CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CUỘC THĂM VIẾNG CỦA ĐỨC MARIA – Chú giải của Fiches Dominicales 14
BÀI CA NGỢI KHEN (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 21
CHÚA SẮP ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 38
THĂM VIẾNG VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ CHO THA NHÂN (*) – Lm Đan Vinh HHTM 58
NIỀM VUI TRONG THÁNH THẦN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 72
THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI – Lm. Phêrô Lê Văn Chính 76
CHIA SẺ NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB 81
CHÂN DUNG ĐỨC GIÊSU KITÔ- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 87
THA NHÂN ĐƯỢC CHÚC PHÚC- Lm. Barnaba Lê An Phong.. 93
GẶP GỠ: THÀNH SỰ TẠI NHÂN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 99
NIỀM VUI VÌ CÓ ĐƯỢC CHÚA VÀ MẸ VIẾNG THĂM- Lm. Micae Võ Thành Nhân 105
TRỞ NÊN NHỮNG EMMANUEL MỚI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 108
THÁNH Ý- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 112
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Nơi ngươi sẽ xuất hiện Ðấng thống trị Israel”.
Bài trích sách Tiên tri Mikha.
Ðây lời Chúa phán: “Hỡi Bêlem Ephrata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Ðấng thống trị Israel, và nguồn gốc Người có từ nguyên thuỷ, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em Người, sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa của Người. Và họ sẽ trở về, vì bấy giờ Người sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, Người sẽ là chính sự bình an”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).
Xướng: Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai nghe! Chúa ngự trên Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con.
Xướng: Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, từ trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành mà Ngài đã củng cố cho mình.
Xướng: Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Người.
Bài Ðọc II: Dt 10, 5-10
“Này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa”.
Bài trích thơ gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: “Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: ‘Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách’”.
Sách ấy bắt đầu như thế này: “Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Ðoạn Người nói tiếp: Lạy Chúa, này đây con đến để thi hành thánh ý Chúa”. Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 1, 38
Alleluia, alleluia! “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-45
“Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.
Ðó là lời Chúa.
EM THẬT CÓ PHÚC VÌ ĐÃ TIN (*)- Chú giải của Noel Quession
Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta “ngẩng đầu lên” trước Đức Kitô vinh quang đang “hiện đến” trên đám mây trời: Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày “cánh chung”. Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.
Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ, những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đợi người con của mình ra đời không?
Bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa
Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là “Công Chúa” hay “Bà lớn”.
Đoạn văn nói cho ta hay, “Bà hấp tấp chỗi dậy”, có thể nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ. Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. “Êlisabét, người họ hàng với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai… và nay đã có thai được sáu tháng”. Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả! Bà đi về Giêrusalem. Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.
Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng “lên thành Giêrusalem” để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất… đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã “thừa sai”. Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).
Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét
Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và trong khung cảnh sống tự nhiên nhất: “ở nhà”… “giữa những bà con”, ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như thế!
Ông Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 – 1,64). Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ông Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.
Lời chào của Maria là: “Shalom” có nghĩa là bình an, trong ngôn ngữ của bà. Chào? Dacaria và Eâlisabét sáu tháng trước vẫn còn là một đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà.
Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên.
“Đứa con nhảy lên trong bụng”. Đó là những từ cụ thể? Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường? Là hình ảnh văn chương ngây ngô? Là thứ tình cảm lỗi thời? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết thần học, một “dấu chỉ” nữa? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người: “ngay từ trong lòng mẹ”, ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng “Chúa biết mình” (Gr l,5). Cách nói này phải chăng là hạnh phúc?
Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng cho Đức Giêsu Kitô! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến. Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm? Đấy là một hiện tượng sinh học thông thường chăng? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn “đi trước” chúng ta.
Và bà được đầy tràn Thánh Thần
Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng, nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ “đổ xuống trên mọi xác thịt” (Cv 2,17-21 – Ge 3,l-5).
Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội! Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là những sự kiện trên là ‘không có thực: Luca đã nhận biết những sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria, Đấng đã “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng” (Lc 1,66 – 2,19-51).
Liền kêu lớn tiếng và nói rằng
Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb 15,21 – 16,4.5.42 2 Sb 5;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu “tung hô phụng vụ” để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là: “Bà Eâlisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này”.
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên chăng? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không? Có lần chuỗi Mân Côi? Những từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ nữ khác là Gia – en và Giuđitha (Tl 5,24 – Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên không?
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ”: đây là một lời khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác: Luca lấy làm sung sướng nhấn mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có nhiệm vụ “dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ”. Điều này đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Eâlisabét đã được “đầy ơn Thánh Thần”. Ở đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là “‘quả trong lòng bà được chúc phúc”.
Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?.
Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9) nói về Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19) rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những “đồ vật” phượng tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể “sống động” của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn ngắm: Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người… “Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không ” (Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm Thánh Thể.
Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng
Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là: “Khi lời chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui mừng (Cùng một từ “Koilia” thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác nhau!).
Từ “giật mình” hay “nhảy lên”, gợi cho ta nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm 6,15-16). Từ “vui mừng” (“agalhasis”) chỉ được dùng trong những Thánh Vịnh (90 lần!) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp. Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca “các người sẽ nhảy nhót như những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng” như ngôn sứ đã nói như thế (Mt 3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao?
Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.
Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là “có phúc”, vì Bà có đức tin: Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về “mối phúc” này, mối phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay: “Nhưng đúng hơn: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11,28).
Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không? Giờ đây tôi bắt đầu kinh “Magnificat anima mea Dominum” “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
CUỘC THĂM VIẾNG CỦA ĐỨC MARIA – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1/. Một cảnh liên hệ chặt với Truyền Tin
Trước khi cáo từ ra đi, Sứ thần Truyền tin đã chỉ dẫn cho Đức Maria một dấu chỉ: “Kìa bà Eâlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là “hiếm hoi”, mà nay đã có thai được sáu tháng”. Thế là Đức Maria, hình ảnh Giáo Hội truyền giáo người mang Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, tức thì “vội vã lên đường đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”. H. Cousin nhận định: “Luận đề về con đường xuất hiện lần đầu tiên trong một công trình, ở đó các nhân vật di chuyển nhiều. Lời khởi sự cuộc hành trình, và cuộc chạy (“lanh lẹ”) (của Lời cuối cùng dẫn Lời tới Rôma, biểu tượng của những miền đất xa xôi có người ở” (Cv 1,8. 28, 30-31) (L’ Evangile de Luc”, Centurion, trg 30).
Chúng ta chẳng được biết gì hơn về cuộc hành trình của Đức Mẹ xuống miền Nam. Như cha Lagrange tính toán, thì cuộc hành trình ấy có thể phải mất bốn ngày. Chủ tâm của tác giả Luca là muốn tập trung vào lúc tới nơi để có thể tạo cảnh làm nhịp cầu nối kết hai giai đoạn mà trước đây Luca đã triển khai riêng rẽ: giai đoạn của Gioan Tẩy Giả và giai đoạn của Đức Giêsu.
2/. Cho biết số mệnh nhiệm mầu của hai con trẻ sắp sinh ra.
Trong cảnh Truyền tin, Đức Maria vừa mới nhận được lời chào của Thiên thần, liền chuyển lời chào ấy tới người chị họ của mình: “Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Elisalbét”. F. Bovon nhận xét, “Trong những chương này có nhiều lời chào hỏi, vì có nhiều cuộc gặp gỡ, bởi lẽ là Thiên Chúa can thiệp và khai mào ơn cứu độ thông qua những mối tương quan của con người” (Tin Mừng theo thánh Luca 1-9, Labor et Fides, trg 86). Và lời chào hỏi của Đức Maria châm ngòi cho tiến trình ấy. Khi lời chào ấy vừa lọt tai bà Êlisabét thì đứa con trong bụng bà nhảy lên; một sự nhảy mừng mà bản dịch đã dùng một từ làm giảm đi sức mạnh, bởi vì nguyên văn tiếng Hy Lạp là “nhảy cẫng lên”, “nhảy tung lên”, “nhảy múa”.
Vì được đầy tràn Thánh Thần, ngay cả trước khi chào đời, nên Gioan nhìn thấy bình minh của kỷ nguyên mới đang ló dạng và bằng cách thi hành trước sứ mệnh của mình; như vậy ông nói tiên tri không phải bằng lời nói, nhưng bằng cử động nhảy tung lên, rằng Đấng mà người ta trông đợi đến vào ngày tận thế, thì từ nay người đang có mặt đây rồi: “Thiên Chúa không chỉ dùng những lời nói, mà còn sử dụng cả ngôn ngữ của thân xác nữa”. F. Bovon còn nhận xét thêm như vậy.
+ Được đầy tràn Thánh Thần, bà Êlisabél đọc được ý nghĩa của động tác con trong bụng mình nhảy lên vui sướng và ý nghĩa của cuộc hội ngộ mà bà đang sống.
+ Bằng một tiếng kêu lớn bà tỏ vẻ ngỡ ngàng, bà Êlisabét nhìn nhận rằng Đức Maria và “hoa trái của lòng” mà Maria đang cưu mang đều được Chúa chúc phúc.
+ Rồi bằng danh hiệu “Thân mẫu Chúa tôi”, bà tung hô người con của người em họ mình là Đấng mà Tv 109,1 đã loan báo, Đấng Kitô Đức Chúa.
+ Sau cùng theo hình thức một mối phúc, bà tán tụng lòng tin của Đức Maria. “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria “đã cưu mang trong tinh thần trước khi cưu mang trong thân xác mình”, điều mà thánh Augustinô sẽ chú giải sau này.
Cousin viết: “Mối phúc về lòng tin của Đức Maria, phân biệt tự căn bản người thiếu nữ ấy với ông Dacaria (câu 45) và những câu 42-45 cho phép Luca kết hợp lại trong chính bản thân Đức Maria hai mối phúc: phúc được làm mẹ Thiên Chúa và phúc vì có lòng tin; sau này ở 11, 27-28, hai mối phúc ấy lại được Luca tách riêng ra. Nhờ tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói, Đức Maria được làm mẹ: lòng tin của Người cần thiết để Thiên Chúa phải thực hiện những gì Người đã nói! Đức Maria là điển hình kẻ nghe Lời Chúa, là mô hình của người có lòng tin, là tín hữu đầu tiên. Bởi vậy, ta không nên coi thường phần Luca đóng góp vào kinh nguyện và suy niệm của Giáo Hội sau này liên can tới Đức Trinh Nữ Nadarét. Không ai chối cãi được rằng kiểu nói ” Thân Mẫu Chúa ” cũng là phiến đá đặt nền cho tước hiệu đầu tiên sau này, tước hiệu mà cả hai Giáo Hội Rôma cũng như Chính Thống sẽ tôn phong và ca mừng Đức Maria: “Théotokos”, “Mẹ Thiên Chúa”. (“L’evangile de Luc”. Centurion. trg 31)
BÀI ĐỌC THÊM
/1. Thăm viếng: gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, giữa hai con trẻ, giữa hai giao ước (H. Voulliez, “Dieu si proche”, Desclée de Brouwer, trg 17- 18).
“Thánh Kinh là cả một chuỗi dài những cuộc viếng thăm mà Thiên Chúa đã thực hiện với dân Người. Mặc dầu những bất trung thất tín của con người, và đôi khi vì chính những bất trung ấy mà từ chín tầng trời cao thẳm, Thiên Chúa vẫn thường xuyên ngự xuống trần gian. Một ngày kia, qua trung gian Sứ thần Gabrien, Người loan báo cho một thiếu nữ làng Nadarét, là Maria, biệt tin con Người đến. Tức thì người thiếu nữ ấy lên đường đi “thăm” người chị họ của mình là Êlisabét.
Hai người phụ nữ gặp nhau, và qua họ hai con trẻ là Gioan và Giêsu cũng gặp nhau. Rồi qua hai con trẻ ấy. hai Giao ước cũ và mới gặp nhau. Tường thuật của Luca về khoảnh khắc có một không hai này có giá trị còn hơn một trang sử giáo dục. Cuộc viếng thăm này mở ra một tương lai cực kỳ mới lạ. Từ nay qua trung gian con người, qua người con đã làm người mà Thiên Chúa viếng thăm nhân loại. Và cũng chính khi thăm viếng người ta, là ta thăm viếng Chúa vậy. Trong chuyến viếng thăm cuối cùng của Chúa vào ngày tận thế, người ta sẽ kêu lên ngỡ ngàng: “Nhưng có khi nào chúng tôi đã viếng thăm Chúa đâu? Và Chúa sẽ đáp lại họ: “Mỗi lần anh em thăm viếng những người ốm đau, nghèo khổ.. và bất cứ ai khác, là anh em đã thăm viếng chính Ta, anh em đã mở ra trên trần gian này, những con đường xuyên đồi đậm tình nghĩa thiết đời đời vậy “.
- /“Cùng với Đức Maria hãy tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự ngay cả những điều không thể được” (G. Boucher, trong “Le ciel sur la terre”).
“Thế là lịch sử chuẩn bị sang trang, để khai trương một kỷ nguyên mới. Vậy mà thế giới vẫn chưa biết điều ấy. Chẳng bao lâu sau, một phần lớn nhân loại sẽ bắt đầu tính số năm và thể kỷ từ một biến cố có vẻ như không có gì quan trọng cả.
Người ta còn gọi thêm nữa là: năm một sau Đức Giêsu Kitô, thế kỷ thứ nhất sau Đức Giêsu Kitô, hai ngàn năm sau Đức Giêsu Kitô.
Trong niềm trông đợi ơn mạc khải về thế giới mới này, rất cả đều tuỳ thuộc vào quyết định của một người phụ nữ rất bình dị. Chỉ một mình người phụ nữ khiêm tốn, không tên tuổi ấy đang nắm giữ bí mật của đất và trời. Người phụ nữ ấy là MARIA, đang mang trong máu thịt mình; những lời hứa về một người con cùng chung một bản tính với Cha trên trời.
Những bà con của Người đã lấy làm lạ lùng. Trong nhà Dacaria và Êlisabét, người ta linh cảm rằng ơn làm mẹ của người em họ trẻ tuổi này là do lời Chúa hứa.
Thật là tuyệt vời khi nghe người phụ nữ sơn cước ấy chúc tụng một phụ nữ làng quê Nadarét, đồng thời cũng chúc tụng luôn cả hài nhi mà phụ nữ Nadarét ấy đang cưu mang và hài nhi ấy không bao lâu nữa sẽ cho người ta biết mặt và kế hoạch cứu nhân độ thế của mình!
Bà Êlisabét nhờ lớn tuổi hơn nên được đặc ân nhận ra một dấu lạ của trời ngay trong tư cách làm mẹ của bà; bà cũng phát hiện cùng một dấu lạ như thế nơi người em họ còn trẻ măng của bà. Khi nghe con mình nhảy mừng trong bụng, bà ức đoán rằng người em họ của mình là một người mẹ dã cùng với Thiên Chúa dấn thân trong cuộc phiêu lưu này.
