĩa y học hiện đại.
Hơn thế nữa, Kinh Thánh nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt của Thiên Chúa, hình ảnh của chính tội lỗi làm hư hỏng con người.
Còn Đức Giêsu, Người không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Người đã đến vì những người nghèo hèn nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã không ghê tởm tội lỗi của tôi, tội lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức Giêsu đã đến vì điều đó để cứu chuộc, để chữa lành.
Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng.
Tôi tưởng tượng tiếng kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay khi họ nhận ra có người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen kêu lớn tiếng, một điều bắt buộc. Luật của Môsê thật hà khắc nhằm đóng khung dịch bệnh lan truyền: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên; “ô uế! ô uế!” (Lv 13,45). Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên phải bị cấm đến ở những nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phụng. Những người nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!
Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy trong các sách Tin Mừng. Trong ngôn ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Kitô hữu Phương Đông gọi “kinh cầu Chúa Giêsu” chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Chúng ta, cũng rất thường lăp lại kinh này trong thánh lễ: Kyrie eleison. Lạy Chúa, xin thương xót!
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.
Cũng theo Luật (Lv 14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có tư cách xác nhận sự lành bệnh. Vậy mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ hiểu như một lời hứa chữa lành.
Người ta không khỏi ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức Giêsu. Thay vì chữa lành họ ngay tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp khẳn khổ ấy ra đi như thế. Và chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong hủi gớm ghiếc ở trên người.
Mọi sự xảy ra như thể Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ, có thể nói như thế. Và chúng ta nghĩ đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ Êlisê bắt ông Na-a-man, gốc Xyri phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp; điều này làm ông Na-a-man nổi giận!
Ngày nay đối với chúng ta cũng thế, đức tin thường là một thử thách đi qua đêm tối và không thấy, không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời Người. Chúng ta cầu xin Chúa để được giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ giải thoát chúng ta. Và chúng ta phải tiếp tục đi theo con đường của chúng ta với chỉ lời hứa của Người.
Đang khi đi thì họ được sạch
Một lần nữa, phép lạ hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng cách xa Đức Giêsu. Khía cạnh “giật gân” lạ lùng mà chúng ta rất thích đã cố tình bị làm cho mờ nhạt.
Chúng ta cũng ghi nhận những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa lành này, một việc chữa lành không được mô tả dưới khía cạnh y học: Đấy là một sự “thanh luyện”. Lời cầu xin của các bệnh nhân hầu như là lời phụng vụ: “Xin thương xót chúng con”. Đức Giêsu đã yêu cầu họ “trình diện với các tư tế”.
Xuyên qua sự chữa lành đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận ra một dấu chỉ. Đức Giêsu có thể thanh luyện tôi. Đức Giêsu có thể cứu tôi nữa.
Trước tiên chúng ta chớ xin Người những lợi ích vật chất “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy chữa lành tâm hồn con người hôm nay bằng Mình và Máu Chúa”.
Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
“Vinh quang của Thiên Chúa! Hãy “cao giọng lên để” ca ngợi vinh quang của Thiên Chúa!”
“Sấp mình xuống dưới chân”! Một cử chỉ mà những Người phương Tây no nê không bao giờ làm nữa, trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có cái bụng quá căng khó mà sấp mình sát đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ mang ơn chính mình, khả năng và công việc của mình, những tài sản mà chúng ta thừa mứa. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những người Hồi giáo có thể gập mình làm đôi đến độ trán họ chạm vào mặt đất đó sao? Một ngày nào đó, bạn hãy thử làm ở nhà bạn không cần ai thấy. Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra không, bạn hãy để cho tư tưởng của bạn thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu như bắt buộc bạn thực hiện: Con không là gì cả con đã nhận tất cả. Lạy Chúa, con đang ở trước mặt Chúa. Con chỉ là một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một “Ađam”. Con chỉ là cát bụi trên mặt đất cát bụi này.
Trong Kinh Thánh, sự sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp mình sát đất “trước mặt Đức Giêsu”. Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự vô cùng của Thiên Chúa: Một mầu nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người của Đức Giêsu!
“Mà tạ ơn!” “eucharistôn!”, “trong khi tham dự vào Thánh Thể “…
Ngày nay cũng thế, trong tiếng Hy Lạp hiện đại, “cám ơn” thì nói “efkaristo”. Thật là tai hại khi sự chuyển thể của ngôn ngữ đã làm chúng ta mất dần ý nghĩa của các từ. Ai trong chúng ta khi nói “tôi đến với Thánh Thể” thì một cách tự phát nghĩ rằng “tôi đến tạ ơn”… tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên Chúa! Thánh lễ trước hết chính là Giáo Hội bước vào một hành động cao cả, “hành động tạ ơn” Đức Giêsu khi “Người ra khỏi thế gian này để về với Chúa Cha”.
“Người cầm lấy bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói: “này là Mình Ta, này là Máu Ta, chịu nộp vì các con”. Mọi bữa ăn của người Do Thái và đặc biệt là bữa ăn lễ Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài “berakha” “kinh tạ ơn”. Đức Giêsu được đào tạo trong tín ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới bao la và xinh đẹp và cho chúng ta biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương thực để sống: (bánh và rượu). Người còn giải thoát và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy biết ơn Người. Chúng ta không còn biết cám ơn Thiên Chúa.. Chúng ta luôn miệng nói tiếng cám ơn vì lịch sự về mọi việc, do thói quen mà không cần suy nghĩ ở bàn ăn, cửa hàng, trên đường phố; cũng không để nó tạo ra một quan hệ với một ai. Vả lại việc nói cám ơn phải làm chúng ta hiệp thông với một con người: thật ra, đó là một lời bộc lộ tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường phải nhìn thẳng vào người đã làm cho chúng ta hạnh phúc? Người phong hủi tội nghiệp của Tin Mừng, khi nhận được hạnh phúc của mình, đã đi được một khoảng xa. Trong sự vui mừng ngây ngất, người ấy muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu. Anh ta đi ngược trở lại con đường. Anh trở về với Người để nói với Người lời cám ơn! Và giờ đây, tôi thử tưởng tương những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt của anh ta.
Anh ta lại là người Sa-ma-ri.
Vậy ra Người ngoại quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó đã có cử chỉ nhân bản nhất, tự nhiên nhất.
Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.
Đối với Đức Giêsu, phép lạ này là một thất bại; bởi vì nó không tạo ra hiệu quả mà Người có quyền chờ đợi: Đối với chín Người kia, phép lạ này không tạo ra “đức tin”. Điều thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế Đức Giêsu rất buồn.
Người Kitô hữu thật sự phân biệt với tất cả các “tín đồ khác không phải vì họ cầu nguyện, họ xin ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ “cảm tạ” Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ đẳng chỉ biết cầu xin đến đức tin phát triển biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật sự Khuôn Mặt của Người.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – C
HÃY BIẾT CẢM TẠ ĐẤNG CỨU ĐỘ TA – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1/. Từ Việc lành bệnh do lời cửa Đức Giêsu phán…
“Đức Giêsu đang đi lên Giêrusalem”. Lời nhắc nhở đó như một thứ điệp khúc mà Luca đặt ở đầu mỗi chương. Người đi theo lộ trình dẫn Người về với Chúa Cha và cũng là con đường đưa ta tới ơn cứu độ nhờ Người. Thánh sử còn xác định rằng “Người đi qua Samaria và Galilê”, cả hai miền đều bị miền Giuđê khinh rẻ; Samaria là xứ sớ của những chi tộc đã ly giáo, còn Galilê là miền biên giới, nơi người Do Thái và người ngoại giáo sống lẫn lộn. Vậy. mà, ở miền đất bị khinh khi, ở cái thế giới bị khai trừ ấy, Đức Giêsu thực hiện phép lạ chữa lành một đám người mắc bệnh phong cùi, thứ bệnh thời đó bị coi là cấm kỵ hết sức nghiêm ngặt. Cấm kỵ không chỉ vì lý do phòng bệnh, để tránh lây nhiễm, mà còn vì lý do tôn giáo; vì bệnh cùi là dấu chỉ tội lỗi làm biến dạng con người, nên những ai mắc bệnh ấy phải sống tách biệt khỏi cộng đồng và bị loại khỏi những nơi thờ phượng.
Sự việc xảy ra ở lối vào một làng kia. Một nhóm người phong cùi khốn khổ đón gặp Đức Giêsu. “Mười”: con số nhỏ nhất để họp thành một cộng đoàn hội đường; “Mười người tượng trưng cho cả một dân tộc, tượng trưng toàn thể nhân loại bị tội lỗi làm cho bệnh hoạn.
Họ cùng mang thương tật của một thứ bệnh, chịu đựng cùng hình phạt khai trừ, họ tiến lên đồng tâm nhất trí, không phân biệt chủng tộc. “Dừng lại đàng xa”, đúng theo Luật truyền, họ hô lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin đủ lòng thương chúng tôi”.
Thay vì chữa họ lành ngay tức khắc, Đức Giêsu muốn thử thách lòng tin của họ. Cũng như ngày xưa, ngôn sứ Êlisêô sai môn đệ nói với quan Naaman, người Siri rằng: “Quan hãy đi tắm ở sông Giođan bảy lần”, Đức Giêsu chỉ đáp lại bằng một câu đơn giản, như một lời hứa sẽ chữa lành: “Hãy đi trình diện với các tư tế. Thật vậy, vào thời đó, các thầy tư tế có quyền chẩn đoán bệnh phong cùi và công bố người mắc bệnh ấy là “không sạch”, thì họ cũng có quyền kiểm tra khi người ấy khỏi bệnh (Lv 14;3) và công bố chính thức người ấy được tái hội nhập vào cộng đoàn.
Khác với vị tướng lãnh Siri, lúc đầu đã từ chối thi hành điều người của Chúa truyền dạy, mười người phong cùi ở đây tức tốc thi hành, không mảy may chần chừ.
Vậy “đang khi đi thì họ được sạch”. Một việc chữa bệnh từ xa, được Luca tường thuật cách hết sức kín đáo, làm nổi bật quyền năng của lời Đức Gịêsu nói.
2/…. đến ơn cứu độ do tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đến đây trình thuật làm nẩy sinh một vấn đề mới. Thật vậy trong khi 9 người tiếp tục đi “trình diện với các tư tế, thì riêng có một người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, “đến quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”. Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng tộc nào: anh là người Samaria. Đối với anh, tuy đã khỏi bệnh cùi, nhưng vẫn phải mang thân phận của người bị khinh khi vì lạc đạo, nên không có vấn đề đi đến Đền thờ. Hơn nữa, anh đã gặp Đấng Thiên Sai trên đường, Đấng vừa cứu chữa anh, như rồi đây ta sẽ thấy: chính nơi Đức Giêsu mà ta tôn vinh Thiên Chúa.
– Cử chỉ anh làm là một cử chỉ trong phục vụ, “anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn”. Anh nghĩ chắc chắn đó là cách tuyên xưng công khai Đức Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa. Rolanđ Meynet chú giải.: “Người Samaria vừa khỏi bệnh đã kết hợp Thiên Chúa với Đức Giêsu trong cùng một lời ngơi khen vì tạ ơn. Ơn cứu độ vừa đón nhận được anh công bố cho mọi người biết, đó là công trình của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Lòng tin của anh không phân biệt hai đấng ấy và anh sấp mình dưới chân Đấng đã làm cho anh nên sạch, như sấp mình dưới chân Đức Chúa (L’Evangile selon saint Luc, analyse rhétorique”, cuốn 2, Cerf, trg 171).
Đức Giêsu hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”. Như vậy để nhấn mạnh nét tương phản giữa sự vô ơn của chín người kia, là người Do Thái, và lòng biết ơn của người Samaria độc nhất này, Đức Giêsu gọi anh là người “ngoại bang”. Dưới ngòi bút của Luca, anh được coi như chứng tá sống động của ơn cứu độ được ban cho hết mọi người, vượt mọi biên giới; anh được coi như biểu tượng của những người ngoại giáo được vào Nước Thiên Chúa trước những người Do Thái, bới vì những người này đã biết nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa.
“Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”, Đức Giêsu kết thúc bằng một câu đầy ý nghĩa, mà Luca muốn đặt làm chóp đỉnh của trình thuật.
+ “Hãy đứng dậy”: động từ này rất thường được Luca sử dụng không chỉ để động viên lòng can đảm trong chiến đấu (như trong cảnh hấp hối: “hãy dậy mà cầu nguyện” (Lc 22,45), mà cũng để chỉ việc sống lại chỗi dậy từ cõi chết) nữa.
+ “Hãy đi”: Luca sử dụng động từ này nhiều lần để chỉ việc Đức Giêsu lên Giêrusalem. Étienne Charpentier giải thích: “Luca định nghĩa Kitô giáo như một con đường… ở đây, đang trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu nói với người được chữa lành: “Hãy chỗi dậy, lên đường!”. Và bởi vì trong toàn bối cảnh đi lên Gíêrusalem, ta đã dịch động từ này là “đi lên”, nên, nếu ta cho đặt vào môi miệng Đức Giêsu câu nói: “Hãy chỗi dậy, hãy cùng ta lên thập giá và vinh quang”, thiết tưởng cũng hợp với tư tưởng của Luca. (Assemblée du Seigneur, số 59, trg77)
+ “Đức tin con đã cứu chữa con”: mười người phong cùi vì tin vào lời Đức Giêsu, nên đã được chữa lành; nhưng chính người Samaria mới sống phép lạ như một cơ hội để tiến tới. một đức tin sâu sắc hơn, một đức tin sẽ mang lại cho anh một kết quả hoàn toàn khác, đó là ơn cứu độ.
Cousin kết luận: “Vì lúc nào Thiên Chúa cũng phải được quan tâm trên hết, nên Đức Giêsu tỏ ra bất bình với chín người. phong cùi đã không đến tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng lời Chúa nói về lòng tin mới là chóp đỉnh của trình thuật tất cả mười người phong cùi đều được khỏi bệnh, nhưng chỉ có người Samaria biết ơn Chúa mới công bố là được cứu. Vậy thì ơn cứu độ còn quan trọng hơn ơn chữa lành phần xác. Và đức tin trọn vẹn của người quay trở lại tạ ơn thì mạnh hơn lòng tin tưởng đã thúc đẩy mười người ra đi trình diện với tư tế ngay cả trước khi họ được lành bệnh. Việc lành bệnh chỉ mở ra ơn cứu độ toàn diện cho con người, nếu họ nhìn nhận sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa đối với mình, và nếu họ đáp trả bằng cách dấn thân vào mối tương quan thực sự với Đức Giêsu: như thế mới là đức tin trọn vẹn”. (“L’ Evangile de Luc”, Centurion, trg 228-229).
