CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MỘT LÀNG MIỀN SAMARI KHÔNG ĐÓN TIẾP THẦY – Chú giải mục vụ của Hugues Cousin 15
TRUNG THÀNH TUYỆT ĐỐI VỚI SỨ MẠNG CHÚA GIAO PHÓ(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – C.. 34
CHỌN LỰA DỨT KHOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 34
THEO CHÚA– Chú giải của William Barclay. 51
KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 55
DỨT KHOÁT CHỌN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA – Lm. Đan Vinh HHTM.. 59
THEO THẦY- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 73
BÀI HỌC NHÂN ÁI THẬT KHÓ THUỘC- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB 78
NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KI- TÔ- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB.. 82
TINH THẦN SIÊU THOÁT- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 87
LÊN GIÊRUSALEM- Lm. Anphong.. 91
CUỘC KHỞI NGHĨA THIÊNG LIÊNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 95
THEO CHÚA CŨNG LẮM HẠNG NGƯỜI- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long 100
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Êlisê đi theo Êlia”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Êlia rằng: “Êlisê, con ông Saphát, người Abel-Mêhula, ngươi hãy xức dầu phong y làm tiên tri thế ngươi”.
Êlia ra đi tìm gặp Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai. Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông. Lập tức ông bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: “Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài”. Êlia nói với ông: “Ngươi đi đi, rồi trở lại, ta có làm gì ngươi đâu?” Êlisê rời Êlia, rồi bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi đốt quay thịt cho dân ăn. Ðoạn ông đi theo làm đầy tớ Êlia.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Xướng: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con
Xướng: Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
Xướng: Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát.
Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn đời. –
Bài Ðọc II: Gl 4, 31b – 5, 1. 13-18
“Anh em được kêu gọi để được tự do”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa.
Hỡi anh em, anh em được tự do, nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt; trái lại, anh em hãy lấy bác ái của Thánh Thần mà phục vụ lẫn nhau. Vì chưng, tất cả lề luật tóm lại trong lời này: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Nhưng nếu anh em cắn xé và phân thây nhau, anh em hãy coi chừng kẻo huỷ diệt nhau. Tôi nói điều này là: Anh em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thoả mãn theo đam mê xác thịt nữa. Vì đam mê xác thịt thì chống thần trí, và thần trí thì chống lại xác thịt; giữa đôi bên có sự chống đối nhau, khiến anh em không thi hành được những điều anh em mong muốn. Nhưng nếu anh em được thần trí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật nữa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 51-62
“Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?” Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.
Ðang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: “Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy”. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Người bảo một kẻ khác rằng: “Hãy theo Ta”. Người ấy thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Một người khác thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã”. Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Ðó là lời Chúa.
HÃY THEO THẦY(*)- Chú giải của Noel Quession
Bài Tin Mùng cua Luca Chúa Nhật này bắt đầu một giai đoạn mới trong đời sống của Đức Giêsu. Cho đến nay. Đức Giêsu chỉ thực thi tác vụ cua Người ở Galilê. Trong suốt mười chương bắt đầu từ đây. Chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu “lên Giêrusalem”. Đây là một lộ trình về địa dư (Lc 9, 51; 13, 22, 22; 17, 11).
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời…
Cách trình bày thật trang trọng. Bản văn sát nghĩa tiếng HyLạp cảm động hơn nhiều: “Vì những ngày Người được rước lên hoàn tất…”
Cái chết đang đến gần ấy không phải là một việc ngẫu nhiên, đó là một sự hoàn tất, một thành tựu, việc thực hiện sau cùng, việc làm tỉ mỉ sau cùng của một đời sống rất trọn vẹn.
Nhưng đó cũng là một sự “rước lên”. Ở đây, Luca dùng cùng một từ để nói về sự Thăng Thiên: Đức Giêsu sẽ được rước lên trời (Cv 1, 2-11-22)… như ngôn sứ Êlia cũng đã được rước lên (2 V 2, 8-11) Điều “sắp tới”… đối với Đức Giêsu, cũng như đối với mỗi người chúng ta cùng với Người. Đó là một biến cố vừa đau thương, vừa hạnh phúc: Phục sinh, với hai mặt của nó, cái chết và đi vào sự sống của Chúa Cha.
Người nhất quyết đi lên Giêrusalem.
Bản văn Hy-lạp của Luca chứa đựng một hình ảnh: “Người làm khuôn mặt chai cứng lại để đi hướng về Giêrusalem”… như ngày hôm nay, chúng ta thường nói: Người siết chặt hàm răng để cương quyết dấn thân về nơi mà Người biết rằng Người sắp chết. Các Tin Mừng hiếm khi nhấn mạnh những trạng thái tâm hồn của Đức Giêsu. Điều đáng lưu ý là ngày hôm đó Người phải vượt qua nỗi sợ hãi và lấy hết sự can đảm của một con người.
Mỗi người chúng ta phải dành thời gian cùng với Đức Giêsu gợi lại khó khăn hiện tại của mình, đối với một thanh niên có thể là thi rớt, một nỗi đau khổ vì tình cảm cô đơn, một sự xung đột trong đời sống lứa đôi, một sự bất ổn nghề nghiệp, một bế tắc xem ra không vượt qua nổi, một căn bệnh không chữa khỏi, một cái tang vừa phải chịu v.v…
Thay vì buông xuôi, tại sao chúng ta không cùng với Đức Giêsu làm cho khuôn mặt mình chai lại để giữ vững bằng bất cứ giá nào… theo gương người “tôi tớ của Thiên Chúa” đã nói: “Có Đức Chúa là Chúa thương phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt chai ra như đá. Tôi biết mình sẽ không thẹn thùng” (Is 50,7)
Giê-ru-sa-lem hỡi! Nơi duy nhất trên cả hành tinh này: cái hố ấy nơi trồng cây thánh giá… cái ngôi mộ trong huyệt đá ấy nơi cái chết đã thất bại, nơi mà Thiên Chúa kêu khát và làm cho một suối nguồn sinh ra từ cạnh sườn Người. Mọi đời sống Kitô hữu là một con đường lên Giê-ru-sa-lem!
Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta luôn luôn có khuynh hướng giảm nhẹ Tin Mừng, như thể thời đại của chúng ta là thời đại đầu tiên chứng kiến những xung đột về chủng tộc, chính trị, tôn giáo xã hội.
Những người Samari bị những người Do Thái giáo trung kiên coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Ga-ri-dim để cạnh tranh với đền thờ Giê-ru-sa-lem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” ấy (Ga 4, 9.20).
Bị những người Do Thái khinh bỉ, họ trả đũa lại và gây ra mọi thất phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilê về Giê-ru-sa-lem qua các mỏm núi miền Samari. Đức Giêsu không quay lưng lại mảnh đất bị sự phân biệt chủng tộc và sự khinh bỉ lẫn nhau tàn phá. Và hơn thế nữa, Người từ chối bước vào sự hẹp hòi bế tắc ấy của dư luận quần chúng. Trước hết Luca mô tả với chúng ta một Đức Giêsu hoàn toàn độc lập và làm nổi rõ đức bác ái trọn hành động của người Samari tốt lành (Lc 10, 30). Lòng biết ơn của người bệnh bằng được chữa lành (Lc 17,16) Đức Giêsu yêu thương tất cả mọi người kể cả những người bị cám dỗ nguyền rủa Người.
Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?
Đó là hành phạt mà Êlia đã bắt các đối thủ của ông phải chịu (2 V 1,10). Hai người “con trai của thiên lôi” (Mc 3,17), Giacôbê và Gioan muốn xứng đáng với biệt danh của mình! Nhưng họ chưa hiểu gì về sứ điệp và công việc của Đức Giêsu. Và điều nghiêm trọng hơn là họ đã tạo ra cho mình một ý tưởng về Thiên Chúa hoàn toàn sai lầm: họ tưởng rằng mình là những người giải thích Thiên Chúa và họ chắc rằng mình sở’ hữu chỉnh lý! Thiên Chúa toàn năng có thể nào tha thứ việc Đấng Mêsia của Người bị con người khước từ’ và đối xử tùy tiện? NGÀY NAY cũng thế, chúng ta cũng muốn thực hiện các dự án của “con trai Thiên Lôi”: Thiên Chúa phải can thiệp để tiêu diệt những kẻ thù của Người!
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức Giêsu không đến để kết án những người tội lỗi nhưng để cứu họ (Lc 19,10) Thiên Chúa không trùng phạt, Người tha thứ (Lc 23,34).
Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
Ở đây Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Người vốn là Đấng Toàn Năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế để bắt các bề tôi và kẻ thù quỳ móp nhưng chúng ta có thể nói rằng một cách khiêm nhường và nghèo khó, Người chờ đợi sự hoán cải, như một người cha, như một người mẹ, đồng ý cho gia hạn và chờ đợi hành trình chậm rãi của chân lý trong lòng con người. Và Thầy trò đi sang làng khác như những người nghèo hèn ra đi khi người ta không chịu tiếp họ: Tôi nhìn ngắm Đức Giêsu ra đi sang làng khác… Và tôi tự hỏi về sự thiếu nhẫn nại của tôi… trước những tội lỗi của tôi, trước những tội lỗi hoặc sự khước từ của những người khác, trước sự chậm chạp hoặc nặng nề của Giáo Hội… Lạy Chúa xin ban cho con sự nhẫn nại Thánh thiêng của Người.
Thầy trò đang đi trên đường thi có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Người trả lởi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”.
Đúng vào lúc người ta từ chối tiếp đến” Đức Giêsu đang trên đường Giêrusalem, thì có một người xin theo Người một cách quảng đại và có điều kiện. Hẳn người ta có thể mong Đức Giêsu chấp nhận ngay lập tức. Vả lại thay vì chiều theo nhiệt tình của ơn gọi này, Đức Giêsu đã đặt ra phía trước mọi khó khăn thái độ này hoàn toàn trái ngược với mọi cách quảng cáo của chúng ta khoe khoang các sản phẩm của mình đến độ che giấu đi các khuyết điểm. Đức Giêsu không tìm cách tuyển mộ với bất cứ giá nào. Trái lại, Người nhấn mạnh phải chấp nhận sự thiếu thốn, sự nghèo khó, sự bất trắc… để theo Người.
Điều đó làm nổi rõ điều mà Đức Giêsu đã ý thức khi lên Giê-ru-sa-lem. Người tiến về một số phận bi thảm. Ai muốn theo Người cũng phải sẵn sàng chịu ruồng bỏ. Theo sở thích tâm linh của chúng ta, chúng ta có thể suy niệm về cuộc sống lang thang và bấp bênh của Đức Giêsu, “kẻ lang thang không nơi trú ẩn” ấy! Đọi với một con người, không có một mái nhà để trú ẩn và một cái giường để ngã lưng thì quả là khắc nghiệt. Vào những buổi chiều mệt mỏi, điều đó phải trĩu nặng trong lòng. Đức Giêsu. Người lưu ý chúng ta rằng ngay cả thú rừng còn có một nơi trú ẩn an toàn. Lạy Chúa, xin cho chúng con lòng can đảm trong những lúc mệt nhọc thể xác hoạt tinh thần.
“Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo!” kẻ nói câu đó có lẽ không biết rằng con đường của Đức Giêsu sẽ dẫn người lên Gôn-gô-tha. Nhưng chúng ta thì biết. Và chúng ta cũng biết rằng “Qua cuộc khổ nạn và Thập giá, chúng ta đi đến vinh quang của sự Sống lại” ánh sáng nhất định sẽ chiếu giải trên những thử thách’ của chúng ta: Giê-ru-sa-lem!
Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chọn cất cha tôi trước đã ” Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”.
Đây là một trong những lời nghiêm khắc nhất trong toàn bộ Phúc âm… một lời khiêu khích, nổi loạn. Sự mai táng những người thân của chúng ta là một bổn phận thiêng liêng, đặc biệt lành thánh vì dựa vào một điều răn rõ ràng của Thập giới: “ngươi phải yêu mến cha mẹ ngươi”. Lời nói quá đáng của Đức Giêsu đặt chúng ta trước một song luận:
– hoặc là Đức Giêsu là một người điên không nhận thức điều mình đòi hỏi.
– hoặc là Đức Giêsu thuộc về một bình diện khác bình diện trần ri thế, bên trên con người…
Sự thật là Đức Giêsu đi đến chỗ cho rằng ai không tìm kiếm Triều Đại của Thiên Chúa là một “người chết”. Bởi vì rõ ràng trong cùng một câu, từ “kẻ chết” không có cùng một ý nghĩa: trong một trường hợp, nó có nghĩa thông thường tức là “những người đã qua đời” nhưng trong trường hợp kia, nó có nghĩa là tất cả những người đã không gặp gỡ Đức Giêsu và Người dám nói rằng họ là “những người chết”? Đối với Đức Giêsu người nào không lo lắng những sự việc của Thiên Chúa không sống theo nghĩa mạnh nhất của từ ấy. Phải, đó là lời khó nghe nhưng là mạc khải về sự sống chân thật và duy nhất sự sống của Thiên Chúa, của Triều Đại Thiên Chúa.
Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với nước Thiên Chúa”.
Vậy, Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng con sự từ bỏ ấy? Tuy nhiên Ngài cũng đã đòi hỏi chúng con yêu mến cha mẹ mình và Ngài đã làm gương bằng một tình cảm gắn bó tinh tế với mẹ Ngài là Đức Maria khi trao phó bà cho người bạn tốt nhất của Ngài.
Nhưng sự phục vụ Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tất cả và ngay lập tức. Thiên Chúa bác bỏ những ưu tiên của chúng ta: “Để tôi về chôn cất cha tôi trước đã… Để tôi từ biệt gia đình trước đã…” Đó là những yêu cầu rất chính đáng. Thật vậy đó là những Người rất nghiêm túc, đứng đắn, hiểu lý. Họ đã “lên kế hoạch” của họ trước tiên, những công việc: của cá nhân tôi, kế đó là những công việc của Thiên Chúa. Tôi vừa kết thúc năm học của tôi. Tôi dự trù lập kế hoạch cho kỳ nghỉ hè: khoảng giữa tháng chín tôi sẽ tìm lại Thiên Chúa… sau đó! Mỗi chúa nhật, nghỉ ngơi trước đã, giải trí trước đã, dành thì giờ cho gia đình và bạn bè trước đã: sau đó… nếu còn thời gian hãy đi dự thánh lễ.
