CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
KHÔN KHÉO THẬT CỦA “CON CÁI ÁNH SÁNG” – Chú giải của Fiches Dominicales 14
QUAN TÂM ĐẾN TƯƠNG LAI VĨNH CỬU(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – C.. 35
CÁCH QUẢN LÝ TIỀN CỦA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
GƯƠNG TỐT CỦA NGƯỜI XẤU– Chú giải của William Barclay 51
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 56
LÀM CHỦ HAY LÀM ĐẦY TỚ TIỀN BẠC – Lm. Đan Vinh HHTM.. 61
KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC- Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ. 74
HÃY LÀM TÔI THIÊN CHÚA- Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 78
QUẢN LÝ KHÔN KHÉO- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 83
SỬ DỤNG TIỀN CỦA KHÔN NGOAN VÀ TRÁCH NHIỆM- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 87
QUẢN LÝ BẤT LƯƠNG- Lm. Giacôbê Tạ Chúc.. 92
BẤT TRUNG HAY TRUNG TÍN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 95
GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng.. 100
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chống lại những kẻ lấy tiền mua người nghèo”.
Trích sách Tiên tri Amos.
Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó, và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước. Các ngươi bảo: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát”. Vì Giacóp kiêu căng, Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 112, 1-2. 4-6. 7-8
Ðáp: Hãy ngợi khen Chúa, Ðấng nâng cao kẻ túng thiếu (c. 1a & 7b).
Xướng: Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.
Xướng: Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa… và Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất.
Xướng: Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người.
Bài Ðọc II: 1 Tm 2, 1-8
“Cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho mọi người. Ngài muốn cho mọi người được cứu độ”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi Timôthêu.
Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Ðó là điều tốt lành và đẹp lòng Ðấng Cứu Ðộ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.
Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Ðấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Ðức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý. Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 16, 10-13 {hoặc 1-13}
“Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: {“Một người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: ‘Tôi nghe nói anh sao đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa’. Người quản lý nghĩ thầm rằng: ‘Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ’.
“Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: ‘Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu’. Anh bảo người ấy rằng: ‘Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại: năm mươi’. Rồi anh hỏi người khác rằng: ‘Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm giạ lúa miến’. Anh bảo người ấy rằng: ‘Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi’. Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng.
“Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.}
“Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con?
“Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
Ðó là lời Chúa.
KHÔNG THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ(*)- Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng
Dụ ngôn về “người quản gia bất lương” là một trong các câu chuyện gây tai tiếng mà người ta tìm thấy trong Tin Mừng, và các tín hữu chờ đợi với một nụ cười khẩy để biết nhà thuyết giáo làm thế nào để xoay xở với bài học về sự lừa bịp đó.
Nhưng đó là một dụ ngôn, một “mâchâl”, một “câu đố “. Chứ không phải là một câu chuyện xây dựng trong mọi chi tiết của nó. Chúng ta, nhưng người chịu ảnh hưởng của tinh thần duy lý Tây Phương, chúng thích những chứng minh họp luận lý và đơn giản. Đức Giêsu lại hoàn toàn thoải mái sử dụng văn phong điển hình của những người kể chuyện phương Đông. Họ nháy mắt ra hiệu cho cử tọa, để yêu cầu người nghe đừng bỏ mất óc phê bình: “Nào, các bạn sáng suốt nhé! Hãy hiểu sự tinh tế ẩn giấu dưới nghĩa đen! Tôi làm bạn khó chịu, hẳn là thế, nhưng đó là cố ý: Các bạn đã bị nhiễm độc và mê man về đề tài quan trọng mà tôi đề cập đến thế sao…!
Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông
Một quản gia phung phí! Tất cả dụ ngôn sẽ diễn tiến trên ý tưởng “quản lý” này. Trong Luật Rôm, cũng như trong tâm thức thông thường, quyền “sở hữu” là “quyền sử dụng và lợi dụng cái gì thuộc về mình”: “Bởi vì cái đó thuộc về tôi, nên tôi làm gì tùy thích”. Trong quan niệm Kitô giáo, quyền tư hữu tư nhân thì khác hẳn: Chúng ta không thật sự là chủ sở hữu, nhưng chỉ là những “người quản lý” của cải vốn vẫn thuộc về tất cả mọi người? Học thuyết truyền thống này trực tiếp đến từ Đức Giêsu (chứ không phải từ chủ nghĩa cộng sản) và vừa qua đã được Công đồng Vatican II nhắc lại: “Thiên Chúa đã trao trái đất và mọi vật chứa trong đó cho con người sử dụng (Gaudium ét Spes, số 69).
Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’
Tất cả những gì tôi phải “quản lý”: tài sản, đức tính, sự phong phú tâm linh, trì thục, đạo đức, những khả năng tình cảm của tôi. Người sẽ yêu cầu tôi phúc trình về chúng. Tôi không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã giao cho tôi và chúng vẫn luôn là các công việc “của Người”. Thiên Chúa không thích “sự phung phí”, đó là một sự xúc phạm những người đang thiếu thốn.
Người quản gia liền nghĩ bụng: ‘Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!’
Cuộc độc thoại nội tâm này bộc lộ rõ ràng sự bối rối của người quản gia. Anh ta phải có quyết định mau lẹ: Ngày mai sẽ quá muộn? Có lẽ trong một hoặc hai giờ nữa, anh ta sẽ bị “sa thải”. Phải hành động thật mau lẹ. Chúng ta đoán được đàng sau sự vội vàng ấy là sự khẩn cấp của thời mạt thế mà Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở, quấy rầy những người đồng thời với Người. Chúng ta hãy hiểu cơ may của mình khi còn thời gian, nếu không chúng ta sẽ không có thới gian để “lật lại” như người ta vẫn nói, để thú thật bằng công thức lạ lùng là Người ta tiến tới trước nhưng đi ngược lại mục đích thật sự của chúng ta! Chúng ta phải khẩn cấp hoán cải, và quay về.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.’
Sự gian lận này khéo léo đến ba lần: Không mất gì cả không để lại dấu vết, nó là bảo đảm chống lại mọi khám phá đột xuất bởi có thể có những lời đe dọa tố giác. Con người đã chẳng thay đổi kể từ Đức Giêsu.
Về phần hai món nợ: bằng dầu và bằng lúa mì cũng rất điển hình ở Palestine. “Một trăm thùng dầu”, là thu hoạch trung bình của 150 cây ô-liu, tương đương với 365 lít dầu? “Một trăm bao lúa” là thu hoạch của 42 hecta ruộng sa, tương đương với 364 hecto lít lúa mì! Theo các chuyên gia, sự giảm nợ trong cả hai trướng hợp tương đương 500 ngày công trung bình. Ngày nay mỗi người có thể tính ra bằng tiền tổng số tiền gian lận.
Về điểm này của câu chuyện, người nghe hẳn phải chờ đợi một sự kết án một cách mạnh mẽ và thích đáng từ phía Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe tiếp…
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại
Chúng ta ngạc nhiên. Đức Giêsu ngợi khen người quản gia xảo trá ấy. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy lý do tại sao trong lời giải thích mà Người sẽ đưa ra.
Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận rang Đức Giêsu không tán thưởng sự lừa bịp của “người quản gia lừa gạt” hoặc người quản gia bất công” như bản văn Hy Lạp đã nói.
Thật vậy, theo Đức Giêsu, anh ta thuộc về thế giới “bóng tối” mà thủ lãnh là Xatan (Ga 12,31) phải phân biệt với các con cái của “ánh sáng” (1 Thêxalônica 5,4-5).
Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu
Tạo lấy bạn bè! phát triển tình bạn! Đấy là lý lo của lời khen ngợi.
Trong công thức này ở trọng tâm của bài dụ ngôn, Đức Giêsu đem lại cho chúng ta một bài học chủ yếu: Cách sử dụng tốt sự giàu có là dùng nó để tạo lấy bạn bè, đặt tình yêu thương vào các mối quan hệ. Đó còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc.Dùng tiền bạc như một phương tiện để chia sẻ và sống tình bằng hữu. Tiền bạc tự nó không xấu. Nó có thể tạo ra mềm vui cho những người khác, và do đó là niềm vui cho người nào đã góp phần vào niềm vui ấy khi “ban tặng”! Luca trong Tin Mừng của Ngài đã nhấn mạnh đến Đấng Mêsia của những người nghèo, nhiều hơn các thánh sử khác. Nước Thiên Chúa hầu như thuộc về họ đến nỗi những người giàu có chỉ vào được đó nhờ sự bảo trợ và giới thiệu của những người nghèo mà những người giàu có sẽ làm bạn.
Bạn làm gì với tiền bạc của bạn? Câu hỏi đáng ngại. Tại sao không! Nhưng tốt hơn là “Tin Mừng” cho những người giàu có giờ đây biết mình có thể được cứu và bước vào “nơi ở vĩnh cửu” như thế nào, khi mà ở nơi đó tiền bạc của họ không còn nữa”.
Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn, ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn
Để kết luận cho câu chuyện cụ thể này, đây là những châm ngôn về tiền bạc mang tính mạc khải cao cả của tư tưởng Đức Giêsu. Và trước tiên, đối với Đức Giêsu tiền bạc là một “việc nhỏ” khi so sánh với “việc lớn” là Nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Chúng ta có chấp nhận quan điểm đó không?
Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?
Trong khẳng định thứ hai này Đức Giêsu nói với chúng ta rằng tiền bạc thì “bất lương”. Đó là một cái bẫy chỉ đem lại sự an toàn giả tạo. Không nên tin vào tiền bạc (I Timôthê 6,17). Tính từ “bất lương” trở đi trở lại năm lần trong trang này. Đức Giêsu đã chới chữ. Người nói về “người quản gia bất lương” rồi giờ đây, Người nói về “tiền bạc’ bất lương”. Từ này cũng thường được dịch là “người quản gia bất chính, bất hảo, bất công”… và “tiền bạc bất chính, bất hảo, bất công.. Trong linh hồn và trong ý thức, mỗi người được mời gọi để trả lời về tiền bạc của mình: Có bất hảo, bất công, bất chính không? Tiền bạc rất ích lợi, có thể được sử dụng một cách có lợi để tạo thành bạn bè cho mình, nhưng nó cũng có thể là một quyền lực của sự ác.
Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?
Khẳng định thứ ba này có một cung cách hiện đại rất đáng kinh ngạc. Trước cả Các Mác, Đức Giêsu đã lên án “tha hóa” của con Người: Tiền bạc không phải là điều tốt lành thật sự cho chúng ta. Sự giàu sang không làm cho một người nên tốt lành, thông minh, hạnh phúc. Giá trị thật sự ở chỗ khác. Tiền bạc làm “tha hóa” chúng ta, nếu chúng ta để nó “chiếm đoạt” chúng ta.
Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được
Chữ ‘Tiền Của’ viết với một chữ hoa ở đây để dịch từ ‘Mam-mon’, một từ đáng khinh bỉ để chỉ một thần tượng vì nó mà người ta trở thành nô lệ. Bạn có là tù nhân bị tiền bạc xiềng xích, chiếm đoạt, đánh đòn với những lo âu về công việc. Đối với Đức Giêsu, không thể có bất kỳ thỏa hiệp nào: Hoặc là Thiên Chúa, hoặc là tiền bạc. Chúng ta hãy thú nhận chúng ta thường bị cám dỗ phục vụ luân phiên cả hai ông chủ: Thiên Chúa ngày Chúa nhật, cho phần rỗi của chúng ta và Thiên Chúa của các thương vụ, của hầu bao, lợi lộc sáu ngày còn lại trong tuần.
Trong câu tiếp theo sau, Luca đã viết “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giêsu Còn tôi? Có phải tôi cũng mặt sang mày sỉa?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – C
KHÔN KHÉO THẬT CỦA “CON CÁI ÁNH SÁNG” – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
- Sự khôn khéo của người quản gia bất lương
Chúng ta đang ở trong bối cảnh chung của cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ở đó, Người sẽ hiến mạng sống vì tình yêu đối với Chúa Cha và anh em mình.
Đáp lại lời chỉ trích của nhóm Pharisêu và các kinh sư về thái độ của Người đối với những kẻ tội lỗi, Đức Giêsu vừa kể cho họ nghe 3 dụ ngôn về lòng thương xót. Ba dụ ngôn này là một trong những viên ngọc quý của Tin Mừng Luca.
Trở lại với cử toạ là các môn đệ. của Người, giờ đây Đức Giêsu trao đổi với các ông về một số chủ đề gom lại với nhau bằng những “từ móc nối”: “tiền của bất chính”, “khôn khéo”, “tín nhiệm”.
Bắt đầu là dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Dụ ngôn này có thể được gợi lên từ một sự kiện nào đó trong đời thường. Thoạt đầu, dụ ngôn khiến chúng ta bỡ ngỡ vì nó mô tả một người quản gia, do cách quản lý lãng phí – “đã phung phá của cải nhà chủ “ – nên bị ông chủ cho nghỉ việc. Lao động chân tay thì không nổi, ngửa tay ăn xin thì xấu hổ, anh ta đã khéo xoay xở, để tới đâu chăng nữa, vẫn bảo đảm được tương lai: “Mình biết phải làm gì rồi “, anh tự nhủ. Thế là không một chút chần chừ, nhân vật của chúng ta cho gọi “từng con nợ” của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may ngàn năm một thuở, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 phuy dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khoảng 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký). Từ nay, mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật: đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng mục vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.
- Một bài học cho “con cái ánh sáng”
Chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo chắc chắn không phải vì cái trò gian lận kia. Nhưng vì tính khôn léo và nhanh nhạy đáng noi gương bắt chước của anh ta trước một tính thế khó khăn để bảo đảm tương lai cho mình.
Mong sao “con cái ánh sáng”, tức là những môn đệ của Đức Giêsu, hãy học đòi nơi “con cái đời này”, để có được sự khôn khéo và nhanh nhạy tương tự trong việc ưu tiên chọn lựa Nước Trời, và phục vụ Thiên Chúa và anh em hơn tất cả mọi sự!
