CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TIỆC CƯỚI CANA – Chú giải của Fiches Dominicales. 15
HÃY MỞ CỬA ĐÓN CHÚA ĐẾN NHÀ (*)- Lm. Đan Vinh HHTM.. 25
CHÚA GIÊSU HÓA NƯỚC THÀNH RƯỢU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 31
TIỆC CƯỚI CANA – Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt 45
MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 56
PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 60
CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA- Lm. GB. Nguyễn Minh Phương CSsR 64
ĐỂ CHO TÌNH MẶN NỒNGF- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 70
ÂN SỦNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 76
CHÚA ĐẾN ĐEM LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 82
ÃY MỜI CHÚA VÀO NHÀ- Lm. FX. Lê Văn Nhạc.. 86
CON ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG KỲ DIỆU- Lm. Pt. Nguyễn Minh Chánh 92
CHÚA HIỂN LINH ĐIỀU GÌ TRONG PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN TẠI CANA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB.. 97
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Người chồng sẽ vui mừng vì vợ”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Ðấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Ðấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Ðấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 7-8a. 9-10ac
Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân
Xướng: Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người.
Xướng: Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
Xướng: Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người.
Xướng: Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.
Bài Ðọc II: 1 Cr 12, 4-11
“Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 2, 1-12
“Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Chúa Giêsu nói với mẹ: “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến”. Mẹ Người nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”. Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy đổ nước đầy các chum”. Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!” Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: “Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này”. Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.
{Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}
Ðó là lời Chúa.
DẤU LẠ ĐẦU TIÊN(*)- Chú giải của Noel Quession
Bài trình thuật tiệc cưới ở Cana được Gioan, một nhân chứng trực tiếp, kể lại. Điều đó bảo đảm sử tính của câu chuyện. Nhưng Gioan, cũng như các thánh sử khác trước hết không có ý định mô tả cho chúng ta một đám cưới làng quê vào thời kỳ ấy. Sự kiện lịch sử ấy được suy gẫm lâu dài trong năm, sáu mươi năm trở thành một cơ hội cho Gioan dạy giáo lý với tư cách một nhà thần học. Chúng ta cũng thế, chúng ta phải cố vượt qua tính chất giai thoại của câu chuyện bước vào cách giải thích “tượng trưng” sâu xa: Sự kiện ấy là một “dấu chỉ”. Nó có một “ý nghĩ” ẩn giấu.
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê.
Khi Gioan viết những từ “ngày thứ ba” ấy thì trong ngôn ngữ của các Kitô hữu tiên khởi, đó là một lối diễn tả gần như là thuật ngữ và lập tức gợi lại “ngày vinh quang” của Đức Gỉêsu: Ngày sống lại (Mt 16,21 – 17,23 – 20,19; Lc 9,2-18 – 33-24, 7; Cv 10,40).
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự.
Trong phần đầu Tin Mừng của mình, Gioan chỉ nhắc đến Đức Maria trong trình thuật tiệc cưới ở Cana này và ở phần cuối Tin Mừng lúc Mẹ đứng dưới chân thánh giá…mà không cho biết tên Maria của Mẹ, nhưng chỉ xác định Mẹ trong mối quan hệ với Đức Giêsu… đó là “Mẹ Người “!
Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”
Giờ của Đức Giêsu cũng là một cách diễn tả về cuộc khổ nạn (Ga 7,30 – 8,20 – 13,1 – 16,25 – 16,32). Đây là giờ độc nhất, một cách chính xác, đó là giờ Người được vinh quang: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh con bên Cha, xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,l-5). Giờ vinh quang của Đức Giêsu diễn ra trong ba giai đoạn: Đó là thập giá, Người được “nâng lên” về mặt thể xác và một cách tưởng tượng… đó là sự sống lại, Người được “nâng lên” bên hữu Chúa Cha… và đó là sự tuôn đổ của Thánh Linh cho các tín hữu… (Ga 3,14 – 8,28 – 12,32 – 17,11 – 17;13 – 17,39). Như thế, người thợ mộc ở Nadarét được mời tham dự tiệc cưới trong một ngôi làng nhỏ lân cận, cho chúng ta khám phá “hữu thể” sâu xa của Người, xuyên qua các lời nói và cử chỉ: Vinh quang của Thiên Chúa ở trên Người. Người nói rằng “Giờ của Người” chưa đến. Nhưng giờ ấy sẽ đến! Khi người ta mời ông Giêsu này đến dự tiệc cưới thì họ đã mời chính Thiên Chúa Tạo Hóa của tình yêu! Một mầu nhiệm ẩn giấu trong lòng của tình yêu đôi lứa.
Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
Bề ngoài kiểu nói ấy xem ra tầm thường. Vả lại, đó chính là một trích dẫn từ Kinh Thành. “Toàn xứ Ai Cập bị đói và dân chúng kêu lên Pharaô xin bánh ăn. Pharaô nói với mọi người Ai Cập: “Cứ đến với ông Giuse, ông bảo gì, các ông hãy làm theo” (St 41,55). Vua Pharaô nhận biết Giuse có sự khôn ngoan của Thần Khí Thiên Chúa nên đã nhún mình trước mặt Giuse và đã chỉ cho những người nghèo khổ đói khát đến với Giuse như đến với một người có thể lấp đầy sự khốn khổ của họ.
Giờ đây, chính Đức Maria nhún mình trước con bà và chỉ định Người như nhân vật chính: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Ở đó, đang thiếu rượu… và có lẽ, nào ai biết được, “tình yêu’ cũng thiếu… Cuộc vượt qua là sự ra khỏi nước Ai Cập. Nhưng cũng là sự giải phóng khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết: “Rượu thiếu tượng trưng cho mọi thiếu sót sâu xa của chúng ta. Có rất nhiều hoàn cảnh của con người, ở đó chúng ta “không thể còn làm được gì mọi sự đều thiếu sót, không còn giải pháp trong hoàn cảnh của chúng ta lúc đó… Thế thì phải trông cậy vào một người khác vào Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng duy nhất có thể cứu: “Người bảo gì các bạn cứ việc làm theo”.
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết)
Không một chi tiết nào ở đây là bởi sự ngẫu nhiên.
Chúng ta thử hiểu một nửa chữ thôi…
“Sáu chum đá… Người xưa thường thích ý nghĩa tượng trưng của các con số. Bảy là con số của sự hoàn hảo. Bảy kém một là hình ảnh của sự bất toàn.
“Dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái nước dùng để tắm rửa trong việc phụng tự. Những chum đá ấy là dấu chỉ một tình trạng lạc hậu lỗi thời của các tập tục tôn giáo giờ đây đã bị vượt qua. Đức Giêsu đến thay đổi, hoàn tất tôn giáo của người Do Thái. Nước trở thành rượu!
“Họ đổ đầy tới miệng…”. Dấu chỉ dư dật, phong phú, tràn đầy mọi ơn lành của Đấng Mêsia mà Đức Giêsu khởi đầu trong “dấu chỉ” đầu tiên này, quả thật là điên rồ và thái quá 600 lít rượu nho! Cả làng sẽ uống say sưa!
“Rượu”… Một biểu tượng xưa của Kinh Thánh (Tl 9,13; Thánh Vịnh 104,15.v…) Trái nho là một sản phẩm rất được ưa chuộng của đất đai: nó làm cho lan tỏa niềm vui và sự sảng khoái, nó làm cho phấn khởi lòng người”. Các thời đại của Đấng Mêsia được loan báo bằng các hình ảnh bữa tiệc ở đó rượu chảy thừa mứa: “Đức Chúa sẽ mở tiệc cho mọi dân tộc, một bữa tiệc với thịt béo và rượu nồng”(Isaia 25,6; A-mốt 9,14.; Ôsê 2,16-15,5; Giôen 4,18; Giê-rê-mi-a 3 1., 12; Diễm ca 2,4 v.v…)
Vả lại chúng ta chớ bao giờ quên rằng Gioan viết Tin Mừng của Người khoảng năm mươi hoặc sáu mười năm sau biến cố Cana, vào một thời kỳ mà cộng đoàn Kitô hữu đã hội họp từ nhiều năm rối để dùng bữa ở đó một thứ “rượu’“ mầu nhiệm được róc ra. Làm thế nào mà bữa ăn đầu tiên này của Đức Giêsu ở Cana lại không nhắc họ nhớ đến bữa ăn cuối cùng khi Đức Kitô đã biến rượu thành máu của Người… trong sự chờ đợi bữa tiệc quyết định mà Đức Giêsu đã loan báo: “Từ nay Thầy không còn uống thứ rượu nho này cho tới ngày Thầy sẽ uống rượu mới trong Vương quốc của Cha Thầy”.
Phúc thay cho những người được mời đến bàn tiệc của Thiên Chúa.
Mỗi lần bạn uống được rượu ngon, bạn hãy nghĩ về Thiên Chúa đã dùng rượu làm một “dấu chỉ” về Người. Thiên Chúa muốn mềm vui. Thiên Chúa không muốn chúng ta thiếu niềm vui, thiếu tình yêu, mỗi thánh lễ là một dấu chỉ về Người, một bí tích. Mỗi thánh lễ là máu của Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Người.
Ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”.
Sự lầm lẫn này có ý nghĩa biết bao: Khi lẫn lộn tân lang với Đức Giêsu, người quản tiệc đã lầm! Trong một vài dòng của Tin Mừng, Gioan Thánh sử sẽ nói rõ ràng rằng “tân lang” đích thực, chính là Đức Giêsu (Ga 3,29).
Chúng ta thấy ở đây điểm then chốt đem lại lời giải thích chủ yếu cho dấu chỉ Cana…”. Đây là rượu của tiệc cưới mới, đây là chén của Giao ước mới trong máu ta”. Những lời ấy chúng ta biết rõ thường lướt quá nhanh trong trí óc đã quen thuộc của chúng ta. Thánh lễ, mầu nhiệm của tình yêu!
Một truyền thống lâu dài và khả kính của Cựu ước đã giới thiệu Thiên Chúa như tân lang của nhân loại. Isaia trong bài đọc một của chúa nhật này vừa nói với chúng ta “sự ngỏ lời tình yêu” nóng bỏng như một đam mê của người si tình: “Người ta sẽ không còn gọi em “cô gái bị bỏ rơi” nhưng người ta sẽ gọi em là “cô gái được yêu thích”, người ta sẽ gọi xứ sở của em là “Tân nương của Ta”… Như một thanh niên cưới một thiếu nữ làm vợ, Đấng đã xây dựng em, sẽ cưới em làm vợ. Như người vợ trẻ là niềm vui của chồng mình cũng thế, em sẽ là niềm vui của Thiên Chúa em” (Isaia 62,1-5; ô8ê 2?21; êdêkien 16,8). Toàn bộ Tân ước đã lấy lại hình ảnh vợ chồng ấy (2 Cr 11,2; Ep 5,25; Kh 21,2 – 22,17 v.v…).
Vả lại như bạn đã nhận thấy, ở tiệc cưới Cana, cô dâu không được kể ra. Không kỳ lạ sao! Chúng ta không gặp một đám cưới bình thường. Nếu Đức Giêsu là Tân Lang thật sư tân nương thật sự là người “phụ nữ” mà Người đã gọi bằng một từ ngữ mang tính tượng trưng sâu sắc: ‘Thưa Bà!”. Tân nương của Thiên Chúa, chính là Israel chờ đợi “giao ước mới” khi thừa nhận mình không.,còn rượu nữa. Israel ấy, dân tộc được Thiên Chúa cưới trong giao ước mới, rồi đây sẽ là Giáo Hội. Và Đức Maria đại diện cho cả hai: bà là “con gái của Israel” và khuôn mặt của Giáo Hội”. Như thế, Tân nương không được nói tên trong tiệc cưới đó chính là chúng ta: Thiên Chúa yêu thương bạn… Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô… trong khi vui cũng như trong lúc buồn!
Chúng ta sống trong một thời đại mà khủng hoảng của tình yêu vợ chồng trở nên bi đát: Tình yêu dường như bị mất phương hướng, người ta ca tụng sự kết hôn tự do, người ta sống chung mà không muốn làm lễ cưới, không muốn mở tiệc mừng tình yêu, không muốn nhận trách nhiệm đối với người khác, đối với con cái sẽ được sinh ra… Biết bao cặp vợ chồng mau chóng lìa tan, lúc mới bắt đầu cũng vui vẻ đấy, nhưng rồi trở nên nhạt nhẽo, tầm thường như nước ốc! Nhưng trong bối cảnh ấy, những cặp vợ chồng vững chắc nhất cũng không tránh khỏi nhận xét bi đát: Họ không còn rượu nữa!”. Chính tình yêu đang thiếu thốn. Chỉ Đức Giêsu mới có thể ban lại tình yêu cho chúng ta. Hãy hiệp thông vào chén của Đức Giêsu, uống rượu của Người, chính là uống nơi suối nguồn yêu thương, đã hiến dâng tất cả và yêu thương cho đến cùng” (Ga 13,1).
