CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TÌM ĐÂU RA HẠNH PHÚC THẬT – Chú giải của Fiches Dominicales 14
CA NGỢI NHỮNG AI ĐẶT TRỌN NIỀM TIN TƯỞNG VÀO THIÊN CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 22
HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 34
PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ– Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 52
NGHÈO VÌ NƯỚC TRỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 55
AI LÀ NGƯỜI HẠNH PHÚC – Lm. Fx. Lê Văn Nhạc.. 60
PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến 66
GIÁO HỘI BỊ BÁCH HẠI- Lm. Anphong Trần Đức Phương.. 70
ĐÚNG ĐỊA CHỈ- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 75
HẠNH PHÚC DÀNH CHO NGƯỜI HI SINH VÌ CHÚA- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 80
NGẪM VỀ CHỮ “PHÚC”- Lm. Anphong Nguyễn Công Minh OFM 85
PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 91
HẠNH PHÚC THẬT- Lm. Giuse Vũ Khắc NGhiêm.. 95
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: “Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5c).
Xướng: Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
Xướng: Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
Xướng: Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 12. 16-20
“Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu Ðức Kitô được rao giảng rằng Người đã từ cõi chết sống lại, thì làm sao có người trong anh em cho rằng không có sự sống lại từ cõi chết? Vì nếu kẻ chết không sống lại, Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền, và hiện anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em. Như thế ai đã chết trong Ðức Kitô, cũng bị tiêu huỷ cả. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong cuộc đời này mà thôi, thì chúng ta là những người vô phúc nhất trong thiên hạ.
Nhưng không, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những người đã yên giấc.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 17. 20-26
“Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
“Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả”.
Ðó là lời Chúa.
TÁM MỐI PHÚC (*)- Chú giải của Noel Quession
Ngày hôm nay chúng ta suy niệm về “các mối phúc thật theo thánh Luca”: Chúng ta biết nhiều hơn về các mối phúc thật của thánh Matthêu, vẫn được hát trong ngày lễ Các Thánh. Nhung vì chúng ta có một Lời Chúa được truyền lại bởi hai truyền thống khác nhau, chúng ta hãy thử lắng nghe bản văn hoàn toàn đặc biệt của Luca. Ở đấy, có một thứ liệu quả của kỹ thuật âm thanh lập thể bởi hai cái loa khác nhau.
Các mối phúc thật theo Thánh Matthêu (5,1):
Bài giảng trên Núi…
Bao gồm chín “mối phúc thật…”
Nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý sự đau khổ nội tâm…
Các mối phúc thật của Thánh Luca (6,20):
Bài giảng ở chỗ đất bằng.
Bao gồm “bốn” mối phúc thật và bốn mối hoạ.
Nói về những người nghèo đói thật, bụng đói thật sự và khóc chảy nước mắt.
Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn
Như Môsê (Xh 19,21), Đức Giêsu xuống từ một ngọn núi nơi Người đã gặp Thiên Chúa. Vâng, trước khi nói với chúng ta điều Người sẽ nói, Đức Giêsu đã “qua một đêm cầu nguyện Thiên Chúa” (Lc 6,12). Thiên Chúa không nhìn sự vật như chúng ta. Đức Giêsu đã dùng cái nhìn của Thiên Chúa trong Thiên Chúa… trong một sự cầu nguyện kéo dài! Đối với chúng ta, hạnh phúc là một vấn đề của may mắn, sức khoẻ, tiền bạc, sự thành công. Chúng ta sắp nghe từ miệng của Đức Giêsu rằng, đối với Thiên Chúa, hạnh phúc là một vấn đề chọn lựa: Người ta quyết định mình được hạnh phúc! Phúc cho những người khốn khổ, Đức Giêsu sẽ nói như thế. Bạn có thể hạnh phúc, dù nghèo, dù đói, dù bị lăng nhục. Nghịch lý chăng: ảo tưởng phi thực chăng? Chúng ta hãy lắng nghe Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”
Ở đây trong tiếng Hy Lạp có từ: “makarioi” dịch từ một tiếng Do Thái thường gặp trong Kinh Thánh, đó là từ đầu tiên của Thánh Vịnh đầu tiên “asheri”… Đó là một từ ở số nhiều muốn diễn tả một niềm vui tràn đầy, mà ông Chouraqui vốn nhạy cảm với ngôn ngữ của mình, đã dịch bằng chữ “hoan hỉ”!
Khi loan báo niềm hạnh phúc, hoan hỉ cho những người khốn khó ở trần gian này, Đức Giêsu đáp lại sự chờ đợi lớn lao của họ.
Những người có mặt ngày hôm đó, trước mặt Người quả thật là những người’ “làm nghề mọn”, những “người bệnh tật” những người nghèo bị các thần ô uế “quấy nhiễu” (Lc 6,18). Sinh vật kỳ quặc! Con người đó không bao giờ thoả mãn với những khoái cảm xác thịt, cũng không bao giờ chịu được những đau khổ thân xác! Tại sao con vật ấy, khác với những sinh vật khác, biết mình giới hạn, tương đối và hữu hạn… vẫn giữ trong lòng mình khát vọng vô cùng về tuyệt đối? Tại sao lại muốn được hạnh phúc? Tại sao có khát vọng thánh thiêng ấy?
Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang khóc…
Matthêu đã tâm linh hoá khi diễn tả: “phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó!”
Còn Luca thì nói về những người nghèo thật sự, đói khát thật sự, đau khổ thực sự trong thân xác. Trạng ngữ “bây giờ” mà Luca xác định rất có ý nghĩa. Luca gợi ý rằng sẽ có một sự đảo lộn tình thế: anh em bây giờ đang khóc, anh em sẽ cười!
Người ta sẽ còn bàn cãi lâu dài để biết đích xác Đức Giêsu đã nói điều gì… và để biết trong hai bản văn của: Matthêu và của Luca bản văn nào là chính thức hơn. Thật ra, tại sao Đức Giêsu đã không nói cả hai điều đó… ngày hôm đó… hay trong nhiều lần khác?
Nếu người ta đọc toàn bộ Tin Mừng, thì dẫu sao chính cách giải thích của Luca xem ra gần với tư tưởng sâu xa của Đức Kitô hơn.. Đức Giêsu là Đấng “Mêsia của người nghèo”. Chính Người đã sống khó nghèo; nhiều lần Người đã cho thấy Người thích hướng về phía nào”. Dĩ nhiên, Người đã hiệp thông trong thân xác và trong cảm thức con người với điều kiện khắc nghiệt của những ai thiếu thốn. Khi chia sẻ thân phận của họ từ lúc nằm trong máng cỏ cho đến lúc bị đóng đinh, “không có một viên đá để kê đầu!”, Người đã cảm thấy một trái tim huynh đệ đang đập vì họ. Là Đấng Mêsia của người nghèo bị Do Thái giáo của giới trí thức Giêrusalem khinh bỉ, Đức Giêsu đã đau khổ như những “người phận nhỏ” và “cùng với họ” bị những “người có của” lăng nhục, khinh khi. Oi! sự khinh miệt đáng sợ ấy thường là vô thức đối với sự nghèo khó. Từ phía những kẻ no nê và cười ngạo nghễ. Vậy Đức Giêsu hứa hẹn gì với những người nghèo ấy?
Nước Thiên Chúa là của anh em… Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng… anh em sẽ được vui cười.
Vậy thì, những kẻ khốn khổ có thể được “hạnh phúc” như thế nào?
Bởi vì, Đức Giêsu đã nói: “Nước Thiên Chúa là của họ”. Sự khẳng định này là truyền thống, trong toàn bộ Kinh Thánh. Tương tự như thế, Giêrêmia (17,5-8) trong bài đọc mà chúng ta nghe hôm nay nói với chúng ta cùng một chân lý: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa… Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân “.
Nguy cơ to lớn của sự giàu sang chính là tạo ra sự thoả thích hoang tưởng. Người nào tự mãn với của cải trần thế dần dà sẽ nghĩ rằng mình có thể bỏ qua Thiên Chúa…Trái lại, người nghèo vốn không: có chỗ nương tựa nơi con người, vì thế được mời gọi hướng về Thiên Chúa. Chính sự giàu có đặt người giàu vào sự nguy hiểm, khi cất đi khối người ấy mọi “sự đói khát Thiên Chúa”, người ấy bị giam hãm trong “căn phòng đóng kín” của những hạnh phúc nhỏ bé phàm tục của mình. Bất hạnh của những người giàu chính là họ đặt cuộc quá thấp và quên rằng chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy khát vọng hạnh phúc vô cùng trong mỗi con người. Ngườí giàu có tự mãn bị tiền bạc của mình đánh lừa. Đức Giêsu sẽ nói về “tiền bạc, đánh. lừa” (Lc 16,9). Chúng ta sẽ nói gì về một người’ đánh cá ba con ngựa, lại dứt khoát đặt cuộc cho một con ngựa chắc chắn không bao giờ vượt qua mức đến? Vả lại, điều chắc chắn là trương mục trong ngân hàng sẽ không vượt qua “mức” vĩnh cửu. Sự giàu sang hứa hẹn hạnh phúc là một “điều dối trá”. Hạnh phúc duy nhất, chung cuộc quyết định, tuyệt đối, chính là Tình Yêu, chính là Thiên Chúa! Đó là Nước Thiên Chúa.
Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.
Vậy thì, ai là nhân vật chủ chốt? Con Người… mà người nghèo sẽ có thể thiết lập tương quan? Thiên Chúa táo bạo biết bao trong Đức Giêu Nadarét ấy, trong người nghèo ấy vốn còn là một bí ẩn.
Câu này, cũng như nhiều câu khác trong Tin Mừng, cho thấy rằng nghèo khó hoặc khốn khổ không đủ đề có được “hạnh phúc của Thiên Chúa”. ‘Trái lại, cũng có khi sự đau khổ làm người ta chai cứng và chống lại Thiên Chúa. Giữa cơn thử thách, để đạt đến hành phúc mà: Đức Giêsu đã hứa, phải hiểu biết là đón nhận thử thách ấy trong chính ánh sáng của Đức Giêsu, Còn Người sư hiệp thông với Đức Giêsu là suối nguồn của mềm hân hoan. Lạy Chúa, xin hãy biến đổi những “thử thách” của con thành sự hân hoan” với Chúa.
Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.
Đức Giêu không giải thích vấn đề sự ác, Đức Giêsu không biện minh cho sự đau khổ. Trong toàn bộ Tin Mừng, Người luôn chiến đấu chống lại đau khổ, Người chữa lành, an ủi, tha thứ. Nhưng ở đây, Người khẳng định, với sự bình thản và mạnh mẽ rằng đau khổ có thể trở thành nơi xuất hiện một niềm vui mầu nhiệm. Một sự “nhảy múa vui mừng”. Ai có tai để nghe phải hiểu. Vả lại, chúng ta hãy nhận ra sự tinh tế của tư tưởng ấy: Niềm vui được hứa chỉ khai mở trọn vẹn trong nước Trời… tuy nhiên nó đã được bắt đầu từ cái ngày người ta đau khổ.’Đức Tin là một sự tham dự trước vào Thiên Đàng, vào đời sống vĩnh cửu.
Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi!
Khác với Matthêu, Luca đặt vào trong miệng của Đức Giêsu bốn câu hoàn toàn đối lại…bốn mối phúc thật. Ở trên là đôi khi người ta gọi là các mối hoạ. Tuy nhiên người ta khó mà tưởng tượng các mối hoạ trong lòng của Đấng đã đến, để cứu chữa chứ không phải để chuộc tội. Trong bản văn tiếng Hy Lạp, không có các mối hoạ (Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!”)… cũng không có sự lên án (Hỡi những kẻ giàu có? Một bất hạnh sẽ đến với các người!”)… nhưng chỉ là một thứ xác nhận một lời than thở: “A, giàu có khốn khổ biết bao!” Từ ngữ mà chúng ta dịch là khốn cho… “‘ không phải là một tính từ nhưng là một từ thán diễn tả sự đau xót: than ôi! các ngươi là những người giàu có!” ‘Vâng, Đức Giêsu trong một tiếng kêu đau đớn, than thở cho những kẻ giàu có: Tai hại cho họ biết bao nếu họ nhắm mắt trước những giá trị chân chính, những giá trị “vượt qua lằn mức”! Đáng buồn biết bao khi một Người đặt niềm tin của mình vào cái nay còn mai mất!
Hãy coi chừng! Hãy coi chừng! Lời cảnh báo ấy không phải chỉ dành cho những người khác. Tôi là kẻ giàu có ấy thường xuyên có nguy cơ quên đi điều chủ yếu.
Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói! Khốn cho các người, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than!
Đức Giêsu thật sự loan báo một sự lật ngược tình thế: Hình ảnh trong bản văn Hy Lạp còn mạnh hơn nhiều: ôi khốn khổ cho các người là những kẻ no nê! Than ôi! các ngươi là những kẻ no căng bụng!
Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.
Từ tưởng của Đức Giêsu, cũng như mọi tư tưởng Kinh Thánh và Do Thái là một tư tưởng tuyệt đối, bằng song luận: “hoặc là… hoặc là…” Qua các phản đề đối chiếu này. Có một sự đối lập không thể thoả hiệp được giữa Nước Thiên Chúa và tiền bạc. Người ta không thể cùng lúc phục vụ Thiên Chúa và Mam-mon! (Lc 16,13). Đức Maria đã hát trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat): “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng”.
Chúng ta có tiếp tục để mình bị ảo ảnh đánh lừa không? Chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu. “Người vốn giàu sang phú quý, như đã tự ý trở nên nghèo khó” (2 Cr 8,9). Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Nghèo Khó, Vinh quang đời đời của Thiên Chúa trong Ngài.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
TÌM ĐÂU RA HẠNH PHÚC THẬT – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1/.Đường dẫn đến hạnh phúc thật
Chỉ có Mátthêu và Luca tường thuật lại các mối phúc. Tuy hai ông có lẽ cùng truy cứu chung một nguồn, nhưng mỗi người lại khai thác dữ liệu một cách độc đáo, khiến cho hai bản viết, bên cạnh những nét tương đồng rõ rệt, vẫn có những dị biệt tỏ tường về nội dung và con số các mối phúc cũng như về cấu trúc, thể văn và ý hướng.
– Nội dung các mối phúc theo thánh Luca rất khác với nội dung Bài giảng trên Núi của thánh Mátthêu.
