CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MẸ ĐẦY ÂN PHÚC – Đức TGM Giuse Vũ Văn Thiên.. 10
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA- Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt 14
TIẾNG XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 20
MẸ MÂN CÔI – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 36
LỢI ÍCH VIỆC LẦN CHUỖI MÂN CÔI– Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang 43
NỮ TÌ CỦA CHÚA- Lm. Fx. Hồ Văn Uyển.. 49
MẸ ĐẦY ƠN PHÚC– Lm. Giuse Phan Văn Quyền.. 54
HIỆU LỰC CỦA KINH MÂN CÔI- Lm. Đan Vinh HHTM.. 59
MẸ MÂN CÔI- Lm. Phaolô Nguyễn Nguyên.. 72
HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH MÂN CÔI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 75
CHUỖI MÂN CÔI CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA- Lm. Trầm Phúc.. 79
MẸ MÂN CÔI- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc.. 86
TRÀNG HẠT MÂN CÔI ĐƯA TÔI VỀ TRỜI- Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa 92
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ”.
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: “Ngươi đang ở đâu?” Ông đã thưa: “Con đã nghe thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp”.
Chúa phán bảo ông rằng: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?” Ađam thưa lại:”Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái cây và con đã ăn”. Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: “Tại sao ngươi đã làm điều đó?” Người phụ nữ thưa:”Con rắn đã lừa dối con và con đã ăn”.
Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: “Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người”.
Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8
Ðáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Ðấng Cứu độ tôi
Xướng: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi.
Xướng: Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn.-
Xướng: Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao.
Xướng: Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.
Bài Ðọc II: Rm 5, 12. 17-19
“Nơi nào tội lỗi đầy tràn, thì Người ban ơn thánh dư dật”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô. Do đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 1, 28
Alleluia, alleluia! – Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
“Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó là lời Chúa.
HỠI MARIA, HÃY VUI LÊN (*)- Radio Veritas Asia
“Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: “Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng “Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ ĐẦY ÂN PHÚC – Đức TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”.
Nhờ nhạc phẩm “Ave Maria”, tên tuổi của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert được cả thế giới biết đến. Tuyệt tác của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều danh ca nhờ bài thánh ca này mà được nổi danh ở tầm mức quốc tế. Thật tuyệt vời khi thấy Đức Trinh nữ Maria được ca tụng tôn vinh qua bài ca này. Từ những đại nhạc hội hàng ngàn hàng vạn thính giả, đến những nghệ sĩ violon hát rong ngoài đường phố, tất cả đều ca lên lời chào Đức Trinh nữ Maria: Mẹ đầy ơn phúc. Từ những tín hữu đạo đức đến những người vô tín ngưỡng, tất cả đều chăm chú cảm nhận những lời ca và âm điệu ngọt ngào của bài thánh ca để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”. Qua lời chào kính trọng ấy, thiên sứ tỏ bày sự cung kính trước người phụ nữ được Chúa chọn làm thân mẫu của Ngôi Lời nhập thể. Khi muốn cứu chuộc con người, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ. Ngài đã chọn Đức Trinh nữ Maria như một “điểm đỗ” để Con của Ngài giáng trần. Thánh Luca đã diễn tả cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy, là một cuộc gặp gỡ giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa cao cả và con người phàm trần. Trinh nữ Maria đã thưa lời “Xin vâng” để mở lòng đón nhận Ngôi Lời nhập thể. Với lời thưa “Xin vâng” của Mẹ, Con Thiên Chúa đã đến thế gian, khởi đầu công cuộc cứu độ loài người.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, trước hết là lời kinh ca ngợi. Chúng ta hợp lời với sứ thần chào kính và ca tụng thiên chức cao cả của Đức Mẹ. Mẹ là người được Thiên Chúa chọn lựa trong muôn người, để làm ngai tòa cho Đấng Cứu thế ngự khi đến trần gian, mặc lấy thân phận con người. Lời Mẹ nói tiên tri về chính mình nay đã được thực hiện: “Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 2,48). Qua cuộc đời của Mẹ, chúng ta ca tụng quyền năng vô biên của Thiên Chúa, đã thực hiện những việc lạ lùng. Mẹ được tôn vinh làm Nữ Vương trời đất, cùng với Đức Giêsu là Vua Vũ trụ để chúc phúc cho muôn loài.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của niềm phó thác cậy trông. Khi lần hạt Mân Côi, chúng ta xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta được những ơn lành phần hồn phần xác, nhất là được ơn trung thành như Đức Mẹ. Lời kinh thấm nhập mỗi con tim, diễn tả tâm tư trìu mến của chúng ta dành cho Mẹ. Lời kinh đem lại sự ngọt ngào mỗi khi chúng ta âu sầu đau khổ; đem lại hy vọng mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thất bại; đem lại niềm vui mỗi khi chúng ta buồn bã; đem lại sức mạnh mỗi khi chúng ta yếu đuối; đem lại sự đỡ nâng mỗi khi chúng ta có nguy cơ gục ngã trên đường đời. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, đó là lời cầu nguyện của Giáo Hội, cũng là lời cầu nguyện của mỗi con tim, xin Đức Mẹ bầu cử cho chúng ta đang còn bước đi trong cuộc sống dương gian đầy gian nan thử thách. “Kinh Mân côi không những kéo ơn trên trời xuống cho tội nhân, khiến họ mau mắn về với Mẹ, nhưng còn làm cho họ đứng vững trên con đường sùng kính mến yêu Mẹ. Nơi nào đông người chuyên chăm lần hạt, nơi ấy giáo hữu tiến nhanh trên đường thánh thiện, trái lại nơi nào thờ ơ, giáo hữu sẽ lâm vào tình trạng hư hỏng” (Thánh Grignion de Monfort).
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của tâm tình hiếu thảo chúng ta dâng lên Mẹ Thiên Chúa. Có người thắc mắc tại sao phải lặp đi lặp lại nhiều lần kinh Kính mừng khi lần hạt Mân Côi. Điều đó thật dễ hiểu! Người con hiếu thảo nào cũng muốn nói ngàn lần lời yêu thương với cha mẹ mình mà vẫn chưa đủ. Ngôn ngữ diễn tả tình yêu giống như dòng sông tuôn chảy mãi không dừng, cũng thế, những lời chào kính Đức Mẹ dù có lặp đi lặp lại là bằng chứng của tình mến chúng ta dành cho Đức Mẹ. Kinh Mân Côi sẽ giúp khơi nguồn dòng chảy yêu thương từ nơi Đức Mẹ đến với chúng ta.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, mỗi lời kinh là một bước đường đời dẫn ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta nên giống Chúa. Bởi lẽ kinh Kính mừng được đọc trong tâm tình suy niệm, chiêm ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu thế, từ ngày Truyền tin cho đến khi Người sống lại và lên trời vinh quang. Mỗi bước đường của chúng ta đều có Đức Mẹ đồng hành. Mỗi lối đi dương thế đều có Chúa dẫn đưa. Đó là giá trị của Kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện được chính Đức Mẹ khuyến khích. Quả vậy, khi hiện ra ở Lộ Đức cũng như ở Phatima, Đức Mẹ đã cùng lần hạt với các thị nhân, trong tình thân thương trìu mến. Vì thế, tượng Đức Mẹ được trình bày tại hai nơi thánh địa này đều có cỗ tràng hạt nơi tay của Đức Mẹ. “Hãy siêng năng lần hạt”, đó còn là lệnh truyền của Đức Mẹ khi hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Phatima năm 1917.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, ước chi lời kinh này luôn vang lên nơi môi miệng chúng ta, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, nhờ đó, chúng ta luôn được Đức Mẹ phù hộ độ trì. Nhờ Mẹ và qua Mẹ, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và đạt được sự sống đời đời.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA- Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
TIẾNG XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử nầy mà Đức Giê-su đã trao phó cho người Mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần chăm lo Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).
Mỗi lần chúng ta lần tràng chuổi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời nầy ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẳm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mầng).
Cv 1: 12-14
Sau khi chứng kiến Đức Giê-su lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Ma-ri-a đã ở bên Giáo Hội với trọn tấm lòng hiền mẫu.
Gl 4: 4-7
Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời nầy được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo nên người nữ.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 12-14)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy được định vị vào trong bối cảnh: sau khi chứng kiến việc Đức Giê-su khuất dạng trong đám mây trời, các Tông Đồ liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giả các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
1/.Trở về nhà, các Tông Đồ lên lầu trên:
Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giê-su. Như vậy nơi mà Đức Giê-su cử hành Thánh Lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.
