CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG NHƯ MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA GIÊSU – Chú giải của Fiches Dominicales. 9
THẬN TRỌNG TRONG VIỆC XÉT ĐOÁN NGƯỜI KHÁC(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 19
CẨN THẬN VIỆC XÉT ĐOÁN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 27
LUẬT SỐNG– Chú giải của William Barclay. 44
LỜI NÓI, VIỆC LÀM, ƠN CHÚA– ĐGM. Bar. Nguyễn Sơn Lâm.. 47
LÒNG AN VUI THÌ DƯỜNG NHƯ KHÔNG XÉT ĐOÁN – Lm. An tôn Nguyễn Văn Dũng DCCT 57
MIỆNG NÓI NHỮNG ĐIỀU ĐẦY Ứ TRONG LÒNG- Lm. Micae Võ Thành Nhân 62
HÃY BIẾT MÌNH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 66
CÁI RÁC, CÁI XÀ- Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng.. 71
HÃY TỰ BIẾT MÌNH, ĐỪNG XÉT ĐOÁN- Lm. Giuse Quang Nguyễn 74
BIẾT MÌNH, BIẾT NGƯỜI Lm. Fx. Lê Văn Nhạc.. 78
KHÔNG BIẾT VỀ CHÍNH MÌNH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 84
BIẾT RÕ TỐT XẤU- Lm. Giuse Vũ Khắc NGhiêm.. 88
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ðừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói”.
Trích sách Huấn Ca.
Khi người ta sàng, những rác rến còn lại thế nào, thì nết xấu của một người cũng xuất hiện trong lời nói kẻ ấy như vậy. Lò lửa thì nung luyện bình sành, còn gian nan thì thử những người công chính. Xem trái liền biết cây thế nào, thì nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thể ấy. Ðừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói, vì lời nói là sự thử thách của con người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 91, 2-3. 13-14. 15-16
Ðáp: Lạy Chúa, thiện hảo thay việc khen ngợi Chúa! (x. c. 2a).
Xướng: Thiện hảo thay việc khen ngợi Chúa, và đàn ca danh Ngài, ôi Ðấng Tối Cao, hầu loan truyền tình thương Ngài vào buổi sớm, và lòng trung tín Ngài vào lúc ban đêm.
Xướng: Người hiền đức như cây chà là nở hoa tươi tốt, vươn mình lên như cây hương bá đất Liban. Họ được vun trồng trong nhà Chúa, trong hành lang nhà Thiên Chúa chúng tôi họ nở bông.
Xướng: Ngay trong tuổi già họ còn sinh trái, họ đầy nhựa sống và họ sống xanh tươi, để họ loan truyền Chúa nhường bao công chính, Chúa là Ðá Tảng của tôi, nơi Chúa chẳng có gian tà!
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 54-58
“Người đã ban cho chúng ta sự chiến thắng nhờ Ðức Giêsu Kitô”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì lúc ấy ứng nghiệm lời đã ghi chép rằng: “Sự chết đã tiêu tan trong chiến thắng”. “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu? Nọc độc của sự chết là tội, thế lực của tội là lề luật”. Cảm tạ ơn Thiên Chúa, Ðấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Cho nên, hỡi anh em thân mến, anh em hãy ăn ở bền đỗ và đừng nao núng; hãy luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa. Hãy biết rằng công lao khó nhọc của anh em không phải là uổng phí trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 39-45
“Miệng nói những điều đầy ứ trong lòng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy: nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
“Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh’, trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi? Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.
“Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu; và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện; và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra”.
Ðó là lời Chúa.
NGƯỜI MÙ, CON MẮT (*)- Chú giải của Noel Quession
Trong bản văn Lc 6, 34-49, ta thấy một chuỗi những phán quyết của Đức Giêsu hơi bất thường, được nối kết giữa những phán quyết này với những phán quyết kia nhờ những từ mốc nối (“mức độ”, “mắt”, “cây”, “miệng”, “nhà”). Sự lặp đi lặp lại những từ thường được gọi là “tiếng này gợi lại tiếng kia”, là một cách thức được sử dụng trong các nền văn minh truyền khẩu, không có chữ viết, để ghi nhớ một số lời nói nào đó. Nhờ đó, ta mới có một bằng chứng tốt về sự nắm giữ Lời Chúa Giêsu mà các thế hệ đầu tiên của Kitô giáo đã bảo trì, không phải ở trong “sách vở”, nhưng ở trong “ký ức và trong lòng họ”.
Còn tôi, tại sao tôi không biết học thuộc lòng một số câu nào của Chúa Giêsu?
Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?
Qua hình ảnh cụ thể này, Đức Giêsu muốn cảnh giác: hãy có thái độ sáng suốt. Anh em đừng để người ta lôi cuốn mà không kiểm chứng mình đang đi đâu, đang theo ai? Có những người hướng dẫn giả, những ngôn sứ giả, làm dân chúng lầm lạc … Anh em hãy mở to mắt mà nhìn.
Sao ngươi thấy cái rác trong con mắt của anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không thấy?
(Từ móc nối: người mù, con mắt).
Qua hình ảnh cụ thể khác, Đức Giêsu dạy: anh em hãy tỏ ra sáng suốt đối với chính mình. Anh em biết phòng ngừa biết bao người hướng dẫn giả, các ngôn sứ giả … Anh em thường phẩm bình những vị có trách nhiệm hay các người anh em khác dễ dàng … Vậy anh em hãy nhìn kỹ vào đời sống riêng tư của mình cách sâu xa hơn … Hãy mở to mắt trên chính mình! Hãy tự phê bình mình trước đi.
Anh em rất dễ nhìn thấy khiếm khuyết của Giáo Hội, của các linh mục, các Kitô hữu, thường không đồng lập trường với anh em về một số điểm nào đó … Thế thì, thỉnh thoảng anh em hãy để ý nhìn ra những khiếm khuyết riêng của mình xem sao.
Sao ngươi lại dám nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”… Đồ giả hình! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã …
Chúng ta không thường làm giảm nhẹ sắc thái của Tin Mừng sao! Ta không ưa những lời nói thẳng nhặt! Nhất là chúng lại nhắm thẳng vào ta. Đức Giêsu có thể đang nói với tôi, tôi thật là giả hình khi mở miệng phẩm bình kẻ khác.
Cuộc sống chung quanh chúng ta sẽ vui thú hơn biết bao, nếu ta đối xử nghiêm chỉnh với mình hơn với người khác, nếu chính ta biết áp dụng cho mình những lời khuyên tốt mà ta thường nhiều lần nhắc nhở kẻ khác, nếu ta cùng mau mắn cải thiện mình, đồng nhịp với việc cải thiện tha nhân.
Ta không luôn đổ thừa rằng, chính vì lỗi lầm của “kẻ khác” mà mọi sự trở nên xấu hơn sao! Chẳng hạn như: Vì chính quyền làm điều này … Các nghiệp đoàn đã không thực hiện việc kia … Giá kể các chủ nhân tăng cường hơn ở lãnh vực này … Giá kể các thợ thuyền tích cực hơn ở vấn đề đó … Nếu các Cha sở đã làm việc tốt hơn … Nếu chồng tôi khá hơn ở điểm này … Nếu những người lối xóm của tôi …
Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt anh em.
“Nhìn lại đời sống” là một tập luyện thiêng liêng phản ánh tinh thần Tin Mừng rất cao: đó là đặt lại vấn đề về chính mình, là ngắm lại, nhìn lại đời sống cá nhân và những dấn thân riêng tư của mình. Nhưng thay vì duyệt xét lại đời sống của mình, ta lại chỉ nhắm đến việc phẩm bình kẻ khác; thì đó là một bức hí họa đáng ghét!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt, biết nhìn rõ, nhờ đó chúng con có thể giúp đỡ anh em chúng con nhìn rõ hơn.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG NHƯ MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA GIÊSU – Chú giải của Fiches Dominicales
I/. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1/. Một cái nhìn sáng suốt và ân cần,
Hai tuần trước, với “các mối phúc” “những lời than” ta khai mào điện từ trong bình nguyên. Chúa nhật tuần rồi, ta tiếp tục với giáo huấn về tình yêu không giới hạn, tình yêu, như Chúa Cha giàu lòng thương xót, đến độ yêu thương cả kẻ thù Hôm nay, ta sẽ đọc đoạn kết gồm 4 câu riêng rẽ của Đức Giêsu mà Luca tập hợp lại do liên ý, rồi xếp chúng vào mục “các dụ ngôn”.
Ba câu đầu nói về cái nhìn. Cái nhìn phải sáng suốt và trước tiên phải nhìn vào chính mình. Với tha nhân, cái nhìn phải ân cần.
Đó là những lời “chỉ nam” cho đời sống cộng đoàn. Vì đôi khi cộng đoàn trở nên mù quáng, lôi kéo những người khác sa ngã theo. Những lời đó cũng có thể nói cho các môn đệ, lúc nào cũng vội vàng xét đoán và chỉ trích người khác hơn là sửa đổi chính mình. Sẽ sai lầm nếu muốn trở nên nhân chứng của lòng xót thương mà lại có trái tim và ánh mắt không thương xót.