Trước ngưỡng của mùa hè đang bắt đầu, Đức Giêsu Kitô cảnh giác tôi về thời gian biểu của tôi! Thang giá trị của con là gì’? Những điều cấp thiết của con là thứ bậc nào. Con đi tắm biển trước đây phải không? Sức khỏe của con trước đã phải không? Hoặc là trước tiên là điều chủ yếu? Thánh Phaolô mời gọi chúng ta “hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (Gl 5,1).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – C
MỘT LÀNG MIỀN SAMARI KHÔNG ĐÓN TIẾP THẦY – Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Từ ngữ 9,51 rất phong phú về mặt thần học. Trước hết Luca nói: “Khi đã tới ngày Ngài được rước lên trời”. Từ Nước Trời đã nhắc lại bảy lần, ở Luca 1-2, việc thực hiện lời hứa của Chúa (x.1,57), nơi đó tôi giải thích từ này; đây không chỉ một chú thích thuần tuý có tính thời gian! Còn chữ được rước lên (trời) sẽ được Luca dùng ba lần để chỉ cuộc thăng thiên về với Cha (Cv 1,2; 11-12). Tiếp theo, tác giả nói là Chúa Giêsu cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Diễn ngự hiếm hoi này muốn nói lên quyết định của Chúa Giêsu sẽ chạm trán với với cuộc thụ nạn đang chờ đợi Ngài, bởi vì có lẽ nó phản dội lại thái độ của người Tôi tớ ở Is 50,7, nhờ một lối chơi chữ cương quyết / trơ ra. Nếu người Tôi tớ của Chúa không giấu mặt khỏi lăng nhục và khạc nhổ, chính là vì người đã trơ mặt ra như đá. Để được rước lên bên cạnh Chúa Cha, trước hết người Tôi tớ phải trải qua đau khổ và cái chết.
Một nhập đề như thế cho đoạn văn nói lên tầm quan trọng mà Luca muốn đặt vào dịp lên Giêrusalem duy nhất này của Chúa Giêsu trong suốt thời gian thi hành sứ vụ. Chắc hẳn một cuộc hành trình lên Giêrusalem này đã có trong bản văn của Marcô –còn truyền thống của Tin Mừng thứ tư thì nói đến nhiều lần lên Giêrusalem. Nhưng biến cố chỉ hiếm có một chương ở Marcô (và hai ở Matthêu) thì ở đây lại tới mười chương! Để tìm chất liệu cho một đoạn dài như thế, Luca đặc biệt khai thác nơi Nguồn các lời cũng như nơi tư liệu riêng của ông, trước khi sử dụng trình thuật của Marcô về cuộc hành trình từ 18,15 đến 19,44. Thực ra, những giai đoạn của cuộc hành trình, theo địa lý, không làm cho Luca quan tâm; những ghi chú hiếm hoi mới có lại không rõ ràng, thậm chí còn thường nữa (17,11). Điều quan trọng, đó là Chúa Giêsu đang lên đường, không nơi cố định (9,57) và Ngài tiến về định mệnh của Ngài, ở Giêrusalem, kinh thành nơi mà, trong tư cách ngôn sứ, Ngài phải chết (13,33), nơi mà Ngài sắp hoàn thành cuộc xuất hành của Ngài (9,31), việc Ngài được nâng lên (9,51). Việc nhắc đến thành Giêrusalem sẽ làm cho toàn bộ đoạn văn này được nhịp nhàng và, để sắp xếp đoạn này cách thuận lợi, chúng ta sẽ dựa vào những”điệp khúc” chính nhắc lại rằng Chúa Giêsu lên đường tiến về Giêrusalem (13,22; 17,11) và dựa vào lời loan báo rõ ràng về cuộc thụ nạn ở Giêrusalem (18,31). Chúng ta sẽ xác minh đúng lúc nếu phải ấn định phần kết của đoạn văn khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ (19,44).
Samari ngăn cách Galilê với Giuđê và thủ đô Giêrusalem khi yêu cầu các môn đệ chuẩn bị cho Ngài đến một làng của người Samari (9,52-55), Chúa Giêsu muốn cắt đứt mối thù địch của người Do Thái đối với dân tộc không còn thuần chủng này nữa, họ lấy Ngũ thư làm Kinh Thánh, nhưng địa điểm thờ phượng của họ là ở Garizim là một thách đố thường trực đối với Đền Thờ Giêrusalem. Nhất là Ngài tiên báo sứ vụ của Giáo Hội mà tính cách phổ quát đại đồng sẽ bắt đầu chính tại Samari (Cv 8,5tt). Trình thuật Chúa Giêsu bị những người đồng hương ở Nagiaret khước từ đã khai mở giai đoạn bằng đề tài khước từ. Đó là tính cách phổ quát đại đồng được loan báo trong bài giảng mà các người ở Nagiaret từ chối; ở đây những người ở Samari từ chối Chúa Giêsu thì ít, mà Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình của Ngài thì nhiều. Khi Chúa Kitô sẽ được rao giảng ở đó, đám đông một lòng chú ý đến những lời của Ngài rao giảng (Cv 8,5-6).
Chính hai trong số các môn đệ thân tín nhất (x.9,28) trong trường hợp ấy cảm thấy mình phải đóng vai trò của sứ ngôn Êlia! Để cho người ta nhìn nhận sứ vụ của mình là người của Thiên Chúa, Êlia đã làm cho từ trời xuống tiêu diệt cả trăm người kéo đến để bắt ông (2V 1,10-12). Nhưng Chúa Giêsu đâu có đến để làm người cải cách mạnh mẽ các phong tục tập quán như vị Tẩy Giả mong chờ (3,16-18). Và nếu Ngài quở mắng các môn đệ – một động từ thường được dùng khi Chúa Giêsu nói với ma quỷ (4,35)- chính là vì các ông không hiểu tí gì về sứ vụ của Ngài (loan báo việc Ngài bị khước từ: 9,22) cũng chẳng hiểu giáo huấn của Ngài (lòng yêu kẻ thù: 6,29). Và cũng như sau khi bị những người Nagiaret khước từ, Chúa Giêsu lại tiếp tục lên đường.
NHỮNG YÊU SÁCH CỦA CHÚA GIÊSU ĐỐI VỚI KẺ ĐI THEO NGÀI
Đề tài của đoạn văn này là nỗi khó khăn khi theo Chúa Giêsu và gồm ba hoạt cảnh nhỏ. Cảnh chót giống với cảnh đầu tiên: những người vô danh tự nguyện xin làm môn đệ, trong khi chính Chúa Giêsu lên tiếng mời gọi trong cảnh giữa; nhưng cũng như trong cảnh giữa này, người ở cảnh thứ ba cũng đặt điều kiện.
Ở những câu 57-58 –như ở câu 61- chúng ta tham dự một cảnh cổ điển trong Do Thái giáo: người học trò chọn Thầy mà mình muốn theo học, bỏ gia đình hoặc nhiều năm để đến trú ngụ trong nhà Thầy (x. Ga 1,37-39). Câu trả lời cho thấy Chúa Giêsu không giống như những Kinh sư khác: cuộc sống của Ngài lưu động bởi Ngài là một kẻ bị khước từ. Bị truy nã, Ngài không có chỗ dựa đầu để nghỉ ngơi cho yên ổn mà phải trốn lánh. Để ám chỉ mình, Chúa Giêsu nói về Con Người, một diễn ngữ để vừa chỉ sự bất lực của kẻ bị ruồng bỏ và bị giết (9,22-44; chính là trường hợp ở đây) vừa chỉ quyền lợi mà Ngài sẽ thừa hưởng khi Ngài được nâng lên trên trời (9,26; 12,8). Như vậy, những ai muốn đi theo Ngài, muốn làm môn đệ, sẽ san sẻ cuộc đời của một kẻ vô gia cư, không biết ngày nào sẽ có được mái nhà để qua đêm.
Trong những câu 59-60 Chúa Giêsu chủ động khởi xướng (x. các trình thuật ơn gọi 5,27). Yêu cầu của người ẩn danh chứng tỏ rằng đối với ông ra có một ưu tiên (trước hết): việc thi hành bổn phận hiếu thảo là chôn cất cha ưu tiên hơn việc đi theo Chúa Giêsu và chỉ cần vài tiếng đồng hồ… Chúa Giêsu đáp lại bằng một châm ngôn gây sửng sốt gắn liền với hoàn cảnh đó:”Cứ để kẻ chết –những kẻ khước từ Chúa Giêsu và Tin Mừng Nước Thiên Chúa- chôn kẻ chết của họ!”. Điều này dẫn đến chuyện”làm bật rễ” giới răng của Chúa về sự hiếu thảo (Xh 20,12), chính là sự cấp bách phải loan báo Triều Đại Thiên Chúa; việc phục vụ Tin Mừng này là trước hết và vượt qua cả những liên hệ gia đình, tuy vẫn được Chúa chúc phúc (x. 14,26).
Cảnh chót (cc. 61-62) nhắc đến việc Êlisê trở thành đệ tử của ngôn sứ Êlia (1V 19,19-21), trong khi ông cày với một đôi bò, ông đã xin phép về ôm hôn cha mẹ ông trước khi theo Êlia. Sau khi giết bò và sau bữa tiệc từ giã người thân ông bắt đầu theo Êlia. Nhưng Chúa Giêsu lại đòi hỏi hơn vị đại ngôn sứ xưa kia; ở đây lời dạy của Ngài cũng gắn liền với mạch văn (ở đây, câu chuyện 1V) và đưa ra lý do của việc đòi hỏi quyết liệt ấy: khi đã bắt đầu cày bừa cánh đồng của Thiên Chúa, trong đó Chúa làm cho khai mở triều đại của Ngài; người ta không có thể ngoái lại đàng sau. Chính gia đình cũng thuộc những thứ người ta bỏ lại đàng sau (x. 18,29). Phải coi chừng:”Quyết định theo Chúa Giêsu không chỉ là kết quả nhất thời của phấn khởi nhiệt tình; điều đó đòi hỏi một quyết định có tính cách kiên quyết” (J. Fitzmyer).
Vì không phải là trình thuật về ơn gọi nên bản văn không chú ý chút nào đến cách thức mà những kẻ ẩn danh này đáp lại lời Chúa Kitô. Thực ra đó là ba lời ở trung tâm của trình thuật, nhưng có lẽ ta sẽ sai lầm khi coi những lời ấy như những chỉ thị có tính quy luật. Các môn đệ đã chôn cất xác của Đấng bị đóng đinh (23,55-56) và Giáo Hội thời xưa đã luôn luôn hết sức tôn trọng việc an táng kẻ chết (“khi con gặp người chết, con hãy lo chôn cất họ và ghi dấu thánh giá trên họ, và Ta sẽ ban cho con chỗ nhất trong ngày Phục Sinh của Ta” Chúa Kitô tuyên bố như thế trong quyển thứ tư sách Esdras 2,23). Và nếu Phêrô và các bạn của ông đã lìa bỏ gia đình trong thời gian Chúa Giêsu thi hành sứ vụ, thì sau này các ông sẽ cho các bà vợ đồng hành trên con đường truyền giáo (1Cr 9,5). Ở đây Tin Mừng Luca đòi hỏi chúng ta phải không ngừng khám phá ra một cách thức để đặt việc loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm vào trung tâm cuộc sống hằng ngày của ta.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
TRUNG THÀNH TUYỆT ĐỐI VỚI SỨ MẠNG CHÚA GIAO PHÓ(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật XIII Thường Niên năm C này đòi hỏi người môn đệ của Chúa Giê-su phải trung thành tuyệt đối với sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mình.
1V 19: 16, 19-21
Sách các Vua quyển thứ nhất kể cho chúng ta ngôn sứ Ê-li-a gọi ông Ê-li-sa làm môn đệ của mình như thế nào.
Gl 5: 1, 13-18
Trong Thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc nhở người tín hữu phải sống theo Thần Khí, Đấng biến đổi con người xưa kia chưa biết đến Tin Mừng và ơn cứu độ của Chúa Ki-tô.
Lc 9: 51-13: 21
Trong Tin Mừng Lu-ca, Chúa Giê-su đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ của Ngài phải đáp trả ơn gọi của mình cách dứt khoát và vô điều kiện.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 16, 19-21)
Thật thú vị và cũng là hữu ích khi đối chiếu chuyện tích ngôn sứ Ê-li-a kêu gọi ngôn sứ Ê-li-sa làm môn đệ của mình với bản văn Tin Mừng Lu-ca Chúa Nhật hôm nay, trong đó Chúa Giê-su đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ của Ngài phải như thế nào (Lc 9: 37-52).
Trong cuộc gặp gỡ với Đức Chúa trên núi Khô-rếp, Đức Chúa truyền lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a xức dầu tấn phong ông Ê-li-sa làm ngôn sứ thay thế ông (29: 16b). Khi đi ngang qua một cánh đồng thấy ông Ê-li-sa đang cày, ngôn sứ Ê-li-a liền gọi ông Ê-li-sa. Ông Ê-li-sa sẵn sàng theo làm môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a nhưng với điều kiện: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giả, rồi con sẽ đi theo ông” (19: 20); ngôn sứ chấp thuận điều kiện của ông Ê-li-sa: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu”. Còn trong bản văn của mình, thánh Lu-ca kể cho chúng ta rằng Chúa Giê-su đang đi trên đường thì có ba người, hoặc xin được làm môn đệ Ngài hay được Ngài đích thân kêu gọi, đều đưa điều kiện với Chúa Giê-su.
Khi đối chiếu hai bản văn này với nhau, chúng ta dễ dàng nhận ra có hai sự khác biệt giữa ơn gọi làm môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a và ơn gọi làm môn đệ của Chúa Giê-su. Trước hết, ngôn sứ Ê-li-a chấp nhận điều kiện mà ông Ê-li-sa đưa ra, còn Chúa Giê-su thì không chấp nhận bất kỳ điều kiện nào mà những ai muốn làm môn đệ của Ngài đưa ra. Những môn đệ của Chúa Giê-su phải xem ơn gọi làm môn đệ của Ngài là ưu tiên hàng đầu. Không ai được viện dẫn bất kỳ điều kiện nào để làm chậm trễ thi hành sứ mạng mà Chúa Giê-su giao phó cho mình. Dù bổn phận có chính đáng mấy đi nữa, cũng phải nhường chỗ cho sứ mạng. Thứ nữa, ngôn sứ Ê-li-a “ném áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa”, có nghĩa ông Ê-li-sa được chọn làm môn đệ truyền chân của ngôn sứ Ê-li-a, tức là tiếp nối sứ mạng ngôn sứ của thầy mình, trở thành một ngôn sứ như thầy mình khi thầy mình ra đi (2V 2). Còn trường hợp Chúa Giê-su, khi Ngài được rước về trời, các môn đệ của Ngài không phải thế chỗ của Ngài. Họ vẫn là môn đệ của Ngài, và Ngài vẫn hiện diện với họ với tư cách Thiên Chúa hằng sống của họ.
BÀI ĐỌC II (Gl 5: 1, 13-18)
Trong đoạn trích Thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô căn dặn họ ba điều quan trọng: người Ki-tô hữu phải sử dụng sự tự do làm con cái Thiên Chúa để sống yêu thương người thân cận như chính mình và sống theo “Thần Khí”.
1/.Sự tự do của người Ki-tô hữu:
“Người Ki-tô hữu đã được gọi để được hưởng tự do”, nhưng sự tự do này thường hằng bị đe dọa vì họ không kháng cự nổi những lời hay ý đẹp của các đối thủ chống đối thánh nhân và trở thành mồi ngon cho một thứ tôn giáo hỗn hợp kể cả phép cắt bì. Đối với thánh Phao-lô, điều này ngầm hủy hoại nền móng Tin Mừng. Người Ki-tô hữu hưởng được tự do không phải vì họ đạt được ơn cứu độ nhờ những việc làm của mình; nhưng vì họ đã được ban cho ơn cứu độ rồi như một ân huệ, thế nên họ được tự do phát triển ơn cứu độ ấy trong vâng phục.