Trong nhiều thế kỷ, các nhà thần học băn khoăn tìm hiểu cuộc sống nào cao cả hơn, cuộc sống “hôn nhân” hay cuộc sống “độc thân”. Tuy nhiên chúng ta chớ nên quên ngôn ngữ của Kinh Thánh nói về một Thiên Chúa – Tình Quân. Chúng ta hãy để cho sự dịu dàng của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta. Nếu bạn đã kết hôn, vợ chồng bạn là “dấu chỉ”, nghĩa là “bí tích”, “sự biểu lộ” của Tình Yêu Thiên Chúa. Nếu bạn sống độc thân. không phải bạn “không có tình yêu”, bạn cũng đã được cưới bởi một tình yêu cao cả nhất phải có! Nhưng bạn sống đời sống hôn nhân, hoặc đời sống độc thân của bạn như thế nào? Vấn đề ở đây không phải là sự thiết lập bí tích hôn nhân trong Tin Mừng. Nhưng đối với những ai hiểu được “dấu chỉ” của tiệc cưới Cana, điều đó chẳng cần thiết hay sao?
Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
Bên ngoài tính giai thoại, ở đây chính Gioan thánh sử cho chúng ta lời giải thích về câu chuyện của ngài: Đức Giêsu bày tỏ căn tính của Người… các môn đệ đã bắt đầu bước vào đức tin… “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người”.(Ga 1,14).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
TIỆC CƯỚI CANA – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1/. Từ một tiệc cưới làng quê… đến những tiệc cưới của Thiên Chúa với dân Người.
Chúa nhật trước chúng ta đã chú ý đến bài tường thuật của Mátthêu về ba nhà đạo sĩ, một bài rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Bài tường thuật của Tin Mừng Gioan về tiệc cưới ở cana mở đầu cho “Cuốn sách về các Dấu chỉ” cũng giống như vậy. Và như A. Marchadour cảnh giác, chắc chắn rằng qua câu chuyện được kết cấu như thế, “tốt hơn ta nên, từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế nào. Thánh Gioan là người vốn thích nhìn từ một sự việc cụ thể đích thực để nhận ra ý nghĩa thần học tiềm ẩn, cột làm cho lịch sử có được nét sáng giá hơn” (L’Evangile de Jean, Centurien, 1992, tr. 55).
Việc giới thiệu các nhân vật và quan hệ hỗ tương của họ là chìa khoá thứ nhất dẫn vào lối đọc ý nghĩa biểu tượng của trình thuật này.
+ Thực vậy, các nhân vật mà người kể chuyện nói đến là “Đức Giêsu”, “thân mẫu Đức Giêsu”, các “môn đệ” Người, rồi ở phần tiếp của đoạn văn có người “quản tiệc” và “tân lang”.
+ Theo A. Marchadour nhận xét, tất cả những nhân vật này, đều được giới thiệu quy chiếu về Đức Giêsu: thân mẫu Người, các môn đệ Người. Các môn đệ sẽ không có vai trò chủ động nào, nhưng lại quan trọng, đồng thời là chứng nhân của cảnh tượng và là những con người được biến đổi: cuối chuyện các ông trở thành những con người có lòng tin (Sđd.)
+ Còn chính tân nương sẽ không có vấn đề gì hết.
– Một chìa khóa khác đó là sự lặp đi lặp lại từ “tiệc cưới” ở đầu bản văn (c.1.2) rõ ràng là có ý làm nổi bật ý nghĩa biểu tượng của câu chuyện, tiệc cưới chỉ là cái khung để lồng những biểu tượng ấy.
Qua khắp cả Kinh Thánh, từ sách tiên tri Ô-xê cho đến sách Nhã Ca, Thiên Chúa luôn được trình bày như tân lang của dân Người là Israel. Giao ước giữa Giavê Thiên Chúa và Israel là một giao ước hôn nhân, nghĩa là bền chặt, không thể tiêu huỷ được; giao ước ấy dựa trên nền tảng là tình yêu trọn vẹn và hỗ tương. Chính Tân Ước cũng thường xuyên sử dụng chủ đề này.
Chính chủ đề này được quảng diễn ở đây, trong bài tường thuật của thánh Gioan. Bên kia buổi lễ cưới của những cặp vợ chồng trẻ ở cana, thánh sử muốn hướng tầm nhìn của ta vào cảnh khai trương một cuộc lễ khác, cho những tiệc cưới khác: Lễ cưới của Thiên Chúa với dân Người trong Đức Giêsu Kitô Con Người, mà các ngôn sứ đã loan báo.
2/. Từ nước của luật cũ… đến rượu nho của giao ước mới.
Càng chú ý đọc bài tường thuật này, người ta càng thấy rõ góc độ biểu tượng này.
– Gioan đã đặt biến cố vào “ngày thứ ba”. Có phải coi biểu xác định thời gian vắn vỏi được nói ở đây, theo J.B. Michaud hiểu, là muốn đưa về mạc khải mà Gioan có ý nói đến ở 1, 51 chăng? Nói cho đúng, theo như X. Léon-Dufour, há người ta chẳng đọc thấy ở đây ý hướng của người kể chuyện là rnuốn cho câu chuyện này có liên hệ với những biến cố vĩ đại của lịch sử thánh cũng xảy ra vào “ngày thứ ba” như: hiến tế Isaac, trong St 22,4, Chúa hiện ra trên núi Sinai trong Xh 19, 11 đấy sao? Việc “xác định ngày tháng” này có lẽ muốn loan báo “một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giao ước” (Lecture de l’Evangile selon Jean, cuốn 1, tr. 222). Sau cùng, như A. Marchadour gợi ý, phải chăng việc ghi chú “ngày thứ ba” như thế muốn gợi nhớ lại biến cố Phục sinh, ngày thứ ba lúc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang, và lúc ấy các môn đệ đã tin.
– “Họ hết rượu rồi”, lời nói này của “thân mẫu Đức Giêsu” bỗng dưng khiến người ta phải chú ý.
+ Ta đừng quên rằng rượu nho là đồ uống trong ngày lễ, nhất là lễ cưới thường kéo dài nhiều ngày nên phải lo dự trữ sao cho đủ rượu nho cũng là biểu tượng các tiệc cưới mang tính thiên sai giữa Thiên Chúa với dân Israel mà các ngôn sứ hằng ca ngợi và trông đợi.
+ Sự cố thiếu rượu là điểm khởi đầu câu chuyện. Tác giả không quan tâm đến lý do của sự thiếu rượu cho bằng ý nghĩa biểu tượng của sự kiện đó: nỗi khốn khó và lòng dân Israel trông đợi ân huệ Chúa ban.
+ Chính Đức Maria “thân mẫu Chlía Giêsu” – Gioan luôn dùng từ này để gọi Đức Maria – có sáng kiến báo cho Đức Giêsu biết nhà đám thiếu rượu.
– “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con”. Câu trả lời là khá bí ẩn.
+ Trước hết Đức Giêsu xưng hô với mẹ Người không phải bằng tiếng “má” (imma), tương đương với tiếng “ba” (abba), mà lại dùng tiếng “Bà”.
Ta đừng coi đây như một lời lẽ thiếu kính trọng nào đó, cũng đừng coi đó là một lúc bực mình bột phát. Kiểu gọi Đức Mẹ như thế ở đầu Tin Mừng Gioan và một lần nữa ở cuối Tin Mừng, khi ở trên Núi Sọ thiết tưởng nên được đặt ở một bình diện tương quan khác với bình diện của đời thường và của gia đình.
+ Rồi phần tiếp theo của câu trả lời càng củng cố điều ta vừa nói ở trên: “Chuyện đó can gì đến Bà và con”. Đó là một kiểu nói Do Thái nhằm từ chối một sự can thiệp chưa hợp thời, chưa đúng lúc, đồng thời cho thấy có sự hiểu lầm giữa người nói và người nghe. Các dịch giả và các nhà chú giải Kinh Thánh thì cố gắng lựa lời để làm dịu đi vẻ cứng cỏi của kiểu nói này. Như A. Marchadour gợi ý, cách trả lời của Đức Giêsu, phải chăng là “tạo một khoảng cách: Chúa muốn thúc giục thân mẫu Người đi xa hơn, vượt lên chức năng làm mẹ theo huyết nhục, để sinh ra làm người môn đệ nữa” (Sđd, tr. 56).
– “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”, Đức Maria nói ngay với những gia nhân. Hưởng ứng lời kêu gọi của con, Đức Maria đã vượt khoảng cách để trở thành người môn đệ đầu tiên.
Mấy lời trên đây mà bài tường thuật đặt vào môi miệng Đức Maria chứa chất biết bao ký ức xa xăm về Kinh Thánh:
+ Nó gợi nhớ lời vua Pharaô nói với dân Ai Cập đến xin lương thực: “Hãy đến cùng Giuse, Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (St. 41,55). Hình ảnh Đức Maria mờ nhạt đi trước Đấng đang làm ứng nghiệm những lời tiên tri loan báo, một Giuse mới đang cho dân ăn, đưa dân từ thiếu thốn đến sung túc.
+ Nó gợi nhớ lời đáp lại của dân Chúa trước đề nghị của Giao Ước khi tụ họp ở núi Sinai: “Mọi điều Đức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm theo” (Xh. 19.8). Ở đây, ngay lúc khởi đầu Giao ước mới, thánh sừ đặt vào môi miệng Đức Maria lời tuyên xưng đức tin của dân đượlc tuyển chọn. Thánh sử giới thiệu Ngài là hình ảnh của Israel mới.
Bài tường thuật tiếp tục “Ở đó, có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái”. Thật là kỳ lạ, thay vì những vò đất nung hay những bình da người ta dùng đựng rượu trong tiệc cưới Cana, và những bình ấy chắc hẳn đã cạn hết rượu rồi, thì Đức Giêsu lại bảo những người giúp việc đổ đầy nước vào các chum đá vốn không đựng rượu, mà đựng nước dùng vào việc “thanh tẩy theo thói tục người Do Thái”. Và chính từ những cái chum đá đổ đầy nước “tới miệng” này (chừng 700 lít) mà các gia nhân sẽ múc rượu ngon ra, thứ rượu ngon hơn rượu đãi lúc đầu, “người quản tiệc” xác nhận như vậy.
Việc nước hóa thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê tượng trưng cho Luật cũ chuyển qua Luật mới. Rượu nho của thời đại cứu thế thay thế cho nước của giao ước đầu tiên.
3/. Từ khởi đầu các dấu lạ … đến “Giờ” thực hiện.
– Bài tường thuật về tiệc cưới Cana mở đầu “Sách các dấu lạ” sẽ kết thúc ở 12,50, để từ đó sẽ khởi đầu “Sách về Giờ của Đức Giêsu”.
+ Thánh sử lưu ý: chúng ta đang ở vào thời kỳ “khởi đầu các dấu lạ”. Khi làm “dấu lạ” đầu tiên này, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các người thân của mình biết thân thế và sứ mệnh của Người. Cana đánh dấu bước thứ nhất trên con đường đức tin của các môn đệ: “Các môn đệ đã tin vào Người”.
Nhiều “dấu lạ” khác sẽ theo sau: hóa bánh ra nhiều (Ga 6), chữa người mù bẩm sinh (Ga 9), cho Ladarô sống lại (Ga 11) sẽ triển khai mạc khải ban đầu kia và góp phần làm nên những chặng đường trong hành trình đức tin của các môn đệ. + Nhưng “Giờ Người chưa đến”, Đức Giêsu tuyên bố như thế. Giờ nhiệm mầu ấy sẽ đan xen cả giờ khổ nạn, giờ được tôn vinh, lẫn giờ tràn đầy ơn ban của Chúa Thánh Thần. Để rồi trong ánh sáng rạng ngời của mầu nhiệm Vượt qua, mọi ý nghĩa đều được sáng tỏ và các môn đệ sẽ trở thành những con người gắn bó hoàn toàn với Đức Giêsu, nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
+ Về phần “thân mẫu Chúa Giêsu”, Người “ở đó” để chứng kiến dấu lạ khai mào Giao ước mới: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và con?”, cũng như Người sẽ “ở đó, gần thập giá” (19,25) lúc “Giờ” đóng ấn Giao ước mới trong máu, sẽ điểm, lúc ấy, Đức Giêsu sẽ nói với thân mẫu Người rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Thân mẫu Đức Giêsu có mặt lúc “khởi đầu” thì Người sẽ có mặt khi “hoàn tất” (cf. 19,30: “Thế là đã hoàn tất”).
– Bài tường thuật này được viết sau biến cố Phục sinh.
- Marchadour kết luận: “Phép lạ ở Cana, được viết cho các tín hữu đọc, vì họ là những người đã có kinh nghiệm về niềm tin Chúa phục sinh là đã đoạn tuyệt với Do Thái giáo. Kết cấu câu chuyện cho ta thấy rõ điều đó. Mở đầu và kết luận đặt người đọc trong bối cảnh phục sinh… Toàn bộ bài tường thuật mô tả việc chuyển từ Do thái giáo sang Kitô giáo được thực hiện như thế nào trong Đức Giêsu.