Hugues Cousin viết: “Sống đức tin là một cuộc chuẩn bị lâu dài để nên hoàn thiện” (“được đào tạo chu đáo “) theo câu ai cũng có thể hoán cải, thay đổi lối sống. Ước gì mọi người đều được đào tạo trong trường học Đức Giêsu để lòng thương cảm đối với người tội lỗi sẽ khiến họ có khả năng hướng dẫn người khác: Thật là giả hình đóng kín, khi ca tụng một con đường (chính trực mà bản thân không theo. Chỉ có sự hoán cải không ngừng nghỉ mới đưa tới nếp sống chân thực, giúp thoát khỏi cảnh mù tối và cho phép ta sửa lỗi người khác” (L’Evangile de Luc”, Ccntunon, trg 98).
2/. Một hành động thấm đẫm Tin Mừng:
Câu cuối cùng đề cập đến hành động của Kitô hữu: như ta biết “cây” nhờ “quả”, cũng thế hành vị và lời nói bộc lộ cho thấy trái tim người Kitô hữu có thực sự thấm nhuần Tin Mừng không. Louis Monloubou bình luận rất xác đáng rằng: “Vì con người hành động theo bản chất của mình; dù giả dối, hành vi và lời nói cũng phản chiếu chính xác những gì sâu xa trong đáy lòng anh ta. Ai không có tinh thần Tin Mừng không thể nói ra những lời lẽ mang âm hưởng Tin Mừng”. (“L’Evangile de Luc”, Salvator, tr. 149).
II/. BÀI ĐỌC THÊM:
1/. Ánh mắt Đức Giêsu. (Mgr. L. Daloz, trong “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”, DDB, trg 50-51)
Anh mắt Đức Giêsu nhìn khác ta và Người mong ánh mắt ta cũng được đổi mới: sao cho ánh mắt ấy không phải là ánh mắt đui mù dẫn người khác sa vào hố sâu. Sao cho ánh mắt ta không bị cây xà che kín nhưng được sáng tỏ. Anh mắt Đức Giêsu, ánh mắt Thiên Chúa nhìn vào thực tế hiện hữu của ta, vào sự thực của nếp sống ta, là một ánh mắt khích lệ, khơi gợi, hoạt động. Lời lẽ mà ánh mắt ấy phiên dịch không chỉ là những chỉ dẫn cho trí khôn, nhưng đã trở nên lời lẽ động viên. Lời ấy dẫn đến hành động và xây dựng một đời sống mới trên nền đá vừng chắc. Khi nhìn ai, Người thấy trong đó hình ảnh Thiên Chúa, Cha của Người, Người thấy những đứa con. Người tỏ cho họ biết họ là ai và phải sống như thế nào để trở nên những người con đích thực của Cha”.
2/. Những người thực sự kiến tạo một thế giới mới. (“Sách lễ các Chúa nhật Emmaus”, trg l012).
Ai chẳng mong muốn kiến tạo một thế giới mới chan hòa mình yêu và bình an?
Nhưng rất nhiều khi, hành động vì thế giới của ta bắt đầu bằng phê phán kẻ khác.
Thế là ta đã tự động chiếm chỗ của Thiên Chúa phán xử. Làm thế, ta chỉ chà đạp những người chung quanh và loại mình ra ngoài cuộc chơi mà thôi. Cứ nghĩ mình ngay tình, cứ tưởng mình hành động cho việc thiện ích, ta tiếp tục gây chia rẽ.
Khi tố cáo giới chức quyền Do Thái, những kẻ thực sự phản chứng do thái độ của họ, Đức Giêsu kết án xu hướng bản năng của mọi người. Chúng ta ai mà chẳng kết án tha nhân, khi cứ tự coi chân lý của riêng mình như là Chân Lý viết hoa. Như thế ta chỉ là những tiên tri giả, phá huỷ thế giới mới mà ta tự hào là góp tay kiến tạo.
3/. “Lời lẽ và con tim”. (Mgr. L. Daloz, trong “Nước Trời đã đến gần” DDB. 1994, trg 182- 183).
“Điều nói ngoài miệng, tràn ra từ tâm hồn…”
Nhiều lần, Đức Giêsu đã phải lên tiếng về tầm quan trọng của lời nói.
Đức Giêsu mời ta khám phá lại nguồn cội của lời nói. Thật hữu ích khi nghe Người, nhất là trong thời buổi mà người ta dễ dãi cho rằng lời nói bay đi. Tìm lại tính chất nghiêm trọng của lời nói, nội dung và hệ quả của nó, là góp phần vào việc sám hối của Kitô hữu. Ngày nay lời nói thường hối hết mau qua. Đức Giêsu tái lập trách nhiệm của con người với lời nói. Người truy nguyên lời nói từ trái tim. Lời nói mang dấu ấn của người nói. Lời nói chứa chất những ý hướng và tình cảm của người nói, ngay cả khi lời nói trung dung hoặc diễn tả dưới hình thức thật khách quan: luật Rôma, luật Napôlêon đều mang dấu ấn tinh thần của thời đại họ sống và quan niệm của những nhà làm luật!… Tin Mừng soi sáng mọi hoàn cảnh, kể cả những hoàn cảnh hiện thực nhất. Lối so sánh mà Đức Giêsu sử dụng thật mạnh mẽ: so sánh cây và quả. So sánh mạnh mẽ và rất ý nghĩa, vì quả lớn lên nhờ nhựa cây nên quả chứa đựng nhiều phẩm chất cũng như những khiếm khuyết của cây…
Cũng vậy, lời lẽ không chỉ bên ngoài con người. Lời nói chính là sự bộc bạch của tâm hồn: “Và lòng có đầy miệng mới thốt ra”. Lời nói cho biết con người, và những gì họ chất chứa trong lòng. Lời nói chứa đầy những tư tưởng, tình cảm, đam mê của người nói. Như thường lệ, Đức Giêsu kéo ta chú ý đến nội tâm con người. Người đi đến tận thâm tâm con người. Chẳng có luật lệ bên ngoài để xét xử lời nói. Chính lời nói biểu lộ phẩm chất, con người của họ. “Người tốt rút ra từ kho tàng tốt lành của mình những điều tối dẹp. Người xấu, rút ra từ kho tàng xấu xa của mình những điều xấu xa”. Lời nói bộc bạch loại kho tàng mà người nói cất giấu trong mình.
- Những điều kiện của lòng nhiệt thành
Bố cục: Có thể chia đoạn này thành 5 phần:
– cc 39-40: thí dụ về người hướng đạo mù.
– cc 41-42: thí dụ về cái xà và cọng rác.
– cc 43-44: thí dụ về cây và trái.
– câu 45: thí dụ về “kho tàng” trong lòng.
– câu 46-49: phải thi hành những lời dạy trên
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu từng phần theo bố cục này.
DẪN NHẬP
Đoạn này là một phần của “Bài giảng trên cánh đồng” (6,17-49).
Bài này giảng cho ai? Cho các môn đệ (c.20 “Đức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…”).
Nội dung chính: Đức Giêsu dạy cách sống của người môn đệ.
Trong “Bài giảng trên núi” do Mt ghi lại, cách sống của người môn đệ chủ yếu là phải gương mẫu. (như muối ướp trần gian, như đèn tỏa sáng trước mặt mọi người, Mt 5,13-16). Còn trong “Bài giảng trên cánh đồng” do Luca ghi lại. Luca kể ra những điều kiện cần có để có thể là một môn đệ gương mẫu.
I/ – NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO MÙ: 39-40
1). Phần này gồm hai câu nói của Đức Giêsu: c.39 “làm sao kẻ mù dắt được kẻ mù…” và c.40 “môn đệ không hơn Thầy được…”.
Hai câu này được Mt ghi lại ở hai nơi khác nhau (Mt 15,14 và Mt 10,24) vậy có lẽ đây là hai logia, nghĩa là hai câu nói rời mà Đức Giêsu đã nói vào hai lúc khác nhau, nhưng ở đây chúng được Luca tập họp chung lại. Vì thế mà ta thấy sự liên hệ giữa chúng không được chặt chẽ, đưa đến một logic cũng lỏng lẻo.
2). Muốn cho có logic, có lẽ ta phải đảo ngược lại như sau:
– Trên nguyên tắc, môn đệ dốt hơn thầy.
– Do đó, nếu thầy mà mù quáng để dạy những điều sai lầm, thì môn đệ còn bị sai lầm hơn nữa.
– Người môn đệ của Đức Giêsu có trách nhiệm hướng dẫn kẻ khác (họ trở nên “thầy” của kẻ khác). Trước khi làm việc hướng dẫn này, họ phải cẩn thận đừng để mình bị sai lầm.
Muốn thế, một mặt họ phải cố gắng rập khuôn theo Đức Giêsu – Tôn sư của họ. Và mặt khác phải tự phê tự sửa trước khi phê bình và sửa chữa người khác.
3) Tóm lại: điều kiện thứ nhất của người môn đệ gương mẫu là phải sáng suốt bằng cách rập khuôn theo Tôn sư Giêsu và tự phê tự sửa.
– CÁI XÀ VÀ CỌNG RÁC: 41-42
– Ngoài trách nhiệm hướng dẫn người khác theo đúng giáo huấn của Tôn sư Giêsu, người môn đệ đôi khi cũng phải sửa lỗi người khác (“lấy cái rác trong con mắt anh em ra”). Những câu trong phần này không cấm đoán việc sửa lỗi, trái lại chúng nói về việc sửa lỗi ấy.