Nhờ đức tin, dù là thuốc dân tộc nào, chúng ta đều được cứu độ. Vậy đến lượt chúng ta hãy lên đường theo chân Đức Giêsu. Không bao lâu sau, Đức Giêsu sẽ nói ở Lc 18,31 “Nào chúng ta lên Giêrusalem”. Lần này hiển nhiên bao gồm các môn đệ trong cuộc hành trình của người tiến về cuộc Khổ nạn Phục sinh.
BÀI ĐỌC THÊM:
1/.Đường trở về dẫn đến lời tạ ơn: (Đức cha Daloz, trong “Dieu a visité son peuple” DDB, trg l30).
Câu chuyện mười người phong cùi được Đức Giêsu chữa lành mà chỉ có một người trở lại tạ ơn, cũng chính là hình ảnh thường xảy ra với chúng ta, khi lâm cảnh túng cực, chúng ta biết tìm đến sự cầu nguyện: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Đức Giêsu tiếp đón mười người phong cùi đứng đàng xa lớn tiếng van xin người. Người sai họ đi trình diện với các tư tế và họ đón nhận lời Người với lòng tin. Họ được khỏi bệnh đang lúc đi đường. Nhưng họ mới đi được nửa con đường họ phải đi. Tất cả mười người đều được khỏi bệnh, nhưng chỉ một người duy nhất nghe được câu nói khiến anh khám phá ra Đức Giêsu “Hãy đứng dậy, lòng tin của anh đã cứu anh”. Anh đã biết quay trở lại con đường cũ. Con đường ấy đã dẫn anh đến lời tạ ơn.
Như vậy, có nhiều con đường dẫn đến Đức Giêsu: có con đường đưa ta đến với Người khi ta lâm cơn quẫn bách, và có con đường dẫn ta quay trở lại với Người để nhận biết Người. Rất nhiều kẻ chỉ đi con đường thứ nhất. Họ không bị khước từ và được dẫn đường từ chuyến đi ấy. Đó mới là bước đầu. Thiên Chúa không keo kiệt khi ban ân huệ của Người: Người không cân đo lòng biết ơn của ta. Nên có những kẻ tiến xa hơn và trở nên môn đệ. Họ được hưởng ân huệ quý giá hơn nhiều, đó là được mạc khải một đức tin cứu độ: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Họ cảm nhận được một điều gì đó thuộc về mầu nhiệm Đức Giêsu; họ tiến vào mối quan hệ hỗ tương với Người, mối tương quan của lời tạ ơn. Ước chi chúng ta thuộc về những người không dừng lại giữa đường!
2/.Đức Giêsu, Người chữa lành hay Đấng cứu Độ?
Đức Giêsu đã chữa lành nhiều người, đó là điều không thể hồ nghi. Mỗi trang sách Tin Mừng đều chứng thực điều đó. Ngoài ra, làm sao Đức Giêsu có thể làm cho người ta tin phục mình là Đấng Mêsia, nếu Người đã không chữa bệnh? Vì đó là điều kiện cần thiết, phải có ở thời buổi của Người, điều mà người ta còn gặp thay nơi tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo thời nay. Vậy phải chăng Đức Giêsu chỉ là người chữa bệnh? Chắc chắn không phải như vậy? Đức Giêsu đến không phải để chữa bệnh, mà để cứu độ. Có thể nói rằng khi Người chữa bệnh là dấu chỉ người cứu độ. Người không nói: “Lòng tin của anh dã chữa anh lành”, nhưng nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”.
Vậy ơn cứu độ chính là khả năng sống cuộc sống của Đức Kitô, dù ta có yếu đau hay khỏe mạnh, sau khi chết cũng như trước khi chết. Việc chữa bệnh là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải Kinh Thánh đường thời đã có một nhận xét mà về phần tôi, đã soi sáng tôi nhiều. ông nói: ngay từ thời Giáo hội sơ khai, trong phụng vụ, người ta đã không bao giờ đọc một đoạn Tin Mừng về việc Chúa chữa bệnh để xin Người chữa các bệnh nhân có vẻ phù phép, nhưng chỉ đọc để loan báo việc Chúa sống lại.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
TÂM TÌNH CẢM TẠ VÀ TRI ÂN(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên Năm C nêu lên cho chúng ta một bài học: Con đường đức tin là tâm tình cảm tạ và tri ân. Con đường này rộng mở cho hết mọi người.
2V 5: 14-17
Sách Các Vua quyển thứ hai thuật lại chuyện một quan đại thần ngoại bang, kẻ thù của dân Ít-ra-en, ông Na-a-man xứ Xy-ri-a, được chữa lành bệnh phong hủi, nhờ sự can thiệp của ngôn sứ Ê-li-sa. Ông Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân bằng lời tuyên xưng đức tin của mình.
2Tm 2: 8-13
Trong những lời tâm huyết của ngài cho người môn đệ thân tín của mình, là ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhắc nhở ông rằng đức tin được đặt trên sự kiện vững chắc: cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su. Những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Chúa Ki-tô, sẽ được sống lại với Ngài.
Lc 17: 11-19
Tin Mừng là chuyện Chúa Giê-su chữa lành mười người phong hủi. Chỉ một người duy nhất, một người Sa-ma-ri, trở lại bày tỏ tấm lòng cảm tạ tri ân. Tâm tình cảm tạ tri ân này mở ra cho anh con đường đức tin và cứu độ.
BÀI ĐỌC I (2V 5: 14-17)
Hai sách Các Vua ghi lại các triều đại của mười chín vị vua Ít-ra-en (vương quốc miền Bắc) và của hai mươi vị vua Giu-đa (vương quốc miền Nam). Hai sách này cũng dành một vai trò quan trọng cho các vị ngôn sứ: Ê-li-a, Ê-li-sa và I-sai-a.
Hai cuốn sách này chứa đựng một số lượng những giai thoại vừa mang tính lịch sử vừa có tính dân gian. Giai thoại về việc chữa lành bệnh phong hủi của quan đại thần Na-a-man xứ Xy-ri-a không phải là không có cơ sở lịch sử. Công trình biên soạn sau cùng của hai tác phẩm này được đặt vào niên biểu cuối thế kỷ thứ sáu, nhưng những chứng liệu và truyền thống cổ xưa lại được nhà biên soạn sử dụng. Tên Na-a-man được chứng thực trong những bản văn ngoài Kinh Thánh.
1.Quan đại thần Na-a-man xứ Xy-ri-a:
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a. Như thầy mình, ông thi hành sứ vụ của mình ở vương quốc miền Bắc, mà kinh đô là Sa-ma-ri, vào giữa thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên.
Ông Na-a-man là tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram (miền Đa-mát). Danh tánh của vị vua này chưa được xác định. Vị tướng này đã lừng danh trong cuộc chiến thắng quân đội Ít-ra-en. Nhưng ông lại mắc bệnh phong hủi. Cốt yếu là chứng bệnh phong hủi nào? Sách Lê-vi đặt dưới tên gọi này những chứng bệnh ngoài da khác nhau (Lv 13: 14). Người ta có thể nghi vấn về chứng bệnh của quan đại thần Na-a-man, vì nếu như ông mắc bệnh phong hủi thật sự chắc chắn ông không thể nào dẫn quân đánh trận từ nước này sang nước khác được.
2.Cuộc vận động của quan đại thần Na-a-man:
Đoạn trích hôm nay chỉ nói đến tình tiết chính yếu về việc quan đại thần của vua A-ram được chữa lành. Những chi tiết trước đó thì rất ý nhị không thể bỏ qua. Trong những cuộc xuất chinh vào đất Ít-ra-en, quân đội A-ram đã bắt đưa về nhiều tù nhân. Vì thế, bà vợ của quan đại thần Na-a-man có một tớ gái người Ít-ra-en giúp việc. Người tớ gái này gợi ý với bà chủ: “Ôi, phải chi ông chủ con được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh phong hủi” (5: 3).
Sau nhiều diễn biến ngoại giao, quan đại thần Na-a-man đến kinh đô Sa-ma-ri để mong được ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành bệnh cho mình. Ngôn sứ Ê-li-sa không đích thân ra đón tiếp quan đại thần Na-a-man mà chỉ sai sứ giả đến nói với ông Na-a-man là đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan thì ông sẽ được khỏi bệnh. Quan đại thần không ngờ cách tiếp đón và cách chữa trị như thế nên ông đã nổi giận và tức giận bỏ đi. Bấy giờ, các tôi tớ của ông khuyên ông cứ thử thi hành đều ngôn sứ chỉ dạy xem sao. Đại thần Na-a-man bình tâm lại, xuống tắm bảy lần trong dòng sông Gio-đan như lời ngôn sứ truyền và ông được lành sạch.
3.Niềm tin của quan đại thần Na-a-man:
Chính ở đây bắt đầu chuyện tích về việc ông Na-a-man được chữa lành mà chúng ta đọc hôm nay. Ở nơi chuyện tích này, tác giả đã biết nêu bật những yếu tố tinh thần. Quan đại thần Na-a-man nhận ra hành động của Thiên Chúa Ít-ra-en và tuyên xưng rằng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en”. Để tỏ lòng tôn kính và tạ ơn, ông muốn dâng những lễ vật cho vị ngôn sứ. Nhưng vị ngôn sứ nhất quyết từ chối, bởi vì mình chỉ là người trung gian. Chủ đích của vị ngôn sứ chính là hướng tất cả tâm tình cảm tạ và tri ân của quan đại thần Na-a-man về tác giả duy nhất, Đấng đã chữa lành ông, đó là Đức Chúa. Nước sông Gio-đan chỉ là yếu tố vật chất, yếu tố “bí tích”. Phải nói rằng Đức Chúa đón nhận tấm lòng thành tín và ban ân huệ cả cho những người ngoại bang lẫn cho con cái Ít-ra-en.
Quan đại thần Na-a-man không chỉ tuyên xưng đức tin của mình mà còn làm một cử chỉ thật ý nghĩa: ông xin được đem về quê hương của ông một số đất Ít-ra-en để xây dựng cho mình một bàn thờ dâng hy lễ kính Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Dưới nhãn quang của ông, đất xứ sở ông không là đất thánh.
Chúng ta nên đọc quá khuôn khổ đoạn trích hôm nay, vì những chi tiết tiếp liền sau đó đáng quan tâm: quan đại thần Na-a-man rất cẩn trọng: ông biết rằng khi trở về quê hương ông, vì những chức vụ ông đảm nhận, ông buộc phải tham dự vào những nghi thức tôn kính các vị thần linh của đất nước ông. Vì thế, ông ngỏ lời với ngôn sứ Ê-li-sa: “Xin Đức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài”. Lúc đó, ngôn sứ Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, cầu chúc cho ông một cách giản dị: “Ông đi bằng an”. Với câu chuyện này, chúng ta sống rồi trong bầu khí Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (2Tm 2: 8-13)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho người môn đệ, đồng thời cũng là cộng tác viên của thánh nhân, là ông Ti-mô-thê.
1.Bối cảnh:
Thánh Phao-lô, lúc đó đang bị giam cầm và biết rằng cái chết của mình sắp gần kề, gởi cho ông Ti-mô-thê những lời tâm huyết của mình. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân đã khuyên người môn đệ của mình hãy can đảm và kiên vững; trong đoạn trích tuần này, thánh nhân kêu mời người môn đệ hãy cậy trông. Đức Giê-su đã chết và sống lại, vì thế những ai chia sẻ đau khổ và cái chết của Ngài, thì cũng được dự phần vào vinh quang Phục Sinh của Ngài.
Chúng ta có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong bố cục của đoạn văn: phần mở (2: 8) và phần kết (2: 11-13) có cung giọng phụng vụ. Ngoài ra, phần kết chắc chắn là một bài thánh thi về phép Rửa. Chúng ta cũng có thể khảo sát những lời tâm huyết này trong khía cạnh tín lý: biến cố Phục Sinh là trọng tâm giáo huấn của thánh nhân. Cuộc Tử Nạn cứu độ khai mở ánh sáng và vinh quang của biến cố Phục Sinh và đặt nền tảng đức cậy trông của Ki-tô giáo. Nhưng chúng ta cũng có thể đọc đoạn trích này khi để cho mình thấm nhuần niềm xúc cảm của một bức thư vĩnh biệt và cố gắng nhận thức rõ nhân cách của một con người kề cận với cái chết.
2.Lòng nhiệt thành đối với ơn gọi:
Lời tâm huyết đầu tiên là lòng nhiệt thành của thánh Phao-lô đối với ơn gọi của ngài. Lời tâm huyết ấy hiện rõ trong tiếng kêu “Tin Mừng” mà thánh nhân không ngừng loan báo bằng cả mạng sống mình. Thánh nhân đã nhận lãnh một sứ mạng đặc biệt, chính vì sứ mạng ấy mà thánh nhân đã tận hiến trọn cuộc đời mình không một chút đắn đo dè sẻn.
Ngoài ra, chúng ta đọc thấy ở đây tiềm ẩn kỷ niệm mà thánh nhân đã kinh qua trên đường đi Đa-mát: Đấng Phục Sinh đã tỏ mình ra cho thánh nhân. Thánh Phao-lô đã trở nên sứ giả của Đấng Phục Sinh, đúng hơn, chứng nhân của Đấng Phục Sinh: “Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít”. Đây là tín điều đầu tiên, tín điều đặt nền tảng cho đức cậy.
3.Giá trị của những đau khổ:
Biến cố Phục Sinh khởi đi từ cuộc Thương Khó và Tử Nạn. Thánh Phao-lô chịu đau khổ trong cảnh giam cầm, ở đó thánh nhân “còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi”, dụng ngữ này cũng là dụng ngữ chỉ những tên gian phi bị đóng đinh với Đức Giê-su; nghĩa là thánh Phao-lô đã trở thành người đồng chịu đau khổ với Chúa Ki-tô. Thánh nhân cho rằng những đau khổ này ngang bằng giá trị với lời loan báo: “Lời Thiên Chúa không thể bị xiềng xích”. Như vậy, đối với thánh nhân, đau khổ là một cách thức khác để loan truyền ơn cứu độ, vì những gian nan thử thách mà thánh nhân phải chịu sinh nhiều ơn ích, như thánh nhân nói trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê: “Bấy giờ, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đúng mức, vì lợi ích cho thân thể Ngài là Hội Thánh” (Cl 1: 24). Đây thật là một bài học quý giá cho ông Ti-mô-thê, hiện nay ông cũng đang chịu trăm chiều gian nan thử thách.