- Dupont giải thích: “Lên tiếng với đám đông hiếu kỳ và hoang mang, bất đinh, Đức Giêsu tìm cách làm cho họ hiểu rằng sứ mạng Người lệnh nhận từ nơi Thiên Chúa đang đem lại cho con người một thời cơ trọng đại, phải khẩn trương có thái độ chọn lưạ phù hợp với lời kêu gọi của Người. Người ta phải quyết định ngay đừng để quá muộn: hạnh phúc đời dời của mỗi người tuỳ thuộc ở đây” (“Assemblées du Seigneur”, số 56, trg 70-71).
– Như vậy, bài học dụ ngôn muốn dạy đã rõ ràng sáng sủa. Đức Giêsu nói tiếp: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Nói cách khác, hãy xử sự khôn khéo làm sao để tiền của vật chất mà chúng ta chỉ là kẻ quản lý – không trở thành một sức mạnh thống trị và làm nô lệ con người, nhưng trở thành phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng mối hiệp thông giữa con người với nhau.
Tóm lại, theo nhận xét của H. Cousin, đây là một lời nhắn nhủ: các môn đệ phải biết cách sử dụng đồng tiền cho khôn khéo, theo viễn tượng của Nước Trời. Nếu người quản gia bất lương kia đã biết lợi dụng của cải trần thế để mua lấy bạn bè và phòng xa cho tương lai của mình trong cuộc đời này, thì người Kitô hữu càng phải biết chuẩn bị như thế nào cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau bằng cách chia sẻ mới người nghèo qua việc rộng tay làm phước, để sau này chính những người nghèo đó sẽ đón tiếp họ vào cõi phúc của Thiên Chúa… Xử sự khôn khéo chính là biết xem tiền bạc như phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Tiền là bạc, là gian dối… bơi vì nó dễ trở thành ngẫu tượng là so mới của cải chân thật là bất diệt trên Nước Trời, nó chỉ mang giá trị mong manh tạm bợ, đến ngày mỗi người chúng ta phải từ giã cuộc đời, xuôi tay bỏ lại tất cả khi ấy mới thấy rõ tiền của chẳng là gì cả Triều đại của đồng tiền rồi cũng phải chấm dứt” (L’Evangile de Luc”, Centurion, trg 217).
Rồi, Đức Giêsu kết luận bằng một câu châm ngôn theo kiểu triết lý khôn ngoan: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được!”. Giữa Thiên Chúa và tiền của không thể có chuyện bắt cá hai tay được! H. Cousin tiếp tục nhận xét: “Từ khi Thiên Chúa xuất hiện trên thế giới này người bị đặt trước một sự chọn lựa triệt để, qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa” (sđd, trg 218).
BÀI ĐỌC THÊM:
- Một trong những đoạn Tin Mừng bị hiểu sai nhiều nhất
(“Missel Emmaus des dimanches”, trg 1113):
Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin Mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất: bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu cho phép làm điều bất lương! Trong khi lời tuyên bố sau cùng của Người rất rõ: “Người ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Người xót xa cho nhân loại bị đảo điên vì “tiền bạc gian dối “. Giá như con người biết khao khát tìm kiếm những phước lộc thiêng liêng giống như khi họ mê mải làm giàu? Hoặc ít ra họ biết sử dụng tiền của để xây dựng một chút tình liên đới! Chẳng lẽ tất cả khí khôn loài người chỉ để phục vụ cho lòng tham của cải vật chất thôi sao?”.
- Sống chia sẻ, một chứng tá của đức tin hơn là một lối sống.
(Mgr. L. Daloz, trong “Dieu a visité son Peuple”, Desclée de Brouwer, trg 123).
“Đức Giêsu dạy cho chúng ta một lối sống mới. Người chỉ cho chúng ta một cách sử dụng đồng tiền độc đáo: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè” và Người cắt nghĩa tại sao: “phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Vấn đề không chỉ đơn giản là một lời khuyên sống đạo đức. Vấn đề ở đây là phải biết cách sử dụng của cải trong tương quan vời cuộc sống vĩnh cửu. Gương người quản lý bất lương lén sửa lại các món nợ để tranh thủ thêm bạn hữu không nhằm khuyến khích một thái độ vụ lợi: chia sớt chút đỉnh tiền của để được vào thiên đàng. Qua chính điều Người nói, Đức Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”. Sự khôn khéo mà Người muốn dạy chúng ta không phải là một thứ tính toán bần tiện, nhưng là lời mời gọi phải sáng suốt phải thực sự là con cái ánh sáng. Đức Giêsu đề cập đến một thứ của cải đích thực “dành cho chúng ta”, đó là phụng sự Thiên Chúa: “không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”. Sự giàu có thật vượt xa khỏi con người, nó ở nơi Thiên Chúa. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta mới là con cái ánh sáng. Chúng ta phải tỏ ra thật khôn khéo, tỉnh táo để nhận ra những giá trị đích thực và sử dụng tiền của sao cho phù hợp với những giá trị đó. Sống chia sẻ không chỉ là một cách ăn ở tốt, nó còn là chứng tá của đức tin.
Đức Giêsu muốn đổi mới cách chúng ta quan niệm và sử dụng mọi sự đời này.
- Phải cảnh giác trước tiền của
Người ta nói răng cho đến hôm nay, vị thánh được xem là gần gũi với gương mẫu Đức Giêsu nhất chính là Phanxicô Assisi, người đã kết duyên với Bà Chúa Nghèo. Và có thể nói tất cả sứ điệp của Đức Giêsu đều liên quan đến nhân đức Tin Mừng này. Nó nói nhiều về con người, tuy nhiên, có lẽ, nó cũng mạc khải cho biết về tấm lòng của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại ý tương của cha Varinon: Khó nghèo, Khiêm hạ của Thiên Chúa.
Tôi chỉ xin lưu ý đến sự tương phản, hay đúng hơn là giằng co, khó dung hoà được trên cuộc đời này, giữa hai khía cạnh của ‘khó nghèo’.
– Dĩ nhiên, Luca là người có lý hơn cả khi viết trong Tám Mối Phúc: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” không thêm gì sau đó, và cái vế sau đáng sợ “khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có”. Đúng là có một cái gì đó để làm cho con người ra hư hỏng nơi lòng ham muốn có của, thích vơ vét, gom góp. Nước Trời không thể mở ra cho những ai không cưỡng nổi lòng ham muốn.
Nhưng Mátthêu đã bổ túc thêm bằng công thức rất quen thuộc: phúc thay ai, không phải có tinh thần, nhưng có tâm hồn nghèo khó. Nói cách khác: sửa đổi của Mátthêu có ý xác định hai điều. Trước hết, không bao giờ được phép biện minh cho sự nghèo nàn khốn cùng. Đó là điều xỉ nhục cho con người cũng như cho Thiên Chúa. Tiếp đến, phải coi chừng cách người ta tự nguyện khước từ của cải: động cơ thúc đẩy có thể là một thứ kiêu ngạo thầm kín. Madeleine Delbrêl đã thấy rõ điều đó khi tố giác một quan niệm lý tưởng hoá cái nghèo. Bà viết: “Nghèo không hẳn là điều hay”.
Không muốn đi sâu vào những vấn đề kinh tế, với vô số chuyện phức tạp, tôi chỉ xin nói đơn giản thế này: phải luôn luôn cảnh giác trước tiền của, ngay cả khi tiền của đó không nhiều, để tránh tình trạng bị nó sai khiến.
Tuy nhiên con người vẫn phải có vừa đủ để còn giữ được khả năng không bị tiền của sai khiến. Vẫn phải có một chút nào đó để có thể đi từ chỗ mình có đến chỗ mình là.
“Còn Đức Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã không dành địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho chúng ta trở nên giàu có”.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- C
QUAN TÂM ĐẾN TƯƠNG LAI VĨNH CỬU(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng của cải ở đời này mà lo toan đến của cải tinh thần, vì của cải tinh thần mới là của cải chân thật, không hề hư hoại, và mới có thể đưa chúng ta vào Nước Trời.
Am 8, 4-7
Ngôn sứ A-mốt phê phán thói tham lam của những phú thương Sa-ma-ri: thay vì cử hành những ngày đại lễ để kính Đức Chúa, thì họ lại lợi dụng các ngày đại lễ để mà gian lận đầu cơ trục lợi từ những người cùng khốn và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
1Tm 2, 1-8
Lời cầu nguyện được định vị vào số những của cải mà người Ki-tô hữu sở hữu. Thánh Phao-lô xin ông Ti-mô-thê quan tâm đến tính phổ quát của lời cầu nguyện trong những buổi họp phụng vụ của Giáo Đoàn Ê-phê-xô, vì Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất hoàn vũ của ơn cứu độ.
Lc 16, 1-13
Qua dụ ngôn người quản gia bất lương, Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài hãy tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
BÀI ĐỌC I (Am 8, 4-7)
A-mốt là vị ngôn sứ bút ký đầu tiên. Ông công bố sứ điệp báo oán ở vương quốc miền Bắc (miền Ga-li-lê, thủ đô là Sa-ma-ri) vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, ông xuất thân ở vùng Tơ-cô-a, gần Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam, sống bằng nghề chăn cừu (1, 1) và chăm sóc cây sung (7, 14).
1/.Ơn gọi:
A-mốt được Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây không lần đầu tiên cũng không là lần cuối cùng Thiên Chúa chọn một người chăn chiên để truyền đạt sứ điệp của Ngài. Chúng ta không biết Chúa gọi ông A-mốt trong hoàn cảnh nào, nhưng vị ngôn sứ nói về ơn gọi làm ngôn sứ của ông như không thể nào cưỡng kháng lại được: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (3, 8).
Vốn là một người giản dị, quen với cuộc sống thanh đạm, gần gũi với thiên nhiên, A-mốt được Chúa sai đến vương quốc miền Bắc, vào lúc đó rất phồn vinh, để nhắc cho dân chúng nhớ những huấn lệnh của Thiên Chúa: thực thi công chính, sống khiêm hạ, bảo vệ những người bị áp bức và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
2/.Bối cảnh vương quốc miền Bắc:
Vào thời đó, dưới triều đại vua Gia-róp-am II, vương quốc miền Bắc trở nên thịnh vượng và thanh bình. Thời kỳ cực thịnh này kéo dài suốt bốn mươi năm, có thể được sánh ví với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại vua Sa-lô-môn.
Tuy nhiên, chỉ lớp có quyền có thế mới hưởng được sự thịnh vượng nầy. Những quan lại, điền chủ và tầng lớp thương gia cấu kết với nhau ra sức áp bức bốc lột những kẻ nghèo hèn và thấp cổ bé miệng trong xứ. Giai cấp nầy huênh hoang tự đắc rằng chính nhờ tài trí của họ mà đất nước được vui hưởng cảnh thanh bình thịnh trị và nhờ vào tiền đóng góp của họ mà việc phụng tự ở những đền thánh trong vương quốc, như Bết Ên hay Ghin-gan, có được vẻ huy hoàng rực rỡ. Họ cho rằng Thiên Chúa phải hài lòng với họ, vì mọi việc diễn tiến tốt đẹp.
Vì thế, thực hành tôn giáo đã trở thành những buổi phụng tự phô trương và những lễ hội linh đình, nhưng chỉ là trống rỗng, bởi vì chúng không tác động đến lương tâm của quần chúng. Tôn giáo không có bất cứ ảnh hưởng nào trên đời sống luân lý, chỉ như một loại ngụy trang cho phép những kẻ quyền thế làm bất cứ điều gì họ muốn và như một thứ thuốc phiện để ru ngủ quần chúng quên đi nhưng cảnh cùng khổ và bất công mà họ phải chịu. Hậu quả rõ nét là sự bất công xã hội tràn lan, tương phản với những phẩm chất của dân Thiên Chúa.
3/.Nhân cách ngôn sứ của A-mốt :
Đây là hoàn cảnh vương quốc miền Bắc mà ông A-mốt được sai đến để loan báo sứ điệp của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh bi thương như thế, vị ngôn sứ không thể không công kích dữ dội giai cấp cầm quyền thối nát và những kẻ giàu có hám lợi (5, 7.10-12; 6, 1-14). Trong đoạn trích hôm nay, vị ngôn sứ tố cáo những phú thương lợi dụng các ngày đại lễ để gian lận đầu cơ trục lợi từ những kẻ bị áp bức và những người nghèo hèn trong xứ (8, 4-6). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà tuyên án : “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8, 7).
Trong hoàn cảnh xã hội suy thoái về mặt luân lý như vậy, không thể nào khác hơn là phải công kích bằng những lời lẽ thẳng thắn, bộc trực, không vì bất kỳ ân ban lợi lộc nào có thể làm thay đổi cung giọng của vị ngôn sứ được và cũng không bất kỳ chống đối hay hăm dọa nào có thể làm cho vị ngôn sứ phải nao lòng mà chùn bước được. Không bao lâu sau đó những thành phần bị công kích phản ứng.
Hoàn cảnh được gói gọn vào một buổi chiều giữa ngôn sứ A-mốt và tư tế đền thờ Bết Ên là ông A-mát-gia. Trước đó, tư tế A-mát-gia đã mật báo với vua rằng ông A-mốt âm mưu chống lại vua ngay trên lãnh thổ của vua bằng cách tố cáo sự bất công và hăm dọa án phạt của Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, tư tế A-mát-gia bảo ngôn sứ A-mốt đừng đến đây quấy rầy họ và hãy trở về đất Giu-đa làm nghề ngôn sứ mà kiếm ăn.
Sự căng thẳng giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ và sự bác bỏ của vị tư tế tham dự trước đến tám trăm năm việc các vị lãnh đạo tôn giáo chống đối sứ vụ của Đức Giê-su. Trong trường hợp Đức Giê-su cũng vậy, giai cấp lãnh đạo tôn giáo phải vận động đến chính quyền dân sự để khai trừ “tên phản động” dám phê bình chỉ trích tình trạng hiện hành.