Đức Giêsu lên núi, nơi “ Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa”, trước khi chọn lấy mười hai ông trong số các môn đệ, mà người gọi họ là “tông đồ” nghĩa là kẻ được sai đi. Giờ đây Người đóng vai một Môsê mới, “xuống núi”, mang theo sứ điệp của Thiên Chúa và “dừng lại ở một chỗ đất bằng”, đối diện với “đông đảo môn đệ của Người” là đoàn lũ “dân chúng”, tiêu biểu cho những con người đến từ “khắp miền Giuđê, Giêrusalem” lẫn lộn với những người từ những miền dân ngoại thuộc “miền duyên hải Tyrô là Siđôn”. Những lời Người sắp tuyên bố là các mối phúc, được dành cho hết mọi người, vì chỉ có mình Người mới có thể thoả mãn được khát vọng hạnh phúc của con người. Cộng đoàn các môn đệ của Người, một khi đã lãnh hội và sống các mối phúc ấy sẽ phải làm chứng về các mối phúc ấy cho mọi người.
– Con số các mối phúc trong Matthêu là chín. Còn trong Luca chỉ có bốn. Điểm khác biệt nữa là: Luca cho thêm vào bốn “mối hoạ” đặt rất song hành với bốn “mối phúc”; đây không phải là những lời nguyền rủa, mà chỉ là những lời thiết tha kêu gọi những “người bất hạnh” ăn năn hối cải khi họ lỡ bước lao mình vào con đường sa đoạ.
Sau cùng, thể văn và ý hướng của các mối phúc này đều rất khác nhau. Thánh Matthêu trình bày các mối phúc ấy ở ngôi thứ ba số nhiều và nhắm những thái độ nội tâm: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó….” Còn Luca lại diễn tả ở ngôi thứ hai số nhiều và chỉ ra những loại người trong xã hội, mà “bây giờ” đang thực sự phải nghèo khổ, phải đói, phải khóc bị nguyền rủa hay bị ngược đãi: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói…” Nếu mối phúc thứ hai hay thứ ba loan báo một sự đảo ngược hoàn cảnh hoàn toàn thì tuyệt nhiên không phải có ý khuyến khích đương sự chịu đựng, luồn cúi vì hy vọng ở thế giới bên kia. Mối phúc thứ nhất và cuối cùng nói ở thì hiện tại: “Nước Thiên Chúa là của anh em”, “vì này đây, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”; những mối phúc ấy tỏ cho biết rằng triều đại cứu thế đang được khai mở trong con người Đức Giêsu.
Meynet viết: “Nước Thiên Chúa, không phải đợi tới ngày tận thế, Nước ấy đang ở đây ngay hôm nay cho ai biết chọn lựa nước ấy… Cũng giống như Nước Chúa, thiên đàng (trời) không phải đợi mai sau mới có, thiên đàng là đây, ngay bây giờ, chứ không phải tìm kiếm ở nơi đâu khác; thiên đàng thuộc về một trật tự khác, trật tự của Thiên Chúa chứ không phải của loài người” (“L’evangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ”, Cerf, trg 79).
2/.Theo chân Đức Giêsu:
“Các mối phúc-mối hoạ” là mạc khải có tính tiên tri thúc giục ta hoán cải những quan niệm phàm trần của ta về hạnh phúc, nghèo đói và than khóc, theo ánh sáng của mầu nhiệm được tỏ ra ở đây: mầu nhiệm về Thiên Chúa muốn tỏ mình cho người ta chiêm ngưỡng Người trong mầu nhiệm Đức Giêsu, nơi Người mầu nhiệm về con người được soi sáng.
– Ở đây, người ta khám phá ra mầu nhiệm về Thiên Chúa đầy lòng xót thương những kẻ nghèo khổ. Ph. Bossuyt và J. Radermakers còn giải thích: Thực vậy, những người này, được tuyên bố là “người hạnh phúc”, bởi vì Thiên Chúa quan tâm tới họ. Vì người quan tâm tới họ, không phải vì họ có công trạng gì, nhưng vì chính hoàn cảnh của họ: nghèo khổ, phải đói, phải khóc, bị ngược đãi… Đây chính là mầu nhiệm khơi nguồn cho hiến chương Nước Trời vậy (Sđd, trg 241)
– Ở đây chúng ta cũng được đưa vào chính trung tâm mầu niệm Đức Giêsu mà ngay từ bài giảng khai mạc ở hội đường Nadarét Người đã hé mở cho thấy trước số phận Con người sẽ phải chịu: số phận một người bị hiểu lầm, bị chối bỏ.
Hai tác giả trên tiếp tục: “Vì vậy, chân lý của Thiên Chúa về các mối phúc, không tỏ ra tách biệt với số phận của con người. Hơn nữa chân lý ấy còn có một nền tảng vững chắc là tin vào lòng trung tín của Thiên Chúa như vẫn được biểu lộ ra trong con người Đức Giêsu. Những kẻ nghèo khổ, đói khát, khóc than là những người có phúc, bởi lẽ, trong Đức Giêsu, Thiên Chúa đã hành động quyết liệt để bênh vực họ, khi con Người sống lại từ trong kẻ chết. Người là đang thực hiện niềm hy vọng của họ” (Sđd, trg 242).
– Sau cùng, người ta thấy vén lên ở đây mầu nhiệm về con người, một sinh vật có một trang sử để sống, được kêu gọi để tự do lựa chọn, được mời gọi sống theo khuôn mẫu của Chúa được bày tỏ ra nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Tóm lại là dám nối gót theo chân Đức Giêsu chết và phục sinh.
BÀI ĐỌC THÊM.
1/.“Đức Giêsu đã làm đảo lộn quan niệm về hạnh phúc cách khác thường”
Chẳng có gì là ngạc nhiên, khi thấy Đức Giêsu, Lời Thiên Chúa hoá thân, tự giới thiệu và khẳng định mình là “đường, sự thật là sự sống”. Ngay cả trước khi được gọi là Kitô hữu, những ai đã đặt lòng tin cậy nơi Đức Giêsu đều được gọi là “Người môn đệ của Đường”. Người là con đường tốt, là sự chọn lựa đúng cho ta, là đầu tư ngắn hạn và dài hạn rất tốt, vì thế mà thánh Phaolô mới nói rõ: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô, chỉ để mưu ích cho cuộc sống này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”.
Thực ra khi tuyên bố về các mối phúc, Đức Giêsu đã đảo ngược bậc thang truyền thống về các giá trị là đặc biệt làm đảo lộn cả quan niệm về hạnh phúc. Vậy mà thánh Luca vẫn không do dự giới thiệu các mối phúc ấy với các tín hữu ở thế kỷ đầu vốn đã phải gian nan vì bị ngờ vực, khinh bỉ và bách hại. Không chỉ coi đây là một lời hứa hay là quy tắc sống, phải chăng Luca còn muốn phác hoạ chân dung những con người bé mọn kia, họ đã nhờ Đức Kitô mà thay đổi hẳn ý nghĩa cuộc đời của họ? Kìa, những con người ấy cảm thấy hạnh phúc ngay trong những hoàn cảnh mà ta cho là không có mảy may khả năng nào để mà hạnh phúc và vui sướng được. Vậy mà đó lại là kinh nghiệm và chứng từ của những người nam cũng như nữ chịu để cho Thần Khí tác động và hướng dẫn, đặt niềm tin tưởng vào Người và đi theo con Đường của Người.
2/.“Nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc”
Có những người đặt tất cả hy vọng và dùng hết sức lực của mình để đạt cho được tự do và hạnh phúc bao lâu còn sống ở đời này: họ chẳng hy vọng gì ở thế giới bên kia.
Người khác đã có được niềm tin chắc chắn rằng cuộc sống trần gian chỉ là điểm xuất phát, là một chuyến đi hay là một cuộc tập nghề và cuộc sống ấy sẽ được viên mãn ở thế giới bên kia, sau khi chết. Vì thế không nhất thiết phải khinh chê những vui sướng phàm trần. Họ coi những vui sướng trần gian kia vừa mong manh vừa giới hạn nên chỉ là hình ảnh mờ nhạt tượng trưng cho cái được hứa cho con người. Hầu hết các tôn giáo đều ấp ủ niềm xác tín này.
Ngay từ Cựu ước, Thiên Chúa đã được khẳng định là cội nguồn hạnh phúc đích thực và duy nhất: người công chính là kẻ “bước đi với Chúa”. Trong quan niệm cổ xưa của Kinh Thánh, hạnh phúc ấy được thực hiện ngay ở đời này khi Thiên Chúa ban ân huệ cho ngươi trung tín như được sống lâu, đông con nhiều cháu, khoẻ mạnh, giàu có… Thế nhưng vẫn có những người công chính phải khốn khổ, bị khinh chê, bị bách hại: những người đó, Thiên Chúa hứa cho họ một sự đền bù mà bản chất thế nào thì còn bị che khuất.
Chính nhờ giáo huấn của Đức Kitô mà ta được biết rõ bản chất của hạnh phúc Thiên Chúa hứa ban cho con người, hạnh phúc của một tình yêu trọn vẹn, tuyệt đối, hoàn hảo: đó cũng chính là tình yêu hiệp nhất của Ba Ngôi trong tương quan với nhau.
Thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, như bị chi phối hoàn toàn bởi một thứ tiếng lòng thổn thức “Thiên Chúa là tình Yêu”, thường diễn tả và quảng diễn lời mời gọi này của Thiên Chúa gởi đến cho con người: “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa là Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống tình yêu cốt ở điều này không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống đời đời, và sự sống này ở trong Con của Người”.
Vậy con đường mà Người con ấy là Đức Giêsu Kitô đề nghị cho con người để đạt được sự sống và tình yêu sung mãn (sự sống và tình yêu luôn liên kết với nhau) được diễn tả đặc biệt trong đoạn Phúc âm nổi tiếng thường được biết dưới cái tên là Bài Giảng Trên Núi hay đúng hơn, là bài giảng về Các Mối Phúc Thật (phúc ở đây là hạnh phúc thật).
Thực ra, người ta có thể hiểu các mối phúc mà các Phúc âm Mátthêu (5,3-11) và Luca (6,20tt) trình bày, là phần dẫn nhập vào luân lý Kitô giáo, một nền luân lý chủ trương hạnh phúc là vì Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, ngoài ra các mối phúc vừa đưa ra một lời hứa, vừa là con đường đưa đến hạnh phúc.
Lời hứa ban hạnh phúc bắt đầu được thực hiện ngay từ hôm nay, vì rằng thứ hạnh phúc Chúa ban cho con người đây, tiên vàn không phải là kết quả ở sức riêng của con người, nhưng là sự cởi mở đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ mà Chúa ban cho hết thảy mỗi người là được hiệp thông sự sống với Người. Sống luân lý theo Kitô giáo là đáp lại ân sủng của Chúa một cách tự do tự nguyện.
Con đường hạnh phúc là một lược đồ gợi ra những thái độ nội tâm phải sống (tâm hồn nghèo khó, dợn sơ, tin tưởng), những cách xứ sự đối với tha nhân (lòng thương xót, ý muốn hoà bình), những hoàn cảnh khó khăn phải đối phó (những thử thách về tâm hồn và vật chất, những sự bắt bớ). Tất cả những điều này đều hoà hợp chặt chẽ trong bản thân Đức Giêsu, Đấng được coi như thực hiện trọn vẹn nơi mình khát vọng hạnh phúc. Chính Người đã muốn sống cách hoàn hảo tinh thần của Mối Phúc trong cuộc sống của mình và đến cả trong cái chết của Người nữa.
Nếu như các mối phúc dẫn nhập vào một luân lý chủ trương hạnh phúc, thì không phải vì luân lý ấy có những lời khuyên thực hành rõ rệt, hoặc đòi hỏi phải tự mình cố gắng mới được nhưng luân lý ấy chỉ muốn đưa ra cho người ta một ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, ân huệ được hiệp thông trong sự sống và hoan lạc với Người. Ân huệ này, người ta sẽ bắt đầu tiếp nhận bằng cách ngày qua ngày sống hai giới luật về tình yêu của Chúa là yêu Chúa và yêu người. Giống như con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu đã khởi sự và đi trước vậy.
Với người tín hữu, hãy hành động như Thiên Chúa, luôn sáng tạo và có sáng kiến như Người, biết hiến thân như Đức Kitô, đó là suối nguồn đích thực của tự do và hạnh phúc.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
CA NGỢI NHỮNG AI ĐẶT TRỌN NIỀM TIN TƯỞNG VÀO THIÊN CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đối chiếu đời sống của kẻ gian ác với đời sống của người công chính
1Cr 15: 12, 16-20:
Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến thực tại phục sinh của thân thể Đức Ki-tô, và ý nghĩa của sự phục sinh ấy đối với người Ki-tô hữu.
Lc 6: 17, 20-26:
Thánh Lu-ca đối lập các Mối Phúc với các Mối Họa.
BÀI ĐỌC I (Gr 17: 5-8)
Trong đoạn thơ ngắn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sử dụng hai hình ảnh thiên nhiên đối nghịch nhau để mô tả hai hạng người, hạng người bị nguyền rủa và hạng người được chúc phúc:
- Hạng người bị nguyền rủa (17: 5-6):
Hạng người bị nguyền rủa là những kẻ gian ác đặt niềm tin tưởng vào người đời mà xa lìa Thiên Chúa. Họ được sánh ví như bụi cây cằn cỗi mọc trong hoang địa nóng cháy, nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn, chẳng bao giờ thấy được hạnh phúc.
- Hạng người được chúc phúc (17: 7-8):
Hạng người được chúc phúc là những người công chính đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ được sánh ví như cây trồng bên dòng nước, cành lá xanh tươi, trổ sinh hoa trái bốn mùa vì đâm rễ sâu vào mạch nước.
Bài Đọc I chuẩn bị Tin Mừng hôm nay theo thánh Lu-ca trong đó Đức Giê-su loan báo bốn Mối Phúc đối lập với bốn Mối Họa.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 12, 16-20)
Có những người tín hữu Cô-rin-tô không tin kẻ chết sống lại. Thánh Phao-lô chứng minh rằng những người chủ trương “không có chuyện kẻ chết sống lại” thật phi lý khi vạch ra những hậu quả của sự từ chối này.
Thứ nhất, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì lời rao giảng của thánh Phao-lô và những thầy dạy của họ về việc Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại để chúng ta cùng được chết và sống lại với Đức Ki-tô là những lời nói láo. Thứ hai, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì cũng sẽ từ chối những thành quả minh nhiên của niềm tin vào Đức Ki-tô sống lại qua những ân huệ dồi dào mà Thần Khí đã ban cho cộng đồng tín hữu Cô-rin-tô. Thứ ba, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì niềm tin của những người tín hữu ở đời này thật là hão huyền và đáng thương, đồng thời các thành viên trong cộng đồng của họ đã qua đời phải bị tiêu vong.