2/.Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó:
Việc kể tên mười một Tông Đồ nêu lên một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ nầy như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.
3/.Chuyên tâm cầu nguyện:
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.
4/.Mấy người phụ nữ cùng với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su:
Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giê-su: “Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước Đức Trinh Nữ được kể ra. Sau biến cố nầy, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Ki-tô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giê-su, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.
Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Ma-ri-a cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thánh Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ nầy gợi nhớ hoạt cảnh trên thánh giá ở đó Đức Giê-su đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ Giáo Hội của Ngài khi nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà”, và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).
5/.Anh em của Đức Giê-su:
Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giê-su, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc nầy. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (x. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, ông Giô-xết, ông Giu-đa và ông Si-môn (Mc 6: 3).
Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giê-su ở phòng Tiệc Ly vào lúc nầy chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giê-su. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Họ đã thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Các Ki-tô hữu Ga-lát bị những người Ki-tô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Ki-tô hữu gốc Do thái nầy muốn đưa vào trong Ki-tô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì, luật Mô-sê. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giê-su, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.
1/.Con Thiên Chúa làm con của loài người (4: 4-5):
Thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giê-su: “Khi thời gian đến hồi viên mãn”. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Ki-tô.
Ở nơi kiểu nói: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”, động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa.
Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. Ở nơi kiểu nói: “Sinh làm con một người đàn bà”, động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giê-su đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói nầy bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giê-su chịu phục tòng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
2/.Để con người trở thành con Thiên Chúa (4: 6-7):
Câu nói: “Để chứng thực anh em là con cái”, bắt đầu với giới từ “hoti” có thể được hiểu theo hai cách: “vì” (nguyên nhân) hay “nên” (kết quả). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Ki-tô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Ki-tô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ nầy theo nghĩa “nên anh em là con cái” hơn.
Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Thánh Thần, người Ki-tô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Ki-tô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương nầy. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)
Sự kiện Ngôi Lời nhập thể tạo nên mối liên hệ sâu thẳm nhất giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Con Thiên Chúa trở thành phàm nhân và sẽ mãi mãi như vậy. Đó là tinh Chúa yêu thương trải rộng cho đến tất cả chúng ta. Tuy nhiên vào ngày Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận nhân tính mõng dòn trong cung lòng thanh sạch của Đức Trinh nữ Ma-ri-a, tất cả đã xảy ra một cách nhanh chóng, không bất kỳ nghi lễ nào. Thánh Lu-ca kể câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a hết sức giản dị. Chúng ta nên trân trọng gìn giữ những lời Thiên Chúa này và thường hằng suy niệm chúng, chẳng hạn như đọc kinh Truyền Tin và suy niệm Năm Sự Vui.
1/.Bối cảnh (1: 26-27):
Thánh Lu-ca dàn dựng hai chuyện tích “Truyền Tin” thành bức tranh bộ đôi đối xứng nhưng tương phản. Chuyện tích “Truyền Tin cho ông Da-ca-ri-a” xảy ra trong bầu khí Phụng Vụ thánh thiêng tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem khi ông đang thi hành tác vụ Tư Tế của mình. Chuyện tích “Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a” xảy ra khi Mẹ đang làm những công việc thường ngày của mình tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét hẻo lánh nghèo nàn. Tư tế Da-ca-ri-a cao niên, đại diện Cựu Ước, đón nhận tin vui: ông được Thiên Chúa chọn làm cha của Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ giao thoa giữa Cựu Ước và Tân Ước. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trẻ trung, đại diện Tân Ước, đón nhận tin vui: Mẹ được chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, nơi Ngài Thiên Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã mô tả dáng vẻ bên ngoài giản dị, nhưng đời sống đức tin sâu thẳm của Mẹ: “Mẹ làm những việc tầm thường cách phi thường” (“Faire des choses ordinaires d’une manière extraordinaire”).
2/.Cuộc đối thoại giữa Sứ Thần và Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (1: 28-37):
Trong hai câu chuyện “Truyền Tin”, điều căn bản là cuộc đối thoại trong đó sứ điệp cốt yếu được trao ban, còn phần hình ảnh cho thấy bị giới hạn chặt chẽ vào sứ điệp này. Cuộc đối thoại được dùng để trao ban Mặc Khải trong khi phần hình ảnh được dùng chỉ để chuyển tải Mặc Khải.
A/.Mặc khải về nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su (1: 28-33):
Cuộc đối thoại bắt đầu với lời chào của sứ thần, ca ngợi những ân phúc mà Thiên Chúa ban cho Mẹ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nhưng lời chào này thật khác thường, người Do thái thường chào nhau: “Bình an”, như Chúa Giê-su Phục Sinh chào các môn đệ: “Bình an cho anh em” (Ga 20: 19). Vì thế, Mẹ thắc mắc muốn biết lời chào ấy có nghĩa gì.
Câu hỏi này là dịp để sứ thần mặc khải nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su bằng cách nhắc cho Mẹ nhớ lại những sấm ngôn của các ngôn sứ thời xưa, đặc biệt là sấm ngôn của ngôn sứ Na-than, về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít mà Thiên Chúa sẽ ban ngai vàng và triều đại vô cùng vô tận.
A/.Mặc khải về nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su (1: 34-37):
Vốn thông thạo Kinh Thánh, Đức Ma-ri-a nhận ra rằng Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Mê-si-a, Đấng mà dân tộc cô đang mong đợi. Nhưng theo Kinh Thánh, lời Thiên Chúa cũng là sự kiện và biến cố mà lời ấy diễn tả. Ấy vậy, hiện nay Mẹ vẫn đồng trinh, chưa chung sống với vị hôn phu tương lai của Mẹ, vì thế Mẹ nêu lên câu hỏi:“Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”.
Vấn nạn này tạo cơ hội cho sứ thần mặc khải cho Mẹ biết nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ. Câu trả lời của sứ thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (1: 35) gồm ba vế, qua mỗi vế sứ thần sẽ mặc khải dần dần nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su.
-Vế thứ nhất: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” gợi nhớ bài trình thuật của sách Sáng Thế, theo đó Thánh Thần bay lượn trên mặt nước đem lại sự sống cho muôn loài muôn vật (St 1: 2), giờ đây Ngài ngự xuống trên Đức Trinh Nữ Ma-ri-a để tạo nên hình hài con trẻ trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Vì thế, việc Đức Ma-ri-a thụ thai và sinh con là do quyền năng Chúa Thánh Thần chứ không do sự can dự của nam nhân.
-Vế thứ hai “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” gợi nhớ hình ảnh “đám mây rợp bóng” trên Lều Hội Ngộ (Xh 40: 35) hay Hòm Bia Giao Ước (Ds 9: 18; 10: 34). Hình ảnh đám mây là dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện vừa bất khả đạt vừa hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Qua kiểu nói này, sứ thần sánh ví Đức Ma-ri-a với Lều Hội Ngộ hay Hòm Bia Giao Ước, nơi Thiên Chúa sẽ ngự đến và hiện diện vừa siêu việt vừa gần gũi giữa dân Ngài nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao.
-Về thứ ba: “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” là câu kết luận được rút ra từ hai vế trên. Sứ thần khẳng định rằng người Con mà Đức Trinh Nữ sinh ra không là Nghĩa Tử của Thiên Chúa, nghĩa là một hậu duệ của vua Đa-vít được Thiên Chúa chọn và ban cho vương quyền của vua Đa-vít, nhưng là “Đấng Thánh”. Vì thế, Người đích thực là Con Thiên Chúa nhập thể hoàn toàn do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Để bảo đảm tính xác thực sứ điệp của mình, sứ thần còn cho Đức Ma-ri-a một dấu chỉ: bà Ê-li-sa-bét, người chị họ của Mẹ, vốn là son sẻ và cao niên nay đã có thai. Dù cho một dấu chỉ, nhưng sứ thần biết rất rõ việc một người mẹ đồng trinh thụ thai và sinh hạ một người con chưa bao giờ xảy ra ngay cả trong lịch sử cứu độ. Điều này hoàn toàn khác với trường hợp của ông Da-ca-ri-a, chồng của bà Ê-li-sa-bét, ông biết rõ trường hợp của Áp-ra-ham giống như trường hợp của ông. Vì thế, để thuyết phục Mẹ, sứ thần viện dẫn quyền năng của Thiên Chúa: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
3/.Tiếng Xin Vâng của Đức Ma-ri-a (1: 38):
Đến lúc này, dù không thể nào hiểu tường tận công việc khôn dò của Thiên Chúa, Mẹ đã đáp trả với trọn niềm tin tưởng và phó thác: “Vâng, tôi đây là tớ nữ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Đức Ma-ri-a là khuôn mẫu cho bất kỳ cuộc đối thoại nào giữa Thiên Chúa và con người. Về phía Thiên Chúa, Ngài đã hoạch định một chương trình dài lâu để cứu độ loài người. Tuy vậy, khi đến hồi viên mãn, Ngài cần đến sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a, nhưng không ép buộc, mà ngỏ lời, đề nghị, mời gọi Mẹ cộng tác với Ngài vào công trình này. Điều này cho thấy Ngài tôn trọng sự tự do của con người mà Ngài đã tạo nên như tuyệt đỉnh công trình tạo dựng của Ngài khi ban cho con người khối óc và con tim. Ngài mời gọi con người biết sử dụng khối óc để hiểu biết và con tim để yêu mến. Vì thế, Ngài đã gặp thấy ở nơi Đức Ma-ri-a lời đáp trả xin vâng tròn đầy của cả khối óc lẫn con tim của Mẹ. Rất nhiều điều con người tưởng không thể làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Người đã làm cho bà Ê-li-sa-bét hiếm muộn và cao niên mà có thể sinh con, Người có thể làm cho Đức Ma-ri-a sinh hạ Đấng Cứu Thế mà vẫn đồng trinh. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Người hoạt động trong chúng ta.