Ai sẽ nói hết được những nỗi niềm và tâm tư mà hai chị em chia sẻ cho nhau lúc ấy? Ai sẽ kể hết được những lời kinh tuyệt vời mà hai người mẹ ấy cùng dâng lên? Bởi vì Tin Mừng vẫn luôn luôn nhấn mạnh đến một điều, đó chính là lòng tin của hai người phụ nữ này. Nên hạnh phúc thật mà họ có được là vì người này cũng như người kia đều đã tin vào một điều không thể xảy ra được.
Gần tới lễ Giáng sinh, chúng ta tán tụng lòng lin của Đức Maria. Một lòng tin đưa Mẹ đến dấn thân hào một chuyến đi không biết trước hậu quả, trên những miền đất của thiên Chúa. Một lòng tin khiến Mẹ mạo hiểm mang theo gánh nặng Chúa trao, để lặn lội vượt đèo lội suối đi tới nhà người chị họ Êlisabét. Một lòng tin vào Thiên Chúa Đấng làm được mọi sự. Một lòng tin tuyệt đối.
Ta hãy mừng vui ngây ngất trước nhan Mẹ! Nhưng còn mừng vui hơn nữa trước một Thiên Chúa dám chọn con đường của phàm nhân để bắt liên lạc với nhân loại.
Bởi lẽ Đức MARIA cho phép ta nhận ra ân huệ Chúa ban cho Mẹ do lòng tin, ân huệ mà Thiên Chúa cũng có ý định ban cho mỗi người chúng ta. Ta có biết đáp lại kế hoạch của Chúa dành cho ta bằng cũng một niềm tin phó thác như Đức Maria không?
Phúc thay nếu ta tin rằng “Không có gì mà Thiên Chúa không làm được!”.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
BÀI CA NGỢI KHEN (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Thiên Chúa thực hiện những ý định cao cả của Người dựa trên những người phận nhỏ, yếu hèn và khiêm hạ. Đó là giáo huấn của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm C này.
Mk 5: 1-4a
Ngôn sứ Mi-kha loan báo rằng chính ở nơi thị trấn nhỏ bé của miền Giu-đê, ở đó một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa sinh sống, mà Đấng Thiên Sai một ngày kia sẽ xuất hiện. Con trẻ này sẽ thống lãnh Ít-ra-en và quyền lực của Ngài sẽ trải rộng cho đến tận cõi đất.
Dt 10: 5-10
Ngay từ khi nhập cuộc vào kiếp sống phàm nhân, Đức Giê-su sống khiêm hạ và vâng phục ý muốn của Thiên Chúa, Cha Ngài. Ngài hằng sống trong tư thế dâng hiến bản thân mình thành hy lễ để kế hoạch của Cha Ngài được thành tựu.
Lc 1: 39-45
Tin Mừng Lu-ca tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Ma-ri-a với người chị họ là bà Ê-li-sa-bét, sau biến cố Truyền Tin. Chính ở nơi người thiếu nữ phận nhỏ và khiêm hạ của làng Na-da-rét này mà bà Ê-li-sa-bét nhận ra ý định cao cả của Thiên Chúa và niềm vui Thiên Sai khiến con trẻ, Gioan Tẩy Giả, nhảy lên vui sướng trong dạ mẹ.
BÀI ĐỌC I (Mk 5: 1-4a)
Sấm ngôn của ngôn sứ Mi-kha này là một trong những bản văn vĩ đại loan báo Đấng Mê-si-a. Sấm ngôn này đã được trích dẫn hai lần trong các sách Tin Mừng: một lần trong Tin Mừng Mát-thêu, trong đó các kinh sư trưng dẫn sấm ngôn này cho vua Hê-rô-đê để báo cho các nhà Chiêm Tinh biết “Bê-lem” là nơi Vua dân Do thái vừa mới sinh ra (Mt 2: 6); và một lần khác trong Tin Mừng Gioan, khi đám đông dân chúng tranh luận với nhau về nguồn gốc của Đức Giê-su, có kẻ lại nói rằng Ngài không thể là Đấng Thiên Sai bởi vì theo sấm ngôn Đấng Thiên Sai phải “xuất thân từ Bê-lem” (Ga 7: 42).
1/.Thân thế và sự nghiệp:
Ngôn sứ Mi-kha thi hành sứ vụ của mình trong vương quốc Giu-đa suốt hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, đồng thời với ngôn sứ I-sai-a. Nhưng trong khi ngôn sứ I-sai-a thuộc gia đình quý tộc ở Giê-ru-sa-lem, thì ngôn sứ Mi-kha xuất thân từ hàng dân giả miền Nam, phía tây Khê-ron.
Như các ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên: A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, ngôn sứ Mi-kha tố cáo những bất công xã hội, nạn áp bức những người nghèo, tệ nạn tham ô hối lộ của các quan án, các tư tế, các thủ lãnh, vân vân, những hành vi này gây nên một đoạn tuyệt với Giao Ước và dẫn đến những án phạt của Thiên Chúa. Có lẽ Mi-kha là vị ngôn sứ định nghĩa rõ nét nhất những yêu sách của Giao Ước:
“Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt,
điều nào Đức Chúa đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn” (Mk 6: 8).
Ngôn sứ Mi-kha báo trước cho Sa-ma-ri cũng như cho Giê-ru-sa-lem những bất hạnh kinh khiếp, nhưng ông cũng hé mở những viễn cảnh chứa chan hy vọng, như bản văn hôm nay làm chứng.
Tác phẩm của ngôn sứ Mi-kha đã chịu nhiều sửa đổi và vài đoạn thêm vào cuối thời lưu đày hay hậu lưu đày, tức cuối thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Bản văn hôm nay được trích từ chương 5 là một trong những bản văn nêu lên nhiều vấn đề. Tuy nhiên, cũng vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên này, ngôn sứ I-sai-a vang lên cùng một sứ điệp tương tự. Ở giữa lòng những biến cố bi thảm (những đột nhập của quân đội Át-sua, cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem, sự tàn phá Sa-ma-ri, vân vân), các ngôn sứ nối tiếp nhau khơi lên niềm hy vọng khi nhắc lại những lời hứa gắn liền với nhà Đa-vít. Đó là điểm chung giữa các sấm ngôn của họ.
2/.Bê-lem Ép-ra-tha:
Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha,
ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa” (5: 1a).
Hai địa danh Bê-lem và Ép-ra-tha được liên kết với nhau ngay từ những bản văn cổ xưa nhất, ví dụ: “Bà Ra-khen qua đời và được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem” (St 35: 9). Thị trấn Bê-lem nhỏ bé là nơi một thị tộc bé nhỏ, những người Ép-ra-tha, từ miền Nam đến định cư lập nghiệp; sau đó, họ đã được sáp nhập vào bộ tộc Giu-đa. Tuy nhiên, “Ép-ra-tha” theo tiếng Do thái có nghĩa “sự màu mỡ”. Ngôn sứ Mi-kha xem ra chơi chữ: Bê-lem là vùng đất màu mỡ vì nó sẽ sinh ra Đấng Thiên Sai.
3/.Một sự tương phản:
Lời sấm của ngôn sứ Mi-kha được xây dựng trên một sự tương phản: một thị tộc nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, tương phản với một viễn cảnh về một con trẻ chào đời và uy danh cũng như quyền lực của con trẻ này có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en, quy tụ dân chúng bị phân tán và trải rộng quyền lực của mình cho đến tận cùng cõi đất.
Từ “thị tộc” theo tiếng Do thái có nghĩa “ngàn”, vì nhóm người chỉ có thể hình thành nên một thị tộc nếu có thể cung cấp một ngàn chiến binh. Vì thế, Bê-lem nhỏ bé đến nổi nó không thể cung cấp một ngàn chiến binh. Chúng ta cũng gặp thấy một cách đối lập giữa sự nhỏ bé và sự vĩ đại như thế ở sấm ngôn I-sai-a đệ tam:
“Người nhỏ nhất sẽ có ngàn con cháu,
kẻ hèn nhất thành một dân hùng cường” (Is 60: 22).
4/.Bê-lem, thành vua Đa-vít, thành Đấng Thiên Sai:
“Từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện
một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en” (5: 1b).
Sấm ngôn của ngôn sứ Mi-kha đem đến một sự xác định mới. Nếu lời sấm của ngôn sứ Na-than khẳng định muôn năm bền vững của vương triều Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 16), và sấm ngôn I-sai-a đệ nhất công bố rằng dòng dõi vua Đa-vít sẽ được đảm bảo nhờ một con trẻ chào đời, được gọi là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14), thì ngôn sứ Mi-kha xác định Bê-lem là sinh quán của Đấng Thiên Sai. Xưa kia, khi còn niên thiếu, Đa-vít đã chăn dắt đàn chiên trên cánh đồng Bê-lem; Đấng Mê-si-a sẽ là một Đa-vít mới và sẽ là vị mục tử đích thật của dân Ngài.
“Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”: Có lẽ đây là lối nói phóng dụ về gia tộc của vua Đa-vít, có nguồn gốc lâu đời (sách Sử Biên quyển thứ nhất cho gia phả của vua Đa-vít lên đến tổ phụ Gia-cóp). Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng sấm ngôn này loan báo cuộc sống tiền hữu của Đấng Thiên Sai.
5/.Thời thử thách và thời hy vọng:
Trước khi Đấng Thiên Sai giáng sinh ở Bê-lem, Ít-ra-en sẽ phải trải qua một thời gian đầy thử thách cam go, thời “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en”. Trước đó, ngôn sứ đã khai triển những tiên báo kinh khiếp liên quan đến vương quốc miền Bắc cũng như vương quốc miền Nam. Nhưng những trừng phạt không bao giờ là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa: “Cho đến thời một phụ nữ sinh con”. Con trẻ kỳ diệu sinh ra từ một người nữ này sẽ cai trị Ít-ra-en và thế giới. Bản văn không nói một chút gì về cha của con trẻ này.
Toàn thể đoạn văn nhắc nhớ lời sấm của ngôn sứ I-sai-a được công bố hai mươi năm trước đó:
“Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai,
và đặt tên là Em-ma-nu-en.
Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong
cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọ cái tốt.
Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt,
thì đất đai của hai vua mà ngài khiếp sợ đã bị bỏ hoang.
Thiên Chúa sẽ đem lại cho ngài, cho dân ngài, cho thân phụ ngài
những ngày như chưa từng có,
kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi Giu-đa” (Is 7: 14-17)
6/.Quy tụ những người tản mác khắp nơi:
“Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó
sẽ trở về với con cái Ít-ra-en” (5: 2b).
Chúng ta nhận ra ở đây nỗi bận lòng quy tụ những người Do thái bị tản mắc khắp nơi, nỗi ám ảnh xuất hiện nhất là vào thời lưu đày Ba-by-lon cũng như vào thời hậu lưu đày. Có nhiều lý do xác đáng để nghĩ rằng đoạn văn này được thêm vào sau này.
7/.Vị Mục Tử của Ít-ra-en:
Đấng Thiên Sai sẽ lãnh nhận từ chính Thiên Chúa sứ mạng chăn dắt Ít-ra-en:
“Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa,
vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người
mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp,
vì bấy giờ quyền lực của Người sẽ trải rộng đến tận cùng cõi đất” (5: 3).
Bản văn tiên báo hay nhắc nhớ một đoạn văn nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en về “vị mục tử nhân lành” (Ed 34: 23). Việc gợi lên quyền năng hoàn vũ và nền hòa bình viên mãn của Đấng Thiên Sai tương lai mang đậm nét I-sai-a (Is 9: 5), nhưng cũng có thể mang dấu ấn Mi-kha, trừ phi đây là một bản văn được hiệu đính lại.
Từ phận nhỏ đến địa vị vĩ đại, rõ ràng đây là bài học mà bản văn Tin Mừng hôm nay đưa ra: Đức Ma-ri-a, một thiếu nữ khiêm hạ làng Na-da-rét được người chị họ là bà Ê-li-sa-bét hoan hỷ chào đón như “Thân Mẫu Chúa tôi”.
BÀI ĐỌC II (Dt 10: 5-10)
Lễ Giáng Sinh sắp đến gần, Phụng Vụ Lời Chúa dâng hiến cho chúng ta suy niệm một bản văn trình bày một cách thống thiết mục đích biến cố Nhập Thể; Đức Ki-tô đảm nhận một thân thể nhằm dâng hiến thân mình thành hiến lễ và biến cuộc Tử Nạn của mình thành hy lễ để thánh hóa con người.
Chúng ta không biết lai lịch tác giả thư gởi tín hữu Do thái (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô). Bản văn của ông gần với văn phong bài giảng hơn là thư tín. Ông ngỏ lời với các Ki-tô hữu gốc Do thái, họ đã biết và đã thực hành phụng tự Mô-sê và xem ra luyến nhớ sự uy nghi trang trọng của nền phụng tự này. Tác giả chứng minh cho họ chức tư tế của Đức Giê-su còn cao vời hơn chức tư tế Cựu Ước và hy lễ của Đức Ki tô thì độc nhất, vô giá và có hiệu quả khôn sánh so với các hy lễ của Luật Cũ.
1/.Phụng Tự tinh thần:
Để giải thích bản chất rất đặc biệt và đặc thù hy lễ của Đức Ki-tô, tác giả dựa trên thánh vịnh 40, thánh vịnh mang chiều kích Thiên Sai. Thánh vịnh này diễn tả tâm tình của một người công chính. Từ cuộc sống đạo hạnh của mình, ông hiểu rằng vâng phục thánh ý Thiên Chúa và sẵn sàng dâng hiến thân mình thì cao vời hơn bất cứ hy lễ nào.
Một viễn cảnh như vậy không hoàn toàn đơn độc lẽ loi trong Cựu Ước. Chúng ta gặp thấy viễn cảnh này trên môi miệng của các ngôn sứ (x. Is 1: 11-16), các ngài công bố rằng các hy lễ sẽ là vô ích nếu thiếu tấm lòng; điều này cũng được khẳng định trong các Thánh Vịnh, hai sách Sa-mu-en (x. 1Sm 15: 22), và các tác phẩm Minh Triết (x. Hc 34: 19 và 35: 2-3). Vị thế, vị thế hàng đầu của phụng tự tinh thần này là một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cái cốt lõi mặc khải Kinh Thánh và chuẩn bị cho sứ điệp Tin Mừng.
2/.Ơn gọi của Đức Ki-tô:
Chính ở nơi Người Công Chính này mà tác giả thư gởi các tín hữu Do thái tái khẳng định tư thế sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn bản thân của Đức Ki-tô, ngay từ giây phút đầu tiên của biến cố Nhập Thể: “Ngay khi vào trần gian…”. Đồng thời tác giả cũng muốn nói đến cuộc sống tiền hữu của Đức Ki tô.
“Chúa không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể”: Thánh vịnh được trích dẫn ở đây nhấn mạnh tính chất hiến lễ tự thân qua những lời: “Chúa đã tạo cho con một thân thể”. Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái đã đọc thấy ở đây lời tiên báo về biến cố Nhập Thể. Thân thể của Đấng Thiên Sai đã được Chúa Cha yêu thương chuẩn bị nhằm hướng đến một hiến lễ cao vời.
