CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973) 2
HÃY YÊU KẺ THÙ (*) – Chú giải của Noel Quesson. 7
PHẢI CÓ LÒNG NHÂN TỪ(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 15
HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 24
THƯƠNG XÓT NHƯ CHA LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT- Chú giải của Fiches Dominicales 43
YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt 49
BÁC ÁI VÔ BIÊN– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 53
NỀN VĂN MINH TÌNH THƯƠNG– Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP.. 57
LUẬT YÊU THƯƠNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 64
YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ- Trích Logos C.. 71
YÊU CẢ KẺ THÙ MÌNH– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 79
HÃY ĐỐI XỬ NHÂN TỪ- Lm. Trần Bình Trọng. 82
LUẬT YÊU THƯƠNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 85
HÃY Ở NHÂN TỪ NHƯ CHÚA CHA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 90
NHÌN RA NHAU LÀ ANH CHỊ EM- Radio Veritas Asia. 95
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC- (Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)
BÀI ÐỌC I: 1 Sm 26, 2. 7-9. 12-13. 22-23
“Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay”.
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Ban đêm Ðavít và Abisai đến nơi quân sĩ (của vua) đóng, và thấy Saolê đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía đầu. Abner và quân sĩ thì ngủ chung quanh ông.
Abisai liền nói với Ðavít rằng: “Hôm nay, Thiên Chúa đã trao kẻ thù trong tay ngài; vậy giờ đây xin cho tôi lấy giáo đâm ông ấy một phát thâu xuống đất, không cần đến phát thứ hai”. Nhưng Ðavít nói với Abisai rằng: “Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Ðấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?” Rồi Ðavít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê và cả hai ra đi. Không ai hay biết và không ai thức dậy, nhưng mọi người vẫn ngủ, vì Chúa khiến họ ngủ say.
Ðavít sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, đôi bên cách xa nhau. Ngài hô lên rằng: “Ðây là ngọn giáo của nhà vua, một trong các cận vệ của vua hãy qua đây mà lấy, Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tuỳ theo sự công minh và thành tín cuả họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 102, 1-2. 3-4. 8 và 10. 12-13.
Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót. (c. 8a).
Xướng: Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
Xướng: Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.
Xướng: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi.
Xướng: Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người.
BÀI ÐỌC II: 1 Cr 15, 45-49
“Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ađam cũ là người có sự sống, còn Ađam mới thì có thần trí ban sự sống. Những điều có trước, không phải thuộc linh giới, mà là thuộc thể giới, rồi mới đến cái thuộc về linh giới. Người thứ nhất bởi đất mà ra, thì thuộc về địa giới, còn người thứ hai bởi trời mà đến, thì thuộc thiên giới. Người thuộc địa giới đó thế nào, thì những người khác thuộc địa giới cũng vậy; và người thuộc thiên giới đó thế nào, thì những người khác thuộc thiên giới cũng vậy. Bởi thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc địa giới, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh người thiên quốc như vậy.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 6, 27-38
“Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.
Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn, và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.
Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy”.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY YÊU KẺ THÙ (*) – Chú giải của Noel Quesson
Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.
Điều hoàn toàn mới mẻ của Tin Mừng nằm trong các lệnh truyền mà Đức Giêsu ban cho những người chấp –nhận lắng nghe người. Đặc tính của đạo Đức Kitô giáo không chỉ là yêu thương bởi vì mọi đạo Đức của cqn người đều đòi hỏi điều đó mà là yêu “kẻ thù của chúng ta”. Đây là một tình yêu thương phổ quát không loại trừ một ai.
Từ “kẻ thù mà Đức Giêsu sử dụng là một từ rất mạnh có nguy cơ bị hiểu sai. Người ta thoáng nghe nói “Tôi không có kẻ thừ’. Vả lại Đức Giêsu đã cẩn thận đưa ra các ví dụ không hạn chế về kẻ thù: Những ai ghét tôi… những ai nói xấu tôi… những ai vu khống tôi… Và để nắm hết mọi tâm mức của đạo đức Tin Mừng, chúng ta phải hiện thực hóa từ ngữ “kẻ thù”.
Trên bình diện cá nhân: Đức Giêsu đòi tôi phải yêu thương những ai phê bình tôi… những ai chọc tức tôi… những ai không đồng ý với tôi… những ai công kích tôi bằng mọi cách suy nghĩ, phục sức, cầu nguyện, bỏ phiếu của họ…
Trên bình diện của nhóm và môi trường tôi sống: Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người yêu mến những ai là kẻ thù của nhóm các môn đệ, những người bách hại, những người chống đối, những hạng người và nhóm người không suy nghĩ như tôi.
Quả là một cuộc cách mạng to lớn trên thế giới, nếu mỗi Kitô hữu bắt đầu thực hiện thật sự điều Đức Giêsu đã nói chúng ta phải làm!
Trước khi đi xa hơn trong bài đọc và suy niệm của tôi tôi dừng lại một lúc để đặt những cái tên và những khuôn mặt vào những lời này của Tin Mừng và để cầu mong điều tốt lành, để cầu nguyện thật sự… cho họ.
Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.
Sau những thái độ “nội tâm”, luôn luôn đứng đầu trong quan điểm của Đức Giêsu, giờ đây là những thái độ bên ngoài” và là hậu quả cụ thể của thái độ nội tâm. Lòng yêu thương kẻ thù phải đi đến những hành động tích cực đối với họ.
Nhưng cùng với những nhà chú giải, chúng ta hãy quan niệm rằng Đức Giêsu không ban bố một luật pháp gồm bốn điểm về “cái và”, “áo ngoài”, “sự: xin xỏ”, sự “lấy trộm”… Thật vậy, ở đây chúng ta có những ví dụ nhằm minh họa một cách hành động hoàn toàn mới. Những ví dụ này cố tình nghịch lý và dễ nhớ. Người ta sẽ chứng tỏ mình thiếu ý thức về sự chú giải Kinh Thánh và đơn giản là thiếu lương tri khi giải thích theo mặt chữ và theo đường lối chính thống những lời ấy của ngôn ngữ ‘Do Thái, như thể thật sự phải đưa má trái cho người đã vả má phải của bạn.
Ví dụ mà Đức Giêsu dùng ở đây liên quan đến cùng một loại nghịch lý như khi Người nói phải móc mắt mình hoặc chặt tay mình (Mt 5,29-30). Trong thực hành, những cách hành động ấy sẽ hoàn toàn vô ích. Mắt bị móc không bảo vệ người ta tránh khỏi một sự vấp phạm khác. Cái vả thứ hai cũng không ngăn cản được cái vả thứ ba và còn lâu mới làm cho kẻ ác có những tình cảm tốt lành hơn! Chính Đức Giêsu sẽ cho lời giải thích tốt nhất về câu nói của Người khi Người không đưa má kia cho người thuộc hạ đã vả Người trước mặt’ thượng Tế: “Nếu, tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23).
Nhưng nếu chúng ta phải tìm cho mình những thái độ tương ứng với những công kích mà chúng ta phải chịu, không nên vì thế làm giảm nhẹ yêu sách của Tin Mừng. Thật vậy nếu Đức Giêsu đã không “giơ má kia ra”. Người đã đi xa hơn nhiều: Người đã để Người ta đánh đòn Người đến đổ máu, Người đã hiến hoàn toàn thân xác cho những kẻ đánh đập Người… “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Isaia 50,6). Các “gương ấy ở trong Kinh Thánh. Và Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta điều gì mà Người đã không làm trước.
Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.
Đây chính là điều mà người ta gọi là “quy luật vàng”. Một trong các nguyên tắc sơ đẳng của mọi nền đạo đức.
Thầy Hillel, cùng thời với Đức Giêsu đã nói: “Anh không thích điều gì, chớ làm điều đó cho người thân cận”. Và các triết gia khắc kỷ đã nói tương tự: “Điều gì anh không muốn người ta làm cho mình, anh đừng làm cho ai khác”. Nhưng chúng ta nhận thấy rằng chính Đức Giêsu đem lại cho luật ấy một hình thức tích cực. Phải làm mọi điều tốt lành có thể làm được cho người thân cận… dù với kẻ thù.
Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa. Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy đọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả.
Là những Kitô hữu, những môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không tốt hớn những người khác… Tuy nhiên, rõ ràng Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta khác những người khác. Sự khác nhau ấy là gì? Điều gì phải là đặc tính của một Kitô hữu? Đó là “yêu thương những người không yêu thương chúng ta”. Tư tưởng sâu sắc của Đức Giêsu là tình yêu thương của chúng ta phải được giải phóng khối mới cộng đồng tự nhiên của chúng ta: Gia đình, môi -trường, quốc gia, nòi giống của chúng ta. Giữa những người giống nhau, sự liên đới là tự nhiên, tự phát. Phải dám nói điều này: sự liên đới không phải là một sự thiện tự thân; ngay cả những “người tội lỗi”, những người độc ác, những kẻ áp bức, ích kẻ… có thể sống với nhau bằng sự liên đới rất vụ lợi hoàn toàn hướng về lợi lộc và chống lại những người khác. Hỡi ôi! đâu phải vì tính ích kỷ trở thành tập thể mà nó sẽ ít nguy hiểm hơn.
Tình yêu thương của Kitô giáo là một. tình yêu thương không biên giới, không giới hạn.
Nhân đây, chúng ta hãy ghi nhận bằng cách nào mà Luca muốn làm cho người nghe ngài tức là dân ngoại hiểu được nên đã thay đổi câu nói của Đức Giêsu mà Mát-thêu thuật lại trong bản văn bang tiếng Do Thái: “Ngay cả người ngoại cũng chặng làm như thế sao?”. (Mt 5.47). Luca đã thay bằng từ “người tội lỗi”. Và biến đổi lối nói “nghi vấn” thành lối nói “khẳng định”: “Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế” (Lc 6,33)Vì thế, Sự khẳng định của Đức Giêsu trở nên hoàn toàn rõ ràng, và áp dụng cho tất cả mọi người!
Cũng thế, trong đoạn văn song song, Mátthêu không nói, về việc “cho vay”. ‘Còn Lu ca không bao giờ bỏ mất cơ hội. Rồi về “tiền bạc”. Đối với ngài, trong toàn bộ Tin Mừng của mình, việc chia sẻ của cải là dấu chỉ thật sự, rõ ràng của Tình yêu thương. Và chúng ta phải thừa nhận rằng quả thật cho tiền bạc của mình cũng khó như yêu thương các kẻ thù của mình!
Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là còn Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.
Những lời này nhấn mạnh nhân tính thông thường chỉ ở mức trung bình, cách xa dự án của Thiên Chúa biết bao… Và Thần Khí, Vương quyền của Thiên Chúa phải chiếm lĩnh chúng ta từ bên trong để biến đổi chúng ta. Cho đến thời Đức Giêsu, nhân loại đã dùng bạo lực để trả đũa bạo lực. Và, ngay cả trong Kinh Thánh, phải gây ra thánh chiến để tiêu diệt, đập tan kẻ thù, dùng tôn giáo để loại trừ những kẻ thủ của Thiên Chúa! (Đệ nhị luật 7, 1-6-20,10-18 – 25,19; Giosuê 6,17; Dân số 21,2; 1 Samuen 15,18). Cho đến thời Đức Giêsu, và ngay cả trong Kinh Thánh người ta cầu nguyện chống lại các kẻ thù (Tv 17,13; Tv 28,4 – 69,23-29; v.v…). Từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta phải “cầu nguyện cho họ “.
Và lý tưởng đề ra sẽ không là gì cả nếu không có Thiên Chúa, chính Thiên Chúa… một lý tưởng phải không ngừng đạt đến và không có giới hạn, Lời nói ấy làm người ta ngạc nhiên! Con người yêu mến kẻ thù sẽ nhận một phần thưởng: Sẽ là “con của Đấng Tối Cao” và rõ ràng là danh hiệu này là danh hiệu đã ban cho Đức Giêsu trong ngày đức Maria!được truyền tin! (Lc 1,32). Ơn làm con Thiên Chúa được ban cho người nào “kiến tạo hòa hình” (Mt 5,9). Yêu thương kẻ thù chúng ta là việc siêu phàm… thánh thiêng! Đó là điều mà Thiên Chúa không những làm… vì Người vẫn” nhân hậu với cả phường vô ân – và quân độc ác” , như lời Đức Giêsu đã bày tỏ.
Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị ‘Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em dấu đủ lượng đã dằn, đủ lực và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.
Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta bản tính thâm sâu của Chúa Cha: Người nhân hậu và yêu thương đến tận cùng. Người ta sẽ không bao giờ nói lại điều đó cho đủ: Thiên Chúa không phán xét ai, Thiên Chúa không kết tội ai, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả các kẻ tội lỗi. Và Người yêu cầu chúng ta bắt chước Người. Và Người còn đi đến chỗ nói với chúng ta rằng sự phán xét của riêng chúng ta có thể nói được trả v~ trong tay chúng ta: “Đó là… anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy… xin tha tội cho chúng con như chúng con lòng tha…”.
Điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa chấp nhận sự ác! Không có gì giống nhau, và sẽ không bao giờ có gì giống nhau giữa Thiên Chúa và sự bất công, sự hành hạ, độc ác hèn hạ, ích kỷ. Và những người nào làm những việc như thế sẽ không có phần với Người”. Những kẻ bất hạnh khốn nạn ấy tự mình làm hại mình, tự mình lên án mình khi ngoan cố từ chối sự tha thứ của người. Và Thiên Chúa sẽ khóc với những giọt lệ đời đời (đó là thập giá! ) trên những ai từ chối yêu mến Người. Hoả ngục, đó là mặt trái của Thiên Chúa, và không do Thiên Chúa tạo ra. Chính Thiên Chúa, chỉ là lòng nhân hậu. Còn bạn, bạn đã ở về phía Thiên Chúa chưa?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
PHẢI CÓ LÒNG NHÂN TỪ(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thương yêu hết mọi người, ngay cả kẻ thù nữa.
1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23:
Đa-vít có cơ hội thuận tiện để giết vua Sa-un, kẻ đã truy sát mình, nhưng Đa-vít đã tha chết cho vua bởi vì ông tin làm như thế là chống lại với người được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.
1Cr 15: 45-49:
Thánh Phao-lô so sánh A-đam với Đức Ki-tô. Nhờ A-đam, chúng ta được sự sống tự nhiên; nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng.
Lc 6: 27-38:
Đức Giê-su nhấn mạnh đến bổn phận yêu thương kẻ thù và những trách nhiệm của đức ái huynh đệ.
BÀI ĐỌC I (1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23)
Sách Sa-mu-en quyển một là một tác phẩm quan trọng đặc biệt vì sách ghi lại bước ngoặc “lịch sử” đã dẫn đưa dân Ít-ra-en lần từng bước từ “thể chế các thủ lãnh” sang “thể chế các vua”. Ba vĩ nhân thống trị tất cả mọi biến cố của giai đoạn lịch sử này là ngôn sứ Sa-mu-en, vua Sa-un và vua Đa-vít.
Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất:
Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Ông có tất cả những nét quyến rũ của những anh hùng huyền thoại. Ông khôi ngô tuấn tú: “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1Sm 16: 12); nghệ sĩ đàn hạc (1Sm 16: 16, 23); dũng cảm đến độ liều lĩnh (1Sm 17: 34-36, 40t; 18: 6-9, 26-27); không biết mệt mõi, hiếu động, nhất là sau khi đã phải trốn chạy khỏi triều đình Sa-un, ông sống cuộc sống phiêu bạt rày đây mai đó (1Sm 21-30).
Đa-vít có tấm lòng khoan dung nhân từ:
Sách Sa-mu-en quyển một kể cho chúng ta một trong những câu chuyện Đa-vít phải rời bỏ triều đình vua Sa-un mà trốn chạy khỏi sự truy sát của vua Sa-un. Vua Sa-un dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đa-vít. Một đêm, vua Sa-un ngủ mê miệt trong trại thì Đa-vít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đa-vít thấy đây là một dịp may hiếm có nên xúi Đa-vít giết chết vua Sa-un. Nhưng Đa-vít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Sa-un rồi sang phía bên kia hô lớn bảo vua Sa-un thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Sa-un cảm động và phải thừa nhận Đa-vít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 45-49)
Nhờ A-đam, chúng ta có được sự sống tự nhiên:
Một lần nữa thánh Phao-lô chú ý đến A-đam (x. 15: 22-23). Cách thức chúng ta sống hiện nay, bản chất hiện nay, hình dáng, vẻ bên ngoài của chúng ta (“thân thể” của chúng ta) được tạo dựng theo khuôn mẫu của A-đam. Chúng ta được tạo nên hình thể từ đất nhưng chúng ta sống nhờ hơi thở mà Thiên Chúa thổi vào chúng ta. Chúng ta là một “sinh linh” (St 2: 7); chúng ta là một “thân thể có sinh khí” (1Cr 15: 44). Thân thể này có những đặc tính của một thân thể địa giới: kiếp sống phàm nhân phải chết, hèn hạ và yếu đuối (15: 42-43). Chúng ta ghi nhận rằng ở dây thánh Phao-lô trở lại quan điểm Kinh Thánh cựu trào hơn, khi nối kết cái chết với thân phận con người chứ không với tội lỗi.
Nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng:
Trái lại, nhờ Đức Ki-tô phục sinh, người Ki-tô hữu có được sự sống thần thiêng (15: 45). Thân thể của Ngài từ “trời mà đến” (15: 40), chứ không từ đất mà ra, vì thế là “thân thể có thần khí” (15: 44). Thân thể sống lại của chúng ta sẽ không là thân thể có sinh khí, nhưng thân thể có mối liên hệ với Thần Khí Thiên Chúa. Thân thể chúng ta sẽ không giống như mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, nhưng giống như thân thể của Đức Ki-tô phục sinh (15: 49), vì chúng ta được thông phần sự sống của Ngài.
Khi gọi Đức Ki-tô là “A-đam cuối cùng” (15: 45), thánh Phao-lô công bố rằng Ngài là người đầu tiên khai mở mục đích tối hậu của lịch sử. Thánh nhân cũng công bố rằng A-đam đầu tiên dự kiến A-đam sau cùng: con người, như mục đích tự nhiên của mình, phải mang hình ảnh của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Lc 6: 27-38)
Tin Mừng hôm nay áp dụng “Các Mối Phúc và các Mối Họa” của Tin Mừng tuần trước vào cuộc sống cụ thể của con người. Tin Mừng bắt đầu với lời của Đức Giê-su: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây” (6: 27) nhắc nhớ đến đám thính giả vây quanh Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và để được chữa lành bệnh tật (6: 17-19).
Yêu thương kẻ thù (6: 27-35):
Sau các Mối Phúc ngỏ lời với những người bị đè bẹp trong cuộc sống và các Mối Họa được gởi đến cho những người chỉ coi sự giàu sang phú quý như cứu cánh cuộc đời mình, thì phần này mở ra và đóng lại với huấn lệnh “hãy yêu thương kẻ thù” (6: 27 và 6: 35). Những kẻ thù ở đây được nhận dạng qua những hành vi họ làm: “nguyền rủa anh em” và “vu khống anh em” (6: 28), đó là những kẻ bách hại các Ki-tô hữu đã được nói đến ở Mối Phúc thứ tư (6: 22).
Ở trung tâm của phân đoạn này là luật vàng: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (6: 31). Luật này được giải thích bởi những huấn lệnh vây quanh, trước hết những huấn lệnh thuộc thể truyền lệnh ở ngôi thứ hai số ít: “Anh” (6: 29-30) và sau đó những mệnh lệnh thuộc thể điều kiện ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em” (6: 32-34). Hình ảnh đưa cả má bên kia cho người ta tát và trao luôn cả áo trong cho kẻ khác, xin thì cho, lấy thì đừng đòi lại, đó là một thái độ bất bạo động không tìm cách chống cự lại kẻ ác. Để ý đến việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít sang ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế luật vàng được trình bày một cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào: làm cho người khác điều thiện mà mình muốn người khác làm cho mình được xác định trong các câu 29-30, ngay cả vượt qua trong các câu 32-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán, không cho để được cho lại, hoàn toàn vô vị lợi mới phân biệt cách ăn nếp ở của người tín hữu với cách ăn nếp ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong phân đoạn này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để “làm điều thiện” cho tha nhân, nhất là cho những kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.
Tất cả những thực hành trên phải được hiểu theo quan điểm của cặp đóng khung (6: 27 và 35): lòng yêu thương đối với kẻ thù được đòi hỏi cách triệt để ở đây. Những thực hành như thế không mong được đền ơn đáp nghĩa nào trên bình diện con người; nếu có đó chỉ là phần được ban mà thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (6: 35a) là phần thưởng đến từ Thiên Chúa (6: 35b). Ở đây cũng như Mt 5: 9, 45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà người tín hữu được đồng hóa với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa. “Ở nơi việc yêu thương kẻ thù chiếu sáng trong chúng ta họa ảnh của Thiên Chúa, Cha chúng ta, Ngài, qua cái chết của Con của Ngài, đã chuộc lại khỏi sự hư mất đời đời và hòa giải với Ngài nòi giống con người, trước đây vốn đã không thân thiện và thù ghét Ngài” (St Pius V Catechism, IV, 14, 19).
Phải có lòng nhân từ (6: 36-38)
Lời mời gọi của Đức Giê-su: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6: 36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện” (Book of Prayer and Meditation, third part, third treatise).
Khuôn mẫu của lòng nhân từ mà Đức Giê-su phô bày trước chúng ta là chính Thiên Chúa, Đấng mà thánh Phao-lô nói về Người: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn năng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1: 3-4). Đức Pi-ô X dạy rằng “Đây là luật mà một người Ki-tô hữu phải áp dụng: phải có lòng nhân từ đối với những ai lâm cảnh gian nan khốn khó như thử chính chúng ta, và cố gắng chữa trị họ. Giáo Hội công bố luật này khi cho chúng ta một loạt những công việc vật chất đầy lòng nhân ái như thăm viếng và săn sóc bệnh nhân, cho người đói khát của ăn thức uống… và những công việc tinh thần đầy lòng nhân ái như dạy những người thất học, sửa lỗi người bị lầm lạc, tha thứ những xúc phạm…”(Catechism, 944t.).
Như vậy, những câu 37-38 cũng minh họa điều mà lòng nhân ái phát sinh. Bằng bốn ý tưởng: hai câu phủ định: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án”, và hai câu khẳng định: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại”, Chúa Giê-su kêu gọi đừng phê phán người khác, đừng giam hãm người ta mãi mãi theo cách đánh giá chắc chắn như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không muốn người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Ngài sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban ơn dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ cư xử với tôi như vậy.
Chúng ta đã đọc trong Kinh Thánh chuyện tích bà góa xứ Xa-rếp-ta, bà mà Thiên Chúa đã truyền nuôi ngôn sứ Ê-li-a thậm chí dù chỉ với một nắm bột còn lại trong hũ và chút dầu còn lại trong vò. Ấy vậy, Người đã thưởng cho tấm lòng quảng đại của bà với một hũ bột không vơi và vò dầu không cạn (1V 17: 9tt.). Sự việc cũng đã xảy ra như thế khi một cậu bé đã sẵn lòng dâng hiến năm chiếc lúa mạch và hai con cá cho Đức Giê-su mà Người hóa nhiều để nuôi một đám đông dân chúng (x. Ga 6: 9). Đây là hai ví dụ sống động về điều Thiên Chúa làm khi chúng ta cho Ngài điều chúng ta có, ngay cả nếu quà tặng của chúng ta chẳng là bao nhiêu. Thiên Chúa không để cho ai đó vượt qua mình về tấm lòng quảng đại: “Hãy đến với Người với lòng quảng đại và hỏi Người như trẻ thơ: Còn gì mà Chúa không cho con khi Chúa đã đòi con ‘điều này’?” (Bl. J. Escriva, Con Đường, 153). Chúng ta cho Thiên Chúa bao nhiêu trong cuộc đời này, Ngài sẽ cho chúng ta bấy nhiêu, thậm chí còn nhiều hơn trong cuộc đời mai sau.
Không thỏa hiệp với sự gian ác:
Tuy nhiên, việc từ chối xét đoán người khác không đồng nghĩa với thái độ dửng dưng với điều chân và thiện. Đôi khi, trong hoàn cảnh mà kẻ gian ác là người có thế lực và quyền hành, viện cứ yêu thương kẻ thù mà từ chối xét đoán lại trở nên đồng lõa với hành động của kẻ gian ác. Đó không là đức ái mà Đức Giê-su đã dạy, như lời dạy của Công Đồng Vatican II: “Thực ra, đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở nên dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Ki-tô loan báo cho mọi người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi vì người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn giáo. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào” (Gaudium et spes, 28).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY YÊU THƯƠNG KẺ THÙ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Bài đọc I kể chuyện Đavít tha chết cho vua Saun đang lùng bắt mình. Bài đáp ca mô tả Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, “chậm giận và giàu tình thương”. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay đề cập đến một vấn đề rất thực tế, đó là đối xử với những kẻ thù ghét mình. Trong cuộc sống nhiều va chạm, ai trong chúng ta mà không có lần bị người khác ganh ghét, làm hại ? Nhưng, là môn đệ Chúa, chúng ta phải đối xử với những người ấy thế nào.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu Chúa muốn chúng ta sống thế nào.
Gợi ý sám hối
– Chúng con phạm rất nhiều tội nghịch đức yêu thương, như nói hành nói xấu, giận hờn, ganh ghét, trả đủa, lên án anh chị em…
– Chúng con ít biết tha thứ, nhường nhịn
– Hiện giờ trong lòng chúng con vẫn còn ác cảm với một số người…
Lời Chúa
Bài đọc I (1 Sm 26,2.7-9.12-13.22-23)
Vua Saun dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đavít. Một đêm, Saun nằm ngủ mê mệt trong trại thì Đavít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đavít thấy đây là dịp may hiếm có nên xúi Đavít giết chết Saun. Nhưng Đavít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Saun rồi sang phía bên kia hô lớn bảo Saun thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Saun cảm động và phải thừa nhận Đavít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.
Đáp ca (Tv 102)
Thánh Vịnh 102 ca tụng Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu : tha thứ muôn ngàn tội lỗi, chữa lành các vết thương, chậm giận và giàu tình thương, không trả báo ta xứng với lỗi lầm…
Tin Mừng (Lc 6,27-38)
Những lời Chúa Giêsu dạy về cách đối xử với kẻ thù ghét mình :
– Đừng thù ghét lại nhưng hãy yêu thương, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ.
– Đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.
Những lời dạy về cách đối xử với tha nhân cách chung :
– Làm ơn và cho đi mà không cần đáp trả.
– Cư xử nhân hậu
– Đừng xét đoán và kết án.
– Hãy tha thứ.
Lý do của tất cả những cách cư xử trên là vì Cha trên trời : “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” ; “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán, hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ ; hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con…”
Bài đọc II (1 Cr 15,45-49) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô so sánh Chúa Giêsu với nguyên tổ Ađam : Ađam bởi đất mà ra, Chúa Giêsu từ trời mà đến ; Ađam chỉ có sinh khí, còn Chúa Giêsu có cả thần khí. Rồi thánh Phaolô cho tín hữu biết rằng họ chẳng những được mang hình ảnh của Ađam mà còn được mang hình ảnh của Chúa Giêsu nữa.
Gợi ý giảng
* 1. Tình huynh đệ, nghĩa cha con
Phải công nhận rằng những điều Chúa Giêsu dạy trong đoạn Tin Mừng này là quá khó : khi bị người khác làm hại, chúng ta chẳng những không được trả thù mà còn phải tha thứ, và hơn nữa còn phải làm ơn cho họ.
Nhưng sở dĩ khó là vì chúng ta coi “người ấy” chỉ là “người dưng”. Nếu chúng ta coi người ấy là “anh em” thì sẽ dễ hơn một phần. Và nếu chúng ta biết nghĩ đến “Cha chung” thì lại càng dễ hơn nữa.
Thực ra, tình thương mà người môn đệ đem ra đối xử với kẻ làm hại mình không phải là tình thương nghèo nàn có sẵn trong tim mình, mà là tình thương bắt nguồn từ con tim của Cha mình, tức là Thiên Chúa, “Đấng vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.
Khi chúng ta đối xử bằng tình thương của Thiên Chúa như thế thì chúng ta càng là con của Ngài hơn, và càng là anh em của tha nhân hơn. Đúng như lời Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ là con của Đấng tối cao”.
Và khi chúng ta rộng lượng với anh em mình như thế, thì Cha trên trời sẽ càng rộng lượng hơn đối với chúng ta : “Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em”.
Giáo huấn của Tin Mừng không phải dành cho những kẻ muốn làm anh hùng hay siêu nhân, mà dành cho những ai muốn làm con Thiên Chúa và làm anh em của nhau.
* 2. Tình yêu mặc khải
Chúa Giêsu không phải là một nhà huấn đức, mà là một Đấng mặc khải. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn, Ngài không nhằm dạy cho chúng ta biết những điều tốt, việc tốt, mà nhằm cho chúng ta biết Đấng tốt lành vô cùng.
Muốn thực sự hiểu biết ai thì phải thử sống như người đó, nghĩ như người đó và làm như người đó.
Khi chúng ta thực hành những điều Chúa Giêsu chỉ dạy trong bài Tin Mừng này thì chúng ta sẽ hiểu Thiên Chúa là thế nào. Chẳng những thế, chúng ta còn trở nên giống như Thiên Chúa.
Và khi chúng ta sống như Thiên Chúa, chúng ta sẽ mặc khải cho người khác biết Thiên Chúa là thế nào.
* 3. Tha thứ là trao ban hai lần
Chuyện “Nghìn Lẻ Một đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên toà như sau :
Có hai người anh em ruột bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ đem tên sát nhân đến trước quan toà và yêu cầu xử theo luật “mắt đền mắt răng thế răng”. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật định.
Trước mặt quan toà, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt. Chỉ xin hoãn ba ngày để hắn về giải quyết vấn đề liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Giữa lúc quan toà đang do dự, thì từ trong đám đông dự phiên toà có một người giơ tay cam kết : “Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay cho hắn”.
Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra pháp trường, dõng dạc tuyên bố : “Tôi đã giải quyết việc gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của mình để người ta sẽ không nói : Chữ tín không còn trên mặt đất này”.
Sau lời phát biểu hùng hồn của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông tuyên bố : “Phần tôi, sỡ dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này vì tôi không muốn để cho người ta nói : “Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quí nhất trong trái tim con người.
Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra nói với quan toà : “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói : “Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này”.
*
Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, phản ứng thường tình của con người, để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Tha thứ là thể hiện cao cả nhất của tình yêu. Nếu yêu thương là trao ban thì tha thứ còn lớn hơn cả trao ban, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.
Quả thật, tha thứ là trao ban hai lần. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải mình, có thể cho đi chính mạng sống mình vì người mình yêu, thì tha thứ còn ca cả hơn rất nhiều, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.
“Hãy yêu kẻ thù”. Đó là lệnh truyền đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài tin Mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Người. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Người đã làm gương cho chúng ta khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Hơn nữa, Người còn minh oan cho họ : “Vì họ lầm chẳng biết”.
Chính hành vi cao cả này mà Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Và đó cũng là nét cao quí nhất trong dung mạo của Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người, Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, để tái tạo và phục sinh với Người.
Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù ? Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ. Theo triết gia Nietzsche thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” chỉ dành cho người bạc nhược, nhát đảm. Và Chúa Giêsu chính là con người quá lý tưởng, thiếu thực tế.
Không, Chúa Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế, Người là con người thực tế đích thực.
Người xưa có câu : “Ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giêsu thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong như cơn lốc xoáy ập tới tiêu diệt mọi người.
Hận thù gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời, huỷ diệt nhân cách của chính họ. Bacon viết : “Khi trả thù, người ta biến mình bằng kẻ thù. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ”.
Tâm lý học ngày nay khẳng định : “Hận thù thì huỷ diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu”.
Cuối cùng, tình yêu có phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là huỷ diệt, thì tình yêu là xây dựng. Abraham Lincoln có nói : “Biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi ?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.
Đối với người tín hữu Ki tô, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa trong Luca đoạn 6 câu 35 : “Anh em hãy yêu kẻ thù… Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao”. Chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của Cha trên trời, nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.
*
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một trái tim nhân từ như Chúa, để chúng con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện, hầu mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Người.
Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu sâu xa của Chúa, để chúng con thật tình tha thứ cho nhau. Amen. (TP)
* 4. Yêu thương kẻ thù
Ở Belfast có một gia đình kia. Người chồng bị bắn chết đang khi lái xe đến nhà thờ dự lễ. Sau đó ít lâu, người vợ cùng đứa con đến nhà thờ cầu nguyện. Đứa con hỏi :
– Mẹ ơi, không biết người đã bắn chết cha con có được lên thiên đàng không hở mẹ ?
Câu hỏi khiến người mẹ bị bất ngờ. Suy nghĩ một lát, bà trả lời :
– Nếu người đó thành thật sám hối thì Chúa cũng tha thứ và cho lên thiên đàng.
Đứa con rất khó chịu :
– Nếu có người đó trên thiên đàng thì con không muốn lên thiên đàng đâu.
Người mẹ càng bối rối hơn nữa. Bà lại suy nghĩ, rồi nói :
– Nếu Chúa đã tha cho ông ta, thì Ngài cũng sẽ đổi lòng ông ta, khiến ông ta không còn dễ ghét nữa mà thành dễ thương.
Lúc đó đứa con mới thoả mãn. Nó nói với mẹ :
– Vậy thì mẹ con mình hãy cầu nguyện cho ông ta đi.
Bài học quan trọng nhất của đoạn Tin Mừng hôm nay là làm thế nào để chống lại sự ác mà không cần trả thù.
Hầu hết chúng ta nghĩ rằng chỉ cố gắng đừng trả thù là đủ rồi. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta nhiều hơn thế, Ngài còn muốn chúng ta yêu thương kẻ thù nữa. Mặc dù việc này rất khó, nhưng chúng ta thấy bà mẹ Belfast đã làm được, và đứa con nhỏ của bà cũng làm được.
Chỉ xét trên bình diện nhân loại thôi thì giáo huấn của Chúa Giêsu cũng rất hữu ích : đà leo thang của sự ác chỉ có thể bị dừng lại bằng việc tiêu hủy nó chứ không phải bỏ qua nó. Trả thù và trả đũa là lấy ác báo ác. Khi chọn thái độ báo thù thì chúng ta bị thù hận làm nhiễm độc. Khi nuôi lòng hận thù trả thù, chúng ta phải tiêu hao nhiều năng lực. Trả thù chỉ thỏa mãn được sự tức giận của ta nhưng lại làm cho con tim ta trống rỗng. Oscar Wilde viết : “Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù là Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù mà nhắm đến lợi ích của chính bản thân ta. Hơn nữa yêu thương thì đẹp hơn thù hận rất nhiều”.
Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực thì ngược lại lòng yêu thương tăng cường nghị lực trong chúng ta. Một trong những việc khó làm nhất là yêu thương kẻ ghét mình. Nhưng tình yêu chân thật là yêu thương cả người khó thương hay không thể thương được. Chỉ người nào rất giàu năng lực mới làm được như thế. Mà việc này có thể làm được, bởi vì sức mạnh của yêu thương lớn hơn sức mạnh của hận thù.
Dù sao thì tha thứ cho kẻ đã làm hại mình là một việc rất khó. Khi bị làm hại, làm sao trong lòng ta không có những cảm giác đau đớn, đắng cay và ý định muốn trả thù ? Muốn vượt thắng cảm giác và ý định đó, cần phải chiến đấu rất nhiều. Cầu nguyện chính là sức tăng viện giúp ta chiến thắng. Bởi đó Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy cầu nguyện. (FM)
* 5. Đừng xét đoán
Chúng ta rất dễ xét đoán người khác. Thế nhưng Chúa Giêsu khuyến cáo rằng khi ta xét đoán người khác tức là ta xét đoán chính mình : “Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán”.
Câu chuyện sau đây có thật :
Một buổi sáng, vị Linh mục đang dâng Thánh lễ thì thấy một người đàn bà đến trễ. Cha rất bực bội nên khi bà này lên rước lễ thì Cha không trao Mình Thánh Chúa. Điều này làm cho bà rất đau lòng.
Thực ra bà là người rất ham dự Lễ. Từ trước tới nay bà không bao giờ đi trễ. Nhưng hôm nay chồng bà đột ngội ngã bệnh ; đứa con gái tàn tật lại lên cơn. Bà phải nán lại để chăm sóc chồng con. Nguyên việc trễ lễ đã là một mất mát rất lớn đối với bà rồi. Thế mà Cha lại không cho bà rước lễ !
Sở dĩ vị Linh mục làm thế là vì ngài đã xét đoán một cách hồ đồ. Và cách làm của Ngài chính là lời kết án tính hồ đồ của Ngài.
Câu chuyện trên phải là một sự cảnh cáo chúng ta đừng xét đoán cách hồ đồ. Thực ra, xét đoán là một điều rất khó. Muốn xét đoán cho đúng thì ta phải thấy đầy đủ hết mọi khía cạnh của sự việc. Thấy mọi khía cạnh của sự việc cũng chưa đủ, cần phải hiểu thêm về hoàn cảnh và động cơ thâm sâu của sự việc đó nữa. Trong khi đó, thường chúng ta chỉ thấy một phương diện thôi, và chỉ thấy bề ngoài thôi. Tóm lại, chúng ta chưa có đủ yếu tố để xét đoán.
Chắc ai trong chúng ta cũng có lần là nạn nhân bị người khác xét đoán. Hãy nhớ lại xem khi đó chúng ta đau khổ như thế nào. “Điều gì bạn không muốn người khác làm cho bạn thì bạn đừng làm cho người khác” (Hillel).
Vả lại, ai trong chúng ta mà không cần được Thiên Chúa xét đoán khoan hồng, bởi vì “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được ?” Vì thế chúng ta cũng phải khoan hồng với anh em chúng ta. “Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (FM)
* 6. Hãy cho mà không mong được đáp trả
“Thiên Chúa sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và tràn đầy mà đổ vào vạt áo của anh em”.
Trong câu nói trên, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thuộc trong nghề nông. Hay nói rõ hơn, đó là trong việc đong lúa : những người gian lận hoặc keo kiệt thì dùng loại đấu thiếu dung lượng ; chẳng những thế khi đong thì đong vội vã để lúa chưa kịp lóng xuống mà đấu đã đầy tới miệng. Còn người công bình và rộng lượng thí dùng đấu chính xác, lại còn dằn, còn lắc để lúa trong đấu càng nhiều càng tốt.
Chúa Giêsu đã dùng hành ảnh ấy để khuyến khích chúng ta đối xử rộng lượng. Nếu chúng ta rộng lượng thì sẽ được Thiên Chúa rộng lượng lại gấp bội.
Viktor Frankl là một tù nhân trong trại tù Auschwitz thời Quốc Xã Đức. Ông kể lại rằng một người trong trại tù mà ông lấy làm sung sướng nhất mỗi khi được gặp, đó là anh đầu bếp F. Khi tới giờ ăn, mỗi tù nhân bưng một cái tô, xếp hàng tới lãnh cháo nơi các đầu bếp. Các đầu bếp kia thường nhìn mặt tù nhân, hễ gặp người nào mà hắn có cảm tình thì hắn múc cho một tô đầy, còn người nào mà hắn không ưa thì chỉ được một tô lưng. Riêng anh đầu bếp F này thì chẳng nhìn mặt ai cả, ai đưa tô ra anh cũng đều múc đầy.