Về phía Đức Ma-ri-a, lời xin vâng của Đức Ma-ri-a là kết quả của một cuộc đối thoại cởi mở, trong đó Mẹ đã thẳng thắn nêu lên những gì Mẹ không hiểu mà không một chút sợ hãi, cho đến khi chạm đến mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa vượt quá khả năng hiểu biết của Mẹ. Chỉ khi đó Mẹ mới đáp trả xin vâng tròn đầy niềm tin tưởng và phó thác của mình vào quyền năng của Chúa. Công Đồng Vatican II đã ca ngợi tiếng xin vâng của Mẹ: “Đức Ma-ri-a không phải chỉ là một dụng cụ hoàn toàn thụ động trong tay Thiên Chúa, nhưng đã cộng tác tích cực vào việc cứu độ nhân loại, nhờ tin và vâng phục trong tự do” (LG, 56).
Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, xin mượn lời của thánh Escriva: “Ở nơi Đức Ma-ri-a chúng ta không gặp thấy bất kỳ dấu vết của các trinh nữ khờ dại, họ vâng lời mà không suy nghĩ. Đức Ma-ri-a chăm chú lắng nghe những gì Thiên Chúa muốn, trăn trở với những gì Mẹ không hiểu và hỏi cho ra lẽ những gì Mẹ không biết. Sau đó Mẹ phó thác hoàn toàn vào ý muốn của Thiên Chúa: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói’. Đó không là kỳ diệu sao? Lạy Đức Trinh Nữ, thầy dạy của chúng con trong tất cả những gì chúng con làm, xin hãy chỉ cho chúng con biết rằng vâng phục Thiên Chúa không là quỵ lụy, không tránh né tiếng nói lương tâm của mình. Chúng con phải đi vào trong lòng mình để khám phá ‘sự tự do của con cái Chúa’ (x. Rm 8: 21)” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 173).
(*) Tựa đề do BTT. GPBR đặt
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ MÂN CÔI – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
LỢI ÍCH VIỆC LẦN CHUỖI MÂN CÔI– Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Đức Thánh Cha Phanxicô của chúng ta rất yêu mến Đức Mẹ qua việc lần chuỗi Mân Côi. Cụ thể, ngày 13-3-2013 Ngài được bầu làm Giáo Hoàng, thì sáng ngày 14-3, Ngài đến tượng ảnh Đức Mẹ Che Chở Dân Rôma để lần chuỗi Mân Côi và cầu nguyện để dâng cả triều đại giáo hoàng của Ngài cho Đức Mẹ. Năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn ngay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi ngày khai mạc thượng Hội Đồng Thế Giới về gia đình, dĩ nhiên trước đó, Ngài kêu gọi mọi thành phần dân Chúa hãy đọc kinh Mân Côi. Và rồi mới đây, 12-5-2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Fatima, Bồ đào nha, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra với 3 mục đồng tại đây: Lucia, Phanxicô và Giacinta. Đây là chuyến viếng thăm thứ 19 của Đức Thánh Cha tại nước ngoài. Nhưng đây là lần đầu tiên, chuyến viếng thăm của ngài hoàn toàn là một cuộc hành hương không có những hoạt động gì khác, chỉ có cầu nguyện với Đức Mẹ Fatima qua việc lần hạt Mân Côi và dâng Thánh Lễ. Hôm đó, Ngài đã đến trước tượng Đức Mẹ Fatima tại Nhà nguyện Hiện Ra, Đức Thánh Cha quỳ cầu nguyện rằng: “Lạy Nữ Vương, là Đức Trinh Nữ Fatima, là Mẹ Khiết Tâm, là nơi nương náu và là đường dẫn đến Thiên Chúa! Như người lữ hành theo Ánh sáng tỏa lan từ bàn tay Mẹ, con cảm tạ Chúa Cha, Đấng qua mọi nơi và mọi thời, vẫn hoạt động trong lịch sử nhân loại; Như người lữ hành của nền hòa bình mà Mẹ đã loan báo tại nơi này, con chúc tụng Chúa Kitô, là an bình của chúng con, và con cầu xin ơn hòa hợp giữa mọi dân nước trong thế giới này; như người lữ hành của niềm hy vọng mà Chúa Thánh Linh khích lệ, con muốn là một ngôn sứ và là sứ giả rửa chân cho mọi người, tại bàn ăn liên kết tất cả chúng con nên một”.
Ai trong chúng ta cũng yêu mến và quí trọng người Đức Mẹ, vì tình mẫu tử của Đức Mẹ Maria Mân côi dành cho mỗi người chúng ta dạt dào và êm ái biết là ngần nào? Cụ thể, trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria thưa “Xin Vâng” với Chúa, có nghĩa rằng Mẹ phó thác cuộc đời của Mẹ vào lòng thương xót của Chúa. Với hai tiếng xin vâng, Mẹ sẵn sàng cưu mang, sinh hạ, chăm sóc con Mẹ là Chúa Giêsu và đồng lao cộng khổ với Con Mẹ để đàn con Mẹ là chúng ta nhờ Chúa Giêsu mà được cứu độ. Nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, và Chúa Giêsu Kitô là Anh Hai của chúng ta, và những đứa em của Chúa Giêsu là chúng ta cũng được thừa kế gia nghiệp trên thiên quốc vĩnh hằng mà Thiên Chúa dành sẵn cho chúng ta (Gl 4,7).
Trên trần gian Đức Mẹ đã chăm sóc Chúa Giêsu thế nào, thì ngày nay trên Thiên đàng, Mẹ Maria cũng chăm sóc chúng ta như thế. Đức Mẹ chăm sóc chúng ta bằng nhiều cách trong đó có việc Lần Hạt Mân Côi. Vì vậy, qua việc đọc kinh Hạt Mân Côi, trước hết, Mẹ sẽ cầu bầu và che chở chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Qủa thế, ai ai trong chúng ta cũng đều cảm nghiệm được tình Mẹ Maria dành cho chúng ta khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi thành công cũng như thất bại, khi yêu cũng khi cô đơn, khi có gia đình cũng như khi đi tu. Cho nên, đã là người Công Giáo dù ở đâu, đi xe hay đi tàu, đi chợ hay đi học, ở bệnh viện hay ở nhà…., bất cứ lúc nào người ta cũng đọc Kinh Mân Côi. Vì bất cứ khi nào đọc Kinh Mân Côi, chúng ta cảm thấy có một sự ủi an và sức mạnh siêu nhiên làm cho tinh thần mình phấn khởi, không còn lo lắng sợ sệt… và nguồn đó chính là sự cầu bầu và chở che của Mẹ Maria. Vâng, chính tôi đã kinh qua và cảm nghiệm được điều này. Cụ thể, năm 2010, tôi bị tai nạn và bệnh rất nặng, khi nhập viện, bác sĩ bắt phải chụp MR 2 hai tiếng đồng hồ. Trong lúc nằm trong phòng chụp MR một mình, hai bên toàn là điện và máy móc cứ chạy phà phà, tôi nghĩ bụng nếu có chập điện hay sự cố gì thì mình chết tươi vì phòng này cắt ly hoàn toàn với bên ngoài, tôi bắt đầu lo sợ. Nhưng khi nằm lên gường và máy bắt đầu chạy thì tôi cũng bắt đầu đọc Kinh Mân Côi suốt hai tiếng đồng hồ. Điều đáng ngạc nhiên đối với bác sĩ rằng hầu như ít có người nào chụp MR lâu như tôi, mà nếu có thì ra là họ điều xỉu, yếu ớt cả nhưng tôi thì không vẫn bình thường vui vẻ cười nói tỉnh khô. Từ đó tôi cảm nghiệm rằng lợi ích của việc đọc Kinh Mân Côi không chỉ để yêu mến mà còn để cùng Mẹ thưa xin vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và cùng với Mẹ cầu nguyện có Chúa đỡ nâng, an ủi và giúp sức cho chúng ta chịu đựng tất cả trong bình an.