Với những thuật ngữ: “Hy lễ và hiến lễ”, tác giả tập hợp hai loại lễ tế vĩ đại, đổ máu và không đổ máu. Đoạn, ông thêm vào đây lễ toàn thiêu theo đó thân thể tế vật hoàn toàn bị hỏa tế, và lễ xá tội theo đó máu tế vật hoàn toàn được hiến dâng. Tất cả những lễ tế này được Lề Luật quy định nhưng không được Thiên Chúa ưa thích. Bản văn để cho hiểu rằng chính vì tính chất duy luật của chúng. Đức Ki-tô bãi bỏ phụng tự duy hình thức và đề cao hiến lễ tinh thần.
3/.Cái chết thành hiến lễ:
“Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”: Đối với Đức Ki-tô không cốt tuân giữ những huấn lệnh mà ông Mô-sê truyền, nhưng chấp nhận quyết định của Thiên Chúa, đó là dẫn dắt nhân loại đến ơn cứu độ qua con đường đau khổ và tử nạn của Ngài.
Thư gởi tín hữu Do thái là một trong những bản văn Tân Ước giải thích rõ nhất tại sao cuộc tử nạn của Đức Ki tô có thể được xem như một hy lễ. Xét trên thực tại hữu hình, cuộc tử nạn của Đức Ki-tô không là một hy lễ, nhưng do kết quả của một sự xét xử sai lầm, hay, chính xác hơn, do sự thù hận quá độ; không có bàn thờ, không người dâng hiến, không sự thanh tẩy, không tế vật. Nhưng xét trên thực tại vô hình, cái chết này có giá trị của một hy lễ vì đây là hiến lễ tự nguyện, tự ý và tự thân, vì thế nó có một hiệu quả tinh thần: vả lại đã có một thân thể bị giết chết và máu đã hoàn toàn đổ ra.
Tuy nhiên, có một hy tế chỉ vì có tội lỗi của con người. Đây là bằng chứng bi thảm. Suốt bức thư của mình, tác giả chứng mình rằng con người hưởng được hy tế của Đức Ki-tô, dưới ba khía cạnh liên tục: thanh tẩy, thánh hóa, và hiệp nhất với Thiên Chúa. Như vậy trong lời “Xin vâng” của mầu nhiệm Nhập Thể hàm chứa rồi lời xin vâng của cuộc Khổ Nạn: “Xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22: 42).
TIN MỪNG (Lc 1: 39-45)
Trong sách Tin Mừng Lu-ca, chuyện tích Viếng Thăm tiếp liền sau chuyện tích Truyền Tin, như vậy, lời chào của sứ thần tiếp liền theo sau lời chào của bà Ê-li-sa-bét. Rất sớm các Ki-tô hữu đã liên kết hai lời chào này. Chúng ta gặp thấy chúng trong những bản văn thuộc thế kỷ thứ năm: “Kính mầng Ma-ri-a đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”. Đây sẽ là khởi điểm của kinh Kính Mầng.
1/.Đức Ma-ri-a vội vã lên đường:
Lý do đầu tiên của việc “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường” có thể nhằm kiểm chứng những lời sứ thần đã nói cho Mẹ biết rằng chị họ của Mẹ, tuy đã già rồi mà cũng đã được cưu mang một người con trai. Đây là một “dấu lạ” đã được ban cho Mẹ để nâng đỡ mặc khải làm xáo động cuộc đời của Mẹ và cho Mẹ hiểu rằng đối với Thiên Chúa không có gì là không thể. Nhưng đây không là lý do chính yếu. Đức Ma-ri-a đã tin rồi; Mẹ đã không một mảy may nghi ngờ gì về sứ điệp của thiên sứ; sự vội vã của Mẹ là diễn tả niềm vui của Mẹ (cha Nguyễn thế Thuấn dịch là “Ma-ri-a đon đã ra đi”); Mẹ muốn đi chúc mừng người chị họ của Mẹ và chia vui với chị vì được làm mẹ như một thiên ân trong khi bà chị này không còn một chút hy vọng gì. Chắc chắn Đức Ma-ri-a cũng muốn giúp đỡ bà chị họ của mình “nay đã có thai được sáu tháng”. Quả thật, thánh ký viết ở cuối chuyện tích của mình: “Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng”, nghĩa là cho đến khi con trẻ chào đời.
2/.Niềm vui thời Thiên Sai:
Đức Ma-ri-a “vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”. Vì là vai em nên Đức Ma-ri-a là người đầu tiên chào hỏi bà chị họ mình. Nhưng đột nhiên vai trò của hai chị em được hoán chuyển. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét phát hiện bí mật của người em họ mình và thốt lên lời “Chúc Tụng”: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ!”. Đây là cách thức người Do thái diễn tả sự so sánh tuyệt đối mà chúng ta gặp thấy nhiều lần trong Cựu Ước (Tl 5: 24; Gđt 15: 10): Đức Ma-ri-a là người nữ tuyệt vời nhất bởi vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Danh hiệu “Chúa tôi” thường được dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng được gán cho Đấng Thiên Sai trong vài bản văn ngôn sứ. Chắc hẳn bà Ê-li-sa-bét không nghi ngờ gì về thần tính của Đấng Thiên Sai; nhưng chính xác hơn, các Ki-tô hữu tiên khởi sẽ dùng danh hiệu này cho Đức Ki-tô để tuyên xưng thần tính của Ngài. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” chắc chắn là nền tảng cho tước hiệu đầu tiên mà Giáo Hội sau này dùng để tôn vinh Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa (“Theotokos”), cũng hình thành nên phần thứ hai của kinh Kính Mừng: “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”.
“Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đây là mối phúc đầu tiên của Tân Ước. Ân phúc này liên quan đến lòng tin của Đức Ma-ri-a đã được thể hiện ở nơi biến cố Truyền Tin qua tiếng xin vâng tròn đầy của Mẹ (Lc 1: 38).
Thánh Lu-ca quy tụ vào trong lời chúc tụng của bà Ê-li-sa-bét (1: 42-45) hai ân phúc của Đức Ma-ri-a: phúc được làm Mẹ Đấng Cứu Thế và phúc vì đã tin vào mọi lời Chúa phán. Chính hai ân phúc này mà thánh ký chủ ý tách rời ra ở 11: 27-28, ở đó một người phụ nữ giữa đám đông ca ngợi người mẹ của Đức Giê-su: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớn” và Đức Giê-su đáp trả: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Ở nơi Đức Ma-ri-a hai ân phúc này trở thành một: ngay khi tin rằng mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Rõ ràng đức tin của Mẹ là điều kiện tất yếu nhất cho mọi lời Chúa phán được thực hiện.
3/.Bài ca “Ngợi Khen” (Mangificat):
Đoạn Tin Mừng hôm nay tràn ngập niềm vui thời Thiên Sai: Tất cả lời chào của bà Ê-li-sa-bét tràn đầy niềm vui, Đức Ma-ri-a được công bố là có phúc, niềm hạnh phúc ở với bà Ê-li-sa-bét, đứa con trong bụng bà đã nhảy lên vui sướng và Đức Trinh Nữ xướng lên bài ca “Ngợi Khen” của mình. Đây là bài thánh ca thứ nhất trong bốn bài thánh ca trong Tin Mừng Thời Thơ Ấu theo Tin Mừng Lu-ca. Bài thánh ca này, mô phỏng bài thánh ca của bà An-na (1Sm 2: 1-10), gồm có ba phần:
-Phần thứ nhất (1: 46-50): Đức Ma-ri-a ngợi khen Thiên Chúa vì đã đoái thương ban cho Mẹ được làm Mẹ Đấng Mê-si-a, dù Mẹ chỉ là phận nữ tì hèn mọn, chẳng có công trạng gì.
-Phần thứ hai (1: 51-53): một sự đảo ngược cảnh sống và bậc thang giá trị vào thời Thiên Sai giữa những người thấp hèn, bị áp bức chà đạp với những kẻ quyền thế kiêu căng, tự cao tự đại.
-Phần kết (1: 54-55): Đức Ma-ri-a cảm tạ Thiên Chúa vì Người vẫn hằng trung tín với những gì Người đã hứa.
Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng gợi lên rõ nét nhất niềm vui cứu độ được đem đến cho loài người qua biến cố Đấng Thiên Sai ngự đến. Ngoài ra, chuyện tích Viếng Thăm của thánh Lu-ca đem đến một lời chứng quý giá về tâm tình cảm tạ tri ân của người Ki-tô hữu tiên khởi đối với đức tính cao vời khôn sánh của “Thân Mẫu Chúa chúng ta”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA SẮP ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sau tuần đầu tiên nói về ngày Chúa đến, tuần II kêu gọi hãy dọn đường cho Ngài và tuần III kêu gọi hãy vui mừng vì ngày đó, Lời Chúa ngày hôm nay giới thiệu Đấng sắp đến là ai : đó là Chúa Giêsu.
– Trong bài đọc I (Mk 5,1-4), ngôn sứ Mikha cho biết Đấng sắp đến sẽ là người có quê quán tại Bêlem Ephrata thuộc chi tộc Giuđa.
– Trong bài Tin Mừng (Lc 1,39-45), Thánh Luca giới thiệu những người thân của Ngài : Đức Maria và Bà Êlisabét.
– Và trong bài đọc II (Dt 10,5-10), tác giả thư do thái ghi lại lời của Đấng Cứu Thế : “Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi, chúng ta sẽ cử hành lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Chúa sẵn sàng đến với những ai nhận thức mình cần Ngài. Vậy bây giờ chúng ta hãy tới gần Ngài, mang theo tất cả những sự nghèo nàn thiêng liêng, những thương tích và những tội lỗi của chúng ta.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối hèn hạ. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa, chúng con đầy dẫy tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.
– Lạy Chúa, chúng con khổ sở nhiều mặt. Xin Chúa thương xót chúng con.
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (Mk 5,1-4)
Ngôn sứ Mikha cho biết trước một số nét về Đấng cứu thế sẽ đến :
– Ngài không xuất thân từ thủ đô Giêrusalem hay một thành phố lớn, nhưng từ một thị trấn nhỏ bé khiêm nhường là Bêlem.
– Mặc dù vậy, Ngài có sứ mạng thống lãnh Israel.
– Quyền lực Ngài sẽ trải rộng ra đến tận cùng trái đất, chính Ngài sẽ đem lại hòa bình.
2/. Đáp ca (Tv 89)
Bối cảnh của Thánh vịnh này là đất nước do thái đang chia rẻ thành hai, Israel ở phía Bắc và Giuđa ở phía Nam. Như vậy là đoàn chiên Chúa bị phân tán, và vườn nho Chúa cũng tan hoang.
Tác giả Thánh vịnh hình dung Đấng Messia là một mục tử, khi Ngài đến Ngài sẽ quy tụ các chiên về thành một đoàn duy nhất ; và như một người chủ vườn trở lại thăm nom và chăm sóc vườn nho cũ.
3/. Tin Mừng (Lc 1,39-45)
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết về Mẹ Đấng cứu thế sắp sinh ra.
Thánh Luca cố ý viết câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6), để nói rằng Đức Maria chính là Hòm Bia Tân Ước. Sau đây là các chi tiết :
a/. Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom. Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
b/. Đavít đã “kêu lên” rằng : làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được. Êlisabét cũng “kêu lên” : làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
c/. Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc. Đức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
d/. Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng ; Đức Maria cũng ở nhà Êlisabét 3 tháng (xem câu 56)
4/. Bài đọc II (Dt 10,5-10)
Tác giả thư Do thái thì hình dung Đấng Messia là một vị Thượng Tế và Chức thượng tế của Ngài trổi vượt chức thượng tế Cựu Ước :
– Lễ tế Ngài sẽ dâng lên không phải là lễ toàn thiêu hay lễ xá tội của Cựu Ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.
– Lễ tế ấy không cần phải dâng lên nhiều lần, mà một lần duy nhất có giá trị vĩnh cửu.
IV/. GỢI Ý GIẢNG
1/. Đức Mẹ và Lễ Giáng Sinh
Lời Chúa ngày Chúa nhật cuối Mùa Vọng luôn đề cao Đức Mẹ. Trong Chúa nhật thứ IV năm nay, Đức Mẹ được mô tả là “người phụ nữ sinh con” (bài đọc I). Còn bài Tin Mừng thì tường thuật việc Người đi thăm viếng Bà Êlisabét. Cũng như con của mình, Đức mẹ là người “đến để thực thi ý Chúa” (bài đọc II). Gương Đức Mẹ có thể giúp chúng ta biết cách chuẩn bị Lễ Giáng sinh.
a/ Đức Mẹ luôn tin vào Lời Chúa, như nhận xét của Bà Êlisabét : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”. Chuẩn bị Lễ Giáng sinh là quan tâm đọc Lời Chúa và tin vào Lời ấy.
b/ Đức Mẹ luôn vâng theo ý Chúa : Trong biến cố Truyền tin, Người đã thưa với Thiên thần “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin vâng”. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là tỉnh táo nhận ra ý Chúa đối với mình và cố gắng vâng theo.
c/ Đức mẹ sẵn sàng giúp đỡ người khác : dù đường xá xa xôi, Đức Mẹ không ngại và đến thăm để giúp đỡ Bà Êlisabét. Chuẩn bị lễ Giáng sinh là quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
2/. Thăm viếng
a/ Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Ê-li-sa-bét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả.
Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Chúa Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê : «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế !
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói : «Yêu mà không được ở gần nhau thì sẽ đau khổ». Tục ngữ có câu : «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề !». Vì thế, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tính gia đình, tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
b/ Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Ê-li-sa-bét, thì Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Ê-li-sa-bét vui mừng, mà hài nhi trong bụng Bà cũng vui mừng theo, đến nỗi phải «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Ê-li-sa-bét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu còn biến đổi hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Rất nhiều người nói về Chúa rất nhiều rất hay, nhưng thật sự không mang Chúa trong mình. Chúa là tình thương, mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi chính mình yêu thương họ thật sự, bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Ê-li-sa-bét đâu ! Mình chỉ mang Chúa đến cho họ, khi mình đến với họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa.
c/ Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Nhưng tình yêu vô biên phổ quát của Ngài khiến Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không ? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta.
Ngài đã chẳng từng nói : «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi !» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa la ø : «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài : «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì ? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15 ; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng !
***
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen. (Nguyễn chính Kết)
3/. Maria dám tin
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người : ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo : Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói : “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em ” (Lc 1,4 5).
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời “Xin Vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời “Xin Vâng” Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác : Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh ; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác : “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói” (Lc 1,38).
