CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MỘT ÁNH MẮT, MỘT LỜI NÓI – Chú giải của Fiches Dominicales 15
NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 24
ƠN GIẢI THOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 39
MÙA CHAY, MÙA CANH TÂN– Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng 56
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 65
TÌNH THƯƠNG THA THỨ VÀ BIẾN ĐỔI – Lm. Đan Vinh HHTM.. 69
TA KHÔNG KẾT TỘI CHỊ- Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 88
ĐỪNG KẾT TỘI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 93
AI SẠCH TỘI?- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 97
TRỞ VỀ VỚI NỘI TÂM- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 102
TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ- Lm. Fx. Lê văn Nhạc.. 106
PHIÊN TÒA CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB 112
TỬ HÌNH HAY CỨU SỐNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 118
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ðây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa là Ðấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Ðấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
Xướng: Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Xướng: Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
Xướng: Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Bài Ðọc II: Pl 3, 8-14
“Vì Ðức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Ðức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại.
Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Ðức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b
Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”.
Phúc Âm: Ga 8, 1-11
“Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Ðó là lời Chúa.
TỪ NAY ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA (*)- Chú giải của Noel Quession
Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ
Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. “Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng mình… Chị ta đáng chết… luật lệ đã rõ ràng” (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó
Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người
Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi. “Ông ấy ăn uống với người tội lỗi”. Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là “vụ xử án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.
Vụ án biểu tượng:
Bị cáo: Một người phụ nữ.
Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu
Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê.
Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Bị cáo: Đức Giêsu
Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu
Tội phạm: Phạm thượng
Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ…Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến “lãnh vực khác”.
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê” hay trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.
Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động “điếm đàng”. Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ “lần lượt” âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, “không lên án” chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc… Chị ta đã thoát chết… Chị không còn là người “ngoại tình” nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự “khốn khổ” đối với “lòng xót thương”, Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả” (Ga 8,l5). “Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ ” (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: “Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
“Đừng phạm tội nữa”. Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu thôi… ” Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY – C
MỘT ÁNH MẮT, MỘT LỜI NÓI – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1/. Trước bẫy giăng của đối thủ
Câu chuyện quí giá này tự nó có thể là một Tin Mừng nhỏ mà cốt lõi là: Đức Giêsu từ nơi Thiên chúa đến, không phải để tố cáo tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ, và nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người dâng tặng họ chính sự sống của Thiên Chúa. Một văn bảo, nhưng sự có mặt của nó trong các bản văn Tin Mừng bị nghi ngờ. Các thủ bản đầu tiên của thánh Gioan không có. Với những lý do tương cận về văn thể và từ ngữ, các thủ bản của thánh Luca lại đặt câu chuyện sau Lc 21, 38.
Tại sao có sự do dự này? A. Marchadour giải thích: “Câu chuyện thì xác thực nhưng, các vị lãnh đạo Giáo Hội sơ khai ngại sự phóng túng. Ngoại tình bị coi như một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Đức Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, một số vị chức trách cho là quá dễ dãi quá. (Họ quên mất câu “Hãy về và đừng phạm tội nữa”). Dễ dãi thế đe doạ sự trung tín trong hôn nhân” (“L’Eavngile de Jean”, Centurion 1992. trg 121).
Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Đức Giêsu lên núi Ôliu. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.
“Các kinh sư và những người Pharisêu thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Đức Giêsu làm đảo lộn tất cả, nên họ quyết định trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ “bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình”. Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào “giữa” đám đông đang tụ họp và nói với Đức Giêsu: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Bẫy đã giăng, thoát thế nào được! Tha, Đức Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Đức Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Đức Giêsu. Tệ thật! Đây không còn là một vấn nạn nơi lớp học, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người thiếu phụ cũng như đối với chính Đức Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Đức Giêsu “cúi xuống” và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.
Các nhà chú giải rất quan tâm tìm hiểu xem Đức Giêsu viết gì trên đất? Thánh Hiêrônimô nghĩ: Người vạch tội những kẻ tố cáo. Nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia (17,l3): “tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất “. A. Marchadour cho rằng: “Tốt nhất nên trung thành với sự mơ hồ của bản văn. Đức Giêsu vạch trên đất để kéo dài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng”. (sđd; trg 124).
Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Đức Giêsu “cúi xuống”, rồi “ngước lên”. X. Léon-Dufour thắc mắc: “Sao lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy?” Rồi trả lời: “Tên núi Ôliu được nhắc đến ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Đức Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đến sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Đức Giêsu sẽ hoà giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa” (“Lecture de l’evangile selon Jean”, Cerf, tập 2, trg 313).
2/. Trước hết, câu trả lời của Đức Giêsu là sự thinh lặng.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Đức Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: “Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi”. (Dnl 13,9-10 và 11,7: “Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước). Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu đinh ninh mình công chính, nấp sau luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Đức Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan toà phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như “người phụ nữ kia”, người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất”.
3/. Rồi lời giải thoát đến:
Khi Đức Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”.
Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là “hạng đàn bà đó” một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: “Này chị”. Hơn bất cứ ai khác, Đức Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa “.
Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Đức Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện “độc giả cũng thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc, nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa” (x. Léon-Dufour, Sđd, trg 332).
BÀI ĐỌC THÊM:
1/. Một mạc khải sâu xa về bản chất của tội lỗi
Câu chuyện là hạt ngọc quí của Tin Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ để cứu vớt một phụ nữ ngoại tình, một kẻ tội lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt vời này khi cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối với những yếu đuối nhân loại, sự khoan dung mà các bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.
Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là một mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi, và bản chất của sự tha thứ… theo cái nhìn của Thiên Chúa.
Tội lỗi, trước tiên là một thực tại loài người, rồi là một thực tại của lòng tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con người, các nhà xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm nam, nữ, gia đình, cộng đồng… không thể vận hành nếu như không có một số luật lệ, cấm đoán. Không trộm cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi. Không ngoại tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng này cách trái ngược: Đức Giêsu kết án tội ngoại tình là điều rất rõ. ” Đừng phạm tội nữa”.
– Ý niệm về lỗi phạm… Nếu trẻ em thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin cũng có cả một số người lớn còn ấu trĩ như vậy-, thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về điều cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng: những điều người ta cấm họ tác hại đến cá nhân họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ hoại một điều gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một thiếu sót nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở một mức cao hơn, theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm gián đoạn “mối tương quan với Thiên Chúa”. Chúa nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội lỗi chính là sự đứt đoạn tình yêu với Cha: người ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay, Tin Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví tội của Israel như hành vi ngoại tình, phản bội giao ước giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các ngôn sứ thì ví loài người như một người vợ bất trung đối với chồng. Cắt đứt giao ước tình thương. Xúc phạm một ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực và sâu xa về tội lỗi.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, người ta chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các thánh là những người sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp và lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và yêu thương ta vô cùng. Chính chúng ta làm tổn thương “khuôn mặt” của Người… nơi chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
2/. Một lời nói và một ánh mắt giải phóng và cứu độ.
Những người Pharisêu tốt lành và trung thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường. Hy sinh người phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu người phụ nữ. Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn với những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha cho chị thì phạm pháp vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo sẽ chính là Đức Giêsu.
Sẽ không có sự kết án, cũng không có viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên chính những kẻ gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị trí, nguyên cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội. Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến nỗi hư hỏng và tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công chính và trung tín như các ông tự phụ.
Một bài học thật là nặng nề, khó chịu nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công chính theo Tin Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền thống mà các ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất phát từ lòng hẹp hòi của con người. “Đừng nghĩ tới chuyện xa xưa nữa. Hãy quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một thế giới mới: Nó đang hình thành. Các ngươi có thấy không? “
Phán quyết của Chúa là lời tha thứ. Sự tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi lầm và trong quá khứ. Anh mắt và lời nói của Đức Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái răng sắc nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt, những cái nhìn kết án như viên đạn xuyên tim. Cơn giận giả dối của “những người công chính” cho rằng mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn sẵn sàng trừng phạt tội người khác.
3/. Một vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta. (“Célébrer”, tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 217, trg 26).
Ai cũng khát vọng một thế giới mới. Ai cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò bó (trong Xã hội cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc hôm nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ phá tung ngục tù của thất vọng (bài đọc I), làm tan vỡ khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc tư riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của những lời kết án (Tin Mừng).
Trong hoang mạc của chủ nghĩa pháp chế khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có trách nhiệm vọt lên như một dòng suối trong mát. Ngay đối với những người Pharisêu khô cằn về luân lý, Chúa Giêsu vẫn có thể cấy trồng sự sống khi làm cho họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ nhận ra rằng họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy có hy vọng vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống độc đoán và hay kết tội người khác.
Người mở trước mắt ta cái nhìn nhận ái đích thực về mọi lời: cái nhìn không đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt vọng của quá khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta tiến bước. Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương lai.
Vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta cùng cái nhìn tái tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và ” sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ hội cảm nghiệm quyền năng của sự phục sinh đó sao. Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới. Dân được cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối vào tương lai.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
NGƯỜI PHỤ NỮ NGOẠI TÌNH(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt với quá khứ để mà hướng đến một cuộc sống mới.
Is 43: 16-21
Qua ngôn sứ I-sai-a, Đức Chúa loan báo rằng Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon: quên đi quá khứ ô nhục, nước hằng sống sẽ tuôn trào trong miền đất khô cằn.
Pl 3: 8-14
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô rút ra một bài học vĩ đại: đoạn tuyệt quá khứ gắn bó với luật Mô-sê để kết hợp với chỉ một mình Đức Ki-tô.
Ga 8: 1-11
Tin Mừng thuật câu chuyện người phụ nữ ngoại tình có nguy cơ bị ném đá. Khi ban cho chị ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đức Giê-su giải phóng chị khỏi tội lỗi và sự nhục nhã, đồng thời mở ra cho chị một cuộc sống mới.
BÀI ĐỌC I (Is 43: 16-21)
Đoạn văn này được trích từ “Sách An Ủi” của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ ở giữa những người lưu đày thời Ba-by-lon. Ông an ủi họ khi loan báo rằng họ sắp được giải phóng và hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Những người lưu đày bất hạnh này nghi nan ngờ vực. Một biến cố như thế làm thế nào có thể xảy đến được? Họ đã mõi mòn ngóng trông gần suốt năm mươi năm rồi. Vị ngôn sứ cũng nhắc họ nhớ đến những việc kỳ diệu Đức Chúa đã thực hiện để giải phóng cha ông họ khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập: Đấng đã mở lối giữa sóng nước oai hùng để cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và đã chôn vùi chiến mã với kỵ binh hùng mạnh của Pha-ra-ô trong lòng biển cả, lại không thể đánh bại đế quốc Ba-by-lon với binh hùng tướng mạnh sao?
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập được ghi khắc trong tâm trí của dân Ít-ra-en như biến cố tiêu biểu, bảo chứng cho những lần Thiên Chúa can thiệp trong tương lai để ra tay cứu giúp dân Ngài, đó là nền tảng đức tin và đức cậy của họ. Đó là những ý tưởng mà vị ngôn sứ gợi mở cho đồng bào của mình: Đức Chúa sẽ ra tay cứu độ họ. Không có lý do gì phải thất vọng cả.
Một thế giới mới:
Ngôn sứ I-sai-a kêu mời dân chúng đừng nhìn lại quá khứ như một niềm hối tiếc, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa để thấy một điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp làm cho dân Ngài: “Đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Nay Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?”. Ngôn sứ I-sai-a đặt mọi niềm hy vọng của mình vào vua Ba tư, vị vua tiến quân như vũ bảo và chắc chắn sẽ sớm đánh bại đế quốc Ba-by-lon.
Bằng những biểu tượng, vị ngôn sứ gợi lên giờ hồi hương trở về trong vinh quang, những giây phút lạ lùng đến mức sa mạc sẽ không còn vùng đất hoang vu khô cằn nữa, những loài dã thú sẽ không còn hung tợn nữa. Đó sẽ là như một cuộc tạo dựng mới.
Biểu tượng của nước:
Thế giới mới này sẽ sinh ra dưới dấu hiệu của nước: “Vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta được tuyển chọn được giải khát”. Vị ngôn sứ biết rất rõ rằng trên đường hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem, một trong những khó khăn sẽ là băng qua sa mạc Xy-ri Pa-lét-tin. Chẳng sao cả, Thiên Chúa sẽ cho nước tuôn tràn. Trong Kinh Thánh, đề tài nước không chỉ gợi lên yếu tố tự nhiên đem lại sự sống cho thiên nhiên, nhưng còn là biểu tượng sức sống thần thiêng. Đề tài này chạy xuyên suốt Cựu Ước; chúng ta có thể trích dẫn biết bao ví dụ. Mối liên hệ giữa nước và thần khí được gặp thấy trong Cựu Ước (Ed 47: 9) và sẽ được lấy lại trong Tin Mừng (Ga 7: 37-39).
Trở về cùng Thiên Chúa:
Linh đạo mà vị ngôn sứ gợi lên ở đây là cuộc trở về cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ tha thứ và đổ tràn muôn phúc lộc của Ngài: “Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta”. Vào Chúa Nhật V Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị ngôn sứ thời lưu đày này, và qua những hình ảnh tiên trưng, hiểu cuộc sống phong phú của các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Tẩy.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 8-14)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này được trích từ chương 3, trong đó thánh nhân cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái, đừng gắn bó với luật Mô-sê và tìm cách áp đặt vài đòi hỏi luật này trên những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô trình bày cho họ biết thánh nhân đã được hướng dẫn như thế nào để đoạn tuyệt với Lề Luật. Cung giọng vừa tâm sự vừa xác tín là nét đặc trưng của thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này, vì thánh nhân đã kinh qua những dằn vặt đau đớn mới có thể đoạn tuyệt với luật Mô-sê.
