CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ĐỨC GIÊSU, LỜI BAN ÂN SỦNG CHO MỌI NGƯỜI – Chú giải của Fiches Dominicales 15
SỨ MẠNG GIAN KHỔ CỦA CÁC NGÔN SỨ (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 22
NGÔN SỨ BỊ TỪ CHỐI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 36
RAO GIẢNG TẠI NAGIARÉT THẤT BẠI– Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 51
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 67
THÀNH KIẾN – Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 70
CHÚA LÀ CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI- Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 75
ĐỨC ÁI- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 79
SỰ THẬT MẤT LÒNG- Lm. Anphong Trần Đức Phương.. 85
CAN ĐẢM CHẤP NHẬN LỖI LẦM- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 90
TRỞ VỀ QUÊN HƯƠNG- Lm. Gioan Nguyễn Tươi 94
CẦN CÁI NHÌN MỚI ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ THẬT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 99
THÂN PHẬN NGÔN SỨ- Lm. Giuse Vũ Khắc NGhiêm.. 103
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Ðừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).
Xướng: Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu.
Xướng: Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác.
Xướng: Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa.
Xướng: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài.
Bài Ðọc II: 1 Cr 12, 31 – 13, 13 (bài dài)
“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 13, 4-13
“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có lời ban sự sống. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 4, 21-30
“Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”
Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: ‘Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!’ Ðiều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông’”. Người nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria”.
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
BỎ THÁI ĐỘ KHINH THƯỜNG (*)- Chú giải của Noel Quession
Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Đấy là kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội trường làng quê Nagiarét: Qua bài đọc của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu vừa đưa ra một chương trình hành động: Rao giảng Tin Mừng cho Người nghèo hèn, giải phóng những tù nhân, đem lại sự giải thoát cho những người bị áp bức, loan báo năm hồng ân của Chúa. Lời chú giải duy nhất của Đức Giêsu nói rằng! Hôm nay, mọi sự ấy đã ứng nghiệm. Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, Người khẳng định rằng bản thân Người đã đáp lại trọn vẹn mọi sự chờ đợi của Israel. Đức Giêsu kéo Lời Chúa từ “quá khứ” xa xôi nơi người ta muốn luôn luôn giam hãm Lời Chúa. Người yêu cầu nhân loại chớ đặt Thiên Chúa “trong quá khứ” hoặc “trong tương lai”: phải là sự lan tỏa của Thiên Chúa, dự án của Thiên Chúa, trong đời sống hàng ngày của chúng ta… Hôm nay!
Và hôm nay, chẳng phải chúng ta cũng đã cố gắng kéo lui Tin Mừng trở về phía sau, vào hai mươi thế kỷ trước đây đó sao? Vậy còn những người nghèo hèn nào, những tù nhân và người bị áp bức nào hôm nay ở chung quanh chúng ta? Chúng ta sẽ mang đến cho họ Tin Mừng nào?
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người
Tôi chiêm ngưỡng “miệng” Đức Giêsu mà Luca là người duy nhất thường nói với chúng ta (Lc 4,22; 11,54; 22,71). Những “lời ân sủng” từ miệng Đức Giêsu mà ra. Như thế, sự rao giảng của Đức Giêsu đã bắt đầu với việc khẳng định rằng thời kỳ mà Thiên Chúa ban ơn “không mất tiền” và ban sự tha thứ đã đến và đó là hôm nay: ý nghĩa sít sao của từ “giải phóng” trả lại tự do, hay “giải thoát” (“aphésis” trong tiếng Hy Lạp) là thế. Đức Giêsu đến để mang lại một “sứ điệp của ân sủng”, một sự ban ơn, một quà tặng vô giá mà không ai xứng đáng được. Chúng ta phải ghi nhận rằng toàn bộ thần học của thánh Phaolô về “ân sủng” trong thư gởi tín hữu Rôma đã được viết ra khi Luca soạn thảo Tin Mừng của Người. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).
Luca đã là một môn đệ và một người bạn đồng hành của Phaolô. Không giống như Máccô (6,1-6), trước tiên Luca ghi nhận rằng việc rao giảng của Đức Giêsu được đón nhận: “Mọi người đều tán thành và thán phục?”. Những người dân ở Nagiarét không xấu xa hơn ở những nơi khác: Vậy thì, tại sao họ sắp sửa trở mặt?
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?
Luca biết rất rõ đó là một biểu lộ sự ngu dốt của họ về nguồn gốc thật sự của Đức Giêsu như ngài vừa viết ra trên giấy trắng mực đen: “Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse” (Lc 3,23). Vậy thì, người ta hài lòng với “sứ điệp của Đức Giêsu, nhưng Người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Người: Đó là cớ vấp phạm rất thông thường của nhân loại! Dẫu sao, đó chỉ là “con ông Giuse”. Giáo Hội cũng luôn gây ra cùng một cớ vấp phạm. Người ta sẵn sàng tiếp đón sứ điệp của Giáo Hội, nhưng người ta không chấp nhận sự yếu đuối của con người trong Giáo Hội.
Giáo Hội cơ cấu giống như phần lớn các hiệp hội, với tài chính của nó, với sự nặng nề trong việc điều hành, nhưng sơ cứng của sức nặng quá khứ trong huyết quản, những tội lỗi của cách thành viên, chứng nhận định thiếu sót của một số viên chức, sự sợ hãi canh tân, những mâu thuẫn giữa “nói” và “làm”. Người ta không bao giờ nhận xét hết những khía cạnh “quá” con người của Giáo Hội. Như thế, những người dân ở Nagiarét bị kẹt cứng trong định kiến “con ông Giuse”.
Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Đức Giêsu không tìm cách làm giảm nhẹ cuộc xung đột mà Người đoán trước: Chính Người đã tấn công. “Vậy ông hãy làm cho chúng tôi những phép lạ như ông đã làm ở những miền lân cận!”. Người ta không ngừng đặt “cơn cám dỗ” lớn ấy dưới chân Đức Giêsu. Đó là cơn cám dỗ của satan (Lc 4,l-14). Người ta đòi hỏi Đức Giêsu những “dấu chỉ từ trời xuống” (Lc 11,16).
Một trong những cách chối bỏ Thiên Chúa là yêu cầu Chúa làm các phép lạ. Chúng ta tiếp tục có thái độ của người dân ở Nagiarét. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta muốn ép Người làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ. Khi Người chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Người muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi Người chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Người mong muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi một bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi của chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin Mừng (Lc 5,17-26).
“Vậy ông cũng hãy làm tại đây một phép lạ cho chúng tôi”. Chúng ta cũng thế, có lúc chúng ta tưởng rằng mình phục vụ Thiên Chúa theo cách đó. Vả lại, muốn xếp đặt Thiên Chúa “để phục vụ chúng ta” chính là chối bỏ Người. Tối hậu thư bi đát. Tối hậu thư buồn cười. Con người tìm đến trước mặt Chúa và yêu cầu Người “làm” điều mà mình mong mỏi, điều phục vụ cho mình? Thách thức Thiên Chúa? Giảm lược Thiên Chúa để Người chỉ còn là một “động cơ phụ gỡ rối cho chúng ta khi cái xe: không còn chạy được nữa. Oi! Lạy Chúa, con nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa ở Nagiarét! Xin Chúa giúp con trở lại với lòng con để bắt đầu phục vụ Chúa, thay vì đòi Chúa phục vụ con. Thay vì lúc nào cũng nói ‘nguyện ý con được thể hiện bởi Chúa, con phải nói trong chân lý rằng nguyện ý Cha được thể hiện bởi con’
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình
Không, người ta chẳng chịu nghe cách ngôn sứ.
Làm ngôn sứ chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đằng khác! Nghĩa là làm “người phát ngôn” của Thiên Chúa. Giêrêmia trong bài đọc một của chủ nhật này nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe. Vì thế nhiều ngôn sứ đã phải chết: “Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi!” (Mt 23,37). Đấy là một chủ đề của Luca (6,23; 11,47-50; 13,33-34; Cv 7,52).
Còn chúng ta, trong thế giới mà đa số là vô tín và duy vật, nhưng chúng ta có phải là những ngôn sứ không? không phải trong những lúc đặc biệt mà trong đời thường mỗi ngày; nắm chắc “chính nghĩa của Thiên Chúa”, nắm chắc lời “vì Chúa” (từ ngôn sứ trong tiếng Hy Lạp do chữ “pro-phèmi” có nghĩa là “tôi nói vì”).
Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.
Luca, môn đệ của thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, là người duy nhất đưa ra sự so sánh này lấy ra từ Cựu ước để nhấn mạnh đến những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho những người không phải là dân Do Thái. Biến cố ở Nagiarét mang dáng dấp của một chủ đề thần học: ơn cứu độ không dành riêng cho một số người đặc quyền. Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại. Không có Đất Thánh, không có Dân được chọn. Chúng ta sẽ lạm dụng ngôn ngữ mạc khải nếu chúng ta sử dụng những cách diễn tả của Kinh Thánh một cách cố chấp như thể những miền đất khác bên ngoài Israel là phàm tục, như thể các dấn tộc khác bị loại trừ khỏi Giao ước Thiên Chúa không có biên giới! Thiên Chúa còn bao la, cao cả hơn những chân trời nhỏ bé của bản thân chúng ta! Người ta không thể giam hãm con ông Giuse trong cái “hố” ở Nagiarét của Người. Thiên Chúa cao cả hơn Giáo Hội hữu hình. Những người ngoài Kitô giáo không nằm bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa.
Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ co ông Naaman, người xứ Xyri thôi
Trong sự so sánh giữa Israel và các dân ngoại, mọi ưu điểm thuộc về dân ngoại. Khi nào có thể, Đức Giêsu đều thán phục đức tin của các dân ngoại, những người không phải là Do Thái, những người Samari dị giáo (Lc 9,23.47; 10,33; 17,16). Thật lạ lùng khi tôn giáo có thể làm sơ cứng lòng người. Từ hai ngàn năm rồi Israel đã chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng đức tin của họ bị sơ cứng. Đó là lời cảnh báo cho tất cả những ai tưởng rằng mình thân thiết với những việc của Thiên Chúa, tưởng rằng mình được hưởng, một nền giáo dục Kitô giáo tốt đẹp, và việc thường xuyên tham dự các bí tích bảo đảm. “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Lc 7,34).
Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực
Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Người bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57). Chúng ta hẳn sẽ lầm khi vội vã tưởng rằng mình ở về phía những người lương thiện và được miễn trừ thái độ của những người đồng hương với Đức Giêsu. Rất nhiều lần, chúng ta cũng “lôi” Đức Giêsu ra khỏi những quyết định của chúng ta, nhà chúng ta, nghề nghiệp chúng ta. Ong không can dự gì ở nhà tôi! Hỡí ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo.
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi
Những từ khước của tôi không thể ngăn Con Thiên Chúa theo đuổi kế hoạch của Người với những người khác. Điều tệ hại là tôi không biết ngạc nhiên nhiều hơn! Giữa những trào lưu của lịch sử, những từ khước của con người, Đức Giêsu tiếp tục “con đường của Người”. Lạy Chúa, cám ơn Chúa!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
ĐỨC GIÊSU, LỜI BAN ÂN SỦNG CHO MỌI NGƯỜI – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1/. Một sứ mệnh không biên giới:
Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc trình thuật của thánh Luca về việc Đức Giêsu đến thăm hội đường Nagiarét. trình thuật đó đã được thánh Luca đặt vào lúc Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ và được trình bày như một cảnh khái quát chương trình, một biến cố điển hình có dụng ý khai mở và tóm tắt những gì sắp xảy ra.
Sau khi đứng lên đọc đoạn sách Isaia 61: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi…”, theo tập tục, Đức Giêsu ngồi xuống giảng một bài và tuyên bố không úp mở rằng: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”.
Đầu tiên những người có mặt trong hội đường hôm ấy đều tán thành và thán phục những lời ban ân sủng (= những lời hay ý đẹp) thốt ra từ miệng Người”. Họ bảo nhau: “ông này không phải là con ông Giuse đó sao? “. (Đức Giêsu mà thánh sử đã ghi trong gia phả của Người, được coi là con của Giuse: 3,23).
Đức Giêsu nắm lấy ngay vai trò chủ động của mình bằng hai giai đoạn.
– Trước tiên, bằng cách tố giác hy vọng úp mở của những người đồng hương khi họ muốn Chúa làm cho họ, tại quê hương Người, những việc lạ lùng mà Người đã làm ở những nơi khác và muốn Người thi hành lời ban ân sủng để mưu ích cho họ. Dựa vào một câu tục ngữ, Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na- um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Lẽ nào ta lại không có thể coi đây như điều báo trước về lời nhục mạ mà người ta sẽ nhắm vào Đức Giêsu khi Người hấp hối trên thập giá: “Hãy tự cứu mình đi, nếu ông là Đấng Kitô “(Lc. 23,35. 7.39)
Rồi, bằng cách loan báo sứ mệnh của mình có tính phổ quát, Đức Giêsu đưa các thính giả của mình trở về với hai khuôn mặt lớn của Cựu ước là ngôn sứ Êlia và Eâlisa; đây là hai vị ngôn sứ có những hoạt động vượt ranh giới về mặt lãnh thổ cũng như tôn giáo. Vị thứ nhất đã hóa bánh và dầu ăn ra nhiều giúp nuôi sống một góa phụ ở Sarepta là miền đất thuộc dân ngoại (Cv. l7.7-27). Vị thứ hai là ngôn sứ Êlisa, môn đệ của Êlia đã chữa khỏi bệnh cùi cho một viên tướng người Syria đích thân tới gặp vị tiên tri ngày trên đất Israel (2 CV. 5, 1-27). Góa phụ Sarépta và Naaman người Syria được coi như những người cầm đầu đàn lũ đông đảo những dân ngoại mà công cuộc giải phóng họ đã được loan báo trong sách Isaia 61, thì “hôm nay” được ứng nghiệm nơi Người là Đức Giêsu.
“Gương Êlia và Êlisa ban ơn huệ của Thiên Chúa cho dân ngoại, như J. Dupgnt nhận xét, cho người ta thấy trước rằng một khi Chúa Giêsu đã bị dân Israel cũng như các đồng hương của mình chối bỏ thì sứ điệp cứu độ sẽ chuyên sang cho các dân ngoại. Vì thế biến cố ở Nagiarét là điềm báo trước những gì người ta thấy xảy ra đối với Phaolô ở Antiôkhia miền Pixiđia và ở Rôma khi ngài quay về phía các dân ngoại. Cách xử sự như vậy của Phaolô lúc này đã được hai vị ngôn sứ Eâlia và Êlisa thực hiện trong thời buổi của ngài như để tiên báo và biện minh cho hành động của Phaolô vậy”.
2/. Một sự chối bỏ báo trước sự chối bỏ khác:
Lời loan báo Israel không còn được hưởng đặc ân và Thiên Chúa tiếp đón các dân ngoại đã khiến cho cử tọa của hội đường đầy phẫn nộ. Y hệt như thái độ của những người Do thái ở Antiôkhia Pixiđia lúc đầu còn thiện cảm, tử tế rồi không bao lâu sau chuyển thành giận dữ khi họ thấy dân ngoại “nghe Lời Thiên Chúa” (Cv 13,44-45).