4.Đức cậy trông của Ki-tô giáo:
Đức cậy trông của Ki-tô giáo là niềm hy vọng vào vinh quang đời đời. Thánh Phao-lô đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại điều này; nhưng vào lúc cái chết cận kề, thánh nhân nhắc lại điều đó khi áp dụng vào chính bản thân mình: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người”. Trước đây, thánh nhân đã khai triển tư tưởng này trong thư gởi các tín hữu Cô-lô-xê và trong thư gởi các tín hữu Rô-ma. Lúc đó, tư tưởng này mặc lấy cường độ bi thảm hơn: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8: 17).
Đoạn kết bằng văn xuôi có vần có điệu xem ra là một bài thánh thi thịnh hành trong Giáo Hội tiên khởi, chắc hẳn là lời tuyên xưng đức tin vào dịp lãnh nhận phép Rửa. Câu cuối cùng khai mở lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa: “Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình”.
TIN MỪNG (Lc 17: 11-19)
Câu chuyện chữa lành mười người phong hủi là nguồn riêng của Tin Mừng Lu-ca. Như thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Lu-ca đã tường thuật rồi câu chuyện Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi vào lúc khởi đầu sứ vụ của Ngài (Lc 5: 14; Mt 8: 2-4; Mc 1: 40-41). Trong câu chuyện mới này, thánh Lu-ca mời gọi người đọc chú ý đến thái độ của một người trong số họ, người Sa-ma-ri, hơn là số lượng những bệnh nhân được chữa lành.
1.Chúa Giê-su ưu ái những người phong hủi:
Nhiều lần Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng ưu ái của Ngài đối với những người phong hủi. Ngài đã trả lời cho những sứ giả Gioan Tẩy Giả sai đến: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi thi hành sứ vụ, Ngài vạch ra như một chương trình: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 7-8). Hơn bất kỳ bệnh nhân nào khác, bệnh nhân phong hủi này, được xem như nhũng người tội lỗi, cần đến lòng xót thương của Đức Ki-tô. Họ bị xem như đồ ô uế, vì thế cấm mọi hình thức tiếp xúc. Ấy vậy, Chúa Giê-su không ngừng công bố rằng sự ô uế không đến từ bên ngoài; chỉ những tư tưởng gian tà phát xuất từ lòng con người mới gây nên ô uế đích thật.
2.Lộ trình lên Giê-ru-sa-lem:
Thánh Lu-ca nhắc lại rằng Chúa Giê-su đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Đây là lần thứ ba thánh nhân kể ra việc Chúa Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem như mục đích tối hậu sứ mạng của Ngài (x. 9: 51; 13: 22). Dường như thay vì băng qua miền Sa-ma-ri để lên Giê-ru-sa-lem, thì Đức Giê-su lại rẽ qua hướng Đông, giữa Ga-li-lê và Sa-ma-ri, đến thung lũng sông Gio-đan, xuống thành Giê-ri-cô, và từ đó đi lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, mười người phong hủi mới có thể gặp Ngài ở nơi hoang vắng này, vì họ không được vào bất cứ nơi nào có đông dân chúng sinh sống. Tuy nhiên, thánh ký không định rõ lộ trình địa lý; chỉ lộ trình tinh thần mới là mối bận lòng của thánh ký. Từ tình tiết mà thánh nhân sắp thuật lại những bài học sẽ được rút ra.
3.Lời khẩn cầu của những người phong hủi:
Một nhóm mười người phong hủi đến gặp Đức Giê-su. Họ đứng cách xa như Luật quy định và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. Việc kêu cứu Ngài bằng tên thì họa hiếm trong các sách Tin Mừng. Tại Tin Mừng Lu-ca việc gọi tên Ngài như vậy chỉ được gặp thấy ở nơi tiếng kêu cứu của người mù thành Giê-ri-cô (18: 38) và của người gian phí sám hối cùng chịu đóng đinh với Ngài (23: 42); nhưng trong sách Công Vụ, danh xưng này được dùng thường hơn, các Tông Đồ sẽ công bố: “Chính nhờ danh Giê-su mà ơn cứu độ được thực hiện”.
Còn đối với tước vị “Thầy”, chung chung chỉ các môn đệ mới gọi Ngài như thế. Đây là một trường hợp hi hữu khi thánh Lu-ca đặt tước vị này trên môi miệng của những người phong hủi như lời tuyên xưng niềm tin của họ vào quyền năng chữa lành của Chúa Giê-su.
4.Lệnh truyền của Đức Giê-su:
Đáp lại lời kêu cứu của họ, Chúa Giê-su truyền lệnh: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Theo tâm thức thời đó, mọi bệnh hoạn đều được cho là do tội lỗi. Bệnh phong hủi, vì ấn tượng ghê tởm mà bệnh gây nên nơi thân xác, lại càng chứng tỏ tình trạng tội lỗi bị Thiên Chúa giáng phạt (Đnl 28: 27-35); thế nên, việc lành bệnh thuộc lãnh vực tôn giáo và phải được các tư tế kiểm nghiệm (Lv 14: 1-32). Vì thế, Chúa Giê-su mới ra lệnh cho mười người phong hủi: “Hãy đi trình diện với các tư tế”.
Nhưng các tư tế can dự chỉ để chứng thực là bệnh đã được lành và nhận hy lễ thanh tẩy; chỉ như thế người được lành bệnh mới có thể được tái nhập vào đời sống xã hội. Trước đây, trong trường hợp một người phong hủi, Chúa Giê-su đã ra lệnh cho người ấy đi trình diện tư tế chỉ sau khi đã chữa lành bệnh cho anh ta. Ở đây, Chúa Giê-su lại truyền cho mười người phong hủi đi trình diện tư tế trong khi họ chưa được lành bệnh. Xem ra Chúa Giê-su muốn thử thách đức tin của họ.
5.Một trong số họ quay trở lại, một người xứ Sa-ma-ri:
Tất cả giá trị của câu chuyện cốt ở nơi phần khai triển sau cùng này. “Đang khi đi thì họ đã được sạch”, chỉ một người quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su”, đây là cử chỉ thờ lạy vì đối với anh chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành chứng bệnh khủng khiếp này. Và anh bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với vị ân nhân đã thi ân giáng phúc cho mình.
Chỉ vào lúc này, thánh Lu-ca mới chỉ ra “anh ta lại là người Sa-ma-ri”. Người Do thái xem người Sa-ma-ri như tên ngoại bang đáng nguyền rủa, kẻ lạc giáo đáng khinh bĩ. Một lần nữa, chính qua cách hành xử của người Sa-ma-ri mà Chúa Giê-su đưa ra một bài học cho đám đông, cho những người Pha-ri-sêu, và cho tất cả môn đệ Ngài. Ơn cứu độ được dâng hiến cho người ngoại bang này vì đức tin ở nơi anh còn lớn hơn nơi chín người Do thái kia. Trước những đồng hương Na-da-rét cứng lòng tin của Ngài, Chúa Giê-su cũng đã trích dẫn cho họ hai mẫu gương của hai người ngoại bang, mà niềm tin của họ còn lớn hơn những đồng hương của Ngài: bà góa xứ Xa-rép-ta và ông Na-a-man, người phong hủi xứ Xy-ri-a (4: 25-27).
6.Đền Thờ đích thật: con người của Đức Giê-su:
“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?”. Chín người kia là những người Do thái, họ tiếp tục con đường lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để chu toàn những nghi lễ thanh tẩy. Bản văn không nói điều này, nhưng lời Chúa Giê-su hàm chứa như vậy: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?”.
Tôn vinh Thiên Chúa chính là ngỏ lời với Đức Giê-su. Từ nay chính qua con người của Ngài mà người ta đến với Chúa Cha. Đền Thờ đích thật không còn là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hay Đền Thờ Ga-ri-dim. Chúa Giê-su đã loan báo điều này cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không ở trên núi này (Đền Thờ Ga-ri-dim) hay tại Giê-ru-sa-lem… (Ga 4: 21), Và Ngài cũng đã công bố: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19). Thánh Gioan giải thích: “Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2: 21).
Người Sa-ma-ri nhận ra ở nơi Đức Giê-su chính là Thiên Chúa hiện thân. Với người Sa-ma-ri này và chỉ một mình anh, Chúa Giê-su không chỉ chữa lành thân xác của anh, nhưng Ngài còn ban cho anh ơn cứu độ: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Đức Giê-su đến để cứu thoát con người khỏi chứng bệnh phong hủi của tội lỗi.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – C
TÂM TÌNH BIẾT ƠN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
“Thánh lễ” còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là “Lễ Tạ Ơn”. Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Ngài ban qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Vậy giờ đây chúng ta hãy nhớ lại những ơn lành của Chúa để cảm tạ Ngài.
Nhưng trước hết, chúng ta cũng ý thức rằng rất nhiều lần mình đã vô ơn với Chúa, và thành tâm xin Ngài tha thứ cho chúng ta.
- Gợi ý sám hối
- Rất nhiều khi chúng ta nhận lãnh ơn Chúa ban, nhưng không biết tạ ơn Ngài.
- Nhiều lần chúng ta tham dự Lễ Tạ Ơn, nhưng trong lòng không chút tâm tình tạ ơn nào cả.
- Những thánh giá trong cuộc đời cũng là những ơn lành Chúa ban. Nhưng chẳng những chúng ta không vui lòng đón nhận, mà còn tìm cách trốn tránh.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (2 V 5, 14-17)
Chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho tướng Naaman người xứ Aram:
- Được biết bên xứ Israel có ngôn sứ Êlisa đã từng chữa trị nhiều người khỏi bệnh, vua xứ Aram viết thư giới thiệu và đưa cho tướng Naaman đang mắc bệnh cùi đến cho Êlisê cứu chữa.
- Êlisê bảo Naaman xuống tắm 7 lần trong sông Giođan. Ban đầu Naaman không chịu. Nhưng do một người hầu gái thuyết phục nên sau đó Naaman làm theo. Và ông đã được khỏi bệnh cùi.
- Naaman trở lại tạ ơn ngôn sứ Êlisê và tuyên dương quyền phép của Thiên Chúa.
- Đáp ca (Tv 97)
Ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới vì Người đã thực hiện bao kỳ công”
- Tin Mừng (Lc 17, 11-19)
- Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.
- Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:
- Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay
- Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
- 9 người cùi Do Thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
- Bài đọc II (2 Tm 2, 8-13)
Mặc dù đang chịu cảnh khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng Phaolô vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài.
- Gợi ý giảng
* 1. Suy nghĩ về lòng biết ơn
- Chi tiết đánh động nhất trong bài Tin Mừng này là trong số 10 người cùi đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Ngài, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo. Tại sao thế?
Thưa vì tâm lý thông thường của những kẻ “ở trong nhà” là nghĩ rằng mọi điều tốt mà người nhà làm cho mình là đương nhiên. Còn những “kẻ ở ngoài” thì nghĩ rằng mình chẳng có lý do nào để được những điều ấy, cho nên khi nhận được thì rất biết ơn. Câu chuyện của bài đọc I minh chứng điều đó: Tướng Naaman không phải là người Do Thái mà là một người Aram. Bởi đó khi ông được Thiên Chúa của Israel và ngôn sứ Êlisê chữa cho khỏi cùi thì ông vô cùng biết ơn. Ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn Êlisê, và ông lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
- Chúng ta muốn người chịu ơn ta phải tỏ lòng biết ơn ta, thế nhưng khi chịu ơn người khác chúng ta lại ít tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta: chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác.
Chúa Giêsu thì ngược lại: Ngài muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Ngài không phải vì Ngài mà vì ích lợi của chính chúng ta. “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?” Khi nói thế, Chúa Giêsu không nghĩ cho bản thân Ngài mà nghĩ cho những người cùi: Ngài muốn họ có tâm tình tốt đối với Thiên Chúa, từ đó sẽ có một liên hệ tốt với Thiên Chúa, và liên hệ tốt này lại phát sinh nhiều ơn lành khác nữa.
- Biết ơn Thiên Chúa là một điều rất tốt, không phải tốt cho Thiên Chúa, mà tốt cho chính chúng ta: do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình thương của Thiên Chúa; do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo nàn của mình; hai ý thức ấy sẽ giúp chúng ta gắn bó với Chúa và nương tựa vào Ngài nhiều hơn.
- Kẻ nào không biết cám ơn trong những việc nhỏ thì cũng không biết cám ơn trong những việc lớn. Vì thế ta cần phải tập cám ơn trong từng việc nhỏ.
- Cám ơn Chúa vì những điều vừa ý mình thì rất dễ, nhưng cám ơn Chúa vì những điều trái ý mình mới khó. Vì thế ta cần phải tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho mình: chuyện vui cũng như chuyện buồn, thành công cũng như thất bại, sức khoẻ cũng như bệnh tật. Sự biết ơn về tất cả mọi điều xảy đến cho mình như thế còn phát sinh một ích lợi nữa là khiến ta biết nhìn đời mình một cách toàn diện, thấy cả hiện tại và quá khứ, từ đó ta sẽ nhận ra rằng đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay yêu thương kỳ diệu của Chúa như thế nào. Thực vậy, khi nhìn lại quá khứ, ta sẽ thấy rằng những điều làm ta thích và những điều làm ta khổ không tách rời nhau, nhưng liên kết với nhau, đan xen nhau và đều góp phần dẫn ta đến cái hiện tại tốt đẹp ngày nay, từ đó ta có thể nói như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng “Tất cả đều là hồng ân”.
* 2. Suy nghĩ về 9 người cùi vô ơn
Chín người cùi Do Thái không cảm thấy tâm tình biết ơn có lẽ vì trước đó họ chỉ thấy tình trạng khốn khổ của họ chỉ là ngoài da, và sau đó họ cũng coi tình trạng được khỏi của họ chỉ là ngoài da. Nói cách khác họ chẳng thấy gì khác ngoài một chứng bệnh da liễu: Họ bị da liễu, Chúa Giêsu chữa họ khỏi da liễu, thế là xong. Họ trở về với nếp sống cũ, với những thói quen cũ, những tật xấu cũ, những suy nghĩ cũ… Chẳng có gì thay đổi trừ ra một làn da hết bệnh.