Đoạn tuyệt với quá khứ:
Thánh Phao-lô vừa mới kể ra tất cả những đức tính mà xưa kia thánh nhân đã tự hào tự phụ: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi” (3: 5-7). Cũng vào thời kỳ này, thánh nhân viết cho tín hữu Ga-lát-ta: “Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Pl 1: 14).
Thánh nhân nhắc lại cuộc sống xưa kia của mình đã khiến đồng bào của ngài phải nể phục. Tất cả những mối lợi này cho phép thánh nhân được liệt vào hàng công chính, thì nay thánh nhân công bố với tín hữu Phi-líp-phê ngài xem như đồ bỏ đi, như đồ rác rưởi kể từ khi được biết Đức Ki-tô.
Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát (thánh nhân ám chỉ một cách kín đáo) đã khiến cho niềm kiêu hãnh trước đây của thánh nhân bổng chốc tan thành mây khói. Thánh Phao-lô quả quyết rằng được như vậy, không phải do công trạng của thánh nhân trong việc tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng nhờ niềm tin vào Đức Ki-tô, đó là sự công chính nhưng không do Thiên Chúa ban. Một lời tự thú huy hoàng nhưng biết bao đớn đau.
Sự công chính là một thiên ân:
Ở đây, chúng ta gặp thấy đề tài cốt yếu về sự công chính do lòng tin chứ không do việc tuân giữ Lề Luật, đề tài mà thánh Phao-lô sẽ khai triển rộng lớn trong thư gởi tín hữu Rô-ma. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê mô tả cho chúng ta nguồn gốc tâm lý và hiện sinh về đề tài này, nhờ đó tránh mọi lời giải thích sai lầm.
Đức tin mà thánh nhân đề cao là một đức tin huy động toàn thể con người. Người Ki-tô hữu được sánh ví như một lực sĩ chạy đua trên thao trường, nhất quyết dồn hết mọi sức lực của mình, lao mình về phía trước, chạy thẳng tới đích để mong chiếm lấy phần thưởng. Thay vì tuân giữ nghiêm nhặt những huấn thị nghi thức của Lề Luật, người Ki-tô hữu nhắm một điều thiện tuyệt mức: được biết Đức Ki-tô.
Biết Đức Ki-tô:
Thuật ngữ “biết” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh mà thánh Gioan thường hằng sử dụng: một chuyển động của cả trí tuệ lẫn tâm tình, một sự kết hợp của cả khối óc lẫn con tim, một sự hiểu biết không suy luận nhưng dẫn đến mối tâm giao: “Vấn đề là được biết Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người”. Tiến trình hiểu biết này là tiến trình mà thánh Phao-lô theo đuổi. Lộ trình thông thường của người Ki-tô hữu thì ngược lại. Thánh Phao-lô cũng định nghĩa lộ trình ngay liền: “nhờ đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”. Vả lại, đây là điều mà thánh nhân miệt mài sống trong sứ mạng của mình, khi theo đuổi cuộc đua vẫn chưa đến đích, nhưng “đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt”.
Bài học:
Bài học mà thánh Phao-lô muốn rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của ngài, gởi đến các Ki-tô hữu Phi-líp-phê gốc Do thái này nhằm khai mở cho họ hiểu vấn đề đức tin của họ: đức tin là kết hợp với Đức Ki-tô chứ không gắn bó với những hình thức bên ngoài. Nguồn mạch và nguyên lý về sự tự do của người Ki-tô là ở đó. Về sự tự do tối thượng này, thánh nhân có thể nói ở nơi khác, khi nhắc nhở rằng điều cốt yếu của Lề Luật từ nay được chứa đựng ở nơi một nguyên lý duy nhất: mến Chúa và yêu người. Về vấn đề này, lời nhận xét trong sách “Mỗi Ngày Một Tin Vui” thật thích đáng: “Ki-tô giáo thiết yếu không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ hay phải tránh. Quan niệm Ki-tô giáo như thế dễ đưa người tín hữu đến thái độ tính toán so đo, tự phụ; sống đạo dễ trở thành một thứ biểu dương bên ngoài. Chúa Giê-su đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo: đạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người; sống đạo là đón nhận tình yêu ấy và đáp trả với tất cả lòng tín thác và quảng đại” (“Mùa Vọng-Giáng Sinh, Mùa Chay-Phục Sinh”, tr. 158).
TIN MỪNG (Ga 8: 1-11)
Câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” này là một trong những câu chuyện rất cảm động về tấm lòng xót thương của Đức Giê-su; tuy nhiên, đề tài này là đề tài rất tâm đắc của thánh Lu-ca chứ không của thánh Gioan. Xét về phương diện văn phong, ngôn từ, câu chuyện này gần với Tin Mừng Lu-ca hơn Tin Mừng Gioan. Ngoài ra, câu chuyện này không được gặp thấy trong các bản sao chép cổ nhất của Tin Mừng Gioan. Hơn nữa, các Giáo Phụ Hy-lạp dường như đã không biết đến bản văn này, ngoại trừ thánh Giê-rô-ni-mô (thế kỷ thứ tư) biết và chú giải câu chuyện này. Trong bản dịch La-tin của thánh nhân, câu chuyện cảm động này được đưa vào vị trí của Tin Mừng Gioan như hiện nay.
Bối cảnh:
“Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống và giảng dạy họ”. Bài trình thuật bắt đầu từ buổi chiều sau một ngày Chúa Giê-su thuyết giáo trong Đền Thờ: “ai nấy trở về nhà mình” (7: 53), còn Chúa Giê-su thì lên núi Ô-liu qua đêm một mình, và sáng sớm Ngài trở lại Đền Thờ tiếp tục giảng dạy cho dân chúng như thói quen của Người. Bối cảnh này rất phù hợp với Tin Mừng Lu-ca: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy” (Lc 21: 37-38).
Nếu câu chuyện người phụ nữ ngoại tình này thuộc về Tin Mừng Lu-ca, nó được định vị vào những ngày cuối cùng Đức Giê-su giảng dạy ở Đền Thờ, trước cuộc Tử Nạn của Ngài, và báo cho biết những cạm bẫy mà những đối thủ của Ngài giăng ra cho Ngài: nguồn gốc về quyền bính của Ngài, nộp thuế cho Xê-da, kẻ chết sống lại (Lc 20: 1-47).
Tiến thoái lưỡng nan:
“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang”. Luật Mô-sê rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình, được đặt vào số những hành vi gây thiệt hại đến người thân cận. Người thân cận bị thiệt hại ở đây là người chồng. Tội không chung thủy của người chồng chỉ bị trừng phạt trong trường hợp gian díu với một người phụ nữ đã lập gia đình, vì làm thiệt hại đến người chồng của người phụ nữ này. Theo Luật Mô-sê, người phụ nữ ngoại tình, cũng như người tòng phạm, bị kết án ném đá (Đnl 22: 22-23).
Cạm bẩy mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu giăng ra cho Chúa Giê-su tương tự với vấn đề nộp thuế cho Xê-da (Lc 20: 21-25). Nếu Ngài khuyên nên khoan dung tha thứ, thì Ngài vị phạm luật Mô-sê. Nhưng nếu Ngài tán thành việc ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài vi phạm luật Rô-ma theo đó người Do thái không được phép thi hành án tử (Ga 18: 31). Ngoài ra, nếu Ngài chấp nhận ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài mâu thuẫn với chính mình: tiếp đón những người tội lỗi và rao giảng tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy, câu hỏi của họ“Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” đặt Chúa Giê-su vào thế “tiến thối lưỡng nan”.
Thái độ của Chúa Giê-su:
“Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Việc Chúa Giê-su giữ thái độ thinh lặng nêu lên biết bao điều. Trước hết, xem ra Ngài không quan tâm đến vấn đề này, vì có những quan tòa ở Giê-ru-sa-lem, Ngài không phải thay thế vai trò của họ; đó không là trách nhiệm của Ngài. Tuy nhiên, lập luận này không thể đứng vững, vì trái ngược với cách hành xử thông thường của Ngài: làm thế nào Ngài có thể khoanh tay đứng nhìn để cho người ta hành động ngược lại tấm lòng xót thương của Ngài được chứ?.
Chúng ta thử nghĩ đến tình cảnh thật ê chề nhục nhã mà người phụ nữ này phải đối mặt. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị dẫn đến vào tảng sáng; đám người đến nghe Chúa Giê-su trong lòng Đền Thờ đã đông rồi. Mọi ánh mắt chất chứa những điều đê hèn, giả tâm, nhìn chòng chọc vào người phụ nữ. Đối với người phụ nữ này, những ánh mắt kia đã là những lời xét đoán rồi, hơn những lời xét đoán, còn là những lời kết án nữa; vì thế, việc Chúa Giê-su giữ thái độ im lặng cúi xuống viết trên đất là để tránh cho người phụ nữ đáng thương này thêm một ánh mắt xét đoán nữa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su có sứ điệp phải truyền đạt cho chị; nhưng trước tiên, Ngài phải có việc cần tính sổ với những kẻ đòi lên án chị. Cái thinh lặng của Ngài là cái thinh lặng hùng hồn của các bậc hiền nhân. Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đắc chí, tưởng rằng đã dồn Ngài vào thế bí nên cố nài ép Ngài trả lời.
Đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình:
Vì người ta cố nài ép, Đức Giê-su đứng dậy và đưa ra ý kiến của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả của Đức Giê-su là câu trả lời bất ngờ nhất, nằm ngoài mọi dự đoán của mọi người. Chúa Giê-su không phải không thừa nhận Lề Luật; thậm chí khi phát biểu ý kiến của mình như vậy, Ngài dựa trên các bản văn của sách Đệ Nhị Luật: “Các nhân chứng phải là người đầu tiên phải tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp theo sau” (x. Đnl 13: 10 và 17: 7). Nhưng đồng thời, Ngài đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Ngài: nội tâm hóa luật luân lý.
Đoạn, tiếp tục từ chối ánh mắt phán xét của quan tòa, Đức Giê-su lại cúi xuống viết trên đất, để cho tâm trí mình chìm sâu trong cõi xa xăm nào đó như thử chẳng quan tâm đến những gì đang diễn ra chung quanh Ngài. Ở đây nữa, Ngài không muốn đưa ánh mắt nghiêm khắc nhìn những người mà Ngài mời gọi họ hãy tự phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai.
Chỉ còn lại một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương:
Mọi người đều đã bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất, những người sáng suốt nhất hay những người có tiếng lương tâm nhạy bén nhất do từng trải cuộc đời.
Thánh Âu-tinh nhận xét rất tinh tế: “Chỉ còn lại hai người: một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương”. Quả thật, cuộc đối thoại ngắn gọn sau cùng giữa Chúa Giê-su và tội nhân thật cảm động, không bút mực nào diễn tả được:
– “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
– “Thưa Ngài, không có ai cả”.
– “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chỉ mình Ngài là Đấng thanh sạch mới có thể ném đá chị; ấy vậy, Ngài đem đến cho chị lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa không là thái độ nhu nhược mà là sự giải thoát: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ mở ra một khởi điểm mới. Đó là thế quân bình tế nhị giữa hai nhân đức gần như mâu thuẫn nhau: sự công bình không cho phép Chúa Giê-su dung thứ tội lỗi, nhưng lòng xót thương buộc Ngài phải tha thứ tội nhân. Tội nghịch lại Thiên Chúa và anh chị em của mình phải loại trừ, nhưng tội nhân là đối tượng lòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào khả năng hoán cải của bất kỳ một ai. Như vậy, Luật không bị hủy bỏ như vài người lo sợ, nhưng trở nên “nhân đạo”, mở ra con đường sống và cứu độ. Thánh Giáo Phụ I-rê-nê đã quả quyết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Đây thật sự là một câu chuyện tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo lẫn người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giê-su lòng thương xót hay tha thứ của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng xót thương với người thân cận. Người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giê-su, đã trải nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về đạo lý cứu độ của Đức Giê-su.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ƠN GIẢI THOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Chủ đề nổi bật của ngày hôm nay là Ơn Giải Thoát
– Trong bài đọc I (Is 43,16-21), ngôn sứ Isaia tiên báo rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện một cuộc xuất hành mới để giải thoát dân do thái khỏi cảnh lưu đày.
– Bài đáp ca trích Tv 125 được soạn sau khi cuộc lưu đày đã kết thúc. Tác giả ca tụng công cuộc giải phóng kỷ diệu ấy : “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ”.
– Bài Tin Mừng (Ga 8,1-11) kể chuyện Chúa Giêsu giải thoát người phụ nữ ngoại tình khỏi bị ném đá.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay với ý thức mình là người tội lỗi. Lời Chúa trong các Chúa nhật trước an ủi chúng ta rằng Chúa vẫn yêu thương chúng ta và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Hôm nay, Chúa lại nói với chúng ta, như đã nói với người phụ nữ ngoại tình, rằng “Ta không kết án con đâu. Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Thiên Chúa thật là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Ngài trong Thánh lễ này với trọn tâm tình tin yêu phó thác.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Mặc dù chúng ta đầy dẫy khuyết điểm, nhưng chúng ta hay bắt bẻ khuyết điểm của người khác.
– Mặc dù chúng ta tội lỗi rất nhiều, nhưng chúng ta hay lên án người khác.
– Chúng ta không đối xử khoan dung với người khác như Chúa đã khoan dung với chúng ta.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 43,16-21)
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân do thái đang bị lưu đày bên Babylon.