2/.Yêu người:
“Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình”. Khi dạy như thế, thánh Phao-lô không bỏ qua điều răn hàng đầu và cao trọng nhất: “mến Chúa”, vì thánh nhân đang nói với những người đã nghe sứ điệp về đức công chính rồi, và vì thế họ đã biết rõ điều răn mến Chúa rồi. Thánh Phao-lô đang nói cho biết làm cách nào để điều răn mến Chúa tự nó được diễn tả ra ở nơi điều răn yêu người trong cuộc sống hằng ngày. Người Ki-tô hữu được ban cho một độ nhạy bén về yêu người thân cận, nhờ đó họ có khả năng yêu thương người thân cận trong từng hoàn cảnh cụ thể mà không cần bất kỳ luật lệ hay quy định nào dạy cho họ. Người tín hữu được hướng dẫn bởi “yêu người như chính mình”, nghĩa là “nếu ngươi muốn người khác làm cho mình điều gì thì ngươi hãy làm cho người khác như vậy”.
3/.Xác thịt và Thần Khí:
“Xác thịt” mà thánh Phao-lô nói đến ở đây là toàn bộ con người xưa kia chưa được cứu độ của chúng ta. Còn “Thần Khí” như được viết hoa ở đây rõ ràng gợi ra đó là Thần Khí Thiên Chúa có quyền năng biến đổi toàn bộ con người của chúng ta. Vì thế, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu đừng sống theo xác thịt, nghĩa là đừng sống theo cách sống của con người xưa kia chưa được biết đến Tin Mừng của Đức Ki-tô, chưa được Thánh Thần của Ngài biến đổi, đã sống dưới ách nô lệ của những đam mê. Nhưng hãy sống theo Thần Khí, nghĩa là hãy sống theo cách sống của con người mới đã được Tin Mừng và Thần Khí Chúa biến đổi rồi. Có như thế, người Ki-tô mới có thể hưởng được tự do sống làm con cái Thiên Chúa. Giáo huấn này xuất phát từ chính kinh nghiệm của thánh nhân. Xưa kia thánh nhân đã sống theo cách sống của người Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, giờ đây thánh nhân đã được ân sủng của Chúa biến đổi để hoàn toàn tự do trong sự vâng phục Tin Mừng và tuân theo tác động của Chúa Thánh Thần.
TIN MỪNG (Lc 9: 51-13: 21)
Câu mở đầu của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem”, đánh dấu móc điểm cho một cuộc hành trình dài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 51-19: 27). Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem này gồm có ba giai đoạn, mỗi giai đoạn được thánh Lu-ca cẩn thận đánh dấu bằng một móc điểm: “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem” (9: 51; 13: 22; 17: 12). Đây là công trình biên soạn độc đáo của Tin Mừng Lu-ca, trong cuộc hành trình đó, thánh ký muốn độc giả ghi khắc hai dung mạo của Chúa Giê-su: Ngài là người Con chí hiếu hoàn toàn vâng phục thánh ý của Chúa Cha và Ngài là Bậc Thầy tối thượng ban cho các môn đệ những lời dạy cốt yếu để sống đời môn đệ của Chúa Giê-su.
Trong câu đầu tiên này, vế thứ nhất: “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời” hướng độc giả đến cuộc Thăng Thiên của Ngài được thánh Lu-ca tường thuật ở cuối sách Tin Mừng của mình. Như vậy, cuộc Thăng Thiên là mục đích tối hậu của cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, ở đó Ngài sẽ trải qua cuộc Thương Khó và Tử Nạn, cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên. Chúa chúng ta sẽ nói điều này rõ ràng hơn trong bữa Tiệc Ly: “Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha” (Ga 16: 28).
Vế thứ hai: “Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” hướng độc giả đến cuộc Thương Khó và tử Nạn của Chúa Giê-su. Ngài tự nguyện vâng theo chương trình cứu độ của Cha Ngài vì cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài là lộ trình dẫn đến cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên của Ngài.
1/.Dân Sa-ma-ri từ chối Đức Giê-su (9: 51-56)
Rất thích sử dụng hình thức đối xứng, thánh Lu-ca cho thấy Đức Giê-su cũng gặp sự chống đối ngay từ lúc khởi đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem từ phía dân Sa-ma-ri, cũng như trước đây Ngài đã gặp sự chống đối ngay từ lúc bắt đầu sứ vụ tại Ga-li-lê từ phía những đồng hương Na-da-rét của Ngài, đại diện dân Do thái (4: 16-30).
Giữa dân Sa-ma-ri và dân Do thái có mối thù truyền kiếp. Vào thời đế quốc Át-sua thống trị trên các dân tộc khác, đế quốc này dùng chính sách hoán chuyển dân cư để dễ bề cai trị. Vì thế, các dân tộc khác bị lưu đày đến Sa-ma-ri trong khi dân Do thái ở Sa-ma-ri bị lưu đày đến Át-sua (vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên). Dân Sa-ma-ri này đã trộn lẫn tôn giáo của ông Mô-sê với những thực hành mê tín dị đoan từ các tôn giáo của họ, nhất là không chấp nhận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là nơi thờ phượng duy nhất, nơi xứng hợp để người tín hữu dâng tiến những hy lễ lên Thiên Chúa. Họ đã xây dựng một đền thờ của riêng mình trên núi Ga-ri-zim, đối nghịch với đền thờ Giê-ru-sa-lem (x. Ga 4: 20). Đó là lý do tại sao khi biết rằng Đức Giê-su đang đi lên Giê-ru-sa-lem, họ từ chối đón tiếp Ngài.
2/.Phản ứng của hai môn đệ là ông Gia-cô-bê và ông Gioan (9: 54)
Phản ứng của hai môn đệ thân tín là ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?”, gợi nhớ câu chuyện của ngôn sứ Ê-li-a, người của Thiên Chúa đã hai lần gọi lửa từ trời xuống tiêu diệt kẻ thù (2V 1: 10, 12). Một lần nữa, hai người môn đệ này bộc lộ tính khí rất tầm thường của con người: tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt; óc bè phái: phân biệt rạch ròi giữa bạn và thù; và lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giê-su nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân. Quyền hành không phải để trừng trị kẻ không làm đúng ý mình, mà để phục vụ. Lời đề nghị của hai ông còn tệ hơn việc dân Sa-ma-ri từ chối đón tiếp Chúa Giê-su: “Quan niệm cho rằng chỉ có niềm tin của chúng ta và phương pháp của chúng ta mới là đúng, đã gây nên thảm kịch trong Hội Thánh nhiều hơn hầu hết bất cứ sự gì khác… Có nhiều đường tới Thiên Chúa. Thiên Chúa có cái thang bí mật riêng Ngài cho mỗi tâm hồn. Thiên Chúa hành động bằng các đường lối khác nhau, không người nào được giữ độc quyền về chân lý của Ngài” (W. Baclay, TM Mt, 127).
3/.Phản ứng của Đức Giê-su (9: 55-56)
Chúa Giê-su điều chỉnh ước muốn trả thù của các môn đệ Ngài: “Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông”, vì Ngài đến để cứu sống chứ không để hủy diệt con người (x. Lc 19: 10; Ga 12: 47). Các Tông Đồ dần dần học biết rằng không nên phản ứng theo cảm xúc bốc đồng, nhất là nóng giận; phải định hướng phản ứng của mình theo sứ mạng của Thầy mình: không nhằm giết chết nhưng để cứu sống. Nếu làng này không tiếp đón mình thì sang làng khác: “Rồi Thầy trò đi sang làng khác”. Theo cách suy nghĩ loài người, nhường là thiệt thòi, nhịn là nhục; nhưng theo suy nghĩ của Chúa, nhịn nhục là biểu lộ một nhân cách vững vàng và một tấm lòng khoan dung, rộng lượng và tha thứ: “Chúa làm mọi việc theo một cách thức đáng thán phục… Người hành xử theo cách này để dạy cho chúng ta rằng nhân đức thiện hảo không có bất kỳ ước muốn trả thù, và ở đâu có đức ái chân thật ở đó không có sự giận dữ – nói cách khác, người ta không nên cư xử sự yếu đuối một cách khắc nghiệt nhưng nên giúp đỡ. Tâm hồn thánh thiện phải tránh xa sự phẩn uất, và tâm hồn vĩ đại phải tránh xa ước muốn trả thù” (St Ambrose, Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
4/.Những điều kiện để làm môn đệ của Đức Giê-su (9: 57-62)
Trong bản văn này, Chúa Giê-su giải thích kỷ những ai muốn đi theo Người, nghĩa là muốn làm môn đệ Người. Sống ơn gọi Ki-tô hữu không là một công việc dễ dàng và thuận tiện: nó mời gọi từ bỏ bản thân mình và đặt sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng ưu tiên trên hết mọi công việc khác.
Bản văn này gồm có ba cảnh: hai cảnh đầu thánh Lu-ca có chung nguồn với thánh Mát-thêu (Mt 8: 19-22), còn cảnh thứ ba thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca (9: 61-62). Trong cảnh thứ nhất và cảnh thứ ba, hai người tự nguyện xin làm môn đệ; còn trong cảnh thứ hai, chính Chúa Giê-su lên tiếng mời gọi; tuy nhiên trong cả ba cảnh, dù tự nguyện hay được Chúa lên tiếng mời gọi, cả ba người đều đặt điều kiện. Điều quan trọng trong cả ba cảnh này không phải là các nhân vật, vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật như thế nào, mà là giáo huấn của Chúa Giê-su về những điều kiện để làm môn đệ Người.
-Cảnh thứ nhất (9: 57-58): Chúng ta tham dự vào bối cảnh kinh điển, trong đó người môn đệ chọn vị thầy mà mình muốn đi theo thầy, anh bỏ gia đình trong một hoặc nhiều năm để đến ở với thầy và thụ huấn với thầy (x. Ga 1: 37-39). Chúng ta thấy ở đây trường hợp một người muốn đi theo Đức Giê-su, nhưng với một điều kiện – xin cho anh được phép từ biệt gia đình trước đã. Vì thấy anh chưa dứt khoát, Chúa Giê-su cho anh một câu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Qua câu trả lời này, Chúa Giê-su cho anh biết Ngài không giống như các kinh sư khác: cuộc sống của Ngài rày đây mai đó, bởi vì Ngài là một nhà du thuyết bị khước từ, bị truy nã, không có nơi nương náu cố định, không có chỗ tựa đầu để nghỉ ngơi yên ổn mà luôn phải trốn tránh. Như vậy, những ai muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ của Ngài sẽ phải chia sẻ cuộc đời của một nhà du thuyết vô gia cư, không có một mái nhà để qua đêm, luôn luôn sống trong ơn quan phòng của Thiên Chúa.
-Cành thứ hai (9: 59-60): Chúa Giê-su chủ động kêu gọi anh (x. các trình thuật về ơn gọi 5: 27). Người được kêu gọi đưa ra một điều kiện: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”. Ý của người này tuy cũng muốn theo Chúa Giê-su, nhưng xin khuất một thời hạn cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi, nghĩa là chu toàn chữ hiếu đối với cha, rồi anh mới theo Ngài. Câu trả lời của Chúa Giê-su khiến chúng ta phải kinh ngạc: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”, vì câu trả lời này đụng chạm đến bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ (Xh 20: 12). Không phải Chúa Giê-su coi nhẹ bổn phận của con cái đối với cha mẹ (x. Mt 15: 3-9), nhưng Ngài dạy rằng mỗi việc đều có một thời điểm quyết định, nếu bỏ lỡ giờ phút ấy, có thể việc đó sẽ không bao giờ được thực hiện. Nghĩa vụ loan báo Triều Đại Thiên Chúa, bổn phận phục vụ Tin Mừng, cấp bách đến mức phải đặt ưu tiên lên hàng đầu, phải vượt qua cả những mối liên hệ gia đình, nhất là trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì người môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
-Cảnh thứ ba (9: 61-62): Chúng ta trở về với trường hợp kinh điển, một người tự nguyện theo Chúa Giê-su nhưng với một điều kiện: “Nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Chúa Giê-su trả lời: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Câu trả lời của Chúa Giê-su gợi nhớ câu chuyện ơn gọi của ngôn sứ Ê-li-sa (1V 19: 19-21). Khi Ê-li-sa đang cày với đôi bò trên cánh đồng, ngôn sứ Ê-li-a mời gọi ông làm môn đệ của mình; ông xin phép được về từ giả cha mẹ mình trước đã. Được phép của thầy, ông trở về nhà, giết cặp bò, lấy cày làm củi, mở tiệc đãi người thân, rồi bắt đầu theo ngôn sứ Ê-li-a. Nhưng ở đây Chúa Giê-su đòi hỏi còn quyết liệt hơn ngôn sứ Ê-li-a: khi đã tra tay cày bừa cánh đồng của Thiên Chúa, trong đó Chúa khai mở Triều Đại của Người, người môn đệ không được “ngoái lại đằng sau”, đừng quyến luyến quá khứ (của cải, địa vị, những nhân tình thế thái), đoạn tuyệt với con người cũ kể cả những mặc cảm tội lỗi xưa kia, để dành trọn tấm lòng không san sẻ với bất cứ điều gì mà chỉ toàn tâm toàn ý chăm lo công việc Nước Thiên Chúa mà thôi. Chính gia đình cũng thuộc vào một trong những thứ đắt giá mà người môn đệ của Ngài phải bỏ lại đằng sau (x. 18: 29). Vì thế, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta phải cân nhắc cẩn trọng: “Quyết định theo Đức Giê-su không chỉ là kết quả nhất thời của niềm phấn khởi nhiệt tình; điều đó đòi hỏi một quyết định có tính cách kiên quyết” (J. Fitzmyer).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – C
CHỌN LỰA DỨT KHOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem mặc dù biết rõ lên đấy Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết. Qua chuyện này ta biết Chúa Giêsu trung thành đến mức nào đối với nhiệm vụ mà Chúa Cha giao cho Ngài. Nhiều khi lòng trung thành đòi hỏi phải hy sinh rất nhiều.
Chúng ta hãy bày tỏ lòng trung thành với Chúa, xin Ngài tha thứ cho những lần chúng ta đã bất trung, và xin Ngài giúp chúng ta thêm can đảm để luôn trung thành với Chúa cho dù phải hy sinh.
II/.Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con bất trung với Chúa.
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con không dám từ bỏ những điều bất xứng với Chúa.
Xin Chúa tha thứ những lần chúng con chọn tội lỗi mà bỏ Chúa.
III/. Lời Chúa
- Bài đọc I (1 V 19, 16b. 19-21)
Bài tường thuật ơn gọi của Êlisê:
Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình.
Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình (tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ) cho Êlisê. Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia.
- Đáp ca (Tv 15)
Tác giả Tv này đã nhất quyết chọn Chúa làm cơ nghiệp của mình nên bày tỏ sự phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Chúa.