Nhân cách của ngôn sứ A-mốt có thể được tóm gọn trong những lời nhận xét sau đây : “Không một ngôn sứ nào gần gũi với thế giới ngày nay bằng A-mốt. Ông đã can đảm tố cáo những bất công trong xã hội nước Ít-ra-en ở thế kỷ thứ tám. Ông đã trở nên lương tâm của đất nước và cất tiếng nói thay cho những người thấp cổ bé miệng. Bài học quan trọng mà A-mốt vẫn còn muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu hôm nay đó là: công bằng xã hội là chuyện của tôn giáo. Lòng đạo đức thật sự được đo lường bằng lối sống ở phố chợ hơn là ở nhà thờ” (Nhóm phiên dịch CGKPV, Dẫn Nhập Các Ngôn Sứ, tr. 702).
BÀI ĐỌC II (1Tm 2, 1-8)
Ti-mô-thê vừa là một môn đệ vừa là cộng sự viên trung tín của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã gặp người môn đệ này ở Lýt-ra, miền Tiểu Á, trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của thánh nhân. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông được cộng đồng chứng nhận là một người Ki-tô hữu đạo hạnh (Cv 16, 2). Thánh Phao-lô muốn ông đồng hành với thánh nhân trong những cuộc hành trình truyền giáo.
Cha ông là người Hy-lạp, mẹ và bà ngoại của ông là người Do-thái. Ngay từ thuở nhỏ ông đã được mẹ và bà ngoại nuôi nấng dạy dỗ Kinh Thánh, vì thế ông hiểu biết thấu đáo Kinh Thánh, như lời nhận định của thánh Phao-lô trong thư thứ hai gởi Ti-mô-thê: “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2Tm 1, 5). Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau mật thiết đến độ trong số những thư của thánh nhân có đến sáu bức thư đều có ông Ti-mô-thê đồng kính gởi.
Thánh Phao-lô đã ký thác cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô rất yêu quý Giáo Đoàn này mà ngài đã thành lập và đổ nhiều công sức. Qua vị đứng đầu Giáo Đoàn, thánh nhân thăm hỏi hết thảy mọi thành viên trong Giáo Đoàn.
Thật khó để xác định niên biểu thư này, vì những năm tháng sau cùng cuộc đời của thánh Phao-lô chỉ được phỏng đoán. Tuy nhiên, thư thứ hai gởi cho Ti-mô-thê được viết chẳng bao lâu trước cuộc tử đạo của thánh nhân (năm 67), thư thứ nhất chắc chắn được viết sau thư thứ hai độ hai hay ba năm.
1/.Ơn cứu độ phổ quát:
Thánh Phao-lô khuyên nên cầu nguyện không ngừng. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh tính hoàn vũ mà lời cầu nguyện phải mặc lấy trong các buổi họp cộng đoàn. Phải cầu nguyện cho hết mọi người, vì Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Chính vì mục đích này mà lời cầu nguyện phải là cầu xin, khẩn nguyện và nài van.
Thánh Phao-lô còn thêm “tạ ơn cho tất cả mọi người”, thái độ này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kinh Thánh, theo đó người tín hữu tin chắc rằng lời cầu nguyện của mình được nhận lời. Nhưng thánh nhân định vị mình cách đặc biệt vào trong tinh thần Giáo Hội hướng lời cầu nguyện cộng đoàn theo chiều kích tạ ơn và gọi phụng vụ cốt yếu của mình là tạ ơn.
2/.Cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền:
Thánh nhân đã bày tỏ – và giải thích – bổn phận của người công dân trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ…” (Rm 13, 1-7).
Đừng quên rằng thánh Phao-lô xưa kia là một kinh sư; lập trường của ngài được sáng tỏ nếu chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử quan trọng. Kể từ thời hoàng đế Âu-gút-tô, người Do thái được hưởng đặc ân là không bị buộc phải thờ lạy hoàng đế như một thần linh, nhưng được phép cầu nguyện với Thiên Chúa của mình cho hoàng đế, mà không bị buộc phải kêu cầu thần Jupiter hay vị thần linh dân ngoại nào. Bao lâu đế quốc Rô-ma vẫn còn, dân Do thái được đặc quyền này.
Vì thế, thánh Phao-lô không thể nghi ngờ rằng người Ki-tô hữu, xuất thân từ Do-thái giáo, bị chối từ được hưởng đặc ân này. Tuy nhiên, câu cuối cùng để cho thấy một mối lo lắng nào đó về tương lai: “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”.
3/.Chỉ có một Thiên Chúa và chỉ có một Đấng Trung Gian là Đức Ki-tô.
Lời nguyện phổ quát mà thánh Phao-lô căn dặn đặt nền tảng trên sự duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Ki-tô. Lời tuyên tín mà thánh nhân công bố có thể là lời trích dẫn của một bản văn phổ biến trong Giáo Hội tiên khởi. Khởi đầu là lời khẳng định: “Vì Thiên Chúa thì chỉ có một”, tương tự với lời khẳng định khởi đầu lời kinh nguyện hằng ngày của người Do thái (shema).
Tiếp đó, thánh nhân nhấn mạnh phẩm chất duy nhất của Đức Ki-tô: “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng chỉ có một: đó là Đức Giê-su Ki-tô”. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giê-su vừa là con người vừa là Thiên Chúa; vì thế, với tư cách là con người, chỉ duy một mình Ngài mới có thể “tự hiến làm giá chuộc mọi người”.
Diễn ngữ thánh Phao-lô dùng cũng là diễn ngữ mà Chúa Giê-su đã dùng theo Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28; Mc 10, 45).
Việc thánh Phao-lô nhấn mạnh phẩm chất của Đức Giê-su, Đấng Trung Gian duy nhất và phổ quát chắc chắn là lời đáp trả cho những niềm tin Do-thái giáo vẫn còn sống động giữa vài người Ki-tô hữu xuất thân từ Do-thái giáo, theo niềm tin này, các thiên thần được gán cho một vai trò cầu bầu. Thánh Phao-lô dựa những lời khuyên bảo của mình trên ơn gọi làm Tông Đồ dân ngoại của ngài.
Câu cuối cùng trở lại với động cơ cầu nguyện (kỷ thuật văn chương đóng khung). Thánh nhân đòi hỏi rằng cử chỉ giơ tay lên khi cầu nguyện phải tương xứng với tư thế sẵn sàng bên trong: “tâm hồn thánh thiện và đức ái huynh đệ”.
TIN MỪNG (Lc 16, 1-13)
Trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su giáo huấn những phẩm chất cần phải có để làm môn đệ Ngài, nhằm một mục đích duy nhất là được gia nhập Nước Trời: siêu thoát những của cải trần thế, từ bỏ bản thân, mang lấy thập giá của mình, sẵn lòng chịu trách nhiệm nghiêm trọng và xem ơn cứu độ như là của cải tối thượng, kho tàng không hề hư hoại. Chương 16 nêu lên vấn đề về thái độ đối với tiền bạc. Chương này bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và hoàn tất với dụ ngôn “ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó”. Hai dụ ngôn này phụ thuộc lẫn nhau và soi sáng cho nhau.
Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất là dụ ngôn “người quản gia bất lương”, phần riêng của thánh Lu-ca; phần thứ hai, có chung với thánh Mát-thêu, là giáo huấn của Chúa Giê-su về việc quản lý của cải tinh thần, phần này hoàn tất với một suy tư về của cải.
1/.Vấn đề:
Dụ ngôn “người quản gia bất lương” nêu lên nhiều vấn đề cho các nhà chú giải, nhất là vấn đề biết ai là người phú hộ. Danh xưng “kurios” được dùng ở đây có thể được hiểu là “Chúa”, như thế chỉ Đức Giê-su (thánh Lu-ca sử dụng tước hiệu này nhiều lần, trái với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu), nhưng cũng có thể được hiểu là “ông chủ”, như thế chỉ gia chủ giàu có, ông đã thuê viên quản gia này. Theo tập quán Do thái thời đó, viên quản gia là người được toàn quyền thay chủ trông coi gia sản của chủ. Các nhà chú giải chia thành hai do “từ hai nghĩa” này.
Nhưng ngay liền sau đó, câu tiếp theo lại nêu lên vấn đề, ai đã có thể nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” nếu không là Đức Giê-su? Hơn nữa, khởi đi từ những lời: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, không có gì phải phân vân nữa. Đây rõ ràng là biểu thức Chúa Giê-su sử dụng trong bài giảng trên núi.
Mặt khác, chúng ta nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, đây không là trường hợp duy nhất Chúa Giê-su quy chiếu đến hạnh kiểm không gì tốt đẹp của nhân vật để từ đó Ngài rút ra bài học, ví dụ như viên quan tòa bất chính, “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Viên quan tòa này, sau một thời gian dài từ chối biện hộ cho một bà góa, nhưng cuối cùng đành phải bênh vực bà góa này vì bà cứ năm phen bảy lượt van xin mãi đến đinh tai nhóc óc (Lc 18, 1-8). Nếu như Đức Giê-su không nhấn mạnh tính bất chính của viên quan tòa này, liệu nhân tố kích thích của dụ ngôn có thể được sinh động hay không. Cũng trường hợp như vậy đối với viên quản gia bất lương. Có một bài học mâu thuẩn phải rút ra từ sự khôn khéo của y.
2/. Bận lòng đến tương lai trần thế:
Viên quản gia đã biển thủ của cải của chủ mình. Chuyện đến tai ông chủ, ông liền gọi anh đến và nói với anh: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy thanh toán sổ sách công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa?”. Vì thế, anh bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, nếu không tìm được một lối thoát. Anh tự nhủ: “Mình biết phải làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”; lúc đó anh vận dụng thủ đoạn xảo trá mà dụ ngôn mô tả. Anh biết tận dụng thời gian đương nhiệm còn lại của mình, nhờ của cải không phải của anh để mà sau này những con nợ của chủ biết ơn anh và hậu tạ anh.
Anh được chủ khen ngợi không phải tính bất lương của anh, nhưng sự khôn khéo, biết lo toan, tính toán làm sao cho tương lai của mình được đảm bảo sau này. Chính ở nơi những nổ lực này mà Chúa Giê-su muốn thính giả của Ngài để tâm lưu ý đến. Ngài chuyển dụ ngôn từ tương lai trần thế sang tương lai vĩnh cửu. Nếu con cái ánh sáng để hết tâm trí vào ơn cứu độ của mình cũng sinh động như người quản gia bất lương này thì tốt biết mấy. Họ sẽ sử dụng tối đa cuộc sống tràn thế của mình để đảm bảo cho mình được tiếp đón trong Nước Trời: không phải tên biển thủ của dụ ngôn đã bày tỏ sự khinh miệt của anh đối với tiền của khi sử dụng nó như phương tiện để đạt cho bằng được mục đích của anh là đảm bảo cho mình một tương lai sao?
3/.Quan tâm đến tương lai vĩnh cửu:
Chúa Giê-su phát biểu như một ông chủ sở hữu của cải tinh thần mà môn đệ của Ngài sẽ là những quản gia: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”. Họ phải biết tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Của cải tinh thần này mới là của cải chân thật duy nhất, không hề hư hoại. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
Cuối cùng, Chúa Giê-su cảnh giác coi chừng đừng làm tôi hai chủ: “Thiên Chúa hay Thần Tài”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CÁCH QUẢN LÝ TIỀN CỦA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Trong thời đại kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ ngày nay, tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy nghe lời Chúa dạy chúng ta biết sử dụng tiền bạc như thế nào để nó luôn là đầy tớ phục vụ mình, chứ không bao giờ là ông chủ bắt ta nô lệ nó.
II/. Gợi ý sám hối
- Chúng con quá mải mê kiếm tiền đến nỗi nhiều khi lơ là bổn phận đối với Chúa.
- Chúng con quá coi trọng tiền bạc đến nỗi nhiều lần lỗi công bình và bác ái.
- Chúng con chưa yêu mến Chúa trên hết mọi sự.
III/. Lời Chúa
1/. Bài đọc I (Am 8, 4-7)
Ngôn sứ Amos mạnh mẽ lên án những tội lỗi của người giàu:
- Họ mê kiếm thêm tiền đến nỗi ngay trong những ngày lễ như mồng một và sabát họ chỉ mong cho ngày lễ ấy chóng qua để họ tiếp tục làm ăn kiếm thêm tiền.
- Khi làm ăn, họ dùng đủ cách gian lận “làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm”.
- Đặc biệt họ khai thác và bóc lột những người nghèo.
2/. Đáp ca (Tv 112)
Ca ngợi Chúa vì đã cứu giúp và nâng đỡ những người nghèo.
3/. Tin Mừng (Lc 16, 1-13)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy môn đệ mình cách xử dụng tiền bạc của cải vật chất. Trước tiên Ngài dùng một dụ ngôn (người quản gia), và sau đó nói về cách xử dụng tiền của.
a/. Dụ ngôn người quản gia: đối với dân Do Thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi. BJ nói quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
– Chúa Giêsu nói người quản gia trong dụ ngôn này là “bất lương”. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh còn bàn cãi nhau về sự “bất lương” này (ăn gian tiền của chủ? cho vay ăn lời cắt cổ? hay là sửa đổi giấy nợ?. . . ).
– Nhưng điều Chúa Giêsu muốn ta noi gương nơi người quản gia này là cách xử dụng tiền của: Người quản gia này là “con cái thế gian”, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. “Con cái của sự sáng” phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.
b./ Những điểm đáng chú ý trong lời Chúa Giêsu dạy về tiền của:
- Ngài đánh giá tiền của là “gian dối”.
- Ngài khuyên dùng tiền của đời này để mua lấy những giá trị đời sau.
- Phải coi tiền của là đấy tớ phục vụ mình, chứ đừng coi chúng là ông chủ mà mình phải làm nô lệ.
- Chính những người được coi là đạo đức như biệt phái mà cũng mang tính tham lam.
4/. Bài đọc II (1 Tm 2, 1-8) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê khuyên tín hữu mình đừng ganh tị tranh chấp với nhau:
- Nguồn gốc của tranh chấp là lòng tham
- Thay vì tranh chấp, hãy tích cực xây dựng hòa bình.