– Nhiều khi việc sửa lỗi không được công bằng vì lý do thành kiến, tự ái, hồ đồ vv… khiến ta xem một lỗi nhỏ của người khác thành lỗi nặng. Ngược lại xem một lỗi nặng của bản thân như lỗi nhỏ. Cho nên để việc sửa lỗi được công bằng và hữu ích thì trước tiên không được sửa lỗi người khác do động cơ tự ái, thành kiến hoặc chỉ để chứng tỏ uy quyền.
– Nguy hiểm thứ hai phải đề phòng khi sửa lỗi người khác, đó là giả hình (“Thấy cái rác trong con mắt anh em mà không thấy cái xá trong con mắt mình” ; “Hỡi kẻ giả hình”). Nghĩa là bên trong và bên ngoài của ta không hợp nhau: trong lòng mình xấu thế mà mình tỏ ra tốt và muốn sửa cái xấu nơi người khác. Vậy trước khi sửa người thì phải sửa chính mình (“Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ để lấy cái rác trong con mắt người anh em”)
III/ – CÂY VÀ TRÁI: 43-44
1). Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Đức Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2). Trên thực tế, lòng người không phải tuyệt đối hoặc tốt hoặc xấu, không ai hoàn toàn tốt mà cũng không ai hoàn toàn xấu. Thí dụ về cây và trái ở phần này xem ra không thực tế vì nó giả thuyết lòng người đơn thuần là tốt hẳn hoặc xấu hẳn.
Đây là kiểu nói đơn giản và cường điệu của Đức Giêsu để làm nổi bật bài học của Ngài và cũng dễ hiểu cho độc giả bình dân vốn không quen những phân biệt tế nhị của người trí thức.
IV/ – KHO TÀNG TRONG LÒNG: 45
1). Trong phần này, Đức Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt.
2) Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Đức Giêsu.
V/. PHẢI THI HÀNH: 46-49
Tất cả những lời dạy trên đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng ích lợi gì, và người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ Đức Giêsu. Họ chỉ như một cái nhà được xây trên cát mà thôi. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành thì mới xứng đáng là môn đệ Ngài, họ như cái nhà được xây trên đá vững chắc.
KẾT LUẬN
Người môn đệ của Đức Giêsu không phải chỉ là người chấp nhận thương yêu kẻ thù (đoạn trước: cc 27-36), mà còn phải là người nhiệt thành muốn cho người khác tiến bộ trên con đường tốt. Cho nên người môn đệ lo hướng dẫn người khác, đôi khi nếu cần thì sửa lỗi người khác. Nhưng trước khi hướng dẫn người ta thì mình phải sáng suốt theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu. Trước khi sửa lỗi người khác thì mình phải tự sửa mình cho đúng với giáo huấn của Đức Giêsu.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
THẬN TRỌNG TRONG VIỆC XÉT ĐOÁN NGƯỜI KHÁC(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 8 Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thận trọng trong việc xét đoán người khác.
Hc 27: 4-7:
Trong đoạn trích sách Huấn Ca, hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời ăn tiếng nói.
1Cr 15: 54-58:
Trong đoạn thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chia sẻ với độc giả của mình một sự hiểu biết mới liên quan đến cuộc phục sinh của người tín hữu.
Lc 6: 39-45:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy rằng đừng vội xét đoán người khác nhưng hãy xét đoán chính mình.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 4-7)
Tác giả sách Huấn Ca là ông Ben Xi-ra, một hiền nhân Do thái. Ông là người học rộng biết nhiều, trung thành tuân giữ các giới luật, ca ngợi vinh quang của các bậc tổ tiên và hãnh diện về những đặc ân của dân Ít-ra-en, dân của Giao Ước và Minh Triết; nhưng đồng thời có tinh thần cởi mở với thế giới và không ngần ngại xét lại vài vấn đề trong những vấn đề lớn của niềm tin. Với tâm trí sâu sắc, khôn khéo, quân bình, hướng đến những giải pháp mực thước và cẩn trọng, ông là nhà luân lý lão luyện nhất trong tất cả các nhà luân lý Ít-ra-en. Đây là nhà cố vấn khôn ngoan cho mọi cảnh sống trong những thời kỳ yên hàn. Ông không giảng dạy tinh thần anh hùng, đó không là nhân đức thường ngày. Vui vì được phụng sự Thiên Chúa, ông hài lòng truyền đạt cho các môn sinh của ông những nguồn hạnh phúc của mình. Nhưng xin đừng ai coi thường giáo huấn như thế.
Trong đoạn trích dẫn ngắn của sách Huấn Ca hôm nay (Hc 27: 4-7), hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời nói: Lời nói bộc lộ bản chất của một người, vì thế qua lời nói, chúng ta có thể biết được người ấy như thế nào. Do đó, chớ vội xét đoán khi chưa nghe người ta nói. Câu tục ngữ Việt Nam dạy cách đối nhân xử thế đáng cho chúng ta ghi nhớ:
“Lời nói chẳng mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 54-58)
Trước đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân đã giải đáp một vấn nạn mà người tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nêu ra về số phận của những người đã qua đời trước khi Chúa đến như thế nào: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su” (1Tx 4: 13-14). Giờ đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân khai sáng một khía cạnh mới của sự phục sinh: “Tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15: 51). Không chỉ chúng ta được ở “với” Chúa, chúng ta cũng sẽ nên giống “như” Ngài. Chính nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà chỉ trong nháy mắt hình thể của người sống và kẻ chết được biến đổi thành tình trạng vinh quang (15: 52-53).
1/.Vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ được biến đổi như Đức Ki-tô (15: 54-57):
Để chứng minh rằng kẻ chết sống lại luôn luôn thuộc vào kế hoạch của Thiên Chúa, thánh nhân quy chiếu đến Kinh Thánh (15: 54-55): Thiên Chúa có quyền năng trên sự chết. Thánh Phao-lô sánh ví Tử Thần như con bò cọp khổng lồ chích nọc độc tội lỗi vào chúng ta khiến chúng ta chịu thống trị dưới quyền lực của nó. Sức mạnh của nọc độc này được minh họa bởi sự bất lực của Lề Luật trước tội lỗi (15: 56). Từ kinh nghiệm về sức mạnh khủng khiếp của Tử Thần, thánh Phao-lô vỡ tràn thành lời cầu nguyện tạ ơn (15: 57), vì chúng ta trải qua rồi cuộc chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh mà Thần Khí của Ngài đang thay hình đổi dạng cuộc sống của chúng ta bằng cách chinh phục tội lỗi trong chúng ta và cướp chúng ta ra khỏi nanh vuốt của Tử Thần.
2/.Hiện nay, chúng ta phải sống như những người chiến thắng sự chết (15: 58):
Vì thế, thánh Phao-lô khuyên độc giả của ngài phải sống như thế nào để cuộc chiến thắng thành hiện thực. Lời dạy cốt yếu của thánh nhân chính là toàn bộ con người chúng ta, chứ không chỉ một yếu tố nào, được kêu mời hướng đến sự sống. Con người chúng ta phải được thay hình đổi dạng để càng ngày càng trở nên giống như Đức Ki-tô, do đó hiện nay chúng ta đang phải sống trong cái thân hư nát phải chết này, đừng phạm tội, và “càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa” (15: 58).
TIN MỪNG (Lc 6: 39-45)
Ngay từ đầu Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca lưu ý với chúng ta rằng chúng ta đang đứng trước dụ ngôn: “Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này”. Với thể loại dụ ngôn, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta tìm ý nghĩa của các câu chứ không dừng lại ở hình ảnh. Điều cốt yếu mà Ngài muốn truyền đạt chính là các môn đệ phải đối nhân xử thế như thế nào trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta gặp lại đề tài xét đoán ở đây, trước đó từ chối xét đoán kẻ thù, giờ đây từ chối đoán xét “anh em”, tức là các thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội.
1/.Hãy tự xét đoán chính mình (6: 39-42):
Với dụ ngôn: “Người mù dắt người mù” (6: 39-40), Đức Giê-su mời gọi đừng xét đoán. Tuy nhiên, không xét đoán không có nghĩa là đặt tất cả trên cùng một bình diện như nhau. Có nhiều Ki-tô hữu còn lâu mới trưởng thành trong đời sống Ki-tô giáo (x. 1Cr 3: 1-3), vì thế, khôn ngoan nhất chính là trước khi xét đoán người khác, hãy tự xét đoán chính mình, vì người mù tối không thể tự phụ hướng dẫn người khác đến ánh sáng trọn vẹn của niềm tin.
Cuộc sống của người tín hữu là một chuẩn bị lâu dài để trở nên hoàn thiện (được dày công huấn luyện đầy đủ) để rồi người ấy sẽ nên giống như Thầy của mình là Đức Giê-su, Đấng hằng tâm niệm rằng mọi người đều có thể hoán cải, thay đổi đời sống. Ước gì mỗi người học sống theo mẫu gương tha thứ và yêu thương của Đức Giê-su đối với tội nhân, nhờ đó họ có khả năng hướng dẫn người khác, như Đức Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy sẽ cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Đó cũng là thái độ của Đức Giê-su Phục Sinh khi Ngài gặp lại thánh Phê-rô bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, lúc đó Ngài không một mảy may đá động gì đến ba lần thánh nhân đã chối Thầy, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống kinh nghiệm tha thứ và yêu thương của Thầy mà biết cư xử với đoàn chiên mà Ngài giao phó thánh nhân coi sóc (Ga 21: 15-17).