Còn người cùi xứ Samaria, cũng như Naaman xứ Aram đã ý thức thân phận mình khốn khổ sâu xa như thế nào: đau đớn phần xác, mặc cảm tâm lý, tủi nhục tinh thần, cuộc đời như đã bị bỏ đi. Bởi vậy sau đó, cùng với sự khỏi bệnh ngoài da, họ còn được cứu chữa về tâm lý, tinh thần và đạo đức nữa. Họ trở thành những con người mới hẳn.
* 3. Suy nghĩ từ chuyện ông Naaman
- Chuyện tướng Naaman mắc bệnh cùi rồi được chữa khỏi cho ta thấy từ đau khổ người ta có thể rút ra nhiều sự lành như thế nào.
- Naaman là một con người có nhiều quyền hành và thế lực vì ông là tướng chỉ huy quân đội nước Aram. Ông rất tự tin vào chính mình, chẳng cần gì đến Thiên Chúa.
- Thế rồi chứng bệnh cùi khủng khiếp đã làm ông mất tất cả, đầy ông từ chóp đỉnh xuống vực sâu của xã hội. Ông biết mình khốn khổ, ông cần ai đó cứu ông à Ông trở thành khiêm tốn hơn.
- Nhờ có người mách bảo, Naaman tìm đến với ngôn sứ Êlisê với hy vọng vị này chỉ nói một lời hay làm một việc gì đó thôi thì ông sẽ khỏi bệnh ngay. Nhưng Êlisê bảo ông đi tắm trong dòng sông Giođan nhỏ bé và phải tắm đến 7 lần. Ban đầu ông không chịu, nhưng sau đó ông chấp nhận à Ông đã biết chịu đựng và kiên nhẫn.
- Khi khỏi bệnh, Naaman ngoại đạo ấy còn khám phá một điều quan trọng hơn tất cả, đó là có một Thiên Chúa thực sự và quyền năng. à Ông có đức tin.
- Cũng như Naaman trước khi bị bệnh, chúng ta ít nghĩ tới Chúa khi đời mình đang thuận buồm xuôi gió. Chúng ta cho rằng đời mình hoàn toàn tùy thuộc vào khối óc và đôi tay của mình.
- Khi gian truân khốn khổ ập đến, ta chợt ý thức rằng mình quá nghèo nàn và yếu đuối. Mắt ta được nhìn thấy mặt trái của cuộc đời, đầu ta biết cúi xuống, chân ta biết quỳ xuống, và lòng ta biết hướng lên cao.
- Như thế, đau khổ có rất nhiều lợi ích: nó đem ta đến gần Chúa hơn, nó khiến ta bớt duy vật hơn, nó còn cho ta thấy những khía cạnh tốt lành ẩn giấu trong những điều trái ý.
* 4. Dòng suối ân tình
Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
– Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:
– Vì đôi mắt của con rất đẹp!
– Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?
– Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
*
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13, 1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18). Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17, 19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô” (1 Cr 1, 4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận” (Pl 4, 10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.
*
Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen. (TP)
- Chuyện minh họa
David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một sau, anh cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nảy người ăn xin kia không cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe.
Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi:
– Khi anh cho tiền người ăn mày, anh cảm thấy sao?
– Con thấy rất vui.
– Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao?
– Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải cám ơn con mới phải.
– Thế sao con đã không cám ơn Chúa?
– Tại sao phải cám ơn Chúa?
– Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ cho Chúa thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (FM)
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, luôn tạ ơn Chúa vì những hồng ân Người ban tặng cho ta là một trong những bổn phận quan trọng của người Kitô hữu. Với tâm tình con thảo, chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
- Hội thánh không ngừng quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho Hội thánh / trong công việc cao quý này.
- Ước mơ tha thiết của con người là được sống khỏe mạnh và hạnh phúc / nhưng trong thực tế / bệnh tật vẫn đem đến cho con người đau khổ và bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật hành hạ / được Chúa thương nâng đỡ ủi an.
- Bệnh phong cùi đem lại mặc cảm lớn lao / và nỗi bất hạnh tột cùng cho các bệnh nhân / vì họ cảm thấy bị loại trừ ra khỏi xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / nâng đỡ những anh chị em kém may mắn này.
- Có một thứ bệnh phong cùi đáng sợ hơn là tội lỗi / vì nó làm hoen ố tâm hồn con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tẩy sạch bệnh phong cùi thiêng liêng này bằng bí tích Giải tội.
Chủ tế: Lạy Chúa, biết bao giờ chúng con mới tạ ơn Chúa cho cân xứng với tình thương hải hà của Chúa. Xin cho chúng con biết cố gắng đền đáp phần nào tình thương ấy bằng chính đời sống bác ái yêu thương và tận tụy phục vụ tha nhân. Chúng con cầu xin
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha hằng ban xuống cho chúng ta là con cái Ngài biết bao ơn lành. Vậy bây giờ chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của chúng ta.
– Trước khi rước lễ: Ơn cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là ban chính Con Một của Ngài cứu chuộc chúng ta và còn trở thành lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”
VII. Giải tán
“Tất cả đều là hồng ân”. Anh chị em hãy trở về với cuộc sống thường ngày, và đừng quên cám ơn Chúa về tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
XỨNG ĐÁNG VỚI TÌNH THƯƠNG VÀ LÒNG NHÂN TỪ– Chú giải của William Barclay
Sự chữa lành mười người cùi bắt đầu chu kỳ những biến cố cuối cùng cảu đánh dấu những chặng đường chót của Chúa Giêsu trong hành trì nh hường về Giê-ru-sa-lem. Lu-ca ghi lại phép lạ này rất thích hợp, vì đặc điểm chính của câu chuyện là lòng biết ơn và phước lành của một người Sa-ma-ri, mà Lu-ca luôn luôn mô tả Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế chẳng phải riêng cho người Do Thái mà cho cả nhân loại.
Tuy nhiên trong phép lạ này còn có một đặc điểm khác, những người cùi này được truyền lệnh đi khai cho các thầy tư tế rằng họ đã khỏe mạnh trước khi họ được chữa lành. “Đang khi họ đi thì được sạch”. Hành động theo đức tin sẽ được thưởng. Ngài truyền lệnh cho họ hành động như đã nhận được lời cầu xin ấy, rồi cùng với hành động đức tin, lời cầu nguyện được nhận. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu bao hàm một lời hứa, và đối với mọi lời hứa của Ngài, chúng ta có thể luôn luôn tin cậy trong an toàn tuyệt đối.
Lúc ấy Chúa Giêus đang đức trên bờ cõi xứ Ga-li-lê và Sa-ma-ri, có một tốp người cùi ra đón Ngài. Chúng ta đã biết người Do-thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri, nhưng trong số này có ít nhất là một người Sa-ma-ri. Đây là một dẫn chứng về một quy luật trong cuộc sống. Nỗi bất hạnh chung đã phá đổ những bức rào ngăn cách về chủng tộc, họ đã quên mình là Do-thái hay Sa-ma-ri, và chỉ còn nhớ rằng mình là những con người đang có nhu cầu. Người ta cho biết, khi có một trận lụt tràn ra trên một vùng đất nào, các thú vật phải tụ trên một mô đất cao, thì bạn sẽ thấy chúng đứng chung được với nhau, dầu vốn dĩ chúng từng thù địch nhau, và trong dịp khác, hẳn chúng đã dùng hết để cắn xé nhau đến chết. Chắc chắn một điều có thể kéo mọi người lại gần nhau, ấy là niềm khát khao chung của họ đối với Thiên Chúa. Tốp người cùi đứng đàng xa. Họ phải đứng cách xa bao nhiêu thì luật không nói rõ, nhưng có một thẩm quyền cho biết khi chiều gió thổi xuôi từ người cùi tới người lành thì người cùi phải đứng cách xa bốn mươi mét. Điều đó nói lên rõ ràng sự cô lập khủng khiếp mà người cùi phải chịu trong đời sống.
Trong các sách Phúc Âm, không có câu chuyện nào cho thấy rõ lòng vô ân cảu con người một cách chua chát như câu chuyện này. Những người cùi này đã đến với Chúa Giêsu trong niềm hy vọng cao độ, Chúa Giêsu chữa lành cho tất cả, chín người trong số đó đã không trở lại cám ơn Ngài. Thường là thế, một khi người ta nhận được điều mình mong muốn, người không bao giờ trở lại.
1/. Con người thường hay quên ơn cha mẹ.
Lúc còn bé nếu chúng ta bị bỏ quên trong một tuần lễ chắc là chúng ta đã chết. Trong các loài sinh vật, chỉ có con người cần thời gian lâu dài hơn cả mới có thể tự lo được các nhu cầu thiết yếu cho đời sống mình. “Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa.” Suốt bao năm trời đằng đẵng, chúng ta phải lụy cha mẹ trong tất cả mọi sự. Nhưng rồi một ngày ta thấy cha mẹ phải trở nên một nỗi phiền hà quấy rầy chúng ta, và có ít người biết nghĩ đến đền đáp công ơn cha mẹ.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, vừa khả năng của nó, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhọc. Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ nằm liệt giường. Thế là con nhỏ phải giúp, và cả thay thế mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi hững công tác chưa nhận tiền thưởng gồm: xách nước hai giờ, nấu cơm ba giờ, giặt quần áo năm giờ… tất cả các thứ tính chung trong một tuần là tám giờ. Xong, em rón rén vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay mẹ. Ba phút sau, bà mẹđưa cho em tám giờ kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công dưỡng nuôi, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh nhân mười năm: chưa có mục nào được thanh toán cả! Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội vàng chạy vào xin lỗi mẹ.
2/. Chúng ta hay quên ơn đồng loại mình.
Không mấy ai trong chúng ta chưa từng mang ơn lớn đối với một người nào. Ngay lúc đó ít ai nghĩ rằng rồi đây mình sẽ quên ơn, và cũng ít người trong chúng ta đã trả xong nợ tri ân mình đã mắc. Thường là một người bạn một thầy dạy, một người khách qua đường, một bác sĩ làm cho chúng ta một ơn gì đó mà chúng ta không thể báo đáp. Thảm kịch của cuộc đời là người ta không muốn cố gắng để trả ơn nữa.
Vào dịp lễ tạ ơn, cô giaó bảo các em học sinh lớp một vẽ tranh về điều gì chúng em mang ơn. Cô thầm nghĩ: chắc sẽ chẳng có gì đặc biệt: lại những con gà quay hay bàn tiệc đầy đồ ăn là cùng, và cô đã sững sờ trước bức tranh của Douglas, một bàn tay!
Nhưng bàn tay của ai đây? Cả lớp bị lôi cuốn bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một em nói:
– Em nghĩ đó là bàn tay Thiên Chúa đã ban của ăn cho chúng ta.
– Đó là bàn tay của bác nông dân vì đã nuôi những con gà, một em khác nói.
Cuối cùng, khi các em đang làm việc, cô giáo cúi xuống bên Douglas và hỏi xrm bàn tay đó là của ai thì em khẽ nói: Thưa cô đó là bàn tay của cô!
Cô giáo nhớ lại vào giờ ra chơi, cô thường dùng bàn tay dắt Douglas, đứa trẻ tầm thường khốn khổ. Mặc dù cô vẫn làm điều đó với các đứa khác, nhưng với Douglas, nó lại mang một ý nghĩa rất đặc biệt.
3/. Thường chúng ta hay quên ơn Thiên Chúa
Trong giờ phút túng cực, chúng ta cầu nguyện thật hăng say thống thiết, túng cực qua rồi chúng ta quên ơn Chúa. Biết bao người trong chúng ta không hề biết cảm tạ Chúa trước bữa ăn nữa, Ngài đã ban cho chúng ta Con Một của Ngài, mà ta lại không bao giờ biết nói lên lời cảm tạ Chúa.
Thi sĩ Lamatine người Pháp có kể lại một giao thoại như sau: một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ: cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn! Đến gần nơi phát ra âm thanh thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt lên hai tiếng “cám ơn”.
Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, người thợ đá mới giải thích: “Tôi tạ ơn Chúa! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo:
– Giả như bác được giàu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mọi miệng cám ơn Ngài?
– Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao?
– Dĩ nhiên- Lamactin bèn thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi!
Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên:
– Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa!
Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông: vừa đập đá vừa cám ơn Chúa!
Lời cảm tạ tốt nhất chúng ta có thể dâng lên Chúa là cố gắng sống xứng đáng với tình thương và lòng nhân từ của Ngài, mỗi ngày hơn lên:
“Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi
Chớ khá quên mọi ân huệ của Người.” (Tv 103,2)
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN -C
ĐÓN NHẬN ƠN CỨU ĐỘ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng không.
Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3) Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
HÃY TẠ ƠN THIÊN CHÚA – Lm. Đan Vinh HHTM
1/. TIN MỪNG: Lc 17, 11-19
(11) Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. (12) Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa (13) và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !” (14) Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đang khi đi thì họ đã được sạch. (15) Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. (16) Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. (17) Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? (18) Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (19) Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
2/. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay cho thấy trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã chữa cho mười người phong cùi được khỏi do đức tin của họ vào Người, biểu lộ qua lời cầu xin tha thiết và qua thái độ vâng lời Người dạy. Tuy nhiên trong 10 người được khỏi bệnh chỉ có một người Samari biết trở lại tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn Đức Giêsu. Người đã trách những kẻ còn lại như sau: “Thế còn chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Sau đó Người nói với anh Samari: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
3/. CHÚ THÍCH:
– C 11-13: + Trên đường lên Giêrusalem: Đây là lần thứ ba thánh Luca nói tới việc Đức Giêsu đi lên Giêrusalem (Lc 9,51;13,32). Thành Giêrusalem là đích điểm của cuộc hành trình, và cũng là nơi kết thúc cuộc đời Đức Giêsu trước khi Tin mừng được rao giảng đi khắp thế giới (x. Lc 24,47). + Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê: Để lên Giêrusalem, phải đi ngang qua vùng đồng bằng sông Giođan và thành Giê-ri-khô (x. Lc 18,35). + Người vào một làng kia thì có mười người phong hủi đón gặp Người: Để tránh cho nhiều người khỏi bị lây bệnh, Luật Môsê buộc những người bệnh cùi phải sống cách xa chỗ ở của dân chúng (x. Lc 13,46). + Họ dừng lại đằng xa: Bệnh cùi không những là bệnh đáng sợ về thể xác, mà còn là hình phạt của Đức Chúa dành cho những tội nhân (x. Đnl 28,27). Thời xưa vì khoa học chưa tiến bộ, nên khi thấy một số triệu chứng nghi ngờ trên da bệnh nhân, các tư tế dễ khẳng định họ mắc bệnh này (x. Lv 13,9-17). Người mắc bệnh phong cùi bị buộc phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi thấy có người đến gần thì phải kêu lên “Ô uế! Ô uế!” để người ta biết mà tránh xa (x. Lv 13,45). + “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi”: Chữ Thầy ở đây bày tỏ một lòng tin tưởng sâu xa. Chữ này chỉ thấy trong Tin mừng Luca và do các môn đệ sử dụng (x. Lc 5,5; 8,24.45). Mười người cùi này đã làm trái với quy định Luật pháp, vì họ tin vào tình thương của Đức Giêsu đối với bệnh nhân.