IV/. Gợi ý giảng
* 1/. Dùng tiền của hiện tại để mua bảo đảm cho tương lai
Dụ ngôn này nói tới một người quản gia kia bị tố cáo là phung phí tài sản của chủ nên bị chủ báo tin là sẽ cho thôi việc. Anh ta lo sợ trước viễn tượng một tương lai bấp bênh nên đã tìm cách xoay sở, để sau này khi anh mất việc thì có nhiều người giúp đỡ anh.
Mấu chốt của câu chuyện là cách xoay sở của anh: anh gọi những người thiếu nợ đến và sửa lại giấy nợ, nghĩa là giảm bớt phần nợ mà họ phải trả. Làm như thế họ sẽ biết ơn anh và sau này sẽ giúp anh để đền ơn.
Thế nhưng cách xoay sở bằng cách sửa lại giấy nợ như thế có lương thiện hay không? Hiện có hai lối giải thích:
– Giải thích thứ nhất cho rằng anh ta không lương thiện: lẽ ra con nợ thứ nhất phải trả cho chủ 100 thùng dầu thì anh bớt đi chỉ còn phải trả 50 thùng thôi; con nợ thứ hai lẽ ra phải trả 1000 thùng lúa thì anh bớt đi chỉ còn 800. Như thế là làm thiệt hại cho chủ. Anh ta lấy một phần tài sản của chủ để mua lấy tình cảm cho bản thân anh. Nói nôm na hơn, anh ta “mượn đầu heo nấu cháo”.
– Giải thích thứ hai cho rằng anh lương thiện: Theo tục lệ Do Thái, người quản gia không được trả lương, nhưng bù lại, chủ thường uyển chuyển hoặc làm ngơ để cho người quản gia dùng tài sản của chủ mà kiếm ăn riêng, miễn sao không hại đến tài sản của chủ thôi. Người quản gia này đã lấy 50 thùng dầu của chủ để cho người ta vay nhưng trong giấy nợ anh ghi là 100 thùng, tức là có thêm 50 thùng mà anh ta sẽ hưởng; cũng thế anh lấy 800 thùng lúa của chủ để cho vay nhưng trong giấy nợ lại ghi là 1000 nghĩa là có phần của anh 200 thùng. Đến lúc cần mua lòng người ta, người quản gia này đã hy sinh phần lời mà anh được hưởng, anh dùng phần đó để mua tình cảm của những người thiếu nợ. Nói nôm na, anh này đã “bỏ con tép để bắt con tôm”. Như thế, anh xoay sở cách lương thiện.
Hai giải thích trên, giải thích nào cũng có phần đúng. Chúng ta không biết chọn theo giải thích nào. Nhưng điều đáng chúng ta lưu ý, mà cũng là điều chính Chúa Giêsu bảo chúng ta học theo, đó là anh biết dùng của cải vật chất hiện tại để mua sắm những thứ bảo đảm cho tương lai: đối với người quản gia này, để mua lấy bảo đảm cho tương lai, anh không tiếc phải hy sinh tài sản hiện tại. Hiện tại, anh làm ơn cho những người thiếu nợ anh, để sau này những người đó sẽ trả ơn cho anh.
* 2. Những việc nhỏ dẫn đến việc lớn
Người ta không phạm một tội lỗi tày trời ngay trong một sớm một chiều; người ta cũng không làm một việc tốt vĩ đại ngay trong một sớm một chiều. Việc lớn là hậu quả hay kết quả của những việc nho nhỏ mà người ta đã bắt đầu làm từ rất lâu trong quá khứ.
Như người quản gia trong dụ ngôn này, có lẽ khi mới được chủ chọn làm người coi sóc tài sản, anh đã làm rất tốt. Dần dần đồng tiền có sẵn trong tay cám dỗ anh ăn bớt ăn xén, khởi sự là một số tiền nhỏ, dần dần lớn hơn… Rất có thể đôi khi lương tâm anh cũng sống lại, khiến anh biết điều mình làm là sai trái. Nhưng vì đã quen ham tiền và quen kiếm tiền cách bất chính nên anh không dừng lại được, trái lại càng ngày càng lún sâu hơn trong tội lỗi. Cho đến một ngày kia, sự việc đổ bể, chủ gọi anh đến và cất chức anh.
Tục ngữ có câu “Túi tham không đáy”. Chúng ta đừng tự lừa dối mình rằng “Chỉ một ít này thôi, chỉ một lần này thôi”, bởi vì một khi đã dùng cách bất chính để bỏ vào túi tham của mình một ít tiền thì cái túi ấy chẳng những không đầy, trái lại nó càng sâu thêm, lòng tham của mình đói khát thêm và lại đòi ăn thêm nữa.
Hằng ngày đọc báo, nghe đài và xem truyền hình, chúng ta thấy nhiều người phải ra tòa rồi vào tù vì tội ăn cắp tài sản của người khác hoặc của công. Đáng chú ý là thủ phạm của những vụ ăn cắp lớn không phải là những người nghèo mà là những người giàu. Họ đâu có túng thiếu, họ còn dư thừa nữa là đàng khác. Nhưng căn bệnh nguy hiểm của họ là tiền bạc họ có thay vì thỏa mãn họ thì lại làm cho họ thèm khát hơn.
Cách tốt nhất để không bị đồng tiền làm hại là hãy kiếm tiền cách chân chính và đừng bao giờ bắt đầu một hành vi gian tham dù rất nhỏ nhặt.
* 3. Nhận lãnh để trao ban
Có một nhà kia tính mời vài đạo sĩ tới lập đàn giải trừ tai nạn. Một đạo sĩ nọ tham lam, muốn một mình hưởng trọn số tiền chủ nhà trả ông, liền nhận bao thầu hết việc lập đàn cúng bái.
Ông ta chẳng kể ngày đêm. Làm việc luôn tay luôn chân, không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì kiệt sức, đơ tay, ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông ta chết, mang hoạ, liền thuê người khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe vậy, cố ngước đầu lên thì thào:
Ông hãy đưa tiền thuê người cho tôi, tôi tự mình lần về miếu cũng được.
*
Những người coi đồng tiền to hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc của con người, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.
Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng của cải phù dù, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ” là sử dụng tiền của để bảo đảm cho ta của cải chân thật đời sau?
Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. Tác giả Augier còn viết: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quĩ của người nghèo”. Vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thựïc sự “làm tôi Thiên Chúa”.
*
Lạy Chúa, trong khi chúng con đang bôn ba tìm kiếm những của cải tạm bợ đời này, xin cho chúng con cũng biết khôn ngoan tích trữ cho mình gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời. Amen. (TP)
4/. Chuyện minh họa
a/ Cửa sổ hoặc tấm gương
Một người Do Thái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh đến bên cửa sổ và nói: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và tôi biết ông thấy gì. ” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại. ” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ ông thấy gì trong tấm gương?” – “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi”.
Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học: “Này nhé, tấm gương được làm bằng kính, phía sau phủ một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đàng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ, ông đã thấy được những người khác. (Trích “Món quà giáng sinh”)
b/ Loại tiền cho đi
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
– Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
– Chỉ một đồng thôi.
– Còn tô lớn kia?
– Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
– Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
– Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
– Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
– Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
c/ Đạo một mắt
Bác sĩ A. J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
– Nhưng giá bao nhiêu?
– Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: “Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!”
Nhiều người vẫn cầu nguyện: “Xin mở mắt con để thấy kì công của Chúa. . . ” Nhưng xem ra nhiều Kitô-hữu chỉ muốn Chúa mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để mà trông coi gia sản!
d/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
- Mảnh suy tư
a/ Tiền
Người công nhân đồ mồ hôi để có được nó
Kẻ hoang phí thì đốt nó
Chủ ngân hàng đem nó cho vay
Đàn bà xài nó
Kẻ lưu manh làm giả nó
Nhân viên thuế vụ lấy nó
Người hấp hối lìa bỏ nó
Kẻ thừa kế tiếp thu nó
Người tiết kiệm để dành nó
Người keo kiệt thèm khát nó
Kẻ ăn trộm chộp lấy nó
Người giàu gia tăng nó
Người cờ bạc bị mất nó
Phần tôi thì dùng nó (Quote)
b/ Khả năng thật của tiền bạc
Tiền có thể mua được cái vỏ nhưng không mua được cái nhân
Nó có thể mang đến cho bạn thức ăn, nhưng không mang đến khẩu vị
Nó giúp bạn có nhiều người quen, nhưng không giúp bạn có bạn bè
Nó giúp bạn có những đầy tớ, nhưng không giúp bạn có được lòng trung thành của họ.
Nó ban cho bạn những tháng ngày hưởng thụ, nhưng không cho bạn bình an và hạnh phúc (Henrik Ibsen)
c/ Những thứ mà tiền không mua được
Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn.
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui lành mạnh.
V/. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
1/. Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / biết luôn quan tâm đến việc rao giảng Tin mừng cho mọi nước mọi dân.
2/. Hiện nay / vẫn còn có biết bao người không nhà không cửa / nghèo khổ cùng cực / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc xóa đói giảm nghèo / mang lại hiệu quả thiết thực cho những người bất hạnh trong xã hội.
3/. Tiền bạc là một người đầy tớ tốt / nhưng luôn luôn là một ông chủ xấu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết sử dụng của cải Chúa ban theo đúng tinh thần nghèo khó của Tin mừng.
4/. Giúp mọi người sống xứng với nhân phẩm của mình / là bổn phận cao quý của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi giúp đỡ những ai thật sự khó nghèo / để họ có thể sống xứng với thân phận con người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Xin cho chúng con chỉ biết tôn thờ một mình Thiên Chúa, và chỉ sử dụng tiền của như một phương tiện Chúa ban để nuôi sống bản thân và gia đình, đóng góp vào việc công ích và chia sẻ cho những người nghèo khổ. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta sắp nói với Chúa Cha rằng “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Lời nguyện này không nhằm xin cho có của ăn cho bằng xin có tinh thần phó thác vào Chúa quan phòng thay vì óc tham lam tích trữ.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt xin cứu chúng con khỏi tính tham lam và sự nô lệ tiền của, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an ”
VII/. Giải tán
Trước khi ra về, chúng ta hãy ôn lại một lời Chúa nói hôm nay “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng làm chủ tiền của và làm tôi Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- C
GƯƠNG TỐT CỦA NGƯỜI XẤU– Chú giải của William Barclay
Đây là một dụ ngôn rất khó cắt nghĩa. Câu chuyện bao gồm những tên lưu manh mà người ta có thể gặp ở bất cứ nơi đâu. Tên quản gia này là một tên lưu manh. Hắn vốn là một nô lệ, tuy vậy hắn được giao trách nhiệm điều hành gia sản của chủ. Tại Palestine có nhiều địa chủ hay đi vắng, nên tất cả công việc của ông ta được trao trong tay người quản gia của ông. Tên quản gia trong câu chuyện này đã ăn cắp khéo léo. Các con nợ cũng là những tên lưu manh. Chắc chắn món nợ của họ là tiền thuế đất. Thuế đất ở Palestine thường được trả cho chủ đất không bằng tiền mà là hiện vật, thường là một phần hoa lợi của đám đất cho thuê. Quản gia này biết rằng hắn sẽ mất chức quản gia, vì thế nảy ra một sáng kiến. Hắn ghi sổ một cách gian lận để các con nợ được trả ít hơn cho chủ. Điều này có hai công hiệu. Thứ nhất, các con nợ sẽ phải mang ơn hắn. Thứ hai, còn có hiệu lực hơn, là hắn làm cho con nợ cũng liên luỵ về hành động gian dối của hắn, và nếu lâm vào tình trạng bế tắc thì hắn ở vào một thế mạnh để thực hiện những vụ tống tiền. Chính chủ hắn cũng là một thứ lưu manh nữa, bởi vì, thay vì khó chịu về hành động này, ông ta lại khen nó thông minh. Điều khó giải thích dụ ngôn này là bởi Luca đã gồm vào đó bốn bài học khác nhau.
- Câu 8 là bài học con cái ở đời này tỏ ra khôn khéo với đời hơn con cái sự sáng. Điều đó có nghĩa là nếu các Kitô hữu cũng hăng hái khéo léo trên đường hành đạo như người đời khéo tìm của cải tiền bạc thì tốt biết bao. Nếu người ta chú tâm đến linh hồn cũng như việc buôn bán làm ăn thì họ đã tốt hơn nhiều. Nhưng thực ra người ta luôn luôn đổ nhiều thì giờ, tiền bạc, công sức vào những lạc thú, vui chơi đời này gấp 20 lần hơn vào các công việc Hội Thánh của mình. Đạo của chúng ta chỉ trở thành thực tại và hữu hiệu khi nào chúng ta đầu tư vào đó nhiều thì giờ, sức lực như vào các việc thế tục.
- Câu 9 là bài học của cải vật chất nên dùng để giữ tình bạn. Điều này có thể làm trong hai cách:
- Làm việc đó cho đời sau. Các rapbi Do Thái có câu “kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải chuyện người giầu ngu dại xây kho lẫm lớn hơn để tích của. Ambrose có nói: “Lòng của người nghèo, nhà của bà goá, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”. Người Do Thái tin rằng của bố thì cho người nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tuỳ những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi.
- Làm việc đó cho đời này. Người ta có thể dùng của cải một cách ích kỷ, hoặc có thể dùng để giúp cho đời sống dễ chịu hơn, không những cho chính mình, mà còn cho bạn bè và những người chung quanh mình nữa. Biết bao nhà học giả đời đời mang ơn một người nào đó đã dùng tiền bạc mình để giúp học bổng cho mình theo đuổi việc học. Biết bao người đã mang ơn một người bạn giàu có đã tài trợ cho họ trong cơn túng cực một cách thực tế. Tự bản chất, của cải không phải là tội lỗi nhưng đòi trách nhiệm thực hiện chức năng của nó và người nào dùng của cải để giúp đỡ tha nhân túng cực, kẻ ấy đã làm trong trách nhiệm của mình.