Thì này đây, những người đồng hương của Đức Giêsu đang đứng dậy lôi Người “ra khỏi thành” “để xô Người xuống vực”. Giống như những thù địch của Chúa rồi đây sẽ lôi Người “ra khỏi thành” Giêrusalem để đóng đinh Người. Chẳng khác gì những người Do thái sẽ lôi Stêphanô “ra khỏi thành” để ném đá ông vậy (Cv. 7,54).
Nhưng giờ của Người chưa tới, nên “Người băng qua họ mà đi”; Đức Giêsu còn phải tiếp tục con đường sẽ dẫn Người tới thành đô Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc khổ nạn của Người, và là nơi Người sẽ sống lại và tỏ mình ra cho các môn đệ vào sáng ngày Lễ Vượt Qua.
BÀI ĐỌC THÊM
1/. “Một bài tường thuật để loan báo tương lai” (H. Vulliez trong “Dieu si proche. Năm C”, DDB, trg 90)
“Luca đã viế câu chuyện này để báo trước tương lai hơn là để tường thuật lại những gì xảy ra ở Nagiarét. Biến cố xảy ra trong hội đường hôm ấy là một giai đoạn mở đầu bi thảm báo trước những gì sẽ xảy ra cho sứ mệnh của Đức Giêsu khi ở giữa loài người. Một sứ mệnh sẽ vươn tới mọi dân tộc. Một sứ mệnh sẽ dẫn Người tới cái chết: Người sẽ bị người nhà của mình lên án tử, nhưng phàm những ai thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi mầu da nước tóc, đón nhận Người thì Người sẽ cho họ được làm con Thiên Chúa”.
2/. “Con người luôn có khuynh hướng muốn giam hãm Thiên Chúa”.
Những con người ấy nhận mình là những kẻ tin Chúa chân thành, có lòng đạo đức và thực hành đạo, thế mà sau khi đã ca ngợi Đức Giêsu ở trong hội đường, chính họ lại “đầy phẫn nộ, đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”. Vậy có ai dám nhận mình giống những người ấy không?
Dù là ai chăng nữa, chúng ta thảy đều có khuynh hướng muốn giam hãm Chúa và Đấng Kitô của Người trong một phạm vi nhất định của Giáo Hội ta, trong lời lẽ của những giáo điều, những truyền thống, những thực hành và ngay cả trong những cách sùng mộ của chúng ta nữa. Chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng nắm độc quyền về các ân sủng, phép lạ, ánh sáng của Chúa và ngay cả đức ái mà Người là nguồn mạch nữa. Vậy mà Phúc âm hôm nay khẳng định mạnh mẽ với ta rằng những người thân của Đức Giêsu thường sẵn sàng tống cổ Người ra khỏi nhà thờ, nghề nghiệp, quyết định và gia đinh của họ, mỗi khi sứ điệp của Chúa không làm vừa lòng họ, mỗi khi cuộc viếng thăm của Người gây phiền hà cho họ. Còn chính Chúa Giêsu thì lại nhắc nhở ta rằng Thiên Chúa đã thực hiện được những sự lạ lùng nơi các dân ngoại, đã cho những người cùi, những người thù địch của Israel, dân Chúa, được lành sạch. Đối với Thiên Chúa tình yêu, chỉ có tình yêu là tiêu chuẩn cuối cùng làm nên giá trị và sự thật cho tư tưởng và hành động của ta.
3/. “Một sự hiểu lầm đáng sợ” (G. Boucher, trong “Le ciel sur terre”)
Tại sao người con của quê hương lại không thực hiện được ở quê quán mình những việc lạ lùng mà người ấy đã làm ở những nơi khác? Và rồi có thể đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng trở mặt từ khen ngợi đến phẫn nộ đấy. Bởi lẽ, về phần Đức Giêsu thì Người nói rõ rằng điều cốt yếu mà Người muốn trình bày cho họ không phải chỉ có vấn đề các việc lạ lùng, mà Người muốn mạc khải cho họ tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa. Cái đó mới là điều hạnh phúc và may mắn thực cho chúng ta.
Lẽ ra Đức Giêsu phải cung cấp cho những người đồng hương của mình tiền bạc hoặc chữa cho họ khỏi những bệnh này tật nọ mới đúng. Xem ra người ta ao ước một điều, thì Chúa lại đưa ra điều ngược lại. Bởi lẽ ai nấy đều thích được lãnh nhận, trong khi Đức Giêsu lại đòi hỏi phải cho đi, cho đi bản thân mình, cho đi mạng sống mình. Và kết cục sẽ là thành công và hạnh phúc.
Đức Giêu có hy vọng những người đồng hương của mình sẽ hiểu biết và thông cảm hơn với Người không? Bởi vì họ là những người nhà của Người mà. Họ biết Người hơn, từng sát cạnh liền kề với Người, quý chuộng Người và yêu mến Người mà!
Vậy mà chỉ mới ngay trong buổi nói chuyện đầu tiên, họ đều nổi xung lên với Người. Cả đám đều đứng dậy xô đẩy Người ra ngoài, loại bỏ và trục xuất Người khỏi cộng đồng của họ. Là vì Đức Giêsu không đáp ứng điều họ mong đợi. Họ nghĩ là Người lừa gạt quần chúng!
Chừng nào sứ điệp của Người còn là lại kêu gọi hoán cải cuộc đời và chừng nào người ta chỉ thích sống dễ dãi, thì việc chối bỏ Đấng Thiên Chúa sai đến đã khởi sự rồi.
Họ muốn cho Người phải chết, nên họ tìm cách loại bỏ Người con của quê hương này ra khỏi nhà họ bằng cách xô Người xuống vực thẳm.
Nhưng Đức Giêsu “băng qua giữa họ mà đi”. Người là kẻ tự do, hết sức tự do, Người cứ thảnh thời đi trên con đường của mình lòng đầy tự tin và tin vào sự trung tín của Thiên Chúa Cha Người. con đường Người đi được vạch sẵn. Không có gì làm cho Người phải lui bước!
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
SỨ MẠNG GIAN KHỔ CỦA CÁC NGÔN SỨ (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Chúa Nhật IV Thường Niên Năm C mời gọi chúng ta suy gẫm sứ mạng gian khổ mà các ngôn sứ đã kinh qua. Các ngài đã công bố những ý định của Thiên Chúa ngược lại với kỳ vọng của con người. Vì thế, để chu toàn sứ mạng của mình giữa những chống đối, các ngài phải cậy dựa vào Thiên Chúa.
Gr 1: 4-5, 17-19
Vốn bản tính là một người hiền lành, nhút nhát có một tâm hồn nhạy cảm, không muốn làm phiền lòng ai, tư tế Giê-rê-mi-a được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ của Ngài để loan báo án phạt sắp đến của Thiên Chúa cho một dân bất tín, vì thế ông bị mọi người căm ghét và tìm cách hãm hại.
1Cr 12: 31-13: 13
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bài thánh thi nổi tiếng ca ngợi “đức mến” cao trọng trên tất cả.
Lc 4: 21-30
Tin Mừng tiếp tục thuật lại phần thứ hai của câu chuyện Đức Giê-su về thăm Na-da-rét ở đó Ngài gặp phải thái độ tiêu cực từ phía đồng hương của Ngài, họ không hiểu và tìm cách hãm hại Ngài.
BÀI ĐỌC I (Gr 1: 4-5, 17-19)
Trong lịch sử của trào lưu ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a chiếm lấy một chỗ đặc thù. Tác phẩm của ông chứa đựng, hơn bất kỳ tác phẩm nào khác, những lời trần tình bộc lộ cách tự nhiên đời sống nội tâm sâu xa của vị ngôn sứ. Trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ông Gióp là tưởng tượng. Trái lại, trong cuộc đối thoại thường hằng với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a phản ảnh đúng những gì vị ngôn sứ đã thực sự kinh qua.
Vốn là một con người hiền lành, nhút nhát có tâm hồn nhạy cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận một sứ mạng hết sức khó khăn. Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của ông “từ năm thứ mười ba triều vua Giô-si-gia-hu”, tức là năm 626 t.Cn. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a xuất thân từ một gia đình tư tế ở A-na-thốt, nơi có một thánh địa thời xưa, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 5 cây số.
1/.Thiên Chúa gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ của Ngài:
Thiên Chúa đích thân kêu gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ cho Ngài khi xưng mình là Ta:
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi,
Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (1: 5).
Đây là biểu thức quen thuộc trong các sấm ngôn, biểu thức này bày tỏ mối quan hệ mật thiết đặc biệt giữa Thiên Chúa và vị ngôn sứ của Ngài. Người ta cũng có thể nghĩ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa vang lên trong lòng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a.
Sáng kiến của Thiên Chúa là ưu tiên và vô điều kiện. Thiên Chúa chọn những ai phục vụ những ý định của Ngài đều là như thế. Đức Giê-su gọi các môn đệ của Ngài cũng theo cùng một cách như vậy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15: 16).
Thiên Chúa đã gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a ngay từ trong lòng mẹ. Trong Kinh Thánh cho đến lúc đó, kiểu nói này chỉ được dành cho ông Sam-son (Tl 13: 5). Ngôn sứ I-sai-a sẽ lấy lại và áp dụng cho “người tôi trung” mầu nhiệm:
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi” (Is 49: 1).
Thánh Phao-lô cũng sẽ định nghĩa ơn gọi của ngài như vậy: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong bụng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người” (Gl 1: 15). Thánh Lu-ca cũng sẽ nói về Gioan Tẩy Giả (Lc 1: 15) cũng như về Chúa Giê-su như vậy trong câu chuyện Truyền Tin.
Kiểu nói: “Ta đã biết ngươi” nói lên một sự hiểu biết chan chứa yêu thương, được ẩn chứa trong động từ “biết” của ngôn ngữ Híp-ri, nghĩa là Thiên Chúa dành sự ưu ái của Ngài cho người mà Ngài chọn. Kiểu nói: “Ta đã thánh hóa ngươi” hàm chứa một sự tấn phong về phương diện thiêng liêng theo cùng một cách thức như các ngôn sứ khác.
Khi nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn quá trẻ: “Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. Chúng ta không biết tuổi đời của ông vào lúc đó, có thể khoảng chừng ngoài hai mươi tuổi. Ông tự coi mình còn trẻ người non dạ, chưa có đủ bề dày kinh nghiệm trước một sứ mạng cao trọng này.
2/.Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Chính vị tư tế còn trẻ người non dạ này mà Thiên Chúa truyền lệnh:
“Hãy chỗi dậy! hãy nói với chúng
tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.
Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ;
nếu không, trước mặt chúng,
chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (1: 17).
Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a là kêu gọi toàn dân hoán cải và loan báo án phạt sắp tới: Thiên Chúa sẽ hủy diệt vương quốc, tàn phá Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Với tâm hồn nhạy bén, ông sẽ khóc than về nỗi bất hạnh giáng xuống trên dân tộc của ông, nhưng với tư cách là ngôn sứ, ông sẽ kiên vững trong sứ mạng của mình cách sáng suốt đến kinh ngạc và nuôi dưỡng niềm hy vọng không lay chuyển của mình vào một “Giao Ước Mới”.
3/.Ơn phù trợ của Thiên Chúa:
Vì loan báo những tai họa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị bách hại, bị chế nhạo. Ông sẽ cho thấy lòng can đảm khôn sánh trong những gian nan thử thách. Đức Chúa hứa với ông:
“Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố,
nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ:
từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh,
các tư tế và toàn dân trong xứ” (1: 18).
Trong các ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a có vận mệnh gần giống với vận mệnh của Chúa Ki-tô hơn cả.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 31: 13: 13)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bản văn nổi tiếng được gọi là “bài ca đức mến”. Bài ca đức mến này hấp dẫn chúng ta vì nhiệp điệu của nó, những từ chủ yếu được láy đi láy lại, câu kết luận gây ấn tượng trên chúng ta: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba điều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (13: 13).
1/.Chủ nghĩa cá nhân:
Thánh Phao-lô vừa gợi lên sự giàu có của những ân huệ mà Thánh Thần ban cách quảng đại cho cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô. Tuy nhiên, những ân ban này gây nên những xáo trộn, những ghen tuông. Thánh Phao-lô đã nhận thức rất rõ một trong những khuyết điểm cốt yếu của các tín hữu này là “chủ nghĩa cá nhân”. Vì thế, thánh nhân thường hằng cầu xin cho họ ý thức rằng họ là một phần của một thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki-tô.
Phương thuốc thật sự chữa trị chủ nghĩa cá nhân là “Mến Chúa và yêu người”. Đây là một ân huệ vượt trên mọi ân huệ. Mọi người trong cộng đoàn muốn được ơn nói tiên tri, được ơn nói tiếng lạ, được biết mọi điều bí nhiệm, thánh Phao-lô đáp lại: “Giả như tôi có được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chăng là gì” (13: 1-2).
Thánh Phao-lô không nghi ngờ đức tin của tín hữu Cô-rin-tô, thậm chí “chuyển núi dời non”; thánh nhân không nghi ngờ đức mến của họ, thậm chí đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí; thánh nhân không nghi ngờ đức cậy của họ, thậm chí sẵn sàng chết vì đức tin của mình. Điều quan trọng mà thánh nhân muốn nhắn gởi đến họ chính là nếu họ “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì” (13: 3).
2/.Cao trọng hơn cả là đức mến:
Nếu phần bút chiến chiếm một chỗ lớn trong lời khuyên bảo cháy bỏng của thánh Phao-lô, điều này không là tất cả. Những phẩm chất của “đức mến” mà thánh nhân kể ra không dứt và cuối cùng thánh nhân quả quyết: “Đức mến không bao giờ mất được”. Viễn cảnh đều hướng đến yêu thương người thân cận, nhưng mến Chúa cũng được hàm chứa ở đây. Trong tất cả các thư của mình, thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại lòng mến đối với Thiên Chúa đang hoạt động trong chúng ta để sinh hoa kết trái, đó là những hoa trái của đức ái huynh đệ. Thánh Phao-lô chỉ cho thấy dù làm bất kỳ công việc nào, ngay cả hiến thân mình cho đến chết, mà không có đức mến thì chưa đủ. Chính đức tin gợi lên đức mến; chính đức cậy nâng đỡ đức mến. Tự bản chất, ba nhân đức này đều là thánh thiện, nhưng “cao trọng hơn cả là đức mến”.
TIN MỪNG (Lc 4: 21-30)
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su về thăm đồng hương Na-da-rét của Ngài theo thánh Lu-ca. Trong phần thứ nhất mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đã được mọi người đồng hương hoan hỷ chào đón và ngưỡng mộ, vì họ hãnh diện về danh tiếng của một người trong họ và thán phục về cách thức giải thích Kinh Thánh của Ngài. Trái lại, phần thứ hai mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay là một thất bại và gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét. Câu chuyện này biểu tượng cho hai thái độ tương phản của dân Ít-ra-en: trước hết hoan hỷ tiếp đón Đức Giê-su, sau đó tìm cách loại bỏ và giết chết Người. Đồng thời, Đức Giê-su loan báo sứ mạng phổ quát của Người.