Lợi ích thứ hai của việc đọc kinh Mân Côi, Đức Mẹ sẽ giúp chúng ta học và hành bài học yêu thương và tha thứ của Mẹ. Vâng, sau khi thưa hai tiếng xin vâng, Mẹ chịu nhiều đau khổ, chịu người ta sỉ vả, chửi bới… ấy thế Mẹ không một lời oán trách, căm thù, ngược lại, Mẹ yêu thương và tha thứ tất cả, cho nên, gẫm thứ hai trong Kinh mân Côi Mùa Vui, chúng ta đọc: thứ ba thì gẫm, Đức Bà đi viếng bà Thánh Isave, ta hãy xin cho được lòng yêu người như Đức Mẹ là vậy. Năm nay là năm mà các Đức Giám Mục mời gọi các bạn trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân gia đình, đặc biệt là các gia đình Công giáo hãy thể hiện ơn gọi yêu thương và sứ vụ thương xót ngay trong gia đình của mình. Vì vậy, học gương Mẹ Maria Mân Côi, chúng ta hãy thực hiện điều này ngay trong gia đình của mình vì gia đình là nơi những thành viên liên kết với nhau trong tình yêu máu mủ. Nói đến máu mủ là nói đến sự sống, sự sống tồn tại được là nhờ tình yêu và thương xót nhau. Nhưng trong thực tế, ngày nay đời sống vợ chồng còn gặp khó khăn trong tình yêu, mọi thành viên trong gia đình xào xáo nhau, hạnh phúc gia đình bất ổn… Hôm nay, chúng ta học gương Mẹ và nghe lời Mẹ dặn rằng: HÃY SIÊNG NĂN LẦN HẠT MÂN CÔI để sống tình yêu thương, tha thứ và chung thủy với nhau vì có Mẹ ở với gia đình chúng ta sẽ giúp gia đình chúng ta vượt qua tất cả như lời kinh Lạy Nữ Vương gia đình chúng ta thường đọc mỗi tối: Lạy Nữ Vương gia đình, Mẹ ở đây với chúng con, vui buồn sướng khổ, Mẹ con cùng nhau chia sẻ. Xa Mẹ chúng con biết cậy trông ai. Đời chúng con gian nan khổ sở lắm, gia đình chúng con long đong tối ngày, nhưng có Mẹ ở bên chúng con, chúng con thấy quên hết ưu phiền, vui sống qua kiếp lưu đày, mong ngày sau sung sướng cùng Mẹ muôn đời trên thiên đàng. Amen.
Cuối cùng, lần hạt Mân Côi sẽ giúp chúng ta cùng với Mẹ đón nhận đau khổ hay khó khăn trong tinh thần đức tin. Vâng, chúng ta đọc “Năm Sự Vui” thứ 3 thì gẫm: “Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá, ta hãy xin cho được lòng khó khăn”. Qủa thế, cuộc đời Đức Mẹ không thiếu những khó khăn và đầy ấp những đau khổ, đặc biệt khi đứng dưới chân thập giá nhìn Con chết tức tưởi nhưng Mẹ đón nhận trong tinh thần phó dâng và tín thác. Cuộc đời của chúng ta, có ai mà không có đau khổ, nước mắt nhiều hơn nụ cười và phiền muộn nhiều hơn hạnh phúc. Không gia đình nào trong chúng ta mà không có đau khổ, khó khăn, mỗi nhà một cách mỗi người một vẻ. Chúa không muốn chúng ta hay gia đình chúng ta phải đau khổ, khó khăn, Chúa muốn chúng ta hạnh phúc. Nhưng những đau khổ hay khó khăn nó đến là vì giới hạn của con người: sinh lão bệnh tử hay có thất bại có thành công. Cho nên, Chúa ban cho chúng ta nhiều phương thế để vượt qua những thử thách đó trong đó có Kinh Mân Côi, nhờ Đức Mẹ cầu thay nguyện giúp chúng ta. Nếu chúng ta vượt qua được thì tạ ơn Chúa. Nếu chưa qua được, Mẹ sẽ giúp chúng ta đón nhận đau khổ trong tinh thần đức tin để cầu nguyện cho cho gia đình, cho con cái, cho Giáo xứ, cho Giáo phận của mình biết trung tín và tín thác vào lòng Chúa xót thương.
Ước gì, qua Thánh lễ này, suốt trong tháng Mân Côi này, xin mỗi gia đình hãy siêng năng lần hạt Mân Côi để cùng vời Mẹ dâng lên Chúa những hạt kinh của các ngày sống qua từng thời kỳ của mùa Vui, Thương, Mừng để ơn Chúa tuôn đổ xuống từng người trong gia đình đồng thời mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
NỮ TÌ CỦA CHÚA- Lm. Fx. Hồ Văn Uyển
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Ngày xưa, ông bà chúng ta thường nói rằng: “Lấy vợ xem tông; Lấy chồng xem giống.” Việc dựng vợ gã chồng đối với con người rất hệ trọng. Vì đó là yếu tố quyết định sự tồn vong của một dòng tộc. Cho nên các bậc cha mẹ xem xét rất kỹ trước khi quyết định cho con cái mình nên vợ nên chồng với người của dòng tộc kia. Ở đây thật là khập khiễn, nếu so sánh cách hành xử của con người như vừa nói với việc Thiên Chúa tuyển chọn cho Con mình một người Mẹ. Song một khía cạnh nào đó, chúng ta thấy việc “chọn mặt gửi vàng” của Thiên Chúa cũng như nơi con người chúng ta rất quan trọng. Vì thế, khi cho Con Một của mình nhập thể trong trần thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn cho Người một người Mẹ thật xứng đáng. Và dĩ nhiên, người Mẹ ấy không phải là một pho tượng đã được nắn đúc, gọt dũa sẵn sàng như chúng ta ca tụng sau nầy, mà người mẹ ấy là một con người như bao nhiều người khác, trừ tội nguyên tổ. Song Mẹ đã vượt qua chính mình khi thưa hai tiếng “Xin Vâng”, để nhập cuộc vào trong công trình cứu độ của Con mình ngay từ giây phút đó. Kể từ ngày đó, Đức Maria đã sống hành trình đức tin của mình. Xin vâng rồi không phải để đó mà phải Sống, phải bỏ ý riêng của mình để sống cho sứ mạng mình xin vâng. Đây chính là bài học cho đời sống đạo của chúng ta hôm nay.
Kính thưa anh chị em, kể từ ngày Mẹ nói xin vâng, bao biến cố đã xảy đến trong cuộc đời Mẹ, những biến cố đi ngược lại ý muốn và sức chịu đựng của một con người bình thường. Mẹ đã đón nhận tất cả với tin yêu và phó thác.
Trước hết là với thánh Giuse, người thân, người bạn đời trăm năm của Mẹ. Khi biết Đức Maria mang thai trước khi hai người về chung sống, Giuse đau khổ lắm, chắc cũng nhiều đêm trằn trọc không ngủ. Dẫu không muốn tố giác Đức Maria, vì Giuse vẫn yêu Mẹ và ngài lại là người công chính, song Giuse đã định tâm chia tay với Đức Maria cách kín đáo và nhẹ nhàn. Đức Maria cũng đau khổ lắm khi nhìn thái độ của Giuse, nhưng Mẹ không thể giải thích được. Mẹ đành phó thác cho Chúa.
Đến việc sinh con, tâm lý chung của người nữ lần đầu làm mẹ là: hạnh phúc, vui mừng và lo sợ lẫn lộn. Hạnh phúc vì được làm mẹ; vui mừng vì gia đình có thêm một thành viên mới; lo lắng chuẩn bị chu đáo những thứ cần thiết nhất cho bản thân và đặc biệt cho người con sắp chào đời; sợ vì không biết người con sẽ ra đời hình hài thế nào đây… Còn đối với Đức Maria thật đau khổ, sinh con ra trong một cái hang súc vật bò lừa, không một mãnh áo che thân, không một cục than sưởi ấm giữa đêm đông băng giá. Có người mẹ, người cha nào mà không tủi cho thân phận mình trong hoàn cảnh đó! Mẹ đã đón nhận với tất cả.