- Câu 10,11 là bài học về cách thi hành việc nhỏ, qua đó, sẽ chứng tỏ người đó có xứng đáng hay không xứng đáng để trao phó những việc lớn. Điều này đúng trong các việc đời này, không ai được cất nhắc lên vị trí cao hơn nếu lúc ở địa vị thấp, người đó đã không chứng tỏ được khả năng và lòng ngay thẳng. Nhưng Chúa Giêsu đã áp dụng nguyên tắc đó vào đời sau. Ngài phán “ở thế gian các ngươi chịu trách nhiệm về những của cải không thực sự thuộc về mình. Các ngươi không thể mang theho mình những của cải đó khi chết. Những của cải đó chỉ cho các ngươi vay mượn. Các ngươi là người quản lý của đó, vì theo bản chất, những của đó không là của các ngươi vĩnh viễn. Nhưng trái lại, ở trên trời, các ngươi sẽ được những của cải thuộc về các ngươi một cách thiết thực, vĩnh viễn và bất di dịch. Những của mà các ngươi sẽ được trên trời lại tuỳ theo cách các ngươi dùng của cải dưới đất. Của cải mà các ngươi sẽ được làm tài sản riêng tuỳ ở cách các ngươi sử dụng những của cải mà các ngươi chỉ làm quản lý”.
- Câu 13 đặt ra luật: không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ. Chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay công nhân có thể làm hai công việc một cách dễ dàng, và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỉ dụ có người làm thư ký ban ngày và làm ca sĩ vào ban tối. Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thì giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Chúa không thể nào là một công việc bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn phục vụ Chúa thì tất cả thì giờ, tất cả sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn vẹn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN -C
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- C
LÀM CHỦ HAY LÀM ĐẦY TỚ TIỀN BẠC – Lm. Đan Vinh HHTM
1/. TIN MỪNG : Lc 16,1-13
(1) Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng : “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông anh này đã phung phí của cải nhà ông. (2) Ông mới gọi anh ta đến mà bảo : “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Anh hãy phúc trình về công việc quản lý của anh. Vì từ nay anh không được làm quản gia nữa”. (3) Người quản gia liền nghĩ bụng : Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cắt chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. (4) Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !”. (5) Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?”(6) Người ấy đáp : “Một trăm thùng dầu Ô-liu”. Anh ta bảo : “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. (7) Rồi anh ta hỏi người khác : “Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ?” Người ấy đáp : “Một ngàn thùng lúa” Anh ta bảo : “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi”. (8) Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (9) Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (10) Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tin trong việc lớn. Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. (11) Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ? (12) Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ? (13) Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia. Hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”.
2/. Ý CHÍNH : Bài Tin mừng hôm nay dạy các môn đệ phải khôn ngoan, biết nhìn xa để chuẩn bị cho tương lai sau này. Đức Giê-su kể câu chuyện về một quản gia bất lương, đã lợi dụng những giờ phút cuối khi đang còn giữ chức quản lý, để làm ơn cho các con nợ của chủ bằng cách hạ thấp số nợ của họ xuống, với hy vọng sau này sau khi anh bị mất việc thì họ sẽ đền ơn đón anh về nhà họ. Cuối cùng Chúa dạy phải dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi giờ chết đến bị mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời.
3/. CHÚ THÍCH :
– C 1-4 : + Một nhà phú hộ kia có một người quản gia : Theo luật Do thái thì người quản gia không phải thuộc hạng tôi tớ được trả lương. Anh ta có quyền thay mặt chủ lo liệu mọi sự. Trường hợp viên quản gia làm thất thoát tiền bạc của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt anh ta phải hoàn lại của cải đã bị thất thoát. Hình phạt cùng lắm chỉ là sa thải, kèm theo bị mất uy tín mà thôi. Sau khi nhận được giấy sa thải, người quản gia sẽ phải tính sổ sách, liệt kê tài sản. Trong thời gian này, người quản gia vẫn là đại diện cho chủ, và được hành động nhân danh chủ. Trong bài dụ ngôn, việc người quản gia đã phung phí tài sản của chủ để gây thiện cảm với các con nợ tức làm lợi cho mình. Có thể nói anh ta đã “mượn đầu heo nấu cháo” ! Nhưng anh cũng là người khôn khéo biết lợi dụng thời gian ngắn đang còn tại chức để làm ơn cho các con nợ của chủ, hầu đến khi bị chủ cách chức thì anh hy vọng họ sẽ đền ơn giúp lại anh.
– C 5-7 : + Một trăm thùng dầu : Thùng dầu là đơn vị chứa khoảng từ 21 đến 45 lít. + Một ngàn thùng lúa : Thùng lúa hay giạ lúa, một đơn vị có số lượng lớn gấp 10 lần thùng dầu nói trên.
– C 8-10 : + Ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo : Đức Giê-su khen việc biết chuẩn bị cho tương lai của anh quản gia là hành động khôn khéo. + Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại : Con cái đời này ám chỉ những kẻ thuộc về thế gian. Con cái ánh sáng là những người thuộc về Nước Trời. Con cái thế gian thường bén nhậy trong việc tìm kiếm tiền bạc vật chất, đang khi con cái Nước Trời lại thường khờ dại, không biết xử dụng ơn Chúa để lo cho mình được hưởng ơn cứu độ. + Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè : Người quản gia đã hành động khôn khéo. Còn các môn đệ là con cái sự sáng, cũng phải dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu. Tiền của bất chính trong câu này không có nghĩa là có nguồn gốc bất chính như trộm cắp gian tham, nhưng bất chính vì tiền bạc thường làm cho người ta ra hư hỏng. Hãy sử dụng nó để giúp đỡ người nghèo, tức là biến nó trở thành đồng tiền có giá trị ở đời sau. + Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn : Tiền của là một vật để trắc nghiệm lòng trung tín. Ở đây Đức Giê-su dạy môn đệ phải trung thành trong việc nhỏ là sử dụng tiền bạc, để biến đồng tiền ấy trở thành của cải chân thật có giá trị lớn lao ở đời sau (x. Mt 25,21; Lc 19,17).
– C 11-13 : + Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ : Đức Giê-su nhân cách hóa tiền bạc vật chất vì nó có thể sai khiến người ta như một tà thần. Kiểu nói “làm tôi” ở đây mang ý nghĩa “lụy phục”, “phượng thờ”, làm cho tiền của trở thành tà thần đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Đức Giê-su đòi các môn đệ phải dứt khoát chọn tôn thờ một mình Thiên Chúa thay vì vừa tôn thờ Thiên Chúa lại vừa tôn thờ tiền của.
4/. CÂU HỎI : 1) Tại sao người quản gia bị đánh giá là bất lương ? 2) Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người noi gương khôn khéo của người quản gia kia thế nào ? 3) Khi nói : “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè”, phải chăng Đức Giê-su dạy các tín hữu dùng tiền lừa đảo trộm cắp hay tham nhũng để giúp đỡ kẻ nghèo ? 4) Khi nào tiên bạc trở thành ông chủ ? Ta phải làm gì để biến nó nên đầy tớ của ta ? 5) Tiền bạc sẽ đem lại hậu quả thế nào một khi trở thành ông chủ ?
II/.SỐNG LỜI CHÚA
1/. LỜI CHÚA : “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13b).
2/. CÂU CHUYỆN :
*1) CHỈ MUA ĐƯỢC BẰNG LOẠI “TIỀN CHO ĐI” MÀ THÔI :
Một người kia suốt đời chỉ biết thu gom tiền bạc chứ không chịu chi ra, nên ông ta ngày một giàu thêm. Rồi một hôm ông ta bị đau nặng sắp chết. Trước khi nhắm mắt, ông cho gọi vợ con lại bên giường và trăn trối như sau : “Khi tôi chết, bà nó hãy đem tất cả số vàng tôi đã dành dụm bấy lâu bỏ vào trong quan tài cho tôi, vì tôi sẽ cần dùng tới nó trong thế giới bên kia”. Sau khi ông ta chết, vợ ông đã làm y như lời trăn trối của ông. Trên đường về thế giới bên kia phải đi ngang qua một cái chợ, ông nhà giàu ghé vào xem và thấy người ta mua bán nhiều thứ rất ngon, giống như các chợ dưới trần gian. Ông ta chỉ vào một ký thịt bò tươi và hỏi cô bán hàng giá bao nhiêu. Cô ta trả lời : “Giá một đồng”. Ông nghĩ bụng : “Rẻ thật !”. Ông lại quay sang hỏi nhiều món hàng khác đang bày bán chung quanh, và vật gì giá cũng chỉ một đồng. Ông nhẩm tính với số tiền mang theo khi chết ông sẽ có thể sống sung sướng trong cả ngàn năm nữa. Nhưng đến khi trả tiền để lấy hàng, ông nhà giàu bỡ ngỡ khi người bán không chịu nhận đồng tiền của ông. Cô ta nói với ông rằng : “Ở đây chỉ xài loại “tiền cho đi” mà thôi ! Còn tiền của ông là loại “tiền thu vào”, không có giá trị thanh toán !” Bấy giờ ông nhà giàu rất buồn rầu và thất vọng, vì tiền của bấy lâu nay ky cóp giờ chẳng còn chút giá trị nào cả ! Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra bài học này : Chỉ những “đồng tiền cho đi” mới là “đồng tiền để dành” có giá trị thanh toán ở đời sau và mới thực sự đem lại hạnh phúc đời đời cho ta.
*2) MẠNH THƯỜNG QUÂN DÙNG TIỀN BẠC MUA NGHĨA :
MẠNH THƯỜNG QUÂN nhà giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Hoan sang đất Tiết đòi nợ, lúc sắp đi, Phùng Hoan hỏi:
– Tiền nợ thu được có định mua gì về không?
Mạnh Thường Quân nói:
– Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Hoan cho gọi dân làng lại bảo rằng:
– Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều cho cả. Rồi đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng Hoan thưa với Mạnh Thường Quân:
– Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép vì tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa.
Sau Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa ra đón rước đầy đường. Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Hoan rằng:
– Trước tiên sinh vì tôi mua “nghĩa ” nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.
*3) KHÁC BIỆT GIỮA HAI LOẠI KÍNH :
Một lần kia có một người giàu có nhưng keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giàu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói : “Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy gì”.
“Tôi thấy người ta đi qua, đi lại”, ông nhà giàu đáp.
Rồi giáo trưởng đem ông ta ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói : “Ông hãy nhìn vào tấm gương này và ông thấy gì”.
“Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giàu đáp.
“Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có tráng lên một lớp bạc tượng trưng cho đồng tiền. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính mình. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ còn nhìn thấy bản thân mình”.
*4) THÀ BỊ CHỘT MỘT MẮT CÒN HƠN MẤT TIỀN CHỮA TRỊ :
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu keo kiệt đến khám mắt. Sau khi khám, bác sĩ cho biết ông ta phải chữa trị cả hai mắt, nếu không muốn bị mù. Ông ta liền hỏi :
– Giá chữa trị mỗi con mắt là bao nhiêu ?
– Là 100 đôla. Bác sĩ trả lời.
Nghe vậy, ông nhà giầu thừ người ra suy nghĩ một lúc. Sau đó ông ta nói với bác sĩ : “Tôi chỉ yêu cầu bác sĩ chữa cho tôi một mắt với giá 100 đôla thôi. Vì tôi nghĩ : chỉ cần còn một mắt cũng có thể thấy đường đi và đếm được tiền rồi. Còn chữa hai mắt phải tốn tới 200 đôla là quá nhiều !
3/. SUY NIỆM:
*1) GIÁ TRỊ CỦA TIỀN BẠC :
Có người đã phát biểu về giá trị tương đối của đồng tiền như sau : “Tiền bạc có thể mua vỏ bọc ngoài của các sự vật nhưng không thể mua được điều cốt lõi của chúng được. Nó có thể đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; có thể mang thuốc men nhưng không phải mang sức khỏe, mang sự quen biết nhưng không mang bạn bè, mang tôi tớ giúp việc nhà nhưng không phải là lòng trung tín, mang đến những ngày đầy lạc thú xác thịt nhưng không phải là sự bình an và hạnh phúc”. (Henrik Ibsen)
*2) CẦN BIẾT KHÔN NGOAN SỬ DỤNG TIỀN BẠC:
Nhìn vào thế giới ngày nay, chúng ta cũng thấy còn đầy dẫy những bất công : Có những người giầu có lối sống hưởng thụ xa hoa hoang phí đang khi nhiều người nghèo ăn không đủ no, mặc không đủ ấm và còn thiếu tất cả những nhu cầu tối thiểu. Sở dĩ có sự giàu nghèo bất công như vậy một phần là do hoàn cảnh xã hội tạo ra, nhưng chủ yếu là do lòng tham của con người, khi mà người giàu chỉ biết ích kỷ để tìm lo cho bản thân, mà không biết nghĩ đến những người nghèo đói bất hạnh ở ngay bên cạnh mình. Qua dụ ngôn về người quản gia bất lương trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su muốn các môn đệ và các tín hữu chúng ta cũng phải có thái độ khôn ngoan để biết nhìn xa và có những hành động phù hợp có lợi cho tương lai của mình sau này.
*3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐỐI VỚI TIỀN BẠC ? :
– Biến đồng tiền thu vào thành đồng tiền cho đi : Nên nhớ rằng : Chỉ khi biết quảng đại ban phát của cải cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những người quản gia trung tín và khôn ngoan biết làm theo ý chủ. Chỉ khi biết coi tiền của là phương tiện phục vụ tha nhân, chúng ta mới chứng tỏ mình là tôi trung của Thiên Chúa. Các Rabbi Do thái có câu này : “Kẻ giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo sẽ giúp kẻ giàu ở đời sau”.
– Chọn làm chủ thay vì đầy tớ đồng tiền : Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình : Tôi hiện đang làm chủ hay đang làm đầy tớ cho đồng tiền ?