Với dụ ngôn: “Cái rác trong mắt người cái xà trong mắt ngươi” (6: 41-42), Đức Giê-su dạy rằng con người thường dễ thấy khuyết điểm của người khác mà không thấy khuyết điểm của mình, phê phán người khác mà không tự phê phán chính mình: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (6: 41). Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Đức Giê-su nhiều lần cảnh báo. Chỉ có một cuộc sống hoán cải liên tục, tự kiểm điểm và tự hoàn thiện bản thân mình, mới giải thoát chúng ta khỏi chứng mù lòa tâm linh và cho phép chúng ta sửa đổi được cách sống của người khác. Dụ ngôn “cái rác” và “cái xà” nhắc nhở chúng ta phải sống tốt trước đã rồi mới bảo người khác sống tốt được.
2/.Hãy đổ tràn trong tâm trí giáo huấn của Đức Giê-su (6: 43-45):
Với dụ ngôn: “Cây nào trái nấy” (6: 43-44), Đức Giê-su đưa ra cho chúng ta tiêu chuẩn để phân biệt người tốt kẻ xấu trong cuộc sống. Để phân biệt cây nào tốt cây nào xấu, chúng ta cần chăm chú nhìn vào trái mà cây trổ sinh, chứ không “hoa lá cành” của nó. Cũng vậy, để phân biệt người tốt kẻ xấu chúng ta nhìn vào những việc làm, chứ không những lời nói của người ấy. “Vì không thiếu những người ở đây trên cõi thế, khi tiếp cận với họ, hóa ra họ không là gì cả chỉ là hoa lá cành hào nhoáng bên ngoài. Chỉ là cành lá rậm rạp chứ không có gì thêm. Trong khi đó, nhiều tâm hồn đang chăm chú nhìn vào chúng ta hy vọng được no thỏa cơn đói của họ, cơn đói Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta có tất cả mọi nguồn chúng ta cần. Chúng ta có đủ đạo lý và thiên ân, bất chấp cảnh đời bất hạnh của chúng ta” (Bl. J. Escriva, Friends of God, 51).
Với dụ ngôn: “Lòng đầy miệng mới nói ra” (6: 45), Đức Giê-su sánh ví cái tâm của con người với một kho tàng: cái tâm tốt thì xuất phát những lời nói và việc làm tốt, cái tâm xấu thì xuất phát những lời nói và việc làm xấu: “Thiện căn bởi tại lòng ta”. Bởi thế, người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng của lòng mình chứa đầy những điều tốt, tức là những giáo huấn của Đức Giê-su. Thánh Bê-na-đô giải thích: “Kho tàng của lòng mình cũng tương tự như cội rể của cái cây. Người nào có một kho tàng của đức nhẫn nại và đức ái hoàn hảo trong lòng mình, người ấy sinh ra hoa trái tuyệt vời; người nào yêu mến người thân cận của mình và có mọi phẩm chất khác mà Đức Giê-su dạy, người ấy yêu thương kẻ thù của mình, đối xử tốt kẻ ghét mình, chúc phúc cho người nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình, không phản ứng chống lại kẻ tấn công mình hay trấn lột mình; người ấy cho những ai xin mà không đòi hỏi những gì họ đã lấy cắp của mình, ước mong không xét đoán và kết án, sửa lỗi một cách kiên nhẫn và đầy lòng nhân ái những người lầm lạc. Nhưng người nào có kho tàng của sự gian ác trong lòng mình, người ấy đúng là hành xử ngược lại: hắn ghét bạn bè của mình, nói xấu người yêu thương mình và làm những điều khác nữa mà Chúa kết án” (In Lucae Evangelium expositio, II, 6).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CẨN THẬN VIỆC XÉT ĐOÁN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Cuối bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu khuyến cáo đừng xét đoán. Lời Chúa hôm nay nói tiếp về đề tài xét đoán:
– Trước khi xét đoán người khác thì phải tự xét đoán bản thân (Bài Tin Mừng)
– Phải xét đoán cẩn thận dựa trên nguyên tắc nhân quả, vì “xem quả thì biết cây” (Bài đọc I và Bài Tin Mừng)
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi.
Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.
– Chúng con hay phê phán và lên án người khác.
– Chúng con thường sống giả hình.
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (Hc 27,4-7)
Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói:
– Lời nói bộc lộ cái dở của một con người
– Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.
– Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.
2/. Đáp ca (Tv 91)
Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình: họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.
3/. Tin Mừng (Lc 6,39-45)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:
– Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
– Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
– Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
4/. Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)
Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại:
– Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.
– Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.
IV/. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Bàn về lời nói
Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật: dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.
Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác: điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Ngài đã trách các kinh sư do thái rằng “Họ nói mà không làm” (Mt 23,3).
Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. “Lời nói” mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.
Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói: phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.
Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân:
– Tôi thường nói những chuyện gì? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.
– Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.
– Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.
* 2. Sửa mình trước khi sửa người
Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường: Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.
Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh: bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.
Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp:
– Áp dụng cho chính bản thân: hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.
– Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo: vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.
* 3. Cây đời xanh tươi
Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc – thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói: “Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại”.
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: “Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
***
“Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố” (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra”.
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: “Hãy tự biết mình”. Thánh Augúttinô thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích; và ưa “vạch lá tìm sâu”.
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Ki tô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
***
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình
Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: “Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy”. Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các Thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: “Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!” Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.
Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.
Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.
Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ?
Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!
Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)
* 5. Cái xà trong con mắt
Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.
Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.
Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.
Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?”. Con chích choè không chịu thua, cãi lại: “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”. Con tê giác nghĩ trong bụng: “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: “Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi”. Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.
Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!
Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.
Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)
* 6. Sửa đổi tính tình
Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.
Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.
Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của Thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.
Thế là Thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.
Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới”
Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.
Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con”. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời”.
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:
1/. Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.
2/. Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.
3/. Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.
4/. Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
LUẬT SỐNG– Chú giải của William Barclay
Chúng ta đọc thấy một chuỗi những câu nói có vẻ không liên hệ nhau. Có hai cách giải thích: có thể Luca thâu góp những lời Chúa Giêsu đã nói trong những dịp khác nhau và ông cho chúng ta một bảng tóm lược các luật sống. Hoặc có thể đây là điển hình về phương pháp giảng dạy của Do Thái. Người Do Thái gọi giảng dạy là charaz, nghĩa là xâu chuỗi. Các rapbi có dạy rằng diễn giả không nên nói lâu về một đề tài, nhưng để hấp dẫn thính giả, nên thay đổi mau chóng từ đề tài này sang đề tài khác. Vì thế lời giảng của người Do Thái có vẻ rời rạc đối với chúng ta. Đoạn Kinh Thánh này được chia làm bốn phần.
*Câu 39-40, Chúa Giêsu cảnh cáo thính giả rằng không giáo sư nào có thể đưa học trò mình đi xa mức độ mà chính mình đã đạt và đây là lời cảnh cáo hai chiều cho chúng ta. Trong khi học, chúng ta chỉ nên học với một giáo sư tốt nhất vì chỉ có giáo sư ấy mới có thể đưa chúng ta tới một độ cao nhất. Trong khi dạy, chúng ta đừng quên rằng chúng ta không thể dạy điều gì mình không biết.
*Câu 41-42, đây là một tỷ dụ về tính khôi hài của Chúa Giêsu. Hẳn Ngài đã mỉm cười khi vẽ bức hoạ về một người có cái xà trong mắt mình mà cứ cố gắng moi một cái rác ra khỏi mắt kẻ khác. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không có quyền phê bình khi chúng ta còn khuyết điểm. Điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền đoán xét gì cả, bởi “có nhiều điều xấu trong những người tốt nhất, có nhiều điều tốt trong những người xấu nhất giữa chúng ta, đến nỗi ai trong chúng ta cũng phải xấu hổ khi muốn moi tội kẻ khác”.
*Câu 43-44 nhắc nhở chúng ta chỉ có thể nhận xét người khác qua việc làm của họ. Có người nói với một giáo sư: “tôi không thể nghe lời ông nói vì đã thấy con người của ông rồi”. Giảng và dạy, cả hai điều là “sự thật qua nhân cách”. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt. Điều đó rất thích hợp cho ngày nay. Chúng ta sợ hãi tiếng đe doạ của các phong trào thế tục. Chúng ta không bao giờ đánh bại được các phong trào đó bằng cách viết nhiều sách báo và tổ chức nhiều cuộc giảng thuyết. Con đường duy nhất để chứng tỏ tính siêu việt của Kitô giáo là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Kitô giáo sản xuất ra những người tốt thật.
*Câu 45. Trong câu này Chúa Giêsu nhắc chúng ta xét cho cùng, lời nói ở môi miệng chúng ta chỉ là sản phẩm của lòng chúng ta. Không ai có thể mở miệng nói về Chúa nếu Thánh Linh không ở trong lòng người ấy. Không có điều gì bộc lộ rõ tâm trạng của một người cho bằng chính lời nói của họ, khi họ không ý tứ lúc nói năng, khi họ tự do phát ngôn, nghĩ sao nói vậy. Nếu bạn hỏi thăm đường đến một chỗ nào đó, người thì bảo nó ở gần nhà thờ nọ, người khác lại bảo nó ở gần rạp hát kia, người khác lại chỉ nó gần sân bóng đá, người khác nữa nói nó gần một công sở. Chính câu trả lời cho một câu hỏi bất ngờ có thể cho thấy tư tưởng của người đó thường tập chú vào đâu và những sở ước của họ đặt ở đâu. Lời nói của chúng ta phản ánh tâm địa của chúng ta.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN-C
LỜI NÓI, VIỆC LÀM, ƠN CHÚA– ĐGM. Bar. Nguyễn Sơn Lâm
Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.
Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.
- Lời nói
Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.
Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).
Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.
Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống… Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.
Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.
- Việc làm
Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.
Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.
Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?
Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.
Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.
Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?
Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ “lòng” người ta, vì “người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác”.
Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ “lòng” con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?
- Ơn Chúa
Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.
Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như “thần thánh”. Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.
Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.
Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn Ca và Tin Mừng vậy.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
LÒNG AN VUI THÌ DƯỜNG NHƯ KHÔNG XÉT ĐOÁN – Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng DCCT
Trong cuộc sống thường ngày, con người chúng ta dễ có khuynh hướng khen, chê và phán xét người khác. Ta phán xét người khác có thể bằng lời nói, bằng cử chỉ, hoặc đôi khi chỉ là nghĩ thầm trong bụng về chuyện này chuyện khác của người ta.
Nhất là khi ngồi lại với nhau để chuyện trò, chúng ta thường có khuynh hướng khoe những điều tốt về bản thân mình bằng cách so sánh cái tốt của mình với cái dở của người khác, còn những cái dở, cái xấu của mình thì cố giấu cho bằng được. Gắn với xét đoán tiêu cực người khác thường là một thái độ ganh tị, đả phá, trả thù cho bõ tức. Còn khi nhận xét để góp ý cho người khác sửa sai, tránh lỗi lầm, thì bao giờ ta cũng dễ dàng có sự bao dung, nhẹ nhàng trong cử chỉ và lời nói.
Hơn nữa, có một sự thật khá hiển nhiên: Một khi lòng ta nhẹ nhàng, thanh thản, an vui, thì ta thường nghĩ đến người khác với một thái độ tích cực và đầy bao dung, chứ chẳng muốn phán xét hay nặng lời với họ. Còn khi ta thích phán xét, thích nói xấu người khác thì lại là lúc chính ta thiếu sự bình an, hạnh phúc trong lòng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô bảo rằng “những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình.” Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thì nói trực tiếp vào vấn đề hơn: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”
Đặt mình trước Lời Chúa hôm nay, tôi với bạn thử ngẫm lại xem, mỗi khi ta chỉ trích, phán xét người khác, thì thật sự trong lòng ta đang an vui, hạnh phúc hay lòng ta đang ấm ức, bức xúc, tị hiềm? Nếu thấy lòng ta còn ấm ức, hậm hực, thì Chúa bảo ta rằng: Con hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ con sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh chị em con!
- Đừng xét đoán
Cuốn phim “Người lính đại đồng” được trình chiếu tại Manila là một trong những cuốn phim ăn khách nhất hiện nay. Cuốn phim kể lại cuộc chiến một mất một còn của hai người máy. Đây không phải là hai người máy hoàn toàn, mà là hai xác chết được hồi sinh và trang bị bằng hệ thống điện toán tinh vi để sinh hoạt như những con người bằng xương bằng thịt. Trước đây hai người đã từng chiến đấu bên nhau tại Việt Nam. Một hôm, do sự thù hận ngấm ngầm, một người đã nhẫn tâm tàn sát một đôi trai gái Việt Nam. Thế là cuộc xô xát đã diễn ra giữa hai người và kết thúc là cả hai đã tàn sát lẫn nhau. Người ta đã bí mật đưa hai tử thi về Mỹ và biến thành hai người máy chuyên trách diệt trừ khủng bố, cũng như bất cự mục tiêu quân sự nào. Thừa lệnh chủ thi hành bất cứ công tác nào, kể cả việc thủ tiêu những người tình cờ biết được việc làm của chủ, hai người máy này hành động không chút suy nghĩ và do dự. Thế nhưng, một hôm trí nhớ bỗng được phục hồi một trong hai người, cùng với trí nhớ, lương tri cũng được sồng lại. Kể từ đó anh không chỉ là một người máy chỉ biết có chém giết, mà là một con người hành động theo lẽ phải và sự thật. Kể từ đó cuộc chiến của anh đã trở thành cuộc chiến chống lại tội ác mà hiện thân là người máy đã một thời chiến đấu với anh.
Cuốn phim trên hẳn muốn minh hoa cho một luận đề: không người nào sinh ra trên đời này là một con người xấu xa hoàn toàn. Nơi một góc nào đó của tâm hồn, ngọn lửa của nhân tính vẫn luôn âm ỉ cháy, và trong những điều kiện thuận lợi, ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy lên. Đó cũng là cái nhìn của Kinh Thánh về con người, con người vốn được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa, do đó dù nghèo hèn, xấu xa đến đâu vẫn luôn mang trong mình khát vọng vô biên về thiện hảo.
Chúa Giêsu đã nhìn con người bằng cái nhìn ấy. Ngài kết thân với những người tội lỗi và giai tầng thấp nhất trong xã hội là để nói với mọi người rằng mỗi người có một giá trị, mỗi người có một chỗ đứng cá biệt trong tình yêu Thiên Chúa. Chính cái nhìn ấy về con người đã khiến Chúa Giêsu luôn tỏ ra cảm thông, khoan dung trước những vấp ngã yếu hèn của con người. Tin mừng kể lại rằng khi đám đông lôi một người đàn bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trước tòa án nhân dân và dựa trên luật Môsê để nám đá chị. Họ chờ đợi một án quyết của Chúa. Ngài với họ: “ Ai vô tội thãy ném đã chị ta trước đi”. Rồi Ngài nói với người Phụ nữ “ Chị hãy về đi, tôi không kết án chị”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta có cái nhìn của Ngài về con người và cư sử như chính Ngài, nghĩa là cảm thông, tha thứ trước những vấp ngã của người anh em Ngài nói với chúng ta “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước rồi lấy cái rác khỏi mắt anh em”.
Cảm thông tha thứ là thái độ của niềm tin. Người Kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn tha thứ cho những vấp ngã của mình. Qua sự tha thứ ấy, người Kitô hữu cảm nhận được cơ may mà Thiên Chúa luôn dành cho họ. Tin ở sự tha thứ của Thiên Chúadành cho mỗi người, người kitô hữu cũng được mời gọi tha thứ cho người anh em và qua đó dành cho người anh em một cơ may mới. Thật vậy, tha thứ cho một người nào đó là muốn nói rằng người đó không hoàn toàn là một con người xấu, rằng sự vấp ngã không phải là một chấm hết. Tha thứ là đánh thức dậy cái phần cao quí nhất trong tâm hồn con người. Tha thứ là tạo ra cơ may mới cho con người. Trong ý nghĩa ấy, tha thứ mà người kitô hữu thể hiện chính là tham dự vào sự tái tọa của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
MIỆNG NÓI NHỮNG ĐIỀU ĐẦY Ứ TRONG LÒNG- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Trên các phương tiện truyền thông hàng ngày như là báo chí, rađiô, truyền hình, mạng xã hội, internet…, chúng ta đọc, chúng ta nghe, chúng ta thấy các quốc gia lên án chỉ trích nhau, các chế độ lên án chỉ trích nhau, các tổ chức lên án chỉ trích nhau, các cá nhân con người chúng ta cũng lên án chỉ trích nhau. Sở dĩ có tình trạng này vì con người chúng ta không thấy lầm lỗi, nết xấu của mình mà chỉ thấy toàn là lầm lỗi, nết xấu của người khác. Như người đời thường hay nói: “ Việc mình thì quáng, việc người thì sáng “, lầm lỗi, nết xấu của bản thân thì chúng ta không thấy, dù lầm lỗi, nết xấu đó rất lớn, nhưng lầm lỗi, nết xấu của người khác, dù là nhỏ bé thôi, qua cái nhìn của chúng ta, chúng ta thấy nó rất lớn, thật đúng như lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “ Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh “ trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi ( Cái rác là lầm lỗi, nết xấu nhỏ, cái đà là lầm lỗi, nết xấu lớn ).
Chúa dạy chúng ta hãy lấy cái đà trong con mắt của chúng ta ra trước đã. Nghĩa là chúng ta hãy trở về với chính bản thân mình, tự xét mình để nhìn thấy những tội lỗi, tính hư tật xấu, đam mê xác thịt, và những khuyết điểm để mà sửa đổi bản thân mình trước, rồi từ đó mới có thể giúp đỡ người khác sửa lỗi. Muốn làm được điều này, chúng ta phải noi gương Chúa là sống khiêm nhường, hạ mình xuống, cần có ơn thánh của Chúa và sau đó là sự trợ giúp của mọi người để rồi chúng ta mới sửa mình mỗi ngày. Chúng ta cần phải cố gắng, kiên trì, bền đỗ, thực hiện, không nao núng, để luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa, vì công lao khó nhọc chúng ta sẽ không phải là uổng phí trong Chúa ( Bđ II ).
Chúng ta là môn đệ của Chúa, là con cái của Chúa, sống trong gia đình của Chúa, chúng ta cần giúp nhau sửa lỗi để sống mỗi ngày tiến bộ hơn, đặc biệt là giúp nhau nên thánh. Tự bản thân chúng ta phải sống thánh trước rồi mới giúp đỡ người khác, kẻo không thì như Lời Chúa nói: “ Người mù có thể dẫn người mù được chăng ? Cả hai lại không sa xuống hố ư “.