1/.Thái độ của người đồng hương Na-da-rét từ thiện cảm sang ác cảm (4: 22):
Từ thái độ thiện cảm: “Mọi người đều tán thưởng và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giê-su”, những người đồng hương Na-da-rét chuyển sang thái độ ác cảm với Ngài chỉ vì Ngài xuất thân từ một gia đình tầm thường: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”. Gia thế tầm thường của Ngài đã che khuất tầm nhìn của họ khiến không thể nhận ra Đức Giê-su là Đấng được sai đến để thực hiện “lòng Chúa xót thương” trải rộng cho tất cả mọi người, nhất là những người bất hạnh, nghèo hèn, cùng khốn, bị áp bức trong xã hội, mà ngôn sứ I-sai-a đã báo trước.
2/.Câu trả lời của Đức Giê-su (4: 23-27):
Đức Giê-su vạch trần những ý nghĩ thầm kín trong lòng họ khi trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình”. Câu tục ngữ này tiên báo thật hoàn hảo về những lời thách đố được lập lại đến ba lần ở dưới chân thập giá: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (23: 35, 37, 39).
Với niềm kiêu hãnh hẹp hòi và với cái nhìn nông cạn, họ cảm thấy bị chạm tự ái vì Đức Giê-su, người đồng hương của họ, đã không làm những điều kỳ diệu ở tại Na-da-rét như Ngài đã làm tại Ca-phác-na-um. Họ cho rằng mình có quyền chính đáng đòi hỏi Ngài thực hiện những phép lạ cốt để thỏa mãn tính tự phụ của họ, chứ không nhằm thay đổi lòng dạ của họ. Vì thế, Đức Giê-su trích dẫn câu tục ngữ thứ hai: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình”. Qua câu tục ngữ thứ hai này, Đức Giê-su phác họa số phận chung của các ngôn sứ thời xưa, các ngài đã không được hiểu và bị bách hại bởi chính những người đồng hương của mình, tiêu biểu là số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đồng thời tiên báo số phận của chính Ngài.
Cuối cùng, Đức Giê-su dẫn chứng hai mẫu chuyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sê được trích từ 1V 17 và 2V 5. Qua hai mẫu chuyện này, Đức Giê-su muốn ám chỉ đến sứ mạng phổ quát của Ngài. Ngài đến để thực hiện sấm ngôn Is 61: 1-2, nhưng không chỉ đóng khung cho những người đồng hương của Ngài: dân Na-da-rét hay toàn thể dân Ít-ra-en, mà còn mở rộng ra đến hết mọi dân mọi nước khác nữa. Việc Ngài chọn Ca-phác-na-um làm cứ điểm truyền giáo của mình theo cùng một ý nghĩa như vậy. Thành này, được gọi là “Ngã Tư của các dân tộc”, là nơi giao tiếp thường hằng của dân Do thái với những dân ngoại chung quanh. Chiều kích hoàn vũ của sứ điệp được phác họa rồi. Đó cũng là toàn bộ chương trình mà Giáo Hội, tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su, sẽ thực hiện như được miêu tả trong sách Công Vụ Tông Đồ, sách này cũng là công trình biên soạn của chính thánh Lu-ca. Chính vì sứ mạng này mà Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến để thực hiện bằng cả mạng sống mình và cũng vì sứ mạng này mà Giáo Hội hiện diện giữa nhân loại cho đến ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang.
3/.Tiên báo tương lai (4: 28-30):
Việc Đức Giêsu hủy bỏ đặc quyền đặc lợi của họ trong việc thi ân giáng phúc gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét của Ngài. Sự phẩn nộ của họ: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, tiên báo sự phẫn nộ của những thành viên Thượng Hội Đồng sau này. Phản ứng dữ dội của họ: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”, tiên báo cuộc Khổ Nạn của Ngài. “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”: tiên báo cuộc Phục Sinh tương lai của Ngài. Hiện thời, chưa tới giờ của các đối thủ, Đức Giê-su vẫn tiếp tục con đường của mình, con đường ấy rốt cuộc sẽ dẫn Ngài lên Giê-ru-sa-lem, ở đó Ngài sẽ bị dẫn ra ngoài thành thánh đến tận đỉnh đồi và bị đóng đinh tại đó.
4/.Ý nghĩa của câu chuyện Tin Mừng hôm nay:
Theo thánh Lu-ca, câu chuyện Đức Giê-su viếng thăm Na-da-rét mang tính ngôn sứ: câu chuyện này quy tụ mọi yếu tố tiên báo tiến trình sứ mạng của Đức Giê-su. Để hiểu một cách xác đáng những tương hợp lịch sử giữa cuộc viếng thăm Na-da-rét của Đức Giê-su và cuộc đời cứu độ của Ngài, chúng ta nên đọc liên tục: lòng nhiệt thành của đám đông dân chúng; thái độ từ chối của dân Ít-ra-en; sứ điệp được hứa cho lương dân; viễn cảnh Tử Nạn; và cuối cùng, sự tự do tối thượng của Đức Giê-su, Đấng làm chủ cuộc sống và cái chết của Người: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Câu chuyện của Tin Mừng hôm nay cũng tiên báo sứ mạng của Giáo Hội trong tương lai: việc loan báo về những đặc ân dành cho dân Ít-ra-en đã đến hồi kết thúc và thời kỳ Thiên Chúa đón nhận lương dân gây nên sự phẩn nộ từ phía người Do thái. Điều này dự báo những người Do thái ở An-ti-ô-khi-a chuyển dần từ thiện cảm sang “phẩn nộ” đối với thánh Phao-lô khi họ thấy dân ngoại “nghe lời của Thiên Chúa” (Cv 13: 44-45).
Câu chuyện của Tin Mừng hôm nay cũng có thể là câu chuyện của mỗi người chúng ta trong mối quan hệ với Lời Chúa. Những người đồng hương Na-da-rét đã có sẵn hình tượng về Đấng Cứu Độ. Vì thế, khi không thể đòi hỏi Đức Giê-su hành động theo đúng ý muốn của họ, họ từ chối Ngài và thậm chí tìm cách hãm hại Ngài. Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường hay cư xử Lời Chúa theo cùng cách thức như thế. Chúng ta đọc và tìm cách uốn nắn lời Chúa sao cho phù hợp với sở thích, ước muốn của chúng ta, thay vì để cho lời Chúa thực sự chất vấn chúng ta. Chúng ta sử dụng Lời Chúa như phương tiện biện minh cho cách sống hiện nay của mình, thay vì để cho Lời Chúa thật sự là ngọn đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta. Đó là lý do tại sao Lời Chúa không thể tác động vào cuộc sống của chúng ta, sinh hoa kết trái trong cuộc đời của chúng ta.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NGÔN SỨ BỊ TỪ CHỐI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Tục ngữ có câu “Lời thật mất lòng”. Chúa Giêsu ưu tiên loan Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nadarét, thế mà họ lại xua đuổi Ngài. Thời bây giờ cũng vậy, nhiều người không muốn nghe những lời xây dựng chân thành, thậm chí còn ghét những người nói thẳng nói thật.
Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về thực tế chua chát ấy, và xin Chúa giúp chúng ta đừng rơi vào thói xấu ấy.
II/. Gợi ý sám hối
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con bỏ ra ngoài tai những lời xây dựng chân thành của kẻ khác.
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con có phản ứng không tốt với người khác chỉ vì họ đã nói thẳng nói thật.
- Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đối xử bất công: vui vẻ với người khen nịnh, và khó chịu với người chân thành góp ý.
III/. Lời Chúa
1/. Bài đọc I (Gr 1,4-5,17-19)
Giêrêmia tự thuật về việc Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ: Thực ra Giêrêmia không muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Nhưng vì tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.
2/. Đáp ca (Tv 70)
Thánh vịnh 70 quãng diễn tâm tình của ngôn sứ Giêrêmia. Đó là tâm tình cậy trông và phó thác: “Con ẩn náu bên Ngài lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ… Xin Ngài như núi đá cho con tru ẩn, như thành trì để cứu độ con”.
3/. Tin Mừng (Lc 4,21-30)
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:
1/. Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.
2/. Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.
3/. Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.
4/. Bài đọc II (1 Cr 12,31–13,13) (Chủ đề phụ)
Sau khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là Đức Mến.
- Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị thực (“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng… mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chủm choẹ xoang xoảng”).
- Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức khác (“Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Mến”)
IV/. Gợi ý giảng
* 1. Cần có ngôn sứ
Mỗi thời kỳ lịch sử đều có ngôn sứ. Mỗi thời kỳ lịch sử đều cần ngôn sứ. Bởi vì “ngôn sứ” là sứ giả của Lời Chúa, nếu không có ngôn sứ thì có thể Lời Chúa sẽ bị yếu đi.
Thời Cựu Ước có các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkiên v.v. Thời Tân Ước có Chúa Giêsu, có các tông đồ… Thế kỷ XIII có Phanxicô Assisi… Thế kỷ XVII có Vinh Sơn Phaolô… Thế kỷ XX có Têrêsa Calcutta v.v.
Thực ra con người ngôn sứ chẳng có gì khác lạ hơn người thường: dân làng Nadarét đã nhận định về Chúa Giêsu “Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc Giuse đó sao?” Ở một vài phương diện nào đó, ngôn sứ còn thua kém người khác nữa: Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa “Lạy Chúa, con không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ”.
Nhưng ngôn sứ hơn người là do Lời Chúa: ngôn sứ nghe được Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa, và nhiệt thành chuyển đạt Lời Chúa đến cho mọi người.
Dù “hơn người”, nhưng không hẳn ngôn sứ được người quý mến, trái lại thường bị người chống đối và bách hại, bởi vì “Lời thật mất lòng”.
Tuy thường bị người ta đối xử tệ, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.
Sứ mạng ngôn sứ rất khó khăn và bạc bẽo. Nhưng ngôn sứ sẽ chu toàn sứ mạng nhờ cậy dựa vào sự trợ giúp của Chúa.
Qua bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ của Ngài.
* 2. Kiên vững – Dịu hiền
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
Thôi Trữ bảo Án Tử: “Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức”.
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:
“Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu”.
Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.
*
Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại: “Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành: Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi” (Lc 4,29-30). Chúa Giêsu chính là Sự Thật tuyệt đối, nên từ nơi Người toát ra sức mạnh phi thường, khiến đám người bạo động phải đứng như trời trồng để Người đi qua.
Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin rằng “Thần khí Chúa” lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc.
Họ cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai.
Họ càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình” (Lc 4,24).
Thế mới ứng nghiệm lời ông Simêon: “Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới đời chống báng” (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.
Nếu dân làng Nadarét ép Chúa Giêsu làm phép lạ để minh chứng Người là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Chúa Giêsu chứng minh giáo lý của Người là chính thống.
Nếu dân làng Nadarét tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn phạm thượng, thì các người Pharisêu cũng kết tội Người dựa vào thế giá cửa quỉ vương.
Nếu dân làng Nadarét cố tìm cách giết Chúa Giêsu, thì dân thành Gíêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Người trên thập giá.
Mỗi người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì “Nếu thế gian đãghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước” (Ga 15,18), nhưng ít có ai cảm nhận được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Người có căm thù những kẻ ruồng rẫy Người không? Người có đầu hàng trước nghịch cảnh này chăng? Nói như Martin Luther King: “Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và con tim dịu hiền”.
Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Người sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị tại một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Người chỉ là Đấng có con tim dịu hiền, thì Người sẽ là một Thiên Chúa uỷ rnị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng.
Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Người không hề chai đá và tinh thần của Người không chút bạc nhược. Người có tinh thần đủ kiên vững để vượt trên thế giới, và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.
Nếu có một bài học nào được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay thì đó chính là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể “băng qua giữa họ mà đi”, nhưng Người cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Người, khi chúng ta muốn “xô Người xuống vực thẳm”, thì chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.
Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Người cũng là Đấng có tính dịu hiền trong tình thương và ân sủng.
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.
Thiên Chúa ban ân sủng Cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.
*
Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con.
Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muôn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen (TP)
3/. Ưu tiên cho ai?
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành…. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực”
Nguyên do gây đổ vỡ là quan niệm về ưu tiên. Dân làng Nadarét nghĩ rằng Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Ngài đã từng làm phép lạ ở thành Capharnaum xa lạ thì Ngài phải làm nhiều phép lạ hơn nữa ở Nadarét này mới phải, vì đây chính là quê hương của Ngài kia mà: “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào”. Phần Chúa Giêsu thì muốn dành ưu tiên cho những người nghèo khổ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi… để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…”
Nói cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ trương ưu tiên theo sứ mạng. Tình cảm thường hẹp hòi, sứ mạng thì bao la. Tình cảm thường mù quáng, sứ mạng mới sáng ngời.
Chúng ta thường bị tình cảm làm mù quáng và lệch lạc, ngay cả khi chúng ta làm việc bác ái và làm công tác tông đồ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến sứ mạng. Nếu có ưu tiên thì hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở.
* 4. Trở lại quê hương
Sau nhiều năm xa cách ngôi làng Transkei là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, Nelson Mandela có dịp trở lại đấy. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư có nhà cửa ở thủ đô Johannesburg. Ông đã ghi lại cảm tưởng như sau: “Trở lại một nơi chẳng có gì thay đổi để khám phá ra rằng mình đã đổi thay. Quê hương thì vẫn như xưa, chẳng có gì khác hơn hồi mình sinh ra và lớn lên ở đấy. Nhưng tôi nhận ra rằng suy nghĩ và cách nhìn của mình đã khác xưa rất nhiều”. Vì thế Nelson Mendela rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê cũ, nhưng ông không ở lại đó, vì nó đã trở thành quá chật hẹp đối với ông.
Có lẽ cảm nghĩ của Chúa Giêsu cũng giống như thế khi Ngài trở về Nadarét. Những người đồng hương của Ngài chẳng có gì thay đổi: họ vẫn mãi coi Ngài là con bác thợ mộc chứ không phải là Đấng Messia; họ vẫn quen lối suy nghĩ hẹp hòi cho rằng ơn cứu độ là đặc ân của người Do Thái, chứ không thể chấp nhận rằng mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.
Chúa Giêsu trở về quê hương để mang cho đồng hương của Ngài một sự đổi mới. Tuy nhiên họ không chịu thay đổi. Vì thế nên Ngài không thể ở lại quê hương, Ngài đành ra đi, tiếp tục đến những nơi khác. (FM)
5/. Đức Mến
Có một sự liên kết thiết yếu giữa Đức Tin và Đức Mến. Câu chuyện sau đây cho thấy rõ điều ấy:
George Herbert là một Linh mục, một thi sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm khi ông đang trên đường đến tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một người nghèo bị té ngựa. Ông đã dừng lại, cởi áo dòng, xắn tay áo để đỡ người ấy lên, đỡ con ngựa lên và giúp chất hành lý người ấy lên lưng ngựa. Xong xuôi mọi chuyện, ông mới tiếp tục đến phòng hòa nhạc.
Bình thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay tay chân và quần áo của ông đều dính đầy bụi bẩn. Vì thế bạn bè rất ngạc nhiên. Khi ông kể lại chuyện mình đã làm dọc đường thì một trong các người bạn tỏ ra không đồng ý vì cho rằng việc đó không cần thiết và cũng không phải là trách nhiệm của ông. George Herbert đã trả lời như sau: “Tôi thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ. Hôm nay tôi có dịp giúp đỡ người nghèo khổ. Nếu tôi không ra tay giúp thì tức là tôi không làm đúng như lời mình cầu nguyện. Cũng giống như cây đàn chưa lên dây đúng cung vậy.”
Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”. Những việc làm biểu lộ đức tin dễ thấy nhất là những việc bác ái.
Ngày nay, hai chữ được người ta nói nhiều nhất là “tình yêu”. Nhưng hình như cái mà người ta gọi là tình yêu trong các phim ảnh và bài hát thường chẳng phải là tình yêu gì cả. Đó chỉ là khát vọng, chiếm hữu và chế ngự. Nó ngược hẳn với tình yêu.
Một trong những lý do là ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn về tính phức tạp – hay phức hợp – trong bản chất con người. Từ đó người ta làm gì cũng do bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Đàng sau một việc xem ra bất vụ lợi thì cũng có động cơ vụ lợi.
Bởi thế, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta coi chừng những động cơ đàng sau những việc tốt chúng ta làm. Ngài nói rằng Đức Mến đích thực thì “không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc”. Ngài còn nói “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. (FM)
V/. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu những lời Kinh thánh chúng ta vừa nghe. Nhờ Người, chúng ta dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta:
1/. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để đem Tin mừng đến cho muôn dân trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin mừng của Hội thánh / luôn đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.
2/. Khát vọng sâu xa nhất của con người ngày nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Chúa / ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
3/. Hiện nay đức tin / đức cậy / đức mến / cả ba đều tồn tại / nhưng cao trọng hơn cả là đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn cố gắng sống trọn vẹn nhân đức quan trọng này.
4/. Nhờ bí tích Thánh Tẩy / người Kitô hữu trở nên anh em với nhau / vì có cùng một niềm tin và một Cha chung trên trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi kỳ thị hẹp hòi / những chia rẽ bất hòa / để tất cả chúng ta nên một trong Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đang ở trong ngôi Nhà Thờ này như những anh chị em ruột thịt sum họp trong mái ấm gia đình. Đúng vậy, vì chúng ta đều là con của cùng một Cha chung trên trời. Giờ đây chúng ta hãy nghĩ đến Cha chúng ta và hãy cùng nhau thưa chuyện với Ngài qua lời kinh Lạy Cha.
VII/. Giải tán
Do Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được chia xẻ sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng vừa cao đẹp vừa khó khăn ấy. Nguyện xin ơn sủng Chúa luôn phù giúp anh chị em. Chúc anh chị em ra về bình an.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
RAO GIẢNG TẠI NAGIARÉT THẤT BẠI– Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
Nhiều nhà chú giải Kinh Thánh nhận thấy có nhiều sự rời rạc trong đoản văn này, hay ít ra có những nhược điểm văn chương “lạ lùng nơi một tác giả cẩn thận như Luca” (A. George), điều đó giả thiết Luca đã dùng nhiều nguồn liệu mà ông đã không khéo tổng hợp. Nhưng hình như cảm tưởng này là do việc người ta muốn tìm nơi Luca một lược đồ của Macco, trong lúc Luca lại thay đổi toàn diện cơ cấu trình thuật của Macco, không những chỉ làm cho trình thuật ấy thành một toát yếu biểu tượng về cuộc đời Chúa Giêsu và một bản tóm lược những đề tài của mình, nhưng còn qui hướng trình thuật ấy vào một cao điểm: Chúa Giêsu từ chối dành riêng ơn cứu độ cho quê hương Ngài, đó là lý do người Do thái từ chối và giết Ngài.
Những “rời rạc” mà các nhà chú giải đưa ra có thể được tóm tắt như sau:
1/ Sự bất tương xứng giữa phản ứng đầu tiên của cử tọa – tất cả đều rất thán phục (c.22) – và những lời giận dữ của Chúa Giêsu ở các câu 23-27.
2/ Thiếu đồng nhất trong diễn từ của Chúa Giêsu (cc.23-27): ở c.23, Chúa Giêsu biết trước người ta sẽ xin Ngài làm phép lạ (điều này giả thiết họ đã tin), trái lại qua câu 24, hình như Ngài phàn nàn là bị bạc đãi. Ngoài ra, ở c.23 có đối chọi giữa Caphanaum và Nazaret, ở cc. 25-27 giữa Israel và lương dân. Cuối cùng, câu 24 cho thấy chính người Do thái loại trừ các tiên tri, còn các câu 25-27 lại nói chính các tiên tri từ chối làm phép lạ tại Israel.
Có nhiều cách giải thích các lủng củng trên: như nói đến sự khác biệt về các nguồn liệu, hoặc bằng cách ép nghĩa chữ emarturoun, (họ làm chứng “ils témoignaigent”) và ethaumazon (họ thán phục ils s’étonnaiment, câu 22), hoặc bằng cách giải thích sở dĩ thính giả tức giận là vì Chúa Giêsu, khi trích Isaia, đã bỏ sót câu loan báo Đấng Messia sẽ trả thù, hoặc xem các lời của Chúa Giêsu đủ nói lên phản ứng của thính giả, hoặc đặt câu 5a của Macco ngay từ đầu đoản văn và giả thiết Luca đã đọc Macco theo mạch văn đó: “giọng điệu bất ngờ của Chúa Giêsu thì có thể hiểu được, nếu cho đến bây giờ Ngài đã không có thể làm một phép lạ nào ở Nazareth. Nếu đồng ý như thế, tất cả thật dễ hiểu, rõ ràng (C. Masson).
Sở dĩ có nhận xét về các “rời rạc” đó, là vì dựa vào lược đồ của Macco:
a) Sự rạn nứt giữa Chúa Giêsu và người đồng hương xảy ra ở các câu 22-23.
b) Ở câu 24 Chúa Giêsu nói là đã bị bạc đãi ở quê hương, đó có phải là điều Luca muốn nói? Dù sao, phương pháp tốt nhất là phải tiên thiên nghiên cứu trình thuật Luca như là một đơn vị văn chương có mạch lạc, và tìm điểm cốt yếu của nó bằng phương cách dựa vào lược đồ của Luca, chứ đừng dựa vào lược đồ của Macco. Như thế sẽ rõ là sự rạn nứt giữa Chúa Giêsu và người đồng hương chỉ xảy ra sau câu 27.
Thực ra, các thính giả Chúa Giêsu đã phản ứng tích cực. Marturoin (làm chứng – témoigner, câu 22) được dùng một mình hay với một datif, trong ngôn ngữ Luca, luôn có nghĩa tích cực: xem Cvsđ 6,3; 10,22; 13,23; 15,8; 16,2; 22,12; đặc biệt trong Cvsđ 14,3). Nghĩa tích cực này đồng nghĩa với “họ ca tụng Ngài” của câu 15.
Còn chữ “thaumazoin” (thán phục “s’étonner” c.22) nếu có thể diễn tả một sự ngạc nhiên vì gương xấu (x. Mc 6,6; Lc 11,38) thì ở Lc nó thường chỉ một ngạc nhiên đầy thán phục (1,63; 2,18; 7,9; 8,25; 9, 43; 11,14; 20,26; Cvsđ 3,12; 4,13). Vậy người ta có thể xem phản ứng đầu tiên của đám thính giả ấy là một ngạc nhiên đầy thán phục. Hình như Luca không muốn nhấn mạnh đến sự thán phục này: ông không lấy lại lối diễn tả dài dòng của Mc, cũng không còn dùng tiếng: “họ đã vấp phạm vì Người” (Mc 6,3). Phải đợi đến câu 28 mới gặp được thành ngữ của Luca tương đối với “họ đầy căm tức”. Vậy đối với Luca, đâu là lý do xác đáng để người Nazaret căm tức? Và trong sự rạn nứt này, câu 24 có vai trò gì?
Conzelmann khám phá 2 cao điểm trong các câu 23-27. Quả thực câu 23 được xây dựng trên sự đối thoại giữa Nazaret – Carpharnaum, các câu – trên sự đối chọi khác nhau giữa người Naaret – dân ngoại. Cao điểm thứ hai này làm nên lời tuyên bố rõ rệt về ơn cứu độ phổ quát, là bước đầu của nền thần học về dân tuyển chọn tiềm ẩn trong tác phẩm của Luca, và chỗ đứng của nó ngay từ lần rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu đem lại cho tác phẩm Luca một tầm quan trọng đáng kể. Và đối với Luca, chính lời tuyên bố đó là lý do khiến người Nazaret giận dữ. Thực ra phải lưu ý rằng chính “khi nghe những lời ấy”, nghĩa là khi nghe các câu 23-27 thì họ ly khai với Chúa Giêsu.
Điều này có thể giúp chúng ta khám phá ý nghĩa cao điểm thứ nhất và tương quan thực sự của câu 24 với toàn văn mạch. Nơi câu 23 Chúa Giêsu linh cảm các người Nazaret với chiêu bài là người đồng hương của Ngài, sẽ xin Ngài gia ân giáng phúc của thời đại thiên sai mà Ngài mới tuyên bố (có lẽ linh cảm này được diễn tả ở câu trước đó. Thực ra, nếu chấp nhận phản ứng đầu tiên của thính giả là tích cực, thì có thể giải thích câu “người này không phải là con ông Giuse?” như là một cảm thức của người Nazaret về những đặc ân dành cho họ qua sự kiện Chúa Giêsu là một người trong họ). Chúa Giêsu đề phòng họ khỏi những cơn cám dỗ đó (chữ “eipen de”: “nhưng Ngài nói”, mà cuốn BJ dịch thoáng là: “rồi Ngài nói thêm”, cho thấy sự tương phản với lời yêu cầu vừa được đưa ra: “quả thật, ta bảo các người, không một tiên tri nào dektos en tại quê hương mình).
Do ảnh hưởng của đoạn Mc song song atimos (bị khi khinh chê, không vinh dự) và so với dechomai (tiếp nhận), người ta dịch dektos bởi “được tiếp nhận” (acceptus) (bản Vulgata), “được ưu ái” (en faveur) (Gheorge), “được trọng đãi” (bien reen) (Osty – BJ), “được hoan nghênh”
Theo một bài của Grundmann trong “Theologisches Wortorbuch” chữ này (dùng 32 lần trong bản LXX) thường được dùng để dịch chữ Hy bá râson (tình yêu, ân huệ, ý muốn). Phải phân biệt cách dùng chữ này trong văn chương tế tự, được áp dụng vào các hy lễ, chữ này có nghĩa thứ nhất (“được tiếp đón” hay “có thể được tiếp đón”: accepte – acceptable) với cách dùng trong Isaia-đệ-nhị nó mang ý nghĩa thiên sai và hoàn toàn tích cực: “thi ân, thuận lợi” hay cứu độ (favorable, salvifique): xem Is 49,8: “trong thời thuận tiện (dektos), ta sẽ nhận lời ngươi” và Isaia 61,2 (được trích dẫn lại trong Lc 4,19): “Hãy loan báo năm nhân hậu của Giavê” (bản dịch của J.Coenig, Pleiade 1959). Qua hai ví dụ trong Isaia, thời gian (hoặc năm) dektos có nghĩa là thời gian thuận tiện (favorable) cho dân Israel, đó là thời gian cứu độ, thời gian thực hiện ý định của TC. Violet, theo một phương pháp khác Grungmann cũng đi đến một kết luận tương tự (trong ZNV 37,1938, 251-271): theo ông, detos đồng nghĩa với charis (ý muốn nhân hậu, lòng nhân hậu, dự định thuận tiện). Ngoài các ví dụ nói trên, có thể thêm Xac 28,38 (dektos trong dùng như một danh từ và có nghĩa: ân huệ, lòng nhân hậu).
Những phần phân tích đó cho thấy chữ dektos đã biến đổi về ngữ học: từ ngữ thụ động “có thể trong tiếp đón, được tiếp đón, được đặc ân” dần dần chuyển sang nghĩa tích cực: “có thiện cảm, thuận tiện”. Trong TƯ, ngoài hai đoản văn Lc 4,19 trích Is, và Lc 4,24 mà chúng ta đang nghiên cứu, chữ dektos được dùng 3 lần: hai lần theo nghĩa thụ động (cả hai đều trong sạch văn tế tự: Cvsđ 10,35 và Ph 4,18), và một lần trong nghĩa tích cực: “Vì người phán: vào thời thuận tiện (dektos, favorable), Ta đã nhận lời ngươi; vào ngày cứu độ, Ta sẽ cứu ngươi. Đây là thời thuận tiện, bây giờ là ngày cứu độ” (2Co 6,2)
Như thế có thể kết luận, đối với người đọc bản 70, chữ: dektos có thể có nhiều tiểu dị và nhất là khi trích dẫn Isaia, có một nghĩa khác xa nghĩa nguyên ngữ (dechomais, recevoir, nhận). Vì thế thật có lý khi dịch eniauton dekton trong Lc 4,19 thành “năm hồng ân” (année de grâce, bản dịch của Osty, Goerge, hay”năm tiếp nhận”(année d’accueil, bản dịch của TOB).
Như thế, đâu là hậu quả việc Lc muốn móc nối với sách Isaia-đệ-nhị? Nếu Lc đã cố tâm đổi công thức cổ truyền của câu nói logion, (được Mc và Mt viết là “bị khinh chê” và Gio 4,44: “không được hưởng một đặc ân nào”) để dùng lại một chữ (không được biết nơi các tác giả nhất lãm) của văn mạch trước đó, chính là vì ông muốn cho cách dùng thứ hai của chữ này cũng một nghĩa như cách thứ nhất và như vậy phải hiểu câu 24 như sau: “không một tiên tri nào có thiện cảm (favorable) với chính quê hương mình.
Từ đây tương quan của câu 24 với văn mạch được sáng tỏ: nó đi nghịch với câu 23 (Chúa Giêsu từ chối lời xin phép lạ) và được nối kết với các câu 25-27 bởi hai ví dụ trong CƯ (lưu ý là nơi Lc 11,29-32 cũng có một lược đồ như vậy). Ngoài ra có một sự tương đồng về thể văn đối ứng với một tương đồng về ý nghĩa: “quả thực, Ta bảo các ngươi” (c.24). Và “Ta bảo thật các ngươi” (c.25); điều quan hệ cũng chính một ý nghĩa nhưng được viết dưới một hình thức khác. Chúa Giêsu làm ngơ khi đứng trước môi trường xã hội của mình. Cũng thế, ta mới hiểu tại sao Lc xóa bỏ Mc 6,4b (“nơi bà con và nơi nhà mình”) vì nhằm nới rộng nghĩa của chữ “quê hương” được dùng trong nghĩa hẹp nơi câu 23 (Nazaret) và nghĩa rộng nơi các câu 25-27 (Israel).
Dưới viễn tượng đó trình thuật Lc không còn đứt đoạn: chắc hẳn câu 21 không phải là tổng hợp bài diễn từ của Chúa, nhưng lại là giáo đầu của bài giảng về bản văn Isaia. Trong đó Ngài công bố thời thiên sai bắt đầu. Bấy giờ Lc ngắt bài diễn từ một chút để cho thấy phản ứng đầu tiên của thính giả (ngưỡng mộ Chúa Giêsu), rồi tác giả tiếp tục bài diễn từ nơi các câu 23-27 (“và Ngài nói cùng họ” của câu 23 đáp lại “bấy giờ Ngài bắt đầu nói cùng họ” của câu 21) và bấy giờ Chúa Giêsu minh giải câu 21 bằng cách vạch trần là Ngài không muốn giới hạn sứ mệnh của mình trong thành hay trong quốc gia mình: cũng như Elia và Elisê đã không chỉ có thiện cảm (favorable) với dân Israel, thì Ngài cũng không chỉ có thiện cảm với quê hương mình. Nơi Luca, chính điểm này gây phản kháng nơi người Nazareth.