– C 14-16: + “Hãy đi trình diện với các tư tế”: Khi ra lệnh cho các người cùi đi trình diện với các tư tế, Đức Giêsu đã gián tiếp chữa bệnh dựa vào lòng tin của họ, biểu lộ qua thái độ mau mắn vâng lời đến với các tư tế để được chứng nhận khỏi bệnh (x. Lv 13,49). Và quả thật, khi đi đường thì họ đã thấy mình được lành sạch. Qua phép lạ này, Đức Giêsu chứng tỏ Người vừa là Đấng quyền năng, lại vừa trung thành tuân giữ Lề luật (x. Lv 14,2-3). + Lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa: Luca thích ghi nhận thái độ tôn vinh Đức Chúa của người nhận được phép lạ (x. Lc 5,25-26; 7,16). + Anh ta lại là người Samari: Người Do thái khinh thường người Samari. Thế nhưng ở đây chỉ có người Samari là đã quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa. Điều này cho thấy Đức Giêsu đến cứu chuộc mọi người không phân biệt Do thái hay dân ngoại.
– C 17-19: + “Không phải cả mười người đều được sạch sao?”: Đức Giêsumuốn cả 10 người đều trở lại. Nhưng chỉ có người Samari. Chín người kia là người Do thái đã không trở lại cám ơn, có lẽ do không có thói quen ấy hoặc do họ nghĩ mình là dân ưu tuyển, có quyền đòi Chúa phải ban ơn và không cần phải cám ơn Người. + “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”: Đức Giêsu tỏ lòng ưu ái đặc biệt đối với người Samari ngoại đạo, vì anh đã bày tỏ lòng biết ơn. Người cho biết: ơn cứu độ được ban cho người ta không căn cứ trên nguồn gốc Do thái hay dân ngoại, nhưng căn cứ trên lòng tin. Một lòng tin thực sự phải được biểu lộ, không những bằng lời xin ơn, mà còn bằng việc cảm tạ tôn vinh Chúa suốt cả cuộc đời.
4/. CÂU HỎI: 1) Luật Môsê quy định về sinh họat của các người bị bệnh phong cùi ra sao? 2) Mười người phong cùi đã cầu xin với Đức Giêsu thế nào? 3) Qua việc ra lệnh cho mười người cùi đi trình diện với tư tế, Đức Giêsu cho thấy quan điểm của Người đối với Luật Môsê ra sao? 4) Câu nào cho thấy Đức Giêsu muốn người ta phải tỏ thái độ biết ơn Thiên Chúa? 5) Ta phải tạ ơn thế nào khi được ơn Chúa ban nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ và các thánh?
II/. SỐNG LỜI CHÚA:
1/. LỜI CHÚA: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo này?” (Lc 17,17-18).
2/. CÂU CHUYỆN:
1). NGƯỜI ĐỜI THÍCH XIN ƠN HƠN LÀ TẠ ƠN CHÚA:
Có câu chuyện về sự xin ơn và tạ ơn Chúa như sau: một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần gian làm nhiệm vụ, một vị đi thu gom những lời cầu xin của con người; còn vị kia thì thu nhặt những lời tạ ơn của người đời dâng lên Chúa. Chỉ vài giờ sau, vị thiên thần thu gom lời cầu xin đã trở về với hai va-li lớn chứa đầy những lời cầu xin. Sau nhiều ngày chờ mãi vẫn không thấy thiên thần thứ hai trở lại thiên đàng, Thiên Chúa lại sai một thiên thần khác bay xuống trần gian đi tìm, thì mới hay thiên thần thứ hai đang vất vả bay đi khắp phố phường, làng mạc… vì sau nhiều ngày vị này vẫn chưa gom được bao nhiêu những lời tạ ơn Thiên Chúa!
2). KHÔNG NGỪNG TẠ ƠN CHÚA:
Thi sĩ LA-MÁC-TIN (Lamartine), người Pháp đã kể lại một giai thoại vui như sau: một hôm khi đi ngang qua một cánh rừng, ông chợt nghe thấy một âm thanh lạ: cứ kèm mỗi tiếng búa đập đá chan chát là một câu nói “Tạ ơn Chúa !”. Thi sĩ tò mò đến gần thì thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa nện vào phiến đá trước mặt là ông lại thốt ra một câu: “Tạ ơn Chúa !”. Thi sĩ nấn ná đến gần hỏi xem ông ta đang làm gì thì được trả lời như sau: ”Tôi đang tạ ơn Chúa !” Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống xem ra khá vất vả, thi sĩ liền bảo ông ta: “Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu được lý do tại sao bác luôn “Tạ ơn Chúa”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần khi cho bác được đầu thai trong lòng mẹ. Sau đó Ngài cũng ban cho bác duy có một cái búa này và không còn ngó ngàng gì tới bác nữa. Vậy tại sao bác lại cứ phải tạ ơn Ngài mãi như thế?”
– Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao? Người thợ đá hỏi lại.
– Dĩ nhiên – Lamartine nhắc lại: Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần mà thôi!
Bấy giờ người thợ đập đá liền nói với ông khách:
– Ông nói như vậy cũng phải thôi. Nhưng ông cũng hãy nghĩ lại mà xem: Thiên Chúa vô cùng lớn lao lại thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và dù Ngài chỉ nghĩ đến tôi một lần duy nhất, lại không đủ để tôi phải tạ ơn Ngài suốt đời hay sao?”.
Nói xong, người thợ đá bỏ mặc ông thi sĩ đứng đó, quay lại tiếp tục vừa đập đá vừa nói: “Tạ ơn Chúa !”; “Tạ ơn Chúa !”; “Tạ ơn Chúa !”…
3). TẠ ƠN CHÚA MỖI NGÀY:
BAI-ƠN ĐEO (Byron Dell) kể lại câu chuyện liên quan đến ông hồi còn nhỏ như sau: “Tôi đã lớn lên tại một nông trại miền Nêbátca (Nebraska). Khi lên 8 tuổi, tôi có nuôi một con ngựa nhỏ tên là Phítki (Frisky). Một buổi sáng kia, khi tôi đang ngồi trên lưng con ngựa thân yêu và tiến đến gần mấy con bò cái đang ăn cỏ, thì bỗng nhiên chú ngựa con tôi đang cưỡi nổi hứng vùng chạy như điên mà tôi không sao ghìm cương cho nó đứng lại được. Mấy lần tôi sắp bị té xuống đất, nhưng may sao tôi đã kịp gượng ngồi lại được trên yên ngựa. Ba tôi cùng mấy người giúp việc vội vàng leo lên mấy con ngựa khác đuổi theo. Sau mấy cây số băng rừng lội suối. Khi bắt kịp tôi, ông nắm chặt giây cương con ngựa của tôi và bắt nó phải dừng lại. Sau đó ba tôi bồng tôi sang ngồi trên yên ngựa với ông và dắt con ngựa của tôi chạy theo phía sau. Nó ngoan ngoãn theo chân con ngựa của chúng tôi quay về nông trại. Tối hôm đó, ba tôi đã theo tôi lên đến tận chỗ tôi nằm ngủ trên gác. Ông yêu cầu tôi cùng ông quì trên sàn cạnh giường để tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho tôi được an toàn sau sự cố ban chiều. Sau đó ông đã dâng một lời nguyện tự phát để cảm tạ Chúa thay cho tôi”.
Biến cố ấy xảy ra cách đây đã 55 năm. Thế mà BaiƠn vẫn không bao giờ quên được. Nó làm cho ông cảm thấy xúc động và cảm phục ba rất nhiều. Nhất là biến cố đó đã dạy cho BaiƠn bài học về cách thể hiện lòng biết ơn đối với Chúa. Từ ngày ấy, mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều quì bên giường thưa với Chúa một lời cầu nguyện tự phát để cám ơn Người đã ban các ơn lành hồn xác cho ông trong một ngày qua, và cầu xin Chúa thương tiếp tục gìn giữ ông qua đêm bình an.
4). PHẢI BIẾT TẠ ƠN CHÚA:
David đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng cảm thấy sung sướng. Nhưng chỉ một phút sau, anh lại cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nãy người ăn xin kia đã không nói lời cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe. Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi :
– Khi anh cho tiền người ăn xin, anh cảm thấy thế nào?
– Con thấy rất vui.
– Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao?
– Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải nói cám ơn con mới phải.
– Thế sao con đã không cám ơn Chúa?
– Tại sao con lại phải cám ơn Chúa?
– Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ để Chúa có thể thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (FM)
5). BÁC NÔNG DÂN TẠ ƠN CHÚA:
Một ngày kia, có hai thầy trò đi dạo trên con đường miền quê. Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi giày cũ kỹ bên vệ đường. Đó là đôi giày của người nông dân nghèo khó đang làm ở thửa ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định giấu đôi giày đi để trêu chọc người nông dân, nhưng thầy giáo đã ngăn cản cậu: “Con đừng tìm niềm vui qua việc trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng hãy tìm niềm vui khác lớn hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền xem bác nông dân phản ứng ra sao?”. Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một bụi cây quan sát xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để về nhà, người nông dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn ra chung quanh nhưng không thấy ai, ông lại ngắm nhìn hai đồng tiền thật lâu rồi mới bỏ vào túi. Với sự xúc động tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng một bàn tay vô hình nào đó, đem đến cho ông một món quà thật đúng lúc trong lúc gia đình ông đang gặp hoàn cảnh khốn khó.
3/. SỐNG LỜI CHÚA: 1) Trong các câu chuyện trên, bạn thích câu chuyện nào nhất? Tại sao? 2) Bạn thấy việc tạ ơn Chúa khi đã nhận được ơn có hợp tình hợp lý không? 3) Bạn có ý kiến thế nào về câu nói sau: “Tất cả đều là hồng ân: Cuộc đời của chúng ta, dù được may lành như ý hay gặp rủi ro trái ý cũng đều không ngòai thánh ý Chúa quan phòng, và đều mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của ta. Nên ta phải luôn dâng lời cảm tạ tri ân Chúa”?
4/. SUY NIỆM:
Biết ơn là thái độ của một người có giáo dục và nhân cách. Người xưa đã dạy về lòng hiếu thảo biết ơn như sau: ”Uống nước nhớ nguồn; Làm con phải hiếu; Công cha như núi Thái Sơn; Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”… Về phạm vi đức tin, người tín hữu cần ý thức về công ơn lớn lao của Thiên Chúa đã làm cho mình, để từ đó tỏ lòng biết ơn Ngài như con thảo đối với cha hiền. Vậy tại sao chúng ta phải biết ơn? Ích lợi của sự biết ơn ra sao? Mỗi người chúng ta phải làm gì để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa và tha nhân?
1). Những lý do của lòng biết ơn:
-Vì biết ơn là thái độ phù hợp với đạo làm người: Khi chịu ơn ai chúng ta phải tỏ lòng biết ơn họ mới hợp đạo lý như người ta thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Kẻ không biết ơn sẽ bị khinh dể là phường “vô ơn bạc nghĩa”; “Ăn cháo đá bát”; “Vắt chanh bỏ vỏ”, “Qua cầu rút ván”…
-Vì biết ơn là biểu hiện một người có giáo dục, có văn hóa: Một người biết nói lời “cám ơn” cho thấy một nhân cách tốt, có trình độ văn hóa cao và sẽ được mọi người kính nể như người xưa dạy như sau: “Công ai một chút chớ quên. Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”.
2). Ích lợi của lòng biết ơn:
-“Lời nói không mất tiên mua; Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”: Thái độ biết ơn sẽ gây được thiện cảm của người làm ơn và chắc sẽ được họ tiếp tục giúp đỡ ta sau này.
-Đặc biệt nếu cha mẹ, thầy cô, thủ trưởng… mà biết nói lời “cám ơn” với người dưới quyền như con cái, học trò, thuộc cấp… chắc sẽ làm cho họ vui và kể lại cho nhiều người khác biết về phẩm chất tốt đẹp của chúng ta.
-Tuy nhiên mỗi người cần tránh thái độ “công thần”, nghĩa là giúp ai được điều gì thì thích kể công để khoe khoang và đòi người chịu ơn phải luôn nhớ đền ơn cho mình. Trái lại chúng ta nên coi việc giúp đỡ tha nhân là một nhiệm vụ phải làm mà không cần trả ơn, thì người chịu ơn sẽ lại càng cảm phục chúng ta hơn, và sau này chính Chúa sẽ trả ơn cho chúng ta trước tòa phán xét như lời Chúa Giêsu: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
3). phải năng tạ ơn Thiên Chúa và tha nhân:
a). Thái độ tạ ơn Thiên Chúa biểu lộ một đức tin chân thành:
-Ngay từ thời Cựu ước, tác giả thánh vịnh đã dạy loài người phải biết tạ ơn Thiên Chúa như sau: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118,1). Thời kỳ Xuất hành, dân Ítraen cũng đã bắt đầu truyền thống tạ ơn Đức Chúa qua việc dâng lễ đầu mùa lên cho Ngài (Đnl 26,1-10).
-Đến thời Tân ước, Đức Giêsu nhiều lần nêu gương cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha. Chẳng hạn: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn…” (Mt 11,25-26). Đức Giêsu cũng đòi những ai nhận được ơn phải biết cám ơn Thiên Chúa như sau: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17,17-18).