Trong thực tế cuộc sống, đôi khi chúng ta còn huênh hoang, tự đắc, kiêu ngạo, tự cho rằng mình hơn mọi người để rồi chẳng chịu sửa mình mà cứ sửa lưng người khác, và rồi từ đó làm cho cuộc sống chung trở nên xáo trộn, mất bình an …Sở dĩ có tình trạng này là vì chúng ta chưa thực hiện những Lời Chúa dạy bảo. Chúng ta nghe Lời Chúa nói rất nhiều với chúng ta như mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, chúng ta nghe công bố Lời Chúa, chúng ta nghe linh mục chia sẻ Lời Chúa, nhưng mà Lời Chúa chẳng thấm nhập vào lòng chúng ta là bao. Nghe lời Chúa rồi, chúng ta quên mất vì khả năng trí óc chúng ta có giới hạn, lại thêm bao nỗi lo toan cơm, áo, gạo, tiền, danh, lợi, thú ….Tất cả những thứ đó nó choáng hết tâm trí chúng ta, không còn chỗ cho Lời Chúa đọng lại.
Vì thế, để cho Lời Chúa đi vào cuộc sống của chúng ta; trước hết và trên hết, chúng ta cần phải nghe Lời Chúa bằng cả trí óc, cả trái tim, cả tấm lòng, nghĩa là chúng ta nghe bằng tình yêu, và rồi một khi chúng ta đã yêu mến Lời Chúa, chúng ta sẽ ấp ủ Lời Chúa , gẫm suy Lời Chúa. Lời Chúa lúc đó sẽ đi vào trong xương tủy, trong máu thịt, trong tư tưởng, nghĩ suy của chúng ta. Chúng ta đã có chất Lời Chúa bên trong rồi, lúc này Lời Chúa sẽ điều khiển lời nói và việc làm của chúng ta, giúp chúng ta chỉ nói và làm các điều lành, điều thiện, điều tốt mà thôi. Những người khác khi thấy lời nói và các việc lành, việc thiện, việc tốt chúng ta làm, họ sẽ tìm đến với Chúa là nguyên nhân các lời nói và các việc lành chúng ta làm “ Người tốt phát ra điều tốt, từ kho tàng tốt của lòng mình.., lòng đầy thì miệng mới nói ra “, hoặc như Lời Chúa được trích từ sách Đức Huấn Ca ở bài đọc một: “ Xem trái liền biết cây thế nào, thì nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thế “ và rồi họ cũng trở thành con của Chúa như chúng ta.
Lạy Chúa, xin Chúa dạy chúng con biết sống khiêm nhường, biết đấm ngực nhìn nhận tội lỗi của mình “ Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng, vì vậy tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và cùng anh chị em khẩn cầu cho tôi trước tòa thiên Chúa, Chúa chúng ta “, mà sửa đổi bản thân, phải lo trao dồi nhân đức chúng con trước, và xin Chúa cũng giúp chúng con biết lấy tình thương mà đối xử với nhau, cảm thông với nhau, cầu nguyện cho nhau, tha thứ cho nhau, không phê bình chỉ trích anh chị em chúng con khi họ có những thiếu xót, lầm lỗi, xin cho chúng con biết giúp nhau nên thánh, để cùng nhau đạt đến hạnh phúc đời đời sau này. Amen
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
HÃY BIẾT MÌNH- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Tin mừng tuần trước lời Chúa dạy sống tương quan với tha nhân theo tinh thần Phúc âm, là ứng xử như lối sống của Chúa. Còn tuần này, Chúa dạy chúng ta hãy nhìn thẳng vào con người của mình, có nghĩa là biết thân phận con người “nhân vô thập toàn”, nên khiêm tốn chứ đừng cho mình là mẫu mực mà lên án hay phê bình xét đoán người khác.
Chuyện ngụ ngôn kể rằng: Thần Du-pi-te khi dựng nên con người thì ngài đeo cho họ hai cái túi: Một cái trước ngực, đựng những lỗi lầm của người khác, một cái sau lưng đựng những lỗi lầm của mình. Như vậy, người ta chỉ nhìn thấy những lỗi lầm của người khác mà không nhìn thấy những khuyết điểm của mình ở sau lưng.
Câu chuyện ngụ ngôn trên thật đúng câu tục ngữ cha ông mình nói: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”. Và đây cũng là chuẩn mực để có khả năng hướng dẫn, chỉ bảo, xét đoán người khác, trước hết phải tự xét mình, phải biết mình trước đã, nhưng biết mình không dễ chút nào, biết được lầm lỗi của mình lại càng khó biết bao.
Chính vì thế triết gia Socrate rất chí lý khi nhắn nhủ các môn sinh của mình “Hỡi ngươi, hãy tự biết mình”. Còn tác giả Thánh vịnh đã nói: “Người công chính mỗi ngày còn sai lỗi tới bảy lần, huống hồ là chúng ta”. Cho nên, người xưa có câu: “Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng”. Có nghĩa là biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.
Vậy, để biết rõ mình hơn, chúng ta cần phải khiêm tốn hồi tâm xét mình. Dù mình có tài giỏi đến đâu đi nữa, nhưng vẫn còn có nhiều lãnh vực mù mờ và đầy khuyết điểm.
Vì thế, điều quan trọng là phải biết nhìn nhận những giới hạn và khuyết điểm của mình, để rồi cố gắng nỗ lực sửa đổi, thăng tiến bản thân mình trước.
Bởi lẽ, con người chúng ta thật là yếu đuối như chiếc bình sành mong manh dễ vỡ. Hôm nay có thể chúng ta đứng vững, nhưng biết đâu ngày mai lại vấp ngã. Sở dĩ chúng ta được như ngày hôm nay, tất cả đều do ân sủng và tình thương Chúa giữ gìn mà thôi.
Vậy mà, đôi khi chúng ta rất chủ quan sửa lỗi người khác, vì nghĩ rằng muốn cho người khác được nên hoàn thiện hơn. Trong khi đó, chúng ta rất khó chịu khi bị người khác góp ý sửa lỗi cho mình.
Lẽ ra chúng ta phải cư xử nghiêm khắc với bản thân mình mà rộng rãi với tha nhân, thì chúng ta hành động trái ngược lại, là cư xử nghiêm khắc với tha nhân, nhưng lại rộng rãi với chính bản thân mình.
Đáng lẽ ra, chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi mới lấy cái rác ra khỏi mắt người ta, nhưng trái lại, chúng ta chỉ thấy cái rơm, cái rác trong mắt người khác, mà quên đi cái xà chà bá ở trong mắt mình.
Mặc khác, chúng ta thường thích người khác khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời người khác nói về mình, nhất là khi chúng ta có chút chức quyền. Hơn nữa, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta cần phải can đảm, khiêm tốn lắng nghe những lời góp ý chân thành của người khác, để biết sửa mình mỗi ngày nên tốt hơn.
Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức thuyết phục được người khác, thì trước tiên phải sống những điều mình dạy trước đã “Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà còn trong mắt của mình. Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em”(Lc 6,42).
Chẳng hạn như: cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. “Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” thì không phải lẽ.
Vì thế, kẻ muốn làm thầy người khác thì trước hết phải “Tiên trách kỷ”, có nghĩa là biết mình với những giới hạn và yếu đuối, để chấn chỉnh bản thân mình. Rồi mới “hậu trách nhân”, có nghĩa là mới có thể sửa dạy người khác. Vì “Nếu không biết mình để tu thân thì giống như lời Đức Giêsu nói: “Mù dắt mù” cả hai sẽ lăn cù xuống hố.
Anh chị em thân mến,
Những lời Chúa dạy hôm nay không đơn thuần là bài học có tính cách luân lý khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác, nhưng còn mời gọi chúng ta xác tín rằng: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có toàn quyền xét xử con người mà thôi. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là Chúa không trao quyền xét đoán cho chúng ta, vì chúng ta có là gì đâu là lên mặt xét đoán.
Lắng nghe Lời Chúa hôm nay, ước gì mỗi người chúng ta bắt chước thánh Augustinô cầu nguyện với Chúa như sau: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để con yêu mến Chúa. Biết con để con khiêm tốn sống đúng bản ngã của mình, là không ngừng hoán cải mỗi ngày để nên hoàn thiện hơn”. Amen.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN-C
CÁI RÁC, CÁI XÀ- Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?”
Con chích choè không chịu thua, cãi lại: “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”.
Con tê giác nghĩ trong bụng: “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá.
Anh chị em thân mến,
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường thấy cái rác trong mắt người khác mà không thấy cái xà trong mắt mình; thấy lỗi nho nhỏ của người khác mà không thấy lỗi lầm to lớn nơi bản thân mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải.
Chúa Giêsu không cấm ta góp ý, sửa lỗi cho người khác, nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình, để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em. Khi chúng ta lấy cái xà ra khỏi mắt mình rồi thì chúng ta sẽ có cái nhìn bao dung hơn với tha nhân.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng.