Tôi sẽ là chủ đồng tiền nếu dám chia sẻ số tiền mình đang có cho người khác, dám cho vay mượn theo đức công bình, dám trả lại cho chủ của khi phát hiện ra đồng tiền mình đang chiếm giữ không phải của mình. Nhất là khi bị mất cắp, tôi sẽ không quá đau buồn như kẻ mất hồn, đến nỗi chẳng còn thiết tha làm bất cứ việc gì khác !
Tôi sẽ là đầy tớ đồng tiền nếu năng nghĩ đến nó, thích mang ra nhìn ngắm và đếm đi đếm lại nhiều lần trong ngày; Năng đề cập đến tiền bạc trong câu chuyện và đề cao sức mạnh vạn năng của nó; Có thái độ tôn trọng đồng tiền hơn mọi thứ có giá trị khác; Sẵn sàng làm bất cứ việc gì dù vi phạm luật pháp hoặc bất công và bất nghĩa… miễn sao có nhiều tiền cho đầy túi tham.
4/. THẢO LUẬN : Bạn cần làm gì để tiền bạc trở thành đầy tớ phục vụ cách đắc lực cho các nhu cầu chính đáng của bạn và của tha nhân ?
5/. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết qui hướng trọn cuộc sống về cho Thiên Chúa, từ việc nhỏ đến việc lớn. Xin giúp chúng con dứt khoát nói “không” với bất cứ cám dỗ nào xúi giục chúng con tìm kiếm những đồng tiền bất chính, để chúng con xứng đáng trở thành những môn đệ thực sự của Chúa : luôn sống theo Lời Chúa dạy và mãi mãi thuộc về Chúa.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- C
KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC- Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ
Có người khôn “lỏi”. Có người khôn mà không “ngoan”, khôn mà không được người khác thương. Có người ngây thơ như thể là dại, nhưng lại được nhiều người thương. “Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn”. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?
Khôn theo kiểu thế gian
Người quản lý trong dụ ngôn Đức Yêsu kể, thật là khôn theo kiểu thế gian. Anh ta toan tính và cư xử rất khéo và có lợi cho anh ta. Anh ta được lợi ngay trước mắt, sẽ được người ta đón tiếp một khoảng thời gian nào đó; nếu tiếp tục để tồn tại, anh ta phải toan tính làm những điều không lương thiện tương tự, để có thể sống mà không cần phải làm việc. Nhưng, anh ta có thật sự hạnh phúc không? Một người lương thiện có thể coi anh ta là người bạn chân thành không? Nếu tất cả mọi người đều lợi dụng lẫn nhau, và khi không còn lợi cho mình nữa, thì chấm dứt mọi tương quan. Nếu cuộc sống chỉ là vậy, có chi là hạnh phúc!
“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi”. Những người khôn kiểu này, người Việt Nam mình gọi là khôn lỏi, khôn mà không ngoan, khôn mà dại. Có nhiều người trong cuộc sống, vẫn chọn và hành xử theo kiểu khôn ngoan này. Họ vẫn chọn tiền bạc, mua bán đổi chác trong mọi chuyện, kể cả tình yêu. Có nhiều bậc cha mẹ vô tình hay hữu ý vẫn khuyến khích con mình khôn ngoan theo kiểu “dại” như vậy.
Khôn ngoan đích thực
Người khôn ngoan đích thực, phải là người thấy được điều lợi không phải ngay lúc này, nhưng còn cả ở tương lai xa nữa. Thứ ba vừa qua khủng bố đã xảy ra ở New York làm chết trên dưới năm ngàn người. Sống trong một nước văn minh, con người làm chủ những luật lệ thiên nhiên, biết thời tiết nắng mưa, nóng lạnh gần như chính xác, thấy được những biến chuyển của những cấu trúc và thiết bị nhân tạo. Con người gần như cảm thấy an toàn, làm chủ tất cả. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, làm con người run sợ. Cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con người run sợ trước sự dữ con người làm cho nhau. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu? Được gì nếu cái chết xảy đến ngay cả khi mình giầu sang quý phái nổi tiếng? Ở trên ngôi nhà cao, nổi tiếng, vẫn là điều làm người ta vinh dự; lúc tai nạn xảy ra, toà nhà nổi tiếng đó trở thành mối hoạ, sống trên đó lại là cái hại khủng khiếp.
Khôn chết, dại chết, biết cũng chết. Sự khôn ngoan đích thực không phải chỉ toan tính cho ở đời này. Nếu chết là hết, toan tính ở đời này là đủ; nhưng chết không phải là hết, mà là khởi đầu một đời sống mới vĩnh cửu, mà nếu không chuẩn bị cho cuộc sống đó, mà chỉ lo cuộc sống đời này, thì quả là dại. Khôn ngoan đích thực, là sống theo luật yêu thương của Đức Yêsu trong cuộc sống thường ngày. Khôn ngoan đích thực, làm con người sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu và ngay trong cuộc sống này.
Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài yêu thương con người, để khi nhận biết Ngài yêu thương con người, con người được tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn sự dữ, không muốn con người đau khổ.
Đau khổ và sự dữ do con người gây ra cho nhau. Biến cố cướp máy bay và cố tình gây ra thật nhiều cái chết, làm nhiều người đau khổ. Và sự dữ này kéo theo sự dữ khác, chẳng hạn muốn báo thù, muốn hủy diệt sự dữ bằng sự dữ khác.
Khôn ngoan đích thực, là chính thái độ sống yêu thương mà Đức Yêsu đã dạy con người bằng chính cuộc sống của Ngài. Sự khôn ngoan đích thực không phải là bài học lý thuyết con người có thể học được trong vài phút, nhưng là chính cuộc sống của mỗi người. Trên thập giá, Đức Yêsu cầu nguyện: “xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”. Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, kiên nhẫn chịu đựng những bất công người ta gây ra cho con mẹ. Cách sống của Đức Yêsu và Đức Mẹ, là cách sống làm con người sống bình an hạnh phúc. Sự dữ kéo theo sự dữ, làm con người luôn sống trong bất bình an. Tha thứ, cầu nguyện cho người ghét mình, làm con người được bình an tận trong lòng, và giúp kẻ làm ác có cơ hội thống hối. Đức Yêsu và những môn đệ của Ngài đã không lấy ác báo ác, nhưng lấy tình thương đáp trả sự dữ. Đây là cách hành xử của những người tuyệt vời. Khôn ngoan đích thực được thể hiện trong cuộc sống với những hành vi cụ thể cho dù nhỏ bé.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1/. Điều gì làm cho bạn khổ nhất? Tại sao vậy?
2/. Con người có thể sống hạnh phúc không? Khi nào?
3/. Đức Yêsu và Đức Mẹ có hạnh phúc ở đời này không? Xin trình bày quan điểm của bạn cho người khác!
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- C
HÃY LÀM TÔI THIÊN CHÚA- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Trong thời buổi kinh tế thị trường hôm nay, được làm chức quản lý cho một người nào hay cho các hãng xưởng, công ty sản xuất kinh doanh, đó là một niềm vinh dự và tự hào của chúng ta. Chức quản lý, nó liên quan đến việc xử dụng tài sản, tiền bạc, của cải của người chủ. Do đó, để được cất nhắc làm quản lý, chúng ta phải là một người có khả năng, có trình độ, có cái tâm và nhất là được người chủ tin tưởng.
Người quản lý mà Chúa nói trong bài Tin Mừng Chúa Nhật XXV năm C Thường Niên hôm nay, đó là hình ảnh của mỗi người chúng ta, và người chủ, đó là Chúa. Chúa tin tưởng giao thế giới vật chất này cho chúng ta quản lý, trông coi. Chúng ta chẳng những quản lý thời giờ, tiền của, sức khỏe, khả năng, tri thức….của bản thân, mà chúng ta còn quản lý chính con người chúng ta nữa. Nhưng rồi chúng ta cũng giống như người quản lý ấy là chúng ta lạm dụng vào sự tin tưởng của Chúa, lạm dụng vào sự tự do của bản thân mình mà tạo ra một quá khứ tội lỗi, bất chính, hổn độn, là sử dụng mọi sự Chúa ban không nên. Chúng ta đã làm thất thoát, mất mát, tiêu tán quá nhiều ơn của Chúa khi chúng ta phạm tội và chúng ta chẳng đem lại lợi lộc gì cho Chúa. Chúa sẽ phế bỏ, cách chức chúng ta: “ Tôi nghe nói anh sao đó ? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa “ ( Lc 16, 2 ).
Chúa loại bỏ chúng ta, cuộc đời chúng ta đen tối, không lối thoát: “ Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi …” ( Lc 16, 3 ). Chỉ còn một con đường duy nhất mà Chúa mở cho chúng ta là chúng ta hãy hướng đến tha nhân, hướng đến anh chị em của chúng ta, những người đang gặp nghèo túng, bệnh tật, khổ đau, cơ cực…
Quả thật, chính nhờ Lời Chúa dạy bảo mà chúng ta mới có một hướng đi, một lối thoát để chúng ta trở về làm hòa với Chúa, và để Chúa xót thương tha thứ và ban ơn cho chúng ta. Hướng đi đó là chúng ta hãy dùng những gì Chúa ban cho chúng ta mà giúp đỡ anh chị em của chúng ta, nhất là những người túng thiếu, cơ hàn, khổ đau… ( Người thì thiếu nợ ông chủ một trăm thùng dầu, người thì thiếu một trăm dạ lúa miếng…. ). Họ thiếu nghĩa là họ nghèo túng, đói khát, chúng ta cần giúp đỡ họ. Viết văn tự giảm nợ, điều ấy có nghĩa là chúng ta giúp đỡ, chia sẻ anh chị em của chúng ta những gì chúng ta có: “ Hãy dùng của cải gian dối mà mua lấy bạn hữu… “ ( Lc 16, 9 ). Của cải gian dối, bất chính mà còn mua lấy được bạn hữu thì huống chi là của cải chính đáng do chúng ta tạo ra mà chúng mua lấy bạn hữu thì càng giá trị với Chúa biết bao. Đó là việc làm khôn ngoan mà Chúa muốn chúng ta thực hiện trong bài Tin Mừng này: “ Để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghĩ đời đời “ ( Lc 16, 9b ). Mất hết của cải là khi chúng ta chết, chúng ta chẳng mang theo nó, nó chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta nữa, nó là tro bụi. Giá trị chúng ta mang theo là chúng ta sử dụng nó theo ý Chúa, là giúp đỡ anh chị em của chúng ta.
Điều mà Chúa muốn dạy dỗ chúng ta là đừng làm tôi tiền của, đừng lệ thuộc nó, đừng biến nó thành ông chủ của mình. Nếu chúng ta để của cải vật chất thống trị điều khiển chúng ta. Chúng sẽ dễ rơi vào việc ăn gian nói dối, buôn gian bán lận, cho vay ăn lời quá đáng, ức hiếp, bóc lột những góa bụa, những người cô thế cô thân ( Bđ I ). Chúng ta hãy dùng của cải Chúa ban ngoài việc lo cho cuộc sống cơm no áo ấm, thì hãy biết chia sẻ, cho đi, giúp đỡ tha nhân, giúp đỡ Hội Thánh để mở mang nước Chúa như trường hợp của thánh Stêphanô ( 969 – 1038 ) vua nước Hunggari, ngài dùng quyền cao chức trọng và tiền bạc của mình để giúp người nghèo, xây dựng các nhà thờ, thiết lập các giáo phận cho Chúa. Hãy dùng của cải theo ý Chúa dạy.
Quan trọng hơn hết là Chúa chỉ muốn chúng ta chỉ làm tôi của Chúa mà thôi: “ Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được “ ( Lc 16, 13 ). Làm tôi Thiên Chúa là chúng ta tôn trọng chủ quyền của Chúa trên con người, trên cuộc đời chúng ta. Chúng ta chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa, chỉ làm theo lệnh của Chúa, đi theo sự hướng dẫn của Chúa, chỉ thờ phượng, chỉ phụng sự một mình Chúa mà thôi. Do đó, chúng ta cần tín thác vào Chúa, vào sự quan phòng của Chúa. Chúng ta làm tôi của Chúa, chúng ta còn được Chúa gìn giữ, bảo vệ, che chở chúng ta. Nhất là Chúa cho chúng ta hạnh phúc đời đời sau này. Điều còn lại nữa là chúng ta hãy là người đầy tớ tín trung của Chúa từ việc nhỏ cho đến việc lớn. Đừng bao giờ chúng ta bỏ Chúa. Chúa vẫn trung thành với chúng ta cho dù chúng ta có phạm tội phản nghịch với Chúa, Chúa vì lòng nhân từ luôn mở lối cho chúng ta đi để chúng ta gặp gỡ được Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con luôn ý thức rằng chúng con không phải là chủ mà Chúa mới là chủ của chúng con. Chúng con chỉ là đầy tớ, là người quản lý của Chúa. Vì là người quản lý, xin cho chúng con biết sử dụng của cải cho nên. Xin cho chúng con đừng lệ thuộc vào của cải, chỉ lệ thuộc Chúa mà thôi. Xin cho chúng con luôn trung trành phụng sự Chúa. Xin cho chúng con biết luôn sống quảng đại, sẻ chia cơm áo gạo tiền cho anh chị em của chúng con trong tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã thu gọn toàn thể lề luật thánh vào giới răn độc nhất là mến Chúa yêu người, xin giúp chúng con hằng vâng giữ điều Chúa truyền dạy, để sau này đạt tới phúc trường sinh. Amen.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN-C
QUẢN LÝ KHÔN KHÉO- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về việc sử dụng tài sản Chúa ban như người quản lý tốt, để mong sao sau này được ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Amos là người chăn chiên được Chúa chọn làm ngôn sứ. Chúa sai ông đi rao giảng trong một xã hội lúc bấy giờ bon chen tranh giành tiền bạc, đàn áp những người nghèo khổ, họ dùng tiền mua nô lệ, coi tiền của là trên hết. Và lối sống sa hoa những kẻ giàu có bên cạnh những người túng nghèo thật đáng trách.