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Đền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Đức Maria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Đấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ : Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen. (TP)
4/. “Em có phúc vì đã tin“
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Bà Êlisabét nói với Đức Maria : “Em có phúc vì đã tin”. Tin và hạnh phúc, đó là hai điều liên hệ chặt chẽ với nhau, một liên hệ nhân quả. Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng trong các sách Tin Mừng :
– “Chúa Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng : Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy. Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13)
– Chúa Giêsu quay lại nói với người đàn bà bị băng huyết : “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt 9,22)
– Chúa Giêsu nói với hai người mù đi theo Ngài “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không ?” Họ đáp “Thưa Ngài chúng tôi tin”. Bấy giờ Ngài sờ vào mắt họ và nói “Các anh tin thế nào thì được như vậy”. Mắt họ liền mở ra. (Mt 9,28-29)
Chúng ta có thể nói chủ đề chính của Tin Mừng là hạnh phúc cho những kẻ tin. Tất cả những lời Chúa Giêsu giảng dạy là nhằm khơi lên đức tin trong lòng người nghe. Tuy nhiên, chỉ tin thôi thì chưa đủ mà còn phải làm theo như mình tin. Người ta nói ma quỷ cũng tin Chúa đó, nhưng nó không làm theo ý Chúa.
Đức tin không biến cuộc sống của ta thành dễ dàng. Ngược lại là đàng khác, vì tin đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu, phải kiên trì.
Đức Maria được chúc phúc vì Người không chỉ tin mà còn hành động theo điều Người tin. Ngay sau khi được Thiên sứ viếng thăm, Người đã vội vàng đi thăm viếng Bà Êlisabét. Qua đó, chúng ta thấy rằng sống đạo không phải chỉ là tin suông mà còn phải thể hiện đức tin bằng việc làm.
Lễ Giáng sinh có thể giúp ích chúng ta rất nhiều trong đức tin, vì dù sao trong dịp này chúng ta cũng thấy Chúa gần gũi với mình hơn những lúc khác. Nhưng cốt lõi của sứ điệp Giáng sinh là Con Thiên Chúa đã nhập thể trong một đứa trẻ nghèo nàn yếu ớt. Trong lễ Giáng sinh đầu tiên, có những người đã tin vào điều ấy, và cũng có những người không tin. Nhưng chỉ những người tin mới được chúc phúc. (FM)
5/. Chúa Giáng sinh mang lại gì mới ?
Người ta thích những điều mới. Một món hàng mới xuất hiện trên thị trường, người ta đổ xô đi mua. Một thời gian sau, món đồ ấy không còn mới nữa, người ta nhàm chán. Thế là nhà sản xuất phải nghĩ ra cái khác mới hơn. Hiện tượng này cho thấy 2 điều : một là khuynh hướng thích cái mới thúc đẩy sự tiến bộ ; hai là cái gì mới rồi cũng sẽ cũ đi.
Có cái gì vẫn luôn luôn mới chứ không bao giờ cũ không ? Nếu có cái đó thì cái đó mới là cái thực sự mới.
Đó chính là cái mà Chúa Giáng sinh mang lại. Đó là tình yêu hiến dâng. Chúa đến trong lòng Đức mẹ. Lòng Đức Mẹ đổi mới. Đức Mẹ lập tức mang điều mới mẻ đó trao ban cho Bà Êlisabét.
Trong số những điều mới mẻ trên thế giới và trong Giáo Hội, những cái vẫn còn mới và tồn tại mãi qua dòng thời gian chính là những thứ giúp phát triển tình yêu và sự dâng hiến. Chúa Giêsu giáng sinh là người đầu tiên mang điều mới mẻ ấy cho nhân loại.
6/. Lời nguyện Mùa Vọng
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
Xin hãy bước vào những yếu đuối của chúng con
Xin hãy bước vào những nỗi sợ hãi của chúng con
Xin hãy bước vào những lo lắng của chúng con
Xin hãy bước vào những thất bại của chúng con
Xin hãy bước vào những chia rẻ của chúng con
Xin hãy bước vào những buồn phiền của chúng con
Xin hãy bước vào những cô đơn của chúng con
Xin hãy bước vào những bóng tối của chúng con
Xin hãy bước vào những hoài nghi của chúng con
Xin hãy bước vào những thất vọng của chúng con
Xin hãy bước vào những nghèo hèn của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc tìm kiếm của chúng con
Xin hãy bước vào những niềm vui và hy vọng của chúng con
Xin hãy bước vào cuộc hấp hối của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, thật hạnh phúc cho những ai biết tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng toàn năng và là Cha nhân ái. Trong niềm hân hoan vì Ngôi Hai Thiên Chúa sắp ngự đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1/. Hội thánh cần những mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh / luôn có nhiều mục tử như lòng ước mong.
- Cùng với Đức Trinh Nữ Maria / nhiều sứ giả của tình thương đã vội vã lên đường / đem niềm vui cho những người sầu khổ / đem ủi ban cho những ai đang gặp bế tắc trong cuộc sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn những anh chị em đang dấn thân phục vụ tha nhân / luôn được an lành.
3/. Hiện nay / có rất nhiều bạn trẻ đang tích cực cộng tác với các vị mục tử / trong việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giáo lý viên / tìm được niềm vui trong công việc cao quý này.
4/. Đức tin không việc làm là đức tin chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin sống động của mình / bằng việc luôn vâng theo thánh ý Chúa / hết lòng phó thác và tận tụy phục vụ như Đức Maria.
Chủ tế : Lạy Chúa, ngày xưa Đức Trinh Nữ Maria đã vội vã lên đường mang Chúa Giêsu đến cho người khác ; ngày nay, xin Chúa cho chúng con cũng biết noi gương Người mà nhiệt tình đem Chúa đến cho anh chị em chúng con, bằng chính đời sống thấm nhuần tinh thần Tám Mối Phúc thật của chúng con. Chúng con cầu xin.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
THĂM VIẾNG VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ CHO THA NHÂN (*) – Lm Đan Vinh HHTM
(39) Hồi ấy, Bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc”. (43) Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Sau khi được sứ thần cho biết bà chị họ là Ê-li-sa-bét đã có thai, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường thăm viếng. Cuộc viếng thăm của Ma-ri-a vừa đem lại niềm vui cho gia đình Da-ca-ri-a, vừa nói lên đức bác ái cụ thể của Đức Ma-ri-a đối với bà chị họ, khi bà sắp tới ngày sinh con. Cuộc gặp gỡ cũng đem lại ơn cứu độ của Đấng Mê-si-a cho thai nhi Gio-an, thể hiện qua sự kiện em nhảy mừng trong lòng mẹ. Nhờ được Thánh Thần soi sáng, bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra cô em Ma-ri-a chính là Mẹ của Đấng Thiên Sai và bà đã ca tụng Ma-ri-a diễm phúc vì đã tin vào Lời Chúa phán sẽ được thực hiện.
– C 39-40: + Đức Ma-ri-a vội vã lên đường :Sự vội vã của Đức Ma-ri-a nhằm diễn tả lòng yêu mến, muốn đi thăm viếng để chúc mừng bà chị họ và cũng chia vui được làm mẹ như một ơn Chúa ban, đang khi bà không còn chút hy vọng sẽ có con. Ngòai ra, Mẹ còn muốn giúp đỡ bà chị họ “nay đã có thai được sáu tháng” bằng cách “ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng”. Ở lại để giúp đỡ bà cho đến khi đứa con của bà chào đời. + Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét:Người Do thái có nhiều cách chào: Thần dân chào vua chúa thì xuống ngựa và đến sấp mình trước mặt nhà vua (x. 1 Sm 20,41; 25,23); Nếu hai bên là thân thuộc nghĩa thiết hay có quan hệ thầy trò thì sẽ chào bằng cách ôm hôn nhau (x. 1 V 19,20; Lc 22,47). Lời chào thông thường là “Sha-lom”, nghĩa là chúc “Bình an ở với anh” hay “Gia-vê ở cùng anh” (x.Ga 20,19). Trong Tin Mừng hôm nay sứ thần Gáp-ri-en đã chào Đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28). Do việc chào hỏi dài dòng mất nhiều thời gian, nên Đức Giê-su đã chỉ thị môn đệ đừng chào hỏi ai dọc đường khi sai các ông đi làm công tác truyền giáo (x. Lc 10,4).
– C 41-42: + Đứa con trong bụng nhảy lên:Có lẽ thai nhi Gio-an chỉ co đạp liên hồi trong bụng khiến bà Ê-li-sa-bét tưởng như em đang nhảy mừng hân hoan khi gặp thai nhi Mê-si-a (x. Lc 1,14), như vua Đa-vít nhảy mừng trước Hòm Bia Giao ước (x 2 Sm 6,14). + Và Bà được đầy Thánh Thần:Nhờ được ơn Thánh Thần soi sáng, bà Ê-li-sa-bét đã nhận biết bào thai cô em họ đang cưu mang chính là Đấng Thiên Sai. + Em được chúc phúc:Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Đức Ma-ri-a là người có phúc hơn mọi phụ nữ, vì đã cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người.
– C 43-45): + Thân mẫu Chúa tôi:Trong Thánh kinh, danh hiệu “Chúa tôi” thường dành riêng cho Đức Chúa, tuy nhiên cũng có lần danh hiệu này được gán cho Đấng Thiên Sai. Danh xưng “Thân Mẫu Chúa tôi” về sau trở thành nền tảng để Hội Thánh tôn vinh Đức Ma-ri-a là “Mẹ Thiên Chúa“ (The-o-to-kos), và hình thành phần thứ hai của Kinh Kính Mừng: “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”. Về danh xưng này, khi hiện ra với các mục đồng ở Be-lem vào ngày Chúa Giáng Sinh, sứ thần đã nói như sau: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2,11). Trong Tin mừng Lu-ca, danh xưng Đức Chúa của Đức Giê-su được nói đến 40 lần. + Em thật có phúc vì đã tin:Tin Mừng Lu-ca đã quy tụ hai ơn phúc của Đức Ma-ri-a vào trong lời chúc tụng của bà Ê-li-sa-bét: một là phúc được “làm Mẹ Đấng Cứu Thế” và hai là phúc “đã tin những lời Chúa phán” (x Lc 1,42-45). Về sau trong lúc Đức Giê-su giảng đạo, một phụ nữ cũng ca ngợi thân mẫu của Ngừơi: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm” và Đức Giê-su liền bổ túc thêm: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Nơi Đức Ma-ri-a hai phúc này liên kết thành một: ngay khi tin mọi lời Thiên Chúa phán sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a lập tức trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế. Có thể khi nói câu này, bà Ê-li-sa-bét đã liên tưởng đến sự nghi ngờ cứng tin của ông Gia-ca-ri-a chồng bà trước đó (Lc 1,20.45).
*1) Người Do thái có mấy cách chào và thường chào hỏi nhau thế nào?
*2) Thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng bà Ê-li-sa-bét vào lúc nào, nhảy mừng thế nào và để làm gì?
*3) Lý do nào khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết Đức Ma-ri-a là Mẹ Đấng Ki-tô Đức Chúa ?
*4) Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Đức Ma-ri-a có phúc vì lý do gì?
1/. LỜI CHÚA: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).
*1) HÃY CHIA SẺ QUÀ TẶNG TÌNH THƯƠNG MÙA GIÁNG SINH:
Một hôm vào buổi chiều áp lễ Giáng Sinh, một sinh viên trẻ cùng đi với vị giáo sư đến thăm các trẻ em bất hạnh trong viện mồ côi ngoại thành. Vị giáo sư này thường được các sinh viên gọi thân mật bằng tên “người bạn của sinh viên” vì sự thân thiện và tốt bụng của ông. Trên đường đi, thầy trò đi ngang qua một nông trại, thấy một đôi giày cũ nằm bên vệ đường gần cổng một nông trại. Có lẽ đây là đôi giày của một bác nông dân nghèo làm việc tại đây. Anh sinh viên liền nói với vị giáo sư: “Bây giờ sắp đến giờ tan sở. Em sẽ giấu đôi giày của ông ta vào chỗ khuất rồi thày trò chúng ta sẽ núp quan sát xem thái độ của ông ta thế nào khi bị mất đôi giày. Chắc là sẽ vui lắm đây”. Vị giáo sư liền khuyên can: “Này anh bạn trẻ. Chúng ta đừng bao giờ cười vui trên nỗi đau của người khác. Trái lại, theo thầy nghĩ: em được Chúa cho có dư tiền bạc. Chắc em sẽ tìm thấy một niềm vui lớn lao hơn nhiều qua việc chia sẻ với người nghèo này đấy. Vậy em hãy đặt vào đôi giày của ông ta hai đồng tiền và chờ xem phản ứng của ông ta khi bất ngờ nhận được món quà Giáng Sinh”. Anh sinh viên làm theo lời thầy dạy, rồi cả hai cùng đến núp sau một gốc cây gần đó.
Chẳng mấy chốc đã thấy một người từ trong nông trại đi chân không đến nơi để giày. Ông ta xỏ chân vào một chiếc giày và phát hiện ra có vật lạ. Ông dùng tay moi ra một đồng tiền năm đô-la. Với vẻ ngạc nhiên, ông chăm chú nhìn đồng tiền rồi lật qua lật lại như không tin vào mắt mình. Rồi ông nhìn chung quanh để tìm xem ai đã làm điều này, nhưng không thấy. Ông bỏ đồng tiền vào túi áo, và tiếp tục xỏ chân kia vào chiếc giày còn lại. Vẻ ngạc nhiên của ông tăng lên gấp đôi khi phát hiện một đồng tiền thứ hai nằm trong chiếc giày kia. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, ông liền quì gối ngước mặt lên trời dâng lời nguyện tạ ơn Thiên Chúa. Ông cám ơn bàn tay vô hình hào phóng nào đó đã mang lại món quà thiết thực ngay trước lễ Giáng Sinh, cứu gia đình ông qua cơn túng quẫn: vợ đang bị đau phải nằm liệt giường mấy ngày nay và ba đứa con nhỏ dại bụng đói đang chờ bố đi làm mang tiền về nhà.
Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động. Hai dòng lệ tự nhiên chảy xuống hai bên má khiến anh vội đưa tay gạt đi. Vị giáo sư liền lên tiếng nói: “Bây giờ em có thấy vui hơn nhiều nếu như em mang ông ta ra làm trò cười hay không?” Chàng thanh niên trả lời: “Đúng. Cám ơn giáo sư. Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà có lẽ em sẽ không bao giờ quên được. Bây giờ em mới hiểu ý nghĩa thực sự câu nói của Chúa Giê-su mà hồi nhỏ em đã đọc qua nhưng chưa hiểu: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35).
*2) NHỮNG AI ĐANG TRÔNG MONG ĐƯỢC THĂM VIẾNG ? :
Một hôm Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đi thăm một bệnh viện dành cho những người cao tuổi giàu có ở nước Anh mới được xây dựng. Bệnh viện có nhiều phòng ốc khang trang sạch đẹp, được trang bị bằng nhiều loại máy móc hiện đại, tương xứng với số tiền viện phí to lớn mà người nhà các bệnh nhân phải trả. Thái độ và cung cách phục vụ của các y bác sĩ và nhân viên phục vụ ở đây nói chung đều nhã nhặn lịch sự, nhưng mẹ thấy có điều kỳ lạ và mẹ đã lên tiếng hỏi vị bác sĩ hướng dẫn đoàn khách tham quan như sau:
– Thưa bác sĩ, tại sao tôi thấy khi đoàn mình đi ngang qua các phòng bệnh, thì đều thấy mọi bệnh nhân đang nằm trong phòng đều quay mặt ra ngoài cửa nhìn vậy?