Tại sao anh F làm như thế ? Viktor Frankl không biết. Nhưng ta có thể đoán là anh F cũng là một tù nhân, trước đây cũng đã phải bưng tô chờ các đầu bếp đong cháo, một số lần bị đong lưng và một số lần được đong đầy. Nay anh được làm đầu bếp và được trao trách nhiệm đong cho người khác, anh làm theo lời Chúa Giêsu nói “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì hãy làm cho người ta như vậy”.
Chúng ta càng mở rộng cửa lòng cho người khác thì lòng chúng ta càng được mở rộng để đón nhận ơn ban của Chúa. Cái đấu chúng ta dùng để đong cho người khác cũng là cái đấu Chúa dùng để đong cho chúng ta. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Solzhenitsyn kể một chuyện sau đây xảy ra trong thời Thế chiến thứ hai :
Khi đó là tháng 12 năm 1943. Chiến sự đang diễn ra ác liệt trong lúc tuyết rơi tầm tã đến nỗi người ta không nhìn rõ mặt nhau. Có hai người lính nằm bên cạnh nhau. Phía trước có bóng một người mà họ nghĩ là quân địch. Hai người lính này chỉa súng về phía đó nhả đạn. Họ khuyến khích nhau bắn cho hăng, họ chuyền đạn cho nhau, thỉnh thoảng còn chia nhau khi thì chai nước khi thì gói thuốc hút.
Một lúc sau, cái bóng phía trước biến mất. Hai người lính tạm nghỉ, bỏ súng trường xuống, cởi nón sắt và áo khoác ra. Lúc đó họ mới có dịp nhìn rõ nhau. Một anh đeo quân hiệu con đại bàng, anh kia đeo ngôi sao. Thì ra một anh là lính Đức, một anh là lính Nga, tức là hai kẻ thù của nhau. Lập tức hai người nhảy một bước ra xa nhau, rút súng ngắn chỉa về phía người kia. May là súng không nổ vì trời quá lạnh. Hai người xông vào ôm nhau vật lộn. Vật chán rồi mệt quá nằm lăn ra tuyết.
Diễn biến sự việc có nhiều điều đáng ta suy nghĩ : a/ Hai người lính ấy đã vật lộn với nhau không phải vì chính trị, cũng chẳng phải vì lòng yêu nước, mà chỉ vì họ đều là nạn nhân của một suy nghĩ sai lầm và mù quáng “Nếu ta thương xót kẻ thù thì kẻ thù sẽ giết chết ta” ; b/ Câu chuyện còn cho thấy một sự thật khác nữa, đó là : kẻ thù cũng dễ thành bạn, mà bạn cũng dễ thành kẻ thù, bởi vì trong kẻ thù cũng có một cái gì đó mà ta thích, và trong người bạn cũng có một cái gì đó mà ta không ưa. (FM)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
Hội thánh luôn kêu gọi con cái mình triệt để tuân giữ luật bác ái của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / luôn chân thành yêu thương nhau.
Trên thế giới ngày nay / hận thù và bạo lực vẫn còn đang ngự trị trong đời sống của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái Kitô giáo / thâm nhập vào mọi sinh hoạt trần thế / để hết thảy mọi người được sống trong hòa bình và an vui.
Anh em phải có lòng từ bi như Cha anh em là Đấng từ bi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu biết chân thành lắng nghe / và cố gắng sống theo Lời Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng.
Anh em đừng xét đoán / thì sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét đoán / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm từ bỏ tật xấu hay xét đoán người khác cách bất công / vì không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện.
Chủ tế : Lạy Chúa, xin hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa, để chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, và đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Chúng con cầu xin
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Trong số 7 lời xin trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến lời xin ơn biết tha thứ. Chúng ta cũng hãy tha thiết xin Cha trên trời giúp chúng ta biết tha thứ cho anh chị em chúng ta.
Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về và nhớ thực hiện lời Chúa dạy : “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
THƯƠNG XÓT NHƯ CHA LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT- Chú giải của Fiches Dominicales
Một tình yêu không loại trừ và vô vi lợi
Thánh sử Luca đã nhập đề bài Chúa giảng “ở chỗ đất bằng” bằng những “mối phúc” “mối họa” Chúa gởi đến cho những người bị cuộc sống bầm dập hoặc phải chịu bách hại vì đức tin. Giờ đây Luca muốn đề cập đến một thái độ hoàn toàn đặc trưng của người môn đệ Đức Giêsu: lòng yêu thương những kẻ thù, những kẻ “ghét ” họ, “nguyền rủa” họ, những kẻ muốn chiếm đoạt danh tiếng, của cải và thân xác họ.
Đức Giêsu bắt đầu trình bày đòi hỏi cơ bản này: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em”.
Cousin xác định .’ “Đây không phải vì lòng quý nên ta có đối với người trong gia đình, hay là tình bằng hữu đối với người đồng trang lứa, càng không phải là tình yêu say đắm! Đó là vấn đề biết quý trọng và cư xử tốt với kẻ thù và biết biểu lộ tâm tình ấy bằng cử chỉ và lời nói” ( “L’Evangile de Luc “, Centurion, tr. 96)
Tiếp theo là những thí dụ Đức Giêsu đưa ra để mời gọi các môn đệ khi bị người ta đối xử hung bạo, thì đáp lại bằng “thái độ bất hung bạo, hãy nhường nhịn hết mình: “Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong ..,”
Sau cùng, Đức Giêsu đưa ra luật vàng cho cung cách cư xử của các môn đệ: không chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, bởi lẽ “ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế”, hãy yêu thương nhau cách vô vị lợi, không tính toán, chỉ chờ đợi sự đáp trả ở một mình Chúa mà thôi: “Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao ” .
Khi cư xử như vậy, khi thực hành yêu thương kẻ thù, khi từ chối cướp quyền thẩm phán của Thiên Chúa, các môn đệ sẽ là “con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác “; khi noi gương lòng nhân hậu của Thiên Chúa, họ sẽ nên giống Người.
– Khi cư xử như vậy, người môn đệ sẽ theo gương Thầy mình là Đấng, suốt cuộc đời và một cách trối vượt trong cuộc Khổ nạn của Người, đã thực thi tình yêu thương và tha thứ, mà Người đã đòi hỏi nơi họ. R. Meynet bình giảng: “Đức Giêsu đã chịu để cho tên đầy tớ Thầy cả Thượng phẩm tát mình, và đã chịu để cho người ta đánh đòn, Người ta đã lột không chỉ áo ngoài của Người, mà cả áo trong nữa. Người đã giang hai tay và đưa cả hai chân ra cho người ta đóng đinh vào thập giá. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng và phó linh hồn, Người còn cầu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Người. Thế mới biết, khi Chúa Cha yêu thương phường vô ân và quân độc ác, tình yêu ấy đã dẫn Người đi tới tận đâu: Người đã không từ chối ban chính Con Một mình. Tình yêu của Chúa Cha đối với mọi người đã hóa thân trong con người Đức Giêsu” (L’evangile selon saint Luc. Phân tích tu từ”, tập 2, trg 80).
“Nếu chúng ta muốn bắt chước Chúa Giêsu”(L. sintas, trong “Parole de Diêu pour la méditation ét l’homélie. Năm C”. Médiaspaul, 1994, trg 83) .
Nếu ta đọc những lời này vào lúc lòng ta không có điều chi ray rứt và ta đang vui tính, thì có thể thấy những lời ấy thật tuyệt vời. Trái lại trong trường hợp ta bị nhục mạ , phải cay đắng vì là nạn nhân của một bất công, thì những lời của Đức Giêsu xem ra không thể chịu nổi. Thế nhưng chính trong những giờ phút ấy, Lời Chúa mới tỏ cho thấy nó có sức mạnh và sự thật. Thế nghĩa là thế nào?
Chúa nói với ta rằng: “Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ “. Bằng lời vắn gọn đó, Đức Giêsu ban cho ta một cái nhiệt kế để đo lường mức độ lòng tin của ta.
Thực ra, vấn đề đích thực là thế này: Lòng tin làm thay đổi cái gì trong cuộc sống của tôi? Có khi nào tôi đề ra những việc làm mà giả như không phải là Kitô hữu, thì tôi sẽ không đặt ra chăng? Yêu thương kẻ làm hại tôi, việc làm đó, một người có lương tri bình thường không nghĩ ra đâu. Để gợi ý cho tôi, Thiên Chúa đã không nề hà, vì tự mình chúng ta sẽ không nghĩ ra được điều đó. Thiên Chúa đã xuống. trần, sống kiếp phàm nhân giống hệt chúng ta. Người đã phải sống trong những hoàn cảnh đáng ghét, hoàn cảnh của một người mà chung quanh chỉ gặp toàn là thù địch. Trong hoàn cảnh như thế đó Đức Giêsu đã xin tha thứ cho những kẻ làm khổ Người. Nếu ta muốn bắt chước Đức Giêsu, thì việc chọn sống những tâm tình và thái độ của Người đến độ biết tha thứ cho kẻ thù, thiết tưởng là điều khẩn thiết!
Là Kitô hữu là tin rằng Đức Giêsu đã cuốn hút ta đến độ chính người sống trong ta. Người muốn nhờ chính con người của ta, con tim và trí tuệ, ánh mắt và lời nói của ta để nói với những con người thời nay, điều mà Người đã nói cách đây hai ngàn năm, trước mặt những người đương thời với Người. Người đã nói gì? Chỉ một sự thật này thôi: Thiên Chúa thương xót tất cả những ai thù ghét Người. Làm sao những người đương thời với chúng ta hôm nay sẽ nghe được lời này của Đức Giêsu nếu chính chúng ta không nói cho họ biết ơn tha thứ của Thiên Chúa là như vậy đó?
“Chúng ta được mời gọi phải vượt thắng chính mình” ( “Célébrer” Tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ và Phụng vụ, số 216, trg 26)
Những lời Tin Mừng này có lẽ khiến ta phải hoài nghi, và xem ra càng không mấy thích hợp với những thực tại khắc nghiệt thường ngày bị chi phối bởi luật rừng. Có người sẽ bĩu môi cười: “giơ má kia à “.
Ta đừng lẫn lộn tử tế với ngu xuẩn…? Há chính Đức Giêsu đã không vặn hỏi kẻ đánh Người rằng: “Tại sao anh đánh tôi? “, mà không giơ má bên kia đó sao? Ta thấy rõ rằng Đức Giêsu muốn kêu gọi ta vượt lên chính mình; Người thúc ép ta phải có lối cư xử ngoại hạng của người Kitô hữu. Sứ điệp của Người được gởi đến “cho anh em là những người đang nghe tôi đây “, những người đang đón nhận mạc khải của phúc âm. Đó là những người đã chịu phép rửa, những người đã trở lại để sống trong Giáo hội và học dưới mái trường của vị Tôn sư dạy làm điều phi thường. Như ánh sáng đức tin, họ am hiểu lời Người. Có khó tính chăng nữa cũng phải nhận rằng cách cư xử theo Kitô giáo, việc noi gương bắt chước Đấng hằng tha thứ, dù là kẻ hành hình mình, bất quá chẳng phải là điều quá phi lý. Chẳng qua là con đường khôn ngoan vượt bực còn bí ẩn đối với “kẻ phàm nhân” thôi. Há chúng ta chẳng có được kinh nghiệm về niềm vui lớn lao khi ta xử sự theo lòng thương xót hoặc khi ta được chứng kiến những việc làm của tinh thần vị tha, tinh thần chia sẻ, tinh thần tha thứ và tinh thần yêu thương “điên rồ ” đó sao? Những lời của Đức Giêsu vẫn có thể được những người sống ngoài Giáo hội hữu hình “nghe ra ” và thực hành. Không thiếu những lời nói và hành động phi thường nơi những con người “sống ngoài ” Giáo hội. Đó phải là động cơ thúc đẩy ta dâng lên lòng biết ơn là mềm vui, vì chính họ cũng là con Đấng tối Cao.
Chớ gì lòng thương xót luôn luôn là cái đấu để chúng ta đong cho người khác…nhưng phải là cái đấu đã dằn đã lắc và đầy tràn?.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA- ĐTGM Jos. Ngô Quang Kiệt
Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức độ khác nhau.
Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của Đa-vít. Đa-vít làm ơn mà mắc oán. Sau khi chiến thắng Gô-li-át, giải phóng dân Do thái khỏi tay người Phi-li-stinh, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Đa-vít khiến vua Sa-un ghen tỵ. Sa-un tìm bắt Đa-vít để giết đi. Hôm nay, sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Sa-un ngủ thiếp đi trong hang đá. Đa-vít đến mà không ai hay biết. Có thể giết Sa-un, nhưng Đa-vít đã không làm. Trong Đa-vít có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy nhiên sự tha thứ của Đa-vít vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám giết Sa-un một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức dầu”.
Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được lợi còn người kia bị thiệt.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.
Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu về người khác: “Anh em đừng xét đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa lên án”.
Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.
Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương, chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng bền vững nhất.
Đức Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.
Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay tìm cách tha thứ?
2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh thản hay bứt rứt?
3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã tha thứ?
4- Bạn đã được tha thứ nhiều. Bạn cảm thấy thế nào mỗi khi lầm lỗi mà được tha thứ?