- Tin Mừng (Lc 9, 51-62)
Đoạn Tin Mừng này gồm hai chuyện:
a/ Chuyện một làng Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu: Trước sự việc trái ý này, Gioan và Giacôbê biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Chúa Giêsu dạy hai bài học:
Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
b/ Chuyện 3 người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu: Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.
Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1, 37-49)
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (xem chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.
Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.
Chúa Giêsu nói: “Mặc cho kẻ chết chôn người chết”: tiếng Pháp rõ nghĩa hơn “mặc cho les mortels chôn les morts” (nghĩa là mặc cho người phàm lo việc thế phàm. Hiểu ngầm người môn đệ Chúa Giêsu phải lo việc Nước Thiên Chúa). Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15, 3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1. V 19, 19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày “đầu ngoái lại sau”: còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị vv…), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.
Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
- Bài đọc II (Gl 4, 31b–5, 1. 13-18) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng họ đã được rửa tội nên đã trở thành những con người tự do. Sau đó Thánh Phaolô dạy cho họ biết phải sống thế nào như một người tự do: Người tự do là người sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt.
Bởi đó đừng viện cớ mình tự do rồi buông tuồng theo những đòi hỏi của xác thịt.
Hãy theo Thánh Thần soi sáng mà sống bác ái với anh chị em mình.
IV/.Gợi ý giảng
* 1. Đời là những chọn lựa (Lc 9,51-62)
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau:
Một con khỉ cầm hai nắm đậu rồng, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
***
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9, 58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa” (Lc 9, 54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62).
Thực ra, Chúa Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mi 15, 4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên một, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên một chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14, 26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Chúa Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mi 6, 33).
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi những bận tâm về mình, nhưng biết chọn Chúa là phần gia nghiệp và là phần phúc của chúng con.
Xin tha thứ cho chúng con, vì chúng con đã chạy theo của cải, lạc thú, danh vọng ở đời. Xin ban cho chúng con ý chí cương quyết để chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Suy nghĩ về điều kiện thứ nhất: “Không có chỗ gối đầu”
“Chỗ gối đầu” là một nơi thoải mái mình muốn chọn làm nơi thường trú, là một nếp sống tiện nghi mình muốn được hưởng mãi. Ai mà không thích có một chỗ gối đầu như thế.
Tuy nhiên nếu là môn đệ Chúa Giêsu thì không được “mọc rễ” ở “chỗ gối đầu” đó. Một vài thí dụ:
Cuộc sống của tôi đã thành nếp: ban ngày làm việc, tối về nhà nghỉ ngơi giải trí với gia đình, ngày Thứ bảy Chúa nhựt là thời gian hưởng thụ. Những lúc nghỉ ngơi, giải trí và hưởng thụ ấy chính là những “giờ thánh” của tôi, không ai được đụng đến. Nhưng tối nay, nhà hàng xóm có người hấp hối, người ta mời tôi sang cầu nguyện, phải bỏ mất một tập phim truyền hình đang hồi gay cấn! Chúa nhựt tới, Cha Xứ mời tôi dự phiên họp các gia trưởng, mất toi một buổi nghỉ ngơi! Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những mất mát đó.
Từ trước tới nay tôi là một tín hữu bình thường, đọc kinh tối sáng hằng ngày, Chúa nhựt và lễ trọng đều đi dự lễ. Tôi thấy như vậy là đủ quá rồi. Bây giờ người ta mời tôi tham gia sinh hoạt đoàn thể trong Xứ đạo: nào là hội họp, nào là đi công tác tông đồ, nào là đóng góp quỹ này quỹ nọ… Nếp sống của tôi bị xáo trộn. Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những xáo trộn đó.
* 3. Suy nghĩ về điều kiện thứ hai: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”
Có thể chia những việc làm thường ngày của chúng ta thành hai loại: những việc “của kẻ chết” là những việc lo cho đời sống vật chất như làm ăn kiếm tiền, nhà cửa, tiện nghi, giải trí, hưởng thụ, địa vị, thể diện v. v. Và những việc “hằng sống” như cầu nguyện, bác ái, tông đồ, truyền giáo…
Chúa dạy người môn đệ Ngài phải ưu tiên cho những việc sau, hoặc khi có mâu thuẫn giữa hai loại việc thì phải can đảm bỏ loại việc thứ nhất để chọn loại việc thứ hai.
Thực tế, hằng ngày chúng ta lo loại việc thứ nhất nhiều hơn loại việc thứ hai; và khi phải chọn một bỏ một thì chúng ta chọn loại thứ nhất và không chút ngần ngại bỏ loại việc thứ hai.
* 4. Óc phe nhóm
Bắc Ai Len là một đất nước mà những người tin lành và những người công giáo thường xuyên xung đột với nhau. Jackie Hewitt là chủ tịch một Cộng đồng Tin lành. Một hôm ông đang lái xe về thủ đô Belfast thì nghe Radio trên xe loan tin có một quả bom phát nổ ở Shankill (khu vực của người tin lành) làm cho 3 người chết. Ông nổi giận và nghĩ “Khốn kiếp, cần phải đặt một quả bom ở khu Falls Road (khi của người công giáo)”. Xe ông chạy gần tới Belfast thì Radio lại loan tin có thêm một quả bom phát nổ nữa và làm chết thêm 7 người. Ông hét lên: “Phải cài 2 quả bom bên khu người công giáo”. Cuối cùng xe của ông chạy tới nơi xảy ra vụ nổ. Ông thấy những người đồng đạo kẻ thì khóc, người thì la, đòi trả thù. Những lời la hét ấy cũng giống những lời của ông thôi, nhưng chúng làm ông phát sợ: “Khi tôi nghe người ta hét lên những điều chính tôi đang nghĩ trong đầu, tôi thật sự hoảng sợ”.
Vào thời Chúa Giêsu, những người Samaria và những người Do Thái là kẻ thù của nhau. Vì thế khi dân cư một làng Samaria nghe tin Chúa Giêsu muốn đi ngang làng họ để lên Giêrusalem thì họ không đón tiếp Ngài. Giacôbê và Gioan nổi giận, xin Chúa Giêsu cho họ khiến lửa từ trời xuống đốt rụi cả làng Samaria ấy.
Đây là một thí dụ điển hình của óc phe nhóm. Phe nhóm của tôi đúng hay sai gì thì cũng là phe nhóm của tôi nên tôi cương quyết bảo vệ, và chống lại phe nhóm khác. Óc phe nhóm của những người Samaria đã tệ, mà óc phe nhóm của hai môn đệ còn tệ hơn: theo họ nghĩ, ai mà chống lại phe nhóm của họ là chống chính Thiên Chúa cho nên phải bị Thiên Chúa trừng phạt.
Nhưng Chúa Giêsu không tán thành, Ngài quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.
Trả thù thì dễ. Không trả thù mới khó, vì nó đòi hỏi ta can đảm hơn và có nghị lực nhiều hơn. Việc Chúa Giêsu không cho môn đệ trả thù và Thầy trò đi sang làng khác chứng tỏ Chúa Giêsu can đảm và rất nhiều nghị lực. Kẻ yếu thì nghĩ rằng mình phải thắng, còn người mạnh thì biết rằng mình không cần phải thắng trong mọi trường hợp.
Cần phải chống lại sự xấu, nhưng không phải bằng cách dùng một sự xấu khác, bởi vì sự xấu chỉ có thể được chế ngự bằng sự thiện mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta hiểu rằng muốn đi theo Chúa thì chúng ta phải theo con đường của Ngài, đó không phải là con đường báo thù, con đường bạo động, mà là con đường yêu thương, con đường cứu độ (FM)
* 5. Không bỏ cuộc
Viktor Frankl bị giam cầm 3 năm trong những trại tập trung Auschwitz và Dachau của Quốc xã Đức. Ông kể lại câu chuyện sau:
Ông là một bác sĩ nên được giao trách nhiệm chăm sóc các tù nhân bị bệnh. Gần cuối cuộc chiến, ông và một bạn tù đã tìm được một cách để vượt ngục. Nhưng trước khi trốn đi, ông đi một vòng thăm các bệnh nhân. Một bệnh nhân sắp chết hỏi “Có phải ông sắp trốn ra không?” Frankl chối. Nhưng câu hỏi ấy cứ ám ảnh ông, khiến ông có mặc cảm tội lỗi là ông đào nhiệm. Ông thấy mình có lỗi với các bệnh nhân. Cuối cùng ông bảo người bạn kia hãy trốn đi một mình, còn ông thì quyết định ở lại. Từ lúc đó ông thấy lòng mình rất thanh thản. Dù ông biết rằng tiếp tục ở lại trong trại tập trung thì sẽ gặp rất nhiều khổ sở, nhưng ông chấp nhận và cảm thấy rất bình an trong lòng.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng câu “Chúa Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem”. Ngài biết có rất nhiều gian khổ đang chờ Ngài ở Giêrusalem như bị từ chối, bị phản bội và bị giết chết. Nhưng sứ mạng Chúa Cha giao cho Ngài ở Giêrusalem thì Ngài phải hoàn thành, không thể quay lui được.
Đáp lại một người muốn đi theo làm môn đệ Ngài, Chúa Giêsu cũng nói “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Đã dấn thân theo một lý tưởng thì phải kiên trì cho đến cùng.
Điều này ban đầu thì dễ. Nhưng với tháng năm trôi dần, khó khăn tăng thêm thì kiên trì trở nên rất khó. Khi ấy, ta bị cám dỗ “ngoái lại đàng sau”.
Lời Chúa Giêsu nói với người muốn theo làm môn đệ Ngài cũng là nói với chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta theo Ngài không phải trong một thời gian mà theo suốt cả đời.
Xin Chúa giúp chúng ta kiên trì bước theo Ngài, không bao giờ “ngoái lại đàng sau” (FM)
* 6. Vài mẫu chuyện minh họa cho việc trả thù
a/ Đem yêu thương vào nơi oán thù
Cha S. Hodden thấy một đại úy đến xin học đạo. Khi ngài hỏi lí do, ông trả lời như sau: “Trong đại đội tôi, có một binh nhì là Kitô-hữu. Đêm nọ, anh đi gác về, mình mẩy ướt nhẹp, nhưng trước khi ngủ, anh còn quì gối đọc kinh. Ngứa mắt, tôi đá cho anh một cú vào đầu, ngã lăn ra. Nhưng anh ngồi dậy, không nói gì và tiếp tục cầu nguyện.. Sáng hôm sau, tôi thấy đôi giầy mà tối qua tôi đá anh được đánh bóng láng và xếp ngay ngắn bên giường ngủ. Điều đó làm tôi sững sờ, hổ thẹn và vì thế tôi quyết tâm học đạo.”
b/ Không có kẻ thù
Một thầy giảng lên tiếng: Mọi người đều có kẻ thù. Ông mời bất kỳ một thính giả nào không có kẻ thù lên nói về chính mình.
Một sự thinh lặng đồng tình với lời xác quyết đó. Nhưng rồi một người già giơ tay và nói: “Tôi không có kẻ thù”.
Đương đầu với lời mời và gây sự chú ý của thính giả, ông nói: “Rất dễ. Tôi không quan tâm đến họ”.
V/.Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trung thành theo Chúa đến cùng, bất chấp mọi thử thách gian nan, là lý tưởng của người Kitô hữu. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh có sứ mạng củng cố đức tin cho người Kitô hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn tìm mọi phương thế thích hợp / để giúp các tín hữu sống trọn vẹn niềm tin của mình.
- Khuynh hướng thích báo thù / dùng bạo lực để giải quyết tranh chấp / gây ra biết bao thảm họa cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau.
- Thánh Phaolô cho biết: / dấn thân theo Đức Kitô là sống bác ái yêu thương và phục vụ lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết cố gắng thực hiện lời khuyên của vị tông đồ dân ngoại.
- Chúa Giêsu đã nói: / Ai yêu mến Thầy / sẽ giữ lời Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trong đời sống chứng nhân thường ngày, chúng con gặp biết bao là thử thách gian truân. Vì thế, để có thể trung kiên bước theo Chúa đến cùng, sức riêng của chúng con không thể thực hiện được. Vậy, xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con đi trọn cuộc lữ hành trần thế. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/.Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt làng Samaria, và hãy sốt sắng khi đọc câu “xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
VII/. Giải tán
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Chúng ta sắp trở lại cuộc sống. Hãy nhớ những gì Chúa đã dạy chúng ta trong Thánh lễ hôm nay và hãy can đảm chọn lựa những gì thuộc về Nước Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
THEO CHÚA– Chú giải của William Barclay
Các việc này chứng tỏ Chúa Giêsu lựa lọc rất cẩn thận những kẻ muốn theo Ngài, và rất thành thật trong thái độ của Ngài. Ngài có những lời cho ba loại người theo Ngài.
- Với hạng người thứ nhất thấy người ta tấp nập đi theo Ngài, anh cũng hớn hở đi theo.
Hạng người: “Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” mà không nghĩ tới công sức phải đầu tư vào. Với những người như vậy Chúa Giêsu bảo: “Trước khi theo Ta, ngươi hãy tính kỹ giá phải trả”. Không bao giờ người ta có thể nói rằng mình bị dụ dỗ theo Chúa Giêsu, bởi những lý lẽ giả dối. Chúa Giêsu khen những người biết đánh giá cao hết mức những đòi hỏi của Ngài. Có thể chúng ta đã làm hại Hội Thánh rất nhiều, khi bảo người ta gia nhập Hội Thánh không khó khăn gì. Cần nói rõ với họ rằng đó là việc khó khăn nhất trên đời. Có thể, sẽ có ít người gia nhập Hội Thánh hơn, nhưng những người mà chúng ta có sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.
- Những lời Chúa Giêsu nói với người thứ hai nghe như ác nghiệt, nhưng thực ra không phải thế.
Được Chúa gọi, anh ta thoái thác, rất có thể cha anh chưa chết, cũng chưa gần chết, anh viện lẽ, bổn phận thiêng liêng để thoái thác lời gọi theo Chúa.
Chúng ta cần nghe câu chuyện sau:
Chàng thanh niên nọ rất muốn từ giã thế gian để đi tu, nhưng anh tuyên bố: gia đình anh quá thương yêu anh, do đó, họ không để anh thực hiện ý nguyện.
Ông thầy của anh biết chuyện bảo anh: “Yêu anh hả! Thật thế sao?” và ông bày cho anh một bí mật của Yoga: giả chết. Ngày hôm sau, anh ta chết. Cả nhà chạy lui chạy tới than khóc thảm thiết.
Lúc đó, vị thầy xuất hiện và nói với gia đình rằng ông có quyền lực làm cho chàng trai này sống lại với điều kiện có một người nào trong gia đình tình nguyện chết thay. Ông lần lượt hỏi mỗi người trong gia đình.
Trước sự ngạc nhiên của xác “chết”, các thành viên trong gia đình lần lượt người này đến người khác đưa ra lý do để từ chối hy sinh thế mạng. Vợ anh tóm gọn tâm tình của tất cả các người trong gia đình bằng những lời sau: “Thực ra không cần thiết có ai đó thế mạng chồng tôi. Chúng tôi sẽ đủ sức xoay xở mà không cần anh ta”.