Viên bác sĩ trả lời:
– Dạ thưa dì, là do các bệnh nhân trong bệnh viện này đều thuộc lớp người giàu có. Họ được con cái đưa vào nằm ở đây để nhờ chúng tôi chăm sóc sức khỏe. Họ không thiếu đồ ăn thức uống và thuốc men chữa bệnh. Nhưng cái họ thiếu nhất là tình thân ruột thịt. Họ luôn mong con cháu hay người thân đến thăm. Nhưng hầu như rất ít có người đến thăm, trừ khi họ chết.
Hội Thánh luôn khuyến khích các tín hữu đi thăm những người già cả neo đơn, bệnh tật, các tù nhân, người nghèo khó và tất cả những ai cần được trợ giúp, để an ủi động viên họ. Còn mỗi người chúng ta sẽ đi thăm viếng ai trong những ngày của Mùa Giáng Sinh Năm nay ?
*3) LÀM GÌ KHI ĐI THĂM VIẾNG :
Một hôm viên thống đốc của một tiểu bang Hoa Kỳ đến thăm một viện quân y, thăm phòng săn sóc đặc biệt dành cho các thương bệnh binh có nguy cơ chết. Cùng đi với thống đốc có ông giám đốc viện quân y. Viên thống đốc đã lần lượt đi từng giường để thăm hỏi và tặng quà khích lệ các thương binh nặng. Cuối cùng khi đến thăm anh lính bị thương nặng gần chết, ông hỏi:
– Này anh bạn, tôi có thể giúp gì được cho anh?
Anh lính trẻ bị băng bó toàn thân nói với viên thống đốc:
– Ngài có thể giúp tôi viết lá thư cuối cùng cho mẹ tôi trước khi chết được không?
Viên thống đốc gật đầu và nói:
– Được. Tôi sẽ viết thư giúp anh.
Khi một y tá mang giấy bút đến, viên thống đốc đã ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường người bệnh và thay anh viết lá thư cuối cùng cho mẹ đúng theo lời anh đọc.
Viết xong lá thư, ông nói với người bệnh:
– Tôi hứa sẽ gởi lá thư này ngay khi rời khỏi nơi đây. Vậy anh còn muốn gì nữa không?
Anh ta nhìn ông và ngập ngừng nói:
– Nếu được tôi muốn được ngài nắm chặt tay tôi trong lúc tôi nhắm mắt lìa đời.
Viên thống đốc đã nắm chặt hai bàn tay của anh, đến khi anh thở hơi cuối cùng sau đó ít phút.
Hôm nay cuộc thăm viếng của chúng ta cũng chỉ có giá trị, nếu ngoài những lời động viên khích lệ kèm theo những món quà thiết thực cụ thể, chúng ta còn biết cảm thông và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu của người được thăm, như viên thống đốc trong câu chuyện trên đã làm.
3/.THẢO LUẬN:Bạn sẽ tặng quà gì cụ thể cho các người thân trong gia đình, cho các người giúp việc và những người nghèo khó bất hạnh trong mùa Giáng Sinh này.
4/.SUY NIỆM:
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc viếng thăm của Đức Ma-ri-a, như mẫu gương về sự thăm viếng giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp đến:
*1) Thăm viếng là một hành động chia sẻ tình thương:
– Tình yêu thực sự trong tâm hồn đòi phải được biểu lộ ra ngoài bằng hành động: Đức Ma-ri-a đã thể hiện đức bác ái cụ thể bằng việc đi bước trước đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, khi vừa hay tin bà đã có thai trong lúc tuổi già và cái thai đến nay đã được sáu tháng.
– Trong thời gian này, mỗi người chúng ta cũng cần có những hành động yêu thương cụ thể: đi thăm và chia sẻ tiền bạc cho các bệnh nhân tại tư gia, thăm viếng tặng quà các cụ già neo đơn tại viện dưỡng lão, đến thăm một người lương trong xóm, thăm một đôi vợ chồng đang bất hoà có nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc… để chia sẻ tình thương và đáp ứng phần nào nhu cầu của họ.
*2) Hãy quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh:
– Bác sĩ Tom Dolly, người đã hy sinh cả cuộc đời đến ở giữa chốn rừng thiêng nước độc bên Lào vào đầu thế kỷ này, đã phát biểu rằng: “Không ai nghèo đến độ không có một thứ gì đó để trao tặng tha nhân”. Thực vậy, một người ăn xin ư? Anh ta vẫn có thể cho chúng ta cơ hội để thể hiện sự chia sẻ quảng đại của chúng ta đối với anh. Một người tàn tật ốm đau cũng có thể mời gọi chúng ta bày tỏ cảm thông và nâng đỡ. Một kẻ thù cũng có thể cho chúng ta cơ hội để tập nhẫn nhịn chịu đựng sự xỉ nhục và thể hiện lòng bao dung để tha thứ vô điều kiện… Phải, bất cứ ai cũng có thể đem lại cho chúng ta một điều gì đó. Vấn đề là chúng ta có nhận ra điều này và có sẵn sàng mở lòng đón nhận những món quà quý giá đó hay không.
– Có nhiều người do tự ái cao và thói sĩ diện hão nên chỉ muốn ban phát cho đi mà không muốn nhận lại. Tuy nhiên, chúng ta hãy ý thức rằng: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chỉ khi chấp nhận nguyên tắc ứng xử: “Quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh” thì quan hệ đôi bên mới được bình đẳng và tình cảm hai người mới được bền chặt. Sự nhận lại ở đây không nhất thiết phải là quà tặng hay tiền bạc tương xứng như trong quan hệ bạn bè thân quen, mà có thể là tình cảm chân thành, lời nói biết ơn trong quan hệ vợ chồng hay giữa hai bạn trẻ đang yêu…
*3) Thăm viếng là thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng:
– Sau khi nghe sứ thần cho biết tin vui của bà chị Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình bà. Ngôn sứ I-sai-a cũng đã tuyên sấm về cuộc hành trình thăm viếng này của Đức Ma-ri-a như sau: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an; Người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7a).
– Khi đi thăm viếng bà chị họ, Đức Ma-ri-a đã “đi bước trước” đến với bà mà không cần bà phải mời. Đối với Đức Ma-ri-a: Chính tình thương đã thôi thúc Mẹ vội vã lên đường đi thăm bà chị, khi vừa nghe sứ thần báo tin vui của bà. Qua đó cho thấy Mẹ đã thực hiện đức ái qua thái độ cảm thông như lời thánh Phao-lô: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Sự thăm viếng của Mẹ đã mang lại hiệu quả: thai nhi Gio-an đã đạp liên hồi trong dạ mẹ vì nhận được ơn cứu độ là khỏi tội tổ tông truyền,như bà Ê-li-sa-bét đã thốt lên:“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc… Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 2,42-44).
*4) Thăm viếng chính là phương cách truyền giáo hữu hiệu trong xã hội hôm nay:
– Trong mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta hãy dành ra một số tiền để chia sẻ cho các trẻ em bụi đời, các người già cả neo đơn, các bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị, các người mù què câm điếc bất hạnh… noi gương Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót.
– Chính hành động thăm viếng chia sẻ cụ thể và phục vụ “Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi” nơi những người bệnh tật nghèo hèn, sẽ giúp họ nhận biết và tôn vinh “Thiên Chúa là Tình Thương” (1 Ga 4,8), và họ sẽ đón nhận được niềm vui ơn cứu độ như lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
5/.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin giữ gìn nơi con trái tim của trẻ thơ, tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con một trái tim đơn sơ, mau quên những buồn phiền do tha nhân đem lại. Một trái tim hào hiệp dám dấn thân và dễ cảm thông với tha nhân. Một trái tim trung thành và quảng đại, không quên ơn và tránh báo oán. Xin ban cho con một trái tim hiền hậu và khiêm tốn: Yêu thương mà không mong đáp đền, quên mình để Chúa được lớn lên trong anh em.
LẠY CHÚA. Trong những ngày này, xin cho con biết mở rộng lòng để thăm viếng chia sẻ cho tha nhân những món quà vật chất cũng như tinh thần. Xin cho con biết nghĩ tới những bệnh nhân liệt giường lâu ngày không tiền thuốc thang chữa trị, biết chia sẻ những món quà cụ thể cho những cụ già neo đơn, những trẻ em lang thang bụi đời, những người mù lòa khuyết tật … Xin cho con sẵn sàng chia sẻ tình thương và niềm vui của Chúa cho mọi người.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
NIỀM VUI TRONG THÁNH THẦN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Elizabeth vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Baotixita vui mừng vì được tha tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường.
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Elizabeth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Maria đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái.
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy, Ngài đã rợp bóng trên Đức Maria và lập tức Đức Maria được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Maria không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Maria vội vã lên đường ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra cho cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Maria đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình.
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Maria còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yếu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Đức Giêsu và can đảm đứng dưới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ.
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Maria không quản thân phận là Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Elizabeth. Đức Maria cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Thánh Gioan Baotixita còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo cho Giáo Hội và Nước Thiên Chúa.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, ta hãy noi gương Đức Maria, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Maria dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1/. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
2/. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Elizabeth tràn đầy niềm vui?
3/. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM DÂN NGƯỜI – Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Lịch sử có ý nghĩa, không phải chỉ là một sự lặp lại vô tận của chu kỳ giữa sự sống và sự chết với các mùa màng năm tháng. Lịch sử không phải chỉ là những diễn biến tình cờ mà được đan dệt bằng những cố gắng của con người được Thiên Chúa yêu thương mời gọi dấn thân theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Những bài đọc của Chúa nhật 4 mùa Vọng làm cho chúng ta tiến sát đến sự thực hiện quyết định sau những thời gian chờ đợi lâu dài. Trong lịch sử này, con người đã sa ngã do tội lỗi, trầm luân trong tội và sự chết lại được Thiên Chúa xót thương nâng đỡ và mời gọi đón tiếp sự viếng thăm của Thiên Chúa. Vẫn luôn có những tiên tri để mời gọi dân chúng tin tưởng và trở về với Thiên Chúa là Đấng vẫn yêu thương chờ đợi. Tiên tri Mikhê đã loan báo về Bêlem là nơi Đấng cứu thế sẽ giáng sinh, sẽ được ban tặng cho con người và được sinh hạ bởi một người nữ. Đấng cứu thế chính là Thiên Chúa đến viếng thăm dân người, người sẽ vững vàng chăn dắt dân người trong bình an, trong sức mạnh của Thiên Chúa và dân sẽ trở lại với người.
Bài Tin mừng của Luca bắt đầu tường thuật về người phụ nữ này sẽ sinh hạ con Thiên Chúa nhập thể làm người. Bà là một con người được nâng đỡ bởi sức mạnh Thánh Thần. Xuất thân từ làng nghèo Nazarét thuộc miền Galilê, người phụ nữ bình thường nhưng thực là mạnh mẽ này đã đính hôn với Giuse nhưng chưa sống chung với chồng đã nhận được sự viếng thăm đặc biệt của sứ thần Gabriel, và bà đã được báo tin vui là sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai sẽ là Đấng cứu thế thuộc dòng tộc Đavít. Bà cũng được báo tin là việc thụ thai này là do bởi Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện và Bà đã khiêm tốn và tin tưởng đón nhận lời mời gọi của sứ thần. Đồng thời, bà cũng được báo tin là Êlisabét, người chị họ của bà cũng đã thụ thai nay đã được sáu tháng, người vẫn bị mang tiếng là son sẻ. Được tin người chị họ đã mang thai, Bà Maria không quản ngại đường xa, đã vội vã lên đường đi thăm viếng người chị họ của mình ở tận Giuđêa, con đường dài trên 150 cây số bộ hành. Maria là người hành động bởi sức mạnh Thánh Thần, bà đã lãnh nhận Con Thiên Chúa nhập thể với sức mạnh Thánh Thần, giờ đây bà mang sự hiện diện của Con Thiên Chúa cách cụ thể và chia sẻ niềm vui này cho mọi người. Maria hành động không kiểu cách, bà hành động rất đơn sơ, bà vội vã lên đường đơn độc nhưng có Chúa ở cùng bà và bà đã đến nhà của Êlisabét một cách thân tình và khiêm tốn.
Khi đón nhận sự viếng thăm của Maria, Êlisabét đã cảm nghiệm được niềm vui trong lòng, niềm vui dào dạt thúc đẩy bởi Thánh Thần, bởi vì chính hài nhi đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Nơi hai người nữ này, hình ảnh những người nữ đạo đức khác được Thiên Chúa yêu mến và chuẩn bị. Êlisabét nói lên lời kinh ngạc của Giáo hội đứng trước mầu nhiệm mà Maria đang mang trong mình. Như xưa kia, vinh quang của Thiên Chúa bao phủ đền thờ là nơi chứa đựng hòm bia Thiên Chúa, thì giờ đây vinh quang Thiên Chúa bao phủ trên Đức Maria là người đang mang trong chính mình Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Maria không phải chỉ là mẹ của một con người nhưng là mẹ của Thiên Chúa nhập thể làm người. Niềm vui của Êlisabét là niềm vui cho toàn thể nhân loại được Thiên Chúa thăm viếng. Giờ đây chính Thiên Chúa viếng thăm dân người và ở lại với dân người. Êlisabét cảm nghiệm mình cùng với hài nhi trong lòng được thánh hóa bởi sự hiện diện của Đức Maria, một người nữ sáng ngời bởi lòng tin mạnh mẽ vào lời Thiên Chúa. Niềm vui của Thiên Chúa và niềm vui của con người đã bắt đầu được cảm nghiệm và tuyên xưng. Hài nhi nhảy mừng trong lòng mẹ khi Êlisabét vừa nghe tiếng chào của Maria còn nói lên niềm vui sâu xa dào dạt mà sau này ông sẽ là người công bố cho mọi người phải chuẩn bị để đón Đấng sẽ đến và sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Êlisabét được đầy Thánh Thần và bà đã nhạy bén để dự đoán được ý nghĩa của niềm vui diễn ra trong lòng mình: Êlisabét diễn tả niềm vui này là không phải Thiên Chúa đã cho chúng ta một điều gì đó dù là lớn lao, nhưng là cho chúng ta điều mà chúng ta không thể ngờ được là Con Thiên Chúa đến viếng thăm cùng với người mẹ của Người, và Maria là người nữ khiêm tốn và bé nhỏ của nhân loại đã đồng hành cùng với Con Thiên Chúa nhập thể không phải với điều gì khác hơn là lòng tin mạnh mẽ vào lời Chúa: “Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng em được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời em chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho em là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện”.