Trước hết Isaia nhắc họ nhớ lại chuyện xuất hành ngày xưa : Thiên Chúa là Đấng giải thoát. Để giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập, Ngài đã rẻ đôi Biển đỏ, đã nhận chìm quân đội Pharaon trong Biển cả.
Tiếp đến, ngôn sứ hứa là Thiên Chúa sẽ thực hiện việc giải phóng đó một lần nữa, tức là giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày : “Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”
Đáp ca (Tv 125)
Ca tụng việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh lưu đày : “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ”.
Tin Mừng (Ga 8,1-11)
Câu chuyện về người phụ nữ này giống một bức tranh trong đó các hình ảnh đối chọi nhau nhưng lại làm nổi bật nhau lên :
– Một bên là một con người tội lỗi rõ ràng vì bị bắt quả tang đang phạm tội đáng chết, bên kia là Con Thiên Chúa thánh thiện vô cùng.
– Một bên là thái độ hung hăng của những người biệt phái đòi giết kẻ có tội, bên kia là thái độ nhân từ hiền hậu của Đấng cứu thế.
Bởi đó thánh Augustinô đã tóm ý nghĩa bức tranh này bằng một câu ngắn gọn rất súc tích : “Miseria et misericordia” (Sự cùng khốn và lòng thương xót).
Bài đọc II (Pl 3,8-14)
Thánh Phaolô đề cao sự công chính mà Chúa Giêsu ban. Đây không phải là sự công chính do Luật Môsê đem lại (như các người biệt phái trong bài Tin Mừng) mà nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô (như người phụ nữ ngoại tình).
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tình cảm thứ tám
Người ta thường nói rằng con người chúng ta có 7 thứ tình cảm là Hỉ Nộ Ai Cụ Ái Ố Dục. Hỉ là vui, nộ là giận, ai là buồn, cụ là sợ, ái là thương, ố là ghét và dục là muốn. Tất cả gồm 7 tình cảm, “thất tình”. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thêm một thứ tình cảm nữa, đó là Thương Xót.
Thương xót là gì ? Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót).
Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào ? Lên án chăng ? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng ? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu : Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi ? Chúng ta cũng hãy tìm lý do trong bài Tin Mừng này. Và chúng ta tìm gặp trong câu Chúa nói với những người muốn giết người phụ nữ ngoại tình ấy : “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi”. Vậy lý do là bởi vì ai cũng có tội. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội : “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ : “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi” (Mt 18,33)
Một quyển sách tựa đề “Tình trên non cao” kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng “Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá !” Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, anh cũng bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố bò về tận cửa nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng lết tới cửa, nhưng chị nhất định không mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ không biết thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Cuộc đời quả thật không đơn giản trắng là trắng, đen là đen, tốt là tốt xấu, là xấu. Trong một dụ ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta biết cuộc đời phức tạp như một mảnh ruộng có cả lúa và cỏ lùng lẫn lộn (Mt 13,36-43). Lòng người cũng thế, có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là, xin lặp lại một lần nữa, biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời.
Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.
* 2. Tội bắt quả tang
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói : “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp. Vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo :
– Ta nghe tục ngữ có câu : “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không ? Tổng Hoằng liền quì xuống tâu :
– Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị : “Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc”.
*
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn được Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó : “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi” (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tột ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, dấu diếm những hành vi tội lỗi để không bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ là để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng ? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân : “Tôi không lên án chị đâu ? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa !” (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
*
Lạy Chúa, chúng cơn rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ xét đoán anh em của mình. Amen.(TP)
Cái nhìn
“Tôi đứng dưới chân đồi,
Nhìn xa xa lên ngọn đồi, tôi thấy một cái bóng giống như một con vật.
Tiến lên nhìn gần hơn một chút, tôi nhận ra cái bóng ấy là một con người.
Tiến sát hơn nữa để nhìn cho thật kỹ, tôi nhận ra đó là người anh em của tôi.”
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một bài học quý giá về cách nhìn người và nhìn việc : đứng trước một người vừa mới làm một việc gì đó lầm lỗi, ta đừng nhìn bằng cái nhìn của biệt phái mà hãy bằng cái nhìn của Chúa Giêsu :
a/ Đừng nhìn họ như nhìn một con vật mà hãy nhìn như nhìn một con người, hơn nữa, như người anh em của mình.
b/ Đừng chỉ nhìn những hoàn cảnh bên ngoài, mà hãy nhìn thấu những tình tiết, tâm trạng bên trong của người anh em đó.
c/ Và cũng nhìn đến sứ mạng của mình : sứ mạng đối xử nhân bản với một người anh em, sứ mạng cứu vớt người anh em đó.
Chuyện minh họa
Có chuyện kể rằng người ta bắt được một tên trộm cắp đưa đến nhà vua, và nhà vua đã hạ lệnh giết hắn. Tên trộm cắp này rất khôn ngoan, nên nói với đao phủ : “Tôi có một bí mật này rất quý. Nếu tôi chết thì bí mật ấy cũng bị mang theo. Thật là uổng. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua”. Người ta dẫn hắn tới nhà vua. Hắn nói : “Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, đào lỗ chôn xuống đất thì nội trong một đêm nó sẽ mọc lên thành cây và trổ ra toàn những trái bằng vàng”. Nhưng hắn nói thêm : “Nhưng có điều kiện này là chỉ người nào chưa từng lấy gì của người khác thì mới trồng hạt giống đó được”. Sau đó hắn thú nhận : “Tôi thì là một thằng ăn cắp nên không thể trồng được rồi. Vậy trong số các quan đây, ai chưa từng lấy gì của người khác hãy trồng nó đi”. Các quan lần lượt viện cớ để từ chối, giống y những người biệt phái trong bài Tin Mừng này vậy. Cuối cùng tên trộm cắp nói với nhà vua : “Chắc là Bệ Hạ có thể trồng được”. Nhưng nhà vua đáp : “Nói ra thì thật xấu hổ. Hồi còn nhỏ, Ta cũng đã từng lấy của người khác vài lần”. Khi đó tên trộm nói : “Bệ hạ và các quan là những người có đầy đủ mọi thứ thế mà còn lấy của người khác mà không bị hình phạt gì cả. Phần tôi thì nghèo túng thiếu thốn mọi điều, thế mà lại bị xử tử vì tội lấy của người khác”. Nhà vua đành ra lệnh tha cho hắn.
Chuyện minh họa
a/ Lòng thương xót
Một người đàn bà đến với Vua Napoléon để cầu xin cho đứa con trai của bà khỏi bị xử tử. Nhà vua dựa vào Luật pháp và cho biết rằng theo luật thì con trai bà phải chết. Bà nói :
– Muôn tâu Bệ Hạ, tôi đến đây không phải để xin công lý mà xin lòng tho xót.
– Nhưng con bà không đáng hưởng lòng thương xót. Vua trả lời.
Nhưng bà lập luận :
– Nếu nó đáng thì đâu phải là lòng thương xót nữa.
Cuối cùng nhà vua phải chấp thuận :
– Được rồi. Ta sẽ tỏ lòng tương xót đối với nó.
Người con trai ấy đã được tha chết.
Lòng thương xót không phải là tiền công trả cho một điều gì xứng đáng, mà là một ơn ban miễn phí.
b/ Mù quáng
Từ xưa tới nay người ta vẫn coi vua Salomon là một người có tài xét xử khôn ngoan. Thế nhưng lại có một chuyện sau đây :
Vì đã xử nhiều vụ án quá nên nhà vua càng ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Nói cách khác, nhà vua càng ngày càng khô khan và khe khắt khi xử án.
Một hôm khi Salomon ngồi lên ngai và sắp sửa xử một vụ án, thì chiếc vương miện trên đầu vua bỗng tuột xuống che cả hai con mắt. Nhà vua lấy tay đẩy nó lên, nhưng chỉ một chút sau là nó lại sụp xuống. Sự việc tái diễn đến 8 lần như thế. Cuối cùng nhà vua bực quá nói với nó : “Tại sao mày cứ sụp xuống che mắt tao mãi như thế ?” Chiếc vương miệng trả lời : “Tôi phải làm thế để nhắc cho Ngài biết rằng : khi mà quyền hành đã mất đi sự cảm thông thì người cầm quyền sẽ bị che mắt như thế”. Nói cách khác, khi đó người ta sẽ thành mù quáng.
Mảnh suy tư
– Người nào càng thánh thiện thì càng ít xét đoán người khác.
– Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống.
– “Chị về đi, và đừng phạm tội nữa” : Chúa Giêsu không phủ nhận chị này có tội, nhưng Ngài muốn cho chị này một cơ hội để sám hối và làm lại cuộc đời. Chúa Giêsu không muốn chị này chối tội, bàu chữa tại sao chị phạm tội, hay đổ tội cho người khác, những cách làm này quá dễ nhưng không ích lợi gì. Ngài muốn chị can đảm nhìn nhận sự thật, không tuyệt vọng và khuyến khích chị sửa đổi. Đó mới là ơn giải thoát.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là vị Thẩm phán công minh đầy lòng từ bi nhân hậu. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
Hội thánh luôn nhắc nhở con cái mình hãy hòa giải với Thiên Chúa và với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / mau mắn thực hiện lời mời gọi tha thiết này.
Trong đời sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích phê bình chỉ trích / thậm chí lên án người khác cho thỏa lòng ganh ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu hiểu rằng / chỉ một mình Thiên Chúa là vị Thẩm phán công bằng / không bao giờ kỳ thị thiên tư.
Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết : / Ai nói rằng mình không có tội / đó là người nói dối / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình.
Chúa Giêsu nói với người phụ nữ : / Tôi cũng vậy / tôi không lên án chị đâu / Thôi chị cứ về đi / và từ nay đừng phạm tội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết lắng nghe lời Chúa dạy / và thực hiện lệnh Chúa truyền.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con : Anh em đừng xét đoán người khác, vì anh em xét đoán thiên hạ làm sao, thì Thiên Chúa sẽ xét đoán anh em làm vậy. Xin cho chúng con biết cố gắng sống lời Chúa để khỏi bị khiển trách khi ra trình diện trước tòa Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Nếu chúng ta thấy thái độ khắt khe của những người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay là sai trái, chúng ta hãy sốt sắng khi đọc câu “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
GIẢI TÁN
Những lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta : “Chúng con hãy về, và đừng phạm tội nữa”.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
MÙA CHAY, MÙA CANH TÂN– Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Ga 8: 1-11: Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em.
Các tuần trước Phụng vụ Lời Chúa mời gọi hoán cải và giao hòa với Thiên Chúa. Sự hoán cải và giao hòa chỉ có thể được thực hiện tốt đẹp khi chúng ta vui nhận cải cách chính đời sống nội tâm của mình.
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!” Đó phải là tiếng khẩn cầu của mỗi người. Tiếng khẩn cầu được cụ thể hóa bằng nỗ lực canh tân đời sống nội tâm để con tim có khả năng mở ra thế giới của Thiên Chúa, thế giới của tình yêu.
- Tìm Hiểu lời Chúa
*Bài đọc I: Is 43, 16-21
Một Cuộc Xuất Hành Tuyệt Vời
Dân Do Thái bị lưu đày ở Babylon. Thật là một bi kịch dài hàng năm trời! Isaia loan báo cuộc lưu đày đau khổ này sẽ chấm dứt, Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người: một cuộc xuất hành mới dẫn đưa dân về Giêrusalem, một sự đồng hành kỳ diệu ngạc nhiên hơn nữa.
Tiên tri Isaia khởi đầu bằng việc gợi lại kỷ niệm về những sự can thiệp của Thiên Chúa dành cho dân Người trong thời kỳ vượt qua sa mạc thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Luôn luôn trung thành, Thiên Chúa sẽ dẫn đưa dân của Người khỏi sự cầm giữ của Babylon. Người sẽ làm hơn những gì Người đã làm trong qua khứ.
Bản văn Kinh Thánh này là một bài học về niềm hy vọng. Bị giam hãm trong tội lỗi, chúng ta sống lưu đày xa Thiên Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ không bao giờ chê bỏ chúng ta nhưng luôn dẫn đưa chúng ta về quê hương đích thực của mình, nơi đó chính là Nước Trời, Giêrusalem mới.
*Bài đọc II: Pl 3, 8 –14
Hành Trình Chạy đến Đức Kitô
Trong đoạn thư gửi tín hữu Philipphê này, Thánh Phaolô nói với chúng ta cách ngắn gọn, Ngài đã thực hiện ra sao hành trình thiêng liêng của mình: Kể từ ngày nhận biết Đức Kitô, với Ngài tất cả đã hoàn toàn biến đổi. Biết Đức Kitô là mối lợi lớn lao hơn cả.
Dưới con mắt của Phaolô không có gì có gía trị hơn là việc nhận biết Đức Kitô. Thà chấp nhận thua thiệt tất cả để được Người chiếm hữu, để được Người hướng dẫn và để được trở nên giống Người.
Có một sự đòi hỏi phải thông phần vào cuộc thương khó và sự chết của Đức Kitô để rồi được phục sinh với Người. Thông phần cuộc thương khó là chấp nhận những thua thiệt, coi mọi sự như phân bón. Được Người chiếm hữu thì chắc chắn tương lai sẽ chiếm được phần thưởng từ trời cao trong Người.
Những lời của Thánh Phaolô hàm chứa một niềm hy vọng lớn lao, mở ra một tương lai tốt đẹp cho những ai tin vào Đức Kitô. Cuộc đời là một hành trình tin và chạy đến cùng Đức Kitô. Trên hành trình đó, hãy quên đi chặng đường quá khứ đã qua để chỉ biết nhắm tới đích điểm là Đức Kitô.