Thân mẫu Đức Giêsu có mặt ở đó có nghĩa là nhờ Người mà lễ hội giao duyên giữa Thiên Chúa và loài người trở thành khả dĩ. Người dẫn đưa Israel mới (mà các gia nhân ở đây là biểu tượng) đến cùng Đức Giêsu. Nhưng khi nói với gia nhân: Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”, thì chính Người lại đóng vai người phụ nữ, hình ảnh Israel mới phải phục tùng con mình. Rượu vừa nhiều vừa ngon ám chỉ rằng thời đại Đấng Cứu Thế vui như ngày hội đã bắt đầu và từ nay rượu sẽ không bao giờ thiếu. Một giáo phụ tự hỏi: “Người ta đã uống cạn chăng? Không, vì hiện giờ chúng ta vẫn còn uống” (Sđd, tr. 58).
BÀI ĐỌC THÊM
1/. “Rượu nho mới” (G. Bessière, trong “Dieu si proche. Năm C”, DDB, trg 83-84).
Đức Giêsu có mặt trong tiệc cưới mừng cho tình yêu của cặp trai gái làng Cana. Người sắp làm phép lạ đầu tiên trong tiệc vui này. Bài tường thuật của thánh Gioan về tiệc cưới ấy dọi một tia sáng vào quá khứ của Israel, vào tương lai của Đấng Chúa sai đến và vào đời sống của Giáo Hội.
Thời Môsê, Êlia, Êlisê, Thiên Chúa đã làm những dấu lạ để củng cố sứ mệnh của các vị ấy thế nào, thì Người cũng sắp chứng thực sứ mệnh của Đức Giêsu như vậy khi cho Người thực hiện những tiệc lạ lùng: đó chính là những “dấu chỉ”. Trong Kinh Thánh, rượu nho thường là biểu tượng ơn khôn ngoan do Lời Chúa ban cho. Rồi đây Đức Giêsu sẽ là Người được ban tặng ơn ấy một cách dồi dào và triệt để.
Đức Giêsu hóa nước thành rượu trong sáu chum đá dùng cho nghi thức thanh tẩy mà người Do Thái vốn tuân giữ rất cặn kẽ; chi tiết này ám chỉ rằng Đức Giêsu sắp mang đến một sự canh tân cho Do Thái giáo. Lúc ấy, ở đó có sáu cái chum: số sáu được coi như con số không hoàn toàn muốn chỉ tỏ rằng quá khứ phải nhường chỗ cho một tương lai mới.
Sách các Ngôn sứ thường ví dân được tuyển chọn như một hôn thê bất trung, bội tín. Nên với sự hiện diện của Đức Giêsu, bây giờ là lúc những tiệc cưới giữa Thiên Chúa và nhân loại đã dứt khoát bắt đầu. Đây là những tiệc cưới mà “Giờ” chưa đến: tiệc của rượu nho trong bữa Tiệc ly và của máu trên thập giá, tiệc Thánh Thể, trung tâm đời sống của Giáo Hội vẫn tiếp tục ca tụng thứ rượu nho của những tiệc cưới đời đời.
Đức Giêsu chính là rượu nho được Thiên Chúa ban một cách hào phóng là là giao ước luôn luôn mới.
. Vương quốc mới được khai trương
Ta phải vượt lên Cana là buổi lễ ở làng quê hôm đó để có thể nắm bắt được những luồng tư tưởng lớn của các ngôn sứ vẫn xuyên suốt lịch sử Thánh. Phải tìm lại những dấu chỉ của giao ước là tất nhiên là những tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Việc Đức Giêsu khởi sự làm những dấu lạ, rõ ràng loan báo vương quốc mới, triều đại của Đấng Mêsia. Ngày ấy được ngôn sứ Isaia mô tả là ngày mà Chúa toàn năng sẽ khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn đầy thịt cùng các món hảo hạng với rượu ngon nổi tiếng… Ngày ấy người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng trông đợi” (Is 25, 9).
Vương quốc mới được khai trương Đấng cứu độ được loan báo và được hứa cuối cùng thì cũng đã có mặt đây rồi. Đã hết rồi những lề luật khắc khe, những nghi thức thanh tẩy được tượng trưng bằng sáu cái chum, một con số nói lên sự bất toàn. Từ nay những cái đó không còn giá trị nửa. Phải nhường chỗ cho một giao ước tình yêu; với giao ước đó; Thiên Chúa trở nên rất gần gũi, gần gũi đến độ trở nên một người ở giữa chúng ta. Phải nhường chỗ cho những niềm vui của tiệc cưới và cho thứ rượu nho mới của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đến làm đảo lộn những tập quán, phá bỏ những truyền thống và không quan tâm đến những thói vụ luật.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
HÃY MỞ CỬA ĐÓN CHÚA ĐẾN NHÀ (*)- Lm. Đan Vinh HHTM
1/. LỜI CHÚA: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)
2/. CÂU CHUYỆN: MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ.
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau: “Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm và trang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40×50 cm, bên trong có thiết kế ánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi: “Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã bằng lòng theo ý của chồng tôi. Giờ đây, sau mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình tôi và các khách đến thăm ngôi nhà của chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu như sau: “Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi!”. Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngồi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên: “Mỗi lần đến đây, lúc nào tôi cũng có cảm giác trong nhà chị chan hòa sự bình an”… Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của các người khách đều được nâng cao! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa!”.
3/. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giê-su dù chưa tới Giờ bày tỏ quyền năng, nhưng nhờ lời Đức Ma-ria cầu bầu, Người đã làm dấu lạ biến nước lã thành rượu ngon, để bày tỏ quyền năng giúp các môn đệ mới theo nhận biết, tin Người là Đấng Thiên Sai như Tin Mừng Gio-an đã kết luận: “Những điều đả được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Ngoài ra, phép lạ đầu tiên này cũng cho thấy ơn cứu độ do Đức Giê-su thực hiện có Mẹ Ma-ri-a hiệp công và bắt đầu từ việc xây dựng hạnh phúc của gia đình tín hữu.
– Hãy mời Chúa Giê-su đến nhà: Trong Tin mừng, những ai đón nhận Đức Giê-su đến nhà đều nhận được những ơn lành hồn xác. Chẳng hạn: Đức Giê-su đến thăm gia đình ông Si-mon và đã chữa cho bà nhạc mẫu của ông khỏi cơn sốt nặng (x. Mt 1,29.31); Người cũng đến nhà ông Gia-ia để phục sinh con gái của ông vừa chết nằm trên giường (x. Mc 5,22.38-43); Người đến dự tiệc tại nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu và đã chữa lành cho một người mắc bệnh phù thủng (x. Lc 14,1-4); Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu để biến ông từ một kẻ tham lam trở thành người lương thiện, là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham. (x. Lc 19,8-10); Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để mở lòng hai ông tin vào Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức “bẻ bánh” (x. Lc 24,13-32)… Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp đỡ đôi tân hôn.
– “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”: Cuộc sống của mỗi người cũng như của gia đình chúng ta không thiếu những bất trắc và sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết mời Chúa đến nhà, Người sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, với điều kiện là chúng ta phải làm theo lời dạy của Mẹ Ma-ri-a: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Mỗi gia đình tín hữu có thể mời Chúa Giê-su đến nhà qua việc thiết lập bàn thờ Chúa trong gia đình và tổ chức giờ kinh tối hằng ngày. Trong giờ kinh tối, các thành viên gia đình cùng nhau nghe Lời Chúa phán và cầu nguyện cho nhau, động viên nhau thực hành lời Chúa bằng cách ứng xử lịch sự tế nhị với tha nhân. Mỗi sáng khi vừa thức dậy, mỗi người chúng ta hãy dành một giây phút dâng lên Chúa một lời cầu nguyện để xin giúp thực thi ý Chúa trong ngáy.
– “Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ”: Ngày nay Chúa Giê-su vẫn đang đứng ngòai gõ cửa. Những ai mở cửa đón Chúa, thì Người sẽ vào nhà kẻ ấy, sẽ dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa chung với Người (x Kh 3:20). Vậy ngay hôm nay chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa vào nhà linh hồn hầu nhận được ơn cứu độ của Chúa hay không?
4/.THẢO LUẬN: Một người kia có dịp nghỉ hè tại nhà một bạn thân. Sau kỳ nghỉ đã viết thư cám ơn bạn ấy. Trong thư có đoạn nhận xét về gia đình của bạn mình như sau: “Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự: Cách bài trí trong nhà bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫu ăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của từng thành viên trong gia đình bạn trước các bữa ăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an ở trong ngôi nhà của bạn: Các thành viên đều quan tâm săn sóc lẫn nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu hay những lời chỉ trích nói hành người vắng mặt trong ngôi nhà của bạn”… Còn gia đình của chúng ta hiện nay có những phẩm chất đạo đức như gia đình trong câu chuyện trên hay không?
5/. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ ngay thật không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con luôn có sự hiện diện của Chúa, thể hiện qua việc trưng bày bàn thờ và các tranh ảnh đạo trong nhà, nhất là qua cách ứng xử lịch sự tế nhị giữa các thành viên gia đình. Xin cho gia đình chúng con luôn biết nghe lời Mẹ Ma-ri-a để thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
– Lạy Chúa. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những kẻ đói nghèo bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng về Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ có khả năng chu toàn sứ mệnh làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.
X/. Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ/. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA GIÊSU HÓA NƯỚC THÀNH RƯỢU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời “tỏ tình” với loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.
II/. Gợi ý sám hối
Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương Chúa quá ít.
Vì yêu thương chúng con nhiều, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa.
Yêu thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa.
III/. Lời Chúa
1/. Bài đọc I (Is 62,1-5)
Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân Do Thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc.
Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa: dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
2/. Đáp ca (Tv 95)
Thánh vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa: vui mừng, ca tụng và loan báo “Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm”.
3/. Tin Mừng (Ga 2,1-12)
Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu tiên” qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì?
1/. Trước hết Ngài cho thấy Ngài là Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Chúa Giêsu.
2/. Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người Do Thái: bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.
3/. Bài tường thuật cũng nói tới “giờ” (Chúa Giêsu nói với Đức Maria: “Giờ con chưa đến”). “Giờ” là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
4/. Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.
4/. Bài đọc II (1 Cr 12,4-11) (Chủ đề phụ)
Có nhiều chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô: người có tài thì khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau.
Thánh Phaolô nhắc cho họ nhớ: (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần ban; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người; (3) và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chung của Giáo Hội.
IV/. Gợi ý giảng
* 1. Tình yêu của Chúa
Trong các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất? Thưa là tình cha mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.
Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền.
Thế nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế.
Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.
Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất: vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta: “Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu”. Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.
Con người là một sinh vật yêu thương: con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.
* 2. Phép lạ ở Cana
Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi li dị càng ngày càng nhiều; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống chung suốt đời.
Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.
Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin?
* 3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu
Tin Mừng theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng này, tuy nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà bao trùm cả đời sống mọi người; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.
Việc Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là “dấu chỉ” và còn là “dấu chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài”. Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành rượu chỉ tới là gì? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc I: đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc như tiệc cưới: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Chúa Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài đã biến đổi sự chết thành sự sống.
Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.
* 4. Hạnh phúc mong manh
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
***
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động: Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.
Theo tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến “ngày thứ ba” thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: “Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ “Giờ” tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy “Giờ” tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga 2,11).
Nhờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: “Họ hết rượu rồi”.
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành một thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin Mẹ Maria luôn là đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu. Amen. (TP)
* 5. Đức Maria, gương mẫu của sứ vụ
Tin Mừng thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần: một lần ở Cana lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ. Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Tin Mừng nhất lãm nói rõ hơn về điều này.
Trong biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.
Trong biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến: thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.
Trong biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị: nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được, nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.
Trên đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.
Tất cả chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ: sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức Mẹ và bắt chước Người. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
a/ Con sâu trong tảng đá
Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” (Trích “Món quà giáng sinh”)
b/ Cái nhìn của bậc thánh nhân
Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
V/. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chỉ Thiên Chúa mới có thể đem lại cho con người niềm vui chân thật và hạnh phúc trọn vẹn. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1/. Hội thánh là đại gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi thành viên trong đại gia đình này / không chân thành yêu thương và quảng đại nâng đỡ nhau.
2/. Trên thế giới ngày nay / tình trạng đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình đang gia tăng đến mức báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn được hạnh phúc và bình an.
3/. Gia đình tốt thì xã hội và Giáo hội mới tốt được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình Kitô hữu / luôn quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản cho con cái của mình.
4/. Một trong những điều kiện hết sức quan trọng / đem lại hạnh phúc lâu dài cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là cần tìm hiểu kỹ lưỡng và chuẩn bị chu đáo trước khi kết hôn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho giới trẻ của giáo xứ chúng ta / biết tích cực tham gia các khóa dự bị hôn nhân / trước khi cử hành bí tích Hôn phối.
Chủ tế: Lạy Chúa, nếu không có Chúa ban ơn giúp sức, chúng con không thể làm được việc gì thành công. Vậy xin thương ban ơn trợ giúp để mọi việc làm của chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Chúng con cầu xin.
VI/. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hóa thành rượu, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria. Giờ đây, chúng ta cũng hãy nhờ Đức Mẹ chuyển cầu và kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, dâng lên Chúa Cha những lời nguyện chân thành của chúng ta.
– Trước kinh Đây Chiên Thiên Chúa: Rượu ở tiệc cưới Cana là hình bóng của Bàn Tiệc Thánh mà chúng ta sắp được tham dự. Chúng ta hãy cảm tạ lòng nhân lành Chúa vì hồng ân này.
VII/. Giải tán
Chúng ta đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa qua Thánh lễ vừa tham dự. Giờ đây tuy Thánh lễ sắp kết thúc nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống trong tình yêu của Ngài, nhất là hãy trở thành dấu chỉ tình yêu ấy trước mặt mọi người.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
TIỆC CƯỚI CANA – Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Đà Lạt
1/. “Phúc âm các dấu lạ” (2,1-12,36) bắt đầu với chủ đề mà phần cuối của lời tựa đã loan báo: “Luật đã được ban nhờ Môisen, ân sủng và chân lý thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (1,17). Chủ đề này gắn liền với việc canh tân phổ quát mà thời thiên sai phải sống (Kh 21,5: “Này đây Ta dựng vũ trụ mới”). Nhưng đây không phải là một trật tự cổ xưa được hoàn thiện nhờ trật tự mới (nhãn giới của Phúc Âm nhất lãm, nhất là của Mt); hai trật tự này đối nghịch nhau, để làm nổi bật siêu việt tính của trật tự mới. Văn mạch cho thấy cuộc tranh luận với dân Do thái là những kẻ luôn bám vào Môisen và không chịu nhìn nhận Môisen là người chuẩn bị cho Chúa Giêsu (5,45t; 9,28t). Trật tự mới được đức Kitô thiết lập, không phải là sự thành tựu của trật tự cũ, nhưng đối nghịch với lề luật của Môisen mà dân Do thái lấy làm đủ. Trong đoạn này, trật tự mới và cũ được xét đến trong toàn thể (2,1-11), hay trong những yếu tố chính yếu: việc phượng tự (2,13tt; 4,20tt), việc tái sinh (3,5tt; 4,14).
Thật vậy, trong 4 chương đầu tiên, Chúa Giêsu cố gắng cho thấy, chính Ngài có bổn phận thiết lập một nhiệm cục mới trổi vượt giao ước cũ. Trong lời tuyên bố long trọng cùng Nathanael (1,51): “Người Israel đích thực không có gian dối trong mình” (1,47), Chúa Giêsu hứa cho Israel mới thấy các thiên thần lên xuống, không phải lên một nơi nào đó như ở Béthel (Stk 28,10-17), nhưng trên con người được tôn vinh, Đấng sẽ là “nhà Thiên Chúa và cửa thiên đàng” trong nhiệm cục cứu rỗi Kitô giáo. Trình thuật tiệc cưới Cana nhắm đến giao ước mới, và rõ ràng hơn nữa nhắm tới rượu thiên sai của bí tích Thánh Thể; việc đuổi dân buôn bán ra khỏi đền thờ làm nghĩ đến ngôi đền thánh hoàn hảo là thân xác Đấng phục sinh: cuộc đối thoại với Nicôđemô bàn đến vấn đề tái phát sinh phát xuất từ Thánh Thần; cuộc tiếp xúc với bà xứ Samaria đặt đối nghịch phụng tự cổ xưa với phụng tự mới trong tinh thần và chân lý.
2/. Đoạn văn đơn sơ của chúng ta (xảy ra trong bối cảnh buổi lễ cưới nhà quê) xem ra đơn sơ, và người ta có khuynh hướng đồng hóa nó với những trình thuật phép lạ trong phúc âm nhất lãm. Tuy nhiên câu kết luận (2,11) tiềm tàng những dấu hiệu đặc thù của Gioan – “dấu lạ đầu tiên” “Ngài tỏ vinh quang”; “Các môn đệ tin vào Ngài” – Những đặc điểm này mời gọi độc giả, qua những hình thức bề ngoài, khám phá tầm mức đích thực của hoạt động Chúa Giêsu. Ngoài câu trả lời của đức Kitô với mẹ Ngài (2,4) xem ra bí mật và nghiêm khắc, và người ta cũng không hiểu gì hơn sau việc can thiệp của Maria. Tuy nhiên, xem ra Maria không lo lắng, và Chúa Giêsu cuối cùng đã làm phép lạ, mà thoạt tiên tưởng như Ngài từ chối.
Về đoản văn này, có nhiều cách giải thích, thường hoàn toàn xa lạ với nhãn giới Gioan. Các nhà chú giải công giáo đã nghiên cứu đoản văn này dưới khía cạnh thánh mẫu học (mariologique). Để có thể hiểu đoạn này cần phải tôn trọng hai nguyên tắc hiển nhiên: một là đoản văn phải được soi sáng nhờ văn mạch của Gioan, hai là phải phân biệt cách thức trình bày (niveau rédactionnel) và thực tế cụ thể (niveau anecdotiquec) của các sự kiện lịch sử. Chúng ta thử xem đâu là những đặc điểm của nhãn giới Gioan (trình độ biên tập).
*a/ Ý nghĩa biểu tượng của phép lạ này. Gioan gọi phép lạ này là một dấu chỉ (c.11), như những phép lạ khác. Dĩ nhiên các dấu lạ khác của phúc âm thứ tư cũng có một giá trị biểu tượng: việc hóa bánh ra nhiều minh chứng Chúa Giêsu ban bánh hằng sống và chính Ngài là bánh ấy (6,36.51), việc chữa lành người mù từ khi mới sinh nhằm biểu lộ Chúa Giêsu như “ánh sáng trần gian” (9,5); việc Lazarô sống lại minh xác Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống (11,25). Như vậy, nước, rượu và việc hóa nước thành rượu phải ám chỉ những thực tại vượt quá bề ngoài hữu hình. Nước biểu thị trật tự tôn giáo Do thái: như thánh Gioan lưu 6 chum đá được “dùng theo tục lệ thanh tẩy của người Do thái” (c.6) và chúng ta biết những nghi lễ thanh tẩy là một trong những đặc tính chính việc sống đạo của dân Do thái (Mc 7,3t). Ngược lại, chính Chúa Giêsu đã nói đến rượu thuộc trật tự tôn giáo mới mà Ngài thiết lập (Mc 9,17 và song song); chén rượu, trong bữa tiệc ly, được liên kết với việc thiết lập giao ước mới (Mt 26,27-29 và song song); Cựu Ước đã biết đến rượu, biểu tượng của hạnh phúc cánh chung (Stk 49, 11t; Is 21,6; J 14,18). Do đó dấu lạ Cana biểu thị việc thay thế toàn trật tự tôn giáo cổ xưa, bằng trật tự tôn giáo mới. Lượng rượu trùng hợp với sự phong phú của ân sủng (1,16) và sự sống (7,38) mà Gioan đề cập như là đặc điểm của trật tự mới được đức kitô thiết lập.
*b/ Những người đối thoại với Chúa Giêsu thường không hiểu. Trong phúc âm thứ tư, những người tiếp xúc với Chúa Giêsu thường chỉ lưu tân đến vấn đề vật chất: dân Do thái chỉ thấy đền thờ được xây cất từ 46 năm (2,20); Nicôđem hạn hẹp trong sự sinh sản thể lý (4,13-14); bà xứ Samari chỉ nghĩ đến nước giếng Giacop (4,11-12.15); dân Do thái xin phép lạ bánh Manna (6,30tt). Chúa Giêsu cố gắng đưa các đối thoại viên đến một trật tự khác, nhưng thường không mấy ai hiểu Ngài. Tại sao? Vì Ngài là con người siêu việt “từ trời xuống” (3,13.31). Con người và sứ điệp của Ngài vượt quá trí hiểu loài người. Họ chỉ có thể hiểu, nhờ sự trợ giúp của Thánh Thần (16,12-14), Đấng chỉ được ban sau khi đức kitô hiển vinh (7,39).
Vì thế, không lạ gì khi mẹ Chúa Giêsu không hiểu điều con mình nói (2,4). Lc 2,48 cũng ghi lại một chuyện tương tự. Cũng như các đối thoại viên của Chúa Giêsu, trong phúc âm thứ tư, Maria một cách nào đó ở vào một bình diện xa cách Con mình. Do đó, khi gọi mẹ là “Bà”, Chúa Giêsu muốn đồng hóa mẹ với các người Ngài gặp.
*c/ Sáng kiến làm phép lạ. Những phép lạ Chúa Giêsu ghi lại không bao giờ được thực hiện theo ý người xin. Viên sĩ quan xin Chúa đi chữa lành con mình, phải tin Ngài, dù ở xa, đã chữa lành bằng lời Ngài phán (4,50). Người bất toại chỉ mong có người giúp anh đi xuống hồ nước, và này Chúa Giêsu đã chữa lành anh bằng lời Ngài (5,7-9). Chính Chúa Giêsu tự quyết định nuôi dân (6,5-13) và chữa lành người mù từ khi mới sinh ra (9,3-7). Chị em Lazarô nài xin Chúa Giêsu đến chữa lành em mình, nhưng Ngài vẫn ở lại chỗ thêm hai ngày (11,3-7), để rồi sau đó cho Lazarô sống lại.
Đức Kitô trong phúc âm Gioan không bao giờ trói buộc vì lời con người nài xin. Đường Ngài phải đi, và ngay cả những hoàn cảnh nhỏ nhặt, đều được Cha Ngài chỉ định, chứ không phải ai khác. Do đó, Chúa Giêsu không thể dễ dàng chấp thuận sự “chạy chọt” của mẹ Ngài. Ngài làm phép lạ, do sáng kiến của Ngài, hay đúng hơn dưới sự hướng dẫn của Cha. Vì thế trước tiên Chúa Giêsu không chịu làm theo ý Maria (2,4), được khi xem ra sau đó Ngài hành động theo ý mẹ xin. Phép lạ làm Maria phỉ nguyện, nhưng không phải phép lạ được làm vì đã được xin.
3/. Do đó, đây là ý nghĩa tổng quát có thể gán cho đoạn này. Ở câu 3, Maria trình bày một sự kiện để xin Chúa Giêsu giúp. Việc trình bày này có hai ý: bề ngoài, là xin Chúa Giêsu giúp đôi tân hôn về mặt vật chất; nhưng việc hóa bánh thành rượu nói lên việc thay thế trật tự tôn giáo cổ xưa bằng trật tự tôn giáo mới. Chắc chắn Maria chỉ thấy ý nghĩa thứ nhất của lời nài xin của mình.
Tất cả mọi cố gắng hòa dịu câu 4 đã làm mất siêu việt tính của Chúa Giêsu và lòng vâng phục tuyệt đối của Cha Ngài. Câu trả lời của Chúa Giêsu rõ ràng là lời từ chối hành động theo sự can thiệp của mẹ Ngài. Dù cho mẹ là người thân nhất, xét theo mặt thể lý, tuy nhiên theo bản tính bà thuộc trần gian này, còn Ngài thuộc thế giới trên cao. Do đó, Ngài có thể gọi mẹ là “Bà” như mọi người ở dưới thế này và nói lên sự bất liên quan giữa hai người. Chắc chắn là vì Maria còn ở dưới thế này, Bà không thể hiểu rằng việc thay đổi mà Bà nài xin cách vô thức chỉ có thể thực hiện theo quyết định của Chúa Cha, vào giờ tôn vinh Con Ngài.
Tuy nhiên, không nên hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu như một lời trách mắng mẹ Ngài. Đức Kitô chỉ xác quyết siêu việt tính của Ngài và cách mặc nhiên sự lệ thuộc hoàn toàn đối với Cha Ngài. Vì thế, Ngài từ chối thi hành điều Maria xin cách vô thức.
Dù không hiểu, Maria luôn tin tưởng vào Con và trao phó cho Ngài tất cả công việc (c.5). Bấy giờ Đức Kitô hoàn thành cách tự phát phép lạ, vì Cha Ngài ưng muốn và chuẩn y. Phép lạ này chưa phải là dấu chỉ tuyệt hảo được thực hiện vào giờ tôn vinh Chúa Giêsu nhưng là một tiền dấu chỉ. Để nhấn mạnh tầm mức của hình ảnh tiền trưng này, Gioan nhắc đến phẩm và lượng của thứ rượu mới.
Vai trò của Maria trong đoạn này xem ra đáng ngạc nhiên. Chắc chắn rằng Maria hoàn tất một nhiệm vụ phụ thuộc. Mẹ không chỉ cho Chúa Giêsu thái độ phải có, nhưng lời nài xin của Mẹ dù sao cũng trở nên cơ hội cho dấu chỉ đầu tiên của Chúa Giêsu, tiên báo sẽ có một dấu chỉ ở tột đỉnh của sứ vụ Ngài. Vào giờ tuyệt đỉnh này, Gioan lại giới thiệu Maria nhưng lần này như là mẹ của mọi môn đệ. Sự hiện diện của Maria ở đầu và cuối sứ vụ của Chúa Giêsu – hai lần duy nhất mà mẹ xuất hiện trong phúc âm thứ tư – có thể ám chỉ một thứ trung gian trong việc thiết lập một trật tự mới.
KẾT LUẬN
Khi trình bày hành vi khai mạc sứ vụ ấy của Đức Kitô, Gioan đã gợi cho chúng ta thấy Đức Kitô có sứ vụ chính yếu là thiết lập giao ước mới và vĩnh viễn với Israel đích thật: Ngài là vị hôn phu thần linh sửa soạn cho vị hôn thê thiêng liêng “quang vinh, không một tì ố hay nét nhăn, nhưng thánh thiện vô tì vết” (Eph 5,27) để giới thiệu nàng vào Ngày sau hết, hầu sống với tân nương cuộc Hôn nhân vĩnh cửu. Nhưng cuộc hôn nhân trên trời này đã được khai mào ngay từ bây giờ, vì Hôn phu đã có mặt và đã có tân nương – Giáo hội (3,29), được nhân cách hóa trong Maria và các môn đệ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1/. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tự xưng là hôn phu của Israel như bài học thứ nhất ngày hôm nay. Từ đó, Cựu Ước đã trình bày việc chọn lựa những không của Thiên Chúa, sự ân cần chăm sóc của Chúa đối với Israel, lòng nhẫn nại vô bờ của Ngài, Lời Ngài mời gọi hối cải tâm hồn, mời gọi sống thân mật tuân phục và yêu mến. Đức Kitô là vị hôn phu của Giáo hội (Eph 5,22-23), điều mà Khải huyền cũng diễn tả khi nói đến tiệc cưới giữa Con Chiên (Đức Kitô) với Giêrusalem lý tưởng từ trời xuống (Giáo hội). (Kh 21,9). Đức Kitô chọn Giáo hội làm hôn thê thiêng liêng của Ngài. Ngài hiến cuộc sống mình cho Giáo hội, thanh tẩy Giáo hội bằng nghi thức tắm hôn lễ (tục lễ cổ xưa của lễ nghi hôn nhân), ban đầy ơn cho Giáo hội, dưỡng nuôi Giáo hội nơi bàn tiệc Thánh Thể. Chính khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể mà Giáo hội chuẩn bị dự tiệc thiên quốc và việc biểu lộ vinh quang của Chúa.
2/. Chúa Giêsu sửa soạn việc thiết lập hôn nhân Kitô giáo bằng sự hiện diện ở tiệc cưới Cana, cũng như sau này Ngài sẽ thiết lập bí tích rửa tội bằng việc dìm thân xác thánh hiến của Ngài trong nước sông Hòa giang, khi được vị Tiền hô làm phép rửa. Người ta thấy tính cách tả chân của Gioan: Ngôi Lời Thiên Chúa chia xẻ niềm vui của hôn lễ thôn quê.
3/. Chúa Giêsu hiện diện ở mọi lễ hôn phối cử hành trong Giáo hội, vì chính Ngài là Đấng thông ban ân sủng cho đôi tân hôn nhận lãnh bí tích. Maria cũng tham dự với tư cách trung gian của mọi ân sủng. Đây không phải là hình ảnh của Giáo hội, trong đó đang cử hành nghi thức hôn lễ sao? Bàn tiệc cưới thật sự là bàn tiệc Thánh Thể. Với bàn tiệc thánh này, đôi tân hôn được mời đến tham dự, để luôn giữ mình sống đúng những lời đoan hứa.
4/. Sự lưu tâm tế nhị của Chúa Giêsu và mẹ Maria đã làm cho đôi tân hôn ở Cana khỏi mất mặt, minh chứng cho những người sống bậc vợ chồng, biết rằng Chúa quan phòng luôn nhìn đến gia đình của họ, bằng hành động của Chúa Cứu thế và mẹ Ngài.
5/. Maria xuất hiện ở Cana như mẹ Chúa Giêsu, Hôn Thê của Chúa và như là người Phụ Nữ tham gia vào công cuộc cứu rỗi thay thế cho Evà thất trung. Sự hiện diện của mẹ Maria trong đời sống chúng ta là một chú ý thường xuyên của Mẹ đến các nhu cầu của chúng ta nhờ sự hiểu biết mà Mẹ có được trong Thiên Chúa về những hoạt động, tư tưởng và tình cảm của chúng ta, và nhờ tình thương của mẹ đối với chúng ta. Chúng ta hãy vui sống dưới ảnh hưởng của Mẹ và hãy đón nhận Mẹ trong nhà chúng ta.
6/. Can thiệp của Mẹ Maria bên Chúa Giêsu: Maria là người trình bày cho Thiên Chúa và Con của Người những nhu cầu của loài người. Bài ca Salve Regina gọi Người là trạng sư của chúng ta.
7/. Mệnh lệnh của Mẹ Maria “Ngài có bảo gì, hãy làm theo”: biểu lộ cho con người thánh ý Thiên Chúa. Qua những lời khuyên cũng như gương sáng của Người, mẹ Maria chỉ cho chúng ta đường dẫn đến Con của Người.
8/. Maria góp phần vào việc hình thành nhóm môn đệ đầu tiên của Con mình, khi ôm ấp họ cùng với Con của Người trong tình mẫu tử. Là tín hữu của Đức Kitô, cũng là môn đệ Ngài, chúng ta hãy biết rằng mình là con cái của đức Maria – điều này đã được nói rõ ràng trên thập giá, khi Chúa Giêsu trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Ước gì mẹ Maria dẫn đưa chúng ta, với một đức tin được canh tân, vào mầu nhiệm của Đức Kitô, cho đến ngày chiêm ngưỡng vinh quang Ngài.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN-C
MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa yêu thương con người nên đã đến ở giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người. Thiên Chúa còn trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một Thiên Chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình than, Thiên Chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỷ. Và việc Thiên Chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn tiền cho con đi học, thiếu thốn thuốc men khi bệnh tật. Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử, thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia nhân: “Người bảo gì thì phải làm theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy làm theo Lời Chúa. Đọc Phúc Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình. Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể đích thật là Đức Kitô sẽ cho ta nếm thử rượu tuyệt ngon trên thiên đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con. Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1/. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
2/. Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
3/. Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình chưa?
4/. Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi hiểm nguy, thử thách, thất bại?
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Kitô hữu ngày nay dễ dàng biết rằng Đức Giêsu có thể làm phép lạ hóa nước thành rượu thượng hảo hạng, vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể; tuy nhiên những người đồng dự tiệc với Đức Giêsu không hiểu được như vậy. Vì vậy, biến cố Đức Giêsu làm dấu lạ đầu tiên này đã tác động mạnh mẽ trên những người biết sự việc này. Qua dấu lạ này, người ta và các môn đệ của Đức Giêsu nhận ra Ngài là một con người rất đặc biệt, Ngài là người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến.
“Vạn sự khởi đầu nan”. Đức Giêsu bắt đầu sự nghiệp bằng việc rao giảng. Không biết Ngài rao giảng có thành công hơn những thầy dạy khác trong dân Do Thái không? Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu theo sự thỉnh cầu của Đức Mẹ. Tin Mừng Gioan cho thấy Đức Maria là người đầu tiên hy vọng vào Đức Giêsu, tin vào Đức Giêsu! Người ta tin vào Đức Giêsu sau khi thấy dấu lạ Ngài làm, còn Đức Maria tin vào Đức Giêsu trước cả khi Đức Giêsu làm phép lạ. Đức Maria cũng là người biết Đức Giêsu hơn ai khác: Mẹ dám ngỏ lời nhắc nhở Đức Giêsu: “họ hết rượu rồi”.
Đức Maria rất tế nhị, Mẹ biết điều làm cho đôi tân hôn bối rối và không biết giải quyết làm sao. Mẹ biết nếu Đức Giêsu biết điều này, Đức Giêsu có thể làm một cái gì đó cho họ; và Mẹ đã không thất vọng. Qua sự kiện này, chúng ta thấy Đức Mẹ hiểu Đức Giêsu đến độ nào! “Ngài nói sao, các anh cứ làm như vậy”. Đức Giêsu đã can thiệp như Mẹ tiên đoán. Thật là đúng khi các Kitô hữu tôn Mẹ là Mẹ Hằng Cứu Giúp, vì ngày xưa Mẹ đã biết, và đã tế nhị can thiệp với Thiên Chúa cho con người, thì nay Mẹ cũng vẫn làm như vậy.
“Qua dấu lạ này, các môn đệ đã tin vào Ngài” (Ga.2, 11). Các môn đệ của Đức Giêsu tin Đức Giêsu là ai? Chắc chắn không phải các môn đệ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể vì lúc đó mầu nhiệm cao siêu này chưa được con người nhận rõ. Có lẽ các môn đệ tin Đức Giêsu là Người từ Thiên Chúa, Người của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai đến để yêu thương và giúp đỡ dân. Cho dù người ta có biết có ý thức hay không, Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa nhập thể. Thế nhưng, điều này các môn đệ chưa ý thức, chưa biết được vào thời điểm đó. Đức Giêsu cũng là người phải khơi dậy và củng cố đức tin của các môn đệ đối với Ngài. Sau này Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?…. Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?” (Mt.16, 16).
Đức tin của các môn đệ đối với Đức Giêsu mỗi ngày một lớn dần, nhưng không phải là đồng đều đối với tất cả mọi người. Một số môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy nhiều điều khó nghe, đã bỏ Đức Giêsu không theo Ngài nữa: “Lời này chướng quá, ai nghe cho nổi……Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu nữa” (Ga.6, 60.66). Khủng hoảng đức tin vào Đức Giêsu lên tột đỉnh với biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, nhưng với biến cố Phục Sinh và những lần hiện ra cho các tông đồ, các môn đệ Đức Giêsu tin vào Đức Giêsu mãnh liệt hơn, và biết Ngài là ai rõ ràng hơn sau biến cố Phục Sinh.
Với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra chân tướng của Đức Giêsu: Người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa. Cũng với tác động của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra Thánh Thần là ai, sau khi đã nhận ra Đức Giêsu là ai, sau khi nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với họ (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13). Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa; Ngài biến đổi lòng người, Ngài giúp con người tin vào Đức Giêsu.
Theo thánh Phaolô, Thánh Thần làm sinh động Hội Thánh qua những ân sủng của Ngài. Tất cả những gì hay tốt con người có, đặc biệt những gì con người đang phục vụ Giáo Hội, đều đến từ Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để giảng dậy, ban ơn quảng đại để phục vụ anh chị em mình, ban đặc sủng để chữa bệnh. Thánh Thần ở nơi cung lòng mỗi người (Ga.14, 16; 1Cor.3, 16-17).
Thánh Thần đổi mới mọi sự, đổi mới vận mạng một dân thành: thành Yêrusalem không còn bị ruồng bỏ nữa, nhưng được yêu vì. Cũng chính Thánh Thần biến đổi lòng dạ con người, đưa dẫn con người trở về với Thiên Chúa, đưa con người trở về với anh chị em mình. Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn con người, thánh hóa con người, làm cho con người trở nên dễ yêu dễ thương, trở nên xinh đẹp trước mặt Thiên Chúa và trước mặt con người. “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is.62, 5).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có cảm nghiệm những gì xảy tới cho những anh em sống xung quanh, liên hệ mật thiết với bạn, và bạn đã xin Thiên Chúa can thiệp không? Xin chia sẻ nếu bạn có điều này.
2. Chỉ với phép lạ biến nước thành bánh, đã đủ cho người ta kết luận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể chưa? Tại sao?
3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA- Lm. GB. Nguyễn Minh Phương CSsR
Thời nay, đài truyền hình làm chương trình “chìa khóa thành công” hướng người trẻ khám phá và phát triển những khả năng của bản thân, hầu thành công trên đường đời.
Sáng kiến của đài truyền hình thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, đối với người tín hữu, mọi hoạt động của cuộc sống con người phải bắt đầu từ việc sống lời Chúa.
Trình thuật Tin Mừng tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11) sẽ soi sáng điều này.
I/. TIỆC CƯỚI
Rất tự nhiên, để sống đời hôn nhân, đôi nam nữ chính thức tuyên bố cho mọi người biết về sự chung sống của họ nơi bữa ăn mà người đời thường quen gọi là tiệc cưới.
Ngày hôn lễ, đôi tân hôn hạnh phúc tràn ngập; khách dự tiệc, họ hàng thân hữu hân hoan chúc tụng… và mong ước cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, vẹn nghĩa thủy chung… Tại tiệc cứơi Ca-na, Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự để chia sẻ niềm vui với nhà cưới.
Ngày cưới, khởi đầu cuộc sống hôn nhân, mọi người và nhất là đôi tân hôn mong ước mọi sự diễn ra tốt đẹp, bởi đầu có xuôi thì đuôi mới lọt.
Vậy mà, tại tiệc cưới Ca-na, đang khi mọi người vui say hào hứng, thì nào có ai biết, nhà cưới lại đứng trước nguy cơ tắc trách. Hết rượu!
Ai đã phát hiện ra điều này? Mẹ Ma-ri- a.
Với tất cả tấm lòng nhậy cảm của một người mẹ lo toan chăm sóc trong gia đình, Mẹ đã sớm phát hiện ra nguy cơ lúng túng của nhà cưới và nói với Đức Giê-su con của Mẹ: “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).
Bây giờ, xử lý giải pháp này ra sao? Mẹ dặn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).
II/. CHÚA GIÊSU LÀ LỜI THIÊN CHÚA
Bằng lời quyền năng: “đổ nước vào các chum” (Ga 2, 7) Đức Giê-su đã cứu nguy cho nhà cưới một bàn thua trông thấy. Dấu lạ đã xảy ra, nước lã đã hóa rượu ngon, nhà cưới đã thoát hiểm, niềm vui tiếp tục dâng cao.
Từ dấu lạ đầu tiên tại Ca-na, các môn đệ đã nhận ra vinh quang của Thiên Chúa và “tin vào Người” (Ga 2, 11) và sau này xác tín mạnh mẽ: chỉ nơi Chúa Giê-su ” mới có những lời mang lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Thì ra, sau khi tội nguyên tổ ập xuống trên con cháu, cuộc sống của con người không hoàn toàn tuyệt mỹ. Dầu người ta có mong ước mọi chuyện tốt đẹp nhưng sự tắc trách vẫn luôn rình rập và tai họa có thể ấp đến bất cứ lúc nào.
Đến nay, trong Chúa Giê-su, không chỉ mọi khó khăn trong sinh hoạt thường ngày của đời người sẽ được giải gỡ, mà sâu xa hơn, nơi Người, Thiên Chúa thông đạt thiện ý nhiệm mầu (Dt 1, 1) “Thiên ý này là kế hoạch yêu thương. Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô” (Ep 1, 9).
Lắng nghe lời Chúa Giê-su, người ta biết được Thiên Chúa là Cha, biết Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, biết được sự sống đời đời “sự sống đời đời là được nhận biết Cha Thiên Chúa duy nhất chân thật và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (Ga 17, 3).
Qua nhiều cách, Chúa vẫn đang ban lời của Người cho nhân loại để giải thoát con người mọi bế tắc, giúp họ tìm lại nguồn hạnh phúc, hướng dẫn họ tìm được giải pháp để thành công. Nhờ vậy, họ không còn phải đi trong bóng tối mà bước đi trong ánh sáng. Lời Chúa tiếp tục vang lên nơi Hội Thánh.
III/. LỜI CHÚA NƠI HỘI THÁNH
Trước khi về trời Chúa Giê-su đã ban cho Hội Thánh nhiệm vụ công bố lời Người. (Mt 28, 18-20).
Hội Thánh không thể quên dấu lạ nước lã hóa rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na được gợi lên từ sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a, từ tình yêu tuyệt đối của Đức Giê-su.
Dầu là người mẹ của Con Thiên Chúa quyền năng những Mẹ Ma-ri-a chưa hề xin cho bản thân hay cho Thánh Gia một dấu lạ nào. Có chăng, Mẹ chỉ âm thầm hy sinh và suy gẫm những kỷ niệm Chúa ban cho gia đình (x. Lc 2, 19). Vậy mà, nơi tiệc cưới Ca-na, vì hạnh phúc của nhà cưới, Mẹ Ma-ri-a đã lên tiếng khẩn cầu Chúa “họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3).
Rõ ràng chính tình yêu và lòng quảng đại và sự quan tâm của Mẹ Ma-ri-a đến đồng loại đã làm nên sự biến đổi diệu kỳ: nước lã được biến đổi thành rượu hảo hạng. Trong ân sủng và tình thương, mọi bế tắc sẽ được giải gỡ, những khó khăn sẽ không còn, mọi lo lắng sẽ thành niềm vui và hoan lạc.
Nối tiếp sứ vụ của Chúa, và gương sáng của Mẹ Ma-ri-a, Hội Thánh sẽ mang trọng trách không ngừng loan báo lời Chúa cho muôn người, thể hiện qua những sinh hoạt của Hội Thánh (cụ thể nơi những thành phần như: Đức Giáo Hoàng – các Đức Giám Mục nhất là Đức Giám Mục giáo phận – các linh mục – giáo dân – các vị thừa sai khắp nơi…) bằng lời rao giảng, bằng sự quan tâm trách nhiệm dấn thân, bằng tình yêu và bằng chính mạng sống của mình.
Đứợc Chúa Thánh Thần hướng dẫn (x Ga 14, 17), Hội Thánh xác tín mọi ơn ban đều là quà tặng của Chúa Thánh Thần “có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12, 4) được ban cho nhiều người khác nhau không phải để mưu ích cho cá nhân mà là ” vì ích chung” (1Cr 12, 7).
Từ đó, Hội Thánh vững vàng tin tưởng chính Chúa Thánh Thần sẽ nhắc cho người tín hữu nhớ việc làm và lời dạy của Chúa Giê-su (Ga 14, 26). Trời đất dẫu qua đi nhưng lời Chúa thì sẽ tồn tại mãi (x.Mt 24, 35).
KẾT
Thành công là mong ước chính đáng của mọi người. Cách riêng thành công của người tín hữu được xây trên nền tảng lời Thiên Chúa, trong sự nguyện cầu của Mẹ Ma-ri-a.
Thế nên, người tín hữu tôn thờ Chúa Giê-su và tin tưởng Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1, 1. 14), ban lời sự sống vĩnh cửu cho con người (x. Ga 6, 68).
Với tâm hồn vui mừng, tạ ơn, người tín hữu đón nhận Lời Chúa là ngọn đèn, là ánh sáng soi sáng chỉ đường (Tv 118), biến đổi thành họ thành những người con đích thực của Chúa, hầu lãnh nhận “phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10).
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
ĐỂ CHO TÌNH MẶN NỒNGF- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và mặn nồng là điều ai cũng ước mong khi bước vào đời sống hôn nhân – gia đình. Nói về chữ tình thì có lẽ tình hôn nhân đứng hàng đầu so với các thứ tình nhân loại khác như tình mẫu tử, phụ tử, bằng hữu… Đức Bênêđictô XVI đã nhận định: “Tình yêu này, tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được, có vẻ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu hầu như mờ nhạt đi” (TĐ Thiên Chúa Là Tình Yêu số 2).
Tình yêu hôn nhân được đề cao không nguyên chỉ vì người ta thoáng nhận ra nét đẹp là sự hết lòng và tính vô cầu nơi tình yêu này mà còn thấy được tầm quan trọng của nó là làm nên gia đình vốn là tế bào của xã hội. Quả thật lịch sử minh chứng rằng ở đâu mà tình yêu hôn nhân bị hạ giá thì ở đó đời sống xã hội dễ bị xuống cấp, bất ổn và nền đạo đức dễ bị băng hoại. Thánh Tông đồ dân ngoại đã dùng tình yêu đôi lứa làm dấu chỉ cho tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Nhiều Ngôn sứ như Hôsê, Isaia cũng dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo người sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).
Con Thiên Chúa đã làm người, chào đời trong một mái gia đình. Khởi đầu công cuộc rao giảng tin mừng và trong lần đầu tiên thể hiện quyền năng, Chúa Giêsu đã cứu giúp một đôi tân hôn khỏi bẽ mặt trước quan khách trong một tiệc cưới. Qua bài tường thuật của tin mừng thánh Luca về phép lạ hóa nước thành rượu ngon của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana chúng ta có thể rút ra đôi điều nhận định về đời sống hôn nhân gia đình:
– Luôn có đó nhiều sự kiện hay biến cố dù không mong vẫn cứ đến, dù chẳng muốn vẫn cứ xảy ra. Đã tổ chức tiệc cưới thì việc chuẩn bị rượu cách đủ đầy và có dư là điều như tất yếu. Với người Do Thái thời bấy giờ thì đây là chuyện hẳn nhiên, vì theo phong tục tập quán thì tiệc cưới có thể kéo dài từ ba đến bảy ngày. Tiệc cưới tại Cana có thể nói là đám tiệc không nhỏ. Chúng ta có thể luận suy điều này vì có người quản tiệc và số lượng chum nước dùng cho việc thanh tẩy (sáu chum nước, mỗi chum khoảng tử 80 dến 120 lit nước). Tiệc lớn, ắt gia đình phải khá giả. Nhà khá giả thì chuyện chuẩn bị rượu cho khách không phải là chuyện quá sức và dĩ nhiên ít khi bị xao lãng. Thế mà tiệc chưa tàn thì rượu đã hết!
Từng hỏi nhiều đôi hôn nhân chung sống từ muời, hai muơi năm trở lên rằng các bạn đã bất hòa với nhau bao nhiêu lần, thì được câu trả lời là đếm không hết. Lại hỏi tần suất những lần mà những chuyện không như ý lớn nhỏ xảy ra là bao nhiêu, thì được trả lời là khoảng trên dưới một tuần một lần. Quả thật khi đã chung sống, chung mâm, chung nhà, chung… thì khó tránh được sự “chung đụng” do nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía này hoặc phía kia. Nhìn nhận hiện thực cuộc sống để rồi chủ động tìm cách giải quyết, khắc phục, nghĩa là để duy trì và phát triển sự mặn nồng của tình yêu.
– Ngoài nỗ lực của bản thân người trong cuộc là đôi bạn thì rất cần đến sự giúp đỡ của người thân và cả những người hữu quan miễn là họ vốn có tầm lòng và sự bén nhạy với các tình huống. Tấm lòng và sự nhạy bén của Mẹ Maria trong tiệc cưới Cana thì chúng ta đã rõ. Không kể Chúa Giêsu, có lẽ khách dự tiệc hôm ấy đang ở cao trào của tiệc vui vì tình trạng “ngà ngà say”, nên dường như chẳng có ai phát hiện sự cố thiếu rượu. Với tấm lòng nhạy bén, Mẹ Maria đã nhận ra sự cố này để rồi đến xin Chúa Giêsu ra tay can thiệp, cứu giúp.
“Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng”. Sự thường người ngoài cuộc thì dễ có sự bình tâm để nhìn nhận vấn đề hơn. Tuy nhiên người ở ngoài này phải có cái tâm, cái tình và cái nhìn cách nào đó như tình người trong cuộc, nghĩa là xem như chuyện của mình. Để cho tình yêu hôn nhân vững vàng trước những sóng gió bễ đời, thì sự góp phần của mẹ cha, ông bà, thân bằng quyến thuộc là điều đáng trân trọng và đáng cầu mong. Xin đừng quên vai trò thiết yếu và hữu hiệu của người Mẹ đã nhận nhân loại chúng ta làm con khi Người đứng dưới chân thập giá năm nào (x.Ga 19,26-27). Đến với Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được Mẹ dẫn đến với Giêsu, Con của Mẹ là Đấng mà không có sự gì là không thể làm được.
– Đã yêu thì không chờ cơ hội cũng chẳng đợi đến thời đến buổi. Dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang, nhưng vì yêu thương Chúa Giêsu đã ra tay giáng phúc cho đôi tân hôn hôm ấy. Dù đã cùng với các môn đệ lánh riêng một nơi để nghỉ ngơi thế mà trước đoàn lũ dân chúng đông đảo như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu đã tiếp tục giảng dạy họ nhiều điều (x. Mc 6,30-34). Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải làm ngay hôm nay những gì ở trong tầm tay. Thiên Chúa là Tình Yêu và với Người thì mọi sự đều là hiện tại. Đã yêu hay sẽ yêu thì chưa hẳn là yêu. Động từ yêu cần phải luôn ở trong thì hiện tại.
– Sự kiện Chúa Giêsu làm cho sáu chum nước tức là khoảng sáu đến bảy trăm lít nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng khiến chúng ta nhận ra một quy luật của tình yêu đó là phải nhiều và mặn nồng hơn mãi. Có lẽ nhiều đôi bạn như chưa nhận thức đủ quy luật này. Tương tự như sự học, chuyện tình yêu như con thuyền đi dòng nước ngược. Không tiến thì ắt lùi.
– Để mặn nồng trong tình yêu thì lời căn dặn của Mẹ Maria quả là rất đáng lắng nghe và tuân giữ: “Người bảo gì thì hãy làm theo”. Thực thi lời Chúa dạy là điều tất yếu, nếu muốn vẹn chữ tình. Xin chớ dong dài luận lý trước mệnh lệnh Chúa truyền nếu chúng ta đã tin nhận Người là Đấng toàn tri và nhân hậu vô cùng. Vẫn có đó nhiều lứa đôi than vãn rằng con cầu xin mãi mà Chúa chưa ban cho gia đình ấm êm, thuận hòa. Trong nhiều lý do thì thường có lý do này là họ vẫn mãi cố chấp biện minh cho mình mà không thực thi điều Chúa phán trong lương tâm hay qua sự hướng dẫn của các mục tử hay qua sự khuyên bảo của những người khôn ngoan và đầy thiện ý.
– “Hãy đổ nước đầy các chum!” Đây là nước dùng cho việc thanh tẩy theo tục lệ của người Do Thái thời bấy giờ. Tập tục lúc bấy giờ, khi dùng bữa người Do Thái không ngồi trên ghế mà nằm nghiêng giữa sàn nhà. Vì thế việc rửa chân tay không chỉ mang tính lễ nghi thanh tẩy theo truyền thống mà còn để giữ vệ sinh cho sàn nhà, nơi các thực khách nằm mà dùng bữa. Để giữ sự mặn nồng tình yêu thì Chúa Giêsu lại ra lệnh làm một việc của sự thanh tẩy. Điều này nhắc nhớ chúng ta sự thật này: những bất hòa, bất ổn trong tình yêu hôn nhân gia đình thường có nguyên nhân là lỗi hay tội của ai đó hay của cả đôi bên. Thanh tẩy tâm hồn là điều cần thực hiện liên lĩ. Thanh tẩy không nguyên chỉ để cho tâm hồn mình trong sáng, tinh sạch mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu thương.
Tu thân -Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ. Cái nhìn của người xưa vẫn chưa hề lỗi vậy.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN-C
ÂN SỦNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, quà tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi thụ tạo lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu thân, con người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ, chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng giòn và rất giới hạn của mình.
Phần Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật 2 Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống. Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn tả: “Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.” (Is 62,3) Đấng Tạo Hoá trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế riêng biệt. Sự sinh sôi nảy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.
Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hoá sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt. Thật lạ lùng!
Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù doạ những người sơ khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh.
Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân quả. Trông quả thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương. Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng Tác Tạo: “Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 62,5)
Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí.” (1 Cr 12,4) Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, môt tổ chức hay một sinh hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói nhiều thứ tiếng… Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tuỳ theo khả năng. Khả năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả năng mới phát triển.
Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.” (1 Cr 12,7) Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành quả của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích. Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: “Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.” (1 Cr 12,5)
Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana, qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu. Thánh Gioan đã viết: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana, miền Galilê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.” (Ga 2,11) Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2,7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.
Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là Đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2,5). Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
CHÚA ĐẾN ĐEM LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một số người cho rằng Chúa Giêsu đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng đáng bận tâm.
Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa Giêsu còn thiết tha đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.
Sự kiện xảy ra tại tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến tham dự tiệc cưới tại Cana cốt để đem lại niềm vui cho cô dâu chú rể và chúc lành cho họ được trăm năm hạnh phúc. Chúa Giêsu xem đây là điều quan trọng nên Người không chỉ tham dự một mình mà cùng đi với Mẹ Maria và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được tăng lên.
Thế rồi, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Đây là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày rầu rĩ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng khách dự tiệc.
Trước tình thế đó, Mẹ Maria tìm đến với Chúa Giêsu để xin Người cứu vãn. Thế là mặc dù “giờ của Người” chưa đến (Ga 2,4), Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phép lạ đầu tay, hoá nước thành rượu ngon với số lượng dư dật để đem lại niềm vui cho mọi người.
Sự việc nầy cho thấy hạnh phúc đời nầy của con người là mục tiêu quan trọng mà Chúa Giêsu nhắm tới. Sau nầy, Chúa Giêsu thực hiện nhiều phép lạ khác cũng không ngoài mục tiêu đó.
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Na-in nên Chúa Giêsu đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin. (Lc 7,11-17)
Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho hai chị em Mác-ta và Maria ở Bêtania đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giêsu đã truyền cho Ladarô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui. (Ga 11, 32-43)
Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Em-mau đang sống trong ưu phiền thất vọng, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, đem lời kinh thánh sưởi ấm tâm hồn sầu muộn của các ông. (Lc 24, 32)
Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng… cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn, nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt nền trên tình yêu thương huynh đệ.
Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giêsu không ngừng kêu gọi mọi người hãy yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Gioan 13, 34).
Người cũng báo trước cho mọi người biết rằng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc chỉ dành riêng cho những ai yêu thương phục vụ người khác, đồng thời cảnh báo rằng khổ hình đời đời trong hỏa ngục là hậu quả phải đến cho những kẻ không sẵn sàng cứu giúp những người khốn khổ quanh mình. (Mt 25, 31-46)
Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giêsu.
Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
HÃY MỜI CHÚA VÀO NHÀ- Lm. FX. Lê Văn Nhạc
Tin mừng Ga 2: 1-11 Qua việc tỏ vinh quang trong bối cảnh tiệc cưới tại Cana, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ đầu tiên, và một cách tiệm tiến, Ngài đi từ tiệc cưới tự nhiên, tức là tiệc cưới Cana để dẫn con người đến tiệc cưới giữa Thiên Chúa với dân Người.
Cách đây ít lâu, có một bài báo thú vị của một phụ nữ kể lại việc trang hoàng nhà cửa của gia đình bà. Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đồng ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo bức hình Chúa Giêsu kích thước khoảng: 40 x 50cm vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe theo ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói rằng bà rất vui vì đã nghe theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng bức hình Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa nữa. Chẳng hạn ngày nọ có người khách lạ sau khi chăm chú nhìn vào bức hình liền nói với bà: “Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức hình đó không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!” Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức hình cũng thốt lên: “Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an”. Tuy nhiên, – người phụ nữ nói thêm – ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên các bạn bè khách khứa của tôi là mỗi khi nhìn tấm hình Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên cao.
Cuối cùng, người phụ nữ nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà tâm sự: “Theo thiển ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa”.
Thưa anh chị em,
Đôi tân hôn trẻ trong Tin Mừng hôm nay hẳn đồng ý với người phụ nữ trên. Họ đã mời Chúa Giêsu vào nhà họ và Ngài đã làm phép lạ đầu tiên ở đó khi họ thiếu rượu. Nhờ phép lạ nước lã hóa thành rượu ngon, Chúa Giêsu đã cứu vãn tình thế lúng túng của nhà đám và đem lại niềm vui tràn đầy cho mọi người.
Thực tế mà nói, mỗi cặp vợ chồng thường thiếu một cái gì đó vào một lúc nào đó trong đời sống hôn nhân gia đình: thiếu kiên nhẫn, thiếu hiểu nhau, thiếu thông cảm… và đôi khi thiếu ngay cả tình yêu, như giữa bữa tiệc thiếu rượu vậy. Bạn hết tiền, bạn không có việc làm, bạn thiếu sức khỏe… bạn hãy mời Chúa Giêsu đến, như đôi tân hôn ở Cana, bạn sẽ được giúp đỡ những gì bạn cần để hôn nhân bạn hạnh phúc hơn. Bạn phải làm phần của bạn: bạn phải làm việc nhiều hơn, hy sinh nhiều hơn, suy tính nhiều hơn. Giả sử hôn nhân của bạn điêu đứng vì thiếu kiên nhẫn, bạn hãy bàn hỏi, lập kế hoạch để bạn có thể kiên nhẫn làm sao và khi nào? Rồi – đây là điều quan trọng – bạn hãy xin Chúa Giêsu giúp bạn kiên nhẫn. Bạn thiếu hụt tài chánh ư? Bạn lập kế hoạch làm sổ chi tiêu. Rồi – đây là điều quan trọng nhất – bạn xin Chúa Giêsu giúp bạn đủ chi tiêu.
Sự sai lầm của các cặp vợ chồng là đã không xin Chúa giúp giải quyết vần đề. Đức Cha Tihamer Toth đã hỏi các bạn trẻ: “Các bạn có biết cái tội đầu tiên mà đôi bạn Công giáo đã phạm không? Và Ngài đã trả lời: Đó là khi làm đám cưới, các bạn đã mời tất cả, nào là bà con, bạn hữu, phụ dâu, phụ rễ, cả thợ trang điểm, thợ may, mời luôn dàn nhạc, mời hết chỉ trừ Chúa Giêsu là không có trong danh sách được mời. Đó là cái tội đầu tiên của đôi tân hôn. Và cái tội đầu tiên nầy là khởi điểm của một cuộc phiêu lưu dẫn đôi bạn trẻ vào một con đường vô định, một con đường đầy bóng tối…”
Một em bé gái mới lên năm, vừa cùng mẹ đọc kinh trước khi ăn cơm. Mẹ em thường ứng khẩu những lời cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến, xin hãy nên vị khách quý của bữa cơm hôm nay”. Bà cầu nguyện chưa xong, thì bỗng em bé nhìn mẹ và nói: “Nhưng thưa mẹ, con không muốn Chúa Giêsu làm người khách của chúng ta”. Bà mẹ hoảng hốt hỏi lại: “Tại sao lại thế?” Em bé trả lời: “Vâng, thưa mẹ, là người khách, Chúa chỉ đến một vài lần thôi. Con muốn Chúa Giêsu đến đây và ở lại luôn mãi với chúng ta” (Knight).
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu phải có mặt trong đám cưới của anh chị em. Chúa Giêsu phải là một phần tử của gia đình anh chị em. Ngài sẵn sàng giúp đỡ. Ngài đang chờ anh chị em xin Ngài, như Đức Maria đã làm tại Cana. Tốt nhất anh chị em hãy cầu xin qua Đức Maria những gì anh chị em cần trong đời sống hôn nhân, gia đình của anh chị em. Như vậy sẽ không có gì thiếu nữa.
Giáo dân Châu Âu xưa kia có một câu tục ngữ như thế nầy: “Nếu bạn đi du lịch bằng đường bộ, bạn hãy đọc một kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi du lịch bằng đường biển, bạn hãy đọc hai kinh Kính Mừng. Nếu bạn đi cưới vợ, lấy chồng, bạn hãy đọc một trăm kinh Kính Mừng”. Phải, đời sống hôn nhân gia đình đâu phải chỉ là một chuyến du lịch mà là cả một cuộc hành trình đến mãn đời. Không có sự hiện diện của Chúa, không có Đức Mẹ, vợ chồng khó lòng trung thành với nhau trọn tình vẹn nghĩa thủy chung được, nhất là những khi thiếu rượu nồng của tình yêu.
Thiên Chúa nhập thể đã làm đám cưới với nhân loại, vì yêu thương nhân loại, để nhân loại bắt tay nhau. Động cơ của hợp nhất, đầu mối của hạnh phúc lứa đôi là tình thương yêu. Tình thương yêu là cái gì tự nhiên nhất của con người. Giận ghét, oán thù, chia rẽ, phân ly là tình trạng bất bình thường. Đã là bất bình thường thì mọi người phải tìm cách giàn xếp để cùng nhau trở lại tình trạng bình thường là yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau. Nếu chúng ta không mời Chúa Giêsu đến trong đời sống hôn nhân và gia đình, gia đình sẽ có nguy cơ cạn dần thứ rượu nồng của tình yêu. Chúa Giêsu phải luôn có mặt trong gia đình và mọi người trong gia đình phải biết sống với Ngài, yêu mến Ngài, kính trọng Ngài như một Thượng Khách, thì tình yêu thương giữa mọi người sẽ như thứ rượu mới luôn luôn đầy tràn và đời sống gia đình sẽ là nguồn vui và hạnh phúc.
Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến thăm và chúc phúc cho gia đình chúng con. Xin chúc lành cho cánh cửa nhà chúng con. Ước chi những cánh cửa nầy luôn biết mở ra cho kẻ tha phương và người hiu quạnh. Xin chúc lành cho phòng ốc gia đình chúng con, để chúng tràn đầy sự hiện diện của Chúa. Và trên hết, xin Chúa hãy chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, để tâm trí chúng con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, đôi tay luôn biết rộng mở cho những kẻ nghèo khó, và trái tim luôn luôn biết hướng về Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN-C
CON ĐƯỜNG YÊU THƯƠNG KỲ DIỆU- Lm. Pt. Nguyễn Minh Chánh
1/. Con người sống trên trần gian ngoài cơm áo gạo tiền, danh vọng địa vị, vậy còn có điều gì làm thoả mãn cho cuộc sống nữa hay không? Chắc chắn là có. Bởi những cái mau qua của trần thế không bao giờ đem đến hạnh phúc thật cho con người. Điều mang đến hạnh phúc đích thực cho con người là chính Chúa. Vì thế Chúa chính là nguồn vui của con người, như lời Thánh Vịnh đã nói: “Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con.” (Tv 43.4) Vì Chúa là sự hoan lạc, cho nên nơi đâu có sự hiện diện của Chúa, thì nơi đó niềm vui cùng với hạnh phúc sẽ dâng trào.
2/. Trang Tin mừng trong thánh lễ hôm nay sẽ là bằng chứng nói lên niềm vui bắt nguồn từ Thiên Chúa:
Trong khung cảnh tiệc cưới tại Cana, ta thấy Chúa Giêsu đã đem niềm vui đến cho gia đình chủ hôn và những người dự tiệc rất nhiều: Trước hết bằng sự hiện diện trong tiệc cưới để chia vui với gia đình chủ hôn, thì Chúa Giêsu đã làm tăng thêm niềm vui cho gia đình này. Thứ đến, niềm vui ấy còn được nhân rộng hơn, không những cho gia đình chủ hôn, mà còn cho Mẹ Maria, các Tông đồ và những thực khách dự tiệc, khi Chúa đã làm dấu lạ hoá nước thành rượi ngon, để nối dài niềm vui cho hết mọi thành phần đang tham dự bữa tiệc hôm nay. Chắc chắn những ai tham dự bữa tiệc có một không hai này, họ rất cảm phục và vui sướng trước việc tốt lành mà Thiên Chúa đã thực hiên cho họ.
3/. Việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu đó là biển hiện thời của Đấng Thiên Sai:
Trong thời hạnh phúc ấy: nước mắt sẽ thay cho tiếng cười, tang chế đau khổ sẽ biến thành niềm vui, mọi người sẽ được Thiên Chúa tiếp đãi bữa tiệc trong Vương quốc của Ngài. Vì thế thật ý nghĩa khi Tiên tri Isaia đã báo trước thời của Đấng Thiên Sai như sau:” Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon….. trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,và tấm màn trùm lên muôn nước.”(Is 25.6)
4/. Hình ảnh muôn dân được Thiên Chúa quy tụ trên Núi thánh để tiếp đãi bữa tiệc, hay là hình ảnh tiệc cưới tại Cana sau khi Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon, đó là dấu chỉ báo trước”Giờ” Đức Giêsu sẽ đến sau này. “Giờ” Đức Giêsu đến là “Giờ” gì? Đó không phải là giờ Chúa tiếp tục đãi dân chúng bữa tiệc với thịt béo và rược ngon. Và đó cũng không phải là lúc Chúa Giêsu lại làm dấu lạ hoá nước thành rượu ngon nữa. Nhưng “Giờ’ Chúa Giêsu đến đó là thời gian để Chúa quyết định hoàn tất chương trình cứu độ Chúa Cha đã trao phó. “Giờ” đó chính là lúc Chúa phải đổ máu để rửa sạch tội lỗi con người. “Giờ” đó chính là lúc Chúa phải hy sinh để cứu sống con người.
Nếu như trong nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, máu các con dê, bò được rẩy lên mình những người nhiễm uế để họ được thanh tẩy, thì trong giờ hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra sẽ mạng lại hiệu lực cho muôn người rất nhiều. Vì nhờ Máu hy sinh của Chúa, nhiều người sẽ được thanh tẩy lương tâm đen tối, nhờ đó “nhiều người được tha tội”.
Nếu như dấu lạ hoá nước thành rượu Chúa đã làm tại tiệc cưới Cana đem lại rất nhiều niềm vui cho nhiều người, thì trong “Giờ” hy sinh của Đức Giêsu, Máu Chúa được đổ ra đem lại niềm vui trọn vẹn đích thực cho hết mọi người. Niềm vui trọn vẹn đích thực đó là niềm vui vì được Chúa Cứu Độ, được ơn Cứu Độ. Vì thế, chén rượu mà Đức Giêsu cầm trên tay để chúc tụng Thiên Chúa trong bữa tiệc Vượt Qua trước lúc Chúa chịu chết, đó chình là chén Máu Chúa đổ ra để cứu độ con người. Chén Máu đó là chén Máu của niềm vui, chén Máu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.
5/. Ngày hôm nay khi mỗi lần chúng ta đến dâng thánh lễ, đó cũng là thơì gian chúng ta đang chứng kiến “Giờ” hy sinh của Đức Giêsu. Giờ hy sinh của Chúa trong thánh lễ không phải là thời gian của quá khứ, nhưng là “Giờ” hiện tại; “Giờ” thánh hoá chúng ta; “Giờ’ đem đến hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta.
Vậy khi đang sống trong môi trường quá ồn ào, bởi vì người ta đang chạy đua với nhau để tìm kiếm:ảnh hưởng, tiền bạc, lợi nhuận, danh vọng, địa vị, thú vui…… Sống trong môi trường như thế, là người Công giáo chúng ta còn cảm thấy “Giờ” của Chúa còn cần thiết cho cuộc sống nữa hay không? Nếu cảm thấy “Giờ” của Chúa không còn cần thiết, thì đó là sự sai lầm và nguy hiểm nghiêm trọng cho đời sống chúng ta. Chính cái sai lầm và nguy hiểm ấy, nó sẽ lôi kéo chúng ta ra khỏi Bàn tiệc hạnh phúc mai sau trong Vương quốc Thiên Chúa. Còn một khi chúng ta tin rằng “Giờ’của Chúa luôn cần thiết cho cuộc sống, luôn luôn đem lại giá trị cho con người đó là niềm vui hạnh phúc mai sau, thì chúng ta hãy cùng tham dự vào “Giờ” hồng phúc này. Phải gắn liền đời sống với “Giờ” Vượt qua của Chúa hằng ngày trong Thánh lễ, vì “Giờ” Vượt qua của Chúa đó là “Giờ” thánh, “Giờ” biến đổi chúng ta để được nên một vơí Ngài.
Khi ý thức tầm quan trọng “Giờ” cứu độ của Đức Giêsu; mỗi người chúng ta trong cuộc sống hãy “bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa niềm vui của lòng ta”. Đến bàn thờ Thiên Chúa để được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, để “nâng chén mừng ơn cứu độ” mà Chúa ban cho chúng ta. Vì hôm qua, hôm nay và mãi mãi: chỉ có Chúa chính là niềm vui đích thực của đời ta. Amen.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- C
CHÚA HIỂN LINH ĐIỀU GÌ TRONG PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN TẠI CANA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Khi tường thuật phép lạ đầu tiên tại Cana, tác giả Gio-an đã xác định, mục đích Đức Giê-su làm chính là: để “bày tỏ vinh quang của Người”. Đã từ lâu tôi thấy câu khảng định này không thuyết phục: phép lạ chẳng có gì là hoành tráng để đáng được gọi là bày tỏ vinh quang…, nó giống như một trò ảo thuật tầm thường ‘hóa nước thành rượu’; cả tới cách làm tôi thấy cũng có vẻ như lén lút bất cập, có quá ít người được chứng kiến, và hầu như chẳng gây được ấn tượng gì lớn ngay trong số các thực khách. Cả ba cuốn Phúc âm Nhất lãm cũng đâu có đề cập gì tới phép lạ mà Gio-an cho là ‘quan trọng’ bậc nhất ấy. Chính vì thế mà tôi ao ước: có được cặp mắt bén nhạy (hay khác thường) của Gioan, để chiêm ngắm cái phép lạ ‘tầm thường’ được cho là phi thường này. Gio-an là môn đệ đã từng khảng định rằng: mình ‘đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… đã chạm đến’ một điều gì đó vĩ đại lắm mà ông gọi là ‘Lời sự sống’ (xem 1 Ga 1:1-4). Chắc hẳn, qua phép lạ Đức Giê-su thực hiện tại Ca-na, lần đầu tiên ông cho rằng: mình đã được tận mắt chiêm ngưỡng ‘Lời hằng sống’ đó.
Trước hết: ‘vinh quang’ như Gioan hiểu, có lẽ rất khác với quan niệm thông thường mà chúng ta có. Đối với ông nó phải rất đời thường và gần gũi…, đời thường như một bữa tiệc cưới thiếu rượu, như gia nhân đổ đầy nước vào các chum đá dùng vào việc rửa tay chân trước khi dự tiệc, như ông quản tiệc nếm thử rượu trước khi đãi khách… nhưng trong đó lại tàng ẩn một điều gì đó rất là phi thường, điều có khả năng làm đảo lộn tất cả. Gioan và các môn đệ, đương nhiên là cả Đức Maria nữa, đã nhận ra thứ ‘vinh quang’ đặc biệt đó, và các ngài đã tin.
Tôi không biết phải diễn tả cái suy tư này như thế nào đây cho dễ hiểu; chỉ xin lấy câu chuyện tranh, mà tôi cũng tình cờ xem được để minh họa:
Chuyện tranh ngắn mang tựa đề: ‘Tại Sao Vậy?’ (Why?), và được tôi tải xuống và lưu lại dưới nhan đề ‘Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta’. Chuyện tranh vẽ: (hình 1) anh chàng nọ quì gối cầu nguyện xin Chúa che chở mình, (hình 2) cầu nguyện xong anh yên tâm đứng lên ra về, (hinh 3) đang đi đột nhiên một viên đá không biết từ đâu rớt trúng đầu anh, (hình 4) anh giận dữ kêu toáng lên “tại sao vậy?”, (hình 5) ngước lại phía sau, anh thấy Đức Giê-su đang giang rộng cánh tay và lấy toàn thân che chắn anh khỏi những hòn đá lớn hơn nhiều đang lao tới, (hình 6) ngoái lại phía anh Người dịu dàng hỏi: “Con có sao không? Xin lỗi nhé, có thể ta đã để trượt mất một viên nhỏ!”.
Thế đấy, tôi thiết nghĩ cái gọi là ‘phép lạ cả thể’ nơi tiệc cưới Ca-na cũng tương tự như thế: chỉ là một tai nạn đời thường cùng với một giúp đỡ âm thầm ít đáng được ai quan tâm. Thế nhưng, những ai có cặp mắt như Ma-ri-a, như Gio-an và các môn đệ… (và phải là cặp mắt của mọi Ki-tô hữu nữa) mới có thể nhận ra rằng: đã có một tình yêu nhân ái vĩ đại đến trong trần gian, đã bắt đầu xuất hiện một Thiên Chúa đầy từ tâm can thiệp vào cuộc sống đời thường của con người. Với cặp mắt đức tin đó, họ nhận ra đây quả là một ‘phép lạ’ cả thể, một ‘sự lạ’ mà cho tới giờ phút đó chưa từng bao giời xảy ra trong lịch sử loài người. Trong đời sống thường ngày vẫn luôn tồn tại một nghịch lý: người ta trầm trồ tấm tắc trước một sự kiện nào đó hoành tráng vĩ đại, nhưng lại không mấy thấy cần tới nó: có cũng được mà không có cũng chẳng sao; trong khi đó, điều xem ra nhỏ mọn tầm thường và âm thầm như: ‘mình được một ai đó quan tâm thương mến’ chẳng hạn, thì hầu như lại không thể thiếu; nếu mất nó, ta hầu như không thiết gì sống nữa, tìm lại được nó thì như là phục hồi được cả một lẽ sống. ‘Phép lạ’ cả thể nhất mà Gio-an phát hiện ra nơi biến cố tầm thường ‘nước lã hóa thành rượu’ trong bữa tiệc cưới tại Ca-na hôm đó có lẽ chính là điều này. Ông đã thấy và ông đã tin rằng: Thiên Chúa yêu thương trần gian và đi vào cuộc sống con người…, và ông còn muốn không ngừng loan báo Tin Mừng này cho hết mọi người: “để chính anh em được hiệp thông với chúng tôi” (1 Ga 1:3). Câu chuyện ‘phép lạ’ mà chúng ta vừa được nghe Gio-an tường thuật đúng là Tin Mừng thứ thiệt đấy! Nói đúng hơn, cần mỗi Ki-tô hữu chúng ta phát hiện ra: đó chính là dấu hiệu khởi đầu của một ‘phép lạ’ cả thể hơn hết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3:16). Hiển linh hay mạc khải của tiệc cưới Ca-na có mục đích để chúng ta từ nay đặt trọn niềm tin tưởng phó thác vào một Thiên Chúa đã Giáng Sinh, đã chêt trên Thập Giá, và đã Phục Sinh để cứu chuộc chúng ta, một Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót như chưa từng xuất hiện bao giờ trong suốt lịch sử nhân loại trước đó; và hiển linh này có sức mạnh để bắt đầu một cuộc cách mạng làm đảo lộn toàn bộ cuộc sống của người tín hữu trước hết, và của toàn thể nhân loại nói chung.
Lạy Mẹ từ nhân, tại tiệc cưới Ca-na chính Mẹ đã nhận ra một khó khăn nhỏ của đời thường, nhưng cũng chính Mẹ đã can thiệp, để qua đó Đức Giê-su bộc lộ được lòng nhân ái của Thiên Chúa, và để các môn đệ tin nhận ra điều đó. Xin chỉ cho con biết nhìn vào những yếu kém đổ vỡ của cuộc sống mình mà khám phá ra sự hiện diện liên tục của Thiên Chúa yêu thương. Xin cho con nhận ra ‘phép lạ vĩ đại nhất’ Chúa đang thực hiện trong đời sống con là ban cho con ơn đức tin để nhận biết và cảm tạ lòng thương xót Chúa. Xin Mẹ cũng can thiệp cho nhiều người nhận ra được‘phép lạ’ cả thể này ngay trong chính đời sống mình, và qua đó họ lớn tiếng ca ngợi lòng nhân ái từ bi Chúa đến muôn đời . A-men.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatiithuongnienc #suyniemloichuagpbr