Vẫn chưa yên, kẻ sát nhân và khát máu, vua Hêrôđê, đang tìm hại con trẻ Giêsu. Mới có mấy ngày, không than không lửa, mẹ yếu con non, vậy mà phải vất vả vượt dặm đường xa trong sa mạc, lưu lạc ở đất khách quê người để bảo vệ sự an toàn cho con. Đó, Mẹ đang ôm trong tay mình Con Thiên Chúa. Mẹ nghĩ sao khi phải lao đao như vậy? Đau khổ lắm. Mẹ vẫn chịu.
Con đến tuổi hoa niên, tuổi 12, tuổi năng động, tuổi đuổi bướm bắt chim, gia đình được trở về nguyên quán. Mọi người mừng mừng tủi tủi gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng sau những năm tháng nghìn trùng xa cách. Rồi ai cũng phải lo bổn phận của mình trong cuộc sống đời thường, đặc biệt trong bổn phận tôn giáo. Chắc mẹ vui mừng và hãnh diện lắm vì lần đầu tiên con trai của mình đi làm bổn phận: hành hương về thành thánh theo luật Mô-sê. Nhưng điều trớ triêu đã xảy ra: mẹ con lạc mất nhau. Hỏi còn gì đau khổ hơn đối với người mẹ cho bằng việc lạc mất con. Sau ba ngày mới tìm gặp lại con. Ba ngày sống trong tâm trạng đau khổ và lo lắng chắc chúng ta cũng đã hiểu nỗi lòng của Mẹ. Mẹ vẫn tin vào Thiên Chúa.
Rồi những ngày Con bước vào đời, lên đường thi hành sứ mạng của mình: loan báo Tin Vui Cứu Độ cho mọi người. Kinh Thánh không cho chúng ta biết rõ Mẹ có theo Chúa Giêsu khi Ngài đi rao giảng hay không, nhưng có điều chắc chắn: Mẹ luôn theo dõi từng nhịp bước Con đi, luôn lắng nghe những điều Con nói và biết những việc Con mình làm. Mẹ biết sứ mạng của Con mình. Phần dân chúng kẻ thì khen, người thì chê, phần thì theo, nhóm thì chống, đặc biệt, lòng Mẹ rối bời và đau khổ vô ngần khi người ta bảo với Mẹ: Con Mẹ bị điên, phải đi tìm đưa về. Mẹ phải nói sao để cho người ta hiểu được sứ vụ mà Con Mẹ đang thi hành đây. Mẹ cũng dâng cho Thiên Chúa.
Và chuyện gì đến đã đến, trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, chắc Mẹ cũng biết và hiểu rất rõ những thế lực đã chống đối Con mình rất mãnh liệt. Mẹ vẫn biết có những kẻ muốn thủ tiêu Con mình vì Con mình dám nói sự thật. Đó là sứ mạng của Ngài mà, Mẹ nói làm sao được. Và khi sự chống đối đã lên đến cực độ, người ta đã tìm cách và bắt Con Mẹ. Mẹ đã chứng kiến thân hình tiều tuỵ của con: bị đánh đập rách nát bầm tím tả tơi. Còn đâu thân hình cân đối vạm vỡ của con ngày trước nữa! Rồi Mẹ lại lê từng bước chân tiều tuỵ của mình để theo con lên đỉnh Núi Sọ. Ở đây Mẹ lại phải chứng kiến cảnh Con bị đóng đinh một cách tàn nhẫn vào cây thập giá rồi treo cao lơ lửng giữa trời và đất. Con Mẹ có làm gì nên tội đâu mà phải chết một cách tủi nhục như tên tử tội! Rồi Mẹ chứng kiến những giây phút trút hơi thở của con mình. Mẹ Maria cũng giống như bao người mẹ trần gian nào, nhưng thử hỏi có người mẹ trần gian nào đã phải chịu đựng nỗi đau như Ngài không? Mẹ của Con Thiên Chúa đó.
Và đó chính là nguyên nhân của những nét đẹp nơi Mẹ, mà ngày nay chúng ta ca tụng. Nhờ chấp nhận thánh ý Thiên Chúa và sống trọn vẹn hai tiếng “Xin vâng” mà Đức Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc.
Mừng lễ Mẹ Mân côi là dịp nhắc chúng ta nhớ lại lời thưa xin vâng của Mẹ để giúp chúng ta vừa ca tụng Mẹ, vừa học nơi Mẹ hành trình đức tin cho đời sống đạo của chúng ta. Thiên Chúa cũng chọn mỗi chúng ta và trao cho chúng ta sứ vụ loan báo Tin mừng trong bối cảnh xã hội nầy. Ước gì mỗi chúng ta cũng thưa xin vâng như Mẹ và sống trọn vẹn như Mẹ để ThiênChúa cũng chúc lành và thưởng cho chúng ta được hưởng hạnh phúc Nước trời. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ ĐẦY ƠN PHÚC– Lm. Giuse Phan Văn Quyền
Vào thời cổ đại, giải thưởng cho các cuộc thi đấu thể thao, không phải là huy chương vàng, bạc, đồng như hiện nay, mà là một vòng nguyệt quế, hay một vòng hoa tươi, được choàng vào cổ người chiến thắng.
Trong lịch sử Hội Thánh, tràng chuỗi Mân côi, vừa là khí cụ để chiến đấu, vừa là vòng hoa dành cho người chiến thắng.
Lịch sử cho thấy nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn sức mạnh cậy trông.
+ Năm 1571, vua Thổ nhỉ kỳ theo Hồi giáo là Salim II (1566-1574) xướng xuất một cuộc thánh chiến với tham vọng bình địa giáo đô Rôma. Trước tình hình ấy, Đức Thánh Cha Pi-ô V đã khẩn thiết kêu gọi người tín hữu hãy cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu, nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đồng thời Ngài cũng lập một đội chiến thuyền, mà mỗi chiến sĩ được trang bị thêm một vũ khí tinh thần là tràng chuỗi Mân côi. Chính nhờ sức mạnh của niềm tin, với sự hỗ trợ nâng đỡ chở che của Đức Mẹ, Chúa đã cho đoàn quân công giáo chi?n thắng thủy binh thiện chiến của người Thổ nhỉ kỳ tại vịnh Lepante, vào ngày 7.10.1571, xóa tan cuồng vọng của những kẻ hiếu chiến.
Khi được tin chiến thắng vua Salim II, ĐTC Piô V tuyên bố: Không phải vũ lực, không phải võ khí, không phải vua tướng giúp chúng ta thắng trận, mà chính Đức Mẹ và tràng chuỗi Mân côi đã giúp chúng ta chiến thắng vẻ vang.
Chiến thắng này là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi, đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng: Thiên Chúa và Mẹ Maria luôn bên cạnh chúng ta.
+ Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra Chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé; mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ; rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi vào tháng, ngày, giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho người hấp hối, xin ơn trở lại cho người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào Chuỗi Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Thánh Cha Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này và ban cho nhiều ân xá.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi, và chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Hiện nay cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải, đang đối diện với những thách đố mới, tại sao một lần nữa chúng ta không chạy đến Kinh Mân côi, với cùng một đức tin như những người đã đi trước?
Thánh Pi-ô năm dấu viết: Vũ khí của tôi là tràng chuỗi Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì, khi tôi xin Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm vui lòng Đức Mẹ, muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần chuỗi Mân côi.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em! Điều kiện để được hưởng trọn vẹn tình thương của Đức Mẹ là: ăn năn đền tội và cải thiện đời sống, tôn sùng yêu mến trái tim Mẹ, siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Trong tháng Mân Côi này mỗi người chúng ta đáp lại lời mời gọi của Mẹ siêng năng lần hạt Mân Côi. Vì tràng chuỗi mân côi là như sợi dây tơ hồng, mối dây tình ái, kết chặt chúng ta gắn bó keo sơn với Đức Mẹ, giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ mà sống đẹp lòng Chúa và phục vụ tha nhân, giúp chúng ta yêu mến Chúa và mọi người bằng trái tim của Đức Mẹ.
Đức Mẹ nói với Bernadette tại Lộ Đức: ” Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau “. Tuy nhiên những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Tin mừng, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ.