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BÁC ÁI VÔ BIÊN– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Tất cả các nền luân lý của nhân loại đều đề cập đến yêu người, nhưng yêu thương kẻ thù thì đặc biệt chỉ có giáo lý Đức Giêsu đòi hỏi thôi. Kẻ thù được xác định rõ ràng là những kẻ oán ghét, nguyền rủa, nhục mạ mình, là những kẻ vả má đánh đập, làm hại bóc lột mình đến cả áo mặc nữa. Chứ không phải kẻ thù xa lạ của đoàn thể hay đất nước. Kẻ thù chính cá nhân ta mới rất khó tha thứ và yêu thương.
Sách Đông Châu Liệt Quốc có kể hai anh em Cựu Tử và Bạch Tử tranh nhau chiếm ngai vàng nước Tề. Quản Trọng phò Cựu Tử, bạn chí thân của ông là Bào Thúc Nha phò Bạch Tử. Quản Trọng mưu bắn giết Bạch Tử để tôn Cựu Tử làm Vua, Bạch Tử không chết. Nhưng Cựu Tử lại bị Lỗ Hầu giết chết. Bạch Tử sống sót trở về làm Vua nước Tề. Bạch Tử phong Bào Thúc làm tướng quốc. Bào Thúc không dám nhận, lại tiến cử Quản Trọng.Vua rất kinh ngạc hỏi sao ông dám tiến cử kẻ thù đã mưu giết ta?. Bào Thúc nói: Vua muốn giữ nước Tề thì không cần Quản Trọng, nhưng muốn làm Vua thiên hạ thì phải nhờ Quản Trọng. Vua đã quên thù để lập nghiệp lớn.
Có phải Bạch Tử yêu thương kẻ thù như Đức Giêsu dậy chăng? Bạch Tử tha cho Quản Trọng và phong cho làm tể tướng không phải vì yêu kẻ thù, mà chỉ vì yêu mình, muốn Quản Trọng giúp mình làm bá chủ thiên hạ.
Bài đọc I cũng kể David đã không giết Saolê là kẻ thù đang đem 3000 quân đi lùng bắt giết David. Có phải David yêu kẻ thù chăng? Chắc là phải, vì David đã kính trọng Vua Saolê, là người đã được Chúa xức dầu. Như vậy, David vì mến Chúa mà tha thứ cho kẻ thù. Lòng kính mến Thiên Chúa chính là nền tảng đức bác ái vô biên. Ai nhận biết Thiên Chúa là Cha mình, mới nhận ra mọi người là anh em thật của mình và không còn ai là kẻ thù.
Đức Giêsu là con Thiên Chúa, đã muốn cho tất cả mọi người là anh em của Ngài, nhờ đó mọi người được làm con Thiên Chúa, cho nên không còn ai là kẻ thù. Vì thế, dù biết Giuda là kẻ nội phản, dẫn quân dữ đến bắt Ngài, Ngài vẫn hiền từ thương yêu và gọi Giuda là bạn chí thiết. Tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Ngài vẫn làm ơn chữa lành tai cho nó, không coi nó là kẻ thù. Nhất là khi hấp hối đau đớn cùng cực trên thập giá, Ngài vẫn tha thiết cầu khẩn Đức Chúa Cha tha tội những kẻ giết Ngài vì chúng lầm chẳng biết. Thánh Stêphannô thấm nhuần giáo lý yêu thương vô biên đó, nên khi bị những trận cuồng phong ném đá Ngài như mưa, Thánh nhân đã cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông qùi xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa xin đừng chấp họ tội này”. (Cvtđ. 7, 59-60).
Ngày 13/05/1981 cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng về tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường Thánh Phêrô. Ali Agca, một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ, thủ phạm bắn Ngài, lại được Ngài đến thăm, nói chuyện và tha thứ cho anh. Tình yêu nào đã khiến Đức Giáo Hoàng thương yêu kẻ thù như bạn hữu của mình? Chỉ có tình yêu của Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian này đã có lòng bác ái vô biên như vậy. Chính tình yêu của Đức Giêsu cũng đã thúc đẩy ông Grandhi hết lòng thương yêu kẻ thù bằng dùng phương pháp bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn thoát ách nô lệ dân Anh và hòa giải dân Ấn với Hồi không còn coi nhau như kẻ thù truyền kiếp nữa. Họ đã tôn kính Grandhi như Cha già dân tộc và là vị đại ân nhân nhất của họ. Cả thế giới đều gọi ông là thánh Grandhi. Nhưng ngày 30/01/1948 đang lúc ông cầu nguyện tạ ơn vì bản hòa ước đã ký kết giữa hai dân Ấn-Hồi, thì ông bị chính người đồng bào bắn chết. Ông chỉ kêu lên được hai tiếng: Rama, Rama: Chúa ơi, Chúa ơi và giơ tay làm một cử chỉ tha thứ cho kẻ bắn ông.
Nhà văn Nguyễn Hiến Lê trong Gương Danh Nhân đã hỏi: Nhờ đâu, Grandhi lúc còn nhỏ là con người tầm thường, chơi bời, đàng điếm, ghen tương lại trở nên một thánh nhân vĩ đại của Ấn và của cả thế giới? (Tr. 81). Bách khoa tự đển của Punk đã trả lời: “Ông đã thấm nhuần giáo lý của Đức Kitô, như câu: “Ai vả anh em má bên phải, hãy giơ cho nó má bên kia nữa” “He acknowledged a debt to the teaching of Christ as expressed in …”whosoever shall smite thee on the right check, turn to him the other also”. (Punk, Encyclopedia, 9,11. P. 3896). Chính bài Tin Mừng hôm nay đã biến đổi Grandhi từ một con người hèn yếu, thành một thánh nhân vĩ đại của nhân loại.
Còn đối với mỗi người chúng ta, bài Tin Mừng này có biến đổi chúng ta thành con Chúa biết “thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình” không?
Lạy Chúa, con đã xúc phạm đến Chúa biết chừng nào! Chúa vẫn tha thứ, hy sinh chịu chết cứu chuộc con và cho con được làm con yêu dấu của Chúa. Xin cho con nhận biết lòng từ bi nhân hậu của Chúa, cho con hết lòng yêu thương mọi người, dù họ thù ghét con mãi mãi.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NỀN VĂN MINH TÌNH THƯƠNG– Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.
Thách Đố
Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?
Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.
Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.
Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).
Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.
Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.
Noi Gương Thày Chí Thánh
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).
Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?
Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LUẬT YÊU THƯƠNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong toàn bộ Tin Mừng. Xin được nói về vài nội dung:
Nội dung thứ nhất: Chúa muốn nói với chúng ta về những sắc thái mới mẻ của luật yêu thương.
a- Như anh chị em đã thấy cuộc sống của con người trên trần gian này bị nhiều thứ luật lệ chi phối. Trong số những lề luật đó có một thứ rất quen thuộc và hầu như nó chi phối thường xuyên cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Đó là luật Công bằng. Ngôn ngữ thông thường của chúng ta thường nói là luật có đi có lại – luật vay trả.
– Cựu ước đã diễn tả luật này thành một công thức tương đối cũng rất dễ hiểu. Đó là luật:”Răng thế răng, mắt đền mắt”
– Đây là luật có tính cách sòng phẳng.
Sống như thế theo cách nhìn của trần thế kể như là cũng đã tốt lắm rồi. Thế nhưng đối với Chúa thì chưa đủ. Sống như thế theo như Chúa Giêsu nói: “người tội lỗi, những người thu thuế và cả những người dân ngoại cũng làm được.”
b- Chính vì thế mà hôm nay Chúa đề nghị chúng ta phải vươn lên tới một cuộc sống được chi phối bởi một thứ luật cao hơn. Đó là luật Bác ái. Chúa diễn ta luật ấy bằng những lời lẽ rất cụ thể như thế này:
” Hãy yêu thương kẻ thù.
Hãy làm ơn cho những kẻ ghét anh em
Hãy chúc lành cho những kẻ nguyền rủa anh em.
Hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống cho anh em
– Như thế chúng ta thấy rõ ràng Chúa đã muốn những ai muốn theo Chúa phải vượt lên trên cái lẽ thường tình của cuộc đời làm người . Những đòi hỏi của Chúa không còn nằm trên bình diện “có đi có lại nữa”. Nó đã tiến xa hơn, xa tới mức “có đi mà không có lại:
” Ai xin thì hãy cho
Ai vả má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa
Ai đoạt áo ngoài của anh em thì đừng cản nó lấy cả áo trong”
Thật không còn gì để có thể nghi ngờ. Rõ ràng là Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải sống một cuộc sống được chỉ đạo bằng một luật cao hơn luật Công bằng. Phải vươn lên đến luật bác ái yêu thương, yêu thương dường như không có bờ không có bến.
Và theo Chúa có sống một cuộc sống như thế thì mới xứng đáng là con Đấng Tối cao.
Đó là nội dung thứ nhất.
Nội dung thứ hai: Chúa chỉ cho những người làm con của Chúa cách thức thực hành để sống cuộc sống như Chúa mong muốn đó..
a- Qua những chỉ dẫn này chúng ta thấy Chúa là một người rất thực tế. Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người. Chúa cũng không đòi hỏi những gì quá cao siêu, quá khó hiểu. Nguyên tắc Chúa đưa ra ở đây ai nghe cũng có thể hiểu.
Chỉ có một điều hơi lạ là ở trên thì chúng ta thấy Chúa đòi hỏi một mức độ thật cao nhưng khi đưa nguyên tắc áp dụng thì Chúa lại tỏ ra rất thông cảm với con người.
Đây là nguyên tắc của Chúa :”Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” Chỉ dẫn này rõ ràng là còn nằm trên bình diện công bằng. Thế nhưng thực hành được như Chúa nói cũng không phải là một điều dễ.
b- Tôi tự hỏi: Tôi muốn người ta làm gì cho tôi.
– Điều tôi không bao giờ muốn là người ta xử tệ với tôi, người ta lừa đảo tôi, người ta nói xấu tôi, người ta thù oán tôi, người ta xỉ nhục tôi vv và vv.
– Và điều mà tôi luôn muốn là tôi được sống an bình, tôi được tôn trọng, tôi được kính nể, tôi được yêu thương, tôi được tha thứ…
c- Vâng kính thưa anh chị em tất cả những điều ấy tôi tưởng có lẽ không có gì là khó hiểu. Rất dễ hiểu là đàng khác. Thế nhưng làm được như thế có phải là dễ không?.
Tôi nhớ lại một câu truyện nhỏ trong cuộc đời của thánh Gioan Don Bosco. Một hôm Ngài đang đi trên đường thì bị một nhóm trẻ “bụi đời” làm hàng rào cản lối không cho Ngài đi qua. Ngài thản nhiên dừng lại và bằng một cử chỉ rất lịch thiệp Ngài bỏ mũ xuống và nói:
“Xin các bạn cho phép tôi đi qua”
Nhóm trẻ ngỗ nghịch ấy lập tức im lặng. Chúng ngạc nhiên về cung cách lịch thiệp của Ngài và sau đó chỉ còn biết trả lời:
” Thưa Cha, xin cha cứ việc đi”
Pascal có nói một câu rất hay:”Biết làm khơi dậy sự kính trọng lẫn nhau đó là kết quả lớn lao của lòng yêu mến”
Đó là nội dung thứ hai.
Nội dung thứ ba: Mẫu mực và phần thưởng cho những ai dám sống đời sống yêu thương như Chúa mời gọi.
a- Mẫu mực. Đó chính là Thiên Chúa. Và phần thưởng sẽ rất lớn lao.
Chính Thiên Chúa là mẫu mực. Thánh Gioan gọi đã gọi tên Người là Tình yêu. Anh chị em thấy mấy dòng chữ mà chúng tôi gắn trên tấm bảng và treo ở dưới cuối nhà thờ: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Có lẽ không có tên gọi nào để gọi Thiên Chúa đẹp đến như thế. Thiên Chúa là Tình yêu.
Ở cuối bài Tin Mừng hôm nay, chỉ bằng một câu nói thật vắn gọn Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực hiện lòng yêu thương như thế nào: “Người nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.
Thật không còn gì có thể hồ nghi về ý muốn của Chúa. Chúa muốn chúng ta nên giống Người.
Dan Clark đã thuật lại một câu truyện rất cảm động như sau: Buổi tối hôm đó trời rất lạnh. Một em bé khoảng 6-7 tuổi đang đứng tần ngần trước một cửa hàng. Đứa bé rất nghèo. Nó không có giầy. Quần áo của nó chỉ là những miếng giẻ rách được khâu lại. Bỗng có một thiếu phụ đi qua. Trông thấy cậu bé, người thiếu phụ dừng lại. Bà dư sức hiểu được cậu bé đang thèm khát những gì qua cặp mắt xanh u uẩn của nó. Bà cầm tay cậu bé, dắt cậu vào trong tiệm. Bà mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.
Sau đó cả hai lại trở ra phố. Bà nhìn cậu bé một lần nữa và nói:
– Bây giờ cháu có thể về nhà và hưởng một ngày thật vui vẻ nhé.
Cậu bé ngạc nhiên đưa cặp mắt ngước nhìn lên người thiếu phụ và hỏi:
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cuời với cậu và trả lời:
– Con ơi! Không phải đâu. Bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi.