Lạy Chúa, “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết con để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của con, nhờ đó con sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử cách đại lượng với con. Amen.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
HÃY TỰ BIẾT MÌNH, ĐỪNG XÉT ĐOÁN- Lm. Giuse Quang Nguyễn
Ông bà ta dạy: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Lời dạy này hàm nghĩa: Cẩn trọng khi phát ngôn hay xét đoán người ta. Vì sao phải dạy như vậy? Theo quan niệm của ông bà, trong ứng xử hàng ngày, việc phát ngôn và xét đoán rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến người khác. Nói, là một trong những kỹ năng phải học từ lúc vỡ lòng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Phát ngôn không chỉ là việc truyền tin, còn là nghệ thuật giao tiếp: “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang. Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Cho nên, trong đời sống chung, người ta rất tối kỵ việc buông lời xấu hay xét đoán cho người khác vì ông bà dạy: “Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình”. Cho nên, khi nói hay xét đoán người khác, ta phải có trách nhiệm rõ ràng, trong sáng, tránh nói lửng lơ dẫn người ta đến tâm lý lo âu, hiểu sai lạc nên ông bà dạy: “Trách ai ăn nói lưng chừng. Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Có lẽ, đó là lý do vì sao Thiên Chúa dựng nên con người có hai con mắt để nhìn cho kỹ, hai cái tai để nghe cho rõ, hai lỗ mũi để cảm nhận cho đúng mà chỉ có một cái miệng để nói hay xét đoán cho đúng.
Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay dạy: “Anh chị em đừng xét đoán, sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em”. Những lời Chúa nói hôm nay không đơn thuần chỉ là bài học có tính cách luân lý rằng Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác. Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Khi chỉ chúng ta nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước rồi mới xét đoán người ta.
Qủa thế, ngày xưa, nhà hiền triết Hy Lạp Socrate đã đề ra khẩu hiệu như bài học vỡ lòng cho các môn sinh của mình: “Hỡi người, hãy tự biết mình”. Chúa Giêsu của chúng ta cũng đề cao sự sám hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. “Hãy sám hối” trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn đầy dẫy những lỗi lầm thiếu xót của mình, để rồi từ đó chúng ta sẽ biết sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác hơn. Sống như thế, chúng ta mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và rồi xét đoán phạt anh chị em mình không thương tiếc.
Cho nên, Chúa Giêsu dạy hãy tự sửa mình nhiều hơn sửa người khác. Vâng, con người thường có tính tự nhiên quan tâm phô trường, khoe khoan tới hành động, thành công, việc làm của mình luôn luôn là tốt hơn người ta cho nên dễ xét nét hành động của người khác. Chúng ta hay tự cho mình là hoàn hảo hơn người khác trong khi đó mình còn thiếu sót sai lầm, cần phải sửa đổi trước đã rồi hẳn phê phán, xét đoán anh chị em khác. Cho nên, chúng ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì mình lại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu, dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác. Thật là thật đau khổ khi phải sống chung với những người không có tự biết mình, không biết uốn lưỡi 7 lần trước khi nói và không nhìn lại mình trước khi xét đoán. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy: “Sàng rồi, trấu ở lại sàng, nói ra, cái dở rõ ràng thấy ngay. Có thử lửa mới biết bình thợ gốm, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người. Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng: muốn biết người, phải nghe miệng nói năng”. Vì thế, Chúa Giêsu khẳng định: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra”.
Vì vậy, việc nhìn thấy và sửa đổi chính bản thân mình thì dễ thực hiện vì điều ấy tùy thuộc vào chính mình, do mình làm chủ, nên hễ mình muốn sửa là sửa được. Còn sửa lỗi người khác thì khó hơn rất nhiều vì điều ấy không tùy thuộc vào mình, không do mình làm chủ. Vả lại, chính mình nên thánh trước đã rồi thì cảm hóa hay sửa chữa người khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Cho nên, ông bà ta bảo: “Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đã, đừng làm theo kiểu chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, là những Kitô hữu chúng ta hãy hãy tự xét lỗi chính bản thân mình đã, chứ đừng vội xét lỗi người khác. Lạy Chúa, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Đứng trước những khuyết điểm của người khác, xin Chúa cho chúng con biết cảm thông và tha thứ, như Chúa đã từng cảm thông và tha thứ cho chúng con cũng như cho những kẻ tội lỗi trong Phúc âm. Còn đứng trước những sai lỗi của bản thân, xin Chúa giúp chúng con biết nhận lỗi, xin lỗi và nhất là sửa lỗi, để nhờ đó chúng con thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời và luôn làm đẹp lòng Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
BIẾT MÌNH, BIẾT NGƯỜI Lm. Fx. Lê Văn Nhạc
Chuyện kể rằng: Có một người mù đi trong đêm tối, tay xách chiếc đèn, đầu đội cái bình sành. Một người đi đường trông thấy cho là anh mù nầy ngốc nghếch, liền cười nhạo và hỏi anh mù:
– “Này anh ngốc kia, đối với anh thì ban ngày cũng như ban đêm. Vậy anh cầm đèn để làm gì?”
Người mù ôn tồn đáp:
– “Đèn nầy không cần đối với tôi nhưng lại cần thiết đối với anh, để trong đêm tối anh không làm vỡ cái bình sành của tôi”.
Người xưa đã nói: “Biết người, biết mình, trăm trận trăm thắng”. Các nhà đạo đức cũng thường nói: “Biết mình là đầu mối khôn ngoan”, là điều kiện trước tiên của mọi sự cải tiến. Nhưng làm sao để biết được người và làm sao để biết được mình?
Tác giả sách Huấn ca dùng nhiều hình ảnh so sánh để dạy chúng ta biết người như sau:
“Sàng rồi, trấu lại ở sàng.
Nói ra, cái dỡ rõ ràng thấy ngay.
Có thử lửa, mới biết bình thợ gốm.
Có chuyện trò, biết ai rởm ai hay.
Xem quả thì biết vườn cây.
Nghe lời miệng nói biết ngay lòng người.
Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng.
Muốn đo lòng, thì nghe miệng nói năng.”
Những châm ngôn ấy dạy chúng ta muốn biết người thì hãy nghe người ấy nói đã. Đừng vội vàng phê phán, đánh giá, khen chê người nầy người khác trước khi đích thân tiếp xúc trao đổi với họ:
“Xem quả thì biết vườn cây.
Nghe lời miệng nói biết ngay lòng người”.
Cây tốt thì sinh quả tốt, và cây xấu tất nhiên sẽ sinh quả xấu. Những lời gian dối không thể phát ra từ miệng của một vị thánh. Đúng hơn, đó là lời từ miệng của một người có tâm hồn gian ác: “Lòng có đầy thì miệng mới nói ra”. Ở đây cũng cần lưu ý đến những người “Khẩu phật tâm xà” (Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm) – những người giả hình, nói một đàng làm một nẻo. Nói bác ái, nhưng chỉ một chiều: người khác bác ái với mình, hay mình lợi dụng người khác. Vì thế, trái tốt cũng là những việc làm. Nói và làm phải đi đôi với nhau và cả hai là hoa trái cho biết phẩm chất tốt xấu thầm kín bên trong lòng người.
Có lẽ trong quan hệ với tha nhân, nhiều lần ta đã vội vàng phê phán, đánh giá, khen chê người nầy người khác trước khi đích thân tiếp xúc trao đổi với họ, rồi sau đó mới thấy mình đã không bé cái lầm. Sự thực không đúng như thế ! Hại cả cho mình, hại cả cho người.
Tuy nhiên, biết người thì dễ hơn là biết mình. Muốn biết mình, chúng ta cần phải thành thật và khiêm tốn qua việc tự kiểm, luyện tập và sửa chữa. Phải sáng suốt nhìn nhận những sai sót lỗi lầm của mình. Chúa dạy: Đừng có liều lĩnh lên mặt dạy đời khi mình chưa có một cái nhìn trong sáng về chính mình. Kẻo “mù mà dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố”.
Tại sao chúng ta lại khó biết mình? Người ta thường nói: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”. Thần thoại Hy Lạp ví con người như một kẻ mang hai cái túi: một cái trước ngực và một cái sau lưng. Cái túi chứa những tật xấu của mình thì đeo đằng sau, nên không thấy gì cả. Còn cái túi đựng những khuyết điểm của những kẻ khác thì đeo phía trước, nên nhìn thấy rõ ràng. Một trong những nguyên nhân làm chúng ta mù quáng đó là có một vật cản lớn ngay trước mắt: cái xà. Cái xà ấy làm cản trở tầm nhìn. Cái xà ấy làm không thấy rõ chính mình cũng như người khác. Cái xà ấy làm không nhìn thấy sự ghê tởm, nhớp nhúa, xấu xa nơi bản thân, để chỉ nhìn thấy vài khiếm khuyết nơi người khác. Đó là thái độ của người giả hình thực sự. Giả hình khi mạnh miệng chỉ trích người khác để người ta tưởng mình là hoàn thiện, trong khi thực chất chỉ là mồ mã tô vôi. Vì thế, Đức Giêsu mời gọi bạn hãy nhanh chóng “lấy cái xà trong mắt bạn ra trước đã rồi bạn sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt anh em”.
Nói như thế, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng ai muốn tiến bộ cũng như muốn giúp anh em tiến bộ thì chính mình phải tự kiểm tra chính mình và sửa mình trước đã. Có sửa được mình thì mới sửa được người.
Như thế, để biết mình, trước hết cần phải liệu cho mình có được sự khôn ngoan sáng suốt chân thật, tức là sự hiểu biết về đường lối của Chúa, chân lý của Chúa và phải sống theo giáo lý của Ngài. Đó là cuộc sống của những người chọn Đức Giêsu làm Thầy, làm Người Hướng Đạo.