Qua tràng chuỗi Mân Côi Mẹ luôn hiện diện với chúng ta như xưa Mẹ đã từng hiện diện:
Sự hiện diện của Đức Mẹ nơi gia đình Gia-ca-ri-a đã khiến bà I-sa-ve tràn trào ơn Chúa Thánh thần, đem lại niềm hoan lạc vô bờ cho thai nhi Gioan tẩy giả.
Sự hiện diện của Đức Mẹ tại tiệc cưới Ca-na đã làm đôi tân hôn và mọi người dự tiệc được trọn vẹn niềm vui, và khiến Chúa Giê-su ra tay làm phép lạ đầu tiên.
Sự hiện diện của Đức mẹ dưới chân thập giá đã làm ấm lòng chúa Giê-su để an tâm về với Chúa Cha, sau khi trối phó thánh Gioan là Giáo hội cho Đức Mẹ.
Sự hiện diện của đức Mẹ tại nhà Tiệc ly, đã giúp các Tông đồ lấy lại tinh thần, sinh khí và sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Hôm nay Đức Mẹ tiếp tục hiện diện giữa chúng ta và trong mỗi người chúng ta.
Những lúc rệu rã một mõi vì cuộc sống lam lũ bon chen trần thế, những khi tối tăm thử thách bao phủ ánh tương lai, những lúc nặng trĩu u buồn quá khứ, những lúc mất mát hụt hẫng không biết cậy dựa vào ai …
Hãy chạy đến với Đức mẹ, hãy cầm lấy tràng chuỗi mân Côi và cầu nguyện, hãy thầm thỉ thì thầm lời kinh Kính mừng Maria….
Với tấm lòng từ bi nhân hậu của một hiền mẫu, chắc chắn Đức Mẹ sẽ là nguồn an ủi, nâng đỡ, khích lệ và niềm vui sống cho chúng ta.
Lạy Mẹ, khi con yếu đuối lỡ lầm va vấp, xin Mẹ thương giơ tay nâng đỡ dìu dắt; khi con cô đơn lạc lỏng, xin mẹ đồng hành bên con và che chở giữ gìn; khi con khổ đau bất hạnh, xin mẹ thương ra tay cứu giúp; vì Mẹ là niềm an ủi và hạnh phúc của con.
Lạy Đức Mẹ Maria, con xin nhắc lại lời mà triệu triệu trái tim hằng ấp ủ, lời mà triệu triệu đôi môi hằng tung hô hằng ngày trên khắp thế giới: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là ke #có tội, khi này và trong giờ lâm tử. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
HIỆU LỰC CỦA KINH MÂN CÔI- Lm. Đan Vinh HHTM
Ý chính:
Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Maria chính là thái độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này
Chú thích:
– C 26-27:
* Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria.
* Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16).
* Trinh nữ: hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Maria đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14).
* đã đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Maria đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18).
* thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã báo trước như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12); Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít (x. mk 5,1).
* Maria: hay mi-ry-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Maria Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Maria Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Maria mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Maria vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Maria mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Maria thân mẫu Đức Giêsu (x. Ga 19,25).
– C 28-29:
* “mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9).
* “đầy ân sủng”: một tước hiệu dành riêng cho Maria, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng.
* “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Maria chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
– C 30-33:
* Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu: Sứ thần giải thích cho Maria biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giêsu. Giêsu nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11).
* “Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giêsu là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi.
– C 34:
* so sánh thắc mắc của Maria với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm, không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Maria thì biểu lộ lòng tin: Maria muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin vâng. do đó, Maria đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Maria là người “diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).
* “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Maria ở đây không chứng minh Maria đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Maria chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Maria mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?
– C 35:
* Sứ thần giải thích cho Maria hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ Đấng Thiên Sai, nên Maria sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14).
* “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8).
* “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
– C 36-37:
* kìa Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Để cho Maria thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Maria biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu tháng rồi.
– C 38:
* “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Maria đã biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa.
* “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu này, Maria đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Maria thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giêsu chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là Thiên Chúa và người phàm.
Câu hỏi:
– Gio-an Tẩy Giả hơn Đức Giêsu bao nhiêu tuổi?
Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào?
– Câu nói nào của Đức Maria cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng trinh trong việc Đức Maria thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giêsu?
– Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Maria làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là vợ chồng giả để che mắt người đời?
Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà Đa-vít”?
* Hãy kể ra một số tên gọi Maria trong Tin Mừng kèm theo tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì?
* Khi chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Maria? 8-Tên gọi Giêsu mà Sứ thần ra lệnh cho Maria đặt cho con trẻ mang ý nghĩa thế nào?
* Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài nhi Giêsu nghĩa là gì?
* Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18) và thắc mắc của Maria trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Maria đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?
** Khi nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?
** Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?
II/.SỐNG LỜI CHÚA
*Lời Chúa: Bấy giờ Bà Maria nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
*Câu chuyện:
Đức tin của Phun-tơn Ao-dơ-lơ (fulton Oursler):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.
*Suy niệm:
– Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giêsu. Nhưng bên cạnh Đức Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích cực cộng tác với Đức Giêsu trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Maria. Thực vậy, Mẹ Maria luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giêsu tại tiệc cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giêsu trăn trối làm Mẹ của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá (x Ga 19,26-27); Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giêsu lên trời (x Cv 1,14).
– Trong lịch sử Hội Thánh, mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Maria. Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh. Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16. Ngày nay, Đức Maria trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa Giêsu và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha), La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)…
– Thực ra, việc biến đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật…trong đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả thì các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ Maria để sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu (x Ga 15,5). Rồi cùng với Đức Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến noi gương Mẹ khi xưa. Chắc chắn nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ làm được những việc lạ lùng vượt quá khả năng của mình. Vì bấy giờ chúng ta làm với ơn Chúa giúp như thánh Phao-lô viết: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 cr 12,10).
*Thảo luận:
* Qua câu chuyện trên, ta thấy Thánh Mẫu Maria có vai trò nào trong việc ăn năn trở lại của ông Phun-tơn?
Ngày nay các tín hữu chúng ta cần cậy nhờ vào sự phù trợ đắc lực của Mẹ Maria trong hành trình sống đức Tin thế nào?
*Nguyện cầu:
Lạy Chúa, Mỗi lần gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ, tin đồng cốt… để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giêsu, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.
*Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ MÂN CÔI- Lm. Phaolô Nguyễn Nguyên
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.
Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH MÂN CÔI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh. Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi. Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây: – Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao! – Gẫm thứ ba năm sự vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa. – Gẫm thứ nhất trong năm sự sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác. – Và đặc biệt là trong năm sự thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
– Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng. – Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức. – Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ. – Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
CHUỖI MÂN CÔI CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA- Lm. Trầm Phúc
Ai yêu mến Đức Mẹ như Mẹ của mình đều yêu thích lần chuỗi Mân Côi.
Giáo Hội khuyến khích lần chuỗi Mân Côi. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI với Tông Huấn: Việc sùng kính Đức Maria; Đức Giáo Hoàng Gioan-Phao-lô II, với Tông Thư: Chuỗi Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria là những người cổ võ mạnh mẽ nhất việc sùng kính Đức Mẹ và lần chuỗi Mân Côi.
Ai yêu mến Đức Mẹ thì cũng thích nói lên lời chào của Thiên Sứ chào mừng Mẹ mình!
Chúng ta được một bà Mẹ “đầy ơn phước”, một bà Mẹ “có phước hơn mọi người nữ”, chúng ta không vui sao? Chúng ta không hãnh diện vì được làm con một người Mẹ như thế sao?
Hơn nữa, Đức Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu, chúng ta không cảm thấy hạnh phúc khi được Mẹ Thiên Chúa là Mẹ chúng ta sao?
Bà thánh Ysave khi được Đức Mẹ đến viếng thăm đã vui mừng la lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm?” Khi ấy, Thánh Gioan trong dạ mẹ đã nhảy mừng.
Lời Kinh Mân Côi là hồng ân cao quí Chúa tặng ban cho chúng ta. Lời kinh này nhắc cho chúng ta nhớ đến niềm hạnh phúc vô biên, mà Chúa đã ban cho chúng ta là được làm con của Đức Mẹ.
Chúng ta thật hạnh phúc! Thế nhưng còn rất nhiều người chưa biết hạnh phúc của mình, chưa biết yêu mến Đức Mẹ. Họ không biết Đức Mẹ yêu thương họ như thế nào! Thật đáng tiếc!
Hãy yêu mến Đức Mẹ và giúp anh em chúng ta yêu mến Đức Mẹ, để nhờ Đức Mẹ, chúng ta cũng được tràn đầy ơn phúc trong Chúa Giêsu, Con Đức Mẹ, “Con lòng Bà gồm phước lạ”.