Lúc đó cậu bé nói:
– Cháu biết ngay mà bà có họ hàng với Ngài mà.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ- Trích Logos C
YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ
Vào thế kỷ 16, một trong những kiệt tác văn học về tình yêu được cả thế giới ca ngợi là vở Bi kịch Romeo và Juliet của đại văn hào Shakespeare, người Anh. Nội dung vở kịch như sau:
Hai dòng họ Capulet và Montegu ở thành Verona nước Ý vốn thù địch với nhau từ lâu đời. Romeo, chàng trai thuộc dòng họ Montagu yêu nàng con gái tên Juliet là con vị tộc trưởng dòng họ Capulet. Hai người yêu nhau tha thiết. Bất chấp trở ngại là sự thù địch giữa hai dòng họ, đôi tình nhân đến xin linh mục Loren làm lễ thành hôn. Đang khi đó, một trở ngại lớn hơn xảy ra : trong một cuộc xô xát, chàng Romeo đã giết chết TiBurn, anh họ của nàng Juliet. Vì thế, chàng trai Romeo Bị trục xuất ra khỏi thành. Còn có một trở ngại nữa : gia đình Juliet ép nàng phải lấy một vị Bá tước mà nàng không yêu. Juliet cầu cứu cha Loren. Vị Linh mục đầy lòng nhân từ cho Juliet uống một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ ngủ 42 giờ liền; gia đình tưởng nàng chết, sẽ đưa thi hài nàng mai táng trong nhà mồ của dòng họ. Còn Romeo sẽ được cha Loren Báo tin trở về ngay đợi Juliet tỉnh giấc là đưa nàng trốn đi. Mọi việc diễn tiến đúng như cha Loren dự kiến, duy chỉ một điều không ai ngờ tới : vị tu sĩ mà cha Loren nhờ đi Báo tin cho Romeo gặp trở ngại không Báo tin được. Trong khi đó, một gia nhân của Romeo thấy đám tang của Juliet liền cấp tốc phi ngựa đi Báo tin cho Romeo. Chàng vội vã trở về, vào nhà mồ nhìn thấy Juliet, tưởng nàng đã chết. Vì quá đau khổ, Romeo đã kết liễu đời mình Bằng liều thuốc độc. Đến khi Juliet tỉnh dậy, thấy Romeo đã chết, Bèn lấy dao của Romeo tự sát. Cái chết của đôi tình nhân làm cho hai dòng họ xoá Bỏ hận thù.
Cái gía phải trả của lòng hận thù giữa hai dòng họ là cái chết Bi thảm của đôi nam nữ. Cũng chính tình yêu trong sáng của họ đã phá tan áng mây mù của lòng ghen ghét. Trải qua Bao thế kỷ, cũng như ngày hôm nay, thế giới luôn phải trả giá đắt cho lòng hận thù ghen ghét : chiến tranh do sự thù địch giữa các quốc gia, các phe phái, các sắc tộc đã cướp đi Biết Bao nhiêu sinh mạng con người, phá huỷ Biết Bao tài sản nhà cửa, công trình. Và vẫn còn tiếp diễn như một “chuỗi mắt xích” của sự thù nghịch với những cuộc khủng Bố, những vụ đánh Bom tự sát, những cuộc xung đột đẫm máu.
Hôm nay, trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Quả thật, đây là một lời “khó nghe” và “khó làm”. Đối với những người Do Thái, vì đã quen với luật Báo thù, “mắt đền mắt, răng đền răng” để Bảo vệ sự công Bình, nên lời Chúa dạy “Hãy yêu thương kẻ thù” đúng là một lời khó chấp nhận và khó thực hiện trong cuộc sống. Ngày nay, chúng ta cũng quen với quan niệm “có vay có trả”, “nợ máu phải trả Bằng máu” và đôi khi việc trả thù được coi là việc “đòi lại công lý” ở đời.
Như thế, chúng ta suy nghĩ gì trước những lời dạy có vẻ “chủ Bại và nhu nhược” của Chúa ?
Nào là “làm ơn cho kẻ ghét mình”; “chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình”; “cầu nguyện cho kẻ vu khống mình”; “ai vả má Bên này, đưa cả má Bên kia”; “ai lột áo ngoài, hãy cho cả áo trong”; “ai xin thì cho, ai lấy gì thì đừng đòi lại”.
Lời Chúa dạy hôm nay có thể làm cho người ta “khó chịu” vì đòi hỏi người ta phải “chịu khó” với sự hy sinh cao độ khi thực hành.
Chúng ta yêu thương và tha thứ vì những lý do sau đây:
Yêu thương và tha thứ vì chúng ta là anh em của Cha trên trời:
Sách Samuel quyển thứ nhất kể lại vua Saolê dẫn Ba ngàn người đi lùng Bắt Đavit. Một đêm, Saolê nằm ngủ mê mệt trong trại thì Đavit đột nhập vào. Đáng lẽ Đavit giết chết Saolê là kẻ thù của mình, nhưng ông chỉ lấy cây giáo của Saolê rồi sang phía Bên kia hô lớn Bảo Saolê thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo.
Việc Đavit tha chết cho kẻ thù nói lên tấm lòng quảng đại và cao thượng, nhưng cũng vì Đavit muốn tha thứ cho “người được Chúa xức dầu” là Saolê.
Như thế, chúng ta yêu thương tha thứ cho tha nhân, những người chúng ta yêu mến, và cả những người chúng ta thù ghét, vì tất cả chúng ta đều mang “dấu ấn tình thương” của Chúa, Đấng có lòng nhân hậu với người công chính và cả kẻ gian ác. Dấu ấn tình thương được ta đón nhận khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, do đó, là anh em với nhau, có cùng một Cha trên trời.
Yêu thương và tha thứ vì lợi ích của chính mình:
Oscar Wilde viết: “Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù là Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù mà nhắm đến lợi ích của chính Bản thân ta. Hơn nữa, yêu thương thì đẹp hơn thù hận rất nhiều”. Nếu lấy oán Báo oán chỉ tăng thêm oán thù. Nếu lấy tình yêu đáp trả hận thù, hận thù sẽ Biến tan. Sự thù hận luôn luôn dẫn đến đổ vỡ và huỷ diệt. Còn tình yêu luôn luôn dẫn đến sự phát triển và thăng tiến. Ông ABraham Lincoln nói: “Biến thù thành Bạn phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi?”.
Tình yêu và tha thứ đem đến cho ta sự Bình an và niềm hạnh phúc. Vì hận thù và ghen ghét là những vết thương luôn làm trái tim ta nhức nhối, lòng ta Bất an. Vì thế, Thánh Vinh Sơn Phaolô nói: “Tha thứ cho một sỉ nhục là chữa lành một vết thương trong trái tim”.
Yêu thương và tha thứ là trả món nợ tình yêu của Chúa:
Chúa đã ra điều kiện: “Đừng xét đoán để khỏi Bị xét đoán, đừng kết án để khỏi Bị kết án, hãy tha thứ để được tha thứ, hãy cho đi để được cho lại”. Thật ra, tất cả những điều đó chúng ta đã nhận lãnh từ Thiên Chúa như một món nợ tình yêu phải trả lại. Vì thế, chúng ta không xét đoán và kết án tha nhân vì Chúa đã không xét đoán và kết án chúng ta trước. Chúng ta tha thứ cho người khác vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta trước. Chúng ta cho đi vì chúng ta đã nhận lãnh. Luật yêu thương của Chúa luôn đòi hỏi một sự tích cực. Khổng Tử dạy : “Đừng làm cho người khác điều mà ngươi không muốn người khác làm cho mình”. Còn Chúa dạy một cách tích cực hơn: “Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy”.
Vì thế, chúng ta hãy đong trả lại cho tha nhân những đấu tình thương hảo hạng vì chúng ta đã nhận lãnh những đấu tình thương tràn đầy từ Thiên Chúa.
Nếu sự hận thù phải trả giá Bằng sự chết chóc, hủy diệt và suy vong, thì tình yêu cũng có cái giá phải trả…
Cái giá phải trả của Tình Yêu là cái chết:
Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chứng minh hùng hồn nhất cho tình yêu lớn lao mà Ngài dành cho ta. Máu Chúa đổ ra đã trở nên giá cứu chuộc cho nhân loại. Ngài Ban tình yêu cho những kẻ yêu mến Ngài, và cho cả những kẻ Bất trung, Bội phản. Ngài là Đấng được quyền xét đoán, nhưng lại Bị xét xử, là Đấng có quyền kết án, nhưng lại Bị kết án. Ngài luôn tha thứ và cho đi tất cả, nhưng lại Bị xua đuổi và khước từ…
Ngài đong những đấu yêu thương đã dằn đã lắc đổ vào vạt áo nhân loại, nhưng được đong trả lại Bằng những đấu sỉ nhục và thù ghét.
Khi yêu thương và tha thứ, chúng ta cũng phải trả giá Bằng những hy sinh. Để yêu thương và tha thứ, chúng ta phải từ Bỏ chính mình để đón nhận mọi người với tình thương chân thành.
Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Một người hành khất kia đến trước cửa nhà một người giàu có để xin Bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì Bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ lượm lấy hòn đá cho vào Bị và tự nhủ: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày ngươi sa cơ thất thế, ta sẽ dùng nó để ném trả lại cho ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng đem theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự Báo thù.
Năm tháng qua đi, lời chúc dữ của người hành khất Biến thành sự thật. Vì Biển lận, người giàu có Bị tước đoạt tất cả tài sản và Bị tống giam vào ngục. Ngày hôm ấy, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào nhà tù. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời Bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng Bên ông.
Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang Bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ Bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.
Có thể hiện nay trong lòng ta cũng đang mang những hòn đá hận thù mà những người khác từng ném vào ta với những sỉ nhục và cay đắng. Những hòn đá đang làm tâm hồn ta nặng nề và Bất an. Hãy Bỏ đi những hòn đá ấy để tâm hồn ta thanh thản và Bình an.
Lạy Chúa, xin cho chúng con Biết đi đến với những người khó thương dù đó là chặng đường dài của sự thương khó. Và thay vì trả thù anh em, xin cho chúng con Biết “trả nợ tình thương” cho mọi người.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
YÊU CẢ KẺ THÙ MÌNH– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Sự khôn ngoan đích thực được thể hiện không chủ yếu bằng lời nói nhưng bằng cách sống trong đời sống thường ngày của mỗi người.
Yêu kẻ ghét mình
Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn sống theo Luật Chúa, không hại kẻ Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn nhân loại, Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ may “nghìn năm một thuở” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích trước mắt theo con người. Giữ luật Chúa, là yêu người, và yêu kẻ thù ghét mình.
Chúa Yêsu trong tin mừng theo thánh Luca hôm nay đã dạy: “yêu kẻ thù ngươi, làm điều tốt cho kẻ ghét ngươi, chúc lành cho kẻ nguyền rủa ngươi, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi ngươi… Cho kẻ xin ngươi, đừng đòi lại điều người ta lấy của ngươi, làm cho người khác điều ngươi muốn người khác làm cho mình… Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, không kết án thì sẽ không bị kết án. Tha thứ thì sẽ được tha thứ. Cho thì sẽ được tặng lại… Hãy thương xót như Thiên Chúa Cha là Đấng thương xót”. Nếu mỗi người sống theo những điều Chúa dạy trên, người đó sẽ sống bình an hạnh phúc.
Đức Yêsu là người đã sống trọn vẹn điều Ngài đã dạy. Những người thù ghét Ngài, tìm cách làm hại Ngài, hành hạ Ngài, giết Ngài, Ngài vẫn yêu thương. Trên thập giá Ngài vẫn xin Chúa Cha tha thứ cho họ. Ngài chỉ biết yêu mà thôi.
Không dễ để yêu kẻ ghét mình
Làm sao có thể yêu được kẻ thù ghét mình, luôn nói xấu mình, luôn tìm cách làm hại mình? Nội chuyện nhìn thấy mặt người đó, mình đã cảm thấy khó chịu, làm sao nói đến chuyện yêu người đó, thích người đó?
Yêu có nhiều mức độ, chẳng hạn không ao ước những điều chẳng lành cho họ, không muốn làm hại họ, muốn điều tốt lành cho họ. Về cảm tính, có thể mình không dễ dàng để cười hoặc nói chuyện với họ, nhưng nếu mình cố gắng vượt qua chính mình để nói hoặc cười, là mình đang “yêu” họ đó. Tình yêu không chủ yếu hệ tại cảm tính nhưng do lý trí. Chẳng hạn trong nghi thức bí tích hôn phối, vị đại diện Hội Thánh không điều tra “anh chị có yêu nhau không?”, nhưng “anh chị có tự do không?”, và lời thề hứa không là “yêu nhau” nhưng “sẵn sàng nhận X (hoặc Y) làm chồng (hoặc vợ), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy lúc gian nan cũng như lúc thịnh vượng, để yêu thương và tôn trọng suốt đời”. Yêu thương và tôn trọng ở đây được hiểu như hành vi của lý trí và ý muốn, chứ không phải của cảm tính. Nói như vậy không muốn phủ nhận khía cạnh cảm tính, thân xác của tình yêu.