-Hội Thánh Công Giáo cũng biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa bằng việc năng cử hành bí tích Thánh Thể (x. Lc 22,19) được gọi là Thánh Lễ Tạ Ơn. Trong thánh lễ, Hội Thánh dâng lời tạ ơn Thiên Chúa bằng việc dâng bánh rượu là kết quả của lao công để sẽ biến thành Mình Máu thánh Chúa Kitô. Sau đó, nhờ lễ vật rất cao trọng này, các tín hữu sẽ dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình cảm tạ và xin ơn.
b). Những cách tỏ lòng biết ơn:
-Cuộc sống chúng ta là một chuỗi những hồng ân của Chúa: Có những ơn do Thiên Chúa trực tiếp ban và cũng có những ơn Chúa nhờ tay người khác ban cho chúng ta. Vậy chúng ta cần làm gì khi nhận được những món quà ấy? Thánh Bênađô đã dạy: ”Tôi xin anh em điều này là hãy tránh thói xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời chúng ta là một lời cám ơn liên lỉ… Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ nói lời cám ơn suông, nhưng hãy biết sử dụng những ơn lành Chúa ban. Đó là điều Chúa đòi hỏi chúng ta”.
-Phải biết ơn bằng hành động: Bài đọc I trong thánh lễ hôm nay cho thấy lòng biết ơn phải được biểu lộ bằng hành động noi gương viên tướng Naaman người xứ Aram (x. 2 V 5,14-17).
-Phải vui vẻ đón nhận mọi điều xảy đến: Cám ơn Chúa vì những điều may lành như ý mình thì dễ, nhưng cám ơn về những điều rủi ro trái ý lại không dễ chút nào. Vì thế chúng ta cần tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho ta: vui cũng như buồn, thành công cũng như thất bại, an lành khỏe mạnh cũng như rủi ro tật bệnh… Vì những điều đó đều hữu ích cho phần rỗi của chúng ta, như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã quả quyết: “Tất cả đều là hồng ân”.
-Cần tập thành thói quen cám ơn: Cha mẹ công giáo cần tập cho con cái biết cám ơn những người làm ơn cho mình ngay từ khi chúng bập bẹ nói. Mỗi tối, chúng ta cũng hãy nhớ lại những ơn tinh thần vật chất nhận được trong ngày, rồi dâng lời tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã viết: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu” (1 Cr 1,4).
4/. NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU, Thánh Inhaxiô đã nói: “Tội lớn nhất nơi con người là tội vô ơn”. Hôm nay, Chúa dạy chúng con bài học phải biết cám ơn Chúa. Cám ơn Chúa như người cùi Samari ngoại giáo biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa sau khi đã được chữa lành. Con phải cám ơn Chúa vì sự cám ơn đó mang lại ích lợi cho chính con, như lời kinh tiền tụng trong Thánh lễ: “Việc tạ ơn không thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại lợi ích cho phần rỗi đời đời của con”.
– LẠY CHÚA. Đời con được dệt bằng biết bao hồng ân của Chúa mà nhiều khi con chưa ý thức được. Có lẽ chẳng khi nào con tạ ơn vì đã được làm người và được làm con cái Chúa. Có lẽ chưa khi nào con tạ ơn vì Chúa đã ban khí trời để con thở, cơm ăn nước uống cho con, vũ trụ thiên nhiên tươi đẹp để giúp con được sống vui tươi. Cũng chưa bao giờ con tạ ơn Chúa vì con đã được Chúa ban mạnh khỏe, thân xác lành lặn, tâm hồn bình an… Quả thực, đó là những ơn to lớn mà con lại cho là chuyện đương nhiên, nên con đã tỏ ra vô ơn với Chúa. Từ nay xin Chúa cho con nhận ra những ơn lành Chúa đã thương ban và không ngừng dâng lời cảm tạ tri ân Chúa. Tri ân bằng lời ca tụng Chúa và nhất là bằng một cuộc sống luôn vâng theo thánh ý Chúa.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA DIỄN TẢ QUA TRIGN GIAN CON NGƯỜI – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ
Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, đó là người nói dối. Tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua tình yêu con người đối với nhau. Thiên Chúa cũng yêu thương con người qua những trung gian của Ngài, cụ thể qua những con người sống chung quanh chúng ta.
Thay đổi con người, để có thể lãnh nhận hồng ân
Naaman trước khi xuống tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với tiên tri Êlisa vì ông tưởng rằng tiên tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn cùng Thiên Chúa, và chữa ông khỏi. Đằng này, tiên tri chỉ sai người nói với Naaman: “đi tắm bảy lần ở sông Jordan, thì sẽ được sạch”. Naaman nghĩ: “Nước sông ở Đa-mát chẳng sạch hơn nước sông ở Jordan sao?” Và Naaman đã không muốn xuống tắm.
Naaman đòi người của Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách thế của mình. Nhưng Thiên Chúa không muốn thế, và người của Thiên Chúa lại không muốn vậy. Đòi hỏi để được khỏi bệnh quá đơn giản đến độ Naaman không thể tin được, và không muốn tin. Nếu Naaman không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời sứ giả của tiên tri, thì chắc ông chẳng khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta cũng thường đòi Thiên Chúa phải làm theo ý người ta, theo điều kiện người ta đặt cho Chúa. Trường hợp của Naaman cho thấy, nếu người ta không bỏ mình, e rằng người ta khó có thể đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Bao nhiêu yếu tố xảy đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ gái “quá thơ ngây” suýt gây họa cho cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của Naaman khuyên ông nên vâng lời vị sứ giả của tiên tri, và cả dòng sông nước không được sạch dưới con mắt của Naaman. Trong cuộc sống của mỗi người, dường như cũng được đan dệt bằng bao nhiêu lời, bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên mỗi người như hiện tại. Chúng ta có nhận ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên Chúa không?
Đức Giêsu- tình yêu của Thiên Chúa cho con người
Người phong cùi, theo luật Do Thái, không được tiếp xúc với người lành. Chính vì vậy, họ đứng đàng xa và kêu xin Đức Giêsu thương xót, chữa lành họ. Họ đáng thương, không chỉ vì con bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác, nhưng họ còn đau khổ hơn khi phải tách biệt với xã hội con người, với những người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái của họ. Đức Giêsu giúp con người giao hoà với Thiên Chúa và giao hoà với nhau.
Đức Giêsu nói với những người phong cùi: “đi trình diện với các tư tế”. Luật Do Thái dạy những người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện thầy tư tế, để được xác nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi. Niềm tin phó thác biểu lộ qua thái độ vâng lời Đức Giêsu, làm những người phong cùi được khỏi bệnh. Thiên Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi Ngài. Tin tưởng phó thác tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người được thương và được cứu độ.
Chỉ có mỗi người ngoại trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. “Chín người kia đâu? Không phải cả mười người được khỏi sao?” Chín người kia chắc chắn được khỏi bệnh phong cùi, còn người ngoại này không chỉ được khỏi bệnh thân xác, nhưng còn được nhiều ơn thiêng liêng khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong đời mình, là một dấu chỉ của người đang sống hạnh phúc.
Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín
“Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”. Đi theo Đức Giêsu, đòi chúng ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế gian và xác thịt. Không chiều theo những ham muốn của xác thịt và thế gian, là một cách chết cho thế gian, cùng chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín: nếu chúng ta chết cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài.
“Nếu chúng ta chối Ngài, Ngài cũng chối chúng ta”. Sở dĩ vậy, vì nếu chúng ta cứng lòng và cố tình chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài không thể làm khác được. Thiên đàng không thể có đối với người không muốn “lên thiên đàng”. Về phía Thiên Chúa, Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn con người ở trong tình yêu của Ngài, Ngài muốn họ “lên thiên đàng” nhưng Ngài không buộc họ phải lên thiên đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch Ngài, Ngài phải chịu vì Ngài đã cho con người tự do.
“Nếu chúng ta bất trung, thì Ngài vẫn trung thành”. Nếu vì yếu đuối, chúng ta bất trung, thì Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta trở lại với Ngài. Tình yêu Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích hoà giải, mỗi khi con người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải với Ngài qua trung gian thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn trở lại, đã là hồng ân của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1/.Xin bạn cho một vài thí dụ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người qua các trung gian!
2/.Đức Giêsu có là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người không? Xin bạn chia sẻ quan điểm lập trường của bạn.
3/.Với kinh nghiệm bản thân, thay đổi bản thân nên có thể đón nhận hồng ân, hay, đón nhận hồng ân nên thay đổi chính mình? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm!
CHÚA NHẬT XXVIIII THƯỜNG NIÊN- C
BIẾT ƠN VÀ TẠ ƠN- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Mười người phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay bị hất hủi, bị bỏ rơi, bị cách ly, bị loại trừ, bị cô đơn, bị khinh miệt, bị xa tránh….Những điều này đã tạo nên một nỗi đau thấu ruột thấu gan của họ.
Ai cũng biết họ đau đớn khổ sở, nhưng không ai dám tiếp xúc vì sợ nhiễm uế, nên không dám sẻ chia, có chăng là một cái nhìn thương hại, và tích cực hơn nữa là cảm thông, thương xót một chút mà thôi.
Trời cao thấu hiểu, Thiên Chúa xót thương lắng nghe lời khẩn xin tha thiết trước nỗi đau đớn tột cùng của họ từ cùng cõi địa cầu này: “ Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con “ ( Lc 17, 13 ).
Thông thường, người đời sẽ lợi dụng những dịp này để đặt điều kiện, để làm tiền, để đòi hỏi vòi vĩnh thì mới chữa bệnh cho họ, mà chưa chắc gì chữa lành được cho họ, thậm chí họ còn tiền mất tật mang nữa là khác. Nếu như thế thì là thật tội nghiệp cho họ vì cùng cực sẽ chồng chất cùng cực, nỗi đau sẽ chồng chất nỗi đau.
Chúa động lòng trắc ẩn, Chúa cứu chữa họ vô điều kiện, nhưng vì tôn trọng qui định của con người thời ấy và muốn cho họ không bị một ai đó làm phiền sau khi lành bệnh, cho nên Chúa mới bảo họ: “ Các con hãy đi trình diện với các tư tế “ ( Lc 17, 14 ). Họ đã được ơn lành bệnh nhưng không: “ Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch “ ( Lc 17, 14b ).
2-Biết ơn.
Mười người phong cùi được Chúa ban cho ơn như nhau là được lành bệnh chứ Chúa không thiên vị một ai trong họ. Nhưng chỉ có một người nhận ra ơn lành cao cả nhưng không này. Có mơ cũng không dám nghĩ tới là mình được chữa lành bệnh một cách miễn phí, không tốn tiền bạc, không mất thời gian chờ đợi, chỉ một lời cầu xin thôi mà mình được như ý. Đây là chuyện thực như mơ trong cuộc sống. Không cần phải đi đâu cho xa xôi, không cần vượt qua sông núi, băng qua non ngàn, không cần phải chèo thuyền vượt trùng dương ngàn dặm trắc trở để mà tìm được ơn lành bệnh, nhưng mà họ đã được lành bệnh ngay hiện tại này đây. Và rồi một người ngoại đạo: “ Mà người ấy lại là người xứ Samaria “ ( Lc 17, 16b ) đã cảm nhận, đã biết và hiểu rõ như thế cho nên đã vội vàng cất bước trở lại với Chúa. Bước chân của người ấy, lúc này thật nhẹ nhàng, thanh thoát, mau lẹ, kẻo trễ, đến để gặp lại Chúa lần thứ hai, và người này đã quỳ sấp mình dưới chân Chúa và tạ ơn Chúa ( Lc 17, 16a ).
3-Tạ ơn Chúa.
Lời tạ ơn này chẳng mang lại thêm gì vinh quang cho Chúa nhưng mang lại ơn ích cho người phong cùi. Sau lời tạ ơn là giây phút Chúa khen lòng tin của kẻ ấy: “ Ngươi hãy đứng dậy mà về; vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi “ ( Lc 17, 19 ).
Còn gì hạnh phúc cho bằng được Chúa khen tặng lòng tin như vậy. Lời khen của Chúa lúc này như là một sự chuyền lửa, hà hơi, tiếp sức tăng thêm nghị lực, sức mạnh, giúp cho người này sống trọn vẹn ý nghĩa của hai chữ “ Tạ Ơn “.
Điều Chúa muốn khi chúng ta sống tâm tình tạ ơn lúc này là thay đổi cách sống theo ý Chúa. Chúng ta hãy nhìn ông Naaman, vị vua xứ Siria khi được tiên tri Êlisêô chữa lành bệnh phong cùi trong bài đọc một được trích từ sách Các Vua quyển thứ hai hôm nay. Ông biết ơn Chúa qua tiên tri và ông thay đổi lối sống của ông là chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi. Ông đã nói: “ Thật từ nay tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một mình Thiên Chúa của Israel “, để rồi: “ Vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho thần minh nào khác “. Ông tin vào Chúa và hành động theo ý Chúa.
Lạy Chúa, theo tư tưởng của thánh Phaolô tông đồ trong thư thứ hai gởi ông Timôthê ở bài đọc hai: Được làm con Chúa, được làm tông đồ của Chúa, được đón nhận Tin Mừng cứu độ là ơn lớn nhất của con người chúng con. Vì thế chúng con phải nổ lực sống Lời Chúa dạy, sống chứng tá cho Chúa. Đó là cách thức chúng con tạ ơn Chúa, cho dù chúng con có bị xiềng xích, tù tội: “ Nếu chúng ta cùng chết với Người thì chúng ta cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta se cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình Người “. Xin Chúa cho chúng con có một tâm hồn nhạy bén để chúng con luôn nhận ra các ơn Chúa ban trong cuộc sống mà chúng con tạ ơn Chúa cho phải đạo làm con Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-C
TÂM TÌNH TẠ ƠN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Lòng biết ơn là một trong những lễ nghĩa cao nhất không thể thiếu trong cuộc sống con người với nhau. Ngay trong lãnh vực đạo hiếu, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn; công cha nặng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang…”. Qua đó, cũng đủ thấy rằng, truyền thống cha ông chúng ta rất đề cao đặt nặng lòng biết ơn.