Từ lập luận trên, thánh nhân quả quyết rằng Đức Ki-tô thật sự đã sống lại để mở đường cho những ai tin vào Ngài cũng sẽ được sống lại cùng với Ngài.
TIN MỪNG (Lc 6: 17, 20-26)
Hình ảnh Chúa Giê-su xuống núi và đến một chỗ đất bằng, tại đó dân Thiên Chúa tụ tập quanh Người gợi nhớ hình ảnh ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống mang theo sứ điệp của Thiên Chúa. Thính giả của Chúa Giê-su đại diện đầy đủ mọi thành phần Dân Thiên Chúa: nhóm Mười Hai, đông đảo môn đệ của Người và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi đến.
Sau khi đã thường xuyên nói Chúa Giê-su giảng dạy, cuối cùng thánh Lu-ca sắp sửa đưa ra một trong những khuôn mẫu cô động nhất của công việc giảng dạy đó. Để làm điều này, thánh Lu-ca không tham khảo sách Tin Mừng Mác-cô nữa mà tận dụng “Nguồn các lời”. Bài Diễn Từ Trên Cánh Đồng của thánh Lu-ca phù hợp theo mức độ nào đó với Bài Diễn Từ Trên Núi, một bài trình thuật rộng lớn mà thánh Mát-thêu ghi lại cho chúng ta từ chương 5 đến chương 7. Trong suốt sứ vụ công khai của Người ở những miền và những thành phố khác nhau của Ít-ra-en, chắc hẳn Đức Giê-su đã rao giảng những điều như vậy trong những dịp khác nhau. Khi sử dụng “Nguồn các lời” này, mỗi thánh ký, dưới ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần, đã sẽ chọn tường thuật những lời mà các ngài cho là hữu ích nhất trong việc giảng dạy cho độc giả đương thời của các ngài: người Ki-tô hữu gốc Do thái trong trường hợp thánh Mát-thêu, người Ki-tô hữu gốc lương dân trong trường hợp thánh Lu-ca.
Trước khi Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc và các Mối Họa, thánh Lu-ca ghi nhận: “Đức Giê-su ngước mắt nhìn lên các môn đệ” (6: 20). Tại sao thánh Lu-ca lại ghi nhận cái nhìn của Đức Giê-su như thế? Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người để gặp con người, chứ không phải là một đạo sư truyền bá một đạo lý hay một giáo thuyết. Ánh mắt của Người, cũng chính là cái nhìn của Thiên Chúa, đang rọi xuống trên những con người đang hiện diện trước mặt Người. Nơi những con người mà Người đang đưa mắt nhìn, Đức Giê-su thấy những người con được Chúa Cha tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; vì thế, Người mặc khải cho họ biết họ là ai và làm cách nào để sống cho xứng đáng là những người con đích thật của Chúa Cha.
- Cách trình bày các Mối Phúc và các Mối Họa theo Tin Mừng Lu-ca:
Thánh Lu-ca đã tóm gọn Tám Mối Phúc của thánh Mát-thêu (Mt 5: 3-12) vào trong Bốn Mối Phúc, nhưng thêm Bốn Mối Họa đối lập. Quả thật, bốn Mối Phúc của Tin Mừng Lu-ca được phát biểu cách trực tiếp và cô động hơn tám Mối Phúc của Tin Mừng Mát-thêu: ví dụ trong Tin Mừng Lu-ca, Mối Phúc thứ nhất phát biểu cách trực tiếp và đơn giản “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”, trong khi trong Tin Mừng Mát-thêu chúng ta đọc thấy “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”, rõ ràng Mối Phúc này được phát biểu cách gián tiếp và chứa đựng một lời giải thích ngắn về ý nghĩa của đức nghèo khó.Thánh Lu-ca đặt hai nhóm người và hai mẫu tình huống tương phản một cách có hệ thống.
Bốn Mối Phúc là bốn Mối Họa đảo ngược:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” | “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có” |
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói” | “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê” |
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc” | “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười” |
“Phúc cho anh em, khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sĩ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa” | “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng” |
Những lý do nêu ra cũng ở thế đối lập với nhau:
“Vì Nước Thiên Chúa là của anh em” | “Vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” |
“Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” | “Vì các ngươi sẽ phải đói” |
“Vì anh em sẽ được vui cười” | “Vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” |
“Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” | “Vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”. |
Ba cặp Phúc-Họa đầu tiên được cấu trúc rất đối xứng: những kẻ nghèo khó, đang phải đói và khóc lóc ám chỉ cùng một nhóm người như nhau; những kẻ giàu có, đang được no nê và vui cười cũng vậy. Sáu từ ngữ thực tế chỉ hai loại người trong xã hội. Cặp Phúc-Họa thứ tư là cặp cuối cùng được cấu trúc hoàn toàn khác và được khai triển thành ba phần: trước hết, những thử thách phải chịu trong hiện tại: “bị oán ghét”,“bị khai trừ” và “bị sỉ vả” (6: 22) đối lập với việc “được mọi người ca tụng” (6: 26); tiếp đó, lời mời gọi hãy vui mừng, không phải trong tương lai nhưng hiện nay với sự bách hại, vì được bảo đảm rằng họ sẽ nhận được phần thưởng lớn lao: ơn cứu độ và sự sống ngay giữa cơn gian nan thử thách (6: 23a-b); sau hết, người bị bách hại được đồng hóa với các ngôn sứ Cựu Ước: “Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”. Sự kiện này thật đáng lưu ý: nếu người giàu đối lập với người nghèo, thì ở đây những người bách hại không phải đối lập với những người bị bách hại, mà là những kẻ được ca tụng, tức là bị đồng hóa với các ngôn sứ giả.
Trong bản văn đối xứng của mình, thánh Lu-ca công bố một sự đảo ngược của các tình cảnh hiện nay vào thời cánh chung; thực ra thời cánh chung đã khởi sự rồi. Trong cặp Mối Phúc thứ hai và thứ ba, “bây giờ” và “thời sẽ đến” đối kháng với nhau rõ ràng (6: 21). Ngược lại, trong Mối Phúc thứ nhất, điều kiện của việc đảo ngược đã được hiện thực rồi: “Nước Thiên Chúa là của anh em”. Mối Phúc cuối cùng cũng tương tự như thế: “Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”. Một sự đảo ngược giữa các tình cảnh như vậy là một đề tài được thánh Lu-ca ưa chuộng. Chúng ta đã gặp thấy cấu trúc này trong bài ca “Ngợi Khen” (1: 51-53) cũng như sau này trong một bản văn khác riêng của thánh Lu-ca: dụ ngôn ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó (16: 19-31).
- Nghèo khó trong khiêm tốn:
Ở đây, trên môi miệng của Đức Giê-su Na-da-rét, từ ngữ “những kẻ nghèo khó” phải được hiểu ưu tiên theo chiều kích kinh tế và xã hội; thuật ngữ này chỉ những người không được bảo vệ và không có quyền lợi, bị khinh dễ, họ trông chờ ơn cứu độ chỉ ở nơi một mình Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đứng ra bênh vực quyền lợi của họ, vì vậy Ngài phải nắm trọn chủ quyền (“Xin cho triều đại Chúa mau đến!”: 11: 2). Hành động giải phóng của Chúa Giê-su đã là dấu chỉ hữu hiệu cho thấy Thiên Chúa ra tay hành động. Chính nơi bản thân của Đức Giê-su và công việc của Người mà hoạt động cánh chung của Thiên Chúa và “triều đại” của Ngài được bày tỏ.
Vì vậy, dường như thánh Lu-ca cũng không thỏa mãn hơn chúng ta trước những Mối Phúc của Chúa. Nếu vấn đề của cải được nêu rõ trong Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ, chính vì giữa lòng Giáo Hội vào thời thánh Lu-ca có những người túng thiếu và những người giàu có. Như vậy đâu là tính thời sự của Tin Mừng? Thánh Lu-ca hiểu thế nào về người nghèo khó mà Chúa Giê-su nói ở đây?
Nếu người ta tách riêng những Mối Phúc và những Mối Họa ra khỏi tác phẩm của thánh Lu-ca, người ta sẽ phạm phải sai lầm lớn trong công việc giải thích. Trong trường hợp đó, sự đối kháng rõ rệt và được lập đi lập lại giữa “bây giờ” và “thời sẽ đến” đề xuất cuộc đảo lộn các giá trị sau này. Người nghèo sẽ được khuyến khích tự an ủi về hiện trạng khốn khó khi nghĩ đến một tương lai huy hoàng… trong lúc đó, người giàu có thể tiếp tục chè chén say sưa mà không sợ người nghèo La-da-rô tìm cách lật đổ hiện trạng của mình (x. 16: 17-31). Như vậy, thánh Lu-ca sẽ chuốc lấy lời phê phán của Karl Marx khi triết gia này phê phán tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng.
Các Mối Phúc đòi hỏi phải được đọc dưới ánh sáng phần còn lại của sách Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ. Nếu thánh Lu-ca có thể nhắc lại các Mối Phúc chính vì thánh ký diễn tả Giáo Hội lý tưởng là một cộng đoàn nơi đó “không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung… Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4: 32-35). Những bản văn khác sẽ cho chúng ta thấy việc chia sẻ với người nghèo, tuy khiêm tốn hơn, phải được thực hành ngay ngày hôm nay, trong cộng đoàn Giáo Hội. Nếu không, cộng đoàn sẽ không có khả năng loan báo các Mối Phúc và chứng thực thực tại của ơn cứu độ đã khởi sự.
- Khó nghèo theo Tin Mừng:
Ngay vào thời thánh Âu-gút-ti-nô, có nhiều người không thể hiểu đúng người nghèo và người giàu; họ lập luận như sau: “Nước Trời thuộc về người nghèo, ông La-da-rô đói khát của cải thế giới này; mọi người giàu thì xấu xa, như ông phú hộ này”. Cách suy nghĩ này đã khiến thánh Âu-gút-ti-nô giải thích ý nghĩa sâu xa của sự giàu có và sự nghèo khó theo tinh thần của Tin Mừng: “Hỡi người nghèo, hãy lắng nghe tôi giải thích những lời của bạn. Khi bạn tự cho mình là anh La-da-rô, một thánh nhân ung nhọt đầy mình, tôi sợ là niềm tự phụ của bạn làm cho bạn mô tả mình không đúng. Đừng khinh bĩ những người giàu đầy lòng từ bi nhân ái và khiêm hạ: hay nói một cách ngắn gọn, đừng khinh bĩ những người giàu mà nghèo. Hỡi người nghèo! Chính bạn hãy là nghèo; nghèo, có nghĩa khiêm tốn… Vì thế, hãy lắng nghe tôi. Hãy thật sự nghèo, phải là chân thành, phải là khiêm tốn; nếu bạn tự phụ về sự nghèo khổ rách rưới và mụn nhọt đầy người của bạn, nếu bạn tự phụ là mình giống như người ăn xin đó nằm ở ngưỡng cửa của người giàu, lúc đó bạn đang ghi nhận sự nghèo khổ của anh ta chứ không gì khác. Bạn hỏi, điều gì tôi nên ghi nhận? Hãy đọc Kinh Thánh rồi bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói. Anh La-da-rô là một người nghèo, nhưng anh được đưa vào lòng của một người giàu. Kinh Thánh viết: ‘Thế rồi người nghèo này chết và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham’. Vào đâu? Vào lòng của ông Áp-ra-ham hay, hãy để tôi nói, vào nơi mầu nhiệm ở đó ông Áp-ra-ham đang yên nghỉ. Hãy đọc… và hãy nhớ rằng ông Áp-ra-ham là một người rất giàu khi còn sống trên cõi thế này: ông giàu có tiền bạc, một gia đình rộng lớn, súc vật đầy đồng, ruộng vườn; tuy nhiên người giàu này thì nghèo, vì ông khiêm hạ. ‘Ông Áp-ra-ham tin vào Thiên Chúa và được xem là công chính’… Ông đã là trung thành, ông đã làm điều tốt, ông đã đón nhận mệnh lệnh hiến tế người con trai của ông, và ông đã không từ chối dâng hiến những gì ông đã nhận được cho Đấng từ Ngài ông đã nhận được. Ông đã được chấp nhận trong thánh nhan Thiên Chúa và phô bày trước chúng ta một mẫu gương đức tin” (Sermon 14).
Tóm lại, đức nghèo khó không cốt ở nơi điều gì đó thuần túy bên ngoài, ở nơi việc có hay không có những của cải, nhưng ở nơi điều gì đó còn sâu xa hơn, tác động đến tấm lòng và tâm hồn của một con người; nó cốt là có một thái độ khiêm tốn trước Thiên Chúa, là lòng mộ đạo, là một niềm tin tròn đầy. Nếu một người Ki-tô hữu có những đức tính này và cũng có những của cải dư đầy, người ấy phải siêu thoát khỏi sự giàu có của mình và hành xử bác ái đối với tha nhân, thì mới thật sự làm đẹp lòng Thiên Chúa. Mặt khác, nếu ai không được sung túc, không vì thế mà người ấy được công chính trước Thiên Chúa, nếu như người ấy không nỗ lực đạt được những đức tính mà đức nghèo khó đích thật đòi hỏi. “Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn và khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để chúng ta sống hạnh phúc ở đời này và đời sau lại được hạnh phúc vĩnh viễn bên cạnh Ngài. Bởi thế loài người luôn khát khao hạnh phúc. Thế nhưng hình như ở đời này hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều; và có thứ ta tưởng là hạnh phúc nhưng thực ra lại là bất hạnh.
Hôm nay Chúa sẽ dạy ta biết thế nào là hạnh phúc thật, và làm thế nào để có được hạnh phúc thật ấy.
II/.Gợi ý sám hối
Chúng con thường chỉ biết tìm hạnh phúc trần gian mà lơ là với hạnh phúc muôn đời.
Chúng con thường chỉ tìm hạnh phúc ích kỷ cho bản thân mà không quan tâm xây dựng hạnh phúc cho tha nhân.
Chúng con chưa thực sự tin vào những mối phúc thật mà Chúa công bố.
III/. Lời Chúa
- Bài đọc I (Gr 17,5-8)
Ngôn sứ Giêrêmia giới thiệu hai con đường: một dẫn đến hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh:
Con đường dẫn đến hạnh phúc là đặt niềm tin nơi Chúa. Ngôn sứ diễn tả hạnh phúc ấy bằng những hình ảnh thiên nhiên cho dễ hiểu: Người đặt niềm tin vào Chúa là người đi trên con đường có nước, có bóng cây, có hoa trái…
Con đường đưa tới bất hạnh là đặt niềm tin nơi người đời. Người đi trên con đường ấy chỉ gặp sa mạc khô nóng, đồng khô cỏ cháy, đất mặn, không bóng mát…
- Đáp ca (Tv 1)
Tiêu chuẩn hạnh phúc và bất hạnh theo ngôn sứ Giêrêmia là đặt niềm tin nơi Thiên Chúa hay loài người. Còn theo tác giả Thánh vịnh 1 thì đó là sống theo Luật Chúa hay là đi theo quân gian ác.