Lần chuỗi Mân Côi là nhìn về Đức Mẹ, chiêm ngắm Đức Mẹ là tuyệt tác tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Đức Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đó là nét đẹp cao quí của Đức Mẹ, là ân huệ độc nhất vô nhị Chúa bancho Đức Mẹ. Ơn Chúa đến với chúng ta bằng muôn vạn nguồn suối. Đức Mẹ chính là nguồn suối hồng ân tuôn trào từ Giêsu, Con Đức Mẹ. Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội là dấu hiệu của nguồn sống mới Chúa ban nhưng không cho nhân lọai. Nhìn về Đức Mẹ để tạ ơn Chúa, cùng với Đức Mẹ hát lên lời tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa…”
Khi môi miệng chúng ta lặp lại lời chào của Thiên Thần: “Kính mừng Maria đầy ơn phước”, phải chăng là nhắc nhớ ân huệ đầu tiên vô nhiễm đó? Miệng chúng ta đọc, nhưng con tim chúng ta hát. Đức Mẹ là “người nữ, đã được phục hồi” (Claudel) trong vẻ đẹp trinh nguyên vô tội của E-và khi mới được tạo thành.
Lời kinh êm đềm làm sao! Lời chào chứa chan niềm vui!
Hãy vui lên khi lặp lại lời chào của Thiên Sứ. Hãy quên đi tất cả những vũng lầy nhơ bẩn của chúng ta! Hướng về Đức Mẹ là hướng về niềm vui triền miên, chứa đựng trong hồng ân vĩnh viễn Chúa ban nơi Đức Mẹ.
Nhiều người đã đánh mất kho tàng an ủi này, họ không thấy ánh sáng đang mời gọi họ. Họ đánh mất sự êm đềm âu yếm họ đang cần đến. Họ đánh mất tình yêu của một người Mẹ mà họ đang khao khát.
Phải, Đức Mẹ là kho tàng tình yêu vô tận, nhưng kinh Mân Côi đưa chúng ta vào khung trời bao la hơn: Khung trời của ơn cứu độ.
Mẹ Maria được tôn sùng không phải vì cá nhân của Mẹ mà vì Chúa Giêsu. Nhiều người lầm tưởng rằng sự sùng kính Đức Mẹ sẽ làm phương hại đến vai trò duy nhất của Chúa Giêsu. Nhưng cũng có những người lại tôn sùng Đức Mẹ quá đáng, xem Đức Mẹ như ngang hàng với Chúa Giêsu Ki-tô.
Giáo Hội luôn xem Đức Mẹ như con đường dẫn đến Chúa Giêsu mà thôi. Trong kinh Mân côi, Đức Mẹ được xem như chiếm chỗ ưu tiên, nhưng trọng tâm vẫn là Chúa Giêsu. Trong Tông thư về chuỗi Mân Côi, Đức Gioan-Phao-lô II mời gọi mọi người đến với Đức Mẹ để cùng Đức Mẹ chiêm ngưỡng, tưởng nhớ, học hỏi để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Con Đức Mẹ; cùng với Đức Mẹ cầu khẩn và loan báo Chúa Ki-tô. Đó chính là con đường hành hương mà chúng ta cùng đi với Đức Mẹ, cuộc hành hương bất tận đến với Chúa Giêsu Ki-tô qua mọi biến cố của cuộc đời Ngài, từ mầu nhiệm nhập thể đến Phục sinh…
Khi miệng chúng ta đọc lên: “Kính mừng Maria, đầy ơn phước”, chúng ta nhìn thấy tình thương của Chúa Cha, đấng đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một mình cho trần gian; chúng ta nhìn ngắm Chúa Giêsu trở thành xác thịt trong Đức Mẹ. Đó là bước đầu của cuộc đối thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và con người. Chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, đã đến tận trần gian này để nối lại mối dây tình thương đã đứt đoạn trong sự phản bội của Ađam.
“Kính mừng Maria,… bà có phước lạ hơn mọi người nữ …”, phước lạ đó đã phát xuất từ tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã đáp lại trong tự nguyện, tiếng nói yêu thương của Chúa Cha. Tiếng “Xin vâng” ở Na-da-rét được tiếp nối bằng một chuỗi xin vâng suốt cả đời Mẹ; kể cả tiếng xin vâng cuối cùng dưới chân thập giá. Học thưa “Xin vâng” như Mẹ, và cùng với Chúa Giêsu, chúng ta cũng xin vâng mỗi ngày qua cuộc đời gian khổ và bận rộn của chúng ta.
Đức Mẹ là mẫu gương vâng phục, cũng như Chúa Giêsu là mẫu gương vâng phục: “Nầy Con xin đến để thực thi ý Cha”, “Xin đừng theo ý Con mà theo ý Cha”.
Kinh Mân Côi dẫn chúng ta đến sự vâng phục toàn vẹn thánh ý của Chúa Cha.
Chúng ta sợ vâng phục, tưởng rằng đó là nô lệ. Vâng phục loài người thường dẫn đến nô lệ nhưng vâng phục Thiên Chúa lại là một giải thoát. Chúa Giêsu đã vâng phục đến chết trên thập giá, vì thế, “Thiên chúa đã siêu tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” Vâng phục Thiên Chúa không phải là một mất mát mà là một vinh quang.
Mẹ Maria đã vâng phục thánh ý Chúa, và Đức Mẹ đã nên “đầy ơn phước”, đã đem Chúa Giêsu đến cho chúng ta.
Giáo Hội dạy chúng ta cầu khẩn với Đức Mẹ với tính cách là Mẹ Thiên Chúa, như bà Ysave. Đức Mẹ viếng thăm chúng ta, đem Chúa Giêsu đến với chúng ta, chuyển thôngơn Chúa cho chúng ta.
Kính mừng Maria, lời kinh của những đứa con bé nhỏ không tin vào tài năng và sức lực của mình, mà chỉ tin vào quyền năng của Thiên chúa.
Cuộc đời trần thế này nhiều gian nan. Có những lúc chúng ta phải rên siết, có những ngày chúng ta tìm một tia hy vọng mà vẫn không tìm được. Có những ngày con tim chúng ta nổi loạn vì thất vọng… Hãy về với Đức Mẹ.
Bà Mẹ hiền của chúng ta đã can đảm nhìn Con mình chết đau thương trên thập giá, thì cũng cảm thông nỗi khổ của chúng ta. Đức Mẹ sẽ giúp chúng ta can đảm vác thập giá mà không rên siết. Đức Mẹ sẽ dạy chúng ta nhìn Con Đức Mẹ trên thập giá, để chúng ta được bình an, dù gánh nặng vẫn còn. Chúng ta sẽ không chạy trốn, chúng ta sẽ cùng với Đức Mẹ chấp nhận đau khổ như một hồng ân. Chúng ta vẫn còn hy vọng vì Chúa Giêsu, Con Đức Mẹ, đã “thắng thế gian”, thắng cả sự chết và vẫn hiển trị.
Ai yêu mến Đức Mẹ sẽ nhìn thấy đời mình tràn đầy niềm vui, ngay cả trong gian nan thử thách. Có Đức Mẹ, tin vào Đức Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng; nhưng vắng Đức Mẹ… cuộc đời sẽ mất vui, vắng Đức Mẹ, ánh sáng sẽ lụn tàn và bóng tối sẽ bao trùm lên đời bạn.
Mầu nhiệm Mân Côi là niềm hy vọng không úa tàn, vì trong Đức Mẹ, chúng ta khám phá ra khuôn mặt yêu thương của Chúa Giêsu, khuôn mặt mà các thế hệ đang mong chờ.
Mừng Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm Chúa Giêsu nơi bàn thờ. Ngài đến với chúng ta nhẹ nhàng, khiêm tốn, để ở lại với chúng ta. Cùng với Đức Mẹ, chúng ta tạ ơn Ngài bằng cách đem Ngài vào cuộc sống bận rộn và khổ nhọc của chúng ta. Chúng ta sẽ cùng Ngài, đến với anh chị em của chúng ta, đem lại cho họ quả tim của chúng ta, quả tim đã được gột sạch mọi vết nhơ, đã được thánh hóa bằng chính Thịt Máu Chúa Giêsu trên thập và trên bàn thờ.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ MÂN CÔI- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1/.Tràng hạt Mân Côi
Tất cả chúng ta điều rất quen thuộc với tràng hạt Mân Côi, bởi vì tràng hạt Mân Côi luôn đi đôi với lời kinh Kính Mừng, vốn là một trong những kinh mà chúng ta học và đọc ngay trong gia đình từ thời thơ ấu.