Khi Đức Giêsu đến trần gian, một trong những gương Ngài để lại cho chúng ta đó là tâm tình tạ ơn. Ngài tạ ơn Thiên Chúa Cha trước khi phục sinh Ladarô. Tạ ơn Thiên Chúa Cha trước khi hoá bánh ra nhiều. Tạ ơn Thiên Chúa Cha khi lập Bí tích Thánh Thể.
Cả cuộc sống của Đức Giêsu là một bài ca tạ ơn. Ngài rất trọng lòng biết ơn, cho nên Ngài muốn chúng ta là con cái cũng phải biết sống tâm tình tạ ơn. Bởi vì việc tạ ơn chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Thế nhưng, trong thực tế người đón nhận ơn Chúa thì nhiều, nhưng người biết ơn Chúa lại rất ít.
Bằng chứng Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chữa lành 10 người cùi, nhưng chỉ có một người quay lại tạ ơn Chúa, mà người đó là người ngoại, xứ Samaria.
Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho bao nhiêu ngàn người ăn no nê dư đầy, nhưng khi Chúa vác Thánh giá lên đồi Canvê té ngã nhiều lần, vậy mà chỉ có một người đứng ra vác đỡ Thánh giá cho Chúa, đó là ông Ximong, ngoại giáo.
Đức Giêsu rao giảng Tin mừng như Đấng có uy quyền và kèm theo các phép lạ, dân chúng tin theo Chúa đông lắm. Vậy mà khi Chúa vừa tắt thở trên cây Thánh Giá, thì chỉ có một người lớn tiếng tuyên xưng đức tin: “Đúng ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Người đó là viên sĩ quan ngoại giáo.
Như vậy, những người con Chúa, những người thụ ơn Chúa ở đâu rồi, sao không thấy dâng lời tạ ơn Chúa; cũng chẳng thấy ai đứng ra bênh vực Chúa? Nói như thế không có nghĩa là chúng ta sống vô ơn với Chúa, nhưng điều muốn nói ở đây là chúng ta sống chưa đúng, chưa xứng với những hồng ân Chúa tràn phủ trên cuộc đời chúng ta.
Người sống tâm tình biết ơn là người ý thức thân phận nghèo hèn của mình, và thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa là Cha phép tắc và lòng lành vô cùng. Người có lòng biết ơn tự nhủ rằng: một mình không thể nào nên người được nếu không sống cùng, sống nương nhờ người khác.
Bởi lẽ, không ai là một hòn đảo. Chúng ta được sinh ra và lớn lên, đều cần có sự trợ giúp từ người khác. Miếng cơm chúng ta ăn, manh áo chúng ta mặc đều có sự đóng góp công sức của nhiều người. Chúng ta có làm được ông này hay bà nọ cũng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, công lao dạy dỗ của thầy cô. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng dùng như tiền bạc, nhà cửa, tài năng, sức khỏe, thời giờ…tất cả đều là hồng ân Thiên Chúa ban tặng. Vì thế, tiếng nói cám ơn với tấm lòng chân thành là chứng tỏ con người có nhân cách cao và thể hiện niềm tin sâu sắc vào Thiên Chúa.
Sở dĩ Đức Giêsu rất trọng lòng biết ơn cũng vì ích lợi cho con người mà thôi. Người Samaria trở lại tạ ơn Chúa vì được ơn chữa lành phần xác, thì Chúa lại ban thêm khi củng cố niềm tin cho anh. Chúa nói: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của con đã cứu chữa con”(Lc 17,19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn nữa.
Anh chị em thân mến,
Lòng biết ơn không chỉ trên môi miệng, nhưng cần thể hiện bằng cả cuộc sống nữa. Đức Giêsu không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy khi lập Bí tích Thánh Thể: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó Thánh lễ là lời tạ ơn cao cả nhất. Bởi vì, Giáo hội cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. Vậy chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ để tạ ơn theo ý Chúa muốn.
Mẹ Maria đã cảm nghiệm được lòng Chúa thương xót khi Mẹ cất lên lời kinh tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Ngài đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,46-49). Và rồi Mẹ đã dành cả cuộc đời để tạ ơn Chúa. Thánh Inhaxiô nói : “Tội lớn nhất là tội vô ơn”. Chín người Do thái không biết cám ơn, chỉ được khỏi bệnh phong cùi thể xác. Người Samaria biết cám ơn, khỏi phong cùi cả phần hồn là tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, anh đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu tạ ơn Người, đây là thái độ đức tin, vì anh tin rằng: Đây là Đấng cứu độ duy nhất, là vị lương y cao tay đầy quyền năng giàu lòng thương xót đã chữa lành cho anh. Vậy để thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, giờ đây kính mời anh chị em cùng đứng lên tuyên xưng niềm tin của mình. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
HÃY CHIA SẺ HẾT LÒNG VỚI ĐỨC GIÊSU- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Câu chuyện của bài Tin mừng tuần này làm sáng tỏ nhiều điểm quan trọng cần phân biệt. Ơn cứu độ cao trọng hơn ơn chữa bệnh thể lý, và lòng tin vào Chúa Giêsu làm cho người Samaritanô trở lại cám ơn Chúa Giêsu làm cho ông xứng đáng hưởng ơn cứu độ trong khi những người khác chỉ hưởng ơn chữa lành thể lý. Những nghi kỵ phân biệt ngàn đời vốn hằng ngự trị trong tư duy của những người do thái hay của chúng ta đối với những người khác bị cho là ngoại đạo không biết lề luật giờ đây được thay đổi bởi một tiêu chuẩn quyết định là lòng tin và tương quan chân thật với Chúa Giêsu. Những người nổi bật trong các bài đọc của chúa nhật tuần này là tướng Naaman người xứ Syria và người phong cùi xứ Samaria trở lại tạ ơn Thiên Chúa, họ đã có một thái độ và trải nghiệm gương mẫu là vì lòng chân thành và lòng tin mới mẻ, dù họ chỉ là những người ngoại giáo so với những người do thái. Vào thời Chúa Giêsu, có nghi kỵ giữa những người do thái và người xứ Samaria bởi vì những người xứ Samaria bị cho là dân ngoại đạo, phần lớn họ là dân không phải bị đi lưu đày thời Cựu ước và sống pha trộn với dân địa phương và không trung thành giữ những qui định của lề luật, ngoài ra họ còn pha trộn lòng tin vào Giavê Thiên Chúa với những tín ngưỡng địa phương.
Trong câu chuyện các bài đọc, ơn chữa lành bệnh cùi là một ơn đặc biệt Thiên Chúa dành cho những người tìm kiếm chân thành. Trong sách Các Vua quyển II có thuật lại trường hợp của tướng Naaman được chữa lành thời tiên tri Êlisê. Ông là một người ngoại, quan lãnh binh của nhà vua xứ Syria. Qua một người nữ tỳ, ông nghe biết ở xứ do thái có tiên tri Êlisê là người của Thiên Chúa có khả năng trị bệnh nên đã mạnh dạn xin phép nhà vua của mình để lên đường đến xứ Do thái để được chữa trị. Khi tiếp xúc lần đầu, ông không được gặp mặt tiên tri, chỉ được hướng dẫn xuống sông Giorđan tắm 7 lần, ban đầu ông do dự và tức giận vì không được tiên tri gặp mặt thăm hỏi, nhưng sau đó nghe lời khuyên của những người tùy tùng, ông cố gắng xuống tắm dưới sông Giorđan và da thịt ông được lành sạch. Để tỏ lòng biết ơn đối với người của Thiên Chúa đã chữa lành cho ông, ông trở lại để xin tạ ơn. Được gặp người của Thiên Chúa, ông tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa hằng sống và xin phép để hậu tạ đối với tiên tri, nhưng tiên tri đã từ chối. Thái độ ngay thẳng và biết ơn của Naaman đã được chính Chúa Giêsu ghi nhận, ông là con người chân thành và hiểu biết nên xứng đáng được ơn chữa lành, trong khi có nhiều người phong cùi khác trong xứ Do thái thời tiên tri Êlisê nhưng không được chữa lành.
Vào thời Chúa Giêsu bệnh cùi là bệnh nan y, những người cùi phải sống ngoài cộng đoàn và không được hiệp thông đời sống xã hội và tôn giáo với những người khác. Câu chuyện Tin mừng thánh Luca thuật lại Chúa Giêsu trên đường đi Giêrusalem, đã xuyên qua xứ Galilêa và Samaria để đến thung lũng sông Giorđan và có mười người bệnh phong cùi đến gặp người và xin người thương xót họ. Những người phong cùi không được trực tiếp tiếp xúc với những người lành mạnh nên họ phải đứng từ xa mà la lớn tiếng, đồng thời họ cũng không xin rõ Chúa chữa lành mà chỉ xin người thương xót họ. Nhận lời cầu xin của họ, Chúa Giêsu truyền cho họ đi trình diện các tư tế theo luật. Và trong khi đi đường, họ được chữa lành. Họ đã được chữa lành vì đã vâng theo lời truyền của Chúa Giêsu. Từ đây câu chuyện sẽ làm nổi bật lên thái độ mới mẻ đáng khen ngợi của một trong số mười người vừa được chữa lành. Nhận thấy mình được chữa lành, người này nhận biết sức mạnh chữa lành do bởi Chúa Giêsu, nên ông đã vội vàng quay lại để ngợi khen Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để tạ ơn người. Tin mừng Luca ghi nhận người này lại là người xứ Samaria. Sự khác biệt giữa người xứ Samaria này, vốn bị những người do thái đánh giá là vô đạo, là ở lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu trong khi chín người khác, được chữa lành đã không biết ơn để ngợi khen Thiên Chúa và tạ ơn Chúa Giêsu. Và như thế, một cách kín đáo, Tin mừng đã ghi nhận thời điểm mới của công trình của Chúa Giêsu, phá đi ranh giới phân cách chủng tộc ngàn đời giữa những người do thái và người Samaria. Từ nay, những người xứng đáng với ơn cứu độ không phải chỉ là những người do thái do bởi nguồn gốc chủng tộc hay chuyên chăm giữ những qui định lề luật mà là những người biết thờ phượng ngợi khen Thiên Chúa và đặt lòng tin vào Chúa Giêsu. Câu chuyện kết thúc với lời tuyên bố của Chúa Giêsu : người xứ Samaria này biết quay lại để ngợi khen Thiên Chúa được cứu độ. Lòng tin của người xứ Samaria là mới mẻ khi ông nhận ra ơn thương xót chữa lành của Thiên Chúa và bắt đầu dấn thân vào một hành trình đức tin sống tương quan chân thật với Chúa Giêsu. Tình yêu của Thiên Chúa không có biên giới, ngay cả nơi những người mà người ta đánh giá thấp, ít hy vọng chờ đợi nhất lại là những người gặp gỡ được tình yêu Thiên Chúa. Họ lại là những người như Naaman và người phong cùi xứ Samaria, có lòng tin vào Thiên Chúa một cách độc đáo và chân thật, và họ đã bắt đầu sống những giá trị của Tin mừng mà Chúa Giêsu đã gặp được một cách thật sống động.
Thánh Phaolô, trong bức thư gửi cho Timôthêu đã chia sẻ những trải nghiệm của ngài về tương quan với Chúa Giêsu. Ngài đã sống tương quan với Chúa Giêsu mà ngài luôn xác tín vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của người: Người đã chết và phục sinh vì chúng ta, giờ đây Phaolô cố gắng kết hiệp vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh này và thâm tín rằng nhờ đó mình sẽ được thông hiệp vào sự sống lại và được cùng hiển trị với Chúa Giêsu. Ơn cứu độ đòi phải có những trải nghiệm mới với Đức Giêsu bởi vì người đã chia sẻ tận cùng với con người chúng ta. Người đã chia sẻ hết tình với mười người phong cùi trong Tin mừng, không giữ lại điều gì cả. Họ xin người thương xót họ, và lập tức người đã chữa lành cho họ. Người mong muốn chia sẻ trọn vẹn, không giữ lại gì và mong muốn những người khác cũng chia sẻ với người hết lòng.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
VÔ ƠN VÀ BIẾT ƠN- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, theo thánh Lu-ca. đây là lần thứ ba Chúa đến đây và cũng gần tới ngày Chúa chịu nạn. Khi đi tới gần biên giới Samari và Ga-li-lê, thì gặp 10 người phong hủi van xin Chúa cứu chữa. Chúa không chữa ngay, nhưng bảo họ đi trình diện các tư tế. Đây là luật của người Do Thái, không phải các tư tế làm cho họ khỏi bệnh, nhưng là để xác nhận họ đã khỏi bệnh. Nghe lời Chúa, họ ra đi, và khi đi dọc đường, cả 10 người đều được khỏi, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa, tỉ lệ một phần mười, thật là đáng buồn. Đây cũng là điều chúng ta chú ý tìm hiểu và suy nghĩ: vô ơn và biết ơn.
Có người nói: “Con người thường hay ích kỷ: muốn người khác phải trả ơn mình, biết ơn mình, còn mình không để ý cám ơn ai”. Hơn nữa, người ta dễ quên ơn hoặc mau quên ơn, cũng như cả năm ngàn người được ăn bánh hóa nhiều lần thứ nhất và bốn ngàn người lần thứ hai; bao nhiêu người được hưởng sóng gió yên lặng, mẻ cá lạ, được chữa lành bệnh tật…Nhưng đến khi Chúa vác thập giá thì chỉ có một người vác đỡ Chúa, đó là ông Si-mon, nhưng là do quân lính bắt vác chứ không phải ông tự nguyện; chỉ có một phụ nữ cảm thương trao khăn cho Chúa lau mặt, đó là bà Vê-rô-ni-ca; rồi khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì chỉ có một người dám lên tiếng xưng đức tin, biện hộ cho Chúa là vô tội, đó là một người ăn trộm.
Đời là thế. Lẽ ra phải “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”, “có đi có lại mới toại lòng nhau”, lẽ ra phải “ăn cây nào rào cây ấy”, “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”… Đó là phép xã giao, lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy mới là người biết điều. Lẽ ra phải như vậy, thì lại “ăn cháo đá bát”, “vắt chanh bỏ vỏ”, “có trăng phụ đèn”, “ăn mật trả gừng”, “ăn sung trả ngải”… Kẻ muốn được ơn thì quá nhiều, kẻ biết ơn, hàm ơn thì lại quá ít, đếm số người biết ơn thì dễ hơn số người vô ơn, vì số người này quá lớn, có những con cháu vô ơn, có những học trò vô ơn, có đủ thứ người vô ơn, thậm chí có người nói một cách chua chát: “Ném cho con chó một khúc xương, nó vẫy đuôi tỏ vẻ cám ơn, còn làm ơn cho một người, thì rồi bạn sẽ thấy người ấy làm gì cho bạn?”.