Tin mừng của Luca muốn nói lên ở chặng đường của lịch sử nhân loại với nhiều vấp váp, Thiên Chúa đã thực sự đi vào với sự tràn ngập của sức mạnh Thánh Thần, Maria cùng với hài nhi là Con Thiên Chúa trong lòng, Êlisabét cùng với hài nhi là Gioan tẩy giả, những con người này đã đón nhận được sức mạnh Thánh Thần biến đổi họ và họ nói lên cho chúng ta niềm vui của mình. Đức Maria vội vã lên đường đến với người chị họ của mình bởi vì bà đã được Thánh Thần thúc đẩy đến với chị họ của mình để chia sẻ niềm vui của mình cũng như đón nhận niềm vui của Êlisabét cũng đang mang thai nhờ bởi ơn Chúa. Nơi mọi người, Thánh Thần Thiên Chúa chan hòa và thánh hóa họ. Chúng ta đang lần hồi được tiếp cận sự viếng thăm của Thiên Chúa, một sự viếng thăm thực là kỳ diệu, không phải chỉ là một cuộc viếng thăm theo nghi thức với những lời chúc mừng trang trọng vồn vã nhưng không thực chất, nhưng là cuộc viếng thăm thực sự với việc nhập thể của Con Thiên Chúa nơi Maria. Chiều sâu của mầu nhiệm giáng sinh là đó: con Thiên Chúa đi vào trần gian để đổi mới cuộc đời của chúng ta. Những hy lễ của chúng ta đã trở nên vô hiệu vì thiếu phẩm chất đích thực, giờ đây Con Thiên Chúa sẽ thực hiện một sự đổi mới thực sự, người không dùng những hy lễ, lễ tế hay lễ toàn thiêu hay lễ đền tội, nhưng người hiến dâng chính thân xác của mình để thi hành thánh ý của Chúa Cha, và người mời gọi chúng ta đón nhận sức mạnh Thánh Thần để được đổi mới từ bên trong, để làm cho con người yếu hèn của chúng ta trở nên nơi mà Con Thiên Chúa đến viếng thăm và ở lại để người cũng sẽ thực hiện những việc lạ lùng cho mỗi người như đã thực hiện nơi Đức Maria.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
CHIA SẺ NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG- Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Gần ngày lễ Giáng sinh người ta thường viết những cánh thiệp để gửi trao cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta chúc nhau một mùa Giáng sinh vui tươi và an lành. Lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ của hoan vui và niềm vui đó cần được chia sẻ. Hình ảnh Đức Maria đến thăm bà chị họ Elizabeth mà Giáo hội gợi lên trong phụng vụ hôm nay phác họa cho chúng ta khuôn mẫu này. Mẹ đã được Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng và nếm cảm niềm vui sâu xa khi thuộc trọn về Chúa. Sau đó Mẹ lại ‘hối hả lên đường’ để chia sẻ niềm vui ấy với bà chị họ. Niềm vui nơi những tâm hồn được Chúa chiếm ngự cần được sẻ chia.
Niềm vui của Tin mừng – Gaudium Evangelii
Đức Giêsu đi vào trần gian, là niềm vui Tin mừng lớn nhất được trao ban cho nhân loại. Mẹ là người đầu tiên đã nếm trải niềm vui đó. Vì vậy, vừa khi gặp mặt người thân, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi”. Niềm vui sâu tận Mẹ đã trải nghiệm phát xuất từ một tâm hồn để cho Thánh Thần tác động và sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí. Nói cách khác, sau lời thưa xin vâng, Mẹ đã thoát vượt mọi sợ hãi, hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và đắc thủ được niềm vui của Tin mừng cách trọn vẹn khi mang chở Đấng Cứu thế trong cung lòng mình. Vì thế Giáo hội chọn đoạn thư Do thái trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2)để quảng diễn ý tưởng này. Tác giả thư Do Thái nói về sự vâng phục của Đức Giêsu khi đi vào trần gian, và đó là nguyên mẫu cho thái độ khiêm tốn của Đức Maria, cũng như sự tuân phục nơi chúng ta. “Bấy giờ con thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 6). Đức Giêsu đã đến trần gian để công bố cho chúng ta Tin mừng của ơn cứu độ và Ngài cũng chính là Tin mừng được hiến ban cho nhân loại.
Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta về tâm điểm của Tin mừng, đó là rao giảng về niềm vui khi được Thiên Chúa thương xót ( x. số 34 – 36 ).Có lẽ Đức Thánh Cha cũng muốn mời gọi chúng ta học nơi thái độ nội tâm của Mẹ, bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nếm cảm niềm vui của lòng thương xót này: “ Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xótnhững ai kính sợ Ngài”. Mẹ đã sở đắc được niềm vui của Tin mừng là chính Đức Giêsu. Chìa khóa để có được niềm vui ấy là Mẹ đã biết khiêm tốn trải lòng mình ra để Thánh Thần phủ ngập và hoàn toàn quy thuận theo đường lối của Thiên Chúa.
Càng khiêm tốn, con người càng đạt đến sự toàn hảo. Kiêu căng, tự mãn sẽ nảy sinh ghen ghét và đố kỵ. Cha Thomas Merton đã định nghĩa: “ Hỏa ngục là nơi tập trung sự ghen ghét”. Nơi đó dành cho Luxiphe và bè lũ của nó vì nó đã kiêu căng chống lại Thiên Chúa. Ngược lại, Thiên Đàng đã bắt đầu khai mở nơi tâm hồn Đức Maria vì Mẹ đã hoàn toàn khiêm tốn ẩn náu dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa và nếm cảm lòng thương xót của Ngài.
Chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng.
Niềm vui chân thật như một dòng chảy bất tận. Nó không thể bị quây kín và nhốt chặt lại. Niềm vui cần phải được chia sẻ và trao ban. Điều đó chúng ta thấy thật rõ nét nơi Đức Maria. Chúng ta đừng hời hợt xem việc Đức Maria đến thăm bà Elizabeth chỉ như một nghĩa cử thông thường theo tình cảm huyết nhục tự nhiên. Trước hết và trên hết, Mẹ đem Chúa Giêsu là căn nguyên niềm vui đến chung chia với mọi người. Thánh Luca không phải vô tình đã mở đầu trình thuật bằng câu: “Đức Maria hối hả, vội vã lên miền sơn cước”. Mẹ vội vã và háo hức muốn sẻ chia niềm vui ngập tràn nơi tâm hồn mình. Đó cũng là một hình ảnh tuyệt hảo để chúng ta suy nghiệm và thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng trong cuộc sống hôm nay. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu phải cảm thấu một cách sâu xa niềm vui như thế và Ngài cũng nhắc nhở Hội thánh phải ‘đi ra’ để làm lan tỏa niềm vui này (số 46-49).Ngài viết “ Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bấu víu vào sự an toàn của mình”. Cũng vậy Đức Maria đã can đảm và liều lĩnh ‘đi ra ngoài’, tiến lên miền núi để đến với người chị họ. Mẹ không ngại bị bầm dập vì đường xa cách trở, vì đồi núi cheo leo. Mẹ còn hối hả vội vã, như thể sợ tuột mất niềm vui muốn được sẻ chia. Những từ ngữ trong trình thuật của Thánh Luca mà chúng ta nghe hôm nay đều mang chở một tính cấp thiết và khẩn trương, vì việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng là một sứ mệnh khẩn thiết mà chúng ta phải thực thi mỗi ngày, theo gương Đức Maria.
Những ai sống ơn gọi thánh hiến, đều biết rằng thánh hiến và tông đồ luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Những ai thánh hiến trọn vẹn cho Chúa, tất sẽ làm bùng cháy ngọn lửa tông đồ nơi tâm hồn mình. Thánh hiến càng sâu xa, ngọn lửa tông đồ càng mạnh mẽ. Việc tông đồ không có nghĩa là phải giảng thật hay, phải phát động nhiều công việc từ thiện, phải khéo léo tổ chức những sinh hoạt xã hội đa dạng. Tất cả sẽ trở nên vô nghĩa nếu những công việc đó không xuất phát từ lòng mến, từ tâm hồn được thánh hiến và thuộc trọn về Chúa. Chúng ta nhớ lại lời dạy của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô. Ngài viết “ Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần mà không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, biết những điều bí mật và mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non mà không có đức mến, thì cũng chẳng là gì. Giả như tôi đem hết tài sản của tôi để bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có lòng mến, thì chẳng ích lợi gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3). Phải gắn kết mật thiết với Chúa chúng ta mới có thể thực hành việc tông đồ, vì Thiên Chúa chính là tình yêu, là ‘Đức Mến’ tuyệt đối để chúng ta quy hướng về.
Chúng ta hãy học nơi Đức Maria. Mẹ không ồn ào náo động, không tổ chức những cuộc lễ hoành tráng với cờ xí, kèn trống tưng bừng. Mẹ không mở lớp dạy giáo lý cách rầm rộ, không sinh hoạt trong các đoàn thể, cũng chẳng bao giờ đi làm công tác từ thiện để xóa đói giảm nghèo, bởi vì Mẹ chỉ là một cô thôn nữ bình dị, đơn sơ, cũng chẳng học thức hay tài cán cao sang. Nhưng Mẹ hoàn toàn để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Một việc làm xem ra rất bình thường Mẹ đã thực hiện mà không ai biết đến, là đi thăm người chị họ nơi miền núi cao, không kèn không trống và hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Nhưng chính Đức Maria đã trở thành nguyên mẫu cho chúng ta trong việc chia sẻ niềm vui và loan báo Tin mừng đến cho mọi người.
Chân phước Philip Rinaldi đã nói: “ Thiên Chúa luôn khởi đầu những công trình vĩ đại từ những con người bé nhỏ và ngang qua những công việc rất khiêm hạ”. Điều đó rất đúng khi chúng ta chiêm ngắm dung mạo của Đức Maria được mô tả trong phụng vụ hôm nay. Một nhà tu đức đã nói: “ Chắp tay lại thì rất tốt, nhưng ngửa tay ra vẫn tốt hơn”. Mẹ Maria đã chắp tay lại để thưa lời xin vâng, và ngày hôm nay, Mẹ tiếp tục mở tay ra để đem niềm vui của Tin mừng đến cho người khác. Đó là hình mẫu cho chúng ta trong những ngày gần sát lễ Giáng sinh để chúng ta học nơi Ngài cách thái mừng đại lễ thật sốt sắng và có ý nghĩa.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
CHÂN DUNG ĐỨC GIÊSU KITÔ- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Sách tiên tri Mikha nhắc đến Bêlem vì nơi đây sẽ sinh Đấng thống trị Israel, và nguồn gốc người có từ nguyên thủy tự muôn đời. Tin Mừng Luca cho thấy bà Isave khi được Đức Maria đến thăm đã thốt lên: “bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm”. Những lời trên liệu có thể áp dụng cho Đức Giêsu, và có giúp người ta hiểu Đức Giêsu là ai không?
I/.Đức Giêsu là Giêsu Nazarét, con ông Giuse, con bà Maria
Với những người ở Bêlem, thánh Giuse và Đức Maria là những người bình thường như bao người nhà quê nghèo khác. Chính vì thế, họ không đối xử với Đức Maria và thánh Giuse một cách đặc biệt: hai ngài đã phải ra chuồng chiên cừu trú ngụ qua đêm. Đức Giêsu đã được sinh ra trong chuồng chiên cừu. Với họ, chả có gì đặc biệt khi cặp vợ chồng nghèo Giuse Maria trở về quê và không có chỗ trú ngụ.
Không biết đêm hôm ấy, đêm Đức Giêsu được sinh ra, trời có sáng hơn mọi đêm không? Có ai trằn trọc mất ngủ vì một lý do “không biết” nào không? Hay tất cả vẫn cứ bình thường, vẫn là một ngày như mọi ngày? Biến cố Đức Giêsu được giáng sinh, có lẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với Đức Maria và thánh Giuse, và sau đó đối với một số mục đồng đã tin lời sứ thần; còn với tất cả những người khác, có lẽ tất cả đã như thường.
Khi Đức Giêsu đi rao giảng, và đã làm được một số điều đặc biệt, người ta cũng vẫn xác nhận Ngài là “Giêsu con bà Maria” (Mc.6, 3), “Giêsu con ông Giuse” (Lc.4, 22). Các người bị thần ô uế ám thì gọi Ngài bằng “Giêsu Nazarét” (Lc.4, 34). Với các tông đồ và những chị phụ nữ hôm biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá, Ngài cũng chỉ là một người công chính bị nạn! Với những biệt phái tư tế kinh sư, Ngài cũng chỉ là một đối thủ cần loại trừ, và họ đã thành công ở biến cố Đức Giêsu bị treo thập giá. Với những người không là Kitô hữu hiện nay, có lẽ Đức Giêsu cũng chỉ là con người đặc biệt hơn một người bình thường chút xíu; nhưng cũng chỉ là vậy, Ngài cũng chỉ là một người như bao người khác.
II/.Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể
“Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi tới viếng thăm!” (Lc.1, 43). Từ ngữ “thân mẫu Chúa tôi”, theo bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh, khác với từ ngữ “Mẹ Thiên Chúa” như trong sách bài đọc dịch. “Anh em gọi Thầy là Thầy là Chúa là đúng rồi… vậy nếu Thầy là Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga.13, 13-14). Từ ngữ “Chúa” ở đây có thể chỉ đơn thuần được hiểu như một người làm chủ, người đứng đầu (Thiên Chủ, Thiên Chúa).
Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (Nicea năm 325); và nhờ đó hiểu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Ephêsô năm 431). Đi với khẳng định này công đồng Nicea đã kết án “hạ phục thuyết” của Arius chủ trương rằng Đức Giêsu thấp kém hơn Thiên Chúa.
Kitô hữu hiểu Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, nhưng vẫn tin “chỉ có một Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Cái khác nhau là ba ngôi vị. Kitô hữu cố gắng tránh hiểu ba ngôi như là ba Thiên Chúa. Nơi con người, ba người (ngôi vị) khác nhau nhưng vẫn cùng một bản tính người; còn nơi Thiên Chúa, ba ngôi không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
III/. Đức Giêsu là ai?
“Người ta bảo Con Người là ai?… Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt.16, 13) Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Cả với câu này, người ta vẫn giải thích chữ Đức Kitô theo nghĩa rất bình thường: Môsê, Đavít, Kyrô … cũng đều là đức Kitô cả. “Con Thiên Chúa” cũng có thể được hiểu theo nghĩa rất bình thường: các thiên thần, các người công chính,… cũng có thể được gọi là con Thiên Chúa. Chỉ với câu này, người ta không buộc phải hiểu Đức Giêsu là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Khi người ta hiểu Đức Giêsu nhận mình là Con đồng bản tính với Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, thì Ngài phải chết vì đó là tội vô cùng lớn: phạm thượng: là người mà cho mình là Thiên Chúa (Ga.10, 33).
Nhờ những đối kháng dẫn Đức Giêsu tới cái chết, người ta mới hiểu rằng Đức Giêsu ý thức mình là Thiên Chúa, và người ta cũng hiểu Ngài khẳng định như vậy, nên người ta có đủ lý do để kết án Ngài mà không cần phải “cáo gian” nữa! “Máu nó sẽ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25); nếu không ý thức rõ tội của Đức Giêsu, thì người Do Thái không dám nói những lời như thế. “Chúng tôi có luật, mà chiếu theo luật thì nó phải chết, vì nó là người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19, 7). Từ ngữ “Con Thiên Chúa” ở đây phải được hiểu là Con “đồng bản tính” vì nếu không, đâu có đủ lý do để kết án tử hình Đức Giêsu. Nếu một người công chính được gọi là con Thiên Chúa, thì tội của Đức Giêsu đâu có là gì mà phải kết án tử hình Ngài.