- Tin Mừng (Lc 6,17-26)
Có thể coi đoạn Tin Mừng này là Bài giảng đầu tiên của Chúa Giêsu trước đông đảo dân chúng (bài giảng thứ nhất ở quê hương Nadarét, Lc 4,16-30, chỉ giảng cho đồng hương Ngài nghe).
Bài giảng này có những điểm giống và những điểm khác với bài giảng trên núi trong Tin Mừng Matthêu: Trong khi Thánh Mát-thêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi 4 lời chúc phúc kèm theo 4 lời quở trách.
Những kẻ được chúc phúc là những người nghèo, đói khát, đang phải khóc lóc, bị bách hại.
Những kẻ bị chúc dữ là những người đang giàu có, no đầy, vui cười, được tâng bốc.
Điều nên chú ý là: không phải tự thân sự nghèo nàn khổ sở là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này.
- Bài đọc II (1 Cr 15,12-16.20) (Chủ đề phụ)
Người dân Côrintô chịu ảnh hưởng triết lý hy lạp nên không tin có việc kẻ chết sống lại.
Để giúp tín hữu mình tin vào giáo lý ấy. Thánh Phaolô đưa nhiều lập luận:
Nếu kẻ chết không thể sống lại thì tại sao Đức Kitô đã chết mà đã sống lại? Nói cách khác, việc Đức Kitô phục sinh là bằng chứng rõ ràng về việc kẻ chết sống lại.
Đức Kitô không chỉ có khả năng làm cho bản thân Ngài sống lại, mà còn có thể làm cho tất cả những ai tin vào Ngài được sống lại như Ngài.
Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.
IV/.Gợi ý giảng
* 1. Hạnh phúc đích thực
Vào năm 1918, tại Mỹ đã xảy ra một trận dịch cúm tàn sát bao nhiêu sinh mạng. Các bác sĩ và y tá tối tăm mặt mũi vì công việc, tình cảnh trong các dưỡng đường, bệnh viện thật là thảm hại. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, các thành viên của một hội thượng lưu ở New York quyết đem sức lực ra giúp đồng bào. Họ giàu có và đã lớn tuổi, có thể chỉ ký một ngân phiếu để giúp bệnh nhân là xong. Nhưng không, họ không những đã bỏ tiền ra mà còn tình nguyện khoác áo blouse trắng tới bệnh viện cọ sàn, săn sóc tắm rửa cho các bệnh nhân, vỗ về những gia đình đau khổ mà không ngại mệt nhọc, cũng không sợ lây bệnh cho chính bản thân.
***
Tin Mừng hôm nay trình bày bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả, kèm theo bốn lời nguyền rủa những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là những phản dề đối chiếu giữa người nghèo và kẻ giàu, giữa người đói khát và kẻ no đầy. Đó!à hai giai cấp trong xã hội luôn đối chọi nhau mà Tin Mừng muốn mô tả để người tín hữu Kitô chọn lựa.
Một điều rất hiển nhiên là Tin Mừng hướng chúng ta về người xấu số bất hạnh và cho họ niềm hy vọng hạnh phúc ở tương lai. Tin Mừng không hề lên án người giàu chỉ vì họ có nhiều tiền của, nhưng chỉ lên án những ai giàu có mà không biết sử dụng của cải cho đúng, thậm chí còn dùng của cải như chướng ngại vật chặn đứng lối vào Nước Trời. Giàu có mà hành xử như các thành viên của hội thượng lưu ở New York trong câu chuyện còn được Chúa chúc phúc. Họ được hưởng hạnh phúc đời này lẫn đời sau. Bí quyết của họ rất đơn giản, đó chính là biết chia sẻ và trao ban.
Chúa Giêsu không lên án của cải nói chung, nhưng lên án cách sử dụng của cải. Tiền bạc tự nó không có giá trị đạo đức. Nó có thể dùng vào việc tốt cũng như việc xấu. Tự bản chất, của cải không là những gì xấu xa, và tự bản chất, nghèo khó cũng không phải là nhân đức.
Chỉ “khốn cho người giàu có” khi họ không phân định rạch ròi giữa phương tiện và cùng đích, giữa điều kiện vật chất và định mệnh con người. Đời sống của họ bị nhận chìm bởi các con sóng là các phương tiện vật chất như áo quần, xe cộ, nhà cửa và các tiện nghi trong cuộc sống. Đời sống của họ bị đè bẹp bởi các hành trang vật chất chỉ giúp họ duy trì và phát huy sự sống trong cuộc lữ hành ngắn ngủi của một đời người. Họ quên rằng con người sống nhờ phương tiện nhưng lại sống cho cùng đích. Và cùng đích của con người là “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Thảm kịch của cuộc sống chính là lo lắng tìm kiếm phương tiện, và để cho cùng đích tan biến trong phương tiện.
Chỉ “Khốn cho người giàu có” khi họ không ý thức rằng họ lệ thuộc rất nhiều vào người khác. Họ mang trong mình căn bệnh vị kỷ, nên không còn thấy rằng của cải cá nhân là do của cải tập thể đem lại, họ cũng không nhận ra rằng họ đã thừa hưởng một kho tàng lý tưởng và các tiến bộ mà người đang sống cũng như kẻ đã chết góp phần tạo nên. Họ nghĩ rằng mình có thể sống sung túc trong thế giới nhỏ bé chật hẹp mà họ là trọng tâm. Họ là một con người sống theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Dù có ý thức hay không, mỗi người chúng ta là một con nợ đối với người quen biết cũng như người chưa quen biết. Vậy chúng ta phải trả món nợ ấy ở đâu? Câu trả lời thật đơn giản: Cho kẻ đói ăn, cho người trần truồng áo mặc, chăm sóc người đau yếu. Nói như Martin Luttler King: “Chúng ta có thể cất giữ số thực phẩm dư thừa của chúng ta trong các bao tử trống rỗng của hàng triệu con cái Thiên Chúa, khi mỗi tối họ phải lên giường nằm ngủ mà không có gì để ăn”.
Dưới con mắt Chúa, làm giầu một cách lương thiện không phải là tội, tiêu dùng của cải do mình làm ra không hề là một điều xấu. Nhưng điềm nhiên hưởng thụ và nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân lại là một tội ác. Thiên Chúa đã dựng nên trái tim con người để rung lên những nhịp đập yêu thương, và tặng ban cho con người đôi tay để mở ra ban phát. Kẻ nào khoá lại trái tim và nắm chặt đôi tay là đi ngược với bản tính con người mà Chúa đã tạo dựng. Vì thế, ai sống co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, kẻ ấy có thể rất giàu về tiền của nhưng lại thật nghèo trong nhân tính.
Có nhiều người lẫn lộn giữa hạnh phúc và cái bóng của hạnh phúc; họ mải mê chạy theo cái bóng này, để rồi mau chóng thất vọng khi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Hạnh phúc đích thực không nằm nơi của cải, hay trong những gì mình đã chiếm hữu, nhưng chính là sự mãn nguyện với những gì mình đã trao ban. Thánh Phaolô viết: “Cho đi vui sướng hơn nhận lãnh”.
Hạnh phúc đích thực không nằm trong lời ca tụng hay trong chức tước quyền uy, nhưng chính là sự an bình vui tươi của một lương tâm thanh thản với Chúa, với anh em, và với chính mình, như lời Thánh Phaolô: “Lương tâm rôi không trách cứ tôi điều gì”.
Một tác giả có viết: “Trong hạnh phúc có mầm đau khổ. Quả thật, hạnh phúc bao giờ cũng trộn lẫn với mồ hôi và nước mắt. Có hạnh phúc đích thực nào mà không phải trả giá bằng đau khổ? Có ai sống trên đời này mà được hạnh phúc trọn vẹn đâu?
Điều này giải thích tại sao những gì chúng ta coi là bất hạnh, thì Chúa Giêsu lại cho là hạnh phúc.
Chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được cái nghịch lý của Lời Chúa thì chúng ta mới có được hạnh phúc đích thực.
Chỉ khi nào chúng ta dám nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét vì nói thật, bi sỉ vả vì danh Chúa, chúng ta mới sống trọn vẹn các mối phúc thật.
Chỉ khi nào chúng ta thấy mình giàu lên khi chịu nghèo, no thoả lúc đói khát, vui cười khi lệ rơi, và hân hoan lúc bách hại, chúng ta mới thực sự nếm cảm niềm hạnh phúc của Nước Trời.
***
Lạy Chúa, hạnh phúc đích thực chính là có một lương tâm an bình, một con tim biết chia sẻ và một khối óc luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn đắm chìm trong hạnh phúc được làm con cái Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 2. Hạnh phúc hiện tại của người nghèo
Etienne Charpentier viết:
“Bài giảng trên núi trong Mátthêu và bài giảng trên cánh đồng của Luca mở đầu bằng những lời chúc phúc. Nghĩa là sứ điệp của Chúa Giêsu chủ yếu là loan báo hạnh phúc. Nhưng loan báo cho ai, và như thế nào?
Phải đau đớn nhận rằng các lời chúc phúc ấy đã bị hiểu sai và bị lợi dụng làm một thứ thuốc phiện nhằm ru ngủ nỗi khổ đau và sự nổi loạn của những người nghèo. Người ta muốn hiểu chúng như sau: “Hỡi những người nghèo, các người hạnh phúc lắm vì các người được Thiên Chúa yêu thương… vậy cứ tiếp tục nghèo đi! Hãy chấp nhận thân phận của các người, rồi một nào đó ở trên trời các người sẽ được hạnh phúc”. Nhưng thực ra Chúa Giêsu nói ngược hẳn lại: “Hỡi những người nghèo, chúng con hạnh phúc, vì từ nay chúng con không còn nghèo nữa, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. (Pour lire le Nouveau Testament)
Chúa Giêsu không hứa sẽ ban hạnh phúc cho người nghèo, Ngài loan báo cho người nghèo biết là họ đang hạnh phúc. Lý do hạnh phúc của họ là tuy họ không có nhiều tiền bạc của cải, nhưng họ có Nước Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là của anh em”.
Có Nước Thiên Chúa là có tất cả. “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì?”
* 3. Nghịch lý
Người ta thường nói “nghèo khổ”, nghĩa là cái nghèo và cái khổ đi đôi với nhau; đã nghèo thì tất nhiên khổ. Thế mà Chúa Giêsu lại nói “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo”. Hình như Chúa Giêsu muốn đảo ngược kiểu nói “nghèo khổ” thành “nghèo phúc”. Thật là nghịch lý!
Nhưng chuyện nghịch lý không phải là không có trên đời. Thông thường ai cũng muốn một cuộc sống sang giàu. Thế nhưng có những người lại đi tìm một cuộc sống nghèo: chẳng hạn như các nho gia cởi áo từ quan, rời bỏ nếp sống tiện nghi nơi thành thị để tìm nếp sống thanh đạm giữa thiên nhiên; hay thánh Phanxicô Assisi là con nhà giàu nhưng từ bỏ tất cả để sống nghèo, lại còn lập cả một huynh đoàn quy tụ những người muốn sống nghèo như ngài; hay ngày nay những tu sĩ với lời khấn trọn đời sống nghèo nàn. Những con người đó không phải điên khùng mà hoàn toàn sáng suốt. Quyết định sống nghèo của họ không phải do bốc đồng nhất thời mà là kết quả của một thời gian dài suy nghĩ chọn lựa. Sự chọn lựa ngược đời của họ khiến ta phải suy nghĩ vì chắc hẳn họ đã nghiệm ra có nhiều điều hay trong cái nghèo nên họ mới chọn lựa như vậy.
Dĩ nhiên cái nghèo mà họ chọn lựa không phải là tình trạng túng thiếu: không đến nỗi phải chết đói, chết khát, chết lạnh, mà chỉ cần tối thiểu để ăn, để uống, để mặc. “Tri túc, tiện túc”: biết đủ thì đủ.
Vì chỉ cần tối thiểu như thế nên lòng họ không bị giao động vì những ham muốn có thêm. “Túi tham không đáy”: lòng ham muốn sẽ không bao giờ thỏa mãn, nên cứ giao động hoài.
Không tham muốn thêm mà cũng không sợ bị mất, nên người nghèo như thế rất bình tâm, nhờ đó có thể ăn ngon, ngủ yên.
Người nghèo không kiêu căng, không khoe của, không khinh miệt người khác.
Người nghèo không cậy dựa vào tiền bạc của cải nên dễ cậy dựa vào Chúa hơn.
Có thể người nghèo bị người đời khinh ghét, nhưng bù lại, họ được Thiên Chúa yêu thương che chở.
* 4. Những mối phúc của tấm lòng
Phúc thay ai có lòng thanh sạch, họ sẽ được thấy Chúa.
Phúc thay ai có lòng khiêm tốn, họ sẽ tìm được sự ngơi nghỉ cho linh hồn.
Phúc thay ai có lòng ấm áp, họ sẽ tỏa chiếu lòng tốt ra chung quanh.
Phúc thay ai làm việc với tấm lòng, họ sẽ tìm gặp niềm vui trong công việc.
Phúc thay ai không ngã lòng, họ sẽ tìm được nghị lực để kiên trì.
Và phúc thay ai đặt lòng mình vào Nước Thiên Chúa, mọi điều khác sẽ được ban cho họ. (FM)
* 5. Nghèo mà giàu
Khi Chúa Giêsu nói “Phúc cho những người nghèo”, Ngài không chúc phúc cho sự túng thiếu và bần cùng đâu, vì túng thiếu và bần cùng là những điều xấu.
Điều được chúc phúc chính là sự cậy trông vào Chúa. Ai cậy trông vào những gì thuộc về loài người thì sẽ bị thất vọng, còn ai cậy trông vào Chúa sẽ chẳng thất vọng bao giờ. Chỉ một mình Chúa mới có thể đong đầy những chỗ trống của chúng ta. Chỉ một mình Ngài mới có thể thỏa mãn những đói khát của chúng ta.
Người giàu thường hay cậy dựa vào tiền bạc của cải của họ. Đối với họ, chỉ có đời này là quan trọng, còn đời sau hay là Chúa đều là quá xa vời. Trái lại người nghèo thì tự nhiên dễ hướng về Chúa, cuộc sống càng cơ cực khó khăn thì họ càng cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Mà ai cậy dựa vào Chúa thì sẽ được Ngài phù hộ chở che.