Thật ra nếu câu trả lời của anh ta thành thật, anh cũng vẫn đáng trách, vì không có một bổn phận lo cho con người chết nào quan trọng cho bằng việc đáp lại lời mời gọi của Chúa hằng sống. Không có một ràng buộc nào dầu cao đẹp đến đâu có thể xem như là một lý do chính đáng để từ chối đi theo Đức Kitô. Chúa Giêsu đang đi qua đây lần cuối cùng. Nếu không theo ngay sẽ không còn dịp khác. Những người đã chết về phần tâm linh và không nghe lời hiệu triệu của Chúa Kitô có thể lo việc chôn cất ấy, nhưng những người đã được Đức Kitô kêu gọi có thể làm một việc thiêng liêng ca cả hơn: rao giảng Tin Mừng về sự cứu rỗi và sự sống.
- Những lời Chúa Giêsu phán với người thứ ba bày tỏ một chân lý không ai chối cãi được.
Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng họ bị chia sẻ… Đối với hạng người này Chúa Giêsu không bảo “Hãy theo Ta” cũng không bảo “hãy trở về”, nhưng Ngài bảo “Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm”. Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ăn vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.
- Người muốn theo Chúa nhưng đặt một điều kiện: từ giã gia đình.
Chúa thấy anh không dứt khoát, và Ngài đưa ra câu trả lời có giá trị cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đã nhận được lời mời gọi theo Chúa và chúng ta phải làm tất cả mọi sự để đừng phí phạm ơn Chúa: “chúng ta nhận ơn Chúa cách ích khi chúng ta nhận ở cửa lòng, chứ không nhận tận đáy lòng. Như thế là chúng ta nhận mà không giữ, nghĩa là chúng ta nhận mà không kết quả, vì cảm nhận gợi hứng thì đâu lợi ích gì, nếu không chứng nhận làm theo”. (Phanxicô đệ Salê)
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN -C
KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.
Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.
Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.
Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.
Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
DỨT KHOÁT CHỌN LÀM MÔN ĐỆ CHÚA – Lm. Đan Vinh HHTM
(51) Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem. (52) Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. (53) Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. (54) Thấy thế, hai môn đệ Người là Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? (55) Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông (56) Rồi Thầy trò đi sang làng khác. Và Người nói với các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng. (56) Rồi Thầy trò đi sang làng khác. (57) Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. (58) Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. (59) Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”. (60) Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ! Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”.
- Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm này gồm hai phần:
Phần thứ nhất thuật lại câu chuyện Đức Giêsu bị dân làng ở miền Samari từ chối không cho trọ. Hai anh em Giacôbê và Gioan tức giận yêu cầu được sai lửa từ trời xuống thiêu hủy làng đó. Nhưng Đức Giêsu quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.
Phần thứ hai ghi lại ba trường hợp người ta xin đi theo làm môn đệ Đức Giêsu. Trong mỗi trường hợp Đức Giêsu đều đòi người ta phải chọn lựa dứt khoát như sau:
+ Đối với kẻ thứ nhất xin theo, Người đòi anh ta phải chấp nhận cuộc sống thiếu thốn và không ổn định về vật chất.
+ Với người thứ hai, Đức Giêsu đòi anh phải ưu tiên lo việc Chúa hơn bản thân và gia đình.
+ Còn người thứ ba, Đức Giêsu đòi anh phải một lòng một ý lo phục vụ Nước Thiên Chúa.
- CHÚ THÍCH:
– C 51-52): + Được rước lên trời: Đây là thành ngữ ám chỉ cái chết cũng như cuộc lên trời của Đức Giêsu (Tin Mừng Luca 9,31 chú thích về cuộc xuất hành của Người). + Nhất quyết đi lên Giêrusalem: Lên Giêrusalem để hoàn tất cuộc Vượt Qua. + Vào một làng người Samari: Người Do Thái tránh giao thiệp với người Samari và còn khinh dễ họ, vì họ không còn thuần chủng nữa, và vì niềm tin của họ đã có nhiều dị biệt với người Do thái. Nhưng Đức Giêsu lại cố ý vào trọ trong một làng người Samari. Điều này cho thấy Người chính là chủ chiên đến để tìm chiên lạc và đưa về đàn. Về sau, trước khi lên trời, Đức Giêsu truyền cho các Tông Đồ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, trong đó có dân Samari (x. Cv 1,8). Các ông đã vâng lời Người: Philipphê loan báo Tin Mừng ở Samari (x. Cv 8,5). Các Tông Đồ ở Giêrusalem cũng cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ (Cv 8,14).
– C 53-56: + Dân làng không đón tiếp: Người Samari có ác cảm với người Do thái, đặc biệt những ai đi hành hương lên Giêrusalem. + Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy…?: Hai môn đệ Giacôbê và Gioan được gọi là “con của sấm sét” (x. Mc 3,17). Hai ông mới được nhìn thấy ngôn sứ Êlia trong cuộc biến hình của Đức Giêsu (x. Lc 9,28-36), nên giờ đây muốn dùng hình phạt mà giáng xuống trên kẻ thù giống như vị ngôn sứ này đã làm (x. 2V 1,10-12). + Quở mắng các ông: Đức Giêsu muốn các môn đệ hành xử theo giáo huấn mà Người đã dạy về cách đối xử với kẻ thù: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình (x. Lc 6,27-35). + Và Người nói với các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”: Đức Giêsu dạy cho các môn đệ biết việc báo thù là việc của thần dữ chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Đức Giêsu xuống thế gian để kiện toàn luật Môsê vốn cho phép trả thù báo oán những kẻ làm hại mình. Đối với Đức Giêsu: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa của tình thương. Tình thương thay thế hận thù, tha thứ thay thế báo oán và trừng phạt. Đó chính là tinh thần mà các môn đệ phải học tập. + Thầy trò đi sang làng khác: Điều này nói lên sự nhẫn nhịn của Đức Giêsu đối với những kẻ đối xử không tốt với mình.
– C 57-58: + Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng: Luca ghi lại ở đây ba trường hợp về ơn kêu gọi theo Chúa. Trong ba trường hợp này thì hai trường hợp được Mátthêu thuật lại khi Đức Giêsu bắt đầu đi giảng đạo ở Galilê (x. Mt 6,19-22). Còn trường hợp thứ ba chỉ có trong Tin Mừng Luca. Qua ba trường hợp này, Luca muốn trình bày những đòi hỏi dứt khoát đối với những ai muốn làm môn đệ của Đức Giêsu. + “Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo… Con chồn có hang…”: Người này tự ý xin theo làm môn đệ và sẽ đi đến bất cứ nơi nào. Nhưng Đức Giêsu cho anh ta thấy cuộc sống theo Chúa là một cuộc sống khó nghèo và không ổn định. “Không có chỗ dựa đầu”, nghĩa là không có sự bảo đảm về vật chất giống như một con vật sống trong rừng!
– C 59-60: + “Xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”: Trong Tin Mừng Mátthêu, người xin làm môn đệ ngỏ lời trước (x. Mt 8,21-22), còn trong Tin Mừng Luca, chính Đức Giêsu kêu gọi anh ta trước. Anh ta tỏ thái độ thiếu dứt khoát qua lời cầu xin được về nhà phụng dưỡng cha. Sau khi cha chết và lo mai táng cho cha xong, anh mới đi theo làm môn đệ Người. Tại Pa-les-tin việc chôn cất người chết phải được thực hiện ngay trong ngày, nên khó mà nghĩ rằng Đức Giêsu lại không đồng ý cho anh ta lưu lại vài giờ để chôn cất cha cho tròn chữ hiếu. + “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”: Chắc chắn Đức Giêsu không cho bổn phận hiếu thảo với cha mẹ là không đáng kể (x. Mt 15,5-9 ; 1 Tm 5,8). Nhưng khi phải lựa chọn giữa việc phục vụ gia đình với việc rao giảng Tin Mừng, thì Người đòi môn đệ phải ưu tiên chọn việc phục vụ Chúa.
- CÂU HỎI:
1) Khi dùng thành ngữ “Được rước lên trời”, tác giả Luca muốn ám chỉ điều gì về cuộc xuất hành của Người ? 2) Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem để làm gì ? 3) Tại sao người Do Thái tránh giao thiệp và khinh thường người Samari, đang khi Đức Giêsu lại sẵn sàng đến với họ ? Hãy kể ra một số trường hợp cụ thể Người đã làm như vậy ? 4) So sánh phản ứng của hai môn đệ Giacôbê, Gioan và của Đức Giêsu trước sự từ chối đón tiếp thầy trò của dân làng Samari ? Đức Giêsu muốn môn đệ Người phản ứng thế nào ? 5) Người dạy và làm gì để nêu gương nhẫn nhịn cho các ông ? 6) Hãy kể ra ba trường hợp người ta xin làm môn đệ Đức Giêsu và đòi hỏi của Người với mỗi trường hợp thế nào ?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9,60).
- CÂU CHUYỆN:
1) TU ĐÒI PHẢI TỪ BỎ LÒNG HAM MÊ CỦA CẢI TRẦN GIAN:
Một vị linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quí để làm lễ vật ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, anh thanh niên giàu có vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy hồ cố tìm lấy lại viên ngọc quí giá. Nhưng sau một ngày vất vả tìm kiếm mà viên ngọc vẫn biệt tăm. Chiếu đến, với vẻ mặt thất vọng, anh thanh niên đến chỗ vị linh sư xin ông chỉ đích xác chỗ đã ném viên ngọc. Bấy giờ vị linh sư liền cầm viên ngọc thứ hai, tiếp tục ném xuống sông và nói: “Ta đã ném vào chỗ đó. Anh hãy lặn xuống mà tìm”. Chàng thanh niên hiểu rằng thầy muốn anh phải dứt khoát từ bỏ lòng ham mê của cải trần gian như điều kiện tiên quyết phải có để có thể đi theo làm học trò của thầy.
2) TU LÀ DỨT KHOÁT TỪ BỎ ĐỂ CÓ LỐI SỐNG SIÊU THOÁT:
Ở một làng nọ thuộc miền quê Ấn độ, có một đạo sĩ tên là Sadhu. Với lối sống đơn giản trong nhiều năm, ông đã gần đạt đến sự siêu thoát hoàn toàn của bậc thánh nhân. Ông đã được dân chúng quanh vùng quí mến, và họ đã lũ lượt kéo nhau đến bái ông làm thầy dạy đạo.
Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ ăn mặc sơ sài, có người đã mang đến biếu mấy mảnh vải tốt để ông may áo che thân. Rồi khi Sadhu ngồi thiền, bầy chuột tưởng ông là tượng gỗ, rủ nhau đến rúc vào áo của ông gặm nhấm. Có người thấy thế tội nghiệp, liền mang đến biếu ông một chú mèo con làm bầu bạn và giúp ông xua đuổi lũ chuột quấy phá kia. Dân làng lại thương mèo con không có gì ăn liền đem sữa tươi đến nuôi mèo. Rồi một ngày nọ, một bà giàu có từ phương xa nghe tiếng thơm nhân đức của vị đạo sĩ, đã đến thăm và tặng ông một con bò để ông có sữa uống và có thể nuôi mèo. Dân làng cũng làm một cái chuồng giúp ông nuôi bò. Khi thấy bò có chuồng mà đạo sĩ lại không có nhà, dân làng liền hè nhau đến làm cho đạo sĩ một chiếc chòi bằng lá để ông có thể trú nắng che mưa.
Từ khi có thêm của cải, đạo sĩ không còn có giờ tu niệm như trước. Hằng ngày ông phải bận rộn đi cắt cỏ về nuôi bò để lấy sữa uống, rồi còn phải chăm sóc cho mèo để nó giúp ông đuổi lũ chuột. Ông cũng phải chăm lo sửa sang căn chòi bị dột. Dân làng thương ông vất vả, nên đã nhờ một người đàn bà đến giúp ông làm công việc nhà để ông có giờ ngồi thiền.
Từ đó đạo sĩ đã có áo quần che thân, có mèo giúp đuổi chuột, có bò cung cấp thức ăn hằng ngày, có căn chòi khang trang để ở, có người đàn bà đến chăm sóc cho mình… Chẳng bao lâu sau, đạo sĩ không còn thích ngồi thiền tu niệm nữa, vì ông phải quan tâm bảo vệ những gì đang sở hữu. Rồi ông đã lấy người đàn bà kia làm vợ, và chấm dứt cuộc đời hạnh tu !!!
Câu chuyện trên cho thấy: Bao lâu chọn nếp sống đơn giản, đạo sĩ Sadhu đã nổi tiếng là một tu sĩ đắc đạo. Nhưng từ khi sở hữu nhiều của cải vật chất thì ông cũng dần dần xa rời lý tưởng tu hành của mình. Trong Hội Thánh Công giáo cũng như trong các tôn giáo khác, các vị đại thánh đều có điểm giống nhau là các ngài đã chọn lối sống khắc khổ, sẵn sàng từ bỏ các tiện nghi vật chất và quyết tâm không dính bén với các của cải vật chất. Nhờ đó các ngài mới có một lối sống siêu thoát làm đẹp lòng Đấng thiêng liêng và được mọi người nể phục.
- THẢO LUẬN:
1) Trong cuộc sống hàng ngày, hãy kể ra những điều bạn cho là quan trọng và cần phải làm ngay. Tại sao ? 2) Sống đúng tinh thần khoan dung của Đức Giêsu dễ hay khó ? Tại sao ? 3) Bạn quyết tâm sẽ phản ứng thế nào khi bị kẻ khác đối xử không tốt để xứng đáng làm môn đệ Đức Giêsu ?
- SUY NIỆM:
1) GƯƠNG TỪ BỎ MỌI SỰ ĐỂ SỐNG SIÊU THOÁT NHƯ ÊLISA:
Bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Êlisa quyết tâm theo Êlia để làm ngôn sứ. Êlisa là nông dân, đang cày ruộng với 12 cặp bò. Nghe ngôn sứ Êlia kêu gọi, Êlisa đã bày tỏ lòng quyết tâm đi theo thầy Êlia bằng việc chẻ các cày gỗ làm củi, giết bò làm lễ vật, rồi thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi đi theo làm môn đệ thầy. Ruộng đất, trâu bò, cày cuốc là tài sản của nông dân. Đốt cày cuốc, làm thịt trâu bò, có nghĩa là từ bỏ tài sản, là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, không luyến tiếc những gì đã có. Đó là thái độ dứt khoát phó thác và hoàn toàn vâng phục.
2) DỨT KHOÁT TỪ BỎ MỌI SỰ LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU:
Qua 3 trường hợp theo Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ muốn theo làm môn đệ của Người phải có thái độ dứt khoát như sau:
+ Quyết tâm từ bỏ lối sống an nhàn hưởng thụ: Người thứ nhất xin đi theo Đức Giêsu đến bất cứ nơi nào. Nhưng Người đòi anh phải chọn lựa: theo Thầy thì phải chấp nhận cuộc sống nay đây mai đó và sống thanh thoát với của cải vật chất là “không có chỗ tựa đầu”. Chính Đức Giêsu đã thực hiện điều này ngay từ khi mới sinh như Tin Mừng Luca đã ghi nhận : “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Cuối cùng, trên thập giá, Người đã bị lột áo và bị đóng đanh chân tay vào thập giá. Trong Tin Mừng, chúng ta không thấy chỗ nào đề cập đến một ngôi nhà riêng của Đức Giêsu hoặc của nhóm Mười Hai môn đệ.