Một dư âm của bài giảng này hình như còn sót lại ở Lc 4,42 – 43 trong đó dân chúng Caphanaum muốn giữ Chúa Giêsu ở lại với họ. Để trả lời Ngài cũng lấy lại gần nguyên văn lời tiên tri Isaia mà Ngài đã giải thích trong hội đường xứ Nazareth: “Ta còn phải loan báo Tin mừng Nước TC cho nhiều thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến”. Ở đây thái độ của Chúa Giêsu cũng như trước Ngài không muốn ai độc quyền chiếm hữu Ngài.
Vậy trong trước tác của Luca không có một rời rạc nào, và ta hãy mau phục hồi uy tín cho Luca: trình thuật của tác giả thật rất mạch lạc và kỹ lưỡng (với điều kiện là gán cho tiếng dektos nghĩa tích cực (sens actif) của nó, thì sẽ có được sự mạch lạc của đoạn văn). Điều đó không lạ gì vì đây là đoạn văn có tính cách khai mào đoản văn, thì dĩ nhiên một văn sĩ cẩn thận như Luca phải lưu ý trau chuốt cách đặc biệt.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các lời đầy ân sủng”: một số nhà chú giải dịch câu “epitois logois tês charitée” như vậy, hoặc theo tương tự như “các lời ân sủng”, “các lời được linh ứng”… bằng cách giả thiết câu đó tiềm tàng các đặc tính văn chương Semit. Nhưng việc dùng mạo từ “la” (au sujet des paroles de la grâce) cũng như các đoạn song song trong Cvsđ và văn mạch thì thiên về lối dịch “các lời của ân sủng” (A.Goerge) hay “sứ điệp của ân sủng” (TOB), nghĩa là sứ điệp do ân sủng đem đến, hay sứ điệp loan báo ân sủng (Cvsđ 14,3; 20,32).
“Người này phải là con ông Giuse sao?”: vì câu này nằm trong bối cảnh thán phục và ca tụng, nên đừng xem đây là khởi điểm việc người Nazaret bất bình, phẫn nộ: trong bản văn không có điểm nào cho phép giải thích như thế. Đúng hơn phải xem câu đó diễn tả 1 sự tính toán đầy tư lợi: nếu người này là con Giuse, bây giờ trở thành tiên tri và thần thông, tại sao lại không lợi dụng địa vị ấy để mưu ích cho làng họ? Cách giải thích vấn nạn đó của người Nazaret được xác nhận qua lời Chúa Giêsu chú giải ngay sau đó. Câu ngạn ngữ “thầy lang ơi, hãy cho thân nhân của ông được hưởng các phép lạ của ông trước khi cho người lạ hưởng. Ở đấy nghĩa câu ngạn ngữ là đúng như thế. Vì thế Chúa Giêsu khi giải thích tư tưởng của cử tọa, đã áp dụng ngạn ngữ đó cho Ngài: “Với tư cách là người đồng hương với Ta mà các ngươi giục ta làm ở đây các phép lạ Ta đã làm ở Capharnaum. Nhưng (ở đầu câu 24, tương tự với tiếng Hy lạp de) vị tiên tri không luôn thi ân cho quê hương mình… hãy xem Elia và Elisê: các Ngài đã tận tình giúp đỡ người ngoại bang trong khi tại Irael không phải là không có nhu cầu”.
Được đọc trong nghĩa đó, bản văn sẽ rất mạch lạc: Chúa Giêsu từ chối ràng buộc ơn cứu độ của Ngài trong mối liên hệ máu mủ hay thân quen. Ngài là tiên tri, Ngài hành động theo sứ mệnh thần linh. Dân Nazareth không thể áp lực bắt Ngài hành động theo ý họ. Phải từ bỏ mọi yêu sách, đòi hỏi, khi đứng trước TC: Ngài ban ơn cho ta hoàn toàn theo tự do của Ngài, và chỉ có một tâm hồn khiêm nhượng, tín thác mới có thể trông chờ (chứ không đòi hỏi) phép lạ.
“Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”: chúng ta hãy nhớ rằng, sau khi phân tích tiếng dektos trên đây thì phải dịch: “Không một tiên tri nào có thiện cảm với quê hương mình”. Công thức này cho thấy tính phổ quát. Luật chung không có luật trừ. Tuy nhiên theo Mt 13,58 và Mc 6,5 ghi lại thì Chúa Giêsu cũng làm một vài phép lạ ở Nazareth. Vậy ý nghĩa của câu nói Chúa Giêsu phải hiểu như sau: tiên tri không có cảm tình với người đồng hương hơn những người xa lạ, tất cả chỉ là vấn đề đức tin và ý hướng tốt là đủ; kể cả cộng đoàn Kitô giáo nguyên thủy cũng không có tư cách nào để được hậu đãi.
“Đã có nhiều bà góa trong Israel thời Elia”: sự đề cập đến: “quê hương” nơi câu trước cho phép Chúa Giêsu mở rộng cuộc tranh luận. Không những chỉ có Nazareth và Caphanaum, nhưng là dân Israel và dân ngoại. Cũng như Nazareth không có quyền đòi hỏi gì dù với tư cách là nơi chôn nhau cắt rún của Đấng Messia, của Đấng đem đến ơn cứu độ, cũng thế Israel không được lấy cớ là nơi phát sinh Đấng cứu thế để đòi hỏi quyền lợi về ơn cứu chuộc. Ơn cứu độ là một ân sủng. Và chính vì tính cách phổ quát rỗi này mà Chúa Giêsu khiến người Nazareth hết sức bất bình. Nếu họ muốn ném đá Ngài, rõ ràng là chính vì Ngài (xuất hiện như) là một kẻ phạm thượng khi từ chối ban cho Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu độ, vì ném đá là một hình phạt dành cho những kẻ phạm thượng (x. Lv 24).
“Nhưng Ngài rẽ qua giữa họ mà đi”. Thật khó mà tìm thấy một chỗ nào gần Nazareth có dốc núi để có thể xô người tử tội xuống để rồi ném đá. Nhưng Luca lưu tâm đến ý nghĩa cảnh tượng hơn là chi tiết. Khi đưa Chúa Giêsu ra ngoài thành để mưu toan giết Ngài, những người đồng hương đã cho thấy trước án quyết đẫm máu dân Israel sẽ gây ra cho Chúa Giêsu. Về phần Chúa Giêsu, Ngài thoát khỏi họ như Ngài sẽ còn làm nhiều lần cho đến khi tới giờ Ngài (x. Gio 7,10; 7,44; 8,59; 10,39). Việc dự phòng cho đến ngày cuối cùng của Chúa Giêsu đối với Luca quan trọng hơn phương cách Ngài thực hiện: tác giả nói một lời về việc Ngài có dùng phép lạ hay không để lẩn thoát. Bấy giờ Chúa Giêsu bỏ đi. Kiểu nói này được dùng nhiều lần và rất có ý nghĩa, như ông sẽ còn ghi lại nhiều lần, vì Chúa Giêsu tiến lên Giêrusalem (9,51; 13,22.33; 17,11; 19,28), tiến lên thánh giá và vinh quang.
KẾT LUẬN
Con người không có tư cách gì để đòi hỏi ân huệ của Thiên Chúa. Không phải những liên hệ máu mủ, đồng quê đồng xứ có thể đòi hỏi ơn cứu độ của đấng Messia. Vì chưng hồng ân của Thiên Chúa, ơn cứu độ ban cho nhân loại trong Đấng Messia, trước hết hoàn toàn là do ân sủng. Đó chính là điều mà người Nazareth đã không muốn hiểu. Chính thái độ này của dân Israel đã khiến Chúa Giêsu có dịp ngỏ lời với tất cả mọi người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1/. Vì Chúa Giêsu là người đồng hương với mình nên người Nazareth tưởng Ngài có bổn phận ban cho họ những hồng ân Ngài có thể giúp đỡ họ. Như thế có thể nói vì là người đồng hương với Chúa Giêsu, nên người Nazareth có quyền đòi độc quyền chiếm hữu một vài ân huệ của Chúa Giêsu. Người ta thấy Chúa Giêsu đã kịch liệt chống đối lời đòi hỏi đó. Trước mặt Thiên Chúa và Đấng tiên sai, không ai có quyền đòi hỏi gì.
Chúng ta phải luôn luôn sáng suốt để khỏi rơi vào những lầm lỗi của những người Nazareth. Chúng ta được rửa tội trong giáo hội công giáo, được hưởng nền giáo dục Kitô giáo, đạo dòng lâu đời, tất cả những điều ấy không có quyền gì trước mặt Chúa. Chúng ta có cảm tưởng rằng Thiên Chúa thuộc về những người công giáo, đến nỗi chúng ta có thói quen liên kết Thiên Chúa và giáo hội, Thiên Chúa và những người Kitô hữu. Nhưng chính ra Thiên Chúa không thuộc về những Kitô hữu, nhưng chính Kitô hữu thuộc về Thiên Chúa. Cũng có rất nhiều người trong thâm tâm không hề biết Ngài nhưng lại thuộc về Ngài – có lẽ còn thuộc về Ngài cách sâu xa hơn chính chúng ta. Thiên Chúa không dành ân sủng của Ngài cho riêng những người công giáo, cũng như Chúa Giêsu không dành phép lạ ưu tiên cho những người Nazareth. Thiên Chúa hoàn toàn tự do, nếu không Ngài sẽ không còn là Thiên Chúa. Vì vậy trước mặt Ngài chúng ta không thể đòi hỏi gì hết; chúng ta chỉ có thể nhìn nhận thân phận bất xứng, nghèo nàn của mình, và nài xin Ngài đoái thương nhìn đến thân phận tôi tớ thấp hèn của Ngài.
2/. Điều làm những người Nazareth cay cú nhất không phải là Chúa Giêsu phung phí những phép lạ của mình trong những thành khác của Israel nhưng trước hết là vì Chúa Giêsu bằng cách viện cớ vào gương hai vị tiên tri Elia và Elisê là hai vị tiên tri lớn thời xưa, minh định rằng Ngài cũng có quyền làm những phép lạ cho dân ngoại: một tiên tri không ưu tiên dành ân huệ cho quê hương mình. Đối với người Do thái, vì ý thức mình là dân chúa chọn, họ lấy làm tức giận và không thể tưởng tượng được rằng Đấng Messia, Đấng Thiên Chúa sai đến, lại lưu tâm đến dân ngoại. Sự minh định của Chúa Giêsu là một tiếng chuông rót vào tai họ như là một lời phạm thượng đáng phải ném đá. Chúa Giêsu thường gặp thái độ trong mấy măm sống công khai. Ở đây nhắc lại dụ ngôn những người thợ (làm vườn nho vào giờ thứ 11: những người thợ giờ thứ nhất đã bất bình vì lòng quảng đại của ông chủ vườn nho đã thuê những người vào trước hết cũng bằng những người cuối hết). Đối với họ thì lòng tốt này là một điều bất công. Nhưng cách tính toán của Thiên Chúa không phải là cách của chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã muốn chọn dân Do thái làm dân riêng Ngài (Đnl 7,6) không phải là vì Ngài không ưa thích dân tộc khác, nhưng chính là vì Ngài muốn dùng dân này như dụng cụ để mạc khải ơn cứu độ cho các dân tộc khác. Nếu nhờ phép rửa tội và nền giáo dục Kitô giáo, Thiên Chúa đã chọn chúng ta làm con cái Ngài, cũng không phải vì Ngài không ưa thích gì dân ngoại, nhưng chính vì Ngài muốn dùng gương lành của ta để lôi kéo họ đến cùng Ngài. Và nếu Thiên Chúa không thương ta, Ngài ban cho dân ngoại ân sủng hơn chúng ta (ân sủng do lòng quảng đại để sống một đời ngay thật, xứng hợp với lương tâm và trình độ ánh sáng chân lý mà họ có) thì lúc đó chúng ta cũng đừng căm phẫn về lòng tốt của Ngài, nhưng trước hết phải ca tụng Thiên Chúa là Đấng thiện hảo “muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhìn biết chân lý” (1Tm 2,4).
3/. Mặc dù có ý định ném đá Chúa Giêsu, nhưng người Nazareth đã thất bại, Ngài vượt qua giữa họ mà đi bằng yên: giờ Ngài chưa đến. Điều này cho thấy rõ ràng, người Do thái giết được Chúa Giêsu vì Ngài đã tự do quyết định như vậy. Cái chết của Ngài lúc đó là một cái chết tự do ưng thuận.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN-C
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà nhưng người nhà không nhận biết Người”. Tại sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta trong thời hạn hán, làm cho bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1/. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2/. Bạn khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có đúng không?
3/. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được điều gì? Để được may mắn, khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến Chúa?
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
THÀNH KIẾN – Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Chúng ta thường nghe nói “Quê hương là chùm khế ngọt ; Không nơi đâu đẹp cho bằng quê hương ; Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Theo quan niệm này, thì ai ai cũng yêu mến quê hương xứ sở nơi mình sinh trưởng, là nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Thế nhưng, cũng theo quan niệm dân gian thì đôi khi “Bụt nhà không thiêng, gần chùa gọi bụt bằng anh”. Chúa Giêsu đã nói lên kinh nghiệm này trong hội đường Nazaréth khi Ngài về thăm quê hương “Không một tiên tri nào được vinh dự đón tiếp nơi quê hương họ hàng mình” (Lc 4,24).
Thật vậy, sau một thời gian đi giảng dạy ở nhiều nơi, nay có dịp trở về thăm quê nhà nhằm đúng ngày Sabát, Chúa Giêsu đến hội đường tham dự sinh hoạt tôn giáo cùng với những người đồng hương. Theo thông lệ, trước hết Ngài đọc Kinh thánh rồi cắt nghĩa lời Kinh thánh. Lời giảng dạy của Ngài như Đấng có uy quyền và đầy khôn ngoan, làm cho những người đồng hương lấy làm kinh ngạc.
Họ kinh ngạc vì họ quá biết rõ tông tích “Đức Giêsu là con bác thợ mộc Giuse và mẹ Ngài là bà Maria người cùng làng xóm cơ mà!”. Tư tưởng tầm thường đó đã làm cho họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, Đấng mà cha ông tổ tiên họ hằng đợi trông.
Chính vì thành kiến trong tư duy và hẹp hòi trong cách nhìn, mà những người đồng hương đã không nhận ra Đấng Mêsia đang ở giữa họ. Họ không tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, lại càng không thể tin Ngài là Đấng Cứu Thế.
Lý do dân chúng không nhận ra là vì họ cứ tưởng Đấng Cứu thế phải uy nghi từ trên trời cao ngự đến, nhưng ai ngờ Ngài lại sinh bởi một Trinh Nữ làng quê dưới đất. Họ cứ tưởng Đấng Thiên sai phải cư ngụ trong lâu đài sang trọng dành cho các bậc vua chúa, nhưng không ngờ Ngài lại sinh ra trong cảnh cơ bần.