Anh chị em thân mến,
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên “cây tốt” để sinh “trái tốt”. Cây tốt là người lắng nghe Lời Chúa, người để ánh sáng Lời Chúa chiếu vào tâm hồn mình, để sinh ra hoa trái tốt bằng các việc bác ái cụ thể, và có thể giúp cho người khác sống điều mình đã sống. Người tốt có lấy “cái rác trong mắt anh em” cũng là vì tình yêu – chứ không vì hận thù, vì ghen tuông – Vì yêu, người tốt sẵn sàng đến với người khác, dùng Lời Chúa để hướng dẫn người khác thoát khỏi đường lầm lạc quay về con đường sống. Lời Chúa có thấm nhập vào thâm sâu cõi lòng thì tư tưởng, lời nói, hành động mới sinh hoa trái tốt. Mỗi người phải là một cây tốt và đem lại hoa trái tốt cho người khác: cha mẹ cho con cái, anh chị cho các em, thầy cho trò, bạn bè cho nhau, và như thế sẽ tạo nên một vườn cây tốt, một xã hội tốt.
“Không ai là một hòn đảo”. Sống là sống với chứ không phải sống một mình. Quan hệ với tha nhân là điều không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Do đó, cần phải hiểu biết người một cách sáng suốt thận trọng để có thể quan hệ tốt và ích lợi cho nhau, nhất là về mặt tinh thần.
Tuy nhiên, muốn biết người và biết mình một cách rõ ràng, chân thật, thẳng thắn thì lại phải có sự trong sáng của con mắt, của tâm hồn. Và nếu muốn giúp người lại cần phải có tinh thần phục vụ thật khiêm tốn, tế nhị và phải có đời sống gương mẫu có sức thuyết phục nữa.
Tất cả những điều cần thiết phải có trên đây, đều được thể hiện nơi Đức Kitô. Lời Ngài, việc làm của Ngài, thái độ của Ngài thật là ánh sáng dẫn dắt chúng ta, thật là gương mẫu cho chúng ta bắt chước. Ngài còn là niềm tin, hy vọng và sức mạnh giúp ta vượt thắng tất cả những khó khăn.
Thánh lễ được cử hành với Lời Chúa và với Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là dịp cho chúng ta được Ngài soi sáng, là dịp cho chúng ta được chiêm ngưỡng gương sáng của Ngài, là dịp cho chúng ta được Ngài nâng đỡ.
Chúng ta nhận lấy ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta cũng hãy sốt sắng lãnh nhận nguồn sinh lực dồi dào của Mình Chúa và tin tưởng cố gắng tiến lên cùng với anh em chúng ta. Có Chúa giúp đỡ, chúng ta sẽ đạt được kết quả thiêng liêng mỗi ngày một phong phú hơn.
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN-C
KHÔNG BIẾT VỀ CHÍNH MÌNH- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga.14, 6). Một người vô cùng đặc biệt lại chấp nhận thân phận của một con người “bình thường” và sống rất “bình thường”, trong khi đó những người rất “tầm thường” lại muốn trổi trang trước mặt tất cả mọi người. Qua tấm gương Đức Yêsu, con người có thể nhận biết chính mình.
I/.Yêu là nhân hạnh phúc
Con người ai mà không sợ chết. Có nhiều người, nhất là những bậc vua chúa công hầu muốn mình sống mãi nên mong ước có một liều thuốc trường sinh bất tử. Nhưng giả như ai đó được trường sinh, cái gì xảy ra cho người đó?
Chuyện kể có người tìm được liều thuốc trường sinh bất tử, nên sống hoài không chết. Vợ người đó cũng chết, con cái của người đó cũng chết, cháu chắt cũng chết theo thời gian, và lâu quá những con cháu xa không còn nhận biết ông cụ đó nữa, ông cụ như người xa lạ giữa những con cháu xa bao đời…. Và quá buồn ông cụ ao ước được chết như một người bình thường.
Tôi chứng kiến một người bệnh ung thư bị đau đớn như thế nào! Và ông ta mong được chết, vì sống “đau đớn” quá. Chết lại là điều may mắn vì ông được giải phóng.
II/.Sống lâu không hẳn làm người ta hạnh phúc.
Cái chết thể xác diễn tả phần nào cái chết tinh thần: không còn tương quan với Thiên Chúa và con người nữa. Nếu ai sống thù ghét tất cả những người xung quanh, cuộc đời của họ như thế nào?
Sống cô lập, thù ghét những người quanh mình, là “tự sát”, là tự giết mình. Không thể hạnh phúc với những người như vậy. Họ sẽ chết dần chết mòn.
Yêu những người xung quanh, là đang sống, là đang tạo cho mình những điều kiện để có thể thấy đời đẹp và đáng sống.
Những người yêu người khác, cho dù họ có chết, thì vẫn được người khác nhớ đến và tiếc nuối. Yêu làm người ta sống cho dù đã chết; hơn nữa yêu làm người ta sống đời đời.
III/.Điều tệ là không biết mình
Xem qủa biết cây. Cây tốt sinh trái tốt, người tốt làm những việc tốt lành. Những điều xấu là do người xấu mà ra. Người mù có thể dẫn đường cho người mù được chăng? Một người không biết mình, là người chỉ thấy lỗi của người khác, không thấy lỗi nơi mình, vậy làm sao người đó cải thiện được? Làm sao người đó khá hơn được? Những người kiêu ngạo không nhận lỗi của mình, những người không biết mình chỉ thấy lỗi nơi người khác hoặc không dám nhận lỗi của mình.
Hãy biết mình! Qua cách nhìn của người khác về mình, cũng phản ánh phần nào con người của mình. Có thể họ sai, nhưng thế nào cũng có điểm nào đó đúng. Không sẵn sàng nhận biết chính mình qua những phê bình, qua những lần lẩn tránh của người khác, qua sự sợ hãi hoặc chán nản của họ đối với mình, không sẵn sàng đón nhận lời góp ý của người khác, không thấy người ta nhận xét về mình đúng chút nào, e rằng đó là người “không biết mình”.
Hãy lấy cái “xà nhà” ra khỏi mắt mình, rồi hãy đòi lấy cái “dằm” ra khỏi mắt người khác. Không biết mình, đó là điều tệ hại rất lớn. Hãy xin Chúa cho mỗi người được ơn biết mình, để mình khiêm tốn nhận lỗi của mình, để mình sẵn sàng tha thứ cho người khác, để mình sửa đổi chính mình, để người khác có thể sống và muốn sống với mình, để mình sống an bình và hạnh phúc.
“Lạy Chúa, con là người tội lỗi.
Những gì người khác nhận định về con chắc là đúng, ít là chỉ một mình Chúa biết.
Xin cho con khiêm tốn chấp nhận chính mình, chấp nhận những gì người khác góp ý cho con.
Xin cho con nhận ra sự thật về chính con, để con sửa đổi và tiến bộ.
Xin cho con thành con người mới, dễ thương với mọi người, để người khác được hạnh phúc khi sống với con”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1/.Cái chết có đáng sợ không? Tại sao? Hành trang một người có thể mang theo là gì?
2/. Bạn có kinh nghiệm về một người “không biết mình” không? Những người này có gì đặc biệt?
3/.Bạn có kinh nghiệm về một người “không chấp nhận mình” không? Những người này có hạnh phúc không? Tại sao?
CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN- C
BIẾT RÕ TỐT XẤU- Lm. Giuse Vũ Khắc NGhiêm
Câu truyện cổ tích kể: Một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: Mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thằng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: Trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu truyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.
Tin Mừng nói: “mù dắt mù xuống hố”. Linh mục Thomas Carroll đã viết một cuốn sách được bác sĩ Chi Lan phiên dịch, nói lên những cực khổ của người mù rất tội nghiệp. Con mắt đã chết, làm chết luôn nhân cách, chết năng khiếu, chết nhận thức, chết hoạt động, chết giao tiếp với mọi người, mọi cảnh vật, cuộc đời thật tăm tối và như mất tất cả.
Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xì ke, nhiễm Sida lây lan cho vợ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.
Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức để phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.
Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xấu để nên tốt và sửa xấu.
Theo Tin Mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:
Thứ nhất: Phải khiêm tốn để chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cũng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”. Kinh Dịch là sách triết lý lớn nhất của Đông phương đã đặc biệt đề cao đức khiêm nhu của người quân tử: Khiêm là đạo trời, đạo đất và đạo người. Người quân tử khiêm nhu sẽ vượt mọi sông lớn, mọi đại họa: “Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên”. Việc làm khiêm tốn của quân tử sẽ nuôi được vạn dân: “Lao khiêm quân tử, vạn dân phục chi” (Quẻ khiêm). Quân tử là bậc thầy, bậc con trời đã phải khiêm tốn, thì trò là môn đệ cần phải hạ mình xuống hết mức.
Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: Không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: Yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng còn do tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: Có tội đâu mà xưng. Trong khi Đức Piô X, một vị thánh Giáo Hoàng đầu tiên thế kỷ XX, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vào mắt mình.
Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh ra trái xấu”. Nhà buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sống đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.
Bài đọc I nhắc nhở chúng ta phải cố gắng kiên trì sàng lọc mình cho sạch thói xấu; phải nhiệt tâm đốt mình khỏi mọi bợn nhơ dỉ ghét như lò lửa nung luyện bình sứ, dầu phải gian nan cực khổ đến đâu cũng phải chiến thắng tử thần để nên người công chính bất tử. Lúc đó con người “xác thịt hay chết của ta mới mặc lấy sự trường sinh nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Bài II).
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatviiithuongnienc #suyniemloichuagpbr