Khi người nghèo nhận được một điều gì đó, dù rất tầm thường, họ cũng lấy làm sung sướng và biết ơn.
Một hôm, một người nghèo đang đi đường thì gặp một người ăn xin. Người ăn xin chìa tay xin tiền. Người nghèo này bối rối đáp: “Xin lỗi, tôi chẳng có gì cho bạn, vì tôi cũng nghèo như bạn”. Người ăn xin nói: “Xin cám ơn vì món quà bạn đã cho tôi”. Người nghèo ngạc nhiên họi lại: “Tại sao bạn cám ơn tôi? Tôi có cho bạn cái gì đâu”. Người ăn mày nói tiếp: “Bạn đã cho tôi sự nghèo nàn, lòng chân thành và sự tin cậy của bạn”.
Đối với Chúa, chúng ta đều nghèo. Nhưng dù nghèo, chúng ta cũng có những món quà cho Chúa, đó là lòng chân thành, sự cậy trông và chính sự nghèo nàn của chúng ta. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Tìm lại hạnh phúc
Tại văn phòng của một cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể:
“Chồng tôi đã chết, cách nay ba tháng. Con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả. Tôi không ngủ được. Tôi không muốn ăn uống. Tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”.
Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
b/ Người hạnh phúc nhất
Nhà vua bị bịnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bịnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo!
c/ Bí quyết sống vui
Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao!
V/.Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, phúc thay người đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chốn nương thân. Cùng với tất cả những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa là Đấng ban hạnh phúc thật sự cho mọi người, chúng ta tha thiết nguyện xin:
- Hội thánh không ngừng kêu gọi con cái mình sống lời Chúa dạy / đặc biệt là sống theo tinh thần Tám mối phúc thật / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh xác tín rằng / sống đạo là sống theo Lời Chúa dạy.
- Trên thế giới ngày nay / người nghèo vẫn chiếm đa số / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các dân tộc được phát triển / để mọi người đều được hạnh phúc ấm no.
- Là con người / ai cũng mong muốn được hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / qua việc chia sẻ tình thương và cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.
- Mọi thực tại ở trần gian này đều chóng qua / không có gì tồn tại mãi mãi ngoài một mình Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn nhớ đến chân lý căn bản này / để đừng bao giờ quá bám víu vào của cải vật chất, nhưng biết hướng tâm hồn lên cùng Chúa / là nguồn hạnh phúc của hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con chỉ trở nên người Kitô hữu chân chính khi chúng con sống lời Chúa. Xin cho chúng con biết yêu mến và sống theo Lời Chúa dạy trong Kinh thánh, để nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc thật sự trong đời sống thường ngày. Chúng con cầu xin
VI/.Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tất cả những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta xin trong Kinh lạy Cha đều nhằm đem đến cho chúng ta hạnh phúc đích thực. Vậy chúng ta hãy hướng lòng lên Cha trên trời và sốt sắng đọc lời kinh Chúa dạy.
VII/. Giải tán
Hôm nay Chúa đã dạy chúng ta biết đâu là hạnh phúc thật và đâu là hạnh phúc giả trá chóng qua. Ước chi tuần này chúng ta sẽ khôn ngoan, biết tìm kiếm hạnh phúc chân thật vững bền.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ– Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
1/. Ở đây Chúa Giêsu khích lệ và an ủi các người nghèo khó. Trong suốt lịch sử của mình, Israel đã từng kinh nghiệm rằng Thiên Chúa luôn quan tâm đến kẻ nghèo hèn, người bị áp bức nếu họ trông cậy nơi Ngài. Trong thời nô lệ (ở Ai cập và lưu đày ở Babilone, Israel đã gặp nghèo đói và bị kềm kẹp, Thiên Chúa đã lưu tâm đến dân Ngài: “Chúa an ủi dân Ngài và xót thương những người cùng khốn” (Is 49,13). Thiên Chúa hướng lòng về những người nghèo đói, khổ sở lầm than “Lạy Chúa, xin hãy nghiêng tai về bên con, xin nhậm lời con; vì con nghèo nàn khổ sở” (Tv 86,1). Thiên Chúa cũng hành động tương tự như thế trong thời gian cứu độ mà Chúa Giêsu loan báo. Tin mừng được rao giảng cho người nghèo (4,8). Do đó, người nghèo thật hạnh phúc vì họ là những người đầu tiên được Chúa Cha quan phòng săn sóc và được phúc âm Chúa Kitô hướng dẫn dưỡng nuôi.
2/.Tình trạng sung sướng hạnh phúc Chúa Giêsu công bố không phải là khổ sở, thiếu ăn, đói khát, dốt nát, chậm tiến, ăn mày. Trái lại, Chúa Giêsu xem các cảnh huống đó như là những cảnh huống làm con người thoái hoá, do đó phải sớm gạt bỏ: đến ngày phán xét chung thẩm, chúng ta sẽ bị phán xét theo cách thế chúng ta đã làm hầu xoa dịu các nỗi thống khổ của nhân loại (x.Mt 25), phù hợp với các giáo huấn và gương sáng của giáo hội qua mọi thời đại. Được xem là hạnh phúc, tình trạng của người dù nghèo nhưng luôn tín thác vào bàn tay quan phòng của Chúa Cha (dĩ nhiên là họ hết sức cố gắng làm việc), tình trạng của người luôn ý thức mình là con Thiên Chúa. Tóm lại, điều làm người ta dễ dàng đón nhận Nước trời, chính là sự tự do của người nghèo khó: chịu đựng các cảnh thăng trầm, bấp bênh đầy va chạm của cuộc sống mai ngày mới có thể thoả mãn mọi thiếu thốn và khát vọng hạnh phúc của họ.
3/.Những người bị bắt bớ vì đạo (theo dõi, giam tù, chèn ép, thiếu thốn mọi sự) và những người nhờ quan phòng tìm được tự do thường làm chứng rằng trong đời sống họ không có lúc nào cảm thấy được an ủi, bình thản và vui sướng cho bằng những lúc họ bị khốn khổ cùng cực. Có biết bao vị tử đạo đã vui hát khi bị giết. Hạnh phúc của người bị bách hại không phải là một hạnh phúc “bánh vẽ”. Ngay từ đời này, Thiên Chúa đã ban hạnh phúc cho những ai sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ vì Ngài.
4/.Không nên phàn nàn những người có tiếng tốt là thanh liêm ngay thật, thích vụ tha nhân. Nhưng những kẻ mà Chúa Giêsu chúc dữ đó là những kẻ giàu sang được người ta nịnh bợ, tâng bốc chỉ vì họ giàu sang, quyền thế, nhiều áp lực… Họ giống các tiên tri giả, chỉ biết nói lời đường mật, nịnh hót, trấn an dân Do thái, trong lúc đang theo đuổi các ngẫu thần (x. Is 30,9tt; Giêr 23,17tt)
5/.Ngay cả môn đệ, tín hữu, những người sống trong giáo hội cũng phải nghe lời chúc phúc và chúc dữ đó như thể được áp dụng cho chính mình. Phải tự vấn xem mình có sợ vì bị chúc dữ hay không. Phải luôn luôn lượng giá đúng các lời tuyên bố ngắn ngủi của Chúa Giêsu. Những lời tuyên bố đảo ngược mọi giá trị, đánh đổ mọi pháo đài con người xây lên cho mình, đó là hoàng hôn, là lời cáo chung của mọi thần tượng ta tin hằng tin tưởng. Các lời chúc phúc và chúc dữ mở cửa nước Thiên Chúa, một nước trong đó ta sẽ được mọi thứ mà của cải đời này không thể cung cấp nhưng chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng khi Ngài bắt đầu thống trị.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN-C
NGHÈO VÌ NƯỚC TRỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến bộ, muốn nhân loại tụt hậu?
Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:
Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ rõ nét.
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana. Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú quý như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ uy tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình thương.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hy vọng cho những người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm hồn mình và nâng cả thế giới lên.
Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như thế.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về một đám tang khác: đám tang của mẹ Tesexa Cancutta. Khác hẳn với công nương Diana, mẹ Tesexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn Độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe hơi sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn Độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc tang cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về anh em”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm bạn hữu?
- Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào? Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
- So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Tesexa, bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
- Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
AI LÀ NGƯỜI HẠNH PHÚC – Lm. Fx. Lê Văn Nhạc
Con người khát vọng hạnh phúc và bằng mọi cách tìm đạt tới hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc? Hạnh phúc tùy thuộc những yếu tố nào? Mọi người không đồng ý kiến với nhau. Trong một cuộc thăm dò ở Pháp, 90% người được hỏi ý kiến cho rằng yếu tố cấu tạo nên hạnh phúc là: sức khỏe, 80% cho là tình yêu, 75% cho là tự do, 66% cho là công lý, 63% cho là việc làm và 52% cho là tiền của. Vì thế, con người tự hỏi: đâu là hạnh phúc thật và đâu là con đường chắc chắn nhất, ngắn nhất để đạt tới hạnh phúc?
Là kitô hữu, chúng ta tìm kiếm thứ hạnh phúc nào? Và phải làm gì để đạt tới hạnh phúc thật? Câu trả lời tìm thấy trong phụng vụ Chúa Nhật hôm nay là: “Phúc thay người đặt niềm tin vào Chúa” (Bđ.1), dù sống hay chết vẫn một niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh (Bđ.2) thì chắc chắn “Nước Thiên Chúa sẽ là của họ” (Bài Tin Mừng).
Theo quan niệm của Cựu Ước được diễn tả qua bài đọc 1 (Gr 17,5-8) thì người biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa là người hạnh phúc. Ngôn sứ Giêrêmia đã quả quyết: Hạnh phúc thật chỉ có thể phát xuất từ niềm tín thác vào Chúa mà thôi. Giêrêmia đã dùng những hình ảnh cây trái để quảng diễn ý tưởng ấy: Ai dựa vào mình thì tự khép lại trong sự mong manh của mình, và sẽ khô héo như bụi cây trong sa mạc ; còn ai trung thành hướng về Chúa, sẽ đâm rễ tận nguồn mạch sự sống và trở thành cây xanh tốt, đầy hoa trái.
Hoặc theo quan niệm của Thánh Phaolô ở bài đọc 2 (1Cr 15,12;16-20) thì ai sống gắn bó đời mình với Chúa Kitô chết và sống lại là người hạnh phúc. Vì dù sống, dù chết, người ấy vẫn thuộc về Chúa và nhờ đó sẽ luôn được hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Còn đối với Chúa Giêsu, qua Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Ngài công bố bốn mối phúc là: nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị ngược đãi. Đối lại với bốn mối phúc là bốn mối họa: giàu có, no nê, vui cười và được ca tụng. Đói và khóc là hậu quả và biểu hiện cụ thể nhất của cái nghèo. Bụng đói vì không có gì ăn. Tâm hồn đau khổ vì không có gì để an ủi, chỉ còn biết lấy tiếng khóc để làm vơi nỗi khổ của mình. Còn người giàu thì bụng no. Họ khổ thì họ lại có trăm ngàn thứ để đánh đổi, để lấp đầy. Hai hình ảnh tương phản: người nghèo đói và khóc lóc, người giàu no và vui cười.
Hình ảnh người phú hộ và ông Lagiarô nghèo đói đã minh họa điều nầy: người phú hộ mặc lụa là gấm vóc, ngày nào cũng yến tiệc linh đình. Còn Lagiarô nghèo đói, ngồi chờ bố thí ngoài cổng, không ai ngó ngàng, không ai bênh vực, những con chó đến liếm vết mụn nhọt trên người Lagiarô là tột đỉnh nỗi khổ của ông. Cuối cùng, lúc chết, chúng ta mới thấy hạnh phúc thật ở đâu và ai là người hạnh phúc, ai là người vô phúc?
Người đời thường đặt hạnh phúc vào trong những cái có: có tiền của, có vợ đẹp, có con khôn, có địa vị, có nhà cửa, có bạn bè sang trọng phú quí… Nhưng để có được những cái đó, nhiều khi chúng ta làm cho nhiều người khác mất đi cái họ đang có, hay là bớt cái có của người khác đi, và do đó, gây tranh chấp, hận thù, và kết quả là mình khổ và người khác cũng khổ. Ai cũng khao khát hạnh phúc cho mình và vì hạnh phúc của mình, nên nhiều khi cố ý hay vô tình gây đau khổ, làm mất hạnh phúc của kẻ khác. Điều đó cũng giống như khi chúng ta tìm cách kéo hết phần chăn đắp về mình, thì chỉ mình ta được ấm, nhưng người bên cạnh tất nhiên sẽ bị lạnh. Trong một bàn ăn mà ta chỉ nghĩ đến mình, thì thế nào cũng có người bị thiệt, bởi đó mà cha ông ta dạy: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Trong một cơ quan, xí nghiệp, nếu những người lãnh đạo chỉ lo cho lợi lộc cá nhân, thì tất nhiên những người khác phải chịu thiệt thòi. Trong một nước, nếu những người cầm quyền chỉ lo vun quén cho bản thân, cho gia đình và bạn bè mình, thì toàn thể nhân dân khó có thể được ấm no hạnh phúc.
Mới đây, trong lá thư cám ơn và tâm tình đầu xuân, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã nói đến hiện trạng đời sống xã hội của đất nước chúng ta: “nhờ công cuộc đổi mới, nền kinh tế của nước nhà đang trên đà phát triển mạnh: nhiều người ăn nên làm ra, thậm chí trở thành triệu phú, tỷ phú ; hàng tiêu dùng có chất lượng cao tràn ngập thị trường… lúa gạo chẳng những đủ ăn mà còn thừa để xuất cảng vào hàng thứ ba thế giới. Nhưng những thành tựu đáng phấn khởi đó không che mắt được chúng ta trước những mặt trái phủ phàng của nền kinh tế thị trường: đồng tiền trở thành thước đo của mọi giá trị, hưởng thụ vật chất trở thành lý tưởng của cuộc sống, và kết quả là khoảng cách giữa một thiểu số giàu có và đại bộ phận nghèo túng ngày càng lớn…”
Thưa anh chị em,
Tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu công bố hôm nay trong bản Hiến Chương Nước Trời phải được hiểu theo nghĩa một sự nghèo khó vì Nước Trời, một sự quên mình vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của mọi người. Chúa Giêsu không chủ trương nghèo khó để mà nghèo khó, nghĩa là Ngài không coi nghèo khó là một giá trị, một lý tưởng. Ngài không bao giờ muốn nói tình cảnh thiếu thốn vật chất là đáng được chúc phúc. Ngài không bao giờ tán đồng cuộc sống khốn khổ trong những căn nhà tồi tàn, ở các khu nhà ổ chuột nơi các thành phố ngày nay cũng như nơi các đô thị thời đại Ngài. Tinh thần nghèo khó mà Chúa Giêsu muốn nói là tinh thần không cậy dựa vào tiền của, quyền lực, mà chỉ biết đặt trọn niềm tin cậy vào Chúa. Phúc cho anh em là những người nhận thức rằng không thể tìm hạnh phúc bằng cách cậy dựa vào của cải vật chất, mà bằng cách đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Đó chính là tinh thần nghèo khó đích thực. Và khi chúng ta có được tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới cân lường được sự chóng qua của tiền của vật chất. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới thấy cảnh nghèo khổ của anh em. Có tinh thần nghèo khó ấy, chúng ta mới dễ cảm thông và chia sẻ cho tha nhân.