Người ta cứ tưởng Đấng Cứu độ trần gian phải oai phong lẫm liệt, nhưng có ai ngờ Ngài lại quá hiền lành khiêm nhường giàu lòng xót thương. Người ta cứ tưởng Đấng Mêsia đến đánh đông dẹp tây, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên hàng bá chủ thế giới, nhưng không ngờ Ngài bị dân chúng loại trừ hành hạ, sỉ nhục, bị kết án tử như một phạm nhân. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu Tinh là vị vua có kẻ hầu người hạ, nhưng không ngờ chính Ngài lại quỳ gối xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ. Cho nên, dân chúng không hiểu về sứ mạng của Đức Giêsu.
Cho dù Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự, nhưng đành phải cam lòng chấp nhận trước sự từ chối của con người. Vì dân làng không có lòng tin, nên Ngài không làm phép lạ nào tại quê hương mình. Thế mới biết khi mà con người cố chấp thì có thể làm cản trở chương trình của Thiên Chúa, và dùng tự do đón nhận hay từ chối hồng ân của Ngài.
Anh chị em thân mến,
Khi đến với nhân loại, Đức Giêsu muốn sống hiệp hành, nghĩa là cùng đi, cùng chung chia số phận với con người. Nhưng xót xa thay! Ngài đã bị những người đồng hương chối từ. Mặc dù họ kinh ngạc, thán phục sự khôn ngoan của Ngài, Nếu dân làng Nazaréth nài ép Đức Giêsu làm phép lạ để minh chứng Ngài là tiên tri cao cả, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Đức Giêsu chứng minh giáo lý của Ngài phải đến từ Thiên Chúa.
Nếu dân làng Nazaréth căm phẫn đến độ muốn xô Đức Giêsu xuống vực thẳm, vì Ngài không làm phép lạ nào tại quê hương, thì dân thành Giêrusalem cũng quyết tâm đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Sự cứng lòng tin của dân làng Nazaréth năm xưa không nhận ra dung mạo Đức Giêsu là Đấng cứu độ, biết đâu đó cũng là thái độ sống của ai đó trong chúng ta ngày nay. Chúng ta khó lòng nhận ra Chúa Giêsu nơi những người đau khổ, cùng khốn. Chúng ta không nhận ra phép lạ mà Chúa đang thực hiện qua những hoàn cảnh tầm thường của cuộc sống.
Cuối cùng, thưa anh chị em, Mùa Xuân Nhâm Dần đang về trên quê hương Việt nam thân yêu. Ngày tết là ngày đoàn tụ gia đình, bao người đi xa cũng về với gia đình, cùng chia vui với nhau một bữa cơm ngày tết, cùng dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp, và nhắc lại những kỷ niệm đẹp, ai ai cũng dễ dàng bỏ qua cho nhau những hiểu lầm, thành kiến không tốt về người khác.
Nếu như cành mai, cành đào chịu cắt tỉa đi những cành những lá trong đau đớn, để kết nụ, đơm hoa làm đẹp cho đất trời thế nào, thì chúng ta cũng phải can đảm cắt tỉa đi những tính hư tật xấu, những thành kiến tiêu cực về người khác, để tâm hồn chúng ta bung nở ra những nụ hoa bác ái yêu thương, những ân lộc tốt lành, đạo đức, cùng nhau đón mừng năm mới, với ước mong phúc lành của Chúa xuân sẽ tràn phủ trên quê hương Việt nam và cho từng người chúng ta. Amen.
Mừng năm Nhâm Dần sắp sang, kính chúc mọi người: Hạnh phúc mênh mang, ý chí vững vàng, niềm vui rộn ràng, yêu Chúa lai láng, sức khỏe cường tráng, cả nhà cười vang.
Mừng thêm tuổi mới: Côvid chẳng lo, buồn lo xếp xó, không còn nhăn nhó, khó khăn chuyện nhỏ, việc chạy ro ro, muốn gì được đó. Rước lộc vào nhà, quà cáp bao la, nhà nhà no đủ, tiền vô đầy tủ, dù già hay trẻ, sức khỏe dồi dào, tuôn trào hạnh phúc, ơn trên chúc phúc, an lành thịnh vượng. Kính chúc, kính chúc.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
CHÚA LÀ CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Sau một thời gian Chúa đi đó đây để rao giảng Tin Mừng, hôm nay Chúa trở về quê nhà để thăm lại bà con thân thuộc láng giềng, nhất là qua cuộc trở về thăm viếng đó, Chúa sẽ rao giảng Tin Mừng cho họ. Có lẽ lòng Chúa nôn nao, bồi hồi, xúc động khó diễn tả lắm. Bởi cuộc trở về đây là một cuộc trở về quê hương là chùm khế ngọt với đầy ắp biết bao những kỷ niệm một thời xa vắng đã qua. Nào là những gương mặt thân quen mà mỗi lần gặp là chào nhau rối rít, tay bắt mặt mừng. Nào là vào những ngày Sa bát cùng nhau tiến về hội đường để nghe Lời Chúa. Cuộc sống đậm đà tình làng nghĩa xóm. Chúa vẫn dành cho những người cùng quê hương xứ sở của Chúa một tình cảm rất trân trọng và rất tốt đẹp.
Nhưng thực tế thì lại khác, lúc Chúa trở về, mọi sự xảy ra không như ý Chúa nghĩ và ngờ tới. Dân làng của Chúa đổi thay quá nhiều. Họ không dang rộng vòng tay để đón Chúa. Họ không chấp nhận Lời Chúa dạy bảo khi Chúa vào trong hội đường rao giảng Tin Mừng ngày sa bát. Lúc ấy, Chúa đọc đoạn sách của tiên tri Isaia và Chúa nói: “ Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe “. Nghĩa là Chúa thực hiện sứ mạng này là do Chúa Cha trao phó chứ chẳng phải tự ý Chúa làm mà ngày xưa tiên tri Giêrêmia trong bài đọc một đã cảm nghiệm, đã nói về chính bản thân tiên tri, mà tiên tri là hình ảnh của Chúa ngày nay: “ Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc. Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi “. Họ đã không chấp nhận con người của Chúa là Đấng được Chúa Cha xức dầu bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và được sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Bởi vì họ cho rằng Chúa là con bác thợ mộc Giuse, Chúa là một người bình thường như bao người khác trong làng chứ có học hành chi đâu mà giảng dạy họ.
Họ không tin Chúa. Những điều Chúa nói chỗ khác thì người ta nghe, đón nhận và tin Chúa, cũng những điều ấy Chúa nói nơi quê nhà của Chúa để giúp họ từ bỏ tội lỗi, và có liên quan đến phần rỗi của họ thì họ lại không chấp nhận, để rồi Chúa phải nói: “ Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: Hỡi thầy thuốc hãy chữa lấy chính mình; điều chúng tôi nghe xảy ra ở Caphnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông “.
Dân làng của Chúa không tin, không chấp nhận Chúa, bởi nói như thánh Phaolô tông đồ trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô ở bài đọc hai là vì họ không có lòng mến. Không có lòng mến thì đố kỵ, khoác lác, kiêu hãnh, ích kỷ, nổi giận, suy tưởng xấu, vui mừng trước bất công, không tha thứ, không tin tưởng, không cậy trông, không chịu đựng, không chia vui cùng chân lý “. Họ không đón nhận Chúa thì Chúa đến với những người khác, đến với dân ngoại.
Chúa đã lấy lại biến cố thời Cựu ước xa xưa, khi nạn đói xẩy đến, dân tộc của họ chẳng được ơn mà chỉ có bà góa ngoại giáo tại Sarepta thuộc xứ Siđon được ơn là Chúa sai tiên tri Elia đến với bà để rồi hủ bột của bà không cạn, bình dầu của bà không vơi cho đến khi Chúa cho mưa xuống mặt đất trở lại. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô không được ơn chữa lành mà chỉ có Naaman người Syria ngoại giáo được ơn chữa lành mà thôi. Chúa nói như vậy để nếu họ tin vào Chúa thì Chúa sẽ ban ơn cho họ. Còn nếu không tin vào Chúa thì họ cũng giống cha ông họ ngày xưa là chẳng được ơn. Nhưng rồi họ lại nghĩ Chúa đã chạm đến tự ái, nỗi nhục của họ, vì họ được mang danh là dân riêng của Chúa, là con cái của Chúa mà họ lại thua cả dân ngoại. Chúa có ý khơi gợi lòng tự trọng của họ để mong họ thức tỉnh mà suy nghĩ lại hành động của họ, nhưng rồi họ ghét Chúa, căm phẫn Chúa, họ trục xuất Chúa ra khỏi thành. Họ dẫn Chúa lên triền núi để xô Chúa xuống vực thẳm mà giết Chúa. Chúa rẽ qua giữa họ mà đi.
Quả thật, trước hành động gian ác của họ, Chúa Cha đã gìn giữ, bảo vệ Chúa giống như ngày xưa Chúa Cha bảo vệ tiên tri Giêrêmia trước sự hãm hại của những người Do Thái khi tiên tri thực hiện sứ mạng Chúa trao phó: “ Đừng run sợ trước mặt họ…Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi “ ( Bđ I ). Chính hành động này của họ làm cho Chúa đau buồn, thất vọng. Chúa bỏ họ và Chúa đến nơi khác để tiếp tục sứ mạng của Chúa. Chúa không chỉ được sai đến cho họ mà còn cho cả dân ngoại. Còn bản thân họ hết cơ hội để đổi đời, để sống theo ý Chúa.
Lạy Chúa, cuộc đời không như là mơ, nhân thế hay thay đổi, mọi sự trên trần gian chỉ là phù hoa cát bụi. Xin Chúa đừng để chúng con bám víu, tin tưởng vào những sự hư vô đó, mà chỉ tin tưởng bám chặt vào Chúa. Xin Chúa đừng để chúng con giống như dân làng của Chúa ngày xưa là không tiếp Chúa, không tin Chúa, xin cho chúng con luôn biết tiếp đón Chúa, biết nghe Chúa, dù là Chúa đến trong hình hai một em nhỏ, hay là một người lớn, hay là một người có thiện chí nói ra những lỗi lầm của chúng con để chúng con sửa đổi và xin Chúa cho chúng con biết sống khiêm nhường để chúng con mỗi ngày sống tốt hơn. Amen
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
ĐỨC ÁI- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tư tế ở miền Bắc Giêrusalem. Thiên Chúa đã gọi, thúc giục và tác động cách mạnh mẽ trong tâm hồn của ông ngay khi còn thơ trẻ. Giêrêmia chấp nhận sứ mệnh ra đi giữa bao thử thách và khó khăn. Sứ mệnh của ngài kéo dài qua nhiều thập niên trong lịch sử của cộng đồng Giêrusalem. Ngài đã tiên báo về sự đe doạ và sụp đổ của thành Giêrusalem. Tiên tri có cá tính riêng và rất mạnh mẽ chịu đựng những khổ cực cùng với đoàn dân. Giêrêmia đã giúp mọi người nhận ra những hậu qủa xấu mà họ phải gánh chịu do sự bất trung và tội lỗi gây nên. Đôi khi ông cũng cảm thấy đuối sức và ngại ngùng, nên đã muốn chối từ sứ vụ đặc biệt này. Nhưng cánh tay của Chúa luôn dẫn dắt ông trong mọi nẻo đường. Ông thố lộ tâm tư qua sự mạc khải: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1,5). Chúng ta biết rằng sứ mệnh tiên tri là một ơn gọi đặc biệt vì là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa hứa ban sức mạnh và đồng hành cùng ông trong cuộc hành trình đầy gian nan này. Đối diện với sự ruồng bắt và cái chết, ai mà không lo sợ cho tính mạng của mình. Giêrêmia cũng không ngoại lệ, ông cũng là con người mang nhiều sự yếu đuối và lỗi lầm như mọi người. Sứ điệp của ông là kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để trở về cùng Thiên Chúa. Ông đã đặt niềm tin vào Chúa là kiên thuẫn và dũng lực. Thiên Chúa hứa: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì sấm ngôn của Thiên Chúa, có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” (Gr 1,19) Giêrêmia đã trung thành với sứ vụ được trao ban và đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm của Dân Dothái từ năm 627 tới khoảng năm 587 BC.
Sứ mệnh khó khăn của các tiên tri là phải đối đầu với đời sống con người thế tục. Các nhà cầm quyền đã dùng mọi ảnh hưởng để loại trừ thần quyền ra khỏi cuộc sống. Họ dùng sức mạnh và bạo lực của thế quyền để đàn áp, tẩy chay và loại trừ các nhân chứng của sự thật và công chính. Lòng người thế trần bị nhuốm màu tội lỗi vì sống thả theo bản năng thú tính và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của tham sân si. Nhiều người không còn muốn nghe những lời khuyên răn luân lý đạo đức. Đôi khi họ cho rằng những người sống đạo hạnh, công chính và chân thật là những người dại khờ. Phải tranh đấu để sống. Sống là phải hưởng thụ. Chúng ta biết đời sống là cuộc chạy đua. Không phải mọi người đều nhận ra được con đường chính thật. Người ngu mà biết mình ngu là người có trí. Người ngu mà tưởng mình có trí thì càng ngu hơn. Không biết chính mình là người vô minh và ngu đần. Đôi khi họ lại tưởng nghĩ mình là người khôn ngoan và sành đời. Luôn tìm cách tiêu diệt những người công chính và coi họ như là cản mũi kỳ đà.
Chúa Giêsu biết rất rõ về số phận của các nhân chứng cho sự thật. Từ xưa, số phận các tiên tri hoặc ngôn sứ đã thường bị bách hại, xua đuổi và tẩy chay. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm điều này ngay tại quê quán mình: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc 4,24). Làm nhân chứng cho sự thật giữa một xã hội bị tục hoá như hiện nay là một sự dấn thân hy sinh và từ bỏ. Các trào lưu xuôi dòng đang cuồn cuộn kéo lôi con người như thác lũ đi vào cuộc sống hưởng thụ thế tục. Nhiều nhà cầm quyền có xu hướng chạy theo thị yếu và mị dân chấp thuận những khuynh hướng của nền văn minh sự chết. Các thế hệ trẻ hiện nay dễ bị đầu độc bởi nền văn hóa thụ hưởng rất tinh tế và nhẹ nhàng qua cách suy tưởng và phán đoán thuận theo đa số. Là Kitô hữu, chúng ta không thể chạy theo những trào lưu hào phóng bên ngoài, nhưng phải biết tìm kiếm nguồn chân thiện mỹ. Hãy yêu chuộng những vẻ đẹp của đời sống lương tâm tự nhiên đã được in ghi trong tâm hồn. Chúa Giêsu về lại làng quê mình để gặp gỡ và truyền rao sứ mạng cứu độ. Người đồng hương ngạc nhiên về lời giảng dạy của Chúa nhưng họ không mở lòng đón nhận chân lý. Họ đòi hỏi và thách thức quyền năng của Chúa: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4,29) Chúa Giêsu đâu làm gì nên tội để bị đối xử tệ như thế. Có lẽ tâm hồn của họ bị khép kín và trái tim bị đóng băng lạnh lùng. Họ không chấp nhận lời giảng và cũng không đón nhận chính Chúa. Họ đã vào hùa với nhau chống báng và xua trừ Chúa để khỏi phải nghe những lời chân thật. Chúa Giêsu cùng đồng số phận với các tiên tri bị người đời ngược đãi và thế gian chống đối ghét bỏ.