+ Ưu tiên chọn trung thành với sứ vụ: Người thứ hai được Đức Giêsu kêu gọi đã sẵn sàng đi theo Chúa. Nhưng anh ta xin về nhà phụng dưỡng cha già, đến khi cha chết rồi mới đi theo. Nhưng Người đòi anh phải dứt khoát chọn ngay sứ vụ đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa. Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng nhất theo quan niệm thông thường của người đời, cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng Nước Thiên Chúa.
+ Sẵn sàng dứt khoát thoát ly gia đình: Người thứ ba xin đi theo Đức Giêsu, nhưng xin được về nhà từ giã gia đình trước đã. Nhưng Người đòi anh ta phải chọn lựa, dứt khoát chọn thoát ly tình cảm gia đình: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Thực ra, Đức Giêsu rất coi trọng việc con cái phải giữ bổn phận hiếu kính đối với cha mẹ (x. Mt 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x. Lc 14,26). Chúng ta hãy ưu tiên lo việc Chúa trước, còn những sự khác Chúa sẽ lo giúp chúng ta sau.
3) CON ĐƯỜNG THEO CHÚA HÔM NAY:
Đối với những người được Chúa mời gọi hiến thân phục vụ Nước Thiên Chúa, lời Chúa hôm nay đòi chúng ta hãy kiểm điểm về lối sống và sự chọn lựa của mình:
+ Chúng ta có ưu tiên chọn Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa hơn tất cả những điều khác không ? Nếu chúng ta còn coi tiền bạc, địa vị, sắc đẹp … hay điều gì đó hơn cả Chúa thì chúng ta sẽ không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng nêu gương về thái độ ưu tiên chọn theo Chúa như sau: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người.” (Pl 3,7-8).
+ Thực ra, cũng có nhiều người muốn đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu. Nhưng họ chỉ muốn theo Chúa khi việc theo Chúa này phù hợp với ước muốn của họ, có lợi cho bản thân họ giống như Nhóm Mười Hai đi theo Đức Giêsu để được địa vị chức quyền khi Người lên làm Vua, chứ không muốn theo Chúa để phải qua đau khổ sự chết thập giá rồi mới được vào trong vinh quang phục sinh như ý Thiên Chúa. Khi theo Chúa, chúng ta phải chấp nhận những sự rủi ro, thua thiệt có thể gặp phải; Chúng ta cũng phải từ bỏ những gì không phù hợp với thánh ý Chúa muốn, không xứng đáng với sự thánh thiện vô cùng của Chúa; Theo Chúa đúng nghĩa đòi chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ những gì khiến chúng ta bị lìa xa Chúa hoặc cản đường chúng ta đến kết hiệp với Người. Theo Chúa đúng nghĩa chính là thái độ hoàn toàn tín thác cậy trông vào Chúa, để cả cuộc đời của chúng ta chỉ thuộc về một mình Chúa mà thôi. Chúng ta có sẵn sàng theo Chúa đi con đường hẹp, leo dốc và có nguy cơ bị bách hại như vậy hay không ?
- NGUYỆN CẦU:
1) LẠY CHÚA GIÊSU. Giàu sang, danh vọng, khoái lạc… là những điều hấp dẫn chúng con và trói buộc chúng con, không cho chúng con có thể hướng thượng. Xin giải thoát chúng con khỏi sự say mê tìm kiếm kho tàng vật chất dưới trần gian, để ưu tiên tìm phụng sự Nước Thiên Chúa. Lạy Chúa. Ước gì chúng con có thái độ dứt khoát từ bỏ những gì mình đang chiếm hữu, để mua được viên ngọc quí Nước Trời. Ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước lời Chúa mời gọi chúng con hôm nay.
2) LẠY CHÚA. Con cảm thấy Chúa đòi hỏi những ai muốn đi theo làm môn đệ Chúa hơi nhiều: Vì Chúa không có chỗ dựa đầu, nên Chúa đòi con phải hãm mình để có lối sống đơn sơ siêu thoát. Chúa còn muốn con phải ưu tiên rao truyền Triều Đại của Thiên Chúa, phải đặt tình cảm gia đình sau việc phụng sự Chúa như lời Chúa phán : “Ai muốn theo Thầy phải bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà đi theo Thầy”. Nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng mình, chắc chắn con sẽ khó lòng đi theo Chúa. Nhưng nếu có ơn Chúa giúp, con sẽ làm được mọi sự. Xin giúp con sống quảng đại với Chúa như Chúa đã từng quảng đại với con. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn quên mình và nghĩ tới người khác, để con xứng đáng trở nên môn đệ đích thực của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
THEO THẦY- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Trong một xưởng thợ, mấy cô bạn gái cùng làm việc đang chê bai đạo Chúa. Họ cho rằng Đạo Chúa làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc trí phán đoán người ta. Một nam công nhân nghe họ nói truyện và khi họ vừa im lặng, bèn cất tiếng nói: Phải, vì đạo Chúa mà tôi đã mất tất cả. Mọi người cùng sững sờ nhìn. Người thợ nói tiếp: Tôi thích rượu, Đạo Chúa làm tôi bỏ rượu. Trước kia tôi chỉ mặc quần áo rách và đội cái mũ bẩn thỉu, giờ Đạo làm tôi mất tất cả… Đạo còn làm tôi mất cả tâm địa xấu xa nữa… Xưa địa ngục cai trị gia đình tôi, vì nếp sống gia đình đã thành ra như chốn ngục hình. Thì nay, khi trở nên tín hữu Chúa, tôi đã mất tất cả. Hỡi các anh chị, bây giờ các anh chị biết đức tin đã làm tôi mất những gì và được những gì. Hãy làm như tôi. Tôi xin cam đoan chắc chắn các anh chị sẽ không phải hối hận đâu.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn gọi một số những vị tiên tri như Amos, Hosea, Micah, Isaia, Zephaniah, Nahum, Habakkuk, Jeremia, Ezekiel, Haggai, Zecharia, Obadiah, Joel, Malachi, Jonah và Elia. Ngoài ra còn một số những vị ngôn sứ nhỏ như Nathan, Êlise…, ít được nhắc đến. Trong suốt thời gian dài từ sau khi Dân Do-thái vào miền Đất Hứa cho đến khi Chúa Giêsu giáng trần. Thiên Chúa luôn gởi các vị ngôn sứ đến để hướng dẫn dân đi theo đường lối của Chúa. Tất cả sứ mệnh qui về việc tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, giữ các giới răn, huấn thị và chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Xưa tiên tri Êlia được Thiên Chúa gọi và chọn để thi hành sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa giữa cuộc sống xã hội đa thần. Nhiều người mê lầm chạy theo những thần giả tạo do con người sáng lập ra. Có rất nhiều tiên tri giả đã chạy theo thần Baal và rao truyền những sự mê tín lầm lạc. Êlia đã thách thức quyền năng của các thần và thuyết phục dân chúng tin vào Thiên Chúa duy nhất. Êlia đã gặp rất nhiều sự khó khăn, bị bắt bớ và chạy trốn. Bàn tay quyền năng của Chúa ở cùng ông. Ông đã chu toàn sứ mệnh của mình và Chúa đã cất nhắc ông lên bằng xe rực lửa.
Để chuẩn bị có người kế vị, Êlia đã chọn người môn đệ tên là Êlisê để kế thừa sứ vụ: Ông này liền để bỏ lại, chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông.” Ông Êlia trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu? (1Vua 19, 20). Êlisê tiếp nối sứ vụ mà Êlia đã truyền lại. Êlisê đã từ bỏ nghề cầy bừa cũ, rời bỏ gia đình và bạn bè để ra đi thi hành sứ mệnh mới: Ông Êlisê bỏ ông Êlia mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cầy làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Êlia và phục vụ ông (1V 19, 21).
Trong tất cả các loài thụ tạo, mỗi loài đều có những cách thế truyền sinh và cơ cấu tổ chức khác nhau. Các loài động vật đã được Đấng Tạo Hóa phú bẩm những bản năng cố định. Các con vật sống thành bầy, thành đàn, thành tổ và chúng sống theo nhau, nối kết với nhau. Hằng năm chúng ta thường chứng kiến những bầy chim hàng ngàn con di chuyển từ Bắc cực xuống Nam cực và sau đó lại trở về chốn cũ. Những đàn voi, đàn trâu bò, đàn khỉ… chung sống trong hoang địa cũng thế. Hoặc là những tổ ong, tổ kiến, tổ mối…tự nó xây cất những kiến trúc rất tinh tế. Từ đời này qua đời khác, các con vật theo nhau hoàn thành công việc đã được Tạo Hóa sắp đặt. Riêng con người có trí khôn, ý chí và tự do, họ đã tạo thành từng xã hội đặc thù. Loài người tiến triển theo từng giai đoạn để trở thành những người văn minh hơn. Con người có thể bảo tồn, truyền tụng những suy tư, phát minh và kho tàng văn hóa qua các dấu ấn trong lịch sử xã hội, tôn giáo và chính trị.
Sống trong xã hội có kẻ trước người sau, có thầy có trò, có người chỉ đạo và môn sinh. Trong mọi khía cạnh sống, bất cứ một ngành nghề chuyên môn nào cũng có những vị tiền bối muốn truyền đạt khả năng cho những người thừa kế. Trong tôn giáo, sự lưu truyền niềm tin của đạo giáo còn quan trọng hơn nữa. Đời sống tâm linh và tinh thần chi phối sinh hoạt của con người rất sâu thẳm. Đây là điểm đặc thù của con người xã hội. Nếu thiếu sự hướng dẫn trong đời sống tâm linh, con người sẽ bị tha hóa và thụt lùi trở lại sống theo bản năng giống như các loài cầm thú. Kinh nghiệm lịch sử thế giới cho biết, hiện nay thế kỷ 21, vẫn còn có nhiều tổ chức xã hội rất sơ khai, có những bộ lạc sống như người tiền sử và những nhóm người sống biệt lập rất man rợ trong rừng sâu. Đời sống của họ phát triển rất chậm và sống theo bản năng tự nhiên.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đi theo Chúa một cách khác nhau. Có người đi theo Chúa trong ơn gọi gia đình. Có kẻ sống độc thân phục vụ. Có người hiến thân trong việc truyền giáo. Có kẻ hiến dâng mình cho Chúa trong các dòng tu. Có người đi tu trở thành tu sĩ linh mục. Ơn gọi nào cũng qúi báu. Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội là chúng ta đã bắt đầu bước theo đường lối của Chúa. Chúng ta mang danh là Kitô hữu. Chúng ta là nhân chứng cho Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh, môi trường và thời gian. Chúng ta là Kitô hữu suốt đời. Làm chứng nhân cho Chúa cả thời gian chứ không chỉ bán thời hay trong một số trường hợp đặc biệt. Chúa Giêsu đã nói rõ cho những người sẽ đi theo Chúa:“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”(Lc 9, 58). Chúa Giêsu cần chúng ta có thái độ dứt khoát. Chúng ta không thể bắt cá hai tay hay làm tôi hai chủ. Đáp tiếng mời gọi của Chúa là chúng ta tự do chọn lựa trở thành môn đệ của Chúa.Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa.”(Lc 9, 60).
Người môn đệ cần có những sự dứt bỏ những mời gọi hấp dẫn của thế gian. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”(Lc 9, 62). Chúng ta biết sự yếu đuối của bản năng con người luôn kéo lôi ta trở lại sống theo thói đời. Ưa thích thỏa mãn những nhu cầu của lòng tham sân si. Không lạ gì khi chúng ta thích thu quén của cải, tiền bạc, chức tước và lợi lộc trần gian. Chúng ta lo làm giầu cho cuộc sống mà bất chấp lỗi phạm lề luật và giới răn của Chúa. Thí dụ: Các giới răn về ham mê dâm dục, ăn gian nói dối, làm chứng thề gian và lỗi luật yêu thương. Đôi khi chúng ta cảm thấy vì theo Chúa mà bị mất mát và rồi tiếc nuối những thỏa mãn thấp hèn. Theo Chúa, chúng ta phải phấn đấu hằng ngày với các cơn cám dỗ. Phải kiên tâm chịu đựng và vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa.
Đi theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14). Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.
Lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô soi dọi đường chúng con đi. Xin đừng để chúng con bị lạc hướng trong đêm tối và tội lỗi của ma quỉ và thế gian.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
BÀI HỌC NHÂN ÁI THẬT KHÓ THUỘC- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Đối với Kitô hữu chúng ta, và có lẽ cả các tín đồ các tôn giáo khác nữa, thì việc dành cho Thiên Chúa sự kính trọng xứng đáng luôn là mối bận tâm hàng đầu, đặc biệt là trong các việc thờ phượng, các nghi lễ phụng tự; điều đó là đương nhiên, là phổ biến, và không có gì để mà bàn cãi. Tuy nhiên hình như có một điều gì còn quan trọng hơn cả sự kính trọng và tôn vinh, một điều rất đặc sắc của riêng Kitô hữu mà rất thường khi chúng ta hầu như quên lãng hoàn toàn, đó là: hiểu thấu lòng từ nhân và hay thương xót của Thiên Chúa; Tân Ước xem ra rất coi trọng điều này, bởi vì đó là nội dung chính mà Đức Giêsu đã đến trần gian để khải mở cho chúng ta được biết (xem Ga 3:16).
Các môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an quả rất nhiệt tình; các ông muốn thấy Thầy Giêsu của mình phải được mọi người đón tiếp xứng đáng; chính lòng nhiệt thành đã thôi thúc các ông xin Thầy cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Sa-ma-ri đã từ chối đón tiếp Thầy. Các ông những tưởng sẽ được Thầy Giêsu khen thưởng và trọng dụng, nhưng tất cả những gì các ông nhận được là lời quở mắng; kỳ lạ thay!
Chúng ta đã từng bao nhiêu lần được chứng kiến những nhiệt tình tương tự, như cha xứ quở trách giáo dân đã không tiếp đón đức cha cách long trọng cho đủ, bề trên phiền trách hội viên đã không coi trọng mình cho phải lẽ… (chưa nói tới thói đời là tiền hô hậu ủng); và thường thì ta cho điều đó là hoàn toàn đúng, vì tôn ti trật tự xã hội đòi phải vậy. Thế nhưng cái điều quan trọng hơn kia thì lại rất khó nuốt trôi, và không biết tới bao giờ ta mới học cho thuộc. Đã mang danh là Kitô hữu (hơn nữa một tu sĩ theo Đức Giêsu sát hơn, “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo”), ta không thể không thuộc bài học căn bản đó dầu cho nó có khó trôi tới mấy đi nữa: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” – bài học duy nhất Đức Giêsu đã muốn được trực tiếp dạy các môn sinh của Người!