Trong bối cảnh đó, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa lên án mạnh mẽ cách đối xử bất công và tiên báo sự trừng phạt của Thiên Chúa: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc của chúng làm”.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy cầu nguyện cho mọi người được an cư lạc nghiệp, sống sao cho đẹp lòng Chúa, để được hưởng ơn cứu độ.
Còn bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người quản lý bất trung, để dạy chúng ta biết dùng của cải Chúa ban mà đạt được Nước trời mai sau.
Chúng ta thấy người quản lý trong dụ ngôn ứng xử rất khôn ranh. Trước khi biết mình sẽ mất chức, anh đã gọi các con nợ của chủ đến và bớt cho một số nợ. Anh lợi dụng tài sản của chủ để mua lấy ơn nghĩa cho mình. Hành vi đó, chủ khen anh ta hành động khôn khéo, biết lo cho tương lai.
Tất nhiên, Chúa không bảo chúng ta noi gương cách ứng xử khôn ranh này, nhưng Chúa dạy chúng ta là con cái của sự sáng, hãy biết dùng của cải chóng qua đời này để mua lấy Nước trời. Nghĩa là biết chia sẻ, giúp đỡ người nghèo, phục vụ trong tinh thần quảng đại và yêu thương.
Như Mẹ thánh Têrêsa Calcuta đã nói: “Đặc tính của đạo Công giáo là ban phát và cho đi”. Vì thế, khi gặp một người nghèo khổ đưa tay xin chúng ta giúp đỡ, chúng ta đừng từ chối hay dửng dưng. Bởi vì không ai trong chúng ta nghèo đến độ không có gì để cho.
Chẳng hạn như: chúng ta cho nhau một nụ cười, một lời thăm hỏi, một nghĩa cử yêu thương, một sự quan tâm giúp đỡ… Nếu Chúa cho chúng ta làm ăn khấm khá, biết rộng lòng chia cơm xẻ áo cho người nghèo, làm như vậy là chúng ta tích trữ của cải thiêng liêng, mối mọt không hề phá hủy, trộm cướp không thể nào chiếm lấy được”.
Anh chị em thân mến,
Khi đưa ra dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta cần phải khôn ngoan trong khi sử dụng những ân huệ Chúa ban. Thời giờ, sức khoẻ, tài năng, tiền bạc… tự ta không thể làm ra được, nhưng tất cả đều là ân ban nhưng không của Chúa. Chúng ta chỉ là người quản lý thôi. Thế thì, chúng ta quản lý những ân huệ đó như thế nào?
Nếu anh chị em quan niệm thời giờ quý như vàng bạc, thì chúng ta có dành giờ cho Chúa trong việc siêng năng đọc kinh dự lễ không? Hay là chúng ta lãng phí rất nhiều thời giờ cho việc ăn chơi hưởng thụ, ngồi tám với nhau, hay là dành rất nhiều giờ cho chiếc điện thoại, phim ảnh?
Nếu anh chị em quan niệm sức khoẻ là vàng, thì chúng ta có biết giữ gìn sức khoẻ để cộng tác với ơn Chúa mà làm những việc lành phúc đức không? Hay là có một số người cứ ăn chơi nhảy nhót, xì ke ma tuý, sáng xỉn chiều say… làm cho thân tàn ma dại.
Về tài năng Chúa ban tựa như những nén bạc. Người thì Chúa cho 5 nén, kẻ khác 2 nén, người kia 1 nén. Chúng ta có tích cực làm phát triển những nén bạc đó để chung tay chung lòng vào những việc chung của Giáo xứ và lo phần rỗi của mình không?
Về tiền bạc cũng vậy. Chúa ban cho thời giờ, sức khoẻ và trí thông minh để làm ra tiền bạc mà sinh sống, xây dựng hạnh phúc gia đình, vậy chúng ta sử dụng đồng tiền đó như thế nào? Ai càng sống rộng rãi biết cho đi, biết nghĩ đến người khác hơn bản thân mình, thì người đó sẽ càng giàu công phúc ở đời sau.
Ngược lại, có một số người làm mất đi hạnh phúc gia đình, mất đi tình nghĩa anh em, chỉ vì một chút tài sản cha mẹ để lại mà không nhường nhịn nhau. Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn bè”, nghĩa là hãy dùng tiền của mà mua lấy Nước trời. Cụ thể như việc cầu hồn xin lễ, giúp đỡ những người nghèo khổ, đóng góp vào những việc chung. Được như thế, ngày chúng ta nhắm mắt lìa đời, ước mong sẽ được nghe những lời mời gọi của Chúa: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong những việc nhỏ. Hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.
CHÚA NHẬT xXV THƯỜNG NIÊN- C
SỬ DỤNG TIỀN CỦA KHÔN NGOAN VÀ TRÁCH NHIỆM- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Phúc âm tuần này đề cập đến chủ đề nhạy cảm và là chủ đề thiết thực đồng thời cũng là chủ đề dễ bị tránh né, đó là việc sử dụng tiền của. Lòng tham mê tiền của là một điều thuộc về bản năng con người, bởi vì tiền của có sức mạnh và sự mê hoặc của nó. Nhờ có tiền của người ta có thể buôn bán trao đổi, sắm sửa và chi dùng mọi nhu cầu. Vào thời Chúa Giêsu, những người do thái cần tiền của để mua bánh và cá, để mua những lễ vật dâng cúng ở đền thờ, để đóng thuế cho chính quyền. Vùng Trung Đông lúc bấy giờ là một vùng phát triển với những nền văn hóa rất lâu đời. Người ta mua bán giao dịch rất sầm uất, những nghề dệt may, mua bán hương liệu, nông sản rất phát triển. Đây cũng là ngã ba của các châu lục là Âu châu và Á châu, nơi có nhiều giao lưu kinh tế thương mại lúc bấy giờ. Ngược dòng lịch sử lên khoảng 800 năm trước Chúa Giáng sinh, chúng ta gặp lại thời của tiên tri Amos. Đây cũng là thời kỳ kinh tế thịnh vượng đối với vương quốc phía Bắc của Israel lúc bấy giờ. Những người giàu có sang trọng sống xa hoa bên cạnh những người nghèo khổ. Thời kỳ kinh tế phát triển phồn vinh đồng thời cũng là lúc người ta gia tăng nhiều nghi lễ lộng lẫy ở đền thờ và bằng an với những nghi lễ phụng tự sa hoa mà thiếu tâm tình tôn giáo chân thực. Chúa đã sai tiên tri Amos đến cảnh tỉnh mọi người, lên án những bất công xã hội và tố cáo những an toàn giả tạo mà người ta đang dựa vào. Không phải đang sống trong thời kỳ sung túc với những lễ hội hoành tráng mà chúng ta bằng lòng cách giả tạo và cứ việc sống bất công với bao nhiêu mưu mô gian dối trong việc buôn bán lừa gạt. Những tai họa vẫn luôn rình rập nếu mọi người không biết sống ngay thẳng, thực hành công bằng bác ái. Trong bài đọc sách tiên tri Amos, một loạt những tố cáo những tội mất công bằng trong buôn bán giao dịch được tiên tri nêu ra như việc tăng giá bán hay làm cân giả với những âm mưu tráo trợn vô nhân đạo như lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu. Thiên Chúa rất nhẫn nại nhân từ nhưng luôn ghi nhớ những tội ác bất công mà người ta đã làm.
Bài Tin mừng theo thánh Luca là câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu nói về việc quản lý tiền của. Người dùng dụ ngôn về một người quản lý xấu nhưng khôn ngoan tính toán để hưởng quyền lợi cho mình khi bị đuổi việc. Trong xã hội của người do thái, người quản lý được toàn quyền sử dụng tài sản của chủ với điều kiện phải làm sinh hoa lợi cho chủ. Trong quyền hạn của mình, người quản lý có quyền dùng tài sản của chủ để buôn bán giao dịch một cách hợp pháp, với trọn vẹn tư cách pháp nhân. Vì thế, trong câu chuyện dụ ngôn nói rằng người quản lý này đã sửa văn tự nợ của những con nợ của chủ. Đây là việc làm gian dối nhằm phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình, nhưng lại là việc làm trong quyền hạn của người quản lý, tức là việc làm hợp pháp theo luật, bởi vì bao lâu người quản lý còn quyền hạn thì anh còn quyền sử dụng tài sản của chủ. Chúa Giêsu nêu ra câu chuyện này không phải để khuyến khích người tín hữu cũng có quyền làm những việc gian dối, nhưng là để nêu gương của người quản lý khôn ngoan tính toán này để nhắc nhở người tín hữu biết khôn ngoan tính toán trong việc hưởng dùng của cải Thiên Chúa ban để được đón nhận vào sự sống đời đời.
Suy nghĩ về tiền của đã là đề tài được suy nghĩ rất sớm trong lịch sử Giáo hội, và cũng là đề tài nhạy cảm. Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người sử dụng tiền của cách khôn ngoan sáng suốt và đầy trách nhiệm. Người tín hữu là những người quản lý, họ được Thiên Chúa trao toàn quyền sử dụng tài sản của chủ. Họ là những người được trao nhiều quyền hạn và tài sản trong đời sống hiện tại, họ phải biết hưởng dùng tiền của trong cuộc đời này để mưu ích cho đời sống mai sau của mình. Trong quyền hạn là người quản lý, mỗi người có đầy đủ tự do và trách nhiệm tiêu dùng cũng như mua bán trao đổi theo sự tính toán của mình. Câu chuyện dụ ngôn đã được đúc kết bằng lời khuyên cụ thể của Chúa Giêsu: “Phần thầy, thầy bảo các con, hãy dùng tiền của gian dối để mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền của, họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Kết luận được khép góc ở việc dùng tiền của vật chất một cách khôn ngoan, giúp đỡ những người túng thiếu không may mắn hơn mình. Không phải người quản lý chỉ biết dùng tiền của cách ích kỷ cho những nhu cầu riêng của mình, nhưng còn biết nhìn xa thấy trước tương lai của mình khi không còn ở địa vị quản lý đầy quyền hạn nữa thì sẽ có những người đã được mình giúp đỡ sẽ nhớ ơn và giúp đỡ lại. Tiền của được gọi là gian dối một cách chung để cho thấy mặt xấu của nó, dầu vậy tiền của có sức mạnh mà người quản lý được mời gọi dùng cách khôn ngoan thận trọng và đầy trách nhiệm. Chúa Giêsu còn giải thích thêm về ý nghĩa của việc sử dụng tiền của. Người sử dụng tiền của như người quản lý trước mặt Thiên Chúa. Khi thi hành công việc của mình, tức khi sử dụng quyền hạn quản lý để chi tiêu mọi việc, ông được đánh giá mức độ ngay thẳng khôn ngoan và trung tín để rồi khi bước vào đời sống mai sau, ông sẽ được trao trách nhiệm lớn hơn tùy thuộc vào công trạng và tài đức khi ông đã dùng tài sản Thiên Chúa ban trong đời sống trần thế khi biết khôn ngoan giúp đỡ những người nghèo khó túng thiếu và khi sống đời sống công bằng bác ái với mọi người.
Một điểm khác mà Chúa Giêsu muốn cảnh giác là việc tôn thờ tiền của. Hoặc con người tôn thờ Thiên Chúa hoặc con người sẽ tôn thờ tiền của. Tiền của được đặt ở một vị thế cao cạnh tranh với Thiên Chúa trong tương quan của con người với nó. Lẽ ra con người được kêu gọi sống trong tư thế của một con người tôn thờ Thiên Chúa để rồi là người quản lý tiền của Thiên Chúa ban để sống một đời sống xứng đáng, thì một cách mâu thuẫn, con người có thể đảo lộn trật tự và làm cho mình trở nên nô lệ cho tiền của và thay thế vị trí của Thiên Chúa bằng tiền của. Thánh Phaolô là gương mẫu của một người quản lý khôn ngoan. Trong bức thư gửi cho người môn đệ là Timôthêô, người kêu gọi mọi người hãy biết cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, cầu nguyện với nhiều tâm tình thờ lạy và cảm tạ, xin ơn tha thiết, đồng thời cũng biết cầu nguyện cho các vua chúa, cho những người lãnh đạo đất nước để đất nước được bình an và nhờ đó mà mọi người được sống yên ổn. Bởi vì điều quan trọng là làm sao sống cuộc đời trần thế để rồi nhận biết Thiên Chúa và nhờ đó mà được ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô. Đây là điểm chính yếu của cuộc đời mỗi người vì Thiên Chúa ban cho nhân loại Đức Giêsu Kitô là Đấng Trung gian duy nhất để nhờ đó mà loài người chúng ta được ơn cứu độ.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- C
QUẢN LÝ BẤT LƯƠNG- Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Người quản lý là người thừa lệnh của ông chủ, để lo các công việc khi ông chủ vắng nhà. Họ được chủ thương yêu, tín nhiệm và giao phó mọi công việc. Từ những công to, chuyện nhỏ, quản lý có thể xử lý và lên kế hoạch thay cho ông chủ. Cũng có thể vì thế mà chúng ta dễ dàng tìm thấy, trong cuộc sống hằng ngày, những quản lý bất lương.
Thật vậy, ông chủ biết người quản lý của mình đã thất trung, nên có ý định sa thải anh ta. Quyết định này sẽ bất lợi cho người quản lý, vì anh sẽ trắng tay, sẽ phải vất vả mà lợi nhuận chẳng là bao. Đứng trước một tình cảnh hết sức khó khăn này, người quản lý đã sáng suốt chọn một giải pháp khôn khéo và không kém phần tinh ranh. Kêu các con nợ của chủ và giảm số nợ cho họ. Và để chắc chắn hơn, viên quản lý đã cho viết bằng văn tự giấy tờ, vì: “ bút sa gà chết”. Lập tức hành động của anh đã lôi kéo thêm nhiều đồng minh với mình, và cũng sẽ có nhiều người mang ơn viên quản lý này. Bỗng chốc, trong một nước cờ bí, anh ta đã tự giải thoát mình bằng một việc làm khá mạo hiểm. Những người thụ ơn rồi đây, họ sẽ trả ơn. Và đúng như vậy, viên quản lý sau khi bị sa thải sẽ trở thành ân nhân của những con nợ của chủ.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn và Ngài gọi với cái tên: Người quản lý bất lương. Bất lương vì lẻ ra, trong cương vị của mình, và với sự tin tưởng của chủ, anh phải hết mực phục vụ ông chủ để khỏi phụ lòng anh. Thế nhưng điều hoàn toàn xảy ra và ngược lại: anh đã phản bội lại chủ của mình. Bởi thế người chủ không còn tín nhiệm anh nữa. Anh phải tự mình xoay sở và với bản chất có phần tinh khôn, anh đã có kế hoạch khi tìm cách làm ơn cho những người mắc nợ chủ, được bớt đi phần nào gánh nặng, và như thế họ là những người hậu thuẫn cho anh, sau khi anh không còn làm quản lý nữa.