Số phận các ngôn sứ hôm nay cũng không khá hơn các vị tiền bối. Những nhà truyền giáo và các nhân chứng sự thật đều phải đối diện với hiện trạng thờ ơ và lạnh nhạt trong đời sống luân lý, đạo đức. Dù trong hoàn cảnh nào, xem ra sự kiện có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn vẫn có thể kéo lôi nhiều người. Khi cuộc sống ổn định về kinh tế và tài chính, đời sống đạo cũng nhờ đó mà thăng hoa. Chúng ta chấp nhận rằng thực tế cuộc sống luôn đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể trước. Chính Giáo Hội cũng đang nỗ lực giúp đỡ những vùng truyền giáo xa xôi. Họ thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất. Nhân chứng sự thật không thể tách rời khỏi những nhu cầu căn bản cuộc sống của người dân.
Một điều rất quan trọng mà thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13,3) Đức mến là cốt lõi của việc ra đi làm nhân chứng. Là nhân chứng cho Chúa Kitô, chúng ta không thể thiếu tình yêu chia sẻ. Nếu tất cả mọi việc phục vụ tha nhân với trái tim yêu thương, sẽ mang lại niềm vui và ý nghĩa đích thực. Yêu rồi làm. Tình yêu sẽ thăng hoa tất cả. Phaolô khuyên dạy: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.” (1 Cr 13,4-6)
Đức ái là nhân đức tuyệt hảo. Chỉ có tình yêu mới có thể tha thứ, bao dung và liên kết nên một. Tình yêu như lửa hun đốt và hâm nóng những tâm hồn nguội lạnh. Một thái độ cảm thông yêu mến có thể xoá nhoà mọi lỗi lầm. Một cử chỉ yêu thương có thể khơi dậy niềm hy vọng. Một dấu ấn tình yêu có thể đổi đời. Một lời nói dễ thương có thể vỗ về tâm hồn nguội lạnh. Ôi tình yêu thật diệu vời! Ai trong chúng ta cũng có trái tim để yêu, chỉ cần chúng ta biết mở cửa trái tim để trao ban và đón nhận. Tình yêu như dòng sông nước chảy, càng chảy càng thấm nhuần. Yêu là cho đi và cũng là đón nhận. Một tình yêu tuôn trào sẽ tạo nguồn sống tươi vui và hạnh phúc. Chúng ta đang ngụp lặn trong biển tình: tình Chúa, tình gia đình và tình nhân lọai. Tình yêu chính là lẽ sống. Lạy Chúa, Chúa là Tình Yêu. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ dám hiến thân mình vì bạn hữu. Chúa đã hiến mình vì yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Chỉ có đức mến mới tồn tại muôn đời: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1 Cr 13,13).
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN-C
SỰ THẬT MẤT LÒNG- Lm. Anphong Trần Đức Phương
Trong tiếng Việt Nam có câu nói “Sự Thật mất lòng!” và Chúa Giêsu nói “Sự Thật giải thoát anh em!” (Ga 8: 32). Chúng ta thường không thích nghe những lời “nói thẳng và nói thật” vì va chạm tự ái của chúng ta; nhưng nếu biết khiêm tốn lắng nghe và sửa đổi, thì “Sự Thật lại giải thoát chúng ta” khỏi những khuyết điểm mà mình không nhìn ra, và như thế “Sự Thật” xây dựng chúng ta. Trái lại, những lời nịnh bợ tâng bốc thường làm chúng ta ra mù quáng và không nhìn được rõ những khuyết điểm để sửa đổi.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy nhân dịp về thăm quê hương Nagiaret, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu cũng vào sinh hoạt tại Hội Đường và nhân dịp được mời đọc Sách Thánh, Chúa Giêsu đã chia sẻ với cộng đoàn về lời trong Thánh Kinh: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó…” Thánh Luca ghi lại: “mọi người đều thán phục những lời Ngài nói…” Nhưng vẫn có những người đặt vấn đề “Ông này không phải là con bác thợ mộc đó sao?” Biết phản ứng của họ như vậy, Chúa Giêsu đã nói rõ sự thực về tâm tính ngang bướng của họ và của cha ông họ thời xưa, và đưa ra những bằng chứng rất rõ ràng. Thế là “mọi người trong hội đường (bị chạm tự ái) đã nổi giận, lôi Chúa Giêsu lên đỉnh đồi và định xô Ngài xuống vực thẳm.”
Đúng là sự thật mất lòng và đưa đến thù hận. Nhưng trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã không sợ nói sự thật và thường được dân chúng hân hoan đón nhận. Tuy nhiên, vẫn có những người đầy tự ái, như các kinh sư, biệt phái, họ không muốn nghe sự thật; họ căm phẫn, và nhiều lần họ đã âm mưu giết Chúa. Cuối cùng họ đã lên án và giết Người trên Thánh Giá. Nhưng đó lại là chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thực ra, Chúa Giêsu không phải vì ghét họ mà nói sự thật. Nhưng Ngài muốn “nói thẳng, nói thật” để cảnh tỉnh họ và giúp họ sửa đổi, và có thể nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Chúa Giêsu. Bằng chứng là trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đến với người bệnh hoạn, nghèo khó, bị bỏ rơi để giúp đỡ và rao giảng cho họ và khi có dịp, Chúa Giêsu cũng vẫn đến thăm nhà và dùng bữa với những người biệt phái, những kinh sư, đến với những người tội lỗi, những người thu thuế (Matthêu 9: 10-13). Tất cả là vì tình thương của Chúa đối với mọi người, và mong muốn mọi người sửa đổi cuộc sống để được hưởng ơn cứu độ.
Nhìn vào đời sống của các Tiên Tri thời Cựu Ước, chúng ta thấy các tiên tri được Chúa sai đến để nói sự thật với Dân Chúa cũng chỉ với mục đích kêu gọi họ bỏ cuộc sống tội lỗi, vô luân để sống theo lề luật Chúa, sống xứng đáng con cái Chúa. Dân chúng thường đón nhận lời các tiên tri; nhưng cũng vẫn có những kẻ chống đối, và có những tiên tri bị bách hại, bị xua đuổi và có khi bị giết chết nữa (Matthêu 23: 34-36). Vị tiên tri cuối cùng là Thánh Gioan Baotixita cũng bị tù đày và giết hại.
Hôm nay, trong bài Đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn Giêrêmia (sinh khoảng 650 trước Chúa Giáng Sinh) làm Tiên Tri cho Chúa. Chúa bảo ông: “Hãy nói cho dân chúng những điều Ta truyền ngươi nói với họ. Đừng run sợ trước mặt họ!… Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ sẽ không thắng được ngươi, vì ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Đúng như lời Chúa nói, trong cuộc đời rao giảng những mệnh lệnh của Chúa, tiên tri Giêrêmia đã phải nói những sự thật để giúp họ sửa đổi ‘lòng chai đá của họ’, vì thế mà tiên tri đã gặp rất nhiều chống đối, thù ghét. Sau cùng tiên tri bị giết chết (vào khoảng 580 trước Chúa Giáng Sinh) trong thời bị lưu đày ở Ai-Cập. Chính sau cái chết thảm khốc của ông mà dân chúng càng hiểu ông hơn và đem lòng sùng mộ, và nhận ra những điều chân thật tiên tri đã giảng dạy ho.
Mỗi tín hữu chúng ta, sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hiến qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta cũng đều có bổn phận phải làm “tiên tri”, làm “chứng nhân” cho Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho mọi người. Trong khi loan truyền Lời Chúa, thường khi chúng ta cũng gặp được những con người vui vẻ đón nhận, nhưng cũng có những trường hợp bị phản ứng bất lợi. Chúng ta luôn phải kiên nhẫn chịu đựng, và cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa chính chúng ta, và thánh hóa những người chúng ta rao giảng; cầu nguyện đặc biệt cho những người chống đối chúng ta (Matthêu 5: 43-48). Tất cả chỉ vì lòng “mến Chúa và yêu người” mà chúng ta làm nhiệm vụ “tiên tri” và chứng nhân cho Chúa.. “Lòng mến Chúa yêu người” tức là đức Bác Ái, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay: “Đức Bác Ái thì nhẫn nhục… tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả…”
Mong rằng từ nay chúng ta biết ý thức hơn về bổn phận rao giảng Lời Chúa, làm chứng cho Chúa (nhất là bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta) trong cuộc sống hàng ngày nơi gia đình, sở làm, trường học, với mọi người chúng ta có dịp tiếp xúc. Trong cuộc hành trình Đức Tin, chúng ta không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với anh chị em chúng ta, chúng ta cần nâng đỡ nhau, cầu nguyện cho nhau, luôn giữ vững Đức Tin, duy trì Đức Bác Ái, và cùng nhau giúp đỡ những người chưa nhận biết Chúa được nhận ra Chúa là Cha, và Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế làm người rao giảng Tin Mừng cứu độ, đã chịu nạn chịu chết để cứu chuộc chúng ta; Người đã sống lại và về trời để mở đường cứu rỗi chúng ta. Ai tin và sống theo giới răn của Người, thì được ơn cứu chuộc.
Cuộc sống mỗi người ở trần gian này rồi sẽ qua đi, chúng ta hãy biết dùng mọi thời gian còn lại, mọi phương thế có thể được để giúp đỡ mọi người, không phải chỉ bằng vật chất, nhưng cả về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng, để mọi người có thể hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa.
“Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần Khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi, Ngài sai tôi đi, Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, Mang Tin Mừng giải thóat, Thiên Chúa đã cứu tôi…” (Thiên Lan: Thánh Ca: “Thần Khí Chúa”)
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
CAN ĐẢM CHẤP NHẬN LỖI LẦM- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giê-su trở về quê hương Na-da-rét. Vì ưu ái người đồng hương, Người tỏ cho họ biết vai trò và sứ mạng của Người là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó…với hy vọng là những người đồng hương cốt nhục của mình sẽ sẵn lòng đón nhận Tin Mừng cứu độ.
Thế nhưng, vì in trí rằng Chúa Giê-su chỉ là một anh thợ mộc bình thường con của bác thợ Giu-se, bà con thân thích của Người đâu có ai sáng giá… nên họ đã không tin vào Người. Họ đã để vuột khỏi tầm tay một cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân vô giá.
Để cảnh tỉnh họ, Chúa Giê-su chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến, nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ I-sa-i-a, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ I-sa-i-a được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.
Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân It –ra-en cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo, người nước Sy-ri.
Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Chúa Giê-su không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Người khủng khiếp!
Họ nổi cơn phẫn nộ chỉ vì Người đã chỉ cho họ thấy những sự thật phũ phàng liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Chúa Giê-su, lôi Người ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.
Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực, cho Người nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Người khỏi cuộc sống, vì Người đã dám nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng liên quan đến họ…
Ôi, khủng khiếp thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!
Cái tôi kiêu căng tự phụ trong mỗi người là nguyên nhân chính khiến người ta nổi giận với những ai chỉ lỗi cho mình. Cái tôi tự phụ nầy đã khiến con người trở nên mù tối trước những lầm lỗi của mình và tìm cách biện minh cho những sai trái của mình đủ mọi cách, kể cả việc dập tắt tiếng nói của người chỉ lỗi cho mình.
Nếu ngôi nhà chúng ta đang bị bén lửa từ phía sau, bỗng có người phát hiện và báo cho ta biết để kịp thời chữa cháy, hẳn chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và cấp tốc chữa cháy cho ngôi nhà.
Còn nếu trong hoàn cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy, chúng ta lại quay ra căm giận, hành hung người báo cháy cho mình thì thật là điên rồ không thể chấp nhận được.
Thói hư tật xấu và những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo cho biết có ‘lửa’ đang bén vào ‘căn-nhà-cuộc-đời’ của ta, thì đừng phẫn nộ với người đó như người dân thành Na-da-rét năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ họ cảnh báo mà chúng ta biết được những ‘ngọn-lửa-lầm-lỗi’ âm ỉ đốt cháy cuộc đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình khỏi cháy.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách đen tối trong tâm hồn chúng con để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen tối trong đời mình, để nhận ra cái TÔI của mình thật tăm TỐI, nhiều khi rất TỒI và cũng lắm TỘI.
Xin cho chúng con can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực của người khác mà không tìm cách biện minh hay chống chế.
Xin cho chúng con dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình, gọi đúng tên chúng, quan sát cách vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi, lời nói, và cách cư xử hằng ngày của chúng con… để thấy chúng khả ố đến chừng nào. May ra lúc đó, chúng con mới có thể cải thiện và đổi đời.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
TRỞ VỀ QUÊN HƯƠNG- Lm. Gioan Nguyễn Tươi
Quê hương… mỗi người đều có
Vừa khi mở mắt chào đời
Quê hương …là dòng sữa mẹ
Thơm thơm giọt xuống bên nôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ…
Sẽ không lớn nổi thành người.
(Quê Hương- Đỗ Trung Quân)
Trong trái tim của mỗi người, quê hương được gắn liền với tuổi thơ, với tình yêu thương con người. Khi đi xa quê hương, thì lòng người càng thêm nhớ thương. Nhớ về cha mẹ, nhớ anh chị em, nhớ những người thân quen trong tình làng nghĩa xóm, nhớ những người bạn cũ một thời cắp sách đến trường. Quê hương được ví như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng đời con. Quê hương được khắc ghi trong trái tim của mỗi con người. Quê hương nếu ai không nhớ, thì sẽ không lớn nổi thành người. Đọc lại bài thơ quê hương, nó đã gợi lại cho tôi nhiều kỷ niệm của tuổi thơ nơi tôi được sinh ra và lớn lên. Càng xa quê hương thì lòng càng thêm nhớ thương. Dù đi đến đâu thì lòng tôi vẫn muốn trở về thăm lại mái nhà xưa.
Trong hành trình đi rao giảng khắp nơi, Chúa Giê-su cũng tranh thủ trở về quê hương Nazaret, nơi Ngài đã được dưỡng dục và lớn lên. Chúa Giêsu vào Hội đường, Ngài đọc và giảng dạy Kinh Thánh cho dân chúng: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều kinh ngạc và thán phục về giáo huấn của Ngài. Chúa Giê-su dùng từ “hôm nay” có nghĩa là hiện tại ngay bây giờ quý vị vừa nghe. Nó không phải là ngày mai hay là tương lai mà là ngày hôm nay. Lời Chúa phải được ứng nghiệm trong chính tâm hồn mọi người. Nhưng chúng ta phải biết mở rộng con tim, thì Lời Chúa mới có thể gieo vào, lớn lên và sống được. Giống như hạt lúa được gieo vào mảnh đất tốt, nó sẽ đơm hoa kết trái.