Thiên Chúa của Đức Giêsu cần lòng thương xót, trước cả được tôn vinh: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ”; nói cách khác, tôn vinh cao nhất mà Người muốn nhận được phải là lòng nhân ái xót thương. Người chấp nhận không có lấy một chỗ tựa đầu nên chưa bao giờ đòi các môn đệ phải dọn cho mình một chỗ xứng đáng để ngả lưng! Là Kitô hữu, một khi đã khởi sự con đường môn đệ bằng việc đón nhận lòng thương xót tha tội (bí tích Rửa Tội), tôi biết Người không muốn tôi, vì bất cứ lý do gì (kể cả hợp lý nhất), ngoái cổ để tìm lại thứ tôn vinh phải phép dành cho Thiên Chúa. Điều mà Người thật sự mong muốn, là tôi tham dự cách trọn vẹn và quyết liệt vào lòng nhân ái và xót thương mà Người đã dày công minh chứng khi đến trần gian.
Ôi, bài học xem ra dễ đó lại thật khó biết bao! Đức Giêsu đã không tỏ vẻ phấn khởi lắm với nhiều kẻ xin theo Người…, vì họ đinh ninh: theo Người là tôn vinh Thiên Chúa với cả một hệ thống luân lý và tu đức khắt khe; đàng này, Người đòi các môn đệ trung kiên phải thuộc bài học nhân ái tới độ tự hủy hoàn toàn… thì ít ai có thể học cho thuộc. Phê-rô được chọn làm thủ lãnh sẽ phải củng cố niềm tin của các anh em chính ở điểm này, sau khi bản thân ông đã thấm thía bài học xót thương và tha thứ của Thầy sau ba lần chối bỏ.
Tôi thầm ước: việc theo sát Đức Giêsu của mình (đã hơn 50 năm rồi còn gì!) sẽ giúp tôi hiểu và học thuộc được bài này. Tôi cầu mong cho mọi phần tử trong Hội Thánh, đặc biệt các linh mục và tu sĩ, sẽ hết lòng làm vinh danh Thiên Chúa trong chính nội dung này. Mong họ sẽ trở thành dấu chỉ làm cho một nhân loại (kể cả các tôn giáo khác) đang lao đầu kiến tìm các thứ quyền lợi, danh dự và vinh quang cho thần tượng hay thần thánh của họ (đôi khi rất chính đáng) biết rằng: có một ‘vinh quang đích thực’ mà Thiên Chúa của các Kitô hữu mong muốn, đó là ‘lòng xót thương và tha thứ’. Kitô hữu thà đánh mất mọi thứ (kể cả những quyền lợi thiết thân nhất dành cho Thiên Chúa và tôn giáo của mình) chứ không để chứng từ rất độc đáo này bị lu mờ.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ tình thương của Chúa: để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp… Hãy dạy con học thuộc bài học chấp nhận thua thiệt, kể cả trong những điều xem ra rất thiết yếu để thờ phượng kính tôn Thiên Chúa cho phải lẽ, bởi vì nhận thức được rằng vinh quang lớn nhất mà Thiên Chúa của Đức Kitô muốn bảo vệ bằng mọi giá chính là hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-C
NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC KI- TÔ- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Chân tính người môn đệ Đức Giêsu.
Ông Dunan, người sáng lập hội Hồng Thập Tự quốc tế đã cho khắc trên ngôi mộ của mình hàng chữ ‘Hoặc tôi là môn đệ Đức Giêsu, hoặc tôi không là gì cả’. Cũng vậy, mọi người chúng ta đều được mời gọi trở nên môn sinh của Chúa. Nhưng, chân tính đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu là gì? Trong Giáo hội có nhiều loại hình ơn gọi khác nhau: làm Linh mục, làm tu sỹ, hay sống bậc sống giáo dân. Nhưng tất cả các ơn gọi ấy đều có một mẫu số chung, đó là trở nên môn đệ Đức Giêsu và bước đi theo Ngài.
Ai là môn đệ Đức Giêsu?
Câu chuyện được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta câu trả lời. Thánh Luca lược tóm 2 loại môn đệ. Loại thứ nhất là những học trò được Chúa Giêsu ưu tuyển, đặc biệt có nhóm 12. Hai khuôn mặt tiêu biểu thuộc nhóm này mà bài Tin mừng hôm nay nhắc tới là Giacôbê và Gioan. Hai ông thuộc loại ‘Top ten’, là 2 trong 4 môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyển chọn. Chính Đức Giêsu đã gọi và chọn các ông. Đáp lại lời mời gọi đó, các Ngài đã bỏ mọi sự, bỏ cha mẹ, bỏ ruộng vườn, bỏ cả vợ con, bỏ chài và lưới là những phương tiện mưu sinh hằng ngày, để bước đi theo Chúa.
Chúa Giêsu đã chọn các môn sinh không theo bất cứ một tiêu chuẩn nào như chúng ta thường hay nghĩ. Ngài không cần những người tài giỏi, có học vị hay bằng cấp cao sang. Ngài cũng không tuyển chọn các tông đồ từ những con người xuất sắc theo tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Những học trò đầu tiên đến với Đức Giêsu chỉ là những ngư dân rất bình thường, đầy những tật xấu và khuyết điểm. Cụ thể, chúng ta hãy nhìn vào hai anh em con ông Giêbêdê mà bài Tin mừng hôm nay nhắc đến. Cả 2 là những chàng thanh niên tính nóng như lửa. Các ông hậm hực và cay cú khi thấy dân làng Samari không đón tiếp Chúa, nên đã nóng nảy xin Chúa cho lửa từ trời xuống thiêu đốt ngôi làng, để họ chết hết cho bõ ghét. Hai ông lại còn tỏ ra quá tham quyền cố vị, xin cho một người được làm ‘thủ tướng’, còn người kia làm ‘chủ tịch nước’ trong vương quốc mà Đức Giêsu sẽ thiết lập. Điều đó cho thấy rằng những môn đệ đầu tiên được Chúa tuyển chọn hoàn toàn không phải là những con người hoàn hảo hay xuất chúng. Ngài chọn các ông chỉ vì Ngài muốn như vậy. Đơn giản thế thôi.
Loại môn đệ thứ 2 là những con người mà Chúa Giêsu chưa mời gọi bao giờ, nhưng vẫn khao khát muốn đi theo Chúa để trở thành học trò của Ngài. Cụ thể là hai thanh niên được nhắc đến trong bài Tin mừng hôm nay. Hai chàng nhìn vào Chúa Giêsu như một thần tượng, và mong muốn được trở nên môn đệ của Ngài. Hai bạn thanh niên này thực sự chưa hiểu rõ lý tưởng mà họ đang ôm ấp. Một người xin phép trở về nhà chôn cất ông bố vừa mới chết. Người kia xin về từ biệt gia đình và những người thân quen trước khi lên đường đi xa. Những lý do đó rất chính đáng, nhưng đối với Chúa Giêsu thì không phải vậy. Ngài đặt ra điều kiện tiên quyết và tuyệt đối, là phải cắt đứt mọi dính bén một cách vô điều kiện. “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”, hoặc “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái cổ lại phía sau thì không xứng đáng làm môn đệ thầy”. Như vậy Chúa nói với 2 bạn trẻ đang thai nghén hoài bão để trở nên môn đệ, là phải đặt Ngài vào chỗ tối thượng. Đồng thời, Chúa cũng nhắc cho chúng ta biết rằng, chân tính đích thực của người môn đệ là phải tuyệt đối thuộc trọn về Ngài, không chút vướng bận hay so đo tính toán.
Hành trình của người môn đệ: ‘Sequela Christi’ (Theo Chúa Kitô).
Trình thuật Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu và các học trò đang trên đường lên Giêrusalem. Thuật ngữ ‘lên Giêrusalem’ hàm ngậm mầu nhiệm Thập giá và cái chết. Chúa tiến về Giêrusalem để hoàn tất kế hoạch cứu chuộc mà Chúa Cha đã hoạch định. “Ngài sẽ lên Giêrusalem, sẽ bị nộp trong tay người tội lỗi, sẽ bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mt 16,21; Mc 8,31-33; Lc 9,22). Thánh Luca còn nói rõ hơn về cuộc hành trình ấy trong câu đầu tiên của bài Tin mừng hôm nay: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết lên Giêrusalem (c.51). Như vậy, rõ ràng thánh Luca muốn lồng ghép ơn gọi và cuộc hành trình của các môn đệ đan kết với mầu nhiệm Thập giá. Cũng vậy, đã nhiều lần Chúa Giêsu gợi nhắc: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo” (Mc 8,34; Lc 9,23-27…). Bài học căn bản Chúa nhắc đi nhắc lại cho các học trò, đó là tinh thần từ bỏ. Theo Chúa không phải để tìm kiếm vinh hoa phú quý hay lợi lộc trần thế, nhưng là dần dần đi vào mầu nhiệm tự hủy cách tròn đầy. Các môn đệ không hiểu, hay nói chính xác hơn, họ chưa hiểu. Chỉ sau này, sau khi Đức Giêsu sống lại, các Ngài mới dần nghiệm ra những lời chỉ dạy của Chúa Giêsu năm xưa, và từ đó các Ngài ra đi làm chứng nhân cho Thầy mình, sẵn sàng chấp nhận cái chết để đi vào mầu nhiệm Thập giá một cách trọn vẹn. Đó là căn tính đích thực của những môn đệ Chúa Giêsu.
Thách đố cho mọi Kitô hữu ngày hôm nay.
Khi xem cuốn phim tài liệu về Cha John Lee, nhiều người đã xúc động đến rơi lệ. Ngài là một linh mục trẻ đầy tài năng, đã tốt nghiệp bác sĩ tại Hàn quốc. Tương lai đang rộng mở nếu Ngài ở lại trong nước để làm việc. Nhưng Cha Lee đã từ bỏ tất cả, tình nguyện sang Phi Châu truyền giáo. Ngài chọn nơi xa xôi và nghèo nàn nhất tại Sudan để dấn thân phục vụ. Bốn năm trước đây, Ngài đã chết vì bệnh ung thư. Dân chúng tại Sudan, đặc biệt giới trẻ khóc thương Ngài thảm thiết. Họ nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu rất gần gũi và sống động nơi vị tu sỹ đầy nhiệt huyết này. Ngài là một tu sỹ dòng Salêdiêng DonBosco thuộc tỉnh dòng Hàn quốc. Cha John Lee đã chết, đã đi vào mầu nhiệm tự hủy và đạt đến đỉnh cao của cuộc sống trở nên môn đệ Đức Giêsu một cách đích thực. Đó là mẫu gương và cũng là thách đố cho tất cả mọi người chúng ta.
Kết luận
“Hoặc tôi là môn đệ Chúa Giêsu, hoặc tôi không là gì cả”. Đây là câu châm ngôn của ông Dunan, của nhiều vị truyền giáo, của rất nhiều bạn trẻ đã và đang từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa trên con đường trọn lành. Còn bạn và tôi, chúng ta đã chọn và thể hiện lý tưởng đó như thế nào?
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
TINH THẦN SIÊU THOÁT- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý để như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Nhưng suốt cả ngày hì hụp ngoi lên lặn xuống hao hơi nhọc công, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác nơi mà ngài đã ném ngọc xuống để may ra tìm lại dễ hơn.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai lại ném xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng nhiên giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học đầu tiên mà vị linh sư muốn dạy anh là muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải có tinh thần siêu thoát, phải sẵn sàng dứt bỏ mọi dính bén với của cải thế gian.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho những ai muốn trở thành môn đệ của Người cũng phải có một tinh thần siêu thoát tương tự, chủ yếu là siêu thoát đối với ba sự việc sau đây:
Thứ nhất: siêu thoát đối với những tiện nghi và của cải
“Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Với những lời nầy, Chúa Giêsu cảnh báo rằng: ai muốn theo Người thì trước hết phải lượng sức mình: Có đủ siêu thoát để chấp nhận cuộc sống thiếu thốn như Người, ngay cả chỗ tựa đầu cũng chẳng có chăng?
Thứ hai: siêu thoát đối với những trói buộc trần thế để ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
Rồi Chúa Giêsu lại gặp một người khác và cất tiếng mời gọi: “Anh hãy theo tôi. Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.”
Đức Giêsu muốn anh siêu thoát khỏi trói buộc nầy nên bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
Tất nhiên Chúa Giêsu vẫn đề cao việc thờ cha kính mẹ (Mc 7,10), nhưng qua lời dạy nầy, Người đòi hỏi ai muốn trở thành môn đệ của Người phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc loan báo Tin Mừng, còn việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, mai táng cha mẹ tất nhiên đã có anh em họ hàng ở nhà chung lo.
Thứ ba: siêu thoát khỏi những tình cảm riêng tư để dốc hết tâm lực cho việc loan báo Tin Mừng.
Đi thêm chặng nữa, Chúa Giêsu gặp một người khác tình nguyện theo Người: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Với người nầy, Chúa Giêsu kêu gọi phải siêu thoát khỏi những mối tình cảm gia đình để thảnh thơi lo việc xây dựng Nước Thiên Chúa. Đã xông pha lên đường phụng sự Nước Trời mà còn vấn vương những mối tình cảm riêng tư thì chẳng khác chi “đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau”.
***
Những mối ràng buộc do của cải tiền tài, do những mối tình cảm riêng tư… như những chiếc vòi của con bạch tuộc khổng lồ huyền thoại, cuốn chặt lấy những chiến sĩ của Tin Mừng, không để cho họ xông pha lên đường phụng sự lý tưởng cao đẹp.
Khi kêu gọi người môn đệ siêu thoát đối với của cải tiện nghi và những ràng buộc của những mối tình cảm hẹp hòi, Chúa Giêsu mong muốn những ai dấn thân phụng sự Nước Trời hãy can trường chặt đứt những chiếc vòi quỷ quái đó hầu có thể thảnh thơi thi hành sứ vụ.
Cần thật nhiều ơn Chúa, cần có nhiều bản lãnh và nghị lực bản thân mới có thể thực hiện được những đòi hỏi khó khăn nầy.
***
Lạy Chúa, xin luôn ở bên chúng con, đồng hành với chúng con và cùng chiến đấu với chúng con.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
LÊN GIÊRUSALEM- Lm. Anphong
Tin mừng Chúa Nhật 13 thường niên năm C là đoạn khởi đầu về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem tức là Người lên đường hướng đến cuộc khổ nạn và thực hiện trọn vẹn ơn cứu độ.
Đoạn Tin mừng này gồm hai phần:
* Câu 51 – 56: Đức Giêsu không được người Samari đón tiếp và phản ứng của tông đồ Giacôbê và Gioan.
* Câu 57 – 62: Ba lời khuyên của Đức Giêsu cho những ai muốn đi theo Người.
* Lời khuyên thứ nhất là khước từ những bảo đảm thường tình: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”.
* Lời khuyên thứ hai là việc rao giảng Nước Thiên Chúa phải được đặt trên hết, không được trì hoãn: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”.