Chân lý của Lời Chúa và thực tế cũng dạy chúng ta rằng hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi mỗi người đừng sống vì mình và cho mình, mà phải sống vì tha nhân và cho tha nhân. Phải biết hy sinh những lợi ích riêng nhỏ bé để mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể: gia đình có hòa thuận an vui thì mỗi người trong gia đình mới được hạnh phúc; xã hội có an ninh trật tự và thịnh vượng thì mỗi gia đình mới thực sự được bảo đảm về công ăn việc làm và được ấm no. Cũng vậy, thế giới có hòa bình thì các dân tộc mới có thể phát triển và đạt tới sự thịnh vượng bền lâu.
Mỗi người hãy quên mình đi, quên lợi ích riêng tư, không tìm cách để có thêm, có nhiều, bằng cách bốc lột kẻ khác hay là bớt phần kẻ khác. Hãy sống hiền hòa với mọi người, sẵn sàng chịu đau khổ vì tha nhân, luôn luôn biết xót thương người, luôn luôn có lòng trong sạch và ngay thẳng, sống hòa thuận với mọi người và làm cho mọi người được hòa thuận với nhau, sẵn sàng chịu hy sinh vì chính đạo, vì Nước Trời. Mỗi người phải là niềm vui, là hạnh phúc cho kẻ khác, bởi vì hạnh phúc thực sự của chúng ta là chính con người, cũng như đau khổ của chúng ta cũng chính là con người. Hạnh phúc hệ tại ở một cuộc sống hòa hợp giữa ta và người khác, và sự hòa hợp đó đòi hỏi ta phải biết tôn trọng vị trí và quyền lợi của người khác, chấp nhận và yêu thương người khác như chính bản thân mình.
Bởi vậy, chúng ta thiết tha cầu xin cho mọi người kitô hữu chúng ta, biết noi gương Chúa Kitô mà sống hòa mình với mọi người, biết lấy hạnh phúc của mọi người làm hạnh phúc của riêng mình để tạo nên hạnh phúc đích thực cho chính bản thân và cho mọi người.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến
So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn ra trên một chỗ đất bằng và có rất nhiều điểm khác biệt khác (6:17. 20-26). Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Đoạn 6:20-26 nằm trong văn mạch của diễn từ dành cho các môn đệ (6:17-49), vì họ vừa được qui tụ thành nhóm (6:12-16). Đoạn nầy có thể phân chia làm hai phần đối xứng nhau: 1 – Bốn mối phúc (6:20-23); 2 – Bốn lời chúc dữ (6:24-26). Thính giả trực tiếp của bài giảng nầy là đám đông các môn đệ: “Ngước mắt lên nhìn các môn đệ, Người nói..” (6:20). Như thế, những gì Người sắp nói cho họ phải được hiểu trong tương quan làm môn đệ của Chúa Giêsu. Các mối phúc khác có thể tìm thấy rãi rác trong tin mừng Luca (1:45; 7:23; 10:23; 11:27.28; 12:37.43; 14:15; 23:29; Cv 20:35; ). “Phúc cho…” là từ diễn tả sự ca ngợi, qui chiếu về một điều may mắn chẳng hạn con mắt (Lc 10:23), cái dạ mẹ (23:29), tuy nhiên phần lớn qui chiếu về một người được sủng ái, chúc phúc, may mắn. Thiên Chúa là nguồn của mọi phúc lành ban cho họ (x. 1 Tt 6:15). Và “Khốn cho…” là tiếng ta thán diễn tả sự đau buồn hoặc than phiền hơn là một lời chúc dữ hoặc kết án.
Mối phúc thứ nhất là “Phúc cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về họ” (6:20); đối lại “Khốn cho người giàu vì họ đã được sự an ủi” (6:24). Luca không dùng chữ “nghèo trong tinh thần” như trong Matthêô (x. Mt 5:3). “Người nghèo” (ptōchos) theo nguyên ngữ chỉ một người sợ hãi vô cùng đến nỗi phải che dẩu mình. Họ thường lẩn tránh và không ở một nơi nào nhất định. Từ đó, chữ nầy chỉ đến người ăn xin, túng thiếu (x. Cv 4:34).
Thế nào là người nghèo? Luca không định nghĩa “người nghèo”, mà chỉ cho thấy cách hành động của người nghèo để được Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là người nghèo vì Người đã “trở nên không” (kenoō) vì Chúa Cha (x. Phip 2:7), đến nỗi Người chẳng còn nơi để tựa đầu (9:58). Các môn đệ là nghèo vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (5:11; 18:28). Bà góa được gọi là nghèo không phải vì bà chỉ có hai xu, trong thực tế có thể bà giàu hơn người chỉ có một xu hoặc chẳng có gì hết, mà vì bà đã bỏ tất cả hai xu ấy vào hòm dâng cúng cho Thiên Chúa (21:3); trong khi người được Chúa Giêsu mời gọi bán của cải tất cả mà cho người nghèo được gọi là giàu và “có nhiều của cải”, là vì người ấy từ chối từ bỏ và “trở nên không” để có thể đi theo Người (18:22). Vậy người nghèo được đặt trong tương quan với Chúa Giêsu, chứ không phải với những gì họ đang có hoặc với người khác khi so sánh về tài sản.
Mối phúc thứ nhất nầy được kết cấu bằng hai mệnh đề, mà mệnh đề phụ có chức năng cắt nghĩa mệnh đề trước: không phải vì nghèo mà người môn đệ có phúc, nhưng vì họ được Nước Thiên Chúa như là kết quả của việc từ bỏ mọi sự. Động từ “là” ở thì hiện tại trong mệnh đề phụ muốn chỉ đây là một quả quyết, chứ không phải là một lời hứa. Điều nầy trở nên định luật cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu là phải “từ bỏ những gì mình có” (14:33); trái lại, nếu không từ bỏ để trở nên nghèo như Người, không thể làm môn đệ của Người, như trường hợp người giàu có. Đàng khác, chỉ khi nghèo mới để mình lệ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của người khác, đến bất cứ lúc nào và từ bất cứ hướng nào. Đặc điểm nổi bật của họ là đón nhận dễ dàng hơn người giàu. Họ dễ chấp nhận vào dự tiệc hơn bội phần những người giàu có đã được mời (x. 14:13.21). Và cũng cho đi cách dễ dàng và quảng đại hơn những người giàu. Xem xét sự quảng đại của bà goá (x. 21:3) và sự từ chối của người giàu có (18:22). Vậy, mối phúc của người nghèo là được Nước Thiên Chúa làm của mình, vì họ đã từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa Giêsu; khác với những người giàu là tìm và hưởng những an ủi do sự giàu có mang lại (x. 6:24).
Câu 6:21 nói đến hai mối phúc “đói-no” và “khóc-cười” (6:21). Chúng được xem như là biểu hiện và hậu quả của cái nghèo. Luca liên kết cái nghèo với sự thiếu thốn thực phẩm: Lazarô vì nghèo nên không có gì để ăn (x. 16;21); trái lại, ông phú hộ thì tiệc tùng linh đình mỗi ngày (16:19). Luca xác định thời điểm hiện tại “bây giờ” (6:21[2x]) vừa để cho thấy là sự đau khổ của cái đói và khóc lóc chỉ là tạm thời chứ không trường cửu; đồng thời cho thấy sự tương phản của tình trạng hiện tại với điều sẽ đến khi Thiên Chúa can thiệp vào. Do đó, sự no đầy và vui cười của những người đang hưởng bây giờ cũng tạm thời; cái đói khát và khóc lóc sẽ đến ngay với họ (x. 6:24). Những câu chuyện được ghi lại trong tin mừng Luca cho thấy những người đang khóc lóc là những người đang sầu khổ: bà góa thành Naim (7:13), ông Giairô (8:51-51), người đàn bà tội lỗi (7:38), Phêrô (22:62). Và chính khi họ đang khóc lóc, Chúa Giêsu can thiệp và biến đổi sự khóc lóc ấy thành tiếng cười khi thấy người con sống lại, hoặc biết tội lỗi đã được tha. Đối lại mối phúc nầy (6:24), Luca dùng thêm chữ “than khóc” (x. Mt 5:4; 9:15) bên cạnh chữ “khóc” để nhấn mạnh tình trạng trầm trọng đảo ngược của những người bây giờ đang vui cười. Động từ “no đầy” ở thể thụ động cho thấy chính Thiên Chúa là người làm hành động nầy. Đồng thời cả hai hành động “được no đầy” và “cười” đều ở thì tương lai, hướng về một sự can thiệp từ phía Thiên Chúa sẽ đến. Vậy, hai mối phúc nầy không xây dựng trên sự đói khát thể lý hoặc thiêng liêng và trên những đau buồn đang xảy ra (x. Mt 5:6), mà trên sự can thiệp quyền năng của Chúa Giêsu, “Người đã đổ đầy cho người đói những điều tốt lành” (1:53).
Sự chúc phúc bằng việc sở hữu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu ngay bây giờ cho những ai trở nên nghèo như Chúa Giêsu: Maria (1:48), Simêôn (2:29), Phêrô (5:10), Lazarô (16:25) và ngay cả Con Người (22:69).
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
GIÁO HỘI BỊ BÁCH HẠI- Lm. Anphong Trần Đức Phương
Ai trong chúng ta cũng muốn sống sung sướng, hạnh phúc, và thông thường sự giầu có, tiền bạc đầy đủ bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. “Tiền bạc là chìa khóa mở cửa vào cuộc sống hạnh phúc.” “Có tiền mua tiên cũng được!” Số người mua xổ số càng ngày càng đông, vì muốn giàu có mau chóng và được sống hạnh phúc.
Tuy nhiên, trong thực tế, sự giầu có tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người tự tử ở các nước tiên tiến, giàu có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các nước khác (xin vào website Suicide để tham khảo). Theo cuộc điều tra mới đây về những người trúng xổ số và trở nên triệu phú trong giây lát, hầu như không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn. Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số 30 triệu; nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng sống của ông vì tấm vé số trúng. Trong thực tế có nhiều người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ; ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ, nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giầu có thêm mãi. Trái lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng cho ông ta một túi tiền. Thế là từ ngày đó, ông ta không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Và ông ta đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.
Trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật này, thường được gọi “Tám Mối Phúc Thật”, Chúa Giêsu có vẻ như đã đi ngược đời, nói đến hạnh phúc không phải cho người giầu có, quyền thế, ăn no mặc ấm… nhưng là cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ, bệnh tật, bị bách hại, phỉ báng, đánh đập tàn nhẫn (như những Giáo sĩ, Giáo dân đang bị bách hại tại Việt Nam, Mã Lai, Trung Quốc, Bắc Hàn, ở Trung Đông và Phi Châu… chẳng hạn). Quả thật là ngược đời hết sức! Nhưng trong Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã soi sáng cho chúng ta biết, qua tiên tri Giêrêmia: con đường hạnh phúc thật là “biết đặt mọi niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Chúa làm tất cả, lấy Chúa làm nơi tựa nương tuyệt đối. Những người đó được sống hạnh phúc thật. Họ giống như cây được trồng bên bờ suối, đâm rể sâu vào đất ẩm ướt; không sợ gì, khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi; không sợ gì, khi nắng hạn, vẫn sinh hoa kết trái!”
Chúa Giêsu Kitô, Thày Chí Thánh của chúng ta, đã không mở đường hạnh phúc cho chúng ta bằng sự giàu sang, quyền qúy; nhưng bằng cuộc sống nghèo khó của chính Ngài, và trong thời gian đi rao giảng Phúc Âm Tình thương, lo cho những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi, lại thường xuyên bị chống đối, ghét bỏ, thù hận. Cuối cùng lại chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, sỉ nhục và chết trên Thập Giá, táng xuống mồ, rồi mới sống lại và về Trời để mở đường hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta. Nếu chúng ta không tuyệt đối tin tưởng như vậy; nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời này mà thôi; nếu chúng ta chỉ đặt hạnh phúc vào sự giàu sang, quyền quý và tự do mọi sự ở đời này, thì chúng ta sẽ là những kẻ vô phúc nhất thiên hạ! (Như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay).
Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác,
Không theo đường lối những tội nhân,
Không ngồi chung với những kẻ khinh bỉ người khác;
Nhưng vui thỏa trong lề luật Chúa,
Và suy ngẫm luật Chúa đêm ngày.
Họ như cây trồng bên bờ suối nước,
Trổ sinh hoa trai đúng mùa,
Lá cây không bao giờ tàn úa,
Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
Kẻ gian ác không được như vậy,
Họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi!
Phúc thay người đặt niềm tin cậy nơi Chúa;
Vì Chúa canh giữ đường người công chính,
Con đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
(Bài Đáp Ca theo Thánh Vịnh 1)
Theo đường lối của Chúa, Giáo Hội cũng chỉ lo rao giảng Tin Mừng hạnh phúc thật cho mọi người, giúp đỡ người bệnh hoạn, người đang ở các trại phong cùi (như ở Việt Nam hiện nay), mở mang văn hóa cho các dân tộc, loan truyền ơn cứu độ, con đường đưa đến hạnh phúc thật đời đời. Nhưng như Chúa Giêsu Kitô, trong mọi nơi, mọi thời, Giáo Hội cũng luôn bị bách hại, phỉ báng, lăng nhục. Tuy nhiên, từ những Hoàng Đế Rôma tàn bạo như Neron đến các bạo chúa thời nay như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông v.v… tất cả đều đã trở về với cát bụi, nhưng Giáo Hội Chúa vẫn trường tồn và phát triển.