*Tin mừng: Ga 8, 1-11
Người Đàn Bà Ngoại Tình
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em. Người là Đấng Cứu Độ.
Theo luật Môsê, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình phải bị nén đá đến chết. Chúa Giêsu bênh vực người phụ nữ này.
Trước sự gài bẫy, thái độ khiêu khích của những người Biệt phái và Luật sĩ, Chúa Giêsu bình tĩnh đưa ra phán quyết: ai vô tội thì hãy ném đá người đàn bà tội lỗi trước đi. Không một nguyên cáo nào dám cho mình là vô tội, tất cả lặng lẽ rút lui, bắt đầu là những người lớn tuổi. Không ai có quyền kết án người khác, vì tất cả mọi người đều là tội nhân. Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét xử, mà án xử của Thiên Chúa là lòng khoan dung tha thứ.
“Ta không kết án chị, chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.” Tất nhiên khi tha thứ cho người đàn bà phạm tội bị bắt quả tang, không phải Chúa Giêsu dung thứ cho tội, để mạc cho người ta phạm tội. Chắc chắn Thiên Chúa không thỏa hiệp với tội lỗi, với ma quỉ. Người có sứ mạng đến để tiêu diệt chúng, nhưng lại cứu với người tội lỗi và mở ra cho họ một con đường mới. Con đường này đòi hỏi tội nhân phải từ bỏ con đường tội lỗi, làm lại cuộc đời để sống thánh thiện.
2/.Gợi Ý Suy Niệm
*Canh tân cuộc sống, một biểu hiện lòng thương xót của Thiên Chúa: Chúa Giêsu trước mặt người phụ nữ không hiện diện như một quan tòa, nhưng là một vị Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Tình yêu đã đưa Người thoát khỏi các dục vọng bè phái, thúc đẩy Người tha thứ nhưng không cho người phụ nữ. Và với tình yêu ấy cũng chắc chắn sẽ thúc đẩy người phụ nữ hoán cải và canh tân cuọc sống mình. Thiên Chúa không kết án nhưng lại thứ tha và mở ra một vận hội mới để hối nhân có thời cơ, điều kiện làm lại cuộc đời. Như thế, canh tân cuộc sống trước hết đó chính là một cơ hội Thiên Chúa ban cho con người. Ân hụê này Thiên Chúa ban vì Ngài là tình yêu, Ngài không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Canh tân cuộc sống được hiểu như một biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại để thấy rằng, nỗ lực canh tân không chỉ là chuyện cá nhân mà là mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Việc canh tân không chỉ là việc riêng của mỗi người mà là việc của cả Thiên Chúa lẫn con người. Do đó, sẽ thêm hy vọng, thêm niềm tin để thực thi canh tân. Cuộc sống của tôi dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn có Chúa đồng hành cùng tôi để dẫn tôi vượt qua khổ lụy tội đời tiến tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thánh Thần Thiên Chúa chính là tác nhân canh tân của thế giới, của Giáo Hội và của mỗi người. Lời khẩn cầu xin Ngài đến canh tân bộ mặt địa cầu phải là lời tha thiết từ cõi lòng mỗi người tước hết xin Ngài canh tân chính mình. “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!”
*Canh tân cuộc sống, một khát vọng đổi đời: Trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, con người trải qua biết bao thảm cảnh khổ đau: nghèo đói, thất học, bần cùng đến chiến tranh, tệ nạn xã hội. Con người như bị chôn vùi dưới đáy vực thẳm. Ai ai cũng khao khát vươn lên, ai ai cũng mang một khát vọng đổi đời. Đấy là một ước mơ chính đáng, một khao khát đúng đắn. Thiên Chúa luôn sẵn lòng thoả mãn ước mơ đó của nhân loại. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy nguyên nhân của thảm cảnh cuộc đời là vì con người tội lỗi và muốn giam hãm nhau trong tội lỗi, trong đau khổ. Những người Biệt Phái và Luật sĩ và cả đám đông dân chúng đều là những người tội lỗi, vậy mà họ lại không biết cảm thông tha thứ cho người phụ nữ. Đau buồn hơn họ còn lợi dụng tình trạng của chị ta để gài bẫy bắt tội Chúa Giêsu. Đối với họ không bao giờ có khát vọng đổi đời và ngay cả khát vọng của người khác họ cũng dập tắt. Họ luôn chìm ngập trong u mê, trong lầm lạc tọi lỗi của mình. Từ kinh nghiệm ấy, cho thấy rằng để có thể canh tân cuộc sống cần phải có khát vọng đổi đời. Khát vọng đổi đời chỉ đến khi biết nhận ra thảm cảnh cuộc đời của mình, của tha nhân.
*Canh tân cuộc sống, một từ bỏ quá khứ tội lỗi để khởi sự tương lai tươi sáng: Với lời tha thứ: ‘chị hãy về và đừng phạm tội nữa’, Chúa Giêsu đã mở ra một tương lai mới cho người phụ nữ. Chị vẫn trở về với đời sống thường nhật của mình, nhưng không phải trong tình trạng tội lỗi cũ nữa mà đã sang trang mới, một cuộc sống mới không phạm tội. Như thế, có nghĩa là một đời sống dứt bỏ qua khứ tội lỗi và những hệ luỵ của nó, để rồi từ đây là một đời sống thánh thiện, hoàn lương chu toàn nghĩa vụ của mình đối với gia đình cách tốt đẹp. Canh tân cuộc sống đòi hỏi một điều tất yếu là phải dứt khoát từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những đam mê bất chính và xây dựng một cách sống mới phù hợp Tin mừng. Đổi mới cuộc đời, làm lại cuộc đời tất cả chỉ là ngôn từ, là khẩu hiệu môi miệng nếu ngay từ trong tâm khảm không có một nỗ lực quyết tâm từ bỏ quá khứ sai lầm. Canh tân là một hành trình dài xuyên suất cuộc đời chứ không phải là một hành vi nhất thời, một cảm xúc tự phát hay một thái độ vào hùa theo phong trào. Từ bỏ luôn luôn là một mất mát, một chọn lựa mà Kitô hữu phải thực thi cả đời. Măc lấy con người mới trong Đức Kitô sống theo Thần Khí của Người luôn là một nỗ lực không ngừng. Vì con người vốn dĩ là yếu đuối, cuộc đời vốn dĩ luôn có cạn bẫy của ma quỉ.
Với Kitô hữu cuộc sống chúng ta hôm nay như thế nào? Có thực sự khao khát đổi đời? Ước muốn canh tân hay không? Hay chỉ là sự chậm chạp ngại thay đổi thích ở lỳ trong đam mê tội lỗi của mình?
3/.. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa qua Chúa Giêsu đã yêu thương tha thứ tội lỗi và kêu gọi đồng thời ban ơn để chúng ta sống đời sống mới. Với lòng biết ơn và tin tưởng vào tình yêu của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
- Sau Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh không ngừng canh tân đời sống của mình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho công cuộc canh tân của Hội Thánh ngày càng phát triển hơn trong thời đại chúng ta.
- Xã hội và con người trong thế giới hôm nay không ngừng phát triển trên mọi lãnh vực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia có được một tinh thần đổi mới triệt để trong cách nhìn và trong hành động để đưa dân nước mỗi ngày một đi lên hơn.
- Canh tân cuộc sống theo ánh sáng Tin mừng luôn là một đòi hỏi của Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong chúng ta đây luôn đón nhận được ơn Chúa để hàng luôn đổi mới cuộc sống của mình làm cho bản thân và gia đình cũng như cộng đoàn ngày càng thấm đượm những gia trị Tin mừng và tình yêu Thiên Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì yêu thương Chúa đã đến để cứu độ chúng con khỏi vòng tội lỗi và mở ra cho chúng con cơ hội làm lại cuộc đời. Xin Chúa thương ban ơn Thánh của Chúa xuống trên mọi người để chúng con đủ sức, đủ ý chí mà canh tân cuộc sống theo ý Chúa muốn. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY -C
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
- Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
- Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?
- Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
TÌNH THƯƠNG THA THỨ VÀ BIẾN ĐỔI – Lm. Đan Vinh HHTM
1/.TIN MỪNG: Ga 8,1-11
(1) Còn Đức Giêsu thì đến núi Ôliu. (2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các Kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, (4) rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. (5) Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? (6) Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. (8) Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu và người phụ nữ thì đứng ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đi đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” (11) Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả”. Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
2/.Ý CHÍNH: Tin mừng hôm nay trình bày tình thương bao dung của Thiên Chúa, thể hiện qua thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân phạm tội ngọai tình. Câu chuyện được trình bày như một màn kịch gồm 3 hồi như sau:
– Hồi một (x Ga 8,1-5): Để có cớ tố cáo Đức Giêsu, các Kinh sư và người Pharisêu đã giải một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến yêu cầu Người xử lý tội nhân.
– Hồi hai (x Ga 8,6-9): Hiểu được ý đồ muốn gài bẫy của họ, Đức Giêsu đã im lặng ngồi xuống và lấy ngón tay viết trên đất. Khi họ gặng hỏi thì Người mới nói: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả lời của Đức Giêsu đã làm cho những kẻ tố cáo tội nhân phải lặng lẽ rút lui.
– Hồi ba (x Ga 8,10-11): Chỉ còn lại mình Đức Giêsu là người duy nhất trong sạch và có quyền kết án tội nhân. Nhưng Người lại tỏ lòng khoan dung với kẻ có tội khi tuyên bố: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
3/.CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Đến núi Ôliu: Núi Ôliu còn được gọi là vườn Ghếtsêmani, nằm về phía Đông gần thành Giêrusalem, (x. Lc 22,39). Đây là một nơi yên tĩnh thuận tiện cho việc cầu nguyện. + Trở lại Đền thờ: Đền thờ nằm trong Thủ đô Giêrusalem. Đền thờ đầu tiên do vua Salomon xây dựng vào năm 970 trước Công nguyên. Sau đó nhiều lần được tái thiết. Đền thờ được đề cập trong Tin mừng hôm nay do vua Hêrôđê trùng tu và mở rộng thêm từ năm 20 trước CN, nhưng sau đó đã bị quân Rôma tàn phá bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. + Người ngồi xuống giảng dạy họ: Các Thầy “rápbi” Do thái khi dạy Thánh kinh, thường ngồi trên một chiếc ghế hay một tảng đá, còn các thính giả thì đứng ngồi xung quanh. + Một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình: Đây là một thiếu phụ đã có chồng, nhưng đã quan hệ bất chính với một người khác không phải chồng mình.
– C 4-6a: + Trong sách Luật, ông Môsê truyền phải ném đá hạng đàn bà đó: Luật Môsê quy định về hình phạt dành cho tội ngoại tình như sau: “Người đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10). Luật cũng quy định xử tử cả hai kẻ phạm tội bằng hình phạt ném đá (x. Đnl 22,24). Nhưng thời Đức Giêsu, người Rôma đã cấm dân Do thái áp dụng luật này (x Ga 18,31). + Họ nhằm thử Người để có bằng cớ tố cáo Người: Các Kinh sư và người Pharisêu muốn đưa Đức Giêsu vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” để có cớ tố cáo Người. Theo họ nghĩ: Đức Giêsu trả lời đàng nào cũng không ổn: Nếu Người truyền kết án tử hình theo Luật Môsê thì họ sẽ tố Người chống lại nhà cầm quyền Rôma, vì người Do thái đã bị tước quyền xử tử tội nhân, và Người sẽ bị chính quyền Rôma coi là phản lọan. Còn nếu Người truyền tha bổng tội nhân, thì họ sẽ lại nói Người chống lại Luật pháp Môsê và truyền thống của cha ông.
– C 6b-8: + Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay vẽ trên đất: Viết trên đất là để bày tỏ thái độ không quan tâm đến sự việc đang xảy ra. + “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”: Qua câu nói này, Đức Giêsu tuy theo Luật Môsê để cho phép ném đá tội nhân, nhưng Người cũng nhắc cho những kẻ tố cáo kia biết rằng: Chính họ cũng là kẻ tội lỗi đáng bị xử phạt! Họ cần tránh thái độ xét đoán ý trái và kết án kẻ khác cách bất công, để khỏi bị Thiên Chúa xét đóan và kết án sau này. Vì dưới cái nhìn của Thiên Chúa, thì mọi người đều là tội nhân và đều cần được xét xử khoan dung (x. Lc 6,36-38).
– C 9-11: + Họ bỏ đi hết: Tất cả những kẻ tố cáo đều rút lui. + Bắt đầu từ người lớn tuổi: Người lớn tuổi bỏ đi trước, phần vì càng sống lâu thì càng nhiều sai phạm! Phần khác cũng có thể do các người lớn tuổi khôn ngoan hơn, nên khi thấy không làm gì được Đức Giêsu thì áp dụng nguyên tắc “Tam thập lục kế: đào vi thượng sách!” để tránh khỏi bị liệt vào hạng “đạo đức giả” (x. Lc 11,37-54). + “Tôi không lên án chị đâu!”: Đức Giêsu không xét đoán ai vì Ngừơi đầy lòng từ ái khoan dung (x Ga 8,15). Sứ vụ của Người là đến để cứu độ thế gian (x Lc 9,10). + “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”: Tuy tha thứ cho tội nhân, nhưng để tránh lạm dụng, Đức Giêsu cũng đòi hối nhân phải thành tâm sám hối, bằng việc quyết tâm không tái phạm nữa. Trong thực tế, để tránh khỏi tái phạm tội thì hối nhân cần ăn năn dốc lòng chừa. Lòng ăn năn sám hối thực sự được biểu lộ qua việc khiêm tốn xin ơn Chúa trợ giúp, thành thật xưng thú tội lỗi, quyết tâm xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng (x. Kinh Ăn năn tội).