* Lời khuyên thứ ba là hãy quên quá khứ và hướng về tương lai: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Đây là một giai đoạn mới trong cuộc đời Người. Người bỏ Galilê, nơi Người đã thành công ngay từ những bài giảng đầu tiên, đến độ người ta muốn tôn vinh Người làm thần tượng. Người lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải chịu treo trên thập giá để thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa Cha, để hoàn tất công trình cứu độ. Vượt qua quá khứ “dễ dãi” và đi đến một tương lai “chẳng chắc chắn gì” theo dự phóng của Thiên Chúa Cha quả là một thách đố. Chính trong thời điểm thách đố đó, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên cho những ai muốn bước theo Người.
Đời sống kitô hữu là đời sống bước theo Chúa Giêsu, họ được mời gọi để vượt qua những bảo đảm thường tình: tiền bạc, danh lợi, chức quyền… đồng thời nhận lấy Đức Giêsu như là bảo đảm cho đời sống của mình. Kitô hữu là người cố gắng thể hiện mối phúc thứ nhất trong đời sống mỗi ngày: “phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người “có mà như không”; đó là người có những bảo đảm thường tình, nhưng họ không cho đó là duy nhất. Họ chỉ có một bảo đảm duy nhất là chính Thiên Chúa. Với tâm hồn nghèo khó, không có gì hết, họ mới có khả năng đón nhận Thiên Chúa vào đời sống của mình. Từ đó, trình bày vị Thiên Chúa của đời sống mình cho người khác.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi để “bước theo Đức Giêsu trong công trình cứu độ”, nghĩa là cũng được mời gọi để “lên Giêrusalem”. Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải rao giảng Tin mừng “lúc thuận lợi cũng như lúc nghịch cảnh”, không vì lý do gì mà có thể trì hoãn. Rao giảng Tin mừng bằng chính đời sống bác ái có tính cách thuyết phục hơn là những “ngôn từ đao to búa lớn”. Khi những người Samari khước từ Đức Giêsu, thánh Giacôbê và Gioan đã muốn “khiến lửa bởi trời xuống thiêu hủy những người đó”. Ngày nay, hẳn là vẫn còn những người “samari hiện đại” không đón nhận Đức Giêsu và lời giảng của Người? Hẳn là không thiếu những thái độ như của Giacôbê và Gioan? Là người theo Đức Giêsu trong công trình rao giảng Tin mừng, chúng ta cần “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu” (thánh Phanxicô Assisi). Thật vậy, Tin mừng là giải thoát, là làm cho con người được tự do. Tin mừng cần phải được tiếp nhận trong tự do và tình yêu.
Lạy Chúa,
trong một xã hội sâu xé nhau
vì quyền lợi, tiền bạc, danh vọng.
Xin cho chúng con trở thành
những con người có tâm hồn nghèo khó,
đồng thời biết chia sẻ cho người khác ơn tha thứ
và tình yêu chúng con đã nhận được từ Chúa.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-C
CUỘC KHỞI NGHĨA THIÊNG LIÊNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa, chống lại quân nhà Minh tàn ác cai trị nước ta, có Lê Lai rất giống Lê Lợi. Một hôm, quân ta đánh thua to, chạy về trú ẩn ở núi Linh Sơn, bị quân Minh vây hãm lâu ngày, hết lương thực, Vua tôi hầu chết đói. Lê Lai đã giả làm Lê Lợi hy sinh ra nộp mình cho quân Minh. Chúng tưởng đã bắt được Lê Lợi rồi, chúng kéo quân về. Thế là Lê Lai đã giải thoát cho quân ta khỏi bị quân Tàu tàn sát. Nhờ đó, Lê Lợi chiêu tập quân sĩ đông đảo, đã đánh bại quân Tàu. Nước ta thoát ách nô lệ dã man của nhà Minh.
Tin Mừng hôm nay đã tường thuật cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem, bắt đầu một cuộc khởi nghĩa thiêng liêng.
Giêrusalem mệnh danh là thành đô của Thiên Chúa đang bị quân thù vây hãm tứ bề, đang mong chờ Đấng Cứu thế đến giải thoát. Đức Giêsu lên Giêrusalem hy sinh nộp mình như Lê Lai, để cứu thoát thành thánh. Đức Giêsu đã biết rõ: “đã tới ngày Người được rước lên trời” Ngày Người sắp kết thúc một cuộc khởi nghĩa vĩ đại giải phóng muôn dân thoát ách nô lệ tử thần. Người thấy rõ mục đích cuộc khởi nghĩa thần thánh này sắp đến ngày chiến thắng vinh quang, nên “Người nhất quyết lên Giêrusalem, khuôn mặt gân guốc của Người hướng thẳng về thành Thiên Chúa đang lâm nguy. Nhưng càng cam go cực khốn, thì càng vinh quang rực rỡ, vì “Con Người phải qua đau khổ mới tới vinh quang”, “Con Người bị bắt, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Trận chiến đã bắt đầu Người sai sứ giả đi thăm dò và về báo cáo những trở ngại. Có những đoàn quân Samaria phục kích chặn đường tiến bước. Các môn đệ xin Người lấy lửa bởi trời xuống đốt, nhưng Người không dùng chính sách bạo động đốt sạch, giết sạch, dù Người đang nắm trong tay toàn quyền của Thiên Chúa. Người đã dùng đường lối bất bạo động, nhún nhường khiêm tốn tìm đường khác để đi. Toàn quyền của Thiên Chúa để thực hiện lòng thương yêu họ, cho họ được sống và được sống dồi dào, chứ không để hủy diệt. Thiên Chúa như thân phụ và từ mẫu chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Người kiên nhẫn kêu gọi ta. Người chịu đựng mọi từ chối, mọi xúc phạm. Người hằng chờ đợi mọi trì trệ, lì lợm cứng lòng. Người khát khao ta tham gia vào cuộc hành trình khởi nghĩa của Người. Người đã kêu to: “Ta khát”.
Suốt cuộc hành trình, Đức Giêsu kêu gọi mọi người đồng hành với Người lên Giêrusalem. Có kẻ tình nguyện đi theo Người. Nhưng khi thấy Người sống quá nghèo, quá khắc khổ, chưa được bằng: “Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Họ không còn can đảm dấn thân theo Người. Người kêu gọi kẻ khác: “Anh hãy theo tôi”. Nhưng anh còn mắc ngăn trở, xin về chôn cất cha mẹ trước đã. Anh có lòng hiếu thảo thực thi giới răn thứ bốn thảo kính cha mẹ thì rất quý. Nhưng thời giờ cấp bách, cuộc hành trình thiêng liêng đang tiến công như vũ bão, không thể dừng bước. Người nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa”. Anh phải hiểu rằng: Hy sinh cho nước trời, cho thành của Thiên Chúa, chính là giải thoát cho cha anh khỏi tay tử thần. Đó mới là đại hiếu, đại nghĩa, đó là làm cho cha anh được sống lại muôn đời, đâu còn phải lo chôn cất cho cha anh nữa.
Kẻ khác cũng xin tình nguyện theo Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy nhưng xin Thầy cho phép tôi về từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với Thiên Chúa”.
Anh này có lẽ muốn như Êlisê xưa, xin về từ giã cha mẹ bà con rồi đi theo Chúa. Êlia đã cho Êlisê cứ về từ giã, còn Đức Giêsu thì không. Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng ta từ bỏ mọi sự dứt khoát như thế? Ngài muốn chúng ta theo gương Ngài rời bỏ mẹ hiền Maria của Ngài, từ bỏ bà con quê hương Ngài. Chính Đức Giêsu ngay khi lên mười hai tuổi, Người đã trả lời cha mẹ rằng: “Sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận thi hành ý Cha con sao?” (Lc. 2, 44), ưu tiên thực hiện ý Cha trên trời mới quan trọng, “Còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau”.
Thiên Chúa phản đối bất cứ ưu tiên nào của chúng ta: Dù là ưu tiên an táng cha mẹ hay từ giã gia đình. Còn chúng ta lại đặt ưu tiên của chúng ta hơn ưu tiên của Thiên chúa. Mỗi ngày Chúa Nhật, ưu tiên của ta là nghỉ ngơi, giải trí, ăn uống, vui chơi… Còn lễ lậy, từ thiện bác ái, sinh hoạt đạo đức sẽ tính sau.
Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã quyết tâm bắt đầu cuộc khởi nghĩa thiêng liêng với bất cứ giá nào, để trả lại quyền ưu tiên cho Thiên chúa, chống lại mọi thứ ưu tiên của satan, của thế tục, của mỗi người chúng ta, vì Người đến “giải phóng mọi xiềng xích nô lệ, cho chúng ta được tự do chân chính vững chắc muôn đời” (Gl. 5,1)
Lạy Chúa, xin cho con quyết tâm đồng hành với Ngài trên đường tiến về thành Thiên Chúa. Xin cho cho con được vác thập giá với Ngài và cùng chết với Ngài trên đỉnh cao chót vót để cùng được rước về trời với Ngài vinh quang.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- C
THEO CHÚA CŨNG LẮM HẠNG NGƯỜI- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Thầy trò Đức Giêsu lên Giêrusalem ngang qua Samaria. Con đường ngắn nhất để lên Giêrusalem là con đường đi ngang qua xứ Samaria. Dân Samaria lại thù ghét người Do Thái. Một sự thù ghét từ lâu đời, làm cho hai dân tộc luôn đối nghịch cùng nhau và nhiều khi đã bùng nổ thành những cuộc xung đột đẫm máu. Vì thế, những đoàn hành hương thận trọng hơn, thường đi vòng qua bên kia sông Gióđan, tới tận Giêricô, băng qua sa mạc Giuđêa, trước khi đặt chân vào đền thờ Giêrusalem. Trở về thủ đô, Chúa Giêsu muốn đi qua xứ Samaria. Nhưng một làng đã không đón tiếp Ngài khiến cho Gioan và Giacôbê nổi giận đùng đùng đòi sai lửa từ trời xuống thiêu rụi cả làng ấy. Chúa Giêsu không chấp nhận. Ngài đã quở trách hai môn đệ được mệnh danh là con của thiên lôi này, và Ngài quyết định đi sang làng khác. Trên đường đi xuất hiện 3 người muốn theo Ngài làm môn đệ.
– Mẫu người thứ nhất: Theo Matthêu, đây là một luật sĩ. Chính đương sự tự giới thiệu và đề nghị được đi theo Chúa. Không những thế, ông còn tuyên bố mạnh mẽ sẵn sàng theo Chúa đến bất cứ đâu. Lời đề nghị này cho thấy lòng nhiệt thành nơi ông là rất lớn. Tuy nhiên, động cơ đi theo Chúa có lẽ là vinh quang, danh vọng và địa vị trần thế mà ông mong là Chúa Giêsu có thể mang lại. Ông thiếu sự thành tâm thiện chí, thiếu cả ý ngay lành.
Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh trước sự ảo tưởng của ông: “Cáo có hang, chim có tổ, còn Con Người không chỗ gối đầu.” Ở đây, ta thấy rằng Chúa Giêsu không chiêu mộ đồ đệ theo kiểu tiếp thị ngày nay… Ngài nói rất rõ những điều kiện khắt khe cho những ai muốn theo ngài. Theo Ngài là phải chấp nhận sự bấp bênh thiếu an toàn tiện nghi: “Con Người không có chỗ tựa đầu.” Ngài không đưa ra một bảo đảm nào cho cuộc sống hiện tại. Có chăng là Ngài chỉ bảo đảm cho cuộc sống mai sau, tức là sự sống đời đời. Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là biết chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đôi khi cũng thiếu thốn cả những tiện nghi cơ bản của cuộc sống.
– Mẫu người thứ hai: Khác với người thứ nhất, người thứ hai không tự đề nghị theo Chúa mà chính Chúa Giêsu đính thân ngỏ lời cùng anh: “Anh hãy theo tôi!” Thái độ của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu là gì? Anh xin được về chôn cất cha anh trước đã. Thực ra ở đây phải hiểu là không phải cha người này vừa chết; ông ta vẫn còn sống. Ý của anh là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi đã, rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo. Có thể nói anh ta là một người rất tốt, rất có hiếu. Nhưng đề nghị của Chúa Giêsu có vẻ như rất phủ phàng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết”, tức là để cho người thế gian lo việc thế gian. Như vậy rõ ràng điều kiện thứ hai của người đi theo Chúa là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình, nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn. Tin Mừng phải có chỗ đứng trên hết, các giá trị Tin Mừng phải được đề cao tuyệt đối, sứ mạng loan báo Nước Chúa phải có tầm quan trọng và cấp thiết hơn tất cả các nghĩa vụ khác. Ngoài ra còn cần phải biết phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa nữa.
– Mẫu người thứ ba: Chính anh tự nguyện xin theo Chúa Giêsu. Nhưng anh lại xin thêm một ân huệ: “Xin cho phép tôi về từ biệt gia đình tôi trước đã.” Thỉnh nguyện của anh ta xem ra chính đáng, nhưng thực sự anh ta vẫn còn dây dưa, chưa dứt khoát, anh vẫn còn để cho những chuyện tình cảm riêng tư ràng buộc, giống như kiểu đi tu rồi nhưng tạm thời xin về một thời gian để chia tay với người yêu. Lời đáp của Chúa Giêsu khiến ta nhớ lại chi tiết trong Bài đọc I. Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình. Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình cho Êlisê (áo choàng tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ). Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng với lời nài xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia. Dù sao đây cũng là một hình ảnh tuyệt đẹp về ơn gọi rồi.
Thế nhưng nếu xưa kia Êlia đồng ý cho Êlisê được phép về từ giã cha mẹ trước, thì hôm nay Chúa Giêsu lại không đồng ý. Điều kiện Ngài đưa ra là phải dứt khoát, hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi. Không bắt cá hai tay, không để những tình cảm trần thế (dẫu là tình cảm gia đình) chi phối và ràng buộc: “Cầm cày không ngoảnh lại.”
Theo văn mạch thì Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là thương khó tử nạn và phục sinh. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Tuy nhiên, người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
Như vậy, điều kiện thứ ba mà Chúa dạy là phải chấp nhận quên đi quá khứ đời mình. Quá khứ đó có thể là những quyến luyến tình cảm phù du, những ước mơ trần tục, kể cả những mặc cảm tội lỗi xa xưa,… đồng thời phải dứt khoát với mọi thứ ràng buộc, vì người theo Chúa cần có một con tim không san sẻ để luôn biết lo cho vinh quang Nước Trời.
Tôi có thuộc mẫu người nào trong 3 mẫu người trên không? Có khi nào tôi thuộc cả 3 mẫu người cùng một lúc hay không? Có thể lắm. Đó là khi tôi theo Chúa mà thiếu thành tâm thiện chí, thiếu ý ngay lành; tôi theo Chúa mà không dứt khoát từ bỏ những ràng buộc trần thế; và nhất là chưa biết ưu tiên cho các giá trị Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các thứ khác ngài sẽ ban cho sau.” Những ai tin tưởng điều này và ưu tiên chọn lựa Chúa và các giá trị Tin Mừng trong đời sống, chắc chắn họ luôn xứng đáng là những người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, và chắc chắn sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn cho dư dật. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxiiithuongnienc #suyniemloichuagpbr