Theo mệnh lệnh của Chúa, chúng ta hãy: “Yêu thương mọi người, làm ơn cho những ai ghét bỏ chúng ta, chúc lành cho những người nguyền rủa chúng ta, và cầu nguyện cho những người vu khống cho chúng ta những điều gian ác.” (Lc. 6,27…). Đó là con đường yêu thương, con đường đưa đến hạnh phúc thật trong cuôc sống đời đời.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN-C
ĐÚNG ĐỊA CHỈ- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Kitô hữu chúng ta không xa lạ gì với kinh Tám Mối Phúc Thật. Giáo Hội lại khẳng định bát phúc chính là bản Hiến Chương Nước Trời. Thế nhưng để hiểu nội dung, ý nghĩa của tám mối phúc thì không hẳn dễ dàng. Quả thật đã có biết bao giấy mực xưa nay nói về các mối phúc ấy. Tám mối phúc như Tin Mừng thánh Matthêu tường thuật hay là chỉ có bốn mối phúc theo Tin Mừng thánh Luca? Vì sao nghèo khó, sầu khổ, khóc than, bị oán ghét, sỉ vả mà lại là có phúc? Một cuộc cách mạng về bậc thang giá trị hay là những thách thức với quan niệm của người đời xưa nay?
Không sợ sai lầm để khẳng định rằng sự khổ hay cái nghèo tự chúng không phải là mối phúc. Nhưng chính người nghèo, người đau khổ là những đối tượng được chúc phúc. Họ được chúc phúc vì họ đang còn biết mong chờ, biết hy vọng một điều gì đó tốt lành hơn đến từ trên cao. Bởi chưng họ đã như vô phương tự cứu mình và cũng chẳng còn có thể cậy dựa vào các nguồn lực ở dưới trần gian này. Và khi Đấng cứu độ đến thi ân giáng phúc, thì họ là những người biết mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Chúng ta có thể hiểu điều này khi Chúa Giêsu sau khi chúc phúc cho những người nghèo, người bất hạnh, khốn khổ, thì Người đã báo họa những người bây giờ đang giàu có, vui cười, sung sướng, đang được mọi người ca tụng. Cái khốn của họ là ở thái độ tự thỏa mãn trong tình trạng đủ đầy sự may lành trần gian hiện có. Đã thỏa mãn thì sẽ chẳng khát khao điều gì hơn nữa. Cái khốn của họ còn thể hiện nơi việc họ đặt niềm tin cậy vào những thiện hảo chóng qua đời này, vào quyền lực của thế gian này, khi cho rằng chúng chính là hạnh phúc thật, là nguồn bảo đảm hạnh phúc thật.
Ngôn sứ Giêrêmia đã thẳng thừng: “Đức Chúa phán như sau: Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân là nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ…” (Gr 17,5-6).
Đã là hạnh phúc thật thì phải mãi mãi thường tồn. Những thực tại tốt đẹp ở trần gian này như của cải, chức quyền, bổng lộc…dù quý giá đến mấy thì cũng chỉ là những kho tàng “có thể bị ten sét, bị mối mọt đục khoét, bị mất trộm, mất cướp”(x.Mt 6,19-21). Cái hữu hạn thì không thể đem lại hạnh phúc đích thật. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo, là Đấng vô thủy vô chung, không hề đổi thay, mới là nguồn của hạnh phúc thật.
Bỏ hình để bắt bóng là một trong những chước cám dỗ muôn đời với con người, nhất là với những người vốn có chút của tiền, danh vọng hay quyền lực trong tay. Có thể nói nhiều luật sĩ, biệt phái, thượng tế thời Chúa Giêsu đã rơi vào chước cám dỗ này. Họ tự hào về lòng đạo đức qua việc giữ luật tỉ mỉ cách bên ngoài của mình. Họ tự cao về sự hiểu biết, về vị thế của mình trước mặt đám đông dân chúng. Họ tự mãn về của cải vật chất và chức quyền đang có trong tay. Chính vì thế khi Chúa Cứu Thế đến thì họ chối từ. Đã không tiếp nhận, họ lại còn tìm cách loại bỏ Đấng là nguồn của hạnh phúc thật.
Hạnh phúc thật sẽ đến với những ai biết đặt niềm tin cậy vào Thiên Chúa. Giêrêmia còn khẳng định: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17,7-8).
Như thế khi chúc phúc cho người nghèo, người khốn khổ, bất hạnh…Chúa Giêsu xác nhận rằng họ đã biết đặt niềm tin cậy đúng địa chỉ, đó là vào chính Người, Đấng đang phán dạy họ. Tác giả Thánh Vịnh đã từng cảm nghiệm: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian…”(Tv 118,8). Vậy thử hỏi thế nào là biết đặt niềm tin cậy vào Thiên Chúa? Khi đặt niềm tin cậy vào một ai đó thì chúng ta hoàn toàn giao phó cuộc đời của mình, tương lai của mình, số phận đời đời của mình cho người ấy. Động thái giao phó đời mình được biểu hiện bằng việc đi theo bước chân người mình tin cậy và sống theo lời người ấy chỉ dạy.
Đấng mà chúng ta tự nguyện đặt niềm tin cậy, tức là gắn bó và sống theo lời Người chỉ dạy đó là Giêsu Kitô. Chúa Kitô không chỉ là người có quyền năng trong lời nói và hành động mà Người còn bảy tỏ uy quyền tối thượng của Người bằng việc chiến thắng sự chết. Mầu nhiệm Chúa Phục Sinh là nền tảng để chúng ta đặt niềm tin cậy vào Người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19).
Đã là người thì ai cũng mong muốn và luôn kiếm tìm hạnh phúc. Tuy nhiên vẫn có nhiều người lầm tưởng tình trạng hạnh phúc là khi có đủ đầy tiện nghi vật chất, chức quyền, danh vọng hay được thỏa mãn một số nhu cầu nào đó. Cái ảo tưởng này sẽ tan vỡ, khi họ đối diện với những biến cố không may trong cuộc đời mà ít ai tránh được và nhất là khi đối diện với cái chết không ai thoát được. Hạnh phúc đích thật của con người là tình trạng được hiệp thông với Đấng đã cho con người từ hư vô được hiện hữu. Có thể nói đây là cái cảm nghiệm của các thánh nhân khi cận kề với giờ sinh ly tử biệt mà dân gian quen gọi là “sống thánh – chết lành”.
Với cái nhìn của lý trí, người ta cũng đã thoáng nhận ra những mối họa nhãn tiền trên số phận những người đặt niềm tin cậy vào những sự chóng qua đời này khi đồng thuận với nhau rằng sắc đẹp không qua khỏi làn da, vinh hoa phú quý không theo chúng ta đi vào nấm mộ lạnh. Ứớc gì với cái nhìn của đức tin, chúng ta thêm xác tín đâu là hạnh phúc thật để rồi biết đặt niềm tin cậy đúng địa chỉ.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
HẠNH PHÚC DÀNH CHO NGƯỜI HI SINH VÌ CHÚA- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc…
“Bần cùng sinh đạo tặc.” Quả đúng như vậy, có một số người trở thành đạo tặc vì đời sống của họ quá bần cùng, như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều.” Như thế thì bần cùng, đói khát là tai hoạ cho con người và xã hội chứ đâu có mang lại hạnh phúc.
Thế mà Chúa Giê-su lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.” Tại sao?
Nếu đọc kỹ câu đầu của bài Tin mừng này (Lc 6,20), chúng ta thấy thánh sử Lu-ca viết như sau: Bấy giờ, “Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…”
Khi tuyên bố những lời này, Chúa Giê-su vừa ngước mắt nhìn các môn đệ vừa nói. Vậy thì đây là những lời Chúa Giê-su nói trực tiếp với các môn đệ. Các môn đệ là đối tượng của những lời chúc phúc này.
Tại sao?
Vì trước đây, trong số các môn đệ của Chúa Giê-su có người làm nghề chài lưới, có thuyền có ghe, có thu nhập hằng ngày ổn định, có người làm nghề thu thuế kiếm bộn bạc… Thế rồi, khi lên đường theo Chúa, các ngài đã bỏ hết thuyền bè, nhà cửa, công việc làm ăn… nên bây giờ các ngài trở thành những người nghèo khó… Nghèo khó vì từ bỏ mọi sự để đi loan báo Tin mừng như thế thì mới là người có phúc, chứ không phải bất cứ ai nghèo khó là có phúc.
Rồi Chúa Giê-su nói tiếp với các môn đệ:
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.”
Với nghề chài lưới trên biển hồ nhiều tôm cá hoặc nghề thu thuế như Lê-vi đã làm… các môn đệ chưa biết đói khát là gì. Vậy mà từ ngày theo Chúa Giê-su, lang bạt từ làng quê lên phố thị, từ bờ biển đến nơi hoang địa… các ngài phải chịu đói khát; thậm chí có ngày đi qua đồng lúa, các ông đã bứt những gié lúa vò xát trong tay rồi ăn để dằn cơn đói… Đói khát vì ra đi xây dựng Nước Trời như các môn đệ ắt phải được đền đáp và sẽ được thỏa chí toại lòng vì niềm vui tận hiến, vì hạnh phúc đời đời.
Và Chúa Giê-su tiếp lời với các môn đệ:
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc vì anh em sẽ được vui cười.”
Trước đây các môn đệ sống hạnh phúc với cha mẹ, vợ con trong mái ấm gia đình, nay theo Chúa là Đấng không có chỗ tựa đầu, lang bạt rày đây mai đó, có lần bị đuổi khéo ra khỏi khu dân cư (Mt 8,34), có lúc đi ngang qua vùng Sa-ma-ri-a bị dân làng tẩy chay không tiếp đón, rồi sau nầy các ngài bị bắt bớ, tù đày, bị giết hại… khiến các ngài phải khóc thầm… Khóc vì chịu khổ nạn vì Nước Trời như thế thì thật là diễm phúc và mai đây sẽ được vui cười.
Và điều phúc thứ tư:
“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Các môn đệ luôn kề vai sát cánh với Chúa Giê-su, đồng lao cộng khổ với Chúa và vì Ngài mà bị người đời “oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa”, cùng chịu khổ nạn với Chúa Giê-su, thì chắc chắn sẽ được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Chính vì thế mà Chúa Giê-su nói: “Anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta muốn được hưởng những mối phúc mà Ngài công bố thì phải chấp nhận “nghèo khó” vì Tin mừng, chịu “đói” vì chia sẻ cơm áo cho nhau, chịu buồn phiền “khóc lóc” vì đạo Chúa, chịu “oán ghét, khai trừ, sỉ vả” vì Nước Trời.
Nước Trời không phải là lô độc đắc dành cho người may mắn trong các cuộc xổ số. Phải trả giá cao mới đạt được Nước Trời như lời Chúa Giê-su phán: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được” (Mt 11,12).
Lạy Chúa Giê-su,
Xin dạy chúng con nhớ rằng: Của cải đời này chỉ là phù du, mau tan biến đi như sương, như khói, chỉ có hạnh phúc thiên đàng mới vĩnh viễn thiên thu.
Xin giúp chúng con biết phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc… để phục vụ anh chị em chung quanh, nhờ đó chúng con đạt được những mối phúc mà Chúa công bố trong Tin mừng hôm nay.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
NGẪM VỀ CHỮ “PHÚC”- Lm. Anphong Nguyễn Công Minh OFM
Nhiều chữ “phúc” vang lên trong bài Tin Mừng hôm nay, lại là liền sau Tết Kỷ Hợi, nên suy tư về chữ “phúc” quả là xứng hợp.
Khổng Tử một ngày kia đi dạo núi Thái Sơn, gặp ông Vĩnh Khải Kỳ cũng đang ngao du tại đó. Ông này mặc áo da cừu, lưng thắt dây đai, tay gảy đàn cầm, vừa đi vừa hát. Khổng Tử hỏi: Tiên sinh làm thế nào mà thường xuyên vui vẻ thế?
Vinh Khải Kỳ trả lời: Trời sinh muôn vật muôn loài, mà loài người là quí nhất. Ta được làm người đó là một điều quý, đáng vui. Trong loài người, đàn ông quí hơn đàn bà, mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều quí, đáng vui. Người ta sinh ra có người đui người què có người sống yểu chết non, còn bọc trong tã mà đã chết rồi, mà ta đây hoàn toàn khoẻ mạnh, nay đã 90 tuổi, thế là ba điều quý, đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự hết của đời người, ta nay xử cảnh thường như nhiều người, đợi lúc hết như mọi người, thì có gì là lo là buồn.
Đức Khổng Tử nói: Phải lắm, tiên sinh thế là biết cách hưởng sự vui sướng ở đời.
Vinh Khải Kỳ quả đang sống những cái phúc ở đời.
Bài Tin Mừng hôm nay của Luca tuy chỉ vang lên 4 chữ phúc, chứ không như của Matthêu đến 8 chữ phúc, nhưng như thế cũng là phúc lắm rồi, bởi có kẻ được phúc này, có kẻ được phúc kia, có kẻ hai ba bốn phúc, có kẻ nửa chữ phúc cũng tìm không ra.
Trong cuộc sống thường ngày ta cũng dễ thấy cái Phúc nằm ở nhiều lớp người, nhiều hoàn cảnh. Lm Cao Siêu ghi:
“Chẳng có gì dễ hiểu như hai từ hạnh phúc.
Nhưng định nghĩa hạnh phúc lại là điều không dễ.
Mỗi người có một quan niệm về hạnh phúc,
và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian.
khi thì hạnh phúc là cái này lúc thì hạnh phúc là cái kia.
Đói, hạnh phúc là cơm canh. Đau, hạnh phúc là chạy nhảy
Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc,
để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn
thế nào là hạnh phúc đích thật.
Hạnh phúc không nằm nơi của cải, kiến thức, quyền uy.
Hạnh phúc không do chiếm được những gì mình muốn,
nhưng do trao hiến điều quý nhất của mình.
Hạnh phúc là sự ổn thỏa giữa tôi với Chúa,
giữa tôi với anh em, giữa tôi với chính tôi…” (Lm Cao Siêu)
Có những lúc hạnh phúc thật đơn sơ dễ thấy nhưng mà cũng khó đạt:
Nhà kia có người con ngoan ngoãn hiếu đễ – ta khen: ông bà là người có phúc.
Gia đình nọ, vợ chồng chí thú làm ăn, nuôi dạy con cái nên người, ta khen: anh chị là người hạnh phúc.
Nhà nọ, đầm ấm sum vầy, ta bảo: họ có phúc.
Và cũng có cái phúc thật giản đơn: Ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo, tức là mất phúc !
Vậy là cái phúc ở đời nằm trong tay nhiều hạng người, nhiều hoàn cảnh chứ không giới hạn ở một vài dăm ba. Thì cái phúc của người theo Đức Kitô, (Kitô hữu) cũng nằm trong tay nhiều hạng, chứ không chỉ 4 như Luca, hay 8 như Matthêu, hay thêm cái phúc tin không có trong bộ tứ, bộ bát trên, như trong Gioan, không thấy mà tin cũng phúc. “Phúc cho ai không thấy mà tin,” “phúc cho bà là người đã tin,” “phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa”.… Do đó cái chính không phải là xem hạng người nào có phúc, nhưng xem coi: người có phúc thì họ được gì.