Việc làm của anh quản lý không mấy tốt đẹp. Thế nhưng, cách thức anh chọn lại là một giải pháp sáng suốt, và chính điều này đã cứu anh lúc sa cơ lỡ vận. Chúa Giêsu muốn khẳng định cho mỗi người thấy, trong thế gian này, con người luôn tìm nhiều cách để trục lợi, kể cả những con đường sai trái. Và một điều được đặt ra: con cái thế gian này, khôn ngoan hơn con cái sự sáng, hãy dùng tiền của mà mua nước thiên đàng.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những người quản gia của Chúa. Chúa vì yêu thương, tin tưởng mà Ngài đặt để chúng con làm chủ vũ trụ, vạn vật và cuộc đời. Xin cho chúng con biết tìm mọi cách thế thích hợp, để làm thật tốt công việc mà Chúa giao. Đừng để chúng con biến thành những ông chủ: kiêu căng, ích kỷ. Thay vì làm sáng Danh Chúa, chúng con lại đi tìm kiếm vinh quang cho chính mình. Đừng để chúng con trở nên những quản lý bất lương trong vườn nho của Ngài. Amen.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN-C
BẤT TRUNG HAY TRUNG TÍN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Năm 1990, sau khi hành quyết Chủ tịch Ceaucescou (côsétcu) và bà vợ, nhà độc tài khét tiếng của nước Rumani, người ta thấy ngôi biệt thự của Chủ tịch, bên ngoài coi rất tầm thường, bên trong có 40 phòng sang trọng, trang hoàng bằng những bức tranh đắt tiền, phòng tắm thảm vàng, mỗi phòng đều có ti vi, video, máy lạnh tối tân. Tài sản của ông không kém gì cựu Tổng thống Noriêga nước Panama dính líu buôn lậu ma túy bị bắt giải sang tù ở Hoa Kỳ. Năm 1992 ở Việt Nam, ai cũng biết ông Giám đốc Ngân hàng Thanh Hương: Nguyễn Văn Mười Hai rất khôn khéo, mánh khóe câu khách hàng gửi tiền như nước vào Ngân hàng của ông, còn ông thì dùng tiền gian dối để ăn chơi: ngồi xe Mercedes hạng nhất, với những vệ sĩ là đầu đảng dao búa. Từ một anh bán hàng rong, chỉ mấy năm đột nhiên lên làm Giám đốc một Ngân hàng lớn nhất nước. Rồi hàng loạt các Ngân hàng khác sập tiệm vì lối làm ăn bất lương như vậy.
Đó là những quản lý bất trung, rất khôn khéo làm những việc bất lương. Nhưng rồi cũng có lúc “cháy nhà ra mặt chuột” như tên quản lý bất trung trong Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu chỉ khen cái khôn khéo chứ không khen cách làm bất trung của anh.
Cái khôn khéo thứ nhất của anh là khéo ăn cắp tài sản của chủ, mà chủ không thấy. Chắc anh tham nhũng ăn chơi dữ lắm, người ta thấy đau lòng, cực lắm họ mới tố cáo cho chủ biết.
Cái khôn khéo thứ hai là anh biết lo đề phòng cho tương lai mua được nhiều bạn hữu cho anh tá túc khi bị cất chức. Anh nói: Tôi phải liệu thế nào để khi mất chức thì có người đón tiếp tôi về nhà.
Cái khôn khéo thứ ba là anh biết cách giải quyết bớt xén của chủ cách hợp pháp, có giấy tờ hợp lệ rõ ràng. Anh gọi các con nợ làm văn tự lại: 100 thùng dầu, viết 50 thôi, 100 giạ lúa, viết 80 thôi… thế là cả hai cùng có lợi!
Thấy những kẻ bất trung khôn khéo làm những việc bất lương như thế, Đức Giêsu thở dài than tiếc cho con cái ánh sáng: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”. Con cái ánh sáng đáng lẽ phải khôn khéo làm những việc chân chính, nhất là trong việc sử dụng tiền của, như “dùng tiền của đời này mà mua lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào gia cư vĩnh cửu”. Làm như thế mới thật là quản lý trung tín.
Mỗi người đều được Thiên Chúa đặt làm quản lý một gia tài trong cảnh vườn diệu quang như Adam Evà xưa. Gia tài nhỏ là những của cải vật chất, là thân xác mình, là địa lợi chung quanh. Gia tài lớn là những tài năng tâm trí, đức hạnh và linh hồn. Gia tài vô cùng quý giá là nguồn sống vô biên tuôn tràn từ các phép bí tích, từ lời hằng sống, từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan thì biết khôn khéo dùng những gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, những viên ngọc quý trong nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái ánh sáng.
Cách xử sự khôn khéo trước nhất là hướng về Thiên Chúa, là chủ của mình, mến Chúa là ưu tiên hàng đầu. Làm tôi Chúa mới mong từ bỏ làm tôi tiền của. Làm tôi Chúa bắt đầu bằng lắng nghe lời Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe” (1Sm. 3, 9), để rồi sẵn sàng xin vâng: “Vâng, tôi là nô tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Sứ thần nói hãy nhận Chúa Thánh Thần, đón rước Đức Giêsu vào lòng (Lc. 1, 30-38), Đón rước Đức Giêsu ngự xuống trên bàn thờ mọi ngày, lắng nghe Người nói trong Thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thần trong các phép Bí tích và trong chiêm niệm, trong cầu nguyện liên lỉ, để hô hấp lấy hơi thở thần khí Đức Giêsu, cho ta được kêu lên với Thiên Chúa: “Ba ơi, ba” với hết tình con thảo.
Cách xử sự khôn khéo thứ hai là hướng về con người. Con người tuyệt diệu nhất là hiền mẫu Maria đầy tình yêu thương chan chứa, yêu thương những đứa con đau thương trong tội lỗi đến thí mạng sống con mình trên thập giá. Tiếp đến những bậc thầy hiển thánh tông đồ, tử đạo, đồng trinh, hiển tu, mục tử, chân phước là những tôi tớ trung tín và khôn ngoan nhất của Chúa. Các Đấng đang kêu mời chúng ta nhập vào đoàn người đi theo chân Chúa, đến soi sáng cho muôn dân thấy Thiên Chúa là Cha nhân hậu và Đức Giêsu, Đấng cứu độ muôn đời. Xin cho chúng ta biết làm đệ tử của các Ngài. Sau cùng là kết bạn với những người bé nhỏ, những em út tội nghiệp, sầu khổ đáng thương nhất của Chúa. Những người đó là hình ảnh của Đức Giêsu nghèo khổ không có hòn đá gối đầu, đói khát mà chỉ được uống dấm chua, ta đói chỉ có bông lúa ăn trẩy, ta là khách lạ chỉ có máng cỏ bò lừa cho trọ, ta bị bắt bớ, tù đầy, đánh đập, vác thập giá, bị đóng đinh, chết treo không giường chiếu. Xin cho con biết làm bạn chia sẻ tiền của, sự sống, tình thương và bao nhiêu nỗi nhọc nhằn, đắng cay, chua xót với các bạn chí thiết đó.
Cách xử sự khôn khéo thứ ba là sống hợp pháp, hợp pháp với giới răn của Chúa, hợp pháp với tình người, hợp pháp với nhân phẩm bản chất cao quý thiên chức làm người, người có tình thương, người có lý trí, người có nghị lực, “người chính tâm, thành ý, tri trí và cách vật để tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ, làm cho tứ hải giai huynh đệ”.
Lạy Chúa, xin soi sáng, trợ giúp và đổi mới chúng con nên tôi tớ trung tín và khôn ngoan như vậy.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- C
GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Đề tài về “tiền của” là đề tài dễ “bàn luận” nhất, vì đó là thứ gần gũi nhất đối với con người. Người ta gọi những người thân yêu là “bà con ruột thịt”, đồng thời người ta cũng thường nói “đồng tiền đi liền khúc ruột”, xem thế, ta thấy đồng tiền có quan hệ “máu mủ” với con người đến mức nào!
Cái gì người ta càng cần đến, thì cái đó càng quan trọng. Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì cái đó càng quý. Người nào sở hữu nhiều thứ đồ quý, thì đó là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có sức mạnh. “Miệng người sang có gang có thép”.
Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu định nghĩa “tóm gọn sức mạnh đồng tiền” nghe vui vui, tỉ như: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, tiền là… hết ý!”.
Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm cách có tiền. Không có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách!
Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra đồng tiền bằng mọi cách, không trừ những cách bất chính!- “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’” (Lc.16,1-2).
Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền. Để có được đồng tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả niềm tin thiêng liêng nữa.
Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn thế nữa, họ thờ Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc!
Những cách làm ra tiền bất chính thì rất đa dạng, muôn thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua gian bán lận… nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết – nhưng muốn biết cũng không khó – nhiều khi vì lý do này, lý do kia, người ta không muốn biết, hay chưa nên biết, như: tham nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ…
Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được”. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
ĐỒNG TIỀN ĐI
Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục đích. Mục đích phổ thông nhất là “hưởng thụ”. Trong Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu “hồn ta hỡi … vui chơi cho đã”. (Lc.12,16-21; 16,19-31).
Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Những nơi giàu có, mức độ hưởng thụ “ăn chơi” càng “cao cấp”, càng “sang trọng”, và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn trạng và cực kỳ tốn kém.
Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn những niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong những thứ vui chơi thỏa mãn khuynh hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng mình. Sự ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và trở nên độc ác.
Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống cần phải vươn lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao nhất như có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không hãm hại ai, không làm thiệt hại ai, không đá động tới ai.
Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một cái gì đó rất xót xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những chiếc xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên cạnh đó, biết bao người đói ăn, đói học, đói những mái nhà đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có người thở dài: biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là vậy! Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để định mức đâu là trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu chuyện ông Phú hộ và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).
Có những người tung tiền ra để mưu cầu danh vọng. Có những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu chuyện khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm về sau, lúc đó, con người đã chế tạo ra những “người máy” tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người ta không thể phân biệt được ai là “người máy” ai là người thật! Hay nói một cách khác, ai là người “giả”, ai là người “thật”! Ngày nay, nhiều khi cũng khó biết ai là “nhân tài” thật, ai là “nhân tài” giả. Có nơi, người ta rao bán “bằng cấp” trên Internet giống như người ta rao bán chè ở vĩa hè!
Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ người ta say mê thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước giàu có thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và giàu có bao giờ cũng nói chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi của họ trước tiên. “Tiền đẻ ra Tiền”. Làm ăn với tư thế “kẻ mạnh” thì bao giờ cũng có lợi, thậm chí còn bóp chết cả địch thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì rằng “thương trường cũng như chiến trường”, có “chết” và có “sống”. Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng ở đây. “Mạnh được yếu thua”. “Cá lớn nuốt cá bé”. Ngôn ngữ ngoại giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng không thấy!
Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài nguyên thiên nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp, thì nơi đó thường có những cuộc “tập trận”, phô trương vũ khí, sức mạnh quân sự của những bên liên hệ.
ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI
Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình thương đối với đồng loại.
“Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con người gặp phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân loại. Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải thiện thế giới và con người sẽ hạnh phúc hơn.
Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa, và Thiên Chúa dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu Thương. “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc.16,13).
Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ ngay đến xử dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh Phanxicô Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc đời mình lên tiếng nói bênh vực và nâng đỡ người nghèo…
Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn đó những trái tim biết chia sẻ một cách chân thành.
Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì mình có. Không phải cách “lương lẹo” của tên quản lý bất lương. Anh ta tỏ ra “nhân từ” bằng đồng tiền của chủ mình với ý đồ được có nơi nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu đó là một cách ăn trộm mà vẫn được người ta thấy mình đạo đức. Nó cũng giống như những người cho vay ăn lời cắt cổ thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo bố thí cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức lao động công nhân bằng đồng lương chết đói, thỉnh thoảng tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng “vòng tay nhân ái” để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của mình trên TV!
Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu không hề bảo con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con người biết cách“cho đi”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).
Vì “không ai cho cái mình không có”. Nên trước tiên ta phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là trách nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối với Thiên Chúa. (Ông giao cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén… Mt. 25,14-29).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện thế này:
Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú quí mà biết hạ mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn trọng mình?
Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu người, thì người nào mà không thân với mình?
Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể cho là hạng người biết nói vậy.
Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả, thì có thể cho là hạng người biết thời vậy.
– Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm cho người giàu có, thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.
– Kẻ sang trọng mà biết làm cho người sang trọng, thì dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.
– Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người phát đạt, thì dẫu có muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.
Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước Trời.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển sách được nhiều người yêu thích mang tên “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền để mua những gì “không hư nát”. Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn vĩnh cửu, nơi hạnh phúc vĩnh hằng. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (Lc.16,9).
Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả những gì hưởng thụ qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12, 20), ta chới với và tiếc rẻ làm sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi lấy được gì ư?
Có một kim chỉ nam để chúng ta định hướng đời mình. Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm phong phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình không phải chỉ là một giấc mơ chóng qua và vô nghĩa. Đó là Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
“Cho tôi xin một vé đi Thiên Quốc”.
Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một cuộc hành trình mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!
Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất cả những gì con có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho riêng con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxvthuongnienc #suyniemloichuachuanhat