Chúng ta nhìn nhận rằng: làm ơn thì không đòi trả nghĩa, nhưng đã chịu ơn thì phải biết ơn: “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tuy nhiên, nếu làm ơn mà mong người sẽ trả ơn lại mình thì đó chỉ là một việc bình thường và tầm thường, nếu không muốn nói là xấu, tính toán, ích kỷ và vụ lợi. Nhưng nếu làm ơn mà không đòi trả nghĩa thì đó mới là tấm lòng vàng, cao quý, cao thượng.
Ngược lại, nếu đã chịu ơn thì phải biết ơn. Bổn phận biết ơn không có nghĩa là đổi chác, bồi hoàn, nhưng là một sự bày tỏ điều mình nhận biết về giá trị tinh thần và vật chất đã nhận được. Một món quà chúng ta nhận được, không những có một giá trị vật chất bằng tiền của trong đó, nhưng còn gói ghém bao tình thương, tình cảm quý mến và hy sinh của người cho hay tặng món quà ấy. Có những món quà mà vật chất chỉ là vỏ, còn ruột là tình yêu. Nhận ra được như thế, hiểu được như thế mới thấy, mới biết ơn huệ là gì. Dĩ nhiên, chúng ta đừng chỉ coi những gì lớn lao mới là ơn, bất cứ những gì người khác đem lại cho chúng ta: một niềm vui, một sự bình an, một sự thăm hỏi…đều là ơn và chúng ta phải biết ơn. Chúng ta hãy nhớ: biết ơn người khác làm cho tấm lòng họ càng mở rộng thêm ra, đúng như câu nói: “một lần cám ơn là hai lần xin ơn”, một lời cám ơn được nói ra, không mất mát gì, không tốn kém gì, nhưng sẽ làm phát sinh nơi người làm ơn cũng như người thụ ơn một niềm vui lan tỏa. Một câu cám ơn trên môi miệng có giá trị như vậy, nên nếu chúng ta không biết ơn thì giá trị con người chúng ta chẳng hơn gì chín người phong hủi kia: “ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Biết ơn là một tập quán mà mọi người phải học tập, có nghĩa là chúng ta quý mến những gì người khác làm cho chúng ta và không coi chúng là những chuyện dĩ nhiên phải thế, không nhận nhưng không. Khi người khác làm gì cho chúng ta, nhất là những việc chúng ta không có quyền hy vọng được làm, thì việc tối thiểu chúng ta phải làm là nói “cám ơn”. Những người phong hủi không có quyền được chữa lành, nhưng chỉ có một người tỏ ra biết điều trở lại cám ơn Chúa.
Sống với nhau, chúng ta còn phải biết đối xử với nhau như thế, còn phải biết ơn người làm ơn cho mình, thì chúng ta lại càng phải biết ơn Thiên Chúa nhiều hơn nữa. Lòng biết ơn Thiên Chúa là thái độ làm con mà Chúa Giêsu đã làm gương, Ngài luôn luôn cảm tạ Chúa Cha thay cho chúng ta; thánh Phao-lô không ngừng tạ ơn Thiên Chúa thay cho các tín hữu và kêu gọi họ sống tâm tình biết ơn này. Lòng biết ơn Thiên Chúa còn là thái độ sâu xa nhất của lòng tin, đồng thời làm tăng thêm lòng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ: tạ ơn Chúa là dấu tỏ lộ lòng tin vào Thiên Chúa, là tuyên xưng lòng tin của mình.
Tóm lại, đời chúng ta là kết tinh của bao công ơn, chúng ta phải biết ơn, cám ơn mọi người có liên hệ gần xa với chúng ta, tất cả đều là những ân nhân của chúng ta. Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết ơn và cảm tạ Chúa luôn luôn, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là những ơn Chúa ban. Cảm tạ Chúa là một sự công bằng, hợp lý, không bao giờ đủ, cả đời sống dương thế để mà tạ ơn Chúa cũng không đủ, huống chi chúng ta chỉ thỉnh thoảng cám ơn, thậm chí quên bẵng luôn những việc tạ ơn, thì thật là bất hiếu, bất kính biết bao.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-C
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI CÙI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trên đường đi Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới hai miền Galilê và Samari, nơi lưu đầy những người cùi của hai dân tộc thù ghét nhau. Đức Giêsu đã cứu chữa mười người cùi được lành sạch. Nhưng chỉ có một người ngoại đạo trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
Hai người cùi khác nổi tiếng nhất Việt Nam, không được chữa lành thân xác, nhưng được ban đức tin lạ lùng, đã tôn vinh Thiên Chúa bằng cả cuộc đời cùi của mình, đó là Thi sĩ Hàn Mạc Tử và Đức Cha Cassaigne (Cát-xe).
Hàn Mạc Tử sinh năm 1912. Ông chết mới 28 tuổi. Thế mà nhà thơ trí tuệ Chế Lan Viên đã hết lời ca ngợi: “Tử là đỉnh cao lòa chói trong văn học đầu thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ”. Hàn Mạc Tử chói lòa bằng những vần thơ như:
“Ave Maria linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan,
Run như run hơi thở chạm tơ vàng,
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”
Nhạc sư Hải Linh đã phổ nhạc bài thơ trên với cung điệu thần nhạc đầy ơn phúc. Ơn phúc của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ là Thi sĩ trần gian mà là Thi sĩ nước trời.
“Đức tin của con đã cứu con”. Đức Giêsu đã an ủi khích lệ người cùi biết cảm tạ tôn vinh Thiên Chúa như thế.
Đức tin của Hàn Mạc Tử cũng đã chữa thân xác nặng trĩu đau khổ bằng những bài thơ tuyệt diệu, cảm tạ tôn vinh Mẹ Chúa Thiên đình. Đức tin của Hàn Mạc Tử đã làm dịu đi đôi bàn tay bị gậm nhấm, quên đi đôi mắt bị đục khoét, để tâm tư lắng đọng trong dòng nước thánh, cho hồn bay bổng, lặng nghe trời giải nghĩa chữ yêu:
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để nghe dưới đáy nước hồ reo,
Để nghe tơ liễu rung trong gió,
Để nghe trời giải nghĩa chữ yêu”.
Đức tin của Tử đã giải thoát tâm hồn Tử khỏi cảnh cô đơn đầy đọa, để hòa nhập vào thần nhạc sáng hơn trăng, ngợp trong vạn ánh hào quang ngời chói:
“Hồn tôi bay tới bao giờ mới đậu,
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang”.
Người cùi nổi tiếng thứ hai ở Việt Nam là Đức Cha Cassaigne đã được báo chí rầm rộ ca ngợi. Năm 1972 một phái đoàn dưới quyền lãnh đạo của vị Nguyên thủ quốc gia đã đến gắn huy chương cao quý cho Ngài. Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi đã đến ôm hôn Ngài, ôm hôn tấm lòng vô cùng quảng đại hy sinh của Ngài. Hồng Thập Tự quốc tế đã quan tâm đặc biệt đến Ngài và sẵn sàng trợ giúp rất nhiều cho những trại cùi ở Việt Nam. Đức tin của Đức Cha Cassaigne không những cứu bao nhiêu người cùi đau khổ mà còn giúp cho bao nhiêu người biết tôn vinh Thiên Chúa.
Từ địa vị một Giám Mục lớn nhất Việt Nam, đức tin đã thúc đẩy Ngài từ bỏ tòa Giám Mục Sài Gòn năm 1955 đến sống lăn lộn, phục vụ những gia đình cùi trong rừng núi hoang vu ở Di Linh.
Nếu chỉ một bát nước cho kẻ bé mọn, được Chúa kể là cho chính Chúa, thì ở đây, thân lạy Đức Cha, Ngài đã cho cả ngai vàng, cho hết mọi sự, và thí cả mạng sống của Ngài không phải cho một người, mà cho hàng ngàn người khốn cùng trong xã hội, Chúa phải kể là làm cho chính Chúa biết chừng nào!
Lòng tin của người cùi xứ Samari biết trở lại tôn vinh cảm tạ Chúa, khi được lành sạch, là việc làm hợp tình hợp lý.
Lòng tin của Đại tướng nước Syri khi được khỏi bệnh cùi đã suốt đời trở lại tế lễ Thiên Chúa là một lòng tin trung tín.
Đức tin của Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã hy sinh vác thập giá mình theo Chúa là một đức tin quả cảm mạnh mẽ tử đạo.
Đức tin của Đức Cha Cassaigne đã thí mạng sống mình làm của lễ hiến tế trên thập giá là một đức tin của Đấng cứu độ.
Các Ngài đã tôn vinh Thiên Chúa như thế. Còn chúng ta thì sao? Đức Giêsu đang hỏi mỗi người chúng ta: Không phải các ngươi cũng được khỏi bệnh sao? Bệnh của chúng ta là thứ bùn đất đã được nắn bóp thành người, bệnh của chúng ta là kẻ chết trong tội lỗi mà đã được cứu sống, là kẻ đói khổ mà được dư đầy của ăn áo mặc trong cái vũ trụ này, là những kẻ mù lòa mà được cho trí khôn sáng suốt, là những kẻ trần thế mà được làm con trời, là những kẻ đói khát ơn phúc, mà được cho bánh trường sinh, là những kẻ chỉ có cha mẹ xác thịt tan rữa mà lại được có cha mẹ hằng sống vinh quang là Thiên Chúa. Chúng ta được chữa khỏi muôn vàn thứ bệnh khốn cùng mà có biết trở lại tạ ơn tôn vinh Thiên Chúa không? Chúng ta không tôn vinh Thiên Chúa được như Đức Cha Cassaigne và Thi sĩ Hàn Mạc Tử, thì ít nhất cũng biết tôn vinh Thiên Chúa như người cùi Samari và Đại tướng Naaman.
Lạy Chúa, chúng con có được Chúa công nhận: “Lòng tin của con đã cứu con” hay lại bị Chúa hạch hỏi “còn chín kẻ kia đâu?”. Lạy Chúa, xin cho con biết sấp mình cảm tạ tôn vinh Chúa suốt cả cuộc đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- C
LÒNG BIẾT ƠN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thỉnh thoảng lại có một vài vụ sập hầm mỏ xảy ra đây đó, khiến nhiều người thợ đang làm việc bị chôn sống dưới những tầng đất sâu.
Khi các lối đi xuống hầm mỏ bị tắc nghẽn hoàn toàn do các tầng đất sụp đổ, các người thợ mỏ như bị chôn vùi dưới huyệt sâu, không chút ánh sáng soi đường, không có khí trời trong lành để thở, không có lương thực để ăn, không còn nước uống… Họ nằm đó chờ đợi thần chết từ từ tiến đến kết liễu cuộc đời.
Trong hoàn cảnh đó, họ mới nhận ra rằng có được không khí trong lành để thở, có thêm vài lít nước để uống, có bát cơm để ăn, có được chút ánh nắng mặt trời để sưởi ấm và chiếu sáng là những hồng phúc vô cùng lớn lao và họ sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì đang có để được những thứ nầy.
Được một chút không khí trong lành, được uống vài ngụm nước, được bát cơm trắng, được ánh sáng mặt trời chiếu soi và sưởi ấm…là những gì mà những người lâm nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng những ước mơ giản dị đó đã không đến được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở nhiều nơi vì tai nạn hầm mỏ hay động đất.
Tuy nhiên, những ân huệ đó đang ở trong tầm tay chúng ta cách dồi dào và dư dật. Thiên Chúa cho chúng ta có thừa những gì mà những người lâm nạn trên đây đang mơ ước. Thế mà nhiều người không nhận ra đó là những ân huệ vô cùng cao quý, mà chỉ xem như chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh nắng mặt trời… chỉ là một vài trong vô vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi người. Đếm sao cho xiết những ân huệ Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra ân huệ Chúa ban và tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì rất khan hiếm.
***
Khi Chúa Giê-su đi qua biên giới Samaria thì gặp mười người phong cùi. Họ là những người mang số phận bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ, họ bị xã hội Do-thái thời bấy giờ xua ra khỏi gia đình, làng mạc; họ bị cách ly với tất cả mọi người. Những con người bất hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các hang hốc ngoài đồi núi, áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù, thân thể bốc mùi hôi hám. Họ bị luật buộc phải để đầu trần, đi đâu phải lấy tay che miệng và hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh xa.
Vì thế, họ không được phép lại gần Chúa Giê-su để xin Người cứu chữa. Họ đứng đằng xa kêu lên: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi”.
Theo luật quy định, nếu người nào mắc bệnh phong mà có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện với các tư tế, để được kiểm tra. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng.
Chúa Giê-su bảo mười người phong đến trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc phường rối đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giê-su. Còn chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái khẩn cầu thật tha thiết, được ơn rồi thì nín lặng chẳng biết cám ơn.
***
Trong giao tế hằng ngày, người đời vẫn biết đền ơn đáp nghĩa. Hôm nay anh mời tôi bữa cơm, mai đây thế nào tôi cũng tìm cách mời lại. Nay anh viếng thăm tôi, mai đây tôi sẽ tìm dịp đáp lễ. Bạn giúp tôi việc nầy, mai kia tôi tìm cách giúp lại bạn việc khác. “Có qua có lại mới toại lòng nhau”, “bánh ít đi, bánh quy lại.” Trong giao tế đời thường, người đời luôn biết xử đẹp với nhau. Vậy mà trong tương quan với Chúa, Chúa ban cho chúng ta vô vàn phúc lộc, chúng ta đã làm gì để đáp lại ân lộc Chúa chưa?
Trong xã hội văn minh, người ta luôn nói tiếng cám ơn mỗi khi được người khác làm ơn cho mình, dù chỉ là những trợ giúp thật nhỏ bé. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Ước gì trong tương quan với Chúa, mỗi người chúng ta cũng không thua kém những người khác trong xã hội thế trần, biết nhận ra hồng ân Thiên Chúa bao phủ đời mình và luôn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân Người tuôn ban trong suốt cuộc đời. Và lời tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là cùng với Chúa Giê-su dâng hy tế tạ ơn Thiên Chúa Cha qua mỗi thánh lễ hằng tuần.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxviiithuongnienc #suynienloichuagpbr