4/.CÂU HỎI:
*1) Hãy cho biết Đền thờ Giêrusalem thời Chúa Giêsu do ai xây dựng và xây từ khi nào ? Số phận cuối cùng của Đền thờ này ra sao ? 2) Luật Môsê qui định hình phạt dành cho các kẻ phạm tội ngọai tình là gì ? 3) Các đầu mục Do thái có ý đồ gì khi bắt người đàn bà phạm tội ngọai tình đến yêu cầu Đức Giêsu xử lý ? 4) Đức Giêsu thể hiện lòng khoan dung đối với tội nhân qua câu nói nào ? 5) Lòng ăn năn thực sự phải được biểu lộ bằng những việc gì ? 6) Phải chăng khi tha thứ cho tội nhân là Đức Giêsu đã gián tiếp khuyến khích họ tiếp tục phạm tội ?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
- CÂU CHUYỆN:
1) VỀ CÂY THÁNH GIÁ KHOAN DUNG THƯƠNG XÓT:
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh Giá rất đặc biệt: Trên cây thập giá, Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai bàn chân, còn tay phải đã rời khỏi thập giá và giơ ra phía trước như đang ban phép lành cho hối nhân tại tòa giải tội bên dưới.
Chuyện kể rằng: Một lần kia, khi một linh mục đang ngồi tòa thì một tội nhận vào xưng tội. Vị linh mục ngồi tòa nổi tiềng là nghiêm khắc đối với những tội nhân không chịu chừa cải. Anh chàng vào tòa xưng tội lần này đã nhiều lần phạm tội ngoại tình và cha giải tội cũng nhiều lần ngăm đe. Nhưng chứng nào tật đó, cứ ra khỏi tòa giải tội được ít ngày, anh ta lại tiếp tục sa ngã phạm tội mới xưng. Sau nhiều lần tha thứ, cuối cùng trong lần xưng tội mới đây cha giải tội đã phải nói với anh: “Đây là lần cuối cùng ta tha tội cho anh”. Chàng thanh niên ra khỏi tòa giải tội trong tâm trạng nặn trĩu u buồn. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội và lần này anh ta lại vẫn xưng tội đã dốc lòng chừa như mấy lần trước. Nhưng lần này vị linh mục đã từ chối giải tội cho anh như sau: “Anh đừng có đùa với Chúa! Lần này ta không tha cho anh”. Nhưng một điều kỳ diệu đã xảy ra: Cha giải tội và hối nhân trong tòa đều nghe thấy có tiếng của Chúa Giêsu phán ra từ trên cây thập giá phía trên tòa giải tội: “Nhưng Ta tha tội cho hối nhân này!”. Rồi Chúa còn nói riêng với vị linh mục: “Chính Ta mới chịu đổ máu ra để rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi của loài người chứ không phải con!”
Cũng từ ngày đó, người ta thấy trên cây thánh giá tại tòa giải tội trong nhà thờ nói trên, cánh tay phải của Chúa Giêsu không còn gắn vào cây thập giá, nhưng bị bung ra trong tư thế đang cúi xuống ban phép lành cho hối nhân trong tòa giải tội, như một lời mời gọi mọi người mau ăn năn sám hối: “Hãy cứ trở về với Ta, thì các con sẽ được ơn tha thứ”.
2) VỀ CUỘC HÓAN CẢI CỦA MỘT TỘI NHÂN:
TAXIANA là một văn sĩ người Mỹ gốc Liên Xô. Vào năm 1980, cô đã cho ra đời tác phẩm đầu tay tựa đề là “Về một cuộc đổi đời kỳ diệu”. Trong quyển sách đó, cô đã kể lại chi tiết cuộc đời đầy đam mê sóng gió của cô, mà cuối cùng đời cô đã được ơn biến đổi nên tốt hơn gấp bội! Câu chuyện của cô Taxiana được tóm gọn như sau:
Ngay từ khi còn bé, Taxiana đã được chịu phép rửa tội. Nhưng khi lớn lên, cô ít đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật vì cha mẹ của cô không mấy ngoan đạo. Do cứng đầu và hay gây gỗ nên cha mẹ và thầy dạy đều xếp cô vào loại trẻ em khó dạy. Ngay từ nhỏ, Taxiana đã tỏ ra căm thù tất cả những gì mang tính gò bó, ép cô vào trong khuôn khổ kỷ luật, vì nó làm cho cô cảm thấy mất tự do và không thể làm theo ý của mình. Lớn lên, nhờ có trí thông minh siêu hạng, Taxiana đã được cấp học bổng lên đại học. Nhưng tại môi trường trí thức này, thay vì kết thân với các sinh viên cùng khóa, thì cô lại thường xuyên giao du với đám macô, đầu trộm đuôi cướp, bợm nhậu, đĩ điếm và xã hội đen…! Trong khi sống buông thả như vậy, cô cũng thích nghiên cứu các môn thần bí phương Đông, đặc biệt là môn Yôga. Khi tập luyện Yôga, mỗi động tác đều đòi người ta phải đọc một câu trong một bài văn vần của môn phái. Có người biết cô là tín hữu nên đã đề nghị cô đọc Kinh Lạy Cha để thay cho bài văn vần kia. Taxiana đã làm theo lời khuyên này. Các câu trong kinh Lạy Cha đã dần dần thấm nhập vào tâm hồn cô. Rồi một ngày kia, một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu Taxiana: “Tại sao ta lại không đọc thêm các bản kinh khác nữa, nhất là đọc Lời Chúa trong Thánh kinh?” Càng đọc Lời Chúa, cô càng cảm thấy thích thú về những tư tưởng cao siêu và thánh thiện của Đức Giêsu. Cuối cùng cô quyết định đến với một linh mục đạo đức để tìm hiểu thêm về giáo lý Thánh kinh. Sau đó cô đã cử hành lễ nghi tuyên tín. Cô dọn mình chịu bí tích giải tội và đã được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ đây cô tình nguyện hiến thân phục vụ các công việc bác ái xã hội. Về sau cô đã thuật lại phép lạ đổi mới đã xảy ra với cô trong lúc cô đang xưng tội như sau: “Bấy giờ tôi lần lượt kể lại cho vị linh mục nghe các lỗi lầm tôi đã phạm, về những cơn say thâu đêm suốt sáng, các đam mê tình dục quá độ, về những cuộc hôn nhân bất hạnh mà tôi đã từng trải, những lần phải đi phá thai vì bị vỡ kế hoạch dẫn đến hậu quả tai hại là tôi bị mất khả năng sinh con. Cuộc sống đầy đam mê đã biến tôi trở thành một con người dửng dưng với mọi sự: Tôi chẳng còn có thể yêu ai được nữa!” Sau khi thú tội xong, tôi lắng nghe vị linh mục khuyên bảo. Lời của ngài tuy đơn sơ nhưng mỗi lời đều đánh động tận tâm can tôi. Sau cùng tôi rất xúc động khi đón nhận phép giải tội. Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân”.
Sau lần xưng tội ấy, Taxiana đã cảm nghiệm mình đã gặp được chính Chúa Giêsu và được Người tha thứ mọi lỗi lầm quá khứ. Taxiana không những đã được tha tội, mà còn được Chúa chạm đến phần tâm linh sâu thẳm nhất để biến cô nên một tạo vật hòan tòan mới của Người.
- THẢO LUẬN:
1) Trong mùa Chay này, mỗi người chúng ta cần làm gì để biểu lộ lòng tin vào tình thương bao dung của Thiên Chúa ? 2) Bạn sẽ trả lời ra sao khi có người nói: “Cần chi phải đi xưng tội với ông linh mục cũng phạm nhiều tội giống như mình? Hoặc xưng tội làm chi để rồi chỉ sau một thời gian ngắn sẽ lại tái phạm các tội mới xưng? Hãy đợi đến lúc liệt giường sắp chết sẽ xin xưng tội một lần cuối cũng đủ?”
- SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay: thuật lại câu chuyện Đức Giêsu đã bênh vực và tha thứ tội cho một phụ nữ ngoại tình. Người còn biến đổi chị nên một con người mới. Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu chúng ta nhận biết sự yếu hèn của mình để hồi tâm sám hối nhờ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích giải tội. Chắc chắn chúng ta cũng sẽ được Người ban ơn tha thứ và còn được ơn biến đổi nên một người mới.
2) Mấy điểm giáo lý về bí tích giải tội:
– Bí tích giải tội là bí tích do Chúa Giêsu thiết lập, để tha các tội riêng ta đã phạm từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội thánh. Bí tích giải tội còn được gọi là bí tích giao hòa, hòa giải hay bí tích sám hối. Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích này vào chiều ngày phục sinh, khi Người hiện đến với các tông đồ trong nhà tiệc ly, thổi hơi trên các ông và phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
– Bí tích giải tội ban cho ta các ơn này: Một là tha tội ta đã phạm để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội Thánh. Hai là tha hình phạt muôn đời do các tội trọng gây ra và tha một phần các hình phạt tạm. Ba là ban sự bình an cho tâm hồn và gia tăng sức mạnh giúp ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ.
– Bí tích giải tội rất cần cho người tín hữu, vì giúp họ nhận được ơn tha thứ các tội đã phạm đến Thiên Chúa, làm tổn thương phẩm giá con người và phá vỡ sự an bình thiêng liêng của Hội Thánh. Chỉ các giám mục và những linh mục có quyền giải tội mới được ban phép giải tội cho các hối nhân, nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Những ai đã phạm tội trọng thì muốn được tha tội cần phải biểu lộ lòng sám hối bằng việc thành thật xưng thú các tội đã phạm trong bí tích giải tội; còn ai chỉ mắc tội nhẹ thì không buộc phải xưng tội, nhưng nếu họ có lòng ăn năn mà xưng ra các tội nhẹ đã phạm thì sẽ nhận được nhiều ơn ích thiêng liêng.
– Muốn lãnh nhận bí tích giải tội ta cần làm bốn việc: Một là xét mình; Hai là ăn năn dốc lòng chừa; Ba là xưng tội; Bốn là đền tội. Trong bốn điều trên, ăn năn dốc lòng chừa là điều quan trọng nhất, thể hiện qua 3 việc sau như lời kinh Ăn năn tội: “Con dốc lòng chừa cải. Và nhờ ơn Chúa thì con sẽ lánh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng”. Ngoài việc xưng tội, Hội Thánh dạy các tín hữu còn phải sám hối bằng một số việc lành là: ăn chay, cầu nguyện, làm việc chia sẻ bác ái và khiêm nhường phục vụ các người đau khổ bất hạnh hoặc bị bỏ rơi.
3) Một số suy nghĩ lệch lạc của con người ngày nay về bí tích giải tội:
Ngày nay một số khá đông các tín hữu không muốn vào tòa xưng tội riêng dựa vào các lý do như sau:
* Do gương xấu của một số vị chủ chăn: Những người này không muốn xưng tội vì cho rằng các chủ chăn cũng chỉ là những con người tầm thường với nhiều tội lỗi bất tòan.
Tuy nhiên, chính Đức Giêsu đã không nghĩ như vậy khi trao quyền tha tội cho các tông đồ vào chiều ngày phục sinh, dù các ông chỉ là những con người đầy sai lỗi khuyết điểm. Khi ban bí tích giải tội, các ông “cầm buộc và tháo cởi” không với tư cách cá nhân nhưng là người đại diện cho Chúa Giêsu, giống như tại tòa án các vị quan tòa nhân danh luật pháp để tuyên án cho các phạm nhân. Đàng khác, các hối nhân được ơn hóan cải hay không là do quyền năng Thánh Thần mà các tông đồ đã được Chúa Giêsu phục sinh trao ban như Tin mừng Gioan đã ghi lại như sau: “Nói xong, Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
* Do hiểu chưa đúng về hiệu quả của bí tích giải tội: Có người nói: “Tôi thường đi xưng tội vào mỗi đầu tháng và lần nào tôi cũng chỉ xưng thú một số tội đã xưng đi xưng lại nhiều lần trước đó, nhưng không sao chừa được. Do đó xưng tội là việc làm thiếu hiệu quả nếu không muốn nói là vô ích.
Để nhìn rõ vấn đề, chúng ta hãy so sánh sức khỏe tâm linh với sức khỏe thể xác: Do di truyền, có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng mang một số bệnh khó chữa khỏi như: bệnh cao huyết áp đòi người bệnh phải uống thuốc hằng ngày, bệnh dị ứng nổi mề đay, bệnh “gút” gây đau nhức luôn phải uống thuốc giảm đau… Mỗi khi căn bệnh tái phát nặng hơn, chúng ta phải đến bác sĩ chuyên khoa điều trị và phải dùng một số loại thuốc giống nhau… Nhưng đâu có ai từ chối uống thuốc với lý do rồi bệnh sẽ tái lại?. Nếu ta không đi khám và không uống các thứ thuốc trị bệnh quen thuộc nói trên mới là điều sai lầm. Cũng như mỗi ngày chúng ta đều phải tắm rửa cho sạch, dù biết rằng đến mai cơ thể của mình sẽ lại bị dơ cần phải tắm lại… Về phạm vi tâm linh cũng vậy: Ai trong chúng ta cũng có một số thói hư rất khó chừa như: Dễ nổi nóng, hay nói xấu kẻ mình không ưa, ích kỷ tự ái cao, lười biếng làm việc đạo đức, uống rượu say sỉn, xem phim ảnh xấu rồi thủ dâm để tìm hưởng lạc bất chính… Dù biết sau một thời gian có thể ta sẽ tái phạm, nhưng ta vẫn cần đi xưng tội để đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa với hy vọng nhờ ý thức sự xấu xa của tội, quyết tâm xa lánh dịp tội, làm việc đền tội cân xứng… và nhất là nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ có điều kiện để dứt bỏ thói hư và nên hoàn thiện hơn.