Đức Giêsu là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng “ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62). Người Do Thái kết án tử hình Đức Giêsu thật là chính đáng, vì Đức Giêsu đã nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhờ lời của Đức Giêsu, và nhờ án tử hình được công nghị Do Thái tuyên cho Đức Giêsu, giúp Kitô hữu thấy rõ chân tướng của Đức Giêsu. Ngài là Thiên Chúa, là Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài đúng là Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Khẳng định của các công đồng Nicea và Êphêsô đã phản ánh đúng đắn niềm tin của Kitô hữu sơ khai, cũng như phản ánh đúng ý thức của Đức Giêsu về chính Ngài.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1/.Sứ điệp Đức Giêsu mang lại cho thế gian trong ngày lễ Giáng Sinh là gì?
2/.Có sự liên hệ nào đó giữa sự bình an trong tâm hồn con người, sự an bình của xã hội và nền hòa bình trên thế giới không?
2/.Chỉ dựa vào Kinh Thánh, bạn có thể “chứng minh” Đức Giêsu là Thiên Chúa không?
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
THA NHÂN ĐƯỢC CHÚC PHÚC- Lm. Barnaba Lê An Phong
Tuần thứ IV Mùa vọng, chúng ta chiêm ngắm Khuôn mặt Mẹ Maria và những tâm tình nhân hậu của Mẹ với người khác, qua tường thuật Tin mừng của Thánh Luca về việc Mẹ đi thăm bà Elisabeth.
Cuộc sống của chúng ta là những cuộc gặp gỡ nhiều người, nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều sắc thái và nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ của Maria và Elisabeth khá đặc biệt, theo lời tường thuật của Luca. Họ là hai người phụ nữ – lớp người thuộc vào hạng không mấy quan trọng trong xã hội thời đó. Một điều đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ văn hóa, tôn giáo và xã hội: Maria, cô thiếu nữ chưa làm đám cưới (dù đã đính hôn, nhưng Giuse chưa rước cô về nhà để chung sống), chưa sống chung mà đã mang thai (có thể bị gán cho tội “không đứng đắn”, phạm tội ngoại tình và sẽ bị ném đá). Bà Elisabeth, người phụ nữ đã già mà chẳng sinh con; người đàn bà son sẻ, hiếm muộn có thể bị gán cho số phận không may mắn, bị sỉ nhục và “bị chúc dữ”(xem St 29,31; 1Sm 1, 10; Is 4,1; Lv 20,20-21; 2Sm 6, 23).
Dưới mắt người đời thời đó, và theo khóe nhìn tôn giáo và văn hóa Do thái giáo, ít nhất là chúng ta có thể “giả định”, hai phụ nữ này chẳng có gì để đem ra ca tụng. Hơn thế, ta phải nói đến chuyện một người sẽ bị đem ra ném đá và người kia có thể được gọi là “kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ”. Điểm đáng nói nữa là chuyện hai người phụ nữ khi gặp gỡ, họ còn chào và gọi nhau là “đầy ơn phúc”, “được chúc phúc”. Họ muốn “tung hô nhau” hay tự “xông hương” cho nhau chăng? Họ thật sự “có phúc” không, và “phúc’ của họ là gì, từ đâu mà có?
Họa hay phúc, ta có thể đánh giá rất chủ quan và có thể bị sai lệch. Có thể mọi sự sẽ xảy ra như chuyện “Tái ông thất mã”, và cuộc sống xem ra là là một chuỗi dài của chuyện “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”…
Từ câu chuyện của Maria và Elisabeth, chúng ta có thể nói rằng chỉ có ai là “người trong cuộc” mới có thể hiểu được mối phúc mà hai người phụ nữ này có được. Đó là điều kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn làm, hay nói cách khác, là chuyện Thiên Chúa can thiệpcách đặc biệt vào cuộc đời của họ. Maria và Elisabeth chính là “những người trong cuộc”, là những người bị “dính vào chuyện của Thiên Chúa”. Và từ đó, thái độ của hai người phụ nữ ấy càng đặc biệt hơn khi họ biết nhìn ra hạnh phúc thật nơi những điều mà người thế gian cho là bất hạnh. Thật thế, chúng ta có thể kể ra những điểm sau:
1) Cả hai người phụ nữ nhận ra thân phận bé mọn của mình; họ “biết mình” bằng sự khiêm tốn chứ không vì tự ti, mặc cảm. Bởi thế họ mới có thể reo lên Linh hồn tôi ca ngợi Đức Chúa, tâm trí tôi hớn hở vui mừng.
2) Họ hiểu rằng ngay chính nơi sự cùng khốn của mình, Thiên Chúa đã làm những điều cao trọng. Từ đó họ tuyên xưng rằng Người là Đấng Quyền năng vàdanh Người chí thánh chí tôn, là Đấng trung tín và giàu lòng yêu thương – Chúa hằng “thương xót những ai kính sợ Người”.
3) Họ tin rằng những điều cao trọng đã và đang xảy ra cho mình không phải do ý muốn riêng đạt được hay đó là phần thưởng xứng hợp với công trạng của mình, nhưng là do Thánh ý Thiên Chúa và lời giao ước tình yêu của Người với nhân loại, qua dân Israel, với cha ông của họ từ thưở trước.
4) Họ không bận tâm quá nhiều đến chuyện xầm xì của thế gian về những bất hạnh của riêng mình cho bằng phó thác tất cảmọi sự vào tình yêu thương, lòngtrung tínvàsự công minh của Thiên Chúa từ đời nọ trải qua đời kia.
Mẹ Maria và bà Elisabeth đã nhìn nhau và nhận ra nơi mỗi người hồng ân của Thiên Chúa, rồi gọi nhau bằng tên gọi của những “người được chúc phúc” hay là “người có phúc”. Còn chúng ta? Khóe nhìn nào mà chúng ta có được khi hướng tới tha nhân?
Hãy nhìn thực tế cuộc sống bên ngoài cộng đoàn chúng ta: Khắp nơi đầy dẫy những chuyện ghen ghét, lọc lừa. Người ta đánh giá nhau dựa vào những gì bên ngoài hay ở “bề nổi”. Nhiều bạn trẻ đã không dám nhìn vào người khác, vì một cái nhìn bị cho là “đểu” có thể là nguyên nhân vô duyên nhất gây nên cái chết oan khiên của một mạng người. Sự đố kị, cạnh tranh, chèn ép có mặt ở khắp nơi… Có lẽ khi con người lấy tiền tài, vật chất và vẻ hào nhoáng bên ngoài làm thước đo các giá trị và là mục đích tối thượng thì người ta sẽ nhìn tha nhân với một khóe nhìn tiêu cực: “Tha nhân là địa ngục của tôi”, nói như triết gia Jean Paul Sartre. Và cứ theo kiểu như vậy, người đứng trước mặt tôi luôn là “nguy cơ”, chính là “tai họa” và là “đầu mối của mọi rắc rối” cho tôi! Từ đó, trong các mối tương quan nhân vị, sự lựa chọn bắt buộc sẽ nhằm vào việc triệt thoái hay hạ bệ lẫn nhau. Khi ta không còn khả năng nhìn ra được điều tốt lành nơi người khác, thì ta chẳng còn biết yêu thương hay trân trọng ai cả.
Quay lại nhìn cuộc sống hằng ngày bên trong mỗi cộng đoàn ki tô hữu, chúng ta có thể thấy thêm điều gì? Thưa, đó là sự đố kị, tiếng xầm xì, lời trách cứ, chuyện chê bai cách công khai hay ngấm ngầm và việc xúc phạm đến nhau, sự tự tôn, sự tự ty, óc bè phái,…Tất cả chính là thuốc độc làm hao mòn, gặm nhấm các phần tử và tàn hại thân xác mầu nhiệm của Chúa Kitô. Bên trong các cộng đoàn kitô hữu còn có cả căn bệnh tính toán, so đo thiệt hơn hoặc kiểu hành xử theo chiều hướng khác của bệnh dửng dưng, vô cảm; của lối sống cá nhân ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Đây là điều mà trước đây Thánh Phaolo đã nhắc nhở các tín hữu trong các cộng đoàn của ngài, và giờ đây, vẫn còn là một thực tế mà mỗi chúng ta có thể trải nghiệm.
Như Mẹ Maria, mỗi chúng ta có thể làm gì? Hãy học biết cách sống khiêm cung và biết đón nhận cuộc sống như một tặng ân vô giá, là hồng ân được hiệp thông vào Đấng yêu thương và cũng chính là Cùng Đích cao trọng mà mỗi chúng ta khao khát đạt đến.
Như Mẹ Maria, ta hãy biết vui mừng vì được Chúa yêu thương, biết tạ ơn vì được Chúa gọi mời cộng tác với Ngài.
Như Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn anh chị em của mình bằng ánh mắt khiêm cung và trái tim rộng mở, biết cảm thông và bao dung hơn khi đón nhận người khác, để nhờ đó ta có thể đọc ra dấu chỉ tình yêu và hồng ân mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người và nơi mọi người; như chính Người “đã cho mặt trời chiếu sáng trên người lành cũng như trên kẻ dữ” (Mt 5, 45).
Bước vào những ngày cuối của Mùa Vọng, chúng ta hãy chuẩn bị cùng Mẹ lên đường mang Chúa đến cho người khác như mang một qua tặng quý giá của tình yêu thương, niềm cảm thông lớn lao hơn cả cho mọi người giữa thế giới mà tình người đang có nguy cơ bị hoang mạc hoá.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
GẶP GỠ: THÀNH SỰ TẠI NHÂN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Gặp gỡ là cùng có mặt tại một không gian, là sự giáp mặt, tiếp xúc giữa những người thân quen hay cùng có một mối liên hệ nào đó. Vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng C này giáo hội khi dọn cho chúng ta bàn tiệc Lời Chúa, đặc biệt qua bài Tin mừng, muốn giới thiệu hai cuộc gặp gỡ. Một là giữa hai chị em Isave và Maria và hai là giữa Thai Nhi Giêsu với bà Isave và Thai nhi Gioan Tẩy giả. Đã nói đến sự gặp gỡ thì hàm ý có những hiệu quả tốt đẹp phát sinh. Qua cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cũng như hai thai nhi trên, hiệu quả tốt đẹp đã xảy ra. Bà Isave đầy ân sủng Thánh Thần, xác nhận sự diễm phúc của cô em Maria cũng như nói lên hồng ân mà trẻ bé Gioan Baotixita trong dạ của bà đang hưởng nhận. Chúng ta đừng quên cuộc gặp gỡ ấy cũng đem niềm vui cho cả nhà Giacaria, vì nay đã có người góp sức cho việc hạ sinh trẻ Gioan. Điều này được hé lộ khi Tin mừng tường thuật rằng Maria ở lại với gia đình Giacaria – Isave độ ba tháng mới trở về nhà mình (Lc 1,56).
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Câu đối của người xưa nhấn mạnh đến cái duyên, tức là phần số đã được trời sắp đặt, chuẩn bị, an bài từ trước, như là nguyên nhân chính làm nên sự gặp gỡ hay không gặp gỡ. Theo viễn kiến này, thì người ta cũng có thể nói như người xưa: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” hoặc như tác giả Thánh Vịnh: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Thế nhưng dưới cái nhìn của mạc khải thời Tân Ước, thì phải chăng chúng ta cũng có thể nói ngược lại: Mưu sự tại thiên, thành sự tại nhân.
Mưu sự tại thiên: Thiên Chúa đã yêu thương, chọn gọi loài người từ ngàn xưa để ban cho con người hạnh phúc vĩnh cửu là thông phần sự sống với Người trong Con Một của Người là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã trình bày ý định nhệm mầu này bằng bản thánh ca: “…Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người…”(Eph 1,3-14).
Thánh ý của Thiên Chúa là ban cho thế gian chính Con Một dấu yêu, trong một thân xác cụ thể, làm dấu chỉ và làm phương thế cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nói: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7).
Khi ban Người Con Một vào trần gian, Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết nguồn gốc đích thực của mọi loài, cách riêng loài người chúng ta chính là Người, vị Thiên Chúa duy nhất đầy quyền năng đáng tôn thờ và cũng là người Cha đầy lòng thương xót đáng mến yêu trên hết mọi sự, đồng thời qua đó, mạc khải cho chúng ta biết mình là anh chị em với nhau, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ…(x.Mt 5,9; 43-48). Nói một cách không sợ sai lầm rằng chúng ta đã biết một trong những nội hàm của “mưu sự tại thiên”: Đó là Thiên Chúa muốn mọi người gặp gỡ Người để được hạnh phúc và gặp gỡ nhau để sống tình huynh đệ.
Thành sự tại nhân: Chúng ta vốn quen với câu nói của thánh giáo phụ Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Thánh giáo phụ vừa nói lên quyền năng cao cả của Thiên Chúa, vừa nói lên đường lối của Người, Đấng là Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Thiên Chúa đã thương ban cho loài người, hình ảnh của Người, có lý trí và ý chí tự do. Đây là hệ lụy tất yêu của tình yêu. Tình yêu đòi hỏi có sự ý thức và tự nguyện. Có thể dễ bị hiểu lầm là kiêu ngạo khi đề cao vai trò của nhân loại, thế nhưng đó là một cách thế hành động của Thiên Chúa. Dù rằng đầy quyền năng và không có sự gì là không thể, nhưng Thiên Chúa lại muốn có sự tự do cộng tác của con người trong việc thi ân, cứu độ con người.
Để chuẩn bị một dân tuyển lựa, Thiên Chúa không bắt ép, nhưng mời gọi Abraham, một người chăn nuôi súc vật đã khá cao niên lên đường (x. St 12,1-5). Để cho Ngôi Lời Nhập thể cứu đời, Thiên Chúa không ra chỉ thị mà lại ngỏ ý, đề nghị Maria, một thiếu nữ thôn dã cộng tác (x. Lc 1,26-38). Khi công khai rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại câu nói: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe!” (Mt 11,15).
Điều gì cần có nơi phía loài người để thánh ý Thiên Chúa được thành sự? Chúng ta có thể nhận ra đó là lòng thành và sự khiêm nhu trong một tâm hồn đầy lửa mến, khát khao sự thiện. Để cho thánh ý Thiên Chúa được thành hiện thực, nghĩa là có sự gặp gỡ thực sự giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, thì phía con người không thể thiếu:
– Một sự hướng thiện trong tình mến: Biết bao cuộc họp mặt giữa người với người, giữa vị đại diện quốc gia này với quốc gia kia mà vẫn chưa trở thành sự gặp gỡ, nghĩa là chưa mang lại kết quả. Trong nhiều lý do rất có thể có lý do là một trong hai phía chưa thực sự có tình yêu thương nhau hoặc chưa thực sự hướng thiện, nghĩa là tìm kiếm điều tốt trong chân lý.