Con vật chỉ sống theo khuynh chiều của thể xác hay bản năng; con người sống theo lý trí. Sống theo lý trí, không là lừa dối mình, nhưng là sống theo ơn gọi làm người. Nếu lý trí thấy điều nào đó là đúng, là phải làm thì mới là người tốt, thì người ta phải sống theo điều đó dù mình thấy sợ, hay điều đó làm tổn hại về lợi ích vật chất của mình. Khi người ta có khunh chiều xác thịt, và lý trí thấy không được làm như vậy, vì như vậy là sai trái, thì người ta không được làm. Xin Chúa giúp mỗi người nhận ra lời mời gọi vươn lên làm con Chúa, và xin Chúa cho mỗi người có nghị lực để thực hiện những gì Thiên Chúa gợi lên trong tâm trí mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Yêu kẻ thù ghét mình, được gì và mất gì?
Tại sao Kitô giáo là đạo “yêu thương”?
Xin bạn liệt kê những câu Kinh Thánh nói về yêu thương.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY ĐỐI XỬ NHÂN TỪ- Lm. Trần Bình Trọng
Theo khuynh hướng đổi chác tự nhiên của loài người, thì ai làm ơn cho mình, mình nên trả ơn cho họ; ai ghét mình, mình phải ghét lại; ai chửi mình, mình phải chửi lại họ. Theo luật công bình cũng vậy. Luật công bình trong Cựu ước đòi: mắt đền mắt; răng đền răng. Điều đó có nghĩa là ai móc mắt mình, mình có quyền móc lại mắt họ, và ai bẻ gẫy răng mình, mình có quyền bẻ lại răng họ, Luật cônh bình trong xã hội hiện tại cũng vậy. Người phạm pháp phải bị kết án tuỳ theo tội nặng nhe họ đã phạm.
Vì thế mà lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay phải yêu kẻ thù có thể trở thành đề tài cho người đời nhạo báng. Làm sao người ta có thể yêu kẻ thù? Ai lại nhu nhược đến nỗi theo lời Chúa dạy khi người khác vả má này, mình lại đưa cả má kia cho họ vả. Ai lại khờ dại đến nỗi khi người khác lấy áo ngoài, lại cho cả áo trong. Ai lại vô tư đến nỗi khi người khác lấy gì của mình, mình không đòi lại. Trong cái xã hội hưởng thụ và tranh sống, cái nguyên tắc yêu vô vị lợi của Chúa xem ra như là một giáo lý không tưởng, xa lạ với cuộc sống thực tế.
Chúa đến dạy ta luật từ bi, nhân hậu và bác ái thay vì luật báo thù báo oán. Nếu chỉ nghĩ đến chuyện tư lợi, trao đổi và đề đáp, thì đó là đổi chác và thương mại. Chúa nhận xét: Nếu anh em yêu những kẻ yêu thương mình,.. làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình,.. cho vay mà hi vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa, ngay cả người tội lỗi cũng làm như vậy (Lc 6:32-34). Và rồi Chúa bảo: Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hi vọng được đền trả (Lc 6:35). Và Chúa bảo thêm: Anh em hãy có lòng nhân từ, … Anh em đừng xét đoán, … Anh em đừng lên án, … Anh em hãy tha thứ, … Anh em hãy cho, … (Lc 6:36-38).
Hôm nay ta cần nhận thức rằng xét đoán là quyền của Chúa, và chỉ có Chúa là Đấng phán xét công minh, vì Chúa thấu suốt tâm hồn của mỗi người. Khi ta đoạt lấy quyền xét đoán của Chúa, thì cái xét đoán của ta rất dễ bị sai lầm. Ngay cả tại tòa án dân sự, mặc dầu có luật sư biện hộ cho can phạm, chánh án và bồi thẩm đoàn cũng sai lầm. Theo hiệp hội tranh đấu cho tự do nhân quyền ở Hoa ky, thì từ năm 1900 tới 1992, có 25 người bị hành quyết oan, vì toà kết án lầm và 318 người bị tù cũng vì toà án lầm lẫn. Trước toà án lương tâm của mỗi người, biết bao lần ta cũng kết án người khác cách vô căn cớ. Tệ hơn nữa ta còn kết án người khác là xấu thay vì chỉ kết cái cái hành động xấu của họ. Hành động xấu của một người có thể chỉ xẩy ra một lần vì yếu đuối hay vì bệnh hoạn. Ta kết án người khác nhiều khi chỉ dựa trên một lời nói, một cử chỉ hay một hành động của họ, thay vì dựa trên toàn diện con người của họ và dựa trên tất cả các công việc làm của họ.
Nguyên tắc từ bi, nhân hậu, bác ái của Chúa dạy ta tránh việc phê bình, xét đoán. Tuy nhiên trong cuộc sống hằng ngày, ta vẫn phê bình, chỉ trích và xét đoán. Vậy có lẽ ta cần tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc tại sao có chuyện phê bình, xét đoán vô cớ. Tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc hay phê bình chỉ trích vá xét đoán vô căn cớ là bước khởi đầu cho việc chữa trị tính xét đoán. Sở dĩ người ta phê bình, chỉ trích, xét đoán có thể là để che đậy những cái chướng, những khuyết điểm và thất bại của mình để đánh lạc hướng người khác về mình. Và đó là một hình thức tự vệ.
Sống đức ái chân thực như lời Chúa phán là cái thước đo cái mối liên hệ của mỗi người với Chúa, thước đo mức độ đời sống thiêng liêng của mỗi người. Ta không thể trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nếu giáo lý về đức ái chân thực của Chúa không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của mỗi người.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LUẬT YÊU THƯƠNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Một người hỏi Đức Khổng Tử: Muốn có lòng nhân trong đạo thì phải làm sao? Đức Khổng Tử trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Có nghĩa là điều gì không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người khác. Những người theo đạo Nho giáo họ coi lời đó như luật vàng, như một nguyên tắc để sống. Nhưng Đức Khổng Tử là bậc thầy của nho giáo chỉ trình bày có tính cách tiêu cực thôi.
Còn Đức Kitô, Thầy của đạo yêu thương, thì dạy tích cực hơn khi nói về luật yêu thương: “Tất cả những gì các con muốn người khác làm cho mình, thì các con hãy làm cho người khác như vậy”.
Làm cho người khác trước tiên là nhận biết sự hiện diện của người khác. Ai trong chúng ta cũng muốn cho người khác nhận biết mình hiện diện của mình, thì mình cũng nên nhận biết sự hiện diện của người khác. Chúng ta phải đấm ngực ăn năn, vì nhiều khi chúng ta chưa nhận biết và trân trọng sự hiện diện của anh chị em, chưa nhận biết sự hiện diện với tất cả nhu cầu của người khác. Đôi khi chưa nhìn thấy tất cả những công lao người khác đóng góp cho công việc chung cách này hay khác. Có thể nói mặc trái của tình yêu là sự dững dưng ơ hờ, không quan tâm đến người khác, trường hợp này nằm trong dụ ngôn nhà phú hộ và Lazarô nghèo khổ.
Làm cho người khác là yêu mến nhau. Ngay từ trang đầu sách GLGHCG dạy: mục đích con người sống ở đời này là để nhận biết kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, và thương yêu mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc Nước trời.
Theo khuynh hướng tự nhiên, không ai ước ao cho người khác ghét mình. Yêu và được yêu là nhu cầu thiết yếu của con người. Cho nên, theo nhu cầu đó thì chúng ta được mời gọi để sống yêu thương nhau, như Chúa đã yêu thương chúng ta. Khi muốn người khác yêu thương mình thì mình cũng phải yêu thương người khác. Có qua có lại mới toại lòng nhau.
Làm cho người khác là tha thứ cho nhau. Bài Tin Mừng hôm nay đã nâng khái niệm yêu thương, tha thứ lên bình diện cao hơn, mới hơn. Đó là “yêu thương và làm ơn cho kẻ thù”. Đòi hỏi một lối sống cao hơn điều mong muốn. Thường tình của người đời “nếu anh em chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa, có gì là mới mẻ. Ngay cả những ai tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ.”
Một trong những đòi hỏi mạnh mẽ nhất của Tin Mừng mà Đức Giêsu thường nhắc nhở, đó là tình yêu thương tha nhân, nhất là yêu thương kẻ thù.
Bởi lẽ, nhu cầu được tha thứ là nhu cầu của mọi người, nên chúng ta cũng cần phải sẵn sàng có một trái tim mở rộng để tha thứ cho nhau. Việc này là một bổn phận bắt buộc chứ không là một việc tùy ý chọn lựa. Không phải là muốn tha hay không tha cũng được. Nếu chúng ta muốn được người khác tha, muốn được Thiên Chúa tha, thì chính chúng ta cũng phải có một quyết tâm là sẵn sàng tha thứ. Tha thứ hết cho mọi người, tha hết những xúc phạm.
Đây lệnh truyền khó thực hiện nhất trong các lệnh truyền của Chúa dạy đó là: ” Yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình. Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa.
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Trao ban tiền của, trao bao thì giờ, và ngay cả trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra còn dễ làm hơn là trao ban sự tha thứ. Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương, bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình.
Hiến tế thập giá của Chúa Giêsu đã nên trọn hảo khi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.” Chúng ta nên nhớ rằng: “tha thứ là của lễ đẹp lòng Chúa nhất và qua đó, chúng ta được nên giống Chúa nhiều hơn.
Làm cho người khác là phục vụ tha nhân. “Ơn riêng Chúa ban là để phục vụ”. Chúng ta không phải là “Đấng toàn năng”, làm được hết mọi sự. Do đó chúng ta cần sự giúp đỡ của người khác. Không ai dám vỗ ngực là mình không cần ai. Vì thế nhu cầu cần được người khác giúp đỡ đó là nhu cầu của mọi người. Và vì cần người khác giúp đỡ, nên đối lại, chúng ta cũng phải giúp đỡ người khác, đó là lẽ đương nhiên.
Thành tâm vì yêu mến mà phục vụ người khác đó phải là cao điểm. Chúng ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, đến đây để hiến thân chứ không phải tiến thân, mà nếu có tiến thân là để xây dựng cộng đoàn chứ không phải cho mình.
Cuối cùng, làm cho người khác là cầu nguyện cho nhau. Lời Chúa dạy: Các con hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Mọi người đều có nhu cầu cần người khác cầu nguyện cho mình. Chúng ta thường xin người khác cầu nguyện cho mình, thì mình cũng có bổn phận cầu nguyện cho người khác nữa. Chúng ta cần quan tâm đến người khác để cầu nguyện cho họ, để ý đến nhu cầu của anh chị em cùng chung sống, họ có những trăn trở, những khổ tâm, những hoàn cảnh khó khăn cách này hay cách khác.
Ai trong chúng ta cũng đều biết “Nhân vô thập toàn, chín người mười ý, bá nhân bá tánh”. Vì thế, khó tìm đâu được những người vừa ý, hợp tính hợp tình với chúng ta. Ngay chính bản thân của mình cũng bất toàn và đầy giới hận. Vì thế, xin Chúa cho chúng ta biết chấp nhận sự thật đó, là thông cảm, là tha thứ, là bao dung…. được như thế, là chúng ta thi hành luật yêu thương mà hôm nay Chúa mời gọi tất cả chúng ta thi hành. Amen.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY Ở NHÂN TỪ NHƯ CHÚA CHA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng, đào luyện các môn đệ và dạy dỗ dân chúng. Lời Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ, những người đang nghe Chúa nói, cũng là lời dành cho mỗi chúng ta đang nghe chính Lời Chúa qua thừa tác viên của Giáo hội giờ này : “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây” (Lc 6, 27). Chúa bảo chúng ta điều gì ? Thưa, Chúa bảo : “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình” (Lc 6, 27-28). Yêu kẻ thù ư, làm điều tốt cho kẻ không thích ta ư, chúc phúc cho ai nói xấu ta, và cầu nguyện cho ai đối xử tệ với ta ư ? Thật không dễ dàng chút nào hết. Nhưng đây là bốn chi tiết để sống đời Kitô hữu của chúng ta.
Ghét kẻ thù là lẽ thường tình, làm ơn hay chúc phúc cho kẻ thù và những người thuộc phe đối lập là chuyện ngược đời, nhưng Chúa Giêsu khuyên chúng phải lội ngược dòng và hành xử với tư cách là con cái Chúa, giống Cha trên Trời. Ý thức mình là con phải nên giống Cha, và học sống sao cho có lòng nhân từ như Chúa Cha : “Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36). Đây không phải là một câu khẩu hiệu, mà là một sự dấn thân của đời sống người Kitô hữu. Chúa là Chân, Thiện, Mỹ, là Đấng toàn năng, toàn thiện. Sự hoàn hảo của Thiên Chúa khích lệ chúng ta trở nên giống như Ngài, đầy tràn tình yêu và lòng trắc ẩn. Trở nên giống Thiên Chúa là trở nên hoàn hảo, nghĩa là hãy ở nhận từ và biết xót thương anh em.
Có người hỏi: Liệu những lời của Chúa Giêsu có thực tế không? Chúng ta là những con người sống trong thế gian làm sao có con tim đầy ắp yêu thương để yêu thương người khác như Thiên Chúa yêu và sống nhân từ như Chúa sống?