* Do cách xét mình cẩu thả trước khi xưng tội: Có người chữa mình rằng: “Tôi xét mình mãi mà chẳng tìm ra tội gì mới cần xưng. Nhiều khi tôi phải cố tìm lại một “tội trọng cũ” để có tội mà xưng. Việc không tìm ra tội nào mới không chứng minh chúng ta là người thánh thiện, nhưng có thể do chúng ta đã hóa ra chai lỳ về mặt tâm linh, khi cho các việc làm sai trái của mình là không có tội. Thực ra mọi người chúng ta đều yếu hèn như thánh Phaolô đã phải thú nhận: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Những ai tưởng mình không có tội, thực ra là do họ đã xét mình cẩu thả và tự đánh lừa mình, như thánh Gioan đã viết: “Nếu chúng ta nói mình không có tội, là chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8).
* Do chưa ý thức về tầm quan trọng của những điều thiếu sót: Kinh cáo mình có câu: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai… hay tội bỏ không làm việc lẽ ra phải làm như: Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần trợ giúp… Trong Tin mừng, Đức Giêsu đã đề cập đến tội thiếu sót này như dụ ngôn ông nhà giàu đã làm ngơ không giúp đỡ anh Ladarô, một người nghèo khổ nằm trước cửa nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu cũng sẽ tuyên phạt những kẻ đã nhắm mắt bỏ qua các việc lành như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các ngươi đã không viếng thăm …” (Mt 25,41-45).
Những tội thiếu sót này tưởng là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể trở thành tội nặng nếu ta không có tình thương trong tâm hồn. Nó cũng đồng nghĩa với tội giết người như thánh Gioan viết: “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,14b-15).
4) Phải sám hối cụ thể thế nào trong Mùa Chay này ? :
Ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, mỗi người chúng ta cần dọn mình lãnh nhận bí tích hòa giải với Chúa. Nhưng điều quan trọng là cần xét mình để tìm ra mối tội đầu quan trọng nhất của mình để quyết tâm chừa cải, hơn là chỉ xưng các tội chung chung theo thói quen xưa nay. Nhất là cần ý thức về tình thương của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, để sẵn lòng tha thứ lỗi lầm cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Cụ thể xét mình từ bản thân, đến quan hệ với người thân trong gia đình và đối với mọi người ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc như sau:
– Đối với bản thân mỗi người: Để dễ dàng tha thứ, mỗi ngày cần dành ít phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình, để ý thức về sự yếu đuối bất toàn của mình. Tại sao chúng ta lại đòi người khác phải hoàn hảo đang khi chính chúng ta còn nhiều sai sót? Hãy dọn mình xưng tội mỗi đầu tháng để thánh hóa bản thân và duy trì hạnh phúc gia đình. Hãy bỏ đi những đố kỵ ganh ghét, không chấp nhất những câu nói xúc phạm hay hành vi không tốt của người khác đối với mình, để tình mến Chúa yêu người luôn bùng cháy trong lòng mình.
– Đối với người thân trong gia đình: Một trong những lý do chính đưa đến đổ vỡ hạnh phúc và ly hôn nơi các gia đình hiện nay là nhiều đôi vợ chồng trẻ đã không dễ bỏ qua lỗi lầm cho nhau. Nên nhớ rằng chỉ sự tha thứ mới giúp hàn gắn tình cảm sứt mẻ và giúp gia đình sớm tìm lại bình an hạnh phúc. Đôi vợ chồng nên nhất trí với nhau: Mỗi khi có điều chi bất bình hay tranh cãi nhau thì cả hai đều phải mau mắn đi bước trước làm hòa như lời thánh Phaolô: “Anh em đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng! (Ep 4,26-27). Sau cơn giận, mỗi người hãy lập tức dâng một lời cầu xin Chúa giúp và ai chủ động mỉm cười bắt chuyện trước sẽ là người chiến thắng, vì đã thắng được tính tự ái cao của mình và thắng được ma quỷ cám dỗ. Đầu mỗi thánh lễ hãy nhớ lời Chúa Giêsu: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
– Đối với tha nhân ngoài xã hội: Điều chúng ta cần làm ngay trong Mùa Chay này là: Mỗi ngày hãy xét mình để biết có ai đó đang bất hòa với mình và chủ động làm hòa với họ. Mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, cần lưu ý câu: “Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Mỗi ngày hãy tìm đọc các đoạn Tin Mừng về sự tha thứ, suy nghĩ về lời Chúa trách mắng tên đầy tớ độc ác đã không có lòng thương xót: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). Cuối cùng hãy dâng một lời cầu để xin Chúa tha thứ lỗi lầm cho chúng ta với điều kiện chúng ta cũng sẵn lòng tha thứ lỗi lầm cho anh chị em đã xúc phạm đến chúng ta.
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm một tội nào đó nghiêm trọng. Nhưng lạy Chúa, có tội nào chúng con phạm mà Chúa lại chẳng thấy và không hay biết? Xin cho chúng con biết bỏ đi những mặt nạ giả dối, những việc đạo đức hình thức bề ngòai nhằm che đậy những tội ác trong tâm hồn chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ luôn sống tình yêu thương và trở nên những chứng nhân tình thương của Chúa trước mặt người đời.
– LẠY CHÚA. Nếu Chúa đã không lên án kẻ có tội, không chấp nhất những điều chúng con sai lỗi, thì xin cũng giúp chúng con tránh kết án tha nhân. Khi thấy anh chị em con sai lỗi, xin cho chúng con biết tự xét và tu sửa lỗi của mình trước đã, rồi mới đủ uy tín để giúp sửa lỗi của anh em con. Bấy giờ xin cho chúng con biết khôn ngoan để nói đúng lúc và đúng phương pháp hầu chu tòan bổn phận “Răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta…”, như kinh “Thương người” đã dạy.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
TA KHÔNG KẾT TỘI CHỊ- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Đọc bài Tin Mừng theo thánh Gioan của Chúa nhật V Mùa Chay hôm nay, chúng ta nhận thấy: Hôm qua chị đã phạm tội. Hôm nay chị đang ở trước mặt Chúa. Hôm qua đã là quá khứ. Hôm nay là hiện tại, và chị phải trả giá cho những gì chị đã làm hôm qua. Quá khứ đã là dĩ vãng, một dĩ vãng đắng cay, chua chát, ân hận do bồng bột, do thiếu suy nghĩ, cho nên hiện tại mới ra nông nổi này đây.
Người ta đã bắt được chị phạm một tội rất tày trời, một tội đáng phải lãnh án tử hình, phải chết chứ không được dung thứ, mà chị còn bị người ta bắt quả tang nữa kìa, chị hết đường chữa chạy, hết đường thoát án tử. Chị phải chết là điều chắc chắn rồi.
Và họ đã cùng nhau mở phiên tòa giống như một phiên tòa lưu động. Họ đặt chị ở trước mặt mọi người và trước Chúa vào lúc sáng sớm khi Chúa vào Đền thờ để giảng dạy. Một bản án được đưa ra dựa trên nền tảng luật Môsê. Đã nại đến lề luật rồi thì còn ai mà dám can thiệp: “ Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá “.
Mục đích của phiên tòa này là để nhắm vào Chúa, kết tội Chúa, triệt hạ Chúa: Nếu Chúa bảo tha cho chị thì Chúa vi phạm luật Môsê, Chúa sẽ bị chết. Còn nếu Chúa bảo ném đá chị đi thì còn đâu là lòng thương xót mà Chúa đã rao giảng bấy lâu nay. Đường nào Chúa cũng dính vào cái bẫy do họ bày ra. Đây quả là cái trò mưu hèn, kế bẩn, thâm hiểm, độc ác của những người biệt phái và luật sỹ đối với Chúa.
Trước khi chị bị lãnh bản án tử, người ta khinh bỉ chị, khạc nhổ vào mặt chị, coi thường chị, xem chị là hạng người thúi tha mất nết, không đáng để được sống. Chị như mất hết nhân phẩm, tư cách, không còn là con người bình thường nữa, bởi cái dĩ vãng đau thương tội lỗi này.
Con người không dung thứ cho đồng loại của mình, không biết bao dung, không biết tha thứ, không biết yêu thương, không biết mở lối đi cho anh chị em của mình mà chỉ có xét đoán, kết án, loại trừ mà thôi.
Phần Chúa, Chúa sẽ xử lý, Chúa sẽ giải quyết vụ án này như thế nào đây ?
Lần đọc lại những trang Kinh Thánh, mà cụ thể là bài đọc một được trích từ sách tiên tri Isaia của Chúa nhật hôm nay. Chúa nói: “ Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa “. Dĩ vãng là làm thân tôi mọi nô lệ bên Ai Cập của dân Do Thái. Việc thời xưa là việc Chúa đưa họ vượt qua biển Đỏ để đi vào đất hứa. Chúa cứu họ thoát ách gông cùm xiềng xích Ai Cập và toàn bộ quân Ai Cập bị chôn vùi trong lòng biển Đỏ cũng vì Chúa thương họ. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng con, bây giờ đừng nhớ đến dĩ vãng kẻo sinh ra buồn tủi, chán chường và cũng đừng để ý đến việc thời xưa kẻo sinh ra tự hào quá đáng. Này đây, Chúa sẽ làm ra những cái mới, Chúa dẫn con người hướng đến tương lai chứ không được dậm chân tại chỗ; Chúa sẽ mở đường trong hoang địa và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đàn sẽ ca tụng Chúa, vì Chúa đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Chúa có nước uống, Chúa đã tác tạo dân này cho Chúa, và nó sẽ ca ngợi Chúa, nên chúng con mừng rỡ hân hoan.
Cũng thế, nói như thánh Phaolô trong bài đọc hai thư gởi tín hữu Philípphê: “ Nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Chúa Giêsu Kitô “, điều này có nghĩa quên đi dĩ vãng để hướng đến tương lai mà Chúa đã vạch sẵn cho chúng ta là phải được Chúa là gia nghiệp cuộc đời chúng ta.
Như vậy là chúng ta đã hiểu Chúa sẽ đối xử như thế nào đối với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình này.
Trước hết, Chúa giải cứu chị khỏi vòng vây gọng kiềm của những người kết án chị: “ Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi “. Nghe Chúa nói như vậy họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất.
Tiếp đến, khi còn lại một mình chị với Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chị: “ Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa “.
Chúa tha thứ và Chúa cũng mở một lối đi cho chị trong những ngày sắp tới là đừng phạm tội nữa. Nghĩa là chị phải cố gắng sống lời Chúa, xa tránh các dịp tội, luyện tập các nhân đức để rồi mỗi ngày sống tốt hơn, đẹp lòng Chúa hơn.
Quả thật đây là một ân ban quá lớn lao đối với chị. Chúa là vị đại ân nhân của chị. Chúa đã cứu sống chị. Chị như được sinh ra lần thứ hai trong cuộc đời này. Chị được như vậy là do lòng thương xót và nhân ái của Chúa, vì thế: “ Chúa đã đối xử đại lương với chúng con, nên chúng con mừng rỡ hân hoan “.
Như vậy, riêng với chúng ta, chúng ta được biết Chúa, được làm con của Chúa, được ở trong Hội Thánh Chúa là vinh dự, là hạnh phúc của chúng ta. Do đó chúng ta chấp nhận thua thiệt và coi mọi sự là phân bón để được ở trong Chúa. Vì thế, chúng ta sẽ vui lòng vác thập giá theo Chúa mỗi ngày, chấp nhận chịu đau khổ, thử thách, gian nan để được hưởng lòng thương xót của Chúa và để được phục sinh với Chúa sau này.
Chúng ta không giữ Chúa cho riêng mình mà chúng ta cần phải giới thiệu Chúa cho người khác nữa để họ cũng trở thành con của Chúa để họ được hưởng lòng thương xót của Chúa mà được ơn tha thứ, mà được ơn cứu độ do mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa mang đến.
Lạy Chúa, Chúa đã đối xử đại lượng với chúng con, nên chúng con mừng rỡ hân hoan, xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra tội lỗi của chúng con phạm đến Chúa quá nặng nề và nhận thấy lòng thương xót Chúa quá thật lớn lao vô bờ bến để chúng con ăn năn sám hối trở về với Chúa, xưng thú tội lỗi nơi tòa giải tội trong Mùa Chay Thánh này, để Chúa thanh tẩy chúng con, cho chúng con sống lại trong ơn nghĩa của Chúa mà được hưởng sự sống đời đời. Amen.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
ĐỪNG KẾT TỘI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài vô tận về một Thiên Chúa bao dung tha thứ cho con người.
Đầu tiên, Thiên Chúa đã tha thứ cho ông bà nguyên tổ, tha thứ cho Vua Đavít ngoại tình, Chúa tha thứ nhiều lần cho dân Israel khi họ không trung thành với lời giao ước… đến thời Tân ước, Đức Giêsu thể hiện lòng thương xót tha thứ cho Phêrô sau ba lần chối Chúa, tha thứ cho đám lý hình: “Lạy Cha! Xin Cha tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết, Chúa tha thứ cho người trộm lành: “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa vẫn còn tiếp diễn khi Chúa lập ra Bí tích giải tội, để như là một bằng chứng Thiên Chúa tiếp tục tha thứ cho những ai bước đến kín múc lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chúa nhật tuần trước Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thiên Chúa là người cha nhân hậu bao dung tha thứ cho chúng ta là những đứa con tội lỗi trở về. Tuần này, Giáo hội mời gọi chúng ta sau khi kín múc được lòng tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích hòa giải, thì cũng phải biết bao dung tha thứ cho nhau, chứ đừng lên án khi thấy người khác lỗi lầm.
Thánh sử Gioan trình bày câu chuyện này như một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo gồm giới lãnh đạo Do thái. Xét xử về tội ngoại tình. Bản án tử hình là ném đá cho chết. Thực ra họ không cần đến Đức Giêsu làm quan toà. Họ có thể dựa vào luật Môisen để thi hành án. Thế nhưng, giới lãnh đạo Do thái muốn đặt câu hỏi với vị thẩm phán Giêsu, họ có ý gài bẫy Ngài: “Thưa Thầy! Thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môisê thì hạng phụ nữ này phải ném đá cho chết, còn Thầy, Thầy dạy sao?”.
Thế nhưng, Đức Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Ngài im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Ngài im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Ngài cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Ngài cúi xuống để những Kinh sư và người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn của mình. Ngài cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Giả như Đức Giêsu bảo cứ ném đá thì ngay lập tức Tin mừng mà Đức Giêsu rao giảng về một Thiên Chúa giàu lòng thương xót sẽ sụp đổ tan tành. Hình ảnh của một Giêsu đầy lòng từ tâm, nhân hậu, và tha thứ sẽ trở nên vô nghĩa. Ngược lại, nếu Chúa bảo không ném đá, thì họ cho rằng: Đức Giêsu phá bỏ luật Môisen. Trả lời cách nào cũng chết.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Ngài ngước mặt lên và bảo “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Thánh sử Gioan ghi nhận từ người lớn tuổi cho đến người nhỏ tuổi từ từ rút lui hết. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì những người tố cáo này cứ tưởng là mình vô tội, cho nên trong tay họ cầm hòn đá sẵn sàng ném người khác, nhưng bây giờ khi được mời gọi nhìn lại chính mình, thấy tâm hồn mình đầy tội nhơ, thì bỏ hòn đá xuống không còn dám ném ai nữa. Vì nếu tôi ném đá người khác, cũng có nghĩa là tôi tự ném đá lương tâm tôi, tôi tự lên án chính mình tôi. Bởi tất cả chúng ta đều là tội nhân, mà đã là tội nhân thì đâu có quyền lên án buộc tội ai.
Ngước lên không còn thấy ai nữa, Đức Giêsu với ánh mắt dịu dàng, Ngài không hạch hỏi: “Con đã làm gì? Tại sao? Vì sao con làm như vậy? Con phạm tội với ai? Ngược lại, Chúa chỉ nói: “Ta không kết tội chị, vậy chị hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,10). Như vậy, lòng Thương xót của Chúa cao vời hơn ngàn tội lỗi.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay vẫn không thiếu những kinh sư và biệt phái. Đó không phải là ông A, ông B, mà là chính chúng ta. Bởi lẽ rất nhiều lần chúng ta phê bình chỉ trích lên án người khác, tự đặt cho mình làm chuẩn mực trong cách ứng xử.
Thánh Philipphê-Nêri ngày xưa, khi chứng kiến người ta dẫn một phạm nhân ra pháp trường xử tử, đang khi mọi người hò la lên án, thì Ngài cúi đầu xuống thầm thỉ với Chúa rằng: “Lạy Chúa! Giả như con ở trong hoàn cảnh như phạm nhân kia, chắc là con phạm tội gấp đôi”.
Vì thế, chúng ta cần nhìn lại chính mình. Nếu tôi sinh ra trong một gia đình quá đỗi nghèo khó, hay trong một gia đình mà cha mẹ ly thân ly dị, và lớn lên trong gia đình thiếu giáo dục lành mạnh, thì ngày hôm nay liệu tôi có được như thế này không? Khi đặt cho mình câu hỏi như thế, thì có lẽ chúng ta sẽ sống khiêm tốn hơn, biết thông cảm và tha thứ cho nhau hơn.
Qua câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình hôm nay, là bài học nhắc nhở chúng ta nhìn lại con người thật của mình, trước mặt Chúa tất cả chúng ta đều là tội nhân.
Như vậy, không ai trong chúng ta là người vô tội, cho nên xin đừng lên án, xin đừng buộc tội làm khổ cho nhau. Không ai trong chúng ta là người công chính, vì thế, xin cùng ăn năn, xin cùng thống hối lỗi lầm đã qua. Amen.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY-C
AI SẠCH TỘI?- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong tin mừng thánh Gioan (8,1-11), theo các nhà nghiên cứu thì có lẽ là của Luca, một tác giả đặc biệt đề cao chủ đề lòng thương xót của Chúa. Trong văn học, một chủ đề chính cũng thường được điểm tô đậm nét bằng những yếu tố “phản đề”. Có một cái nhìn cặn kẻ về sự gian ác của con người hẳn nhiên sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.
Tội ngoại tình: Thoặt xem ra đây là một loại tội dễ lượng thứ, vì bản tính con người mỏng dòn, yếu đuối. Và người ta thường dùng cụm từ “tính xác thịt” như để bào chữa mỗi khi lỗi phạm. Nếu xét tội này theo chiều kích “sự yếu đuối” thì cũng có thể dễ thông cảm. Tuy nhiên, nếu nhìn đây là một sự bất tín, bất trung, là một hành vi phản bội, phá vỡ sự bền vững của đời sống hôn nhân-gia đình, vốn là tế bào của xã hội thì tội này thật đáng sợ.
Nhân loại chúng ta đã và đang phải lao đao vì căn bệnh được gọi là bệnh thế kỷ, bệnh HIV-AIDS. Cái nguy hiểm chết người của căn bệnh này là tế bào dần mất khả năng kháng khuẩn. Khi tế bào hỏng hư thì cả cơ thể có thể gặp hiểm nguy mọi lúc, vì bất cứ vi khuẩn gây bệnh nào, dù là bệnh thường gặp như cảm cúm…Chúng ta đều biết cái nền tảng của xã hội và cũng là của giáo hội chính là gia đình. Và nền tảng này được dệt xây trên tình yêu chung thủy và sự tín nhiệm lẫn nhau. Khi đã bất trung thì sự tín nhiệm bị ít nhiều bị đánh mất. Có thể cái tội bất trung vì yếu đuối không quá trầm trọng nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Các ngôn sứ thường dùng thứ tội này: “ngoại tình”, để nói đến việc dân xưa bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang.
Nhất tiển diệt song điêu. Một mủi tên giết hai con chim. Câu nói có thể dùng trong cả trường hợp tích cực lẫn tiêu cực, nhưng thường ám chỉ những hành vi gian ác gây hại cho nhiều đối tượng. Cái bẫy mà nhiều kinh sư và người biệt phái ngày xưa giăng ra để hãm hại Chúa Giêsu quả là hiểm độc. Đã nhiều lần, và nay thêm một lần nữa họ dồn Chúa Giêsu vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Để thực hiện mưu đồ này họ đã không ngần ngại sử dụng sự yếu đuối, tội lỗi của một con người. Có thể nói rằng họ đã kiếm tìm và tận dụng tội lỗi của đồng loại để phục vụ gian kế của mình. Đã là gian ác thì sẽ không chừa một thủ đoạn nào, kể cả việc lợi dụng tội lỗi, sự yếu đuối hay nỗi khổ của tha nhân để thủ lợi hoặc để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Tin mừng minh nhiên cho ta biết rằng những người biệt phái và luật sĩ hôm ấy cố tình gài bẫy Chúa Giêsu hầu có bằng chứng tố cáo Người, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17). Chắc hẳn những người cố tình gài bẫy hôm ấy nghĩ rằng phen này Chúa Giêsu không thể thoát. Nếu Người không giữ luật Môsê thì khó mà thuyết phục dân chúng. Còn nếu cứ nhất nhất hành xử theo luật truyền thì sẽ đi ngược với lời giảng dạy của Người về lòng nhân từ, tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22).
Nhất ngôn độ bách tính: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Một lệnh ban để thi hành án ư? Xét về hình thức văn tự thì đúng vậy. Nhưng ẩn sâu bên trong lệnh ban ấy, chính là lời mời gọi xét mình, tự kiểm. Ai là người vô tội? Người Do Thái vốn không xa lạ gì với khái niệm tội lỗi, nếu không muốn nói là rất bén nhạy. Cùng với tổ phụ Đavít xưa họ luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lương hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tôi lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).
Một lời tuyên phán đã cứu sống người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Lời tuyên phán ấy cũng đã giải thoát cả đám đông gian ác hôm ấy. Hành vi rút lui, bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, là một lời xưng thú tội lỗi công khai, dù vô ngôn nhưng lại đủ ý. Rút lui là tự nhận mình cũng tội lỗi không kém gì người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà có khi còn tồi tệ và xấu xa hơn. Tình yêu thật vạn năng và diệu kỳ. Tình yêu luôn chiến thắng sự hiểm độc, gian ác.
Ai thực sự vô tội? Chúng ta dễ dàng kết luận đó là Chúa Giêsu, vì chỉ còn lại một mình Người và người phụ nữ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền kết án, thế mà Người lại phán: “Tôi không lên án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Người rộng lượng tha thứ cho tội nhân, khoan dung với người phạm tội, nhưng lại cương quyết loại trừ tội lỗi. Để làm điều này thì Đấng vô tội đã cam chịu kết án cách bất công.
Một hành vi vừa nhân ái vừa dịu hiền và tinh tế: “Cúi xuống”. Khi nghe những người biệt phái và kinh sư tố cáo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì Chúa Giêsu đã cúi xuống và viết cái gì đó trên đất. Sau khi người ta hỏi mãi, Người đã ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội…” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng hành vi cúi xuống của Người thật nhân hậu và đầy tế nhị. Nếu giả như Người cứ chăm chăm nhìn vào đám đông thì chắc gì đã có chuyện người ta can đảm nhận mình là tội nhân để rồi rút lui tuần tự. “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.”(Kn 11,23).
Ai trong chúng ta sạch tội? Một câu hỏi khiến chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình. Tiên vàn hãy lấy cái đà ra khỉ mắt mình hơn là cứ chăm chăm vào cái rác trong mắt tha nhân. Ai trong chúng ta cũng là tội nhân. Mọi người đều cần ăn năn sám hối. Để có thể trở về thì ngoài tình yêu và ân sủng Chúa, chắc hẳn cũng cần sự khoan dung và thái độ ứng xử tế nhị trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau. Chúa Kitô không chỉ cúi xuống rửa chân cho chúng ta mà con cúi xuống, làm ngơ để tạo cơ hội cho chúng ta là những tội nhân hoán cải trong danh dự. Người đã nêu gương cho chúng ta thì chúng ta cũng phải bắt chước Người để sống với nhau cho có tình trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
TRỞ VỀ VỚI NỘI TÂM- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Triết gia Socrate là một nhà hiền triết lớn, là một bậc thầy khả kính, có lời khuyên được xem là châm ngôn vàng ngọc để răn dạy người đời, như sau : “Hỡi người, hãy tự biết mình!”
Không dễ biết mình
Tự biết mình là điều hết sức quan trọng, nhưng đây cũng là điều không dễ. Con người có đôi mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi hướng vào nội giới, vào nội tâm mình. Chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt của những người chung quanh nhưng khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính mình! Một nốt ruồi nhỏ trên khuôn mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không nhìn thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác, ta thấy tỏ tường; còn những lầm lỗi tệ hại của mình thì lại không hay biết. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng mấy khi phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của họ. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của bản thân.
Chúa Giê-su giúp ta tự biết mình
Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách mình trước rồi trách người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy như thế: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.”
Bấy giờ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su. Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su im lặng. Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí tĩnh lặng để tạo cơ hội cho mọi người tự vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”.
Rồi Ngài lại ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.
Sau một hồi nhìn lại nội tâm mình trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là những viên đá trên tay họ lụp cụp rơi xuống. Ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc, ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm lên án người khác, có khi còn ít tội hơn mình!
Tự biết mình là điều rất cần thiết
Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi biết khuôn mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc; bao lâu chưa thấy những vết dơ trên mặt, thì không hy vọng có khuôn mặt sạch sẽ hơn.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Trở về với nội tâm để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó thực hiện và cũng chẳng được mấy người quan tâm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con thực hiện công việc hệ trọng nầy.
Xin cho Lời Chúa trở nên tấm gương soi tâm hồn, giúp chúng con nhận ra những nết xấu làm vấy bẩn lòng trí, làm suy thoái nhân cách và giúp chúng con cải thiện kịp thời để trở nên người có phẩm chất cao đẹp đáng được Chúa và mọi người yêu mến.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ- Lm. Fx. Lê văn Nhạc
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như ta!”
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
“Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?”
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai người, và lề luật đã qui định là cả hai đều bị phạt chịu ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy. (Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi!”
Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ. Ngài hỏi chị ta:
– Những người kia đã đi đâu cả rồi? Không có ai lên án chị sao?
– Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp lại.
– Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!”
Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của người Anh: “Những ai đang sống trong nhà bằng kính thì đừng nên ném đá” (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống trong những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân đức hơn những người khác…
Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình. Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị – Chị là người có tội đấy – Chị hãy chừa cải, sửa đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên, hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại với lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng phần Đức Giêsu, Ngài, trái lại đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên Thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào lòng mình, và vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, để lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY-C
PHIÊN TÒA CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Ông Nietzche, một triết gia vô thần đã từng ngạo mạn tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi”. Trong xã hội hiện nay, nhiều người ngay cả những kẻ mang danh Kitô hữu cũng đang dần khai tử Thiên Chúa bằng chính cuộc sống vô thần trong thực hành của họ. Chính lối sống mang sắc thái duy vật như thế sẽ làm mất đi cảm thức về tội lỗi. Nhiều bạn trẻ buông mình vào một lối sống hưởng thụ, sơ cứng lương tâm và đang dần đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình. Ông Nietzche còn khuyên lớp thanh niên:“ Các bạn đừng tin có tội lỗi, các bạn hãy mạnh dạn tống khứ ý niệm tội lỗi ra khỏi đầu óc của các bạn”.
Nhưng chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp trọng tâm mà các bài đọc trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc để nhớ rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân. Hãy can đảm nhìn thẳng vào nội tâm của lòng mình để khám phá ra biết bao những bẩn thỉu và xấu xa mà chúng ta không thể nào che giấu khi đến trình diện trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội vã kết án người này người nọ, giống như đám đông vây quanh người phụ nữ. Chúa nói với họ, đồng thời Chúa cũng đang nói với chúng ta hôm nay: “Ai trong các ông vô tội, cứ việc ném đá chị ấy đi”.
Phiên tòa thứ nhất: Xét xử người đàn bà tội lỗi.
Người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Không biết chị ta phạm tội cách cố ý hay chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc phải bán trôn nuôi miệng. Thánh Luca không quan tâm đến điều đó. Thánh ký chỉ mô tả lại phiên tòa như một truyền thống theo tập tục Do thái. Một đám đông bao quanh người phụ nữ, trên tay mỗi người lăm lăm vài cục đá để chờ ném vào tên tội phạm cho hả dạ. Tình cờ, Chúa Giêsu cũng được mời đến tham dự. Có lẽ các đầu mục Do Thái đã mời Chúa đến để thử xem Ngài xử trí ra sao. Họ đặt ra một tình huống rất khó xử. Nếu Chúa Giêsu hành xử theo luật, thì có khác gì họ. Còn nếu không, thì Chúa lại không tôn trọng luật lệ của tiền nhân, thứ luật mà người Pharisiêu rất trọng thị và tuân giữ tỉ mẩn. Nhưng, Chúa Giêsu hoàn toàn thinh lặng. Ngài không nói một lời và lặng lẽ cúi xuống viết trên đất. Dường như động thái của Chúa nhằm nhắc nhở mọi người, hãy nhớ thân phận bụi đất và đầy tội lỗi nơi mình, đừng kết án kẻ khác. Cuối cùng, khi mọi người từ già đến trẻ tuần tự ‘biến’ một cách có trật tự, Chúa mới nhẹ nhàng nói với chị ta: “ Tôi không kết án chị đâu, hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Phiên tòa thứ 2: Tòa án của Philatô
Phiên tòa mà Thánh Luca thuật lại hôm nay khởi dẫn chúng ta đến với phiên tòa thứ 2: tòa án của Philatô. Trong phiên tòa thứ nhất, Chúa được mời thủ vai chánh án, còn nơi phiên tòa thứ 2, Chúa đứng trước vành móng ngựa như một tên tội đồ. Ở phiên tòa đầu tiên, phạm nhân bị bắt quả tang đang phạm tội với nhân chứng vật chứng rõ ràng. Còn nơi phiên tòa sau, Chúa bị điệu đến như một can phạm, cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Trong cả 2 phiên tòa Chúa đều im lặng tuyệt đối. Sự thinh lặng mà Chúa biểu tỏ là một loại hình ngôn ngữ phong phú nhất diễn bày lòng thương xót vô hạn đối với các tội nhân. Đồng thời, đó cũng là sự im lặng trong vâng phục sâu thẳm để Thánh ý Chúa Cha được nên trọn. “Ngài hiền lành như một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng” (Is 53,7). Con chiên vô tội ấy gánh lấy tội lỗi của cả trần gian và đã bị phân thây, hầu khai mở kỷ nguyên ơn cứu độ. Cả 2 phiên tòa này hoàn toàn tương phản nhau, nhưng có một mẫu số chung. Đó là những phiên tòa bày tỏ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi, là chính chúng ta.
Phiên tòa thứ 3: Tòa cáo giải.
Đây là phiên tòa do chính Đức Giêsu thiết định. Ngài đã tham dự phiên tòa thứ nhất để nói với đám đông: “Ai trong các ông vô tội cứ việc ném đá đi”. Ngài đã bị xét xử cách oan ức trong phiên tòa thứ 2 để đồng phận với con người tội lỗi và mở toang một chân trời mới, đem lại ơn công chính hóa và sự giải án tuyên công cho những tội nhân. Ơn cứu độ ấy được diễn bày cách cụ thể nơi phiên tòa thứ 3 là chính tòa giải tội. Đây là phương thức tuyệt hảo để tái diễn lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong phiên tòa này, chúng ta được mời đến như những phạm nhân, còn chính Chúa Giêsu sẽ đóng vai thẩm phán để xét xử. Phán quyết cuối cùng trong phiên tòa này luôn là sự tha bổng, tha một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Việc đền tội được đưa ra không phải là một hình thức đái tội lập công do công sức của con người, nhưng chính là tâm tình hoan vui và cảm tạ vì chúng ta đã được tha thứ. Không phải chúng ta đọc một vài kinh chiếu lệ để ‘đền tội’ theo ý niệm thông thường, nhưng đúng hơn chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình tạ ơn vì tội lỗi chúng ta được xóa sạch do lòng yêu thương và tha thứ vô điều kiện của Ngài.
Nhiều người trong chúng ta từng tham dự các phiên tòa ngoài xã hội. Có những tội rất nặng, nhưng con người dễ luồn lách dựa vào kẽ hở của luật pháp. Hoặc có không ít các vị quan tòa bẩn thỉu đã nhận ăn hối lộ trắng trợn để giảm án hoặc tha bổng cho phạm nhân. Nhưng, cả 3 phiên tòa chúng ta vừa nêu trên không hề có những trò mánh khóe hay bịp bợm giống như vậy. Nơi các phiên tòa ấy đều có sự hiện diện của Đức Giêsu. Dung mạo của Ngài lúc nào cũng phản chiếu lòng thương xót của Chúa Cha. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải nhìn ra thân phận tội lỗi xấu xa nơi mình và tín thác tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội kết án người khác giống như đám người Do Thái đang toan tính ném đá chị phụ nữ cho đến chết. Chúng ta cũng đừng hèn hạ và nhu nhược như Philatô, đã kết án một con người hoàn toàn vô tội chỉ vì sợ đám đông. Chúng ta vẫn thường đeo nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước đựng những lỗi lầm của người khác và cái bị phía sau chất đầy tội lỗi to đùng của chính mình. Chúng ta cứ thích bới tìm nơi cái bị trước mặt để bới móc tha nhân và ít khi chịu ngoái cổ lại phía sau để lục soát những tội lỗi tầy đình của chính chúng ta. Chúng ta nhớ lại lời nhắc nhở của Thánh Giacôbê tông đồ: “Chỉ có một Đấng ra lề luật vàxét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn bạn là ai mà dám xét đoán tha nhân (Gia 4,12).
Kết luận.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, việc đầu tiên mà Giáo hội mời gọi mọi người là hãy biểu tỏ tâm thức sám hối. Chúng ta vẫn đấm ngực thình thịch và đọc thật to: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhưng, nhiều khi vừa bước chân ra khỏi nhà thờ chúng ta lại vội ‘đấm nhầm’ qua ngực người khác, bằng việc chỉ trích, nói hành nói xấu và kết án anh em. Trong mùa chay, chúng ta hãymạnh dạn lục soát lương tâm, bới tìm những rác rưởi và bẩn thỉu nơi nội tâm của cõi lòng. Có khiêm tốn tín thác tuyệt đối vào Chúa, chúng ta mới hưởng được Lòng Thương xót và ơn tha thứ nơi Ngài.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- C
TỬ HÌNH HAY CỨU SỐNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong mùa Chay không ai quên được câu: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed. 33, 11). Câu đó tỏ rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhưng con người lại muốn kết án tử hình nhau. Bài Tin Mừng cho thấy con người xử tử hình, còn Thiên Chúa lại cứu sống. Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về án tử hình, có nên bãi bỏ không? Một số đồng ý bãi bỏ, lý do là án tử hình không răn đe hữu hiệu kẻ phạm tội ác. Đa số ủng hộ luật tử hình, lý do là án tử hình làm người ta sợ không dám phạm tội ác.
Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình, chỉ trừ nước Thụy Sĩ và mấy nước Bắc Âu. Tại sao người ta đã lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù như câu châm ngôn: “ác trả ác báo”, “mắt đền mắt, răng đền răng”, để trừng trị kẻ thù, để tiêu diệt những kẻ tranh giành địa vị và quyền lợi với mình: “Được làm vua thua làm giặc”. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, bọn cướp này giết bọn cướp kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Sở dĩ có chiến tranh chém giết lẫn nhau cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi. Vua Chúa cấm đạo cũng chỉ vì giữ uy quyền cho mình hay cho giáo phái, tín ngưỡng của mình. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương trang giành quyền binh khi thấy “Toàn dân đến với Người” nên họ phải gài bẫy để đánh gục Đức Giêsu. Một trong những bẫy đó là họ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ ngoại tình và họ nói: “Người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mosê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, vậy Thầy nghĩ sao?”.
Nếu họ thành thực giữ luật Môsê, sao họ không xử đàn bà đó đi? Họ đang là hạng người có quyền thế trong xã hội Do Thái, còn Đức Giêsu lúc đó chỉ là thường dân. Họ quá ác ý nên Tin Mừng đã chú thích thêm: “Họ nói thế nhằm thử Người để có bằng chứng tố cáo Người”. Họ sẽ tố cáo Người thế nào?
Nếu Người tha cho kẻ ngoại tình, họ sẽ tố cáo Người phá luật Môsê, tức là phản đạo và thông đồng với kẻ tội lỗi, như vậy họ có quyền kết án tử hình Người.
Nếu Người kết án ném đá tội nhân, họ sẽ tố cáo Người đã phạm tội giết người với Chính quyền Đế quốc Rôma, vì luật Hoàng đế cấm người Do Thái không được xử tử ai. Như vậy, chính quyền đế quốc sẽ lên án tử hình cho Đức Giêsu. Họ còn có bằng cơ tố cáo Người đã hành động bất nhất, nghịch với đạo lý yêu thương cứu độ của Người.
Nếu Đức Giêsu mắc vào bẫy của họ, họ sẽ được lợi quá nhiều: Họ sẽ kết án Người cùng với đàn bà ngoại tình, đồng thời không còn ai tin Người là Đấng Cứu thế nữa. Thật là một nhục hình cùng cực, một âm mưu thâm độc, như sau này họ đã thành công kết án tử hình Người trên thập giá.
Trái hẳn với dã tâm gian ác của họ, Đức Giêsu đã hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống âm thầm bãi bỏ án tử hình của loài người, với lý do Người viết trên cát câu thật chí lý: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Mắt Người đã nhìn thấu suốt tâm can của họ và vạch trần tim đen của họ như Thánh Augustinô nói: “Chúa đã viết tội từng người và họ đã từ từ rút lui”. Nếu họ dám ném đá người đàn bà ngoại tình thì họ phải ném đá mình nữa. Đúng như Người đã nói: “Họ thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình”. Rõ thật hạng giả hình: “Chân mình lấm láp lê thê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu là người số một đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới hiên ngang bãi bỏ luật tai ác đó thôi. Ngài là Đấng ban sự sống, lại rất tôn trọng yêu quý sự sống của con người. Dù con người gian ác thế nào, Ngài vẫn lo cứu chuộc. Ngài tự nhận mình là thầy thuốc lo cứu chữa những bệnh nhân, Ngài đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào.
Sự sống dồi dào đó, Đức Giêsu đang ban cho chị phụ nữ bị kết án tử hình được tiếp tục sống: “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay chị được sống dồi dào cả hồn lẫn xác vì chị vừa được tha khỏi bị ném đá và nhất là được tha tội; tâm hồn chị như “tù nhân Sion được Chúa đưa về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Đáp ca Tv. 125). Tâm trạng vui mừng của chị còn hơn các tù nhân lưu đày ở Babilon được tiên tri Isaia loan báo tin mừng sắp được giải thoát. Đức Giêsu đã mở con đường từ ái giải thoát chị, như Thiên Chúa đã mở con đường giữa đại dương giải thoát dân Israel an toàn trở về đất hứa. Đức Giêsu đã mở trong tâm hồn chị một dòng sông để tưới mát những khao khát của chị như Thiên Chúa đã khơi một giòng sông giữa sa mạc khô cằn cho dân Ngài được giải khát. Đức Giêsu đã xây dựng con người chị thành con Thiên Chúa luôn biết vui mừng ca ngợi Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã gầy dựng dân Israel thành một dân luôn biết ngợi khen Thiên Chúa (Bài I).
Bây giờ chị có thể nói như Thánh Phaolô rằng: “Tôi coi tất cả mọi sự chẳng thiệt gì, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu, vì Người, tôi đành mất tất cả và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Bài II).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tự tố cáo và lên án mình để Chúa thương xót con và con được nghe những lời từ ái dịu ngọt rằng: Cha không kết án con vì Cha đến thế gian để hiến mạng sống Cha cứu độ con và cho con được biến đổi sống lại trong ánh sáng phục sinh của Cha.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatvmuachayc #suyniemloichuagpbr