Tuy nhiên, có những kẻ nghe Lời Chúa, nhưng họ còn mang nặng thành kiến, vì do lối sống của họ đi ngược lại với đường lối của Thiên Chúa, nên họ tìm cách chống đối, phủ nhận và không muốn nghe Lời Chúa. Chẳng ai xa lạ, họ là những người đồng hương của Chúa Giê-su. Họ nói rằng: “Người này không phải là con ông bác thợ mộc sao?”. Hóa ra bụt nhà không thiêng là vậy. Cho dù, Chúa Giê-su đã làm nhiều phép lạ chữa lành bệnh tật cho nhiều người để cho họ nhận ra ơn cứu độ và quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng, họ đã từ chối đón nhận ơn thánh, mà đáng lẽ họ được ân hưởng.
Chúa Giê-su đã thấu hiểu cõi lòng của họ, Ngài nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”. Thật là đau lòng. Chúa Giê-su yêu quê hương da diết, muốn trở về để chia sẻ và ban ân phúc cho những người đồng hương và cho mảnh đất quê hương, mà Ngài gắn bó như ruột thịt máu mủ. Ấy thế mà họ đã phủ nhận và không đón tiếp với những gì Chúa Giê-su giảng dạy và làm cho họ. Vì lòng ganh tỵ, ích kỷ và thành kiến, họ không còn nghĩ đến những gì Ngài đã làm cho họ. Họ cắt đứt mối dây liên kết tình đồng hương, và cũng không chấp nhận sự thật hay biến cố đã xẩy ra tại quê hương mình. Họ nói: Người ấy không phải là con bác thợ mộc sao? Hoàn cảnh của ông ta có gì hơn người khác đâu! Một gia đình nghèo nàn, đơn sơ trong cái làng này.
Hơn nữa, điều làm cho chúng ta đáng suy nghĩ trong đoạn cuối của bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giê-su chỉ cho họ biết lý do tại sao các phép lạ chỉ xẩy ra cho các người dân ngoại Ca-phác-na-um trong thời các tiên tri, mà không thực hiện cho những người Itrael. Lời nói này đã đụng chạm đến lòng tự ái dân tộc, vì họ luôn tự cho mình là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn. Họ tự cho mình đạo đức thánh thiện hơn người nên họ đã phẫn nộ, trục xuất Chúa Giê-su ra khỏi thành. Họ dẫn Ngài lên núi để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết. Nhưng Ngài rẽ qua giữa họ mà đi. Thật là phủ phàng.
Cuộc trở về quê hương của Chúa Giê-su đã thất bại. Ngài đã bị người đồng hương xua đuổi, coi thường, khinh dễ. Điều Chúa Giê-su muốn nói với đám đông không phải là coi thường họ, hay bình phẩm về lối sống đạo hình thức giả tạo bên ngoài của họ, nhưng Ngài muốn chỉ cho họ thấy rằng, ơn cứu độ của Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho dân Itrael mà còn cho những người dân ngoại nữa. Sự cứu rỗi không tùy thuộc vào công việc họ đã làm, mà chính là ân sủng và nhờ lòng tin mà họ được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là ân huệ lớn lao của Thiên Chúa ban cho. Ơn cứu độ được mở ra cho tất cả mọi người và ơn thánh đó cần được ứng ngiệm trong cuộc sống mỗi người chúng ta hôm nay.
Mỗi ngày là một cuộc trở về. Trở về với gia đình. Trở về với chính mình. Trở về với căn tính của mình. Trở về với Thiên Chúa của mình. Trở về để biết mình đang đi về đâu. Mỗi người chúng ta có thể đi nhiều nơi, nhưng quê hương mỗi người chỉ một. Đó là quê hương trên trời, mà mỗi người chúng ta mong đợi khi kết thúc hành trình trên trần gian này. Thế gian là quán trọ dừng chân, để cho ta bước về quê hương vĩnh cửu. Chỉ có quê hương của Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta mới là quê hương thật. Nếu chúng ta không nhớ thì không thể lớn thành người con dân của nước Thiên Chúa.
Ước gì, Lời Chúa hôm nay được ứng nghiệm trong mỗi người chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN-C
CẦN CÁI NHÌN MỚI ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ THẬT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài được nuôi dưỡng và trưởng thành, để rao giảng.
Cái nhìn cũ không thể nhận ra và đón nhận Đức Giêsu
“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.” Dân làng Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này là con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao, vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một người đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.
Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ. Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu? Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó khổ như thế nào.
“Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng mở với mọi người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một người. Một người qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể họ không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Theo kinh nghiệm sống, điều này rất khó xảy ra, nhưng khó không có nghĩa là không có. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chị Maria Magdala là một điển hình.
Năm mới, xin cho chúng ta có cái nhìn “mới” về con người, đặc biệt những người vẫn sống với chúng ta, để chúng ta lạc quan và trông cậy vào Thiên Chúa hơn.
Khiêm tốn để đón nhận và cho đi
Sự đối kháng không chỉ ở mức độ không thích, không muốn nghe, nhưng đã đến độ người làng Nadarét muốn giết Đức Giêsu. Họ dẫn Đức Giêsu tới sườn đồi, và muốn xô Đức Giêsu xuống vực, nhưng Ngài đã băng qua giữa họ mà đi. Được sống với Đức Giêsu, được là người đồng hương (cùng làng) với Đức Giêsu, đáng lẽ là một ơn phúc, nhưng bây giờ lại là mối họa, là điều ngăn cản nhận biết Đức Giêsu. Tại sao vậy?
Tiên tri không được đón nhận tại quê hương mình. Vì người ta cho rằng họ đã biết rõ về con người đó. Và như vậy, con người đó đâu có gì để mình học, đâu có gì đặc sắc để mình phải lắng lòng. Không cần gì thêm, là một thái độ tự mãn, không thể đón nhận gì khác được, ngay cả Thiên Chúa. Người ta thường ví người tự mãn như một ly đầy nên không thể nhận gì hơn. Nếu không nhận, đâu có gì để cho. Một đại dương hay một dòng sông, luôn sẵn sàng đón nhận khe suối hay những giọt nước dù rất nhỏ, nên có thể cho mãi mãi mà không bao giờ cạn.
Một người tự mãn tự kiêu thường lấy mình làm tiêu chuẩn, và không mở lòng ra đón nhận sự thật. Vì coi mình vượt trên người khác, nên khi thấy người khác “có vẻ” coi thường mình, thì họ sẵn sàng hạ bệ hoặc tiêu diệt người khác. Đó là lý do tại sao người làng Nadarét muốn xô Đức Giêsu xuống vực.
Xin cho con có tâm hồn khiêm tốn, để con có thể đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ trong đời sống từng ngày của con.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Hiện tại không ai trong chúng ta thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng bạn có tin rằng Thiên Chúa đến với bạn mỗi ngày không? Xin bạn cho vài thí dụ.
- Có khi nào bạn “thấy” Thiên Chúa đến với một người bạn quen qua biến cố nào đó, nhưng người đó không nhận ra? Tại sao vậy, và làm sao để có thể nhận ra Thiên Chúa đến với mình?
- Tết này dịp bạn về quê, đâu là dự định của bạn? Điều bạn dự tính có ích lợi gì cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân, người yêu không?
- Năm mới, nếu cho bạn một điều ước, bạn sẽ ước điều gì?
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C
THÂN PHẬN NGÔN SỨ- Lm. Giuse Vũ Khắc NGhiêm
Một tân Linh mục tự nhiên bộc lộ tâm sự: Bao nhiêu năm làm thầy ở Giáo xứ, người ta coi thường mình quá! Thế mà chỉ sau một giờ thụ phong Linh Mục, ai ai cũng kính trọng cúi chào và chúc mừng nồng nhiệt.
Một cảm giác thật kỳ diệu!
Nếu Đức Giêsu cũng được tấn phong theo nghi lễ bên ngoài cho người ta trông thấy, chắc chắn sẽ được dân làng Nazareth kính trọng biết bao. Đằng này Đức Giêsu chỉ nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. Lời Kinh thánh đó đã được đọc Chúa nhật trước là: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi…”. Họ không thấy Thánh thần xức dầu tấn phong người làm Ngôn sứ như Êlia xức dầu tấn phong Êlisê (1V. 19,16), làm Linh mục như Môise xức dầu tấn phong cho Aharon (Lv. 8,13), làm vua như Samuel xức dầu tấn phong cho David (1S. 16,13). Dầu mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp Người đã nói. Họ không tin lời Tiên tri Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu vì hai lý do:
1) Thứ nhất: “gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Họ nói: “Ông này không phải là con Ông Giuse đó sao?” cảm tưởng thán phục về Đức Giêsu thoát chốc biến mất khi họ nhận ra Người là con ông Giuse, con bác thợ mộc vẫn lang thang làm mướn cho hết nhà này cho đến nhà kia. Gần suốt ba mươi năm, Người sống với họ trong một miền quê nghèo nàn nhỏ bé, làm sao có thể bỗng chốc trở thành Ngôn sứ, trở thành vĩ nhân được. Họ đã biết rất rõ nguồn gốc Người thuộc dòng dõi những kẻ tầm thường từ Giuse đến Eli con ông Mátthát, tới ông cụ ông kỵ là dòng dõi Lêvi như thánh Luca đã kể đoạn gia phả (Lc. 3, 23. 24). Và họ đã vấp phạm vì họ quá bám vào thành kiến loài người: “Con Vua thì lại làm Vua. Con bác Sãi Chùa thì quét lá đa”.
Làm sao loài người thoát khỏi những thành kiến nô lệ đó. Họ phải biết rằng: Xưa kia đã có những kẻ mục đồng tầm thường như Saulê, như David đã được tấn phong làm Vua, những bác nông phu đi cầy, đang hái nho như Êlisê, Amos cũng được sai làm Ngôn sứ. Ở Việt Nam cũng có người dân áo vải đã trở nên những vị Vua anh hùng như Lê Lợi, Quang Trung. Nhiều con nhà nghèo cũng được bầu làm Giáo Hoàng như Piô 10, Gioan 23.
Đức Giêsu chẳng những là người dân lao động mà còn có nguồn gốc dòng dõi siêu phàm. Hôm nay Người tỏ ra cho họ biết Người đã thực hiện sứ mệnh siêu phàm đó là cho người nghèo được nghe Tin Mừng, những tâm hồn tan nát được băng bó, người mù được sáng…
Họ cũng đã nghe thấy Người làm ở Caphanaum “cho người què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại” (Mt. 11, 5).
2) Thứ hai, từ coi thường đến thách thức và phẫn nộ:
“Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương Ông xem nào!”. Đây là một thách thức ghê gớm để thử Người như Satan đã thử Người từ trên nóc đền thờ lao mình xuống đất, như những kẻ đòi Người làm một dấu tạ từ trời (Lc. 11, 16). Họ cũng hy vọng như những kẻ lười biếng, ỷ lại ích kỷ muốn: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Họ muốn Đức Giêsu phải làm cho họ hơn những người khác vì họ đồng hương với Người. Đó là óc gia đình trị, bè đảng trị. Chúng ta cũng giống như những người làng Nazaneth muốn Thiên Chúa giải quyết cho chúng ta mọi vấn đề. Nhưng Thiên Chúa không thiên vị ai. Chỉ những ai thành tâm mến Ngài, trông cậy phó thác và thực thi Thánh ý Ngài, sống theo đường Thánh giá của Đức Giêsu, lúc đó Ngài mới ra tay cứu thoát.
Thấy họ ngạo mạn, ích kỷ vụ lợi như thế, Đức Giêsu đã nói thật về họ. Họ giống như tổ tiên họ thời các tiên tri Êlia và Êlisê.
Trong thời Êlia, nạn đói do hạn hán hoành hành trong ba năm sáu tháng, Thiên Chúa sai Êlia đến cứu giúp bà goá lương dân thành Sarépta, còn bao nhiêu bà nghèo đói khác trong dân Israel lại không được cứu giúp. Tại sao thế? Thưa vì bà góa dân ngoại này đã có lòng thương người biết chia cơm, sẻ nước cho người khách lạ là Êlia, còn các bà dân Israel theo nhà Vua A-kháp và Hoàng Hậu Iza-bel đi cầu khẩn tà thần Ba-al (1V. 16, 30-17,15)
Trong thời Êlisê, bao nhiêu người phong cùi trong dân Israel không đến xin Êlisê, tiên tri của Thiên Chúa cứu chữa, mà chỉ có đại tướng Naaman, người dân ngoại nước Syri, cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến nài xin Êlisê cứu và đã nghe lời tiên tri dậy bảo xuống sông Gióc-đan thanh tẩy và đã được khỏi (2V. 5,1-15). Những lời nói thật đó lại làm họ phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo lên đỉnh đồi, để xô Người xuống vực thẳm. Đáng lý ra, nghe những lời giảng dậy cao siêu lạ lùng đó, họ phải thán phục, kính trọng lãnh nhận để suy niệm. Đáng lý ra, biết Người làm nhiều phép lạ ở Caphanaum, họ phải tin quyền phép Thiên Chúa nơi Người và khiêm tốn cầu xin cứu chữa. Đáng lý ra, khi Người vạch ra cho họ thấy rõ sự thật, họ phải đau đớn ăn năn sám hối, cải thiện để được ơn tha thứ. Nhưng họ lại khinh bỉ, tự ái kiêu căng lao đầu theo dục vọng phẫn nộ điên cuồng của tội ác giết người.
Ngày nay, Đức Giêsu cũng đang nói với chúng ta những sự thật đó: Những sự thật phũ phàng đang xẩy ra, những nạn kỳ thị khủng khiếp đe dọa tiêu diệt lẫn nhau giữa các nước, các chủng tộc, tôn giáo, giai cấp, trong xóm làng và trong gia đình. Có những người công chính dám nói lên những sự thật đó, đều bị thảm sát như Grandhi ngày 14/01/1948, Luther King ngày 04/04/1968, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị sát hại hai lần ngày 13/05/1981 tại Roma và 05/05/1982 tại Tây Ban Nha.
Lời Chúa hôm nay cho thấy: người ta cũng muốn sát hại Đức Giêsu và tiên tri Giêrêmia. Để mỗi người chúng ta, trong gia đình, trong giáo xứ tránh khỏi nạn kỳ thị lẫn nhau, thánh Phaolô trong bài đọc II kêu gọi chúng ta phải sống bác ái theo gương Đức Giêsu: Đem Tin Mừng đến cho nhau, chứ đừng đem sầu khổ; băng bó những tâm hồn tan nát, chứ đừng đâm bị thóc, chọc bị gạo; giải thoát cho kẻ bị áp bức, đem ánh sáng Đức Kitô cho kẻ ngồi trong bóng tối tội lỗi; ban bố hồng ân của Chúa, chứ đừng gieo tai bay vạ gió.
Lạy Chúa, Chúa đã thương chọn mỗi người chúng con làm ngôn sứ của Chúa ngay khi chúng con chịu phép Rửa tội: “Thánh Thần Chúa đã xức dầu chúng con để nhập đoàn dân Người, chúng con mãi mãi làm chi thể của Đức Kitô là tư tế, tiên tri và vương đế đến cõi sống đời đời”. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi sứ mệnh cao cả đó, dù có bị phẫn nộ, xô đẩy xuống hố sâu, thì Chúa cũng cho chúng con “băng qua giữa họ mà đi”.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhativthuongnienc #suyniemloichuagpbr