Cả 4 mối Phúc của Luca lẫn 8 mối Phúc của Matthêu cũng đều nhắc tới cái được. Gom tất cả các cái được đó lại và nhại theo câu chuyện giữa Khổng Tử và Vinh Khải Kỳ mà chúng ta nghe đầu bài, ta có thể thuật như sau:
“Một ngày kia, Đức Khổng Tử đi chu du thiên hạ, gặp một nhóm người ngực mang khổ giá nhưng nét mặt vẫn tươi vui. Bảng tên của họ ghi “Kitô hữu.” Đức Khổng Tử hỏi một người trong nhóm: Này anh, kẻ hậu sinh, nhóm của anh tìm được cái gì mà sao anh và họ vui tươi hớn hở như thế? Nét mặt các anh biểu lộ tâm hồn của những phúc nhân, những chân phước.
“Chàng Kitô hữu trả lời:
“Chúa Trời sinh muôn vật muôn loài mà loài người là quí nhất. Chúng tôi được làm người, đó là một điều phúc.
“Chẳng những chỉ là người bình thường mà chúng tôi còn được làm người con của Trời, con của Chúa, làm thiên tử. Về điều phúc này lớn lao quá, đến nỗi khổ mấy để đạt được cũng không quản, đạt được rồi, vui mấy cũng không vừa. Không bút nào tả cho xiết, không lời nào nói cho cùng. Chúng tôi là thiên tử, là con trời. Đó là 2 điều Phúc.
“Là con trời nhưng Trời không là vị Chúa tể oai phong cho bằng Trời là Cha, Chúa là mẹ. Chúa là Cha, cũng không phải là cha nghiêm khắc công thẳng mà là Cha nhân từ. Cha chúng tôi nhân từ đến độ có người cho là nhu nhược, nhưng Ngài vẫn cứ giữ nhân từ vô cùng như thế. Dù chúng tôi có tội lỗi bao nhiêu, dù chúng tôi có xúc phạm Ngài thế nào, chỉ cần một tiếng khóc ăn năn: Phúc cho kẻ than khóc, thì Ngài liền quảng đại thứ tha. Cha chúng tôi quyền phép vô cùng nên mới nhân từ vô hạn được như vậy. Đó là 3 điều phúc.
“Rồi khi cái chết là sự hết của đời người, chúng tôi sẽ được về cùng Cha, không phải chỉ mãi là tâm linh là khí phách sống trong nhà Cha, mà cả xác của chúng tôi cũng được phục sinh trong ngày sau hết để vui hưởng hạnh phúc trong nhà Cha như nhà mình: đó là 4 điều phúc.”
Nghe chàng Kitô hữu trả lời, Khổng Tử liền nói: “Được 4 chân phúc như các anh các chị, làm sao các anh các chị không vui, không mừng được. Lời của các anh chị nghe là lời phúc: Phúc âm. Tin mà các anh chị nhận là Tin Mừng: Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.”
Cứ đón, cứ nhận những Tin Mừng mà Đức Kitô loan báo,
Cứ nghĩ tới cứ nhớ về những cái Phúc mà chúng ta được đó:
– phúc làm người,
– phúc làm người con Chúa,
– phúc làm người con Chúa là Cha nhân từ,
– phúc được về nhà Cha cả hồn lẫn xác,
Chúng ta sẽ đủ sức mạnh đủ nghị lực để sống vui sống hạnh phúc chẳng những đời sau mà đời này nữa, cho dù có nhiều nghịch cảnh vây quanh ta, ta vẫn vang lên những lời chúc phúc mà chắc chắn Chúa đã hứa và Chúa sẽ thực hiện. Amen.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN-C
PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Đức Yêsu không nhằm rao giảng những điều người ta dễ chấp nhận, nhưng chính yếu rao giảng những điều giúp giải phóng con người và làm con người hạnh phúc, cho dù điều này có vẻ nghịch thường hay ngược lại với quan điểm của người đời.
I/.Khốn cho các ngươi là những người giầu
Người nghèo ở đây, là người không đặt niềm hy vọng nơi tiền bạc, nơi con người, nhưng chỉ đặt niềm hy vọng và trông cậy nơi một Thiên Chúa mà thôi.
Sách tiên tri Jeremia nói: “khốn cho kẻ đặt niềm hy vọng nơi người phàm mà không trông cậy nơi Thiên Chúa”. Những người này cho rằng: “Đồng tiền là tiên là Phật”, “Có tiền mua tiên cũng được”. Có tiền mua được tình cảm, mua được chức vị, mua được tất cả. Quan niệm như vậy có thực sự đúng không? Liệu tiền bạc có mua được tình yêu đích thực không? Liệu tiền bạc mua được hạnh phúc không?
“Giầu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có lúc tường xiêu ngói đổ”. Có bao nhiêu người lý luận rằng, họ để gia tài cho con cái thật nhiều, là làm con cái hạnh phúc; nhưng thực tế cho thấy có rất nhiều con cái của những người giầu có hư hỏng. Nếu đặt đồng tiền lên trên, sẽ làm mất hạnh phúc gia đình vì không còn dành thời gian cho nhau (vợ cho chồng, chồng cho vợ, cha mẹ cho con cái). Đồng tiền là tên đầy tớ trung thành, nhưng là ông chủ ác nghiệt.
Theo thánh Ynhã Loyola, ma qủy cám dỗ người ta ham mê tiền bạc đầu tiên, rồi sau đó cám dỗ con người về ham mê danh vọng, và sau đó sẽ đi đến mức độ nghĩ mình có thể làm được tất cả, cho mình là nhất, và không cần chờ đợi gì nơi Thiên Chúa cả. Đa số con người ai cũng thích tiền; rồi dẫn đến quan niệm thích tiền là chuyện bình thường, và ai không thích tiền mới là người bất bình thường. Vậy làm sao để nhận ra tiền bạc là một cám dỗ với con người? Ai đã có tiền, còn muốn có nhiều hơn, và cứ như vậy, con người bị trói buộc nô lệ tiền bạc. Khi đã bước vào vòng ham mê tiền bạc, thoát ra qủa thật là điều khó. Đồng tiền có vòng kiềm toả của nó, đã sa vào thì khó có thể bước ra được.
II/.Phúc cho các ngươi là những người nghèo
Làm sao để xác tín nghèo là mối phúc, tin tưởng vào Thiên Chúa và sống theo lề luật của Ngài làm con người hạnh phúc? Chỉ nhờ vào Thiên Chúa, tin vào Đấng tuyệt đối mới có thể giúp con người thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiền bạc và danh vọng.
“Phúc cho người đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái bốn mùa”. Những người đặt niềm tin nơi con người- sinh vật giới hạn cả về khả năng lẫn mức độ trung thành và đạo đức, làm sao có thể hạnh phúc được? Những người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, lấy luật Chúa là nguyên tắc sống, sống theo gương mẫu là Đức Yêsu, yêu thương và tha thứ, tin tưởng và bắt đầu lại mọi nơi mọi lúc, sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Đức Yêsu đã sống nghèo, và một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa Cha, ngay cả giây phút cuối đời trên thập giá “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”, dù rằng Ngài cũng bị cám dỗ cùng cực “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con”.
Không còn gì để tin tưởng, chỉ còn Thiên Chúa mà thôi, và đặt tất cả niềm tin nơi Ngài, là mối phúc. Nghèo, chứ không phải bần cùng, là mối phúc không dễ gì cảm nhận. Thánh Phanxicô khó khăn là người đã cảm nghiệm đặc biệt được điều này. Xin cho con người hiểu được giáo huấn của Đức Yêsu: phúc cho những ai đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa, phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Tin tưởng vào Thiên Chúa, được gì và mất gì?
- Những thiệt thòi của người nghèo?
- Thiên Chúa và Giáo Hội có muốn con người nghèo đói không? Tại sao?
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- C
HẠNH PHÚC THẬT- Lm. Giuse Vũ Khắc NGhiêm
Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người nghèo như “bà góa nghèo đến bỏ tiền vào đền thờ hai đồng kẽm chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma” (Mc. 12, 42), đầy những kẻ đói khát như anh ăn mày Ladarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà giàu (Lc. 16, 20), đầy những người khóc lóc như con thành Giêrusalem đến khóc thương Chúa trên đường vác Thánh giá, đã được Chúa đứng lại yên ủi như Cha yên ủi con trong cơn khóc lóc, hay như Phêrô khóc than vì đã phạm tội chối Thầy ba lần, đầy những người bị oán ghét, khai trừ, nhục mạ và xóa bỏ tên tuổi coi như đồ xấu xa như Đức Giêsu, Gioan tiền hô, các tiên tri và các thánh tử đạo.
Nếu chúng ta có quyền tự lực đập tan cửa hỏa ngục, chúng ta sẽ thấy đầy dẫy những hạng phú hộ ăn chơi, những hạng tham ô, móc ngoặc, những quản lý giết người cướp của, như hạng nhà giàu không thương giúp Ladarô, hạng kinh sư móc hết tài sản các bà góa, hạng tá điền cướp vườn nho (Mc. 12. 1-9, 38-40), đầy những hạng quyền quý sang trọng được tung hô, yến tiệc khao vọng, múa nhẩy, nghiện ngập như Hêrôđê no say còn bày trò chém đầu Gioan tiên hô, đầy hạng vui cười, chế nhạo, oán thù như quân dữ, trưởng tế và luật sĩ nhục mạ Đức Giêsu lúc bị treo trên Thánh giá.
Tại sao những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc bị oán ghét lại được Chúa chúc phúc chan chứa vui mừng trong vinh quang nước trời?
Thưa, vì họ bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt hết các thứ thuộc về thế gian. Hàng đoàn đám đông dân chúng đó chỉ còn biết trông cậy vào Đức Giêsu. Họ bỏ cả quê hương danh tiếng như Giudêa, Giêrusalem, Tyrô, Siđon để đến theo Chúa. Người đã cứu chữa họ cả xác lẫn hồn. Người vừa chữa cho họ khỏi tật nguyền quỷ ám, vừa giảng cho họ biết đường sống hạnh phúc muôn thuở.
Họ là những người nghèo khó về tiền của như Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, nhưng lại giầu lòng thương người như Đức Giêsu đã cho bao nhiêu người nương tựa. Họ nghèo khó, vì không tham lam, trộm cắp, nhưng lại giầu tinh thần cao quý thanh tao, siêu thoát. Họ nghèo của trần tục, nhưng họ giầu của nước trời. Họ là những người bụng đói của ăn như Ngài, đến nỗi các môn đệ bứt lúa ăn và bị chỉ trích, nhưng họ khao khát công chính và theo Ngài đi rao giảng Tin Mừng nước trời cho muôn dân. Họ đói bánh nuôi cái bụng, nhưng họ thoả dạ an lòng vì siêng năng rước Bánh Hằng sống.
Họ là những người sầu khổ khóc lóc thương xót bao nhiêu cảnh lầm than như Chúa đã khóc thương Ladarô, khóc thương thành Giêrusalem và chịu chết cho con cháu họ. Ít ra, họ là những người như Phêrô biết ăn năn thống hối và trở lại với Thầy để lãnh nhận trách nhiệm cứu giúp muôn dân sa ngã như mình.
Họ là những người hy sinh chịu đau khổ, oan uổng, bất công, biết vác thập giá theo Chúa để cứu nhân độ thế. Họ đã được phần thưởng lớn lao trên nước trời.
Tại sao những kẻ giầu, no nê, vui sướng, vinh quang lại bị chúc dữ?
Thưa, họ là những kẻ ham danh, ham lợi, ham thú vui vật chất phàm tục. Họ cậy vào tiền của vì họ tưởng: “Có tiền mua tiên cũng được”, chẳng cần đến ai. Họ xa lìa Thiên Chúa đi theo các thần tài, thần hoàng, thần nữ, thần thổ địa và các thần tượng. Đó là các tử thần, họ sẽ chết theo chúng.
Lịch sử đã cho thấy, khi con người nghèo đói, túng cực, lam lũ khổ sở, họ sốt sắng chạy đến kêu cầu, trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng khi được ấm no, sung túc thì ăn chơi, lười biếng, cậy mình kiêu ngạo, không cần đến Thiên Chúa nữa. Dân nước Balan trước đây hơn 90% siêng năng đi lễ, cầu nguyện, đoàn kết như một, dưới quyền hướng dẫn của Giáo Hội. Nay được dễ dãi, làm ăn phát đạt, họ lại chia rẽ, khinh thường hàng giáo phẩm và xa lìa Thiên Chúa. Các nước Âu Mỹ cũng thế. Giáo dân Việt Nam cũng không khá gì: trong những năm 1975-1985, đời sống đói khổ, thì ngày thường cũng như Chúa nhật nhà thờ đầy người. Nay, ngày thường chỉ leo teo một số cụ già, con nít, còn thanh niên người lớn có tiền bạc, ăn chơi, rượu chè, hút sách bất tận. Chúa nhật đi lễ hơn một giờ thì thấy lâu, sốt ruột, ngồi ngoài sân, đứng lấp ló xó nọ góc kia, nói chuyện, hút thuốc, mà không biết rằng ai cho cái miệng để ăn nói, ai cho cái mũi để thở, ai cho hơi thở khí mát để sống. Thật vô phúc, vô ơn Thiên Chúa đến chừng nào! Những hạng đó đến bao giờ mới được chúc phúc, Đức Giêsu còn phải chúc dữ đến bao giờ!
Người ta nói: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Trồng người để có người tốt, có dòng giống con cháu tốt thì mới có việc tốt, nhờ đó xây dựng gia đình, xã hội tốt từ đời này tới đời kia, lâu dài hàng trăm năm. Trồng cây để lấy của hưởng thụ, chỉ được mươi mười năm là hết. Biết rõ như thế, những bậc thánh hiền vĩ nhân luôn luôn quan tâm đặc biệt tới trồng người, dù có phải sống hy sinh kham khổ như Khổng Tử, Đức Phật.
Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân … Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư … lo đạt đạo” (Ln. 7, 15 và 15, 30-31). Đức Phật không thể chịu nỗi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc. 9, 58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài, không phải giầu sang, quyền quý, mà là siêu thoát để truyền dậy chân lý không mệt.
Lạy Chúa, xin cho con “đừng tựa vào tường vì tường sẽ đổ, đừng tựa vào cây vì cây sẽ gẫy, đừng tựa vào người vì người sẽ chết” mà chỉ lo sống tựa vào lời chúc phúc của Chúa mà thôi.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatvithuongnienc #suyniemloichuagpbr