Nhìn vào lịch sử cứu độ, chúng ta khám phá ra rằng toàn bộ mạc khải của Thiên Chúa là một lịch sử tình yêu đối với con người. Thiên Chúa giống như một người cha hay người mẹ yêu thương hết mọi loài, đặc biệt con người bằng một tình yêu cao với khôn ví. Thiên Chúa không nói xuông, mà Ngài đã làm trước, bằng chứng là “không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta” (1Ga 4,10). Thánh Gioan còn viện lý : “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11). Đavit đã không dám tra tay đụng đến Saolê, người đã được Chúa xức dầu, ông việc cớ : “Chớ giết ngài, vì có ai đưa tay phạm đến Đấng Chúa xức dầu mà vô tội đâu?” (1 Sm 26, 22-23). Cái chết của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa trên thập giá là đỉnh cao của lịch sử của tình yêu ấy. Thiên Chúa là Tình Yêu, còn chúng ta là kẻ có tình yêu, nên chúng ta có lúc yêu lúc ghét, nghĩa tình yêu của chúng ta sẽ luôn có khiếm khuyết. Khi Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ở nhân từ như Chúa Cha, Chúa muốn chúng ta hãy trở thành dấu chỉ, và chứng nhân của lòng từ tâm Chúa giữa thế gian.
Thế còn Giáo hội, vì được cấu thành bởi những con người bất toàn như chúng ta, Giáo hội cũng khó có thể, nhưng Giáo hội trở thành bí tích của lòng nhân từ Chúa trong thế giới, chúng ta được mời gọi để trở thành chứng nhân của lòng Chúa từ tâm. Lòng từ tâm ấy được thể hiện bằng hai động từ: “Tha thứ” và “Cho đi” như Chúa bảo : “Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ” ( Lc 6, 37).
“Đứng xét đoán” (Lc 6,37) ở đây không phải là không phê phán ai cho dù người ấy gây gương mù gương xấu. Nếu hiểu chữ xét đoán như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại lên án những kẻ gây gương mù.
Chữ “xét đoán” ở đây được hiểu là chỉ trích, phê bình, lên án người khác cách vô trách nhiệm. Chúng ta thường hay xét đoán không tốt cho người khác là điều mà Chúa cấm. Chúa Giêsu cũng đã từng so sánh thái độ của người con Chúa với thái độ của các luật sĩ, biệt phái… họ thường ra vẻ đạo đức, hay lên án người khác và cho rằng chỉ có mình mới tốt, còn tất cả mọi người anh em khác là không tốt bằng.
Tại sao Chúa dạy người con Chúa không được xét đoán và lên án ? Thưa là vì con người nhân vô thập toàn không có quyền lên án, chũng không thể xét đoán đúng và công bằng được. chỉ có Chúa là Đấng công mình, cầm quyền sinh tử mới có quyền lên án, kết án con người. Ngài là Đấng nhân từ đã không lên án, vậy cớ sao ta lại lên án nhau. Tuy nhiên, Chúa cho phép con người nhận định về nhau, phê bình nhau với tình yêu thương xây dựng, và giúp nhau thăng tiến.
Còn câu Chúa nói : “Đừng lên án các người sẽ không bị lên án” (Lc 6, 37). Câu này không có nghĩa là nếu chúng ta không bao giờ lên án ai thì Chúa không lên án chúng ta dù chúng ta tội lỗi. Thưa không phải thế. Cầu này chỉ muốn nói với chúng ta rằng, nếu chúng ta không muốn người khác khắt khe với mình thì trước hết chúng ta đừn đối xứ với họ như vậy, đó là cách xử từ tâm.
“Hãy tha thứ” Chúa bảo chúng ta phải tha thứ. Đơn giản vì chúng ta đã được Thiên Chúa thứ tha.
“Hãy cho…Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Thiên Chúa đã cho chúng ta quá nhiều, vượt xa công trạng của chúng ta. Chúa Giêsu không nói điều gì sẽ xảy ra nếu người ta không cho đi, nhưng nếu chúng ta thấy rõ có một luận lý chắc chắn: theo cách mà người ta nhận lãnh từ Thiên Chúa, thì người ta hãy cho anh em mình như thế, và theo đúng cách mà người ta cho một người anh em, thì người ta sẽ nhận lãnh từ Thiên Chúa!
Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp cho chúng con, để chúng con ngày một nên giống Chúa hơn. Amen.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NHÌN RA NHAU LÀ ANH CHỊ EM- Radio Veritas Asia
Có một Rabbi nọ hỏi một tín hữu Do Thái: “Có biết khi nào đêm nhường chỗ cho ngày không?” Sau một hồi nghĩ ngợi, tín hữu nọ mới trả lời: “Thưa thầy, đêm nhường chỗ cho ngày có lẽ khi người ta nhận ra ánh sáng bình minh đang ló ở chân trời”. “Không”. “Hay là khi người ta phân biệt được bụi cây với một người chăng?” Rabbi lắc đầu nói: “Không phải thế, đêm nhường chỗ cho ngày là khi mỗi người nhận ra gương mặt người khác là một người anh chị em của mình. Bởi vì cho tới khi nào con người không nhìn ra nhau là anh chị em, thì khi đó, đêm đen vẫn còn dày đặc trong tâm lòng chúng ta”.
Lời nói thâm trầm trên đây của Rabbi Do Thái nọ, có lẽ giúp chúng ta suy hiểu nghĩa sứ điệp mà Giáo Hội nhắn gởi chúng ta hôm nay.
Ơn gọi của chúng ta để trở nên thánh trọn lành như Thiên Chúa, là Ðấng vô cùng xót thương con người và ban giới răn hướng dẫn toàn cuộc sống của chúng ta, là cái lôgic của Tin Mừng yêu thương ấy mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Sách Samuel có viết về hành xử thánh thiện của vua Ðavít. Mặc dù vua Saolê ghen tương truy nã, nhưng khi có dịp thủ tiêu nhà vua, Ðavít đã không phạm tội giết vua theo ý kiến của hai người anh họ là hai tướng tài của mình. Ðavít minh chứng cho nhà vua thấy ông có thể hạ sát người, nhưng không làm vì ba lý do:
Thứ nhất, nhà vua là người được Thiên Chúa xức dầu tuyển chọn nên là người của Chúa. Do đó cần được tôn trọng, mặc dầu có khuyết điểm và hèn yếu đến đâu đi nữa.
Thứ hai, chính nghĩa là lẽ phải của trung thực đáng tin cậy, thì không dùng bạo lực bất công và các phương thế hèn hạ đen tối của sự dữ.
Và thứ ba, phương thế duy nhất giúp loại bỏ hận thù chống đối một cách vĩnh viễn không phải là giết đi, là triệt hạ, nhưng là cảm hóa để biến thù địch trở thành bạn hữu.
Khi theo ba nguyên tắc hành xử trên đây, Ðavít không chỉ lên tiếng cho nhà vua thấy mình là một tôi trung rất am tường phép Chúa và luật nước, mà còn chứng minh cho nhà vua thấy lòng nhân từ quảng đại của mình nữa. Nghĩa là Ðavít chứng tỏ ông là người vừa có tài, vừa có đức và do đó, là người lãnh đạo lý tưởng và phó thác việc xét xử và thưởng phạt cho Chúa. Ðavít tuyên xưng lòng tin vào sự công thẳng và tình yêu thương quan phòng của Ngài. Ðây là đặc điểm hiếm thấy nơi các nhà lãnh đạo chính trị xã hội trần gian. Trong khi đó, cung cách hành xử của vua Saolê chứng minh cho chúng ta thấy nhà vua đã vừa thiếu tài, thiếu đức, lại không phải là một minh quân. Thấy Ðavít có tài, có được mưu kế hơn người, đánh đâu thắng đó, được quần thần kính nể, được tin tưởng và toàn dân thương mến nên vua ghen tương, mà nhất là sợ Ðavít chiếm ngôi của mình. Thay vì trọng dụng Ðavít, giữ Ðavít ở lại phục vụ và trợ giúp quyền thế của mình, thì vua sanh lòng mấy lần mưu sát Ðavít, khiến cho Ðavít bị bắt buộc phải trở thành người sống ngoài vòng pháp luật. Nghĩa là vua Saolê đã tự chặt lấy cánh tay mặt của mình. Lòng ghen tương đã khiến cho tâm trí nhà vua mờ tối, đem ba ngàn quân truy nã vị tướng tài ba lỗi lạc của đất nước. Chính với thái độ sống hẹp hòi và thiếu sáng suốt, không biết trọng tài trọng hiền trên đây đã dẫn đưa dòng họ đến ngày tận diệt.
Thái độ sống quảng đại liêm chính của Ðavít đã khiến cho chúng ta thấy nơi ông gương mặt của chính Ðức Giêsu Kitô, vẫn luôn luôn tha thứ cho những người lầm lạc và cầu nguyện cho những kẻ giết mình. Các giáo huấn của Chúa Giêsu như ghi trong chương 6,22-38 của thánh Luca, chứng minh cho thấy sự thật này qua hình thái của nền văn chương khôn ngoan. Thánh Luca thu góp các lời rao giảng của Chúa Giêsu liên quan đến luật sống yêu thương đại đồng và kiểu cách hành sự nhân từ, thương xót vô biên theo mẫu gương của chính Thiên Chúa. Khi mời gọi chúng ta yêu thương kể cả kẻ thù địch, là Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu sống tình yêu thương vượt xa mực thước và các nấc thang giá trị theo tâm thức của con người trần gian. Người đời thường chỉ yêu kẻ yêu mình và ghét kẻ ghét mình. Những người sống tinh thần Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu thì yêu cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ rao giảng mà Ngài còn sống làm gương nữa, bằng cách hiến chính mạng sống mình để đền bù tội lỗi cho toàn nhân loại. Ở đây, Chúa Giêsu đề ra ba hình thức cụ thể trong nỗ lực sống yêu thương thù địch:
Thứ nhất, hãy làm điều lành phước đức cho kẻ thù ghét. Chúng ta lo lắng tạo dựng hạnh phúc cho họ sống được như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Chúa, nếu Kitô hữu thù hận thì có khác gì họ.
Thứ hai, hãy chúc lành cho những người chúc dữ và nguyền rủa chúng ta. Ơn gọi của Kitô hữu là trở thành chúc lành cho người khác, đổ phước lành của Chúa xuống cho người khác và biến đổi môi trường họ sống trở thành môi trường đầy ơn phước của trời cao. Ơn phước phần hồn và kể cả ơn phước phần xác nữa.
Thứ ba, là cầu nguyện cho kẻ bắt bớ ngược đãi chúng ta để cho họ được ơn hối cải tâm lòng, thay đổi lối sống, từ bỏ kiểu cách sống gian tham độc ác, từ bỏ kiểu cách nói năng và hành xử của dã thú để sống người hơn và tin nhận Chúa và trở thành con cái Ngài.
Yêu người như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động đối chất với bạo lực, luôn luôn sẵn sáng chia sẻ và quảng đại, không từ chối ai điều gì, là một thứ cụ thể cho mọi kiểu cách hành xử, là luật vàng của lòng yêu thương bác ái. Chúng ta muốn người khác làm những gì cho mình thì cũng phải làm tất cả những điều đó cho người khác. Chúng ta muốn người khác kính trọng yêu thương và trợ giúp chúng ta phải không? Hãy biết kính trọng yêu thương và trợ giúp họ như thế. Chúng ta muốn người khác dịu hiền thân thiện và an ủi đỡ nâng chúng ta phải không? Hãy dịu hiền, thân thiện và an ủi đỡ nâng họ như vậy. Chúng ta muốn người khác khoan hồng nhân thứ và cảm thông mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của chúng ta phải không? Hãy khoan hồng nhân thứ và thông cảm mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của người khác như vậy. Nếu ai cũng đem luật vàng trên đây ra thực hành nơi gia đình, giữa cộng đoàn, ngoài xã hội, thì chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, một cuộc cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử loài người sẽ xảy ra. Hòa bình, hạnh phúc, và thịnh vượng sẽ chan hòa trái đất này, sẽ chan hòa trong tâm lòng mỗi người, trong mọi gia đình, trong mọi quốc gia và trên toàn thế giới mà không cần phung phí biết bao nhiêu tài nguyên và nhân lực cho các dịch vụ chiến tranh; mà không phải mua bán, chế tạo vũ khí; mà không cần phải bắn giết tàn phá lẫn nhau. Cũng không cần phải thương thuyết, vất vả hòa đàm, tranh cãi, tốn tiền, tốn của, tốn giờ hao phí hơi sức, mà thường không đi đến kết quả cụ thể của việc làm. Luật yêu thương dung thứ mà Chúa Giêsu Kitô đề nghị với loài người, không chỉ là giải pháp cho mọi vấn đề xã hội mà loài người chưa sao giải quyết được, nhưng còn là con đường dẫn đưa tín hữu cho đến đỉnh trọn lành và trở nên thánh thiện và dung thứ như Chúa. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô 15,45, thánh Phaolô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Ðấng Cứu Thế và là con đường dẫn chúng ta đến cuộc sống thần thiêng bất diệt. Nếu con đường tội lỗi đã đưa Adong và toàn con cái loài người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, thì giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đến trần gian để dẫn đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa. Ngài là Adong mới trao cho con cái loài người cuộc sống mới qua một tinh thần sống mới. Tinh thần của Tin Mừng yêu thương đại đồng, tinh thần của cuộc sống hướng trọn về Thiên Chúa và lấy Ngài làm mẫu mực duy nhất cho cuộc sống. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta bí quyết làm thế nào để sống hạnh phúc, làm thế nào để tạo dựng hạnh phúc cho nhau và cách mạng thế giới. Chúng ta có can đảm chấp nhận và đem ra thi hành hay không?
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatviithuongnenc #suyniemloichuagpbr