Từ “Mân Côi” phát xuất từ tiếng La-tinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Thật là đẹp và đầy ý nghĩa, khi nhìn tràng Mân Côi quen thuộc, nhỏ bé và đơn sơ của chúng ta như là một vườn hoa hồng. Và như thế, tràng hạt Mân Côi mà chúng ta dùng để đọc kinh hàng ngày chính là một vườn hoa hồng, mỗi hạt kinh là một đóa hoa hồng, kính dâng lên Đức Maria, Mẹ của chúng ta. Và ai chúng ta cũng biết, hoa hồng là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Vậy, chính khi chúng ta lần hạt, là chúng ta dâng hoa cho Đức Mẹ với lòng cảm mến và yêu thương của người con thảo. Với tâm tình này, chúng ta nhận ra rằng, cấu tạo của tràng Mân Côi cũng thật là hay và đầy ý nghĩa, vì tràng hạt có tâm điểm là ảnh Đức Mẹ.
2/.Kinh Kính Mừng
Mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Mẹ. Thật vậy, vì đó chính là ý nghĩa sâu xa của phần thứ nhất trong kinh Kính Mừng:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ.
“Kính Mừng” có nghĩa là chúng ta ca mừng Đức Mẹ một cách kính cẩn; và lời ca mừng này một phần đến từ lời ca mừng của sứ thần Gabrien, khi ngài đến gặp Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay thuật lại cho chúng ta: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28)
Và phần còn lại của lời ca mừng Đức Mẹ trong kinh Kính Mừng, đến từ lời ca mừng của bà Elizabet, trong biến cố Đức Mẹ thăm viếng: “Em được chúc phúc (nghĩa là có phúc lạ), hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (nghĩa là cũng có phúc lạ)” (Lc 1, 42).
Thế mà, chúng ta không thể ca tụng Mẹ với cả tâm hồn, nếu chúng ta không yêu mến Mẹ, và chúng ta không thể yêu mến Mẹ, mà không ca tụng Mẹ. Bởi vì, nếu không có lòng mến, lời ca tụng chỉ là giả tạo, hay chỉ có trên môi miệng, chứ không chân thật, không phát xuất từ con tim. Chính tâm tình ca mừng Đức Mẹ với lòng cảm mến, sẽ chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những ơn huệ mà Mẹ sẽ chia sẻ cho chúng ta, và cũng chính thái độ ca mừng này sẽ giải thoát chúng ta khỏi thái độ ngược lại là đóng kín, ghen tị và vô ơn, vốn rất tai hại cho mình và cho người khác. Như vậy, khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta dùng lại lời của Sứ Thần Gabriel và lời của bà Elizabeth để ca tụng Đức Mẹ với lòng cảm mến; và chỉ sau khi ca tụng Mẹ, chúng ta chúng ta mới xin ơn:
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.
Trong lời cầu xin với Đức Mẹ, chúng ta tự nhận mình là “kẻ có tội”. Nếu chúng ta đọc lời này với sự chân thành của con tim, thì chắc chắn Mẹ đã cảm thương chúng ta rồi. Giống như khi còn bé, mỗi khi chúng ta thành tâm nhận lỗi, là cha mẹ đã bao dung và ôm chúng ta vào lòng rồi. Hơn nữa, Mẹ được ban ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, chính là để chăm lo cho chúng ta, bao dung chúng ta, chia sẻ cho chúng ta và cầu bầu cho chúng ta.
Lời cầu xin của chúng ta cũng thật là kín đáo và khiêm tốn. Thật vậy, chúng ta xin Mẹ cầu cho chúng ta, khi nay và trong giờ lâm tử. Kín đáo, vì chúng ta không xin điều gì đặc biệt, chỉ xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta thôi. Khiêm tốn, vì chúng ta ý thức về thân phận phải chết của chúng ta. Khi nay và trong giờ lâm tử, chúng ta đâu có biết còn bao xa, và chúng ta cũng không biết mình sẽ lâm tử như thế nào. Đọc lời nguyện xin này, dù chúng ta đang làm gì, ở độ tuổi nào, gặp khó khăn thử thách ra sao, chúng ta cũng được mời gọi chuẩn bị cho giờ lâm tử. Và chắc chắn, Mẹ không chỉ cầu bầu cho chúng ta, nhưng còn ôm chúng ta vào lòng để đưa chúng ta đi, đi trên đường đời và đi ngang qua sự chết để về Quê Trời, xum họp với Mẹ và những người thân yêu trong Nhà của Thiên Chúa.
Tóm lại, ca tụng rồi mới xin ơn, đó chính là qui tắc mà kinh Kinh Mừng dạy cho chúng ta, khi chúng ta cầu nguyện trong mọi trường hợp. Và để ca tụng, chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban cho mình và cho người khác nữa.
3/.Đức Mẹ Mân Côi
Chúng ta hãy trở lại nhìn ngắm một lần nữa tràng hạt của chúng ta. Như chúng ta đã nói, tràng hạt Mân Côi có trung tâm là ảnh Đức Mẹ, nhưng ảnh Đức Mẹ lại hướng tới Thập Giá của Đức Ki-tô. Thật vậy, Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng, phác họa lại cho chúng ta toàn bộ cuộc đời của Đức Ki-tô, từ lúc được hoài thai trong cung lòng Đức Mẹ, cho đến cuộc Thương Khó, chết trên Thập Giá, và sau đó sống lại và lên trời.
Trong năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ kính nhớ Đức Mẹ, vì những ân huệ lớn lao Mẹ đã nhận được, chẳng hạn Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ hồn xác lên trời, Đức Mẹ Nữ Vương, hay vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Đức Mẹ, chẳng hạn, Sinh Nhật Đức Mẹ, Đức Mẹ Dâng Mình, Lễ Truyền Tin, Đức Mẹ Thăm viếng, Lễ Giáng Sinh, hoặc vì những ơn huệ đặc biệt Đức Mẹ ban cho loài người chúng ta hay cho riêng một Hội Dòng, chẳng hạn Đức Mẹ Phù Hộ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Dòng Tên.
Nhưng Lễ Đức Mẹ Mân Côi, mà chúng ta mừng kính không chỉ một ngày, nhưng suốt một tháng, có điểm này đặc biệt, so với tất cả các lễ khác: đó là lễ Đức Mẹ Mân Côi tôn vinh sự gắn bó sâu xa và trọn vẹn của Mẹ đối với ngôi vị và cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc ngài được hoài thai trong lòng dạ của Mẹ, cho đến khi Ngài chịu đóng đinh trên Thập Giá, và sau đó Phục Sinh và Lên Trời. Thế mà, tất cả những ơn huệ lớn lao mà Mẹ nhận được đều đến từ tương quan thiết thân của Mẹ với Đức Ki-tô. Thật ra trong lời ca mừng của lời kinh Kính Mừng, chúng ta đã tôn vinh sự gắn bó của Mẹ với Đức Ki-tô rồi, đi đọc: “Con lòng bà gồm phúc lạ”.
Như vậy, khi chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ Mân Côi, là chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ đón nhận Đức Ki-tô vào cung lòng và vào cuộc sống của mình, là chiêm ngắm Đức Mẹ đi theo và gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô đến cùng. Và đó cũng chính là ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta: đó là đón nhận Đức Ki-tô, vốn là Đường là Sự Thật, là Sự Sống và là Ánh Sáng vào cuộc đời của chúng ta, vào trong gia đình của chúng ta, vào trong cộng đoàn và Hội Dòng của chúng ta.
* * *
Đức Mẹ cầu bầu, phù hộ và ban ơn cho chúng ta về nhiều phương diện của cuộc sống, nhưng Đức Mẹ đặc biệt chăm sóc, phù hộ chúng ta trong cách thức chúng ta đón nhận, hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô đến cùng, và Mẹ phù hộ chúng ta, trước tiên là bằng cách dạy dỗ chúng ta, ngang qua chính đời sống của Mẹ.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
TRÀNG HẠT MÂN CÔI ĐƯA TÔI VỀ TRỜI- Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa
1/.Vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ. Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp nhận liên đới mật thiết với Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất bại, khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng liên đới mật thiết với Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan, đại diện cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần chuỗi Mân Côi.
2/.Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh. Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm vui, thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình cứu độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi là lời kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó …Đã bao nhiêu năm qua, tôi đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ nhờ kinh Mân Côi”.
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.
#cacbaisuyniemlloichuachuanhat #suyniemloichualeducmemancoi #ducmemancoi #suyniemlekinhtrongtheducmemancoi