– Một tấm lòng thành đầy sự khiêm nhu:Khi sinh thời, cách riêng trong quảng đời rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã tiếp xúc rất nhiều người nhưng vẫn có đó không ít người chưa gặp gỡ Người mà trong số đó có nhiều người biệt phái, luật sĩ. Lý do chính yếu mà tin mừng tường thuật, đó là vì họ thiếu lòng thành và sự khiêm hạ. Họ là những người có tai mà không nghe, đúng hơn là không thèm nghe; có mắt mà không thấy, đúng hơn là không muốn thấy. Làm sao có sự gặp gỡ khi một phía cố tình bịt tai, che mắt?
Trở lại với hai bà mẹ đang mang thai, một trẻ, một già là Isave và Maria. Tình yêu của của hai bà mẹ dành cho Thiên Chúa, cho con người đã quá rõ. Một người tuy như là bất hạnh trước người đời vì son sẻ mà vẫn kiên trung trong sự công chính trước mặt Thiên Chúa và không ai chê trách được điều gì (x.Lc 1,6), một người thì tràn trề ân sủng (x.Lc 1,28), và cả hai đều đầy ơn Thánh Thần (x.Lc 1,35; 41). Lòng thành và sự khiêm hạ của Maria đã rõ nét qua lời thưa xin vâng và lời ca Magnificat: “Chúa đã đoái thương phận hèn tớ nữ…”(x.Lc 1,48). Bà Isave đã nhìn nhận tất cả là ơn Chúa “khi Người đã thương cất nỗi hổ nhục bà phải chịu trước mặt người đời” (Lc 1,25).
Thiên Chúa không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách để gặp gỡ con người, đồng thời giúp con người gặp gỡ nhau. Thế nhưng trong vấn đề này, chúng ta có thể nói rằng “mưu sự tại thiên mà thành sự tại nhân” vậy.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
NIỀM VUI VÌ CÓ ĐƯỢC CHÚA VÀ MẸ VIẾNG THĂM- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Không khí mong chờ Chúa đến bao trùm trên toàn dân Do Thái lúc bây giờ hơn bao giờ hết. Người người mong chờ Chúa đến. Nhà nhà mong chờ Chúa đến.
Bà Isave, mẹ của thánh Gioan Tẩy Giả cũng đang sống trong tâm tình mong chờ Chúa đến. Thánh Gioan Tẩy Giả đang ở trong cung lòng bà Isave được sáu tháng cũng mong chờ Chúa đến.
Sự mong chờ này được ví như đất khô mong mưa rào, như hoa hướng dương mong ánh sáng mặt trời chiếu soi, như lính canh mong trời hừng đông…
Chúa đã đến trần gian qua biến cố truyền tin, Chúa đang ở trong cung lòng Đức Mẹ. Không một ai biết hết, chỉ có mỗi một mình Đức Mẹ biết rồi sau đó là đến thánh Cả Giuse nữa mà thôi. Mẹ và thánh Cả Giuse biết trong nội tâm, trong suy đi nghĩ lại, trong âm thầm chiêm niệm, không khoe khoang ra bên ngoài.
Hôm nay, Mẹ đi thăm gia đình ông Zacaria và bà Isave. Mẹ đem Chúa đến cho gia đình này. Từng thành viên trong gia đình được gặp Chúa. Một niềm vui trào dâng nơi bà Isave, cách đặc biệt là thánh Gioan Tẩy Giả mà theo tường thuật của thánh sử Luca trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: “ Đức Mẹ vào nhà ông Zacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần: Bà kêu lớn tiếng rằng: Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ và con lòng bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi ? Vì này tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện “.
Sau khi bà Isave nghe lời chào của Đức Mẹ, thánh Gioan đã được gặp Chúa, được Chúa tha tội tổ tông ngay từ trong lòng mẹ, nên ngài nhảy mừng trong lòng bà Isave. Sự nhảy mừng này chứng tỏ niềm vui quá lớn lao được gặp Chúa, được Chúa ban ơn, sự khát khao mong chờ Chúa đến được Chúa cho thỏa chí tọai lòng.
Phần bà Isave, khi thánh Gioan nhảy mừng trong lòng bà thì bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần, bà vui mừng khôn xiết, bà xưng tụng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, bà tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Chúa đã nói với Đức Mẹ.
Bà Isave, thánh Gioan Tẩy Giả được gặp Chúa, được niềm vui không gì có thể diễn tả hết được là nhờ Đức Mẹ viếng thăm đem Chúa đến, chúng ta cần có Đức Mẹ trong cuộc đời này, cần Đức Mẹ mang Chúa đến cho chúng ta và nhờ Đức Mẹ, chúng ta đến với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao nhất của chúng ta.
Nhờ Đức Mẹ, chúng ta có Chúa hiện diện trong cuộc đời chúng ta, Chúa sẽ tác động chúng ta, đổi mới con người chúng ta. Chúng ta cần có Đức Mẹ, cần có Chúa ở lại với chúng ta mọi nơi mọi lúc để giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa và sống tốt với anh chị em chúng ta. Do vậy, chúng ta cần níu kéo Chúa và Đức Mẹ ở lại với chúng: “ Chúng ta níu kéo Chúa và Đức Mẹ không phải bằng xiềng xích bất công hay một thứ vật chất nào khác, nhưng là dây đức mến, thứ dây của tâm hồn, đó là lòng mến….. Và như vậy Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta, trái lại sẽ được Chúa năng đến thăm viếng, vì Chúa luôn ở với chúng ta cho đến ngày tận thế “ ( Thánh Ambrôsiô ).
Lạy Chúa, ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh sắp đến, ngày Chúa thăm viếng chúng con đã gần kề rồi, xin Chúa giúp chúng con can đảm mở rộng tâm hồn của chúng con để chúng con được Chúa ngự vào, và xin cho chúng con cũng biết đi đến với những người khác đang cần chúng con yêu thương, đang cần chúng con giúp đỡ để cuộc sống của tất cả chúng con sẽ ấm lên, bới đi sự lạnh lẽo của của những ích kỷ, hẹp hòi, khép kín. Amen.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG-C
TRỞ NÊN NHỮNG EMMANUEL MỚI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn lao không gì sánh được. Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn. Trong những trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!
Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác đáng rằng:
“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn;
Việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn.”
Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban giúp đỡ khác.
Thiên Chúa sống-với con người
Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên Ngài muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại mãi mãi không cùng. Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng ở cùng chúng ta. (Isaia 7, 14. Mat-thêu 1, 23)
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giê-su đã sống kiếp phàm nhân suốt ba mươi ba năm để chia sẻ mọi vui, buồn, sướng, khổ của phận người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giê-su vẫn không rời xa các môn đệ. Ngài nói với họ:
“Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
“Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó.” (Mt 14,3)
Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giê-su khấn nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con.” (Mt 17,24)
Thế rồi Chúa Giê-su lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.
Mẹ Maria sống-với con người
Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc mừng, để phục vụ và nhất là để sống với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao niên suốt cả ba tháng trời (Lc 1, 39. 43. 56).
Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến cố Chúa Giê-su về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm tin đang chao đảo của các ngài.
Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh, Giáo Hội phải nhiều phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu như Mẹ đã thực hiện tại La-vang, Fatima, Lộ-đức và nhiều nơi khác.
“Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn.
Việc từ thiện là cần thiết, hiện-diện-bên-cạnh, cần thiết hơn.”
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con luôn noi gương Chúa là Emmanuen, là Đấng luôn ở với loài người để cùng chia sẻ ngọt bùi với bao người chung quanh; xin cho chúng con bắt chước Mẹ Maria là Đấng luôn hiện diện bên con cái mình để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó; xin giúp chúng con trở nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG- C
THÁNH Ý- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Mikêa loan báo Đấng thống trị Irael sẽ xuất hiện tại Belem, đất Giuđa. Chúng ta thường gọi vùng Belem này là Đất Thánh vì đã được đón nhận Đấng Cứu Thế. Người Do-thái dùng từ Đất thánh chỉ Nước Irael (Kingdom of Israel). Từ ngữ Đất Thánh (Holy Land) được dùng bởi cả người Hồi Giáo và Kitô Giáo để định vị miền đất giữa sông Jordan và vùng biển Địa Trung Hải. Đền thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo của người Do-thái và là nơi thánh. Cùng với những nơi Chúa Giêsu đã đi qua thi hành sứ mệnh và rao truyền ơn cứu đô. Xưa cũng như nay, có rất nhiều người, kể cả Do-thái, Kitô hữu và tín hữu Hồi giáo đến hành hương trong miền Đất Thánh này. Nhiều người ao ước được đến viếng thăm những nơi Chúa Giêsu Nazarét sinh ra, nơi Chúa sinh sống và rao giảng, đồi Chúa chịu chết và nơi sống lại ra khỏi mồ. Nhiều Kitô hữu muốn đến tận nơi ngắm nhìn, đụng chạm, cảm nhận và suy niệm về cuộc đời của Chúa Cứu Thế.
Chương trình cứu độ được tỏ hiện từng bước trong lịch sử dân Do-thái. Thánh ý của Thiên Chúa trải rộng khắp lịch sử của loài người và đặc biệt qua dân được tuyển chọn. Thiên Chúa đã chọn, gọi và sai các tiên tri hướng dẫn Dân đi qua từng biến cố lớn nhỏ. Tiên tri Mikêa đã loan tin: Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en (Mik 5, 2). Mikêa nói đến hình bóng của người phụ nữ đã được nhắc đến ngay trong những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, như lời Thiên Chúa đã hứa: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó (Stk 3, 15). Người phụ nữ này giữ vai trò rất quan trọng trong chương trình cứu độ loài người. Qua người nữ, Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra trong dòng dõi của những kẻ còn sót lại.
Trong thời Cựu Ước, những lời tiên tri loan báo từ từ được thực hiện. Một trinh nữ miền quê trong trắng, đơn sơ và thánh thiện đã được Thiên Chúa quan phòng để lãnh nhận sứ mệnh làm mẹ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa vũ trụ đã hóa thân làm người nơi cung lòng của Đức Maria trinh nữ. Chúa chọn một người nữ bình thường để thể hiện những việc phi thường. Đất trời đã giao hòa. Sự kiện này hoàn toàn do thánh ý của Thiên Chúa. Con Thiên Chúa hạ thân làm người và một người nữ khiêm cung đón nhận hồng ân và cưu mang trong lòng. Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”( Lc 1, 38). Sau khi được sứ thần truyền tin cưu mang Con Thiên Chúa, Maria đã nói lời xin vâng và sống niềm tin sâu thẳm. Khi Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ là Isave, bà Isave đã lớn tiếng kêu lên rằng:”Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1, 42).
Từ một thôn nữ đơn thành chất phát, Maria đã trở nên máng chuyển ơn cứu độ. Kinh thánh đã ca khen vai trò của Mẹ Maria qua điềm lạ xuất hiện trên trời:Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12, 1).Thiên Chúa đã quan phòng thay đổi cuộc đời của Đức Maria trong vai trò trung gian của ơn cứu độ. Đức Maria đã hoàn toàn vâng theo thánh ý của Thiên Chúa. Một mầu nhiệm cao siêu nhất hòa nhập trong một con người đơn sơ hèn mọn. Maria tiếp tục sống một cuộc sống hiền hòa, khiêm hạ và âm thầm lặng lẽ vâng phục trong nguyện cầu tín thác. Maria đã đi thăm viếng và giúp đỡ chị họ Isave trong lúc sanh nở. Maria đã không quản ngại phụ giúp chị trong mọi công việc dù thấp hèn nhất.
Sự khiêm hạ của Đức Maria là gương mẫu cho chúng ta. Đức Maria đã sống ơn gọi của mình một cách hoàn hảo. Biết rằng nếu muốn thay đổi số phận, chúng ta phải bỏ ra công sức để tôi luyện công đức. Công đức thay đổi nhân tâm. Công đức căn bản là thực hiện những điều khiêm hạ thấp hèn. Thường thường người ta nói về công đức cao siêu, nhưng cái thấp nhất và nhỏ nhất lại là cái vĩ đại nhất. Giống như nhà khoa học nghiên cứu những cái nhỏ nhất và đơn giản nhất để khám phá ra những qui luật chung mà mắt người thường không nhìn thấy được. Công đức căn bản là lao động công ích. Chúng ta nhìn qua những hành xử của thân, khẩu và ý. Thân nghiệp là hành vi dùng sức khỏe và chân tay lao động để giúp người và giúp đời. Khẩu nghiệp là nói những lời chân thành, nhẹ nhàng và nhân ái giúp gây bầu khí an hòa và cảm thông lẫn nhau. Ý nghiệp là khởi ý cầu mong sự tốt lành và an vui cho người khác.
Bà Isave và Đức Maria đã trao đổi tình thân hữu qua việc giúp đỡ và khen ngợi. Bà Isave đã chúc tụng: Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em (Lc 1, 45). Khẩu và ý nghiệp của bà Isave vừa là lời chúc phúc, vừa là sự cầu mong những điều tốt lành cho Maria. Giáo Hội đã dùng lời ca ngợi của bà Isave biến thành lời cầu nguyện: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ… Đức Maria có phúc vì được Thiên Chúa ưu ái chọn lựa ban đầy ơn sủng. Đức Maria như bình gốm được Thiên Chúa tác thành theo thánh ý của Ngài. Đức Maria là một thụ tạo tuyệt vời để cộng tác vào công trình cứu độ. Mẹ đã cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế đã đến với đoàn dân của Ngài nhưng họ đã không nhận biết Ngài. Ngài đã hoàn thành mọi lời đã tiên báo và đã đi trọn con đường dâng hiến theo thánh ý của Chúa Cha. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã ghi: Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10, 7). Sách Thánh này bao gồm toàn bộ những sách đã được linh ứng viết ra. Mỗi một cuốn sách dù dài hay ngắn đều có liên quan đến sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Công trình cứu độ được thực hiện qua sự hiến tế của Con Người là Đức Kitô, Đấng được xức dầu.Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ (Dt 10, 10). Chúa Kitô đã đổ ra giọt máu cuối cùng để dâng lễ hy tế trên thánh giá. Lễ hiến dâng toàn vẹn bằng chính sự sống.
Cử hành Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta suy niệm về Mầu Nhiệm Con Chúa giáng thế làm Người. Chúa đã giáng trần tại Belem cách đây hơn 2000 năm rồi. Đây là biến cố duy nhất xảy ra trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu Kitô đã thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu đã khiêm hạ bước xuống cùng tận cuộc đời. Chúa đã sống chung với các môn đệ nghèo hèn là những người lao động chài lưới và ít học. Chúa đã đi khắp các nẻo đường để gieo rắc tin mừng tình thương và chữa lành những tâm hồn dập nát đau thương. Chúa đã giao hòa con người tội lỗi và ban cho quyền làm con Thiên Chúa. Chúa đã học vâng phục và vâng phục cho đến cùng. Chúa Giêsu nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới (Dt 10. 9).
Lạy Chúa, biết bao lần con đã thề hứa sẽ sống đạo tốt và sống theo thánh ý Chúa. Rồi biết bao lần chúng con đã lại sa ngã, chối từ và tìm theo ý riêng mình. Xin Chúa ban ơn đảm để chúng con biết nói lời xin vâng và sống tín thác như Đức Maria. Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhativmuavong