CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
AI LÀ NGƯỜI LỚN NHẤT – Chú giải của Fiches Dominicales 14
BÀI HỌC VỀ ĐỨC KHIÊM HẠ (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
NGƯỜI CÔNG CHÍNH BỊ BÁCH HẠI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
CON NGƯỜI BỊ NỘP TRONG TAY NGƯỜI ĐỜI (*) – Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt. 60
NỀN VĂN MÌNH MỚI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 64
LÀM ĐẦY TỚ CHO MỌI NGƯỜI- Lm. Pet. Lê Văn Chính.. 69
CON NGƯỜI ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ?– Lm. Gioan. M Nguyễn Thiên Khải CMC 74
PHỤC VỤ TRONG KHIÊM HẠ- Lm. Đan Vinh HHTM.. 78
CON NGƯỜI SẼ BỊ NỘP- Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 93
CON ĐƯỜNG ĐƯA TỚI VINH QUANG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 96
HÌNH THÀNH CHÍNH MÌNH QUA CHỌN LỰA- Lm. Giuse Phạm Thanh liêm SJ 100
CUỘC KHỔ NẠN VÀ TINH THẦN PHỤC VỤ- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng 106
LÀM TÔI TỚ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 113
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã”.
Trích sách Khôn Ngoan
(Những kẻ gian ác nói rằng:) “Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Vậy chúng ta hãy xem điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!”
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 53, 3-4. 5. 6 và 8
Ðáp: Chúa đang nâng đỡ tâm hồn con (c. 6b).
Xướng: Ôi Thiên Chúa, xin cứu sống con nhân danh Ngài, và xin sử dụng uy quyền phán quyết cho con! Ôi Thiên Chúa, xin nghe tiếng con cầu, xin lắng tai nghe lời miệng con xin.
Xướng: Vì những kẻ kiêu căng nổi lên chống đối, và bọn người hung hãn tìm sát hại con, bọn chúng không nhớ Thiên Chúa ở trước mặt mình.
Xướng: Kìa, Thiên Chúa phù trợ con, Chúa đang nâng đỡ tâm hồn con. Con sẽ tự nguyện hiến dâng lễ vật lên Chúa. Lạy Chúa, con sẽ ca tụng danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo.
Bài Ðọc II: Gc 3, 16 – 4, 3
“Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình”.
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan. Nhưng sự khôn ngoan từ trời xuống, thì trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình.
Bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ. Anh em không có là tại anh em không xin. Anh em xin mà không nhận được, là vì anh em xin không đúng, cứ mơ tưởng thoả mãn các đam mê của anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 9, 29-36
“Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.
Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: “Dọc đàng các con tranh luận gì thế?” Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”.
SỰ CAO CẢ CỦA KITÔ HỮU (*)- Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết.
Một lần nữa, chúng ta lặp lại đề tài Chúa muốn ẩn thân. Đức Giêsu không được người ta hiểu, bị đám đông dân chúng bỏ rơi, bây giờ hoàn toàn chỉ chăm lo cách riêng vào việc đào tạo một số môn đệ của Người.
Phát xuất từ những vùng miền Bắc đi về miền Xêxarê Phi-líp-phê, ở nguồn sông Giođan, Đức Giêsu tiến gần về Giê-ru-sa-lem. Người băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Người đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Người không tìm dịp nói chuyện trước công chúng. Người chỉ nói với các tông đồ, là mầm mống của cộng đoàn Kitô hữu tương lai và những gì Người sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo Hội.
Vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời”.
Trong khi Đức Giêsu không muốn người ta dùng tước vị “Con Thiên Chúa”. Người luôn đúng, nhất là trong giai đoạn thứ hai đời sống tác vụ của Người, tước vị “Con Người”. Ngược lại những gì thoạt tiên chúng ta có thể nghĩ, đây không phải là việc nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu. Thực tế, những Kitô hữu đầu tiên, phát xuất từ đạo Do Thái đã gán cho tước vị này một ý nghĩa sâu đậm: Đối với họ, tước vị này ám chỉ Đấng Mêsia do ngôn sứ Đanien đã báo trước (7,13-14). “Con Người” này có nguồn cội từ trời, Người từ trên mây trời mà xuống… Người đến nhân danh Thiên Chúa để hoàn tất công trình của Chúa.
Chúng ta thấy cách nói của Đức Giêsu muốn điều chỉnh lại ý niệm mà các tông đồ đã có về Đấng Mêsia. “Con Người Thần Thánh” từ trên mây trời hiện đến cách vinh quang mà các bạn đang mơ ước, thì Đấng đó sẽ bị giao nộp không chút tự vệ “vào tay loài người”. Các bạn chớ nhầm lẫn Đấng Mêsia, chớ nhầm lẫn Thiên Chúa! Đức Giêsu thực sự do Thiên Chúa mà đến, nhưng không phải là Đấng mà loài người thường tưởng nghĩ.
Bị giao nộp.
Một Thiên Chúa ‘bị giao nộp’, một Thiên Chúa được ‘tăng ban’, một Thiên Chúa ‘Tình yêu’ chứ không phải một Thiên Chúa toàn năng, toàn quyền. Chúng ta tin không phải ở một Thiên Chúa toàn năng, nhưng là một Người Cha Toàn Năng, tin ở Đấng đã trao hiến hết mình, Đấng đã giao nộp mình vì chúng ta, mà Thập giá của Đức Giêsu là “mạc khải” rõ ràng và dứt khoát.
Cụm từ “bị giao nộp vì chúng ta” là những từ chủ yếu trong khoa thần học ban sơ. “Bị giao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25).
“Người đã không tha chính con của Người, mà đã giao nộp cho tất cả chúng ta” (Rm 8,32).
“Người đã thương yêu và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20).
“Anh em hãy sống trong tình bác ái như Chúa Kitô đã thương yêu chúng ta và đã nộp mình” (Ep 5,2).
“Chúa đã giao nộp Người vì tội của chúng ta” (Is 53,2).
Chứng từ này được nhắc lại cho chúng ta mỗi khi cử hành Thánh Thể; “Đây là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.
Họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Kể từ lúc Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêxarê Phi-líp-phê, thì đây là việc loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó. Toàn thể Tin Mừng của Maccô dẫn đưa chúng ta đến chóp đỉnh này: Sự tử nạn và Phục sinh. Đó là trọng tâm kinh Tin kính của chúng ta: Hai biến cố lịch sử. Đây thật là tiểu sử lạ lùng của một con người. Không phải sự sống của Người là quan trọng mà là “cái chết” của Người và việc Người “sống mãi”. Chúng ta không thể không lưu ý con người đó luôn luôn báo trước, cùng một lúc và một cách bình tĩnh rằng, Người sẽ “sống lại” sau khi chết. Đó cũng như Người coi cuộc sống thứ nhất của Người ở Palestine thời đó, không phải là cuộc sống quan trọng nhất.
Ngày nay, chúng ta có thực sự tin rằng Đức Giêsu vẫn đang sống không?
Mầu nhiệm Phục sinh là cốt yếu của Đức tin chúng ta. Và đó là đặc quyền duy nhất và căn cốt của Đức Giêsu. Không có một vĩ nhân nào khác dám tự phụ giải phóng được con người, khỏi định mệnh cuối cùng, là cái chết. Cả Đức Phật và Mahômét hay bất cứ một chủ thuyết nhân bản nào khác, cũng không đưa ra được một giải pháp trước thái độ lo âu lớn lao của con người luôn biết mình sẽ phải chết. Chỉ có Đức Giêsu, một cách bình tĩnh và chân thành đã dám nói: “Họ sẽ giết Tôi, nhưng Tôi sẽ sống lại”.
Đó là ánh sáng chủ yếu Chúa đã soi chiếu trên cái chết: Đức Giêsu biết rằng đó không phải là chấm dứt tất cả. Người biết những gì đang chờ đợi Người. Khi trải qua giây phút bi thảm của “hơi thở cuối cùng”, Đức Giêsu biết rằng Người không rơi vào hố đen của hư vô, nhưng vào vòng tay của Chúa Cha. Và điều đó đã dệt nên bài ca hy vọng của người Kitô hữu trong nghi thức từ biệt cuối cùng với người chết: “Chúa Cha đợi bạn, và cánh tay của Thiên Chúa sẽ mở ra đón bạn”.
Chúng ta cứ tin chắc rằng cái chết là như vậy không? Đây là sứ điệp của mọi người tử vì đạo. Đó là niềm tin vững chắc của những tín hữu đích thực. Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Chúa. Tin Mừng không hề tô vẽ cho các tông đồ. Đó cũng là những con người đáng thương như chúng ta. Thánh Maccô không những nhấn mạnh đến trí óc trì trệ, nông cạn, hẹp hòi của các ông. “Họ không hiểu”(Mc 6,52; 8,17; 8,21; 9,32). Do đó nhóm Mười Hai là một tiêu biểu cho những con người thông thường, trung bình. Người ta tự hỏi làm sao Giáo Hội và suốt dòng lịch sử vĩ đại của Giáo Hội, lại phát sinh từ những tưởng tượng và dự án của các tông đồ được. Quả thực các ông đã được một biến cố thay đổi. Các ông đã được nâng lên cao khỏi chính mình, và được một sức mạnh mới bao bọc. Và luôn diễn ra như thế đối với Giáo Hội.
Nếu chỉ là một Giáo Hội của loài người, thì Giáo Hội đã bị tiêu diệt từ lâu bởi những khiếm khuyết và tội lỗi của các nhà lãnh đạo và thành phần của Giáo Hội. Nhưng chúng ta có nên xét đoán Giáo Hội đơn thuần theo quan điểm của con người không?
Trong lúc này, các tông đồ đã sợ Đức Giêsu và họ giữ một thứ im lặng đến khó chịu “họ đã sợ không dám hỏi Chúa”.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành phố Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?”. Các ông làm thinh.
Các ông chưa nói được lời nào. Các ông giữ im lặng trước câu hỏi của Chúa. Sự “lúng túng” giữa họ trở nên nặng nề như trong một nhóm mà người ta không còn đồng ý với nhau nữa.
Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau về chuyện ai là người lớn hơn cả.
Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của họ!
Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, khiến Người “giao nộp” mạng sống. Còn các ông thì chỉ nghĩ đến những “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Mêsia, và về Thiên Chúa. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Mêsia, một vương quốc trần gian, mà các ông đã tranh luận xem ai là “thủ tướng” khi Chúa và các ông thắng thế.
Nhưng xin các bạn đừng quá nghiêm khắc xét đoán việc các Ngài không hiểu vai trò của Chúa Giêsu. Mặc dù đã được soi dẫn với ánh sáng Phục sinh, ngày nay, chúng ta có thể nói rằng mình chấp nhận sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa, sự im lặng của Người, sự thất bại của Thập giá không? Chúng ta không tiếp tục xin Chúa can thiệp để chiến thắng sao?
Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
Trong cuộc thương khó mà Chúa vừa loan báo, Chúa Giêsu đã tự hạ thành “kẻ sau rốt và là “đầy tớ” của mọi người. Thực sự, Thiên Chúa là như thế. Tại sao lời khẳng định này lại có vẻ như một cậu phạm thượng đối với một số người? Đúng ra, Thiên Chúa là Đấng trên hết, cao cả nhất, nhưng Chúa cũng là “Người đứng đầu trong phục vụ”, Người đứng đầu trong tình yêu.
Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa và điều đó phải lắm, vì Ta đúng là như thế, thế mà Ta đã rửa chân cho các con, như một người đầy tớ” (Ga 13,13). Thiên Chúa thực sự là Đấng Toàn Năng, nhưng là Toàn Năng để “phục vụ đến cùng”. “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,42-45).
Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ trật tự này: Người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.
Nhưng một lần nữa, đó không phải là để làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chữ” mà thôi! ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, giúp chế ngự xu hướng tranh đấu không ngừng giữa loài người, để thống trị để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.
Người dắt một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai đón tiếp một em nhỏ như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Trong những tập thể chúng ta sống, trong lòng chúng ta và trên thế giới, bạo lực không ngớt gia tăng. Trong cơn thủy triều đen tối đang dâng lên như thế, Đức Giêsu đề nghị cách tượng trưng sự yếu đuối của đứa trẻ như một lý tưởng. Đứa trẻ là sinh vật nhỏ bé trong xã hội, ít được kính nể, và người ta gạt bỏ nó dễ dàng, kể cả bằng cách tội lỗi mà lại hợp pháp. Đứa trẻ đúng là kẻ “nghèo hèn”, không tự vệ được, “bị giao nộp” cho những kẻ mạnh mẽ quyền thế hơn nó. Nhưng Chúa lật ngược những tiêu chuẩn xã hội về quan niệm ngôi thứ: Người ta nói, kẻ sau rốt là kẻ đứng đầu. Bây giờ Người nói tiếp, dưới mắt Thiên Chúa kẻ nhỏ bé lại là người lớn nhất. Đức Giêsu đặt đứa trẻ ở giữa cộng đoàn Kitô hữu.
Tôi dành ít thời giờ để niệm tưởng hình ảnh Đức Giêsu đang vuốt ve và ôm ấp đứa bé này. Sự cao cả của Kitô hữu được đo nghiệm theo phẩm chất của việc phục vụ những người “thấp hèn” nhất, những kẻ kém may mắn nhất. Chúng ta sẽ bị xét đoán theo tiêu chuẩn đó (Mt (25,31). Vả lại, đây không phải là một sự “nô lệ”, vì chúng ta phục vụ Đức Giêsu khi chúng ta phục vụ những kẻ thấp hèn. Và qua Đức Giêsu, chúng ta phục vụ chính “Đấng” đã tạo nên thế gian và đã trao ban Con Một của Người.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
AI LÀ NGƯỜI LỚN NHẤT – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
*1. ‘Trên đường’, một lời loan báo làm hoang mang.
Ngay sau khi Phêrô tuyên tín ở miền Xê-sa-rê Phi-lip-phê, lần đầu tiên, Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó và sống lại của Người (Mc 8,27-31). Sau cuộc hiển dung trên núi cao (9,2-8), Chúa đang băng qua miền Galilê cùng môn đệ. “Người không muốn cho ai biết, thánh sử ghi rõ, bởi vì từ này Người muốn dùng thời gian để huấn luyện các môn đệ. Người cố gắng hướng dẫn các ông chấp nhận cái viễn tượng đảo lộn hướng tư duy là: một Đấng Mêsia bị chính dân Người ruồng bỏ.
‘Trên đường’ (câu 33), địa điểm tượng trưng cho cuộc hành trình về Giêrusalem, Người giáo huấn họ bằng cách nhắc lại lời loan báo lần trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” Từ ngữ Chúa dùng hầu như giống hệt lần trước.
Cũng như ở câu 8,31, Đức Giêsu nói về chính mình bằng cụm từ “Con Người”, một nhân vật bí nhiệm và uy quyền, mà ngày tận thế sẽ đến trên đám mây để phán xét loài người (Đn 7,1 3-14).
– Nhưng khác lần trước, lần đó, Chúa loan báo Người sẽ phải “chịu đau khổ nhiều” “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ”, còn ở đây, Người chỉ nói “bị nộp vào tay người đời”, giống những vị tử đạo trong Cựu ước bị nộp vào tay quân bách hại (Gr 26,24; Tv 71,4; Tv 1401 Đn 7,22).
Khi áp dụng cách nói này cho chính mình, Đức Giêsu coi cuộc khổ nạn của Người giống với cuộc bách hại các ngôn sứ và người công chính trong Cựu ước phải chịu; và Người cũng như bước trên con đường trung tín với Thiên Chúa đến tận cái chết.
“Bị nộp”. Đức Giêsu quả thật đã bị Giuđa nộp cho các thượng tế (14,10): bị các thượng tế nộp cho Philatô (15,10) và sau cùng bị Philatô giao nộp cho lý hình (15,15).
Một chi tiết đáng ngạc nhiên: Đức Giêsu nói về cuộc khổ nạn của Người thì hiện tại: Con Người bị nộp vào tay người đời”. Chắc chắn thánh sử muốn chỉ một tương lai gần, khi dùng thì hiện tại. Nhưng cũng có thể ông muốn nói rằng kế hoạch cứu độ: của Chúa Cha đã bắt đầu được thực hiện, tuy không thấy nhưng cũng không thể đảo ngược.
Các môn đệ vẫn một mực nghe mà không hiểu. Hervieux giải thích: Vẫn là vấn đề không hiểu của các môn-đệ trước những cố gắng của Đức Giêsu, khi Người muốn đưa các ông vào mầu nhiệm cuộc đời Người. Như ta đã thấy, Phêrô đã tỏ thái độ phản loạn đích thực khi nghe loan báo về cái chết của Chúa (8, 32) Còn lần nầy, tâm trí kín mít của các môn đệ được tỏ rõ bằng cách các ông không dám hỏi Thầy, không dám bàn tiếp với những thử thách đang chờ đợi Thầy. Qua đó, chúng ta thấy rằng trực diện với cái chết khó chừng nào! (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 133).
*2. ‘Ở nhà’, lời dạy gây kinh ngạc.
Giờ đây chúng ta ở Ca-phác-na-um tức là “ở nhà”, địa điểm tượng trưng cho những cuộc trò chuyện kín đáo, chủ ý dạy dỗ các với cương vị một tôn sư dầy dạn kinh nghiệm, Người hỏi các môn đệ về đề tài mà trên đường các ông đã tranh luận sôi nổi, những cuộc tranh luận mà người ta thường coi là quan trọng trong quá trình huấn luyện của các vị tôn sư. Các ông không dám nói sự thật nên ngậm miệng làm thinh. Bởi vì trong khi Thầy mình loan báo về con đường khổ nạn sắp tới, thì các ông chỉ tranh luận về ngôi thứ, về vinh dự: “Các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả “.
Rồi, Đức Giêsu ngồi xuống gọi “Mười Hai ông lại”. “Mười Hai ông” một danh xưng hiếm thấy nơi Máccô (3,14; 6,7), điều đó nghĩa là giáo huấn mà Chúa sắp nói đây nhằm nhóm các Tông đồ, những người nắm giừ trọng trách trong Giáo Hội tương lai. Giáo huấn này đảo lộn ngôi thứ thường tình trong phẩm trật nhân loại: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Hervieux giải thích: Chúa lấy ‘người rốt hết’ đối chọi với ‘người đứng đầu’, lấy ‘người đầy tớ mọi người’ đối chọi với ‘người cai quản’. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người (Sđd, trang 35).
– Và để biết chắc mọi môn đệ đều hiểu, Chúa đã soi sáng lời nói bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa. Thời đó người ta coi trẻ nhỏ là “đồ bỏ” vậy mà Đức Giêsu đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.
Hervieux giải thích tiếp: Cử chỉ này có một tầm quan trọng không ngờ. Đem một em nhỏ đặt vào giữa nhóm môn đệ và ôm hôn nó: các cử chỉ này đều đi ngược phong tục hồi đó. Xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Trái lại, thay vì đối xử với chúng như những người sẽ lớn, người ta coi chúng như “vô giá trị”, như đồ bỏ. Tục lệ còn dạy người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo vì chúng không hiểu biết Lề Luật (Sđd, trang 135- 136).
Như vậy, đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ, em nhỏ ở đây tượng trưng cho những người nghèo, những người bị loại trừ, Đức Giêsu đã trả lời rõ ràng cho vấn đề các ông tranh cãi lúc đi đường: “Ai là người lớn nhất?” – “Tìm kiếm vinh dự là điều trơ trẽn nơi những người theo Đức Giêsu, lúc người đang bước vào con đường khổ nhục của cái chết. Làm “đầy tớ ” mọi người mở cửa pháo đài Hội Thánh cho những người hèn kém nhất, những người nghèo đói nhất, đó là “dịch vụ” mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải thi hành. Để thêm trọng lượng cho giáo huấn này, Đức Giêsu kết luận bằng từ “đón nhận”: Người là Đấng Chúa Cha sai đến. Đón nhận Người qua những ai nhỏ bé là đón nhận chính Chúa. Thiên Chúa mặc hình dáng một trẻ nhỏ đó là một sứ điệp bất ngờ, rất độc đáo của trang Tin Mừng đẹp đẽ hôm nay (Sđd trang 136).
BÀI ĐỌC THÊM
*1. Thang giá trị mới (Đức Cha L. Daloz trong “Qui don est-il?”, DDB, trang 55-56).
Đây là lần thứ hai Đức Giêsu loan báo cho môn đệ điều sẽ xảy đến cho Người. Người biết mình sẽ đi về đâu và người nói không úp mở về cái chết gần kề và sự sống lại của Người. Phải chăng Người đã phải chịu nỗi lo âu về cuộc khổ nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này?”. Người còn lo lắng hơn không hiểu gì và họ sợ không dám hỏi Người. Phải chăng họ cũng tiên cảm được mối nguy đang rình chờ? Chúng ta đôi khi cũng không hiểu Đức Giêsu nói gì. Có lẽ vì ta sợ phải hiểu chăng? Qua im lặng, các môn đệ bình thản ở lại trong sai lầm: Nước Trời mà họ mơ tưởng là nước mà ở đó họ đóng vai ông lớn, là nơi mà họ tranh cãi xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất. Khi Đức Giêsu hỏi họ: “Lúc đi đường các anh đã tranh luận gì thế?”, họ làm thinh. May thay, Đức Giêsu dịu dàng và kiên nhẫn loại bỏ sự im lặng và suy nghĩ sai lầm của họ. Vương quốc của Chúa là vương quốc của người phục vụ, là nơi người trước hết trở nên rốt hết, người nhỏ bé nhất trở nên người lớn nhất. Đức Giêsu hiểu rất rõ bản tính con người. Người không cho phép các môn đệ giam mình trong sự thinh lặng để che giấu nỗi sợ hãi và tham vọng. Người đi bước đầu, loan báo, chất vấn, giải thích. Rồi Người đặt một em bé ở giữa các ông, để tỏ cho các ông thang giá trị mới, nó bắt nguồn từ tình yêu đối với Chúa Cha”.
*2. “Ai là người lớn nhất?” (Noel Quesson, trong “Les entretiens du Dimanche. Année B”, Droguet & Ardant, trang 194-195).
“Trong xã hội loài người, tự nhiên ai cũng muốn chiếm được vị trí quan trọng. Đó cũng là luật lệ của thế giới loài vật, một thế giới rất có phẩm trật: luật rừng xanh, nơi kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu, nơi người lớn thống trị người bé. Nhưng Đức Giêsu đến đảo ngược lô-gic đó: “Ai muốn làm đầu thì hãy làm người rốt hết. Ai muốn làm người lớn thì hãy làm đầy tớ mọi người”.
Những câu nói khiêu khích, cách mạng này không do các tông đồ sáng chế ra đâu, vì chính họ là người mong chiếm được địa vị cao. Nhưng chính Đức Giêsu đã đảo ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Nếu chỉ đổi chủ mà thôi thì không hơn gì: nếu người bị thống trị lại trở thành người thống trị, nào có thay đổi gì. Vậy mà lịch sử loài người lại đầy dẫy những cuộc nguỵ cách mạng, những người hò hét “đả đảo quân bóc lột” lại trở thành nỗi kinh hoàng cho những người thấp cổ bé miệng.
Đức Giêsu đề nghị một giải pháp khác: ông chủ tự nguyện đầy tớ mọi người. Đây là một cuộc cách mạng diễn ra trong nội tâm con người: một cuộc đổi mới tâm hồn, một sự từ bỏ truyền thống trị người khác.
Để làm điều đó Đức Giêsu nêu ra một minh hoạ: đứa bé. Trẻ em là một sinh vật nhỏ bé, không được trọng vọng loài xã hội, không có khả năng tự vệ, lại dễ bị người ta loại bỏ, cả bằng cách phạm pháp, như giết nó ngay khi còn trong bào thai nghĩa là vào lúc nó không có một chút khả năng nào để tự vệ. Đứa bé là một kẻ nghèo hèn đúng nghĩa nhất vì nó chẳng có quyền gì. Lúc nào và ở đâu, người ta cũng có thể trao nó vào tay kẻ mạnh, kẻ có quyền lực.
Vào những ngày này, khi bắt đầu các hoạt động, chúng ta tự hỏi xem mình sẽ phục vụ ở đâu?.
CHÚA NHẬT XXv THƯỜNG NIÊN- B
BÀI HỌC VỀ ĐỨC KHIÊM HẠ (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Như Chúa Nhật trước, Chúa Nhật XXV tuần nầy nêu bật viễn cảnh về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh được Đức Giê-su loan báo lần thứ hai theo sách Tin Mừng Mác-cô. Ở nơi chủ đề nầy, ngầm chứa những xung đột có thể dẫn đến ghen tuông, thù hận, thậm chí sát hại đối thủ của mình. Người Công Chính (Bài Đọc I và Tin Mừng) là nạn nhân tiêu biểu cho sự ghen tuông và thù hận nầy.
Kn 2: 12, 17-20
Trong Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, chính vì cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo mà Người Công Chính bị quân vô đạo bách hại cho đến chết.
Gc 3: 16-18; 4: 3
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê là cuộc bút chiến lên án những ghen tuông tranh chấp xuất phát từ những đam mê và những khuynh hướng xấu. Trái lại, Đức Khôn Ngoan Chúa là yêu thương anh em mình cho đến quên bản thân mình.
Mc 9: 29-36
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài, nhưng các ông chẳng những không chịu hiểu mà còn tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm họ. Chúa Giê-su muốn họ hiểu rằng trong Giáo Hội của Ngài người lớn nhất là người phục vụ mọi người. Đó là bầu khí thân thương của một gia đình trong đó cha mẹ là người lớn nhất lại trở thành người hầu kẻ hạ tận tình phục vụ con cái của mình.
BÀI ĐỌC I (Kn 2: 12, 17-20)
Tác giả sách Khôn Ngoan là một người Do thái sinh trưởng ở thành A-lê-xan-ri-a, ông đã viết tác phẩm của mình vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Thành A-lê-xan-ri-a lúc đó là một trong những trung tâm rực rỡ nhất của văn hóa Hy lạp và đồng thời là một trong những thành phố quan trọng nhất của những người Do thái Hải Ngoại.
Quả thật, cộng đồng Do thái ở đây gìn giữ nét đặc thù của mình. Tuy nhiên, sức cám dỗ của môi trường ngoại giáo chung quanh là một thực tế hằng ngày: tính đa dạng của những lý luận triết học, sự phát triển của các bộ môn khoa học, tôn giáo tổng hợp, sức hấp dẫn của những tôn giáo bí nhiệm, vân vân. Ở thành phố này, số lượng những người Do thái bội giáo càng lúc càng đông. Tác giả viết sách Khôn Ngoan để phòng ngừa những sa ngã mới ở nơi những anh em đồng đạo của ông. Với tâm trí sáng suốt của một hiền nhân, ông ra sức chận đứng sự thù ghét càng ngày càng gia tăng ở giữa họ: từ ước muốn dập tắt những lời trách cứ gây phiền hà cho cuộc sống vô đạo của mình, cho đến ước muốn làm khổ và làm hại người công chính lòng dạ sắc son.
1/.Lập luận cực đoan của quân vô đạo:
Đoạn trích sách Khôn Ngoan nầy không là sấm ngôn trực tiếp liên quan đến cuộc Tử Nạn của Đức Ki-tô, nhưng là một phân tích tâm lý mô tả tình trạng tinh thần của những người Do thái bội giáo trước cuộc sống đạo hạnh của người công chính. Cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo của người công chính khiến quân vô đạo chướng tai gai mắt không thể nào chịu nỗi. Lòng căm tức đã đẩy họ đến lập luận quá khích, dẫn họ đến làm khổ và sát hại người công chính:
“Ta hãy gài bẫy hại người công chính,
vì nó làm vướng chân ta,
nó chống lại các việc ta làm,
trách ta vi phạm lề luật,
và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.
Ta hãy coi những lời nó nói có thật không
và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ ra thế nào”. (2: 12, 17).
Tiến trình thù ghét nầy một ngày kia được áp dụng chống lại Người Công Chính tuyệt hảo là Đức Giê-su. Vì thế, sứ điệp nầy mặc lấy một khía cạnh ngôn sứ.
2/.Người công chính chịu đau khổ:
“Nếu tên công chính là con Thiên Chúa,
hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù” (2: 18).
Tước hiệu “con Thiên Chúa” được dành cho dân Chúa chọn, họ hãnh diện vì Thiên Chúa đã công bố họ là con cái của Ngài. Nhưng trong trường hợp nầy, tước hiệu “con Thiên Chúa” mặc lấy một sấm ngôn, vì đó sẽ là lý do mà Thượng Hội Đồng Do thái sẽ nại đến để kết án tử Đức Giê-su: “Người nầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa”.
“Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó,
để biết nó hiền hòa làm sao,
và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.
Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã,
vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (2: 19-20).
Những lời nầy nhắc nhớ Tv 22 mô tả người công chính bị bách hại kêu gào nỗi khốn khổ của mình, nhưng cũng đặt niềm cậy trông của mình vào Đức Chúa. Chính Thánh Vịnh này mà trên Thập Giá Đức Giê-su thốt lên cách thống thiết: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”.
Những kẻ thù của Đức Giê-su cũng sẽ trích dẫn Thánh Vịnh này để nói với nạn nhân của họ đang hấp hối trên thập giá: “Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 43). Tác giả sách Khôn Ngoan phác họa trước dung mạo Người Công Chính lý tưởng gần một trăm năm sau đó.
BÀI ĐỌC II (Gc 3: 16-18; 4: 3)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Đoạn trích thư hôm nay chứa đựng những lời khuyên bảo theo hình thức châm ngôn gợi nhớ cách thức mà các bậc hiền nhân Cựu Ước đã sử dụng, nhưng mang hơi thở Tin Mừng. Thánh Gia-cô-bê đã nhiều lần khai triển mối phúc thứ nhất: “Phúc thay những người nghèo khổ!”. Đoạn văn trích dẫn hôm nay minh họa một mối phúc khác: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình!”. Đoạn văn nầy có hai phần đối nghịch nhau:
1/.Những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Chúa (3: 16-18)
Trong phần thứ nhất, tác giả liệt kê những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Chúa. “Đức Khôn Ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, mến chuộng điều lành, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (3: 17). Việc liệt kê những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan nhắc nhớ bài ca đức mến trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13: 4-7). Nhưng thánh Gia-cô-bê đặt dấu nhấn chủ yếu trên việc xây dựng hòa bình: “Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính” (3: 18).
2/.Những hận thù, ghen ghét của con người (4: 1-3)
Đối nghịch với những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan Chúa là những xung đột ở bên trong con người, trong đó những ham muốn là nguyên do sâu xa nhất của “những hành động hung ác”. Cung giọng của tác giả trở nên khẩn thiết, văn phong được đẩy cao đến mức ngoa dụ: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (4: 2). Cách diễn tả dữ dội nầy, chúng ta cũng gặp thấy ở nơi thư thứ nhất của thánh Gioan: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân” (1Ga 3: 15). Những từ ngữ và hình ảnh ở đây thuộc thể loại bút chiến.
Là thủ lãnh của cộng đồng tín hữu Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội Mẹ, thánh Gia-cô-bê cảm thấy mình chịu trách nhiệm về những tín hữu ở xa của mình; vì thế, thánh nhân đặt tất cả hồn tông đồ của mình vào những lời kêu gọi sống cuộc đời Ki-tô hữu chân chính.
TIN MỪNG (Mc 9: 30-37)
Trong đoạn trích Tin Mừng hôm nay, ý tình đan quyện vào nhau, tâm tư tình cảm dạt dào cảm xúc. Đức Giê-su thực hiện giai đoạn sau cùng sứ vụ tại miền Ga-li-lê của Ngài. Ngài trở lại lần cuối cùng thành Ca-phác-na-um được xem là bản doanh sứ vụ của Ngài. Từ đó, Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để bước vào con đường Thương Khó và Tử Nạn, Phục Sinh và Lên Trời của Ngài. Chúng ta biết rằng trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần, trong khi Tin Mừng Gioan tường thuật Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần vào các đại lễ trong năm.
1.Loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh:
Khi đi ngang qua miền Ga-li-lê, Đức Giê-su tránh gặp gỡ đám đông; Ngài giới hạn giáo huấn của Ngài chỉ trong vòng các môn đệ của Ngài. Khi Thầy trò đang đi trên đường, Ngài gợi lên lần thứ hai viễn cảnh cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài bằng những ngôn từ hầu như y hệt lời loan báo thứ nhất.
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”. Động từ “nộp” ở đây có một ý nghĩa rất mạnh, nhưng được dùng ở thể thụ động “bị nộp” muốn nói lên điều gì? Sau nầy, thánh Mác-cô sẽ vạch mặt chỉ tên những kẻ nộp Đức Giê-su đưa Ngài đến cái chết: đó là ông Giu-đa (14: 10), các thượng tế (15: 1) và quan tổng trấn Phi-la-tô (15: 15). Tuy nhiên, đây cũng là hình thức thụ động thần linh thông dụng mà người Do thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân bằng cách tránh nêu danh Người vì lòng tôn kính. Vì thế, cái chết của Đức Giê-su có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra, nhưng nhất là nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà lời loan báo đầu tiên diễn tả: “Con người phải chịu nhiều đau khổ”. Đây không là cái tất yếu của định mệnh mà Đức Giê-su phải chịu, nhưng là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà Đức Giê-su phải thực hiện.
“Vào tay người đời”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ những kẻ thù không có lòng xót thương. Ở đây kiểu nói nầy hình thành nên một sự đối chiếu thống thiết với danh xưng “Con Người”. Qua danh xưng “Con Người”, Đức Giê-su nhấn mạnh nhân tính của Ngài. Như bao nhiêu người khác, Ngài cũng biết đau khổ và sự chết đang chờ đợi Ngài, nhưng vận mệnh của Ngài được hoàn tất theo thị kiến của Đa-ni-en về Con Người trong vinh quang. Vì thế, như trong lần loan báo đầu tiên, trong lời loan báo thứ hai này, sau khi báo trước cuộc Tử Nạn của mình, Đức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài: “Ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”. Như vậy Tử Nạn và Phục Sinh là hai mặt của một thực tại cứu độ bất khả phân.
2/.Nỗi cô đơn của Đức Giê-su:
Mỗi lần Chúa Giê-su loan báo rõ ràng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô đều nhấn mạnh đến “sự ngu muội” chậm hiểu của các môn đệ (8: 32; 9: 32). Các ông không hiểu, nhưng không dám hỏi Ngài; thay vì đó, các ông lại nghĩ đến việc khác. Các ông đinh ninh rằng việc đi lên Giê-ru-sa-lem lần nầy chắc hẳn Thầy mình sẽ thực hiện sứ mạng của Đấng Thiên Sai, Ngài sẽ thiết lập vương triều của Ngài; vì thế, các ông bắt đầu tranh luận với nhau về những đặc quyền đặc lợi, xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Đức Giê-su không dự phần vào cuộc tranh luận của họ; chắc chắn Ngài đi một mình riêng ra. Không ai trong nhóm Mười Hai, những người đã gắn bó với Ngài suốt ba năm nay, hỏi Ngài về vận mệnh đau thương mà Ngài mời gọi họ dự phần vào. Nói cho cùng, ở nơi họ Ngài không gặp thấy sự đồng hội đồng thuyền đồng sinh đồng tử với Ngài. Đây là khúc dạo đầu cho việc bỏ rơi hoàn toàn mà Ngài sẽ nhận biết vào lúc Ngài bị bắt. Chúng ta cảm thấy nỗi đau đớn của Ngài qua cách trình bày giản dị của đoạn Tin Mừng nầy.
3/.Bài học về sự phục vụ:
Khi đến thành Ca-phác-na-um, vào trong nhà, Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”. Các ông làm thinh, không ai dám thú nhận điều làm họ bận lòng trên đường. Nhưng Đức Giê-su không cần ai nói với Ngài. Vả lại, bài học mà Ngài sắp cho họ có thể giúp cho họ hiểu một cách gián tiếp những lời của Ngài mà vào giây phút nầy, họ đã không thể hiểu được: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Với giáo huấn về sự phục vụ nầy, Đức Giê-su đả đảo ngược cơ cấu phẩm trật thông thường của nhân loại theo đó người đứng đầu là người chiếm những chỗ ngồi danh dự, ăn trên ngồi trước, hưởng những đặc quyền đặc lợi, mà Ngài đã rất dị ứng ở nơi cách sống của giai cấp lãnh đạo Do thái. Có lần Ngài đã nói lên sứ mạng của Ngài: “Con Người đến không để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ”.
Đức Giê-su sẽ đưa ra một mẫu gương rõ ràng hơn nữa vào bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ, khi Ngài rời chỗ ngồi danh dự của Ngài, mặc bộ đồng phục của người hầu và cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của Ngài (Ga 13: 4-16) kèm theo với lời dạy rõ ràng: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15).
Nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban cho họ một bài học đặc biệt, soi sáng mặc khải trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường tiến về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, ở đó Ngài đích thân hiện thực sứ điệp của Ngài: Ngài sẽ bị đối xử như người rốt hết và sẽ chịu khổ hình như kẻ nô lệ. Sau điều đó, Ngài sẽ là người đầu hết, trưởng tử của một nhân loại mới. Ngài ngầm hướng tư tưởng của các môn đệ Ngài về sấm ngôn Người Tôi Trung đau khổ của I-sai-a, chịu thương chịu khó kể cả hy sinh mạng sống mình để đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
4/.Bài học về đức khiêm hạ:
Để có thể nhổ tận gốc rể tính tự cao tự đại và tự mãn của các môn đệ Ngài, Đức Giê-su đưa ra một ví dụ khác. Ngài đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em nầy vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giê-su đối lập thế giới người lớn tự phụ và tham vọng với thế giới trẻ thơ. Trẻ thơ có nhiều đức tính mà người môn đệ của Ngài phải học: chúng biết rõ thân phận nhỏ bé của mình, vì thế, chúng không phô trương sự khôn ngoan và quyền hành của mình, nhưng bày tỏ một niềm tin tưởng đơn sơ và chân thành. Hơn thế nữa, trong Tin Mừng, những người phận nhỏ lại là đoàn chiên của Ngài mà Ngài tận tình chăm sóc và hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10: 11-15). Đó cũng là những “chiên con” mà Ngài sẽ trao gởi cho thánh Phê-rô chăm sóc với lời căn dặn đến ba lần phải yêu mến đoàn chiên của Ngài như yêu mến Ngài hơn bất cứ ai (Ga 21: 15-16).
Trang Tin Mừng nầy là một trong những trang làm chứng về sự chân thật của các tác giả sách Tin Mừng. Các Tông Đồ chẳng có lý do gì để mà tự phụ về mình ở nơi những tình tiết nầy; tuy nhiên họ đã để lại một mẫu gương cho những thế hệ mai sau, họ khiêm tốn nhận ra tâm trí chậm hiểu và thiếu độ nhạy bén của mình.
Sức hấp dẫn và lôi cuốn của Giáo Hội Đức Ki-tô không phải ở nơi việc phô trương những quyền cao chức trọng, nhưng ở nơi thái độ khiêm tốn hạ mình xuống mà phục vụ những anh chị em bé nhỏ cách đơn sơ chân thành. Nói cho cùng, đây là bầu khi thân thương của một gia đình, ở đó cha mẹ là người lớn nhất nhưng đã tự biến mình thành con sen, đứa ở để phục vụ con cái của mình, con cái càng nhỏ thì cha mẹ càng tận tình yêu thương phục vụ hơn nữa.
Giáo Hội phải sống theo mẫu gương của Đức Giê-su. Ngài không tìm cách bảo vệ chính mình, nhưng ra sức bảo vệ những người khác, nhất là những kẻ nghèo hèn, những người cô thân cô thế, những người bị loại trừ. Chính cuộc sống hết lòng cho tha nhân này đã dẫn Ngài đến cái chết, nhưng từ cái chết của Con Thiên Chúa đồng nhất với Chúa Cha trong một tình yêu tận mức dành cho nhân loại, phát sinh ơn cứu độ cho loài người. Đó là sứ điệp mà Ngài gởi đến cho những vị hữu trách trong cộng đoàn dân Chúa: “Ai tiếp một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NGƯỜI CÔNG CHÍNH BỊ BÁCH HẠI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Kn 2,12.17-20) : Phường vô đạo âm mưu hãm hại người công chính.
– Tin Mừng (Mc 9,29-36) : Lần thứ hai Đức Giêsu loan báo người sẽ chịu nạn chịu chết.
I/. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong một thế giới còn nhiều sự dữ và nhiều người xấu, người sống công chính có thể chịu nhiều thiệt thòi vì bị người khác dèm pha, đố kỵ, hãm hại… Tuy nhiên, những khổ đau mà người công chính phải chịu lại sinh nhiều ơn ích cho chính những kẻ làm hại mình.
Kitô hữu chúng ta được kêu mời noi gương Đức Giêsu sống công chính như thế đó. Tuy nhiên, nếu không được Chúa giúp sức thì chúng ta khó mà sống được như thế.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta can đảm sống theo gương Ngài.
II/. GỢI Ý SÁM HỐI
– Nhiều lần chúng ta ganh ghét đố kỵ với những người tốt hơn chúng ta.
– Nhiều lần vì sợ dư luận dèm pha, chúng ta không dám sống tốt như lý tưởng kitô giáo đòi hỏi.
– Nhiều lần vì muốn yên thân, chúng ta không can đảm bênh vực những người vì làm tốt mà bị ganh ghét.
III/. LỜI CHÚA
1/. Bài đọc I (Kn 2,12.17-20)
Những lý do khiến phường vô đạo bách hại người công chính : (1) Người công chính chống lại những việc làm xấu xa của phường vô đạo ; (2) Cách sống tốt của người công chính làm lộ rõ cách sống xấu xa của chúng ; (3) Phường vô đạo bách hại người công chính để thử xem Thiên Chúa có bênh vực người công chính hay không.
2/. Đáp ca (Tv 53)
Mặc dù bị phường vô đạo chống đối và tìm hại mạng sống, nhưng người công chính vẫn trông cậy vào Chúa và kêu xin Chúa cứu giúp mình.
3/. Tin Mừng (Mc 9,29-36)
1/. Chính Đức Giêsu mặc khải cho các môn đệ biết Ngài là ai : Ngài là Đấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại.
2/. Do đã quen với quan niệm về một Đấng Messia vinh quang hiển hách, các môn đệ không hiểu gì cả. Nhưng không dám hỏi lại Đức Giêsu. Và cũng vì đã quen với quan niệm thế tục ấy nên dọc đường các ông tranh luận xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời mà Đức Giêsu thành lập.
3/. Đức Giêsu sửa dạy các ông : trong Nước Trời, đừng ai để ý tới địa vị lớn hoặc nhỏ. Điều thứ nhất phải để ý là phục vụ : càng có chức vụ cao thì càng phải phục vụ nhiều (để nhấn mạnh ý tưởng phục vụ, Đức Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ). Điều thứ hai phải để ý nữa là có thái độ tiếp đón mọi người không phân biệt gì cả, dù là một người hèn hạ, vô ích thì người môn đệ Chúa cũng phải tiếp đón (để nhấn mạnh ý tưởng tiếp đón, Đức Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ, tức là một con người không mang lại lợi ích gì cho kẻ tiếp đón nó, mà còn mang tới phiền muộn).
4/. Bài đọc II (Gc 3,16–4,3) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê thuyết phục tín hữu từ bỏ thói xấu ganh tị tranh chấp : (1) Ở đâu có ganh tị tranh chấp thì ở đó có xáo trộn và đủ thứ xấu xa ; (2) Người xây dựng hòa bình sẽ thu hoạch hoa trái là sự công chính ; (3) Xung đột và chiến tranh bắt nguồn từ những ham muốn bất chính của con người.
IV/. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Người công chính bị bách hại
Elia Wiesel, một nhà văn do thái từng đoạt giải Nobel, kể câu chuyện sau đây :
Hồi đó ông đã bị quốc xã Đức bắt giam trong trại tập trung Auschwitz. Đây là một trại giam nổi tiếng là tàn bạo. Thỉnh thoảng bọn cai ngục bắt một số người đưa vào phòng hơi ngạt cho họ bị chết một cái chết rất khủng khiếp. Một hôm, có một đám trẻ do thái được chọn để hôm sau được đưa vào phòng hơi ngạt ấy. Nhìn thấy đám trẻ ngày mai phải chết, Elia Wiesel động lòng thương nên xin bọn cai tù cho phép ông được ở chung với bọn trẻ ấy một đêm. Thật là ngạc nhiên, bọn cai tù đồng ý ngay. Đêm đó Elia Wiesel kể cho đám trẻ hết chuyện này đến chuyện khác, mong làm chúng được vui. Nhưng kết quả trái ngược hẳn, ông không làm chúng vui được mà chỉ làm cho chúng khóc, và chính ông cũng phải khóc theo. Sáng hôm sau, ông buồn bã tiễn chân đám trẻ vào phòng hơi ngạt rồi trở về phòng giam của mình, mặt mày tiu nghỉu. Bọn cai tù thấy thế thì cười ngặt nghẽo. Thật là vô tình và cũng thật tàn nhẫn.
Câu chuyện trên chứa đựng những ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay. Qua chuyện ấy, chúng ta thấy sự trơ tráo của những kẻ làm điều ác, người vô tội bị bách hại và chiến thắng của sự dữ (bài đọc I) ; chúng ta cũng thấy một tấm gương phục vụ những người bé mọn mà Đức Giêsu đề cao trong bài Tin Mừng.
Trong hoàn cảnh càng tối tăm bi thảm thì hành động phục vụ những kẻ bé mọn càng chói sáng rực rỡ. Trong trại tù Auschwitz, tất cả những gì tốt lành và tử tế đều bị chà đạp, còn những gì là ích kỷ, tự tư tự lợi thì lại được coi là khôn ngoan. Lòng thương xót thì hiếm hoi như một cánh hoa giữa mùa đông giá lạnh.
Elia Wiesel đã vươn lên trên tất cả. Ông dám mạo hiểm cuộc sống để kết bạn với những đứa trẻ sắp bị xử tử. Thực ra ông chẳng có câu trả lời nào để giải đáp cho các em, cũng chẳng làm gì được để cứu các em. Tất cả những gì ông làm được chỉ là cùng sống với các em trong những giờ cuối cùng của cuộc sống, để các em không cô đơn trong đau khổ. Phần nào đó ông là hình ảnh của Đức Kitô.
Đức Kitô là một người công chính. Tuy nhiên Ngài cũng phải chịu khổ : suốt đời Ngài đã bị kẻ thù săn đuổi. Sở dĩ Ngài bị như thế là vì Ngài quá tốt lành, tốt quá nên những kẻ gian ác không chịu nổi. Sự tốt lành của Ngài vạch trần sự gian ác của họ, Ngài càng tốt lành thì sự gian ác của họ càng lộ rõ.
Đức Kitô đã chiến thắng, chiến thắng không phải bằng cách đè bẹp sự gian ác hay trốn tránh sự gian ác, mà bằng cách đối diện với nó và vượt qua nó. Ngài ban can đảm và hy vọng cho tất cả những ai hy sinh bản thân cho tha nhân vì sự công chính. (Viết theo Flor McCarthy)
- Bàn về cao vọng
Có cao vọng không phải là gì sai trái cả. Thực vậy, sống thì phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên cao vọng có thể vượt quá tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình ước vọng.
Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh cuộc sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chí cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì ?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiểu gì về sứ mạng Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi họ lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.
Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vì cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.
Cao vọng sai làm hại cho sự hiệp nhất của cộng đoàn, nó biến thành ích kỷ và ganh ghét, và nó có thể sinh ra đủ thứ thái độ xấu xa đối với nhau.
- Nghề nghiệp và địa vị
Khi Nelson Mandela còn là một sinh viên trường Luật ở Johannesburg, ông có một người bạn tên là Paul Mahabane, một thành viên của Hội nghị quốc gia Châu Phi và là một người có tiếng tăm. Một hôm, hai người đang đứng ngoài cổng Bưu điện thì gặp một công chức da trắng khoảng 60 tuổi. Ông này bảo Mahabane vào mua cho ông vài con tem. Thời đó việc một người da trắng sai bảo một người da đen làm một việc gì đó cho mình chẳng có gì lạ. Nhưng Paul Mahabane từ chối. Viên công chức rất giận, ông hỏi :
– Mày có biết tao là ai không ?
Paul bình tĩnh trả lời :
– Tôi không cần biết ông là ai. Tôi chỉ biết ông là gì thôi.
Ông công chức da trắng hét lên : “Mày sẽ phải trả giá về việc này đó”. Rồi ông bỏ đi.
Người da trắng này nghĩ rằng phẩm giá của ông cao hơn Paul Mahabane chỉ vì ông là một công chức; và vì là công chức nên ông có quyền sai khiến kẻ khác, nhất là người da đen.
Chúng ta cũng có khuynh hướng đánh giá người khác theo địa vị và nghề nghiệp. Gặp một bác sĩ thì chúng ta kính trọng, còn gặp một người công nhân thì chúng ta coi thường. Nhưng như thế là vừa bất công vừa ngớ ngẩn, bởi vì cái làm nên một con người không phải là địa vị và nghề nghiệp mà chính là con người của người đó. (Viết theo Flor McCarthy)
- Bài học bất ngờ về giá trị con người
Nếu muốn hiểu đoạn Tin Mừng này rõ hơn, chúng ta cần xác định thời điểm của nó : Khi ấy, Đức Giêsu đã rao giảng được khoảng 3 năm., sắp tới lúc Ngài kết thúc sự nghiệp của mình ở trần gian, một kiểu kết thúc mà không ai có thể ngờ được, nghĩa là kết thúc bằng cái chết đớn đau tủi nhục trên Thập Giá. Chính vì đoán trước rằng không ai có thể ngờ được việc đó cho nên Đức Giêsu phải nói trước cho các môn đệ mình hay, để khi sự việc xảy ra thì họ sẽ không quá ngỡ ngàng và hoang mang. Những lời báo trước về cuộc khổ nạn mà chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin Mừng này là lần loan báo thứ 3 rồi đó. Dù vậy, các môn đệ vẫn không hiểu. Họ cũng đoán là Đức Giêsu sắp kết thúc hoạt động rao giảng, nhưng kết thúc một cách huy hoàng bằng cách chiếm lấy quyền bính và lên ngôi vua. Chính vì nghĩ như vậy nên họ bắt đầu tranh dành nhau xem trong cái chính phủ mà Đức Giêsu sắp lập ấy, ai trong nhóm họ sẽ được giữ địa vị nào.
Chính trong hoàn cảnh ấy, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ mình một bài học, bài học thật bất ngờ : Chúa nói : “Ai muốn làm lớn thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”.
Bài học này rất bất ngờ. Bởi vì nó không giống quan niệm của người ta vẫn nghĩ từ xưa tới nay. Theo quan niệm cũ ấy thì ai là người lớn ? Thưa là người ở địa vị cao, người được những kẻ khác hầu hạ. Còn ai là người nhỏ ? Thưa là người ở địa vị thấp, người phải hầu hạ kẻ khác. Thí dụ như khi chúng ta thấy một chiếc xe du lịch, trong số có hai người ngồi : một người ăn mặc đàng hoàng sang trọng ngồi ở băng sau, và một người ăn mặc xuề xoà ngồi cầm lái phía trước. Tự nhiên ta biết trong hai người đó, ai lớn, ai nhỏ : người lớn chính là cái ông ăn mặc sang trọng đang ung dung ngồi phía sau, còn người nhỏ là kẻ ăn mặc xuề xoà phải lái xe cho ông kia. Hay khi chúng ta đang ngồi trong một phòng khách : có một người đang ngồi tiếp chuyện với ta, uống nước trà, ăn bánh, hút thuốc, và một người nữa lo bưng bánh, rót nước. Hỏi ai là người lớn ? Dĩ nhiên là người đang ngồi. Còn ai là đầy tớ ? Dĩ nhiên đó là người đang phục vụ.
Nhưng Đức Giêsu thì dạy ngược lại,. Nếu Đức Giêsu cũng chứng kiến những cảnh trên và ta hỏi Chúa : Thưa Chúa, trong chiếc xe du lịch ấy có hai người, ai lớn ai nhỏ ? Đức Giêsu sẽ trả lời ngay : cái ông ngồi phía sau là nhỏ, còn người tài xế là lớn. Nếu ta hỏi tiếp : còn trong phòng khách cũng có hai người, vậy thưa Chúa ai lớn ai nhỏ ? Đức Giêsu cũng trả lời không chần chừ : người đang ngồi là nhỏ, còn người đang phục vụ là lớn.
Tuy nhiên chúng ta đừng hiểu lầm, Đức Giêsu không chủ trương đảo lộn tất cả, biến kẻ ở địa vị cao thành người nhỏ và cho kẻ ở địa vị thấp thành người lớn đâu. Tiêu chuẩn Chúa đưa ra để đánh giá một người, ấy là sự phục vụ. Như thế ai biết phục vụ thì là người lớn. Còn kẻ không phục vụ thì là người nhỏ. Người ở địa vị cao mà biết phục vụ thì vẫn là người lớn, còn kẻ ở địa vị thấp mà không phục vụ thì cũng vẫn là người nhỏ.
Nghĩa là : giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Để minh hoạ cho bài học này, sau đó Đức Giêsu đưa ra hình ảnh một em bé. Hình ảnh của một em bé đối với bất cứ người nào nhìn, cũng thấy là dễ thương. Cho nên khi thấy một em bé, ai cũng muốn bồng ẵm, muốn ôm hôn, muốn cho nó ăn bánh, ăn kẹo. Tại sao người ta thương em bé và muốn cho nó đủ thứ như vậy ? Có phải tại nó giỏi giang, tại nó giúp cho người ta được việc này việc nọ không ? Thưa hoàn toàn không, đứa bé còn quá nhỏ, chưa biết là gì, chưa giúp ích được gì. Nhưng người ta thương nói chỉ vì người ta thương nó, thế thôi. Một tình thương hoàn toàn vô vụ lợi. Người ta cho nó cái này cái nọ, cũng không phải để trả ơn nó hay để mong nó làm gì giúp mình. Cũng chỉ vì thương mà phục vụ thôi. Chúa dùng hình ảnh em bé để minh hoạ cho bài học phục vụ trên kia : chúng ta cũng phải cư xử với mọi người theo kiểu chúng ta cư xử với một em bé : hết lòng yêu thương phục vụ một cách hoàn toàn vô vụ lợi. Người nào biết phục vụ kẻ khác như thế thì là phục vụ Chúa, và mới xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Chúng ta hãy nhớ bài học của Chúa : giá trị con người không tuỳ vào địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
– Trong một gia đình, ai là người lớn nhất ? Có phải là người cha, người chồng không ? Bề ngoài là như vậy. Nhưng đối với Chúa thì chưa chắc. Người cha ấy, người chồng ấy nếu chỉ biết có ra lệnh bảo người này người nọ làm mọi việc, nếu chỉ biết ngồi đó mà chê món ăn này dỡ, cái bàn này lau chưa sạch, nhà cửa này lộn xộn lung tung ; nếu chỉ biết ăn no rồi đi chơi, chỉ biết có nhậu nhẹt và để mặc vợ con làm tất cả, thì đó chính là kẻ nhỏ nhất trong nhà, nhỏ hơn cả vợ mình, nhỏ hơn cả con mình. Bởi vì người chồng người cha ấy là một người vô ích.
– Trong một khu xóm cũng vậy, trong một cơ quan cũng vậy, trong một họ đạo cũng vậy. Nếu xét theo tiêu chuẩn của Chúa, thì kẻ lớn nhất không hẳn là người có địa vị cao nhất, không hẳn đó là ông trưởng xóm, không hẳn đó là ông giám đốc, không hẳn đó là ông Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ. Mà rất có thể kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm ít nói, nói ít mà làm nhiều ; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách giúp ích cho người khác.
– Thí dụ như Linh mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở Chủng viện, Vianney thi không đủ điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được phong chức Linh mục. Vì thấy Cha quá kém cỏi. Đức Giám Mục đưa Cha đi làm Cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng Cha Vianney đã tận dụng tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày Cha chỉ nghỉ ngơi 3,4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi toà giải tội thì liên miên, có khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ. Dần dần cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các Linh mục, Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ Cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết tiểu sử của Cha đã nhận định : Nếu cả Giáo Hội Nước Pháp mà có được chỉ một vài Linh mục như Cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên Thánh,. Đó mới là người lớn thật mặc dù chỉ là một Linh mục học kém, một Cha sở nhà quê, bởi vì sức phục vụ của Cha thật là lớn.
Bài học của CG hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.
Ai muốn làm lớn thì phải hạ mình phục vụ mọi người như một kẻ đầy tớ.
Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà là do khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Xin Chúa ban thêm cho chúng ta sự khiêm nhường và sự siêng năng, để chúng ta có thể thực hành bài học phục vụ mà Chúa dạy chúng ta hôm nay.
- Tính ganh ghét
Trong lúc Đức Giêsu gần tới giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc đời là sắp bị bắt và chịu chết để chuộc tội loài người, thì các tông đồ lại còn ganh ghét nhau, tranh dành địa vị với nhau xem ai lớn ai nhỏ trong nước mà họ tưởng Chúa sẽ thành lập. Như thế đủ biết cái tính ganh ghét có thể xâm nhập vào bất cứ ai (kể cả các tông đồ), và bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả lúc Đức Giêsu sắp chịu chết). Cho nên ganh ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu, mối thứ 3.
Trong bài Thánh Thư hôm nay, Thánh Giacôbê cũng bàn về tính ganh ghét này. Ngài nói “Ở đâu có ganh ghét và cải vả thì ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”. Thánh Giacôbê là một người thực tế, nhận xét này của Ngài cũng rất thực tế. Thật vậy chỗ nào có ganh ghét thì chỗ đó phát sinh đủ thứ tệ đoan :
a/ Gia đình chẳng hạn : lẽ ra đó phải là một tổ ấm hạnh phúc mà mọi người sống trong đó yêu thương, nâng đỡ, nhường nhịn, ủi an nhau. Nhưng nếu chẳng may trong gia đình có một người ganh ghét, thí dụ như một người chị ganh với một đứa em vì nó đẹp hơn, thông minh hơn, được mọi người thương mến hơn…thì trong nhà có những háy nguýt, phân bì, nói bóng nói gió, cải vả nhau, thậm chí xô xát nhau nữa… Gia đình hết là tổ ấm mà trở thành gần như hoả ngục.
b/ Ở sở làm cũng thế, nhất là những chỗ có nhiều đàn bà con gái. Nhiều chị em đã phải vất vả tốn công tốn của để tìm cho được một chỗ làm. Bắt đầu đi làm thì vui vẻ hăng hái lạc quan. Nhưng làm một thời gian rồi thì đụng phải sự ganh ghét của chị em đồng nghiệp, và khởi sự chán nản, buồn bả, bi quan, chỉ muốn thôi việc đi tìm chỗ khác.
c/ Ngay trong những nơi đạo đức như các dòng tu cũng thế. Lẽ ra chốn tu trì phải là nơi sốt sắng thánh thiện. Các Tu sĩ thương yêu nhau và giúp nhau nên thánh. Khi một người đi tu, họ tự nguyện từ bỏ mái ấm gia đình và chọn tu viện là gia đình mới, chọn các tu sĩ sống chung trong nhà là những người anh chị em mới. Lẽ ra họ sẽ được hưởng một thứ hạnh phúc siêu nhiên bù đắp cho thứ hạnh phúc tự nhiên mà họ đã tự nguyện từ bỏ. Nhưng nếu trong cộng đoàn có một vài người ganh ghét, thì chân tu viện trở thành ngột ngạt, đời sống cộng đoàn trở thành gánh nặng.
Quả thực thánh Giacôbê tông đồ đã nói rất đúng “Ở đâu có ganh ghét thì ở đó có đủ thứ tệ đoan”. Ta hãy phân tích thêm câu nói này. Ganh ghét đưa đến những tai hại như thế nào ?
1/ Trước hết là hại cho chính bản thân người ganh ghét :
. Người ganh ghét tự nung nấu ruột gan mình bằng ngọn lửa khó chịu âm ỉ mãi. Thấy người ta dở, người ta xấu, người ta làm sai làm quấy thì mình khó chịu đã đành ; mà thấy người ta hay, người ta tốt, người ta thành công mình cũng khó chịu. Thành ra khi người ta vui thì mình buồn, người ta sung sướng thì mình đau khổ, người ta càng vui sướng chừng nào thì mình càng buồn khổ chừng nấy.
. Hại hơn nữa là người ganh ghét tự làm giảm giá trị và tư cách của mình nữa. Ganh ghét với ai là tự đặt mình vào thế tranh đua với người đó. Mà trong cuộc tranh đua này, nếu mình cảm thấy khó chịu, bực tức khổ sở trước thành công của người khác, thì đó là dấu mình đã thua kém. Thua kém mà còn khó chịu bực tức thì cho thấy tư cách của mình cũng thấp kém nữa.
2/ Tai hại thứ 2 của tính ganh ghét là gây cho nạn nhân bị mình ganh ghét. Vì ganh ghét mà mình làm cho người ta buồn người ta khổ một cách hết sức bất công. Chứ nếu công bình mà xét thì người ta đều có gì để đáng phải buồn khổ như vậy. Chỉ vì người ta hay, người ta tốt, người ta giỏi mà người ta phải khổ. Lẽ ra người ta phải được khen thưởng, phải được mừng vui thì vì ganh ghét mà mình làm cho người ta khổ sở. Người bị ganh ghét như thế lâm vào một hoàn cảnh thật khó xử : một đàng là công việc phải làm, đã làm thì phải làm cho tốt, cho hay – mà càng tốt càng hay thì càng bị mỉa mai dằn vật. Biết xử thế nào bây giờ ! Thật là khó. Thôi chỉ còn nước cứ tiếp tục làm và cắn răng, nuốt nước mắt mà chịu đựng những lời mỉa mai của kẻ ganh ghét.
3/ Sau cùng tính ganh ghét còn làm hại cho tập thể nữa. Người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét ; và cũng thật là xui xẻo cho ai lỡ thuộc về tập thể có vài kẻ ganh ghét như thế.
Những tai hại vừa kể dẫu không nói ra thì ai cũng có thể nhận thấy. Nhưng có một điều khó nhận thấy là ít ai nhận thấy mình mang tính ganh ghét. Ai cũng có thể bị tính ganh ghét xâm nhập, nhưng ít ai biết mình đang có tính xấu ấy. Chị em có thể ganh ghét nhau mà không hay ; bạn bè có thể ganh ghét nhau mà không biết ; những người đồng lý tưởng có thể ganh ghét nhau làm hại nhau mà không ngờ. Các con của ông Giacóp ganh ghét đến nỗi bán em là Giuse mà vẫn thản nhiên ; các tông đồ ganh ghét tranh dành địa vị với nhau đang lúc Đức Giêsu sắp bị bắt bị giết mà vẫn không thấy là kỳ. Chúng ta cũng có thể đang ganh ghét với người đồng nghiệp của mình, với người hàng xóm của mình, với chính anh chị em bạn bè của mình mà vẫn không hay. Vì thế chúng ta phải hết sức khiêm nhường mỗi khi xét mình, kiểm điểm dời sống. Dấu hiệu rõ ràng nhất cho biết mình đang có tính ganh ghét là khi mình thấy người khác thành công, mình chẳng những không vui mừng với người ta mà còn bực bội khó chịu với họ, hay thấy người ta thất bại thì mình lại vui sướng.
Xin Chúa giúp chúng ta biết khiêm nhường nhìn đúng khả năng và giới hạn của mình. Và xin Chúa giúp chúng ta biết cố gắng vui với thành công của người khác, buồn với thất bại của người khác, và đoàn kết với nhau, giúp nhau càng ngày càng hay hơn, tốt hơn.
Một linh mục kể lại câu chuyện đầy kịch tính sau đây :
Tại một vùng hoang dã, những tay giang hồ tứ chiếng tập trung trong một khu trại. Một phụ nữ duy nhất sống giữa đám đàn ông sa đọa. Ban ngày cuốc xới bới tìm, đêm về là rượu chè bài bạc. Người phụ nữ đã gian díu với một tay quái nào đó và đang mang thai. Ngày sinh con, chị suy nhược không chịu nổi phút thử thách đã chết trên giường sinh.
Biến cố này bắt những tay giang hồ phải suy nghĩ một cái gì khác hơn là chuyện tranh chấp vàng bạc, rượu chè. Thơ nhi được đặt nằm trên tấm ván cạnh xác người mẹ. Bên dưới người ta đặt một cái nón ngửa để nhận quà tặng. Chiếc nón đầy đồng hồ, dây chuyền, nhẫn cưới, đồng vàng. Tất cả quà tặng dùng để chôn xác người mẹ xấu số và nuôi đứa bé thơ dại. Một ông già tình nguyện lo cho cháu nhỏ.
Người ta vô cùng bỡ ngỡ là ngày góp mặt đứa bé trong trại, cuộc sống đám quái đã đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc đêm để cho em bé ngủ yên, dừng lại những câu tục tĩu khi ở trước mặt bé, những nụ hôn thắm thiết như mưa trên nét mặt vô tội.
Một hôm vỡ đê, nước cuồn cuộn tràn lều. Nhảy khỏi giường, ai cũng đến tìm bé. Không ngờ bé và cụ già bố nuôi đã bị cuốn trôi lúc nửa đêm. Hai tay bé vẫn níu chặt cổ bố. Ngày đào hố chôn hai xác thiên thần cũng là ngày những người trong trại giang hồ chôn hết quá khứ. Họ vẫy tay, từ giã nhau mỗi người về một nẻo. Có phải chính nét thơ ngây thiên thần kia làm cho khách giang hồ trực cảm được một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc đời trôi nổi phi lý đó ? Có phải chính ánh mắt, nụ cười, nét đẹp thiên thần đã khơi một hương sống mới lạc quan và tươi vui hơn.
*
“Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc.9,37).
“Trẻ nhỏ” ở đây được xem là những người không quan trọng, không đáng kể, không cần lưu ý ; những người nghèo hèn, tàn tật, bị bỏ rơi. Đức Giêsu muốn đồng hòa với những con người bất hạnh ấy, để khi đón tiếp họ, chúng ta hoàn toàn vô vị lợi, vì không mong chờ sự đáp trả của những kẻ khốn khổ ấy. Đó chính là sứ điệp mà Đức Giêsu muốn gởi tới chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Người còn khẳng định : “Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc.9,35). Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, chúng ta thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa và anh em. “Người lớn nhất” là người phục vụ nhiều nhất, hăng say nhất. “Người lớn nhất” là người làm trước nhất và nghỉ sau cùng.
Đó là một cuộc cách mạng về quan điểm “Người lớn nhất” nơi Đức Giêsu. “Người lớn nhất” theo kiểu của Đức Giêsu không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng đôi tay để phục vụ. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương. Thế giới ngày nay rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu ấy : khiêm tốn, phục vụ, và yêu thương. Bourdaloue có nói : “Đặt mình trên kẻ khác chính là tự buộc mình làm việc và phục vụ họ”. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói : “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
*
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng là người đứng đầu trong một tập thể nhỏ bé nào đó, xin cho chúng con biết dùng quyền hạn của mình để phục vụ những người Chúa giao phó cho chúng con. Nhất là xin cho chúng con luôn thao thức, làm cho họ ngày càng được an vui và hạnh phúc hơn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
- Tiếp đón em nhỏ
“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy”.
Tôi thán phục giáo huấn của Đức Giêsu về cách làm lớn, một giáo huấn rất ngược đời nên rất đặc biệt : “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ”. Nghĩa là làm lớn không phải để sai khiến người ta phục vụ mình, trái lại phải phục vụ người ta.
Nhưng tôi càng thán phục hơn vì Đức Giêsu đã không nói phục vụ suông, Ngài còn chỉ rõ phải ưu tiên phục vụ những kẻ nhỏ nhất.
Gia đình bên cạnh nhà tôi có một người cha được con cái thương mến còn hơn thương mẹ chúng, bởi vì người cha này tự dành lấy trách nhiệm chăm sóc các con : chính tay ông tắm rửa cho các con ; chính ông dỗ ngủ các con ; ông bồng bế con nhiều hơn mẹ chúng. Ông là người lớn nhất trong nhà nên phục vụ nhiều nhất. Ông còn đặc biệt ở điểm này nữa là quan tâm chăm sóc đứa con nhỏ nhất hơn các đứa khác. Bởi vậy khi có thêm một đứa em chào đời, thì đứa anh hay chị gần nó nhất tự biết “thân phận” của mình, nhường cho em nhỏ được hưởng những chăm sóc ưu tiên của ba.
Tóm lại, bài học phục vụ đã hay, mà bài học ưu tiên phục vụ kẻ nhỏ nhất còn hay hơn.
V/. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy : “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”, và chính Người đã thực hành điều Người dạy, là chịu tử hình thập giá để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và dâng những lời nguyện sau đây :
1/. Xin cho mọi giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / biết loại bỏ mọi hình thức thống trị và chuyên chế / để trở thành người phục vụ theo gương Chúa Kitô.
2/. Xin cho những người đang làm lớn trong xã hội / đừng lợi dụng chức quyền để tìm hiểu giàu sang danh vọng / nhưng biết quan tâm trước hết đến việc phục vụ đồng bào mình.
3/. Xin cho những người nghèo đói, thất nghiệp, tị nạn, không nhà không cửa, bị xã hội bỏ rơi / được gặp những người biết quan tâm an ủi và giúp đỡ thật tình.
4/. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta biết chú ý đến những người gặp khó khăn thử thách / người ở trong họ đạo cũng như mọi người mình có thể gặp / để cùng nhau tìm cách phục vụ họ.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã làm gương và dạy chúng con phục vụ cho nhau, khi Chúa rửa chân cho các môn đệ, và nhất là khi Chúa hy sinh mạng sống chuộc tội chúng con ; xin giúp chúng con luôn sẵn sàng phục vụ mọi người như Chúa đã dạy. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI/. TRONG THÁNH LỄ
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi những tính xấu ganh ghét, đố kỵ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII/. GIẢI TÁN
Sống công chính theo gương Đức Giêsu thật là khó. Nhưng đó là sứ mạng của người môn đệ Chúa. Với sự trợ giúp tích cực của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sống công chính, cho dù có thể gặp những khó khăn, thiệt thòi.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN -B
CON NGƯỜI BỊ NỘP TRONG TAY NGƯỜI ĐỜI (*) – Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1) Ngày nay ai dám nghiêm trang tuyên bố rằng mình chỉ có một tham vọng là sống một đời sống thánh thiện, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa với bất cứ giá nào Mọi người sẽ cười vào mặt, sẽ cho là điên và rồi thương hại kẻ đó. Muốn hướng đời ta vào sự hiền lành, nhưng không, tha thứ, khiêm tốn, lưu tâm đến tha nhân và thánh ý Chúa, chính là dấn thân đi ngược dòng, chính là trở nên khiêu khích và sẽ bị chống đối từ phía những người mà thái độ này là một lời tố cáo họ. Hiện tượng này không chỉ xảy ra vào thời đại ta: ở Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu, ở Alexandria vào thế kỷ I trước Chúa Giêsu cũng đã như vậy. Và trong Hội Thánh, sẽ luôn có hiện tượng này. Nhưng đó lại là chính từ, đôi khi rất anh hùng, mà mỗi tín hữu chân chính phải có. Cần phải sống cái thế giới mới trước khi rao giảng nó. Cần phải sống nó để thế giới mới trở thành thực tại, với bất cứ giá nào.
2) Chúa Giêsu được sai đến để tái tạo vũ trụ như ngày đầu tiên từ tay Thiên Chúa. Người đến không phải để thay đổi các cơ cầu xã hội đương thời, nhưng dể chiến thắng trên một bình diện sâu xa và nội tâm hơn. Người đến để chỉ cho ta con đường giải thoát khỏi những ham muốn, vị kỷ, ghen tương. Con đường đó chính là con đường thập giá, con đường đi ngược chiều với chuyển động tự nhiên của ta. Tất cả chúng ta dầu muốn làm lớn, không chỉ làm lớn, mà còn lớn hơn, lớn hơn xứ nọ, lớn hơn người kia. Bằng một giọng vừa dịu dàng nhưng cương quyết, Chúa Giêsu nói: Nếu ai muốn làm lớn, hãy làm người nhỏ nhất. Để được vậy, cần phải có một tâm hồn thanh thoát, vô vị lợi. Ta thường có khuynh hướng đón tiếp, thân cận với những ai có thể giúp ích cho ta tiến lên địa vị xã hội. Chúa Giêsu lại nói: Hãy đón tiếp các trẻ em. Đón tiếp trẻ em là một việc làm vô vị lợi, vì thường chúng chẳng đem lại lợi ích cho ta. Chúa Giêsu nói đó là con đường giải thoát nội tâm và là con đường xây dựng một thế giới mới phải hợp với chương trình của Chúa.
3) Chúng ta không luôn luôn thấy rõ đức tin sẽ dẫn ta đến chỗ nào, nhưng chúng ta vẫn đi theo, không dám hỏi Chúa hoặc cố gắng đào sâu; đó là thái độ của các môn đồ khi Chúa nói với họ những lời khó nghe, khó chấp nhận. Đối với chúng ta ngày hôm nay, có nhiều biến cố trong đời ta hoặc đời kẻ khác mà ta thấy khó hiểu, khó chấp nhận. Ta không thấy Thiên Chúa muốn dẫn ta đi đâu, đâu là những nẻo đường mà Ngài đang muốn ta phải trải vượt. Đời sống Kitô hữu là thế: có lúc là một đại lộ thẳng tắp với đèn báo hiệu dọc đường, nhưng thường là một ngõ hẹp quanh co mà ta không biết sẽ dẫn tới chỗ nào cả. Nhưng dù có bao nhiêu chướng ngại khó khăn, ta vẫn được bảo đảm rằng có một con đường và con đường đó dẫn đến một cùng đích: “Ta là đường đi”.
4) Tụ họp lại để cùng dâng lễ, ta hãy để cộng đoàn và Lời Chúa chất vấn về cái làm nên cuộc sống của ta. Bởi vì đế việc dâng Thánh lễ có ý nghĩa đích thực, ta phải khởi hành từ đời sống của ta. Trước khi đặt một dấu chỉ hữu hình giữa các môn đồ, Chúa Giêsu đã chất vấn và mời gọi họ hãy vượt thắng mình, hãy hồi tâm trở lại: “Đang khi đi đường, các ngươi đã tranh luận gì với nhau thế?”. Ở giữa cộng đoàn, ta cũng được mời gọi nhìn lại cuộc đời ta với những cái tốt và không tốt, và rồi Lời Chúa sẽ làm sáng tỏ cuộc đời ta. Bao giờ mối dây mật thiết này không có giữa cuộc đời ta và việc dâng lễ, Thánh Thể sẽ mất tất cả ý nghĩa của nó.
5) Chúng ta phải vượt qua các phản ứng nhân loại, các tranh chấp của ta, để đón nhận Chúa vào cuộc đời ta, và đón nhận anh em ta nhân danh Người, như người ta đón nhận một trẻ nhỏ. Chính lúc chúngs ta để mình bị Lời Thiên Chúa chất vấn, chúng ta mới có thể đón nhận dấu chỉ của Chúa ban cho ta: đối với các môn đồ, đó là một đứa trẻ; đối với chúng ta hôm nay, đó là chiếc bánh được bẻ ra. Để đón nhận các dấu chỉ của vương quốc Thiên Chúa hôm nay, cần có một sự hồi tâm, một cuộc đoạn tuyệt. Chúng ta được kêu mời tự chất vấn về cách thức chúng ta đón nhận kẻ khác, với tất cả bản tính của họ, với những mối ưu tư, công việc, sáng kiến, ý tưởng của họ. Tất cả những điều ấy thật là cụ thể và tầm thường… nhưng chính giữa cái tầm thường ấy mà Chúa tỏ mình ra cho ta chính trong mức độ ta niềm nở với tha nhân mà ta có thể thực sự tiếp đón Chúa.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
NỀN VĂN MÌNH MỚI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Vào năm 2000, hàng tỷ người trên thế giới say mê theo dõi những cuộc tranh tài giữa các vận động viên hàng đầu của hành tinh trong Đại hội Olympic Sydney. Điểm đặc biệt của Olympic cuối cùng của thiên niên kỷ này là có sự tham dự của các vận động viên phụ nữ. Đây là một điểm son không của riêng Olympic mà của cả nhân loại. Điều đó chứng tỏ phụ nữ đang được trân trọng. Càng ngày vị trí của người phụ nữ càng được nâng cao. Nữ giới đang đi vào bình đẳng với nam giới trên hầu hết mọi lãnh vực. Thế giới đang đi vào một nền văn minh mới mà Đức Giêsu tha thiết truyền dạy cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thời xa xưa, khi còn sống hoang dã, con người ta đối xử với nhau thật tàn nhẫn. Người ta tranh giành thực phẩm. Người ta tranh chấp đất đai. Tất cả đều theo định luật cạnh tranh sinh tồn. Trong cuộc cạnh tranh thì dĩ nhiên mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Khi con người đã biết tổ chức thành xã hội, sự cạnh tranh được định chế hóa trong giai cấp, quyền chức. Người có quyền có chức bao giờ cũng được lợi. Người dân đen thấp cổ bé miệng bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi. Người nghèo không được có tiếng nói. Chính vì thế, ai cũng cố gắng vượt lên trên người khác hoặc bằng tiền bạc hoặc bằng chức quyền. Ai cũng muốn làm người đứng đầu. Ai cũng muốn làm lớn. Vì thế luôn luôn có sự cạnh tranh ngôi thứ. Trong cuộc cạnh tranh, người ta nhìn nhau như đối thủ cần phải chà đạp, cần phải loại trừ.
Hôm nay, khi thấy các môn đệ có dấu hiệu ham hố chức quyền, cạnh tranh ngôi thứ, Đức Giêsu đã nhân cơ hội dạy cho các ông biết tinh thần mới mà người môn đệ trong Nước Thiên Chúa phải có. Đó là: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”.
Đây thật là một cuộc cách mạng. Vị trí trong xã hội bị đảo lộn. Người đứng đầu không còn phải để ra lệnh, nhưng để phục vụ. Người làm lớn không còn ăn trên ngồi trốc, nhưng chọn chỗ hèn mọn nhất. Người bé nhỏ nhất trở nên người lớn nhất. Người yếu đuối nhất trở nên người được trọng vọng nhất.
Đây là một cuộc cách mạng không đổ máu. Vì người đứng đầu trở thành người phục vụ không phải vì ép buộc nhưng do tự nguyện. Vì người làm lớn xuống chỗ hèn mọn nhất không buồn sầu nhưng trong niềm vui. Thế giới biến đổi không do những đấu tranh giành quyền lợi, nhưng do người có quyền tự nguyện từ bỏ đặc quyền đặc lợi.
Với lời dạy dỗ ấy, Đức Giêsu đã mở ra một nền văn minh mới. Trong nền văn minh mới này, người ta không còn nhìn nhau như những đối thủ phải loại trừ trong cuộc cạnh tranh. Người ta nhìn nhau như những người anh em phải yêu thương nâng đỡ. Sẽ không còn tranh giành. Sẽ không còn xâu xé, chà đạp nhau. Sẽ chỉ có yêu thương. Sẽ chỉ có quan tâm nâng đỡ. Người mạnh sẽ quan tâm dắt dìu người yếu. Người lớn sẽ cúi xuống bồng bế người bé. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.
Để làm gương cho ta, chính Đức Giêsu đã tự hạ mình trước. Là Thiên Chúa, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Là Đấng cầm quyền, nhưng Người đã tự nguyện vâng lời. Là thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là người lãnh đạo, nhưng Đức Giêsu không đòi hỏi đặc quyền đặc lợi, trái lại Người sẵn sàng hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.
Người đã hóa thân làm một con người bé nhỏ, nghèo túng, hèn yếu nhất. Để từ nay, ai đón tiếp một người bé nhỏ nhất là đón tiếp chính Người. Ai giúp đỡ một người yếu hèn nhất là giúp đỡ chính Người. Ai yêu mến một người nghèo túng nhất là yêu mến chính Người.
Với sự hạ mình của Người, số phận con người từ nay thay đổi tận gốc rễ. Người bé nhỏ trở thành đối tượng được quan tâm phục vụ. Người yếu đuối được nâng niu chăm sóc. Người nghèo hèn được kính trọng yêu thương. Vì họ đã trở thành hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Từ nay, nhân loại đi vào một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương. Nhân loại không còn tranh chấp nhau, nhưng trở nên anh em đoàn kết thương yêu nhau. Sức khỏe, của cải, chức quyền không phải là những phương tiện để chà đạp, nhưng là những phương tiện phục vụ. Lãnh đạo không còn là một quyền lợi, nhưng trở thành một nhiệm vụ nặng nề vì phải quan tâm phục vụ mọi người.
Suy gẫm Lời Chúa dạy hôm nay hẳn phải khiến ta giật mình lo lắng. Không những ta không đi vào con đường Chúa đã vạch ra, mà rất nhiều khi còn chống lại Lời Chúa dạy bảo. Ta vẫn nuôi những tham vọng thống trị người khác. Ta vẫn muốn chiếm giữ những địa vị quan trọng. Ta vẫn coi thường những người bé nhỏ, hèn yếu. Ta đang đi ngược trở lại thời tiền sử. Ta đang đi ngược lại con đường Chúa đã đi.
Hôm nay Chúa mời gọi ta hãy trở lại con đường của Chúa. Hãy tự nguyện trở thành người bé nhỏ khiêm nhường. Hãy biết nâng dậy những số phận hẩm hiu. Hãy biết kính trọng những mảnh đời nghiệt ngã. Hãy góp phần xây dựng nền văn minh mới, trong đó những người yếu đuối như phụ nữ và trẻ em được quan tâm và được kính trọng.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày nay, trẻ em phụ nữ, những người bệnh tật được quan tâm hơn ngày xưa. Bạn có thấy đó là dấu hiệu Lời Chúa dạy đang được thực hiện không?
2) Tại sao Chúa Giêsu sinh làm một người bé nhỏ, nghèo hèn?
3) Tại sao con người không nên tranh chấp nhau nhưng phải yêu thương phục vụ nhau?
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
LÀM ĐẦY TỚ CHO MỌI NGƯỜI- Lm. Pet. Lê Văn Chính
Trên trường đời, học hỏi để tự thay đổi, để tự huấn luyện bản thân là điều cần thiết. Học hỏi bằng lắng nghe người khác và nhất là lắng nghe Lời Chúa với lòng chân thành để lần hồi biết sửa đổi chính mình, để thực tập nhân đức, biết khiêm nhường phục vụ. Tự bản tính con người dễ nghiêng chiều theo đường xấu, dễ trở nên ác độc và phê phán làm hại người khác. Bài đọc thứ nhất từ sách Khôn ngoan cho thấy âm mưu của những người gian ác, không biết chân thành lắng nghe để sửa đổi, trái lại âm mưu để làm hại người công chính. Dù người công chính không làm gì chống họ, nhưng những kẻ ác độc này lại lấy việc người công chính sống và hành động ngay thẳng như một lời phê phán và khiển trách họ. Thay vì thành tâm sửa đổi những lỗi lầm của chính mình, những kẻ gian ác lại còn âm mưu bàn tính với nhau để làm hại người công chính. Hình ảnh người công chính bị những người gian ác âm mưu làm hại người nhắc nhớ cái chết của các tiên tri và nhất là báo trước cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là điều mà Chúa Giêsu bận tâm giải thích cho các môn đệ về vận mệnh của người, Đấng cứu thế bị loại trừ, bị giết chết.
Bài Phúc âm theo thánh Marcô thuật lại hành trình Chúa Giêsu và các môn đệ trên đường đi ngang qua miền Galilêa cách âm thầm kín đáo không để cho ai biết. Sau một thời gian hoạt động và rao giảng ở Galillêa, Chúa Giêsu đã thực hành nhiều phép lạ, đã rao giảng về Nước Thiên Chúa, hoạt động này đã đủ để những người ở Galilêa hiểu người là Đấng cứu thế. Giờ đây, người tập trung vào việc huấn luyện cho các môn đệ nhiều hơn nhằm dẫn đưa các môn đệ đến chỗ nhận thức sâu sắc về căn tính Đấng cứu thế của người là Đấng cứu thế bị loại trừ, bị giết chết: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba người sẽ sống lại”. Đây là lần thứ hai mà Chúa Giêsu lại nhấn mạnh cho các môn đệ hiểu về vận mệnh Đấng cứu thế bị khai trừ của người với những lời như lần trước: con người sẽ bị nộp vào tay người đời. Động từ được nói đến là “trao nộp”. Nhưng ai sẽ trao nộp người. Thánh sử Marcô sẽ cho biết những kẻ trao nộp người chính là Giuđa, các thượng tế, Philatô. Nhưng ở đây, động từ được dùng ở thời thụ động: “bị trao nộp” được hiểu theo nghĩa thể thụ động thần linh. Chính Thiên Chúa là chủ thể của hành động, nhưng không nói rõ ra vì lý do kính trọng. Cái chết của Chúa Giêsu, dù được qui gán cho những người đã lên án và giết Chúa trong lịch sử cụ thể, nhưng cái chết này không phải chỉ là một tình huống đơn giản xảy ra trong lịch sử. Giáo hội, qua giảng huấn của các tông đồ, đã hiểu rằng cái chết này, cớ vấp phạm đối với những người do thái, điều điên rồ đối với những người hy lạp, lại phát xuất từ dự định mầu nhiệm của Thiên Chúa Cha. Đó chính là điều được diễn tả qua lời loan báo của Chúa Giêsu: “Con người phải chịu đau khổ và bị giết chết”. Chính Chúa Giêsu luôn hiểu, dù hoàn cảnh xảy ra như thế nào, mọi sự xảy đến cho người đều không ngoài thánh ý của Chúa Cha, và người vẫn luôn hướng theo thánh ý của Chúa Cha mà người tiến bước. Trong khi đó, thái độ của các môn đệ lại luôn chậm hiểu những điều Chúa Giêsu dạy dỗ nhắc nhở họ. Các ông tỏ ra đóng kín, không mau mắn đón nhận mạc khải của thầy. Các ông sợ hãi không dám hỏi thầy để hiểu rõ ý nghĩa những thử thách và đau khổ mà thầy sẽ gánh chịu. Về phần Chúa Giêsu, người luôn cố gắng để huấn luyện các môn đệ đón nhận một nhận thức mới mẻ và rất quyết định về vận mệnh cứu thế của người.
Sau đó, các ngài trở về nhà ở Carpharnaum. Khung cảnh có vẻ như thuận lợi vì cách xa dân chúng, để Chúa Giêsu có điều kiện để ở riêng với các môn đệ và có thể huấn luyện các ông nhiều hơn. Người hỏi các ông xem dọc đường các ông đã tranh luận gì. Người cũng khởi đầu bằng một phương pháp rất sư phạm là hỏi xem các môn đệ đã tranh luận gì. Các môn đệ thinh lặng bởi vì dọc đường các ông đã tranh luận xem ai là người lớn nhất, một chủ đề nghịch lại với lời dạy khiêm nhường phục vụ của thầy. Thánh sử Marcô đã trình bày rất trang trọng cử chỉ và thái độ của Chúa Giêsu: người ngồi xuống, gọi mười hai vị lại và dạy cho họ. Ngồi giảng dạy là tư thế của người thầy giảng dạy với uy quyền, đồng thời gọi nhóm mười hai lại với người nhằm muốn nói giáo huấn mà người sắp dạy các ông là giáo huấn quan trọng người muốn dành riêng cho các ông là nhóm mười hai sẽ giữ vai trò lãnh đạo các cộng đoàn tương lai. Người đảo lộn trật tự thường tình của con người bằng cách đặt người lớn hơn hết phải là người phục vụ mọi người, và người biết trở nên nhỏ bé để phục vụ mọi người sẽ là người được kể lớn hơn hết giữa mọi người. Và để minh họa cho lời giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã bồng một trẻ nhỏ, đặt em ở giữa và nhắc nhở các môn đệ. Cử chỉ ôm một em nhỏ, đặt em nhỏ ở giữa có nghĩa quan trọng. Theo tập tục của người xưa, họ thường không quan tâm đến vai trò của các trẻ em, mà ngược lại người ta coi thường các trẻ em. Ngay cả người ta vẫn có thói quen loại trừ các trẻ em bởi vì các em không biết lề luật. Thái độ của Chúa Giêsu thực khác thường, người đặt em nhỏ là thành phần bị loại trừ, một cách rất âu yếm ở giữa các môn đệ và nói với các môn đệ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Đây quả là câu trả lời rất lạ thường của thầy Giêsu đối với vấn đề mà các môn đệ đang tranh luận : ai là người lớn nhất, bởi vì tranh luận xem ai là người lớn nhất trong khi thầy của mình đang cố gắng để theo con đường khiêm nhường phục vụ bằng cách đón nhận đau khổ và cái chết là điều vô nghĩa. Chúa Giêsu mở rộng viễn tượng cho các môn đệ bằng cách đưa các môn đệ đến một thái độ mới: tiếp đón những người bị loại trừ và khinh dễ, thay vì nhốt kín mình trong việc tìm kiếm những danh lợi cho riêng mình. Chúa Giêsu là người được Thiên Chúa sai đến, đón tiếp người chính là đón tiếp chính Thiên Chúa, nhưng để đón tiếp người, người ta phải can đảm để đón tiếp những người bị loại trừ trong cộng đoàn, đó là câu trả lời quyết định cho vấn nạn mà các môn đệ đang theo đuổi xem ai là người lớn nhất. Người lớn nhất quả là người biết phục vụ trong khiêm nhường cởi mở.
CON NGƯỜI ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ?– Lm. Gioan. M Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Trang Tin Mừng Chúa nhật thứ 25 thường niên năm B, thánh sử Máccô ở chương 9, từ câu 29-36, kể lại đây là lần thứ hai Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, vậy mà xem ra các ông vẫn tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra, không hề đồng cảm với sứ mạng của Thầy mình, mà lại lo tranh giành ngôi thứ với nhau.
Mặc dù các ông được Chúa kêu gọi sống với Chúa, từng nghe lời Chúa giảng, từng thấy phép lạ Chúa làm, ấy thế mà các ông vẫn còn mang nặng tính thế tục kèn cựa chỗ thấp chỗ cao. Thầy quên mình vì lợi ích nhân sinh, trò lại đi tìm vinh hoa trần thế. Thầy sẽ hiến mình cứu độ nhân loại, trong khi đó các môn sinh lại tìm kiếm quyền cao chức cả vun đắp cho riêng mình.
Khi Thầy trò về đến nhà Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Dọc đường các con bàn tán điều gì thế?”, nhưng các ông im lặng. Im lặng là phải, vì có mấy ai trong lòng không chất chứa những toan tính vụ lợi. Có mấy ai thanh sạch lòng ngay trước danh vọng mà các ông tưởng chừng như sắp đến tay mình. Im lặng để thấy rằng: tính tham sân si vẫn còn đó sau bao ngày tháng tầm sư học đạo. Im lặng còn là để lắng nghe lời Thầy chỉ giáo và bước đi theo gương Thầy chí thánh đã đi.
Đức Giêsu không nặng lời quở trách các môn đệ, nhưng Ngài mời gọi: “Ai muốn làm lớn thì hãy hết mình phục vụ”. Phục vụ với cung cách như một người đầy tớ. Phục vụ không phân biệt sang hèn. Phục vụ không tính toán theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”.
Đức Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ tượng trưng cho những con người trắng tay vô sản, không có gì để đền ơn đáp nghĩa, chúng mới cần chúng ta giúp đỡ. Chúa còn đồng hoá ai tiếp đón những người bé nhỏ là tiếp đón chính Chúa. Và ngược lại, ai từ chối họ là từ chối chính Ngài.
Cuộc sống của chúng ta sẽ nên giống Chúa, nếu mỗi người biết từ bỏ tham sân si, để sống bác ái vị tha. Cuộc sống sẽ thư thái bình an nếu mọi người cùng đan tay nhau xây dựng một nền văn minh tình thương.
Ơn riêng Chúa ban là để phục vụ. Ước gì chúng ta biết dùng khả năng, địa vị Chúa ban, để phục vụ lẫn nhau trong yêu thương chân thành, nghĩa là phục vụ không mong đền đáp, phục vụ ân nghĩa không chờ. Nhưng trước khi Đức Giêsu dạy các môn đệ sống tinh thần bé nhỏ, khiêm tốn phục vụ, thì Ngài đã làm gương trước rồi.
Là Đấng cầm quyền sinh tử vạn vật, nhưng đã hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến chết.
Là Thầy nhưng đã quì gối xuống rửa chân cho học trò.
Là người lãnh đạo, nhưng không đặc quyền đặc lợi, mà lại sẵn sàng sống hết tình cho nhân loại. Vì thế, Chúa nói rõ cho các môn đệ biết: “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc cho muôn người”
Anh chị em thân mến,
Nếu nhân loại ngày nay những người quyền cao chức cả không còn dùng quyền hành thống trị. Những vị lãnh đạo không có hình thức sai khiến, và ai ai cũng sống tinh thần khiêm tốn trong cung cách ứng xử, quên mình dấn thân phục vụ theo gương Đức Giêsu, thì nhân loại sẽ bình an hạnh phúc, thế giới sẽ ấm tình người hơn.
Cho đến hôm nay ai trong chúng ta cũng nóng lòng mong đợi từng ngày cơn đại dịch sớm chấm dứt, để sinh hoạt lại bình thường. Vì dịch bệnh kéo dài, làm cho nhiều gia đình ngày càng đi đến cùng cực, chi tiêu hết tiền bạc, thiếu thốn của ăn, làm cho cuộc sống bất an, bất ổn.
Trong tình trạng đau thương đau thương đau buồn như thế, thì lại có những chứng nhân thắp lên niềm hi vọng: là đông đảo những y bác sĩ, nam nữ tu sĩ, những tình nguyện viên, những nhà hảo tâm, đã lên đường thể hiện tinh thần tương thân tương ái, tương trợ lẫn nhau, sẵn sàng bỏ ra thời giờ, công sức và của cải, để đi vào những khu cách ly, những bệnh viện dã chiến. Quan tâm những mảnh đời nghiệt ngã. Với trái tim chạnh lòng thương xót âm thầm phục vụ, đút từng thìa cơm muỗng cháo cho những bệnh nhân không người thân bên cạnh chăm sóc.
Lại có những người ra đi gieo yêu thương khắp thôn làng, chia sẻ chút lương thực cho những người đói khát trong cơn đại dịch, và an ủi những gia đình có người thân ra đi mà không được nhìn thấy mặt. Có thể nói: họ là những Samaria nhân hậu, những Têrêsa Cancutta cho thời đại mới.
Chúa Giêsu đã nêu gương sáng cho chúng ta về sự khiêm nhường và tinh thần hy sinh, phục vụ tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra những giới hạn nơi bản thân mình, để rồi chúng ta sống theo gương khiêm nhường của Chúa, hết lòng phục vụ tha nhân trong khả năng, phù hợp với điều kiện cho phép. Có như thế, chúng ta mới xứng danh là những người mặc lấy tinh thần của Đức Kitô, và là những môn đệ đích thật của Ngài. Amen.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN-B
PHỤC VỤ TRONG KHIÊM HẠ- Lm. Đan Vinh HHTM
1/. TIN MỪNG : Mc 9, 30-37
(30) Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn có ai biết, (31) vì Người đang dạy các môn đệ rằng : “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại”.(32) Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. (33) Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông : “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?” (34) Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. (35) Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. (36) Kế đó, Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói : (37) “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
2/. Ý CHÍNH :
Tin Mừng hôm nay gồm 3 điểm chính như sau:
Một là Đức Giê-su tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn và phục sinh mà Người sắp trải qua, nhưng các môn đệ không dám hỏi Người do sợ bị quở trách hay sợ phải đối diện với sự thật không như ý.
Hai là các ông tưởng Thầy sắp lên làm vua, nên tranh cãi nhau xem ai sẽ nắm giữ chức vụ cao hơn trong Nước của Người. Đức Giê-su đã dạy bài học khiêm nhường phục vụ của người môn đệ.
Ba là Người đòi các ông phải quan tâm đến những người nghèo khổ bé nhỏ, tượng trưng bằng một đứa trẻ được Người đặt giữa các ông. Người còn tự đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ này.
3/. CHÚ THÍCH :
– C 30-32 : + Con Người : Nhấn mạnh về nhân tính của Đức Giê-su. Như người Tôi Trung của Đức Chúa, Đức Giê-su sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội thay cho dân hầu làm cho các tội nhân được nên công chính (x. Is 53, 2-12). +Sẽ bị nộp vào tay người đời: “Rơi vào tay người đời” là một số phận hẩm hiu, trái ngược với “Rơi vào tay Đức Chúa” (2 Sm 24, 14). Thánh Phao-lô viết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8, 32). +Bị giết chết và sẽ sống lại: Người sẽ bị giết do tay người đời nhưng sẽ sống lại nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Cv 13, 27-30). +Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người : Vì chưa có ý niệm gì về mầu nhiệm thập giá nên các môn đệ cảm thấy rất buồn khi nghe Thầy loan báo điều này (x. Mt 17, 23). Họ không dám hỏi lại có lẽ vì sợ bị quở trách như Phê-rô trước đó (x. Mc 8,33), mà cũng vì sợ phải đối diện với sự thật không như ý !
– C 33-34 : + “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?” : Đặt câu hỏi này với các môn đệ, Đức Giê-su cho thấy Người luôn quan sát từng lời nói và cử chỉ hành động của các ông để kịp thời giáo huấn. + Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả : Qua thái độ làm thinh, các môn đệ đã nhận ra khuyết điểm của các ông là ham muốn địa vị quyền hành, trái với tinh thần khiêm nhường phục vụ noi gương Thầy.
– C 35-37 : + Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : Trong tư thế ngồi của một ông thầy (ráp-bi), Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai môn đệ lại gần mà giáo huấn. + “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” : Đức Giê-su nhấn mạnh đến tinh thần khiêm tốn phục vụ mà môn đệ của Người phải có là sự tự hạ, trở thành người tôi tớ hầu hạ mọi người. Ở đây có sự đối nghịch giữa “người đứng đầu” với “người rốt hết”. Đối với Đức Giê-su, giá trị của người lãnh đạo phải dựa trên nền tảng là đức khiêm hạ, sẵn sàng phục vụ tha nhân vô điều kiện. + “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” : Em nhỏ trong câu này không tượng trưng cho sự ngây thơ vô tội, nhưng là biểu tượng cho người nghèo khó tầm thường, những kẻ vô danh tiểu tốt, tàn tật, yếu đuối và bị bỏ rơi… + “Là tiếp đón chính Thầy… tiếp đón Đấng đã sai Thầy” : Đức Giê-su đề cao sự khiêm nhường phục vụ những người nghèo, có giá trị thiêng liêng cao quý như hành động phục vụ Người và phục vụ Chúa Cha là Đấng đã sai Người (x. Mt 10, 40).
4/. CÂU HỎI : 1) Khi tự xưng là Con Người, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh điều gì ? 2) Đức Giê-su đã loan báo về sứ mệnh Thiên Sai như thế nào ? 3) Tại sao các môn đệ dù chưa hiểu rõ lại không dám hỏi Thầy về điều các ông vừa nghe ? 4) Dọc đường, các môn đệ tranh luận với nhau điều gì ? Tại sao các ông làm thinh không trả lời câu Thầy hỏi ? 5) Đức Giê-su đòi các mục tử trong Nước Trời phải có cách ăn ở thế nào ? 6) Khi đưa một em nhỏ đặt giữa các ông, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì ? 7) Người dạy các ông phải biết khiêm nhường để phục vụ những ai ?
II/. SỐNG LỜI CHÚA :
1/. LỜI CHÚA : Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35).
2/. CÂU CHUYỆN :
*1) GƯƠNG KHIÊM HẠ PHỤC VỤ CỦA MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA:
Ngày 05/09/1997, ngay sau khi tin Mẹ Tê-rê-sa qua đời được loan đi, đã gây một chấn động lớn cho toàn thế giới. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc. Rất nhiều những điện văn chia buồn của các vị nguyên thủ trên khắp thế giới gửi đến phân ưu. Mẹ Tê-rê-sa chỉ là một nữ tu người An-ba-ni bình thường. Mẹ sang Ấn độ thành lập dòng Thừa Sai Bác Ái.
Điều đáng chú ý nơi người nữ tu bé nhỏ này là một tâm hồn vĩ đại, dạt dào yêu thương. Mẹ đã dành cả đời mình để săn sóc phục vụ những người cùng khổ. Mẹ đã cúi xuống để đưa những người đói khát, bệnh tật, đưa người hấp hối đang bị bỏ rơi nằm chờ chết bên vệ đường, bãi rác, phố chợ về mái ấm tu viện để được chăm sóc vỗ về và được chết như một con người. Chính quyền Ấn độ đã tuyên bố lễ tang của Mẹ là quốc tang. Hàng ngàn người Ấn độ và nhiều người thuộc các quốc tịch, tầng lớp xã hội… đã bất chấp mưa gió, xếp hàng dài hàng cây số trước trụ sở dòng Thừa Sai Bác Ái ở Can-quýt-ta để được viếng xác và nhìn mặt người nữ tu khả ái ấy lần cuối.
Trong thời đại chúng ta, không ai được nhiều người quý mến cảm phục bằng Mẹ TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA. Mẹ là một con người cao cả và vĩ đại. Giá trị của Mẹ không hệ tại ở sắc đẹp, giàu sang, tài năng hay quyền thế, nhưng ở chỗ đã thực thi lời Chúa Giê-su: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).
*2) MỘT VỊ GIÁM MỤC KHIÊM TỐN PHỤC VỤ NGƯỜI DƯỚI:
Thánh PHAN-XI-CÔ SA-LÊ-SI-Ô là một giám mục nổi tiếng về lòng khoan dung và đức khiêm nhường phục vụ. Ngày nọ sau giờ làm việc, người giúp việc của Tòa Giám Mục vốn có tật thích ăn nhậu say xỉn đã leo rào ra ngoài quán cóc gần đường ăn nhậu với chúng bạn và đã bất cẩn uống rượu quá chén. Khi mò về tới tòa giám mục thì trời đã khuya. Do quá say, anh quên rằng phải leo rào để về nơi ở, nên đã nằm đại ra trước cổng tòa giám mục ngủ ngáy khò khò. Bấy giờ thánh Phan-xi-cô Sa-lê-si-ô vẫn còn thức đêm làm việc, nghe thấy tiếng ngáy liền đi ra mở cổng và khi nhận ra người giúp việc của ngài đang ngủ say, liền cõng anh ta vào phòng riêng và đặt nằm trên giường của mình. Còn ngài thì tạm nghỉ trên chiếc ghế sa-lon trong phòng khách.
Sáng ngày thức dậy, anh giúp việc rất ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên giường của đức giám mục. Anh nhớ ra bữa nhậu say xỉn tối hôm trước, liền vội chạy đến quì trước mặt đức giám mục thú tội để xin tha tội. Và cũng từ ngày đó anh giúp việc đã chừa được tật ưa thích ăn nhậu say xỉn. Anh không bao giờ còn dám lẻn ra ngoài để chung vui với bạn bè vào lúc đêm tối nữa.
*3) VIÊN BÁC SĨ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN ĐÁNH GIÀY ĐỂ PHỤC VỤ KHÁCH QUÝ:
Cùng với cha và người em, bác sĩ SA-RI MÊ-Ô (Charies Mayo) đã xây dựng bệnh viện Mê-ô nổi tiếng tại thành phố Rô-sét-tơ (Rochester) Hoa kỳ.
Lần kia, một phái đoàn y khoa được cử đến thăm bệnh viện. Theo truyền thống của bệnh viện, quí khách sẽ để giày trước cửa phòng riêng của mình, và bệnh viện sẽ bố trí nhân viên đến đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ May-ô làm việc trễ và là người về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày ở trước các phòng của khách vẫn chưa được nhân viên phụ trách đánh bóng ! Có thể họ đã quên làm việc này chăng ? Ông liền đi kiếm xi và bản chải, rồi lần lượt đến trước mỗi phòng đánh bóng các đôi giày của khách. Khi nhân viên phụ trách đánh giày hôm đó đến làm nhiệm vụ lúc nửa đêm, anh rất ngạc nhiên khi thấy vị bác sĩ giám đốc bệnh viện vẫn đang miệt mài chùi bóng những chiếc giày cuối cùng cho các vị khách quí.
Câu chuyện bác sĩ giám đốc đánh giày này đã trở thành huyền thoại ! Bác sĩ May-ô được ca tụng không những vì có tài chữa bệnh, và những công trình y khoa mang lại nhiều ích lợi cho nhiều bệnh nhân, mà còn vì lối sống khiêm nhường bình dị của ông. Ông không nề hà làm bất cứ việc gì để phục vụ người khác, dù việc ấy không xứng tầm với địa vị giám đốc của ông.
*4) MỘT TẤM GƯƠNG KHIÊM TỐN TRONG LỜI NÓI:
PAE-DA-TE-ROS sống ở thành Spartes nước Hy Lạp. Dân thành tổ chức bầu nghị viện gồm ba trăm người. Paedateros xin ghi danh làm ứng cử viên. Kết quả bầu cử, trong danh sách những người trúng cử lại không có tên Pae-da-te-ros. Một người bạn thân của ông nói :
– Tiếc thật, người ta đã không bầu cho anh. Họ không biết rằng nếu anh mà được trúng cử, thì chắc anh sẽ trở thành một chính khách lỗi lạc của thành phố ! ”
Nghe bạn nói xong, Pae-da-te-ros vẫn thản nhiên trả lời rằng :
– Trái lại, tôi rất vui vì trong thành Spartes này còn có tới ba trăm người có tài, có đức hơn tôi.
Pae-da-te-ros đã nêu gương khiêm tốn, khi sẵn sàng chấp nhận thua kẻ khác và không thốt ra những lời oán trách như nhiều người đã làm trong hoàn cảnh tương tự.
*3. THẢO LUẬN:
Là người đứng đầu một tập thể nhỏ là gia đình, đội nhóm, lớp học… và có chút quyền hành, chúng ta sẽ làm gì để noi gương Mục Tử Giê-su trong việc chăm sóc phục vụ đòan chiên: “Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).
4/. SUY NIỆM :
*1) CON NGƯỜI THƯỜNG TRANH GIÀNH NHAU ĐỊA VỊ QUYỀN HÀNH:
– Thông thường những quan lớn trong xã hội thường muốn được “ăn trên ngồi trước”, muốn được chiếm địa vị cao hơn chúng bạn và khó chịu khi thấy bạn bè thành công hơn mình.
Khi đi theo Thầy Giê-su lên Giê-ru-sa-lem, các môn đệ tưởng Thầy mình sắp lên làm vua, nên dọc đường các ông đã tranh cãi nhau xem ai sẽ được giữ chức vụ lớn nhất ! Đức Giê-su hiểu rõ tâm trạng của các ông, nên khi Thầy trò về nhà trọ tại Ca-phác-na-um, Người đã dạy các ông bài học về thái độ khiêm tốn phục vụ trong Nước Trời Người sắp thiết lập như sau:: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ phục vụ mọi người” (Mc 9, 35), noi gương Người: “Con Người đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ” (Mc 10, 45). Đối với Đức Giê-su: Giá trị của một người không hệ tại địa vị quyền hành mà tuỳ khả năng và mức độ phục vụ của họ.
*2) MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU PHẢI CÓ TINH THẦN KHIÊM TỐN PHỤC VỤ:
– Không phải vô cớ mà Đức Giê-su đưa một em nhỏ ra làm gương cho các môn đệ. Thời đó trong xã hội Do thái, trẻ em được xếp đứng hàng sau chót trong bậc thang giá trị. Theo lời Chúa hôm nay, ai muốn trở thành môn đệ thực sự của Người, cần phải có tinh thần phục vụ những người thấp kém nhất như các trẻ nhỏ.
– Trong bữa Tiệc Ly, Tin Mừng Gio-an cũng thuật lại việc Đức Giê-su làm việc của người giúp việc là quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi sau đó Người dạy các ông điều răn mới là “hãy yêu thương nhau như Thầy” là khiêm nhường phục vụ rửa chân cho nhau (Ga 13, 12-15).
Tông đồ Phao-lô cũng trình bày gương khiêm hạ vâng phục của Đức Giê-su trong thư Phi-lip-phê : “Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2, 5b-8). Đối với Đức Giê-su: Người lớn nhất sẽ không dùng quyền mà ra lệnh, nhưng dùng tình yêu và gương sáng để chinh phục con tim và họ sẽ tự nguyện nghe theo mình.
– Lãnh đạo theo Chúa Giêsu phải vừa có tâm có tầm, lại vừa phải có đức có tài để phục vụ theo tinh thần đức ái mục tử. Thánh Phêrô đã khuyên các vị mục tử noi gương Chúa Giê-su như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn; Không phải vì ham hố lợi ích thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt tình tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5, 1-4).
*3) TINH THẦN KHIÊM TỐN PHỤC VỤ CỤ THỂ LÀ GÌ ?:
Là noi gương Đức Giê-su để phục vụ như một người đầy tớ giúp việc, hoặc như một bà mẹ tận tình phục vụ đứa con thơ bé, hay như người mục tử nhân lành phục vụ đoàn chiên.
– Như một tôi tớ giúp việc: Điều quan trọng của người tôi tớ khi phục vụ là phải khiêm hạ và nhiệt tình làm mọi việc trong phần vụ được chủ yêu cầu, tránh phục vụ theo kiểu ban ơn, thể hiện qua thái độ hống hách khinh thường hoặc lên mặt chê trách người khác. Nhất là tránh thái độ công thần, khi khoe khoang công lao thành tích phục vụ của mình và đòi phải được tập thể tỏ lòng kính trọng biết ơn mình. Mỗi tín hữu cần biết noi gương Chúa Giê-su, Đấng là Thầy là Chúa nhưng sẵn sàng khiêm hạ quỳ xuống mà rửa chân cho môn đệ trong bữa Tiệc Ly.
– Như một bà mẹ phục vụ con thơ: Động lực phục vụ của bà mẹ là tình yêu con, nên bà không so đo tính toán hơn thiệt với con, luôn quên mình để tìm lợi ích cho con như câu người đời thường nói về tình yêu thương của bà mẹ hy sinh cho con thơ: “Mẹ nằm chỗ ướt, chỗ khô con nằm”.
– Như mục tử phục vụ đoàn chiên: Mục tử tốt lành luôn hiểu biết để cảm thông với những khó khăn của đoàn chiên được trao phó cho mình chăn dắt; Luôn lo lắng chăm sóc và dẫn đưa đoàn chiên đến cánh đồng cỏ xanh tươi có suối nước trong; Luôn quan tâm bảo vệ đoàn chiên bằng việc đương đầu với sói dữ đến cắn xé chiên làm cho đoàn chiên tan tác; Sẵn sàng hy sinh thời giờ sức lực để đi tìm các chiên lạc, băng bó những con chiên bị thương tích… Tóm lại phải có tinh thần phục vụ của Mục Tử Giê-su: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
*4) HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY (Lc 10, 37) :
Để thực hành đức khiêm nhường phục vụ noi gương Đức Giê-su hôm nay, mỗi người chúng ta cần làm một số việc như sau :
– Cầu xin ơn Chúa trợ giúp : Hãy năng dâng lời nguyện tắt để xin Chúa Giê-su Phục Sinh đổ ơn Thánh Thần giúp chúng ta sống khiêm hạ qua việc sẵn sàng phục vụ tha nhân, nhất là săn sóc những người tàn tật, già cả, bệnh tật và bị bỏ rơi… gần bên chúng ta.
– Cần phải xét mình mỗi ngày : Để thực tập khiêm nhường phục vụ, mỗi ngày chúng ta nên dành một phút hồi tâm trước khi đi ngủ: Hôm nay tôi có phục vụ ai không ? Tôi làm các việc lành để tìm vinh danh cho Chúa hay để tìm tiếng khen nơi người đời (x Mt 6, 1) ? Tôi có sẵn lòng làm những việc vô danh không ai muốn làm hay không (x Mt 6, 2) ? Tôi có cảm thấy ấm ức trong lòng khi làm được việc tốt mà không ai hay biếtm cũng chẳng thấy ai khen không ? (x Mt 6, 3-4).
– Cần phục vụ với tình yêu thương : Những người đứng đầu một cộng đòan không nên nại vào lý do mình đã phục vụ cho tập thể để đòi mọi người phải biết ơn và phục vụ lại mình. Các vị mục tử cần tránh thái độ quan liêu, giáo sĩ trị và vô trách nhiệm, thiếu đức ái mục tử… giống như những kẻ chăn thuê đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách (x Ga 10, 11-13).
– Tập khen ngợi và đề cao các việc tốt của tha nhân: Chẳng hạn: khen một nhân viên có tinh thần trách nhiệm cao; Khen một bà bán hàng rong đã trả lại tiền còn dư cho khách; đề cao một thày giáo sẵn sàng mở lớp dạy miễn phí cho học sinh yếu kém… Hãy biến cuộc sống của chúng ta trở thành thánh lễ nối dài bằng thái độ khiêm tốn và nhiệt thành phục vụ tha nhân.
5/. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hiện thân nơi những người đau khổ đói cơm bánh vật chất cũng như thiếu bánh tinh thần là Lời Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang bị bỏ rơi trong những người đau khổ bệnh tật và cô đơn. Xin cho chúng con biết mở rộng lòng đón nhận tha nhân, mở trái tim để cảm thông, mở đôi tay để phục vụ người nghèo khổ như phục vụ chính Chúa. Ước gì chúng con luôn kết hiệp với Chúa để phục vụ tha nhân trong âm thầm khiêm hạ, hầu xứng đáng được Chúa tha tội và ban hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.
X/. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
CON NGƯỜI SẼ BỊ NỘP- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Đây là lần thứ hai Chúa cho các tông đồ biết về cuộc thương khó và phục sinh của Chúa: “ Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại “.
Các tông đồ không hiểu lời đó vì các ngài đang tranh luận xem ai là người lớn nhất trong nước của Chúa. Các ngài tranh luận với những lý lẽ của riêng mình để tìm ra ai là người được diễm phúc này. Có lẽ người nào cũng ham muốn được làm lớn, ham muốn được ngồi bên hữu, bên tả Chúa, cho nên chẳng nhường nhịn nhau.
Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều lúc chúng ta cũng giống các tông đồ năm xưa, vì chén cơm manh áo, vì chiếc ghế quyền lực, vì một vài tấc đất, vì một vài đồng tiền, vì một chút sản nghiệp thừa kế …., mà chúng ta tranh giành nhau, làm mất hết tình nghĩa để rồi coi nhau như kẻ thù, đôi khi còn chém giết nhau gây ra án mạng, người thì thiệt mạng, người thì tật nguyền suốt đời, người thì bị vướng vào vòng lao lý tù đày.
Thánh Giacôbê tông đồ trong bài đọc hai hôm nay, ngài cho chúng ta thấy nguyên nhân và hậu quả của những việc tranh chấp hơn thua là do những đam mê đang giao chiến trong chi thể chúng ta. Một cách cụ thể:
-Ham muốn mà không được hưởng nên giết nhau.
-Ganh tỵ mà không được mãn nguyện nên cạnh tranh và cãi cọ.
Hậu quả của nó là hỗn độn và đủ mọi thứ tệ đoan.
Vì ai cùng muốn làm lớn, cho nên các tông đồ không đồng cảm, sẻ chia khi Chúa nói về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Dường như các ngài thấy rõ các ngài “ Đồng sàng dị mộng “ với Chúa, cho nên các ngài sợ Chúa không dám hỏi Chúa về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, và còn làm thinh không dám trả lời khi Chúa hỏi: “ Dọc đường các con tranh luận gì thế “.
Chúa dạy các ngài: “ Ai muốn làm lớn, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người “. Chúa đưa một em bé lại để làm gương cho bài học này, đó là hãy hạ mình xuống, sống khiêm nhường, phục vụ, tiếp đón người anh chị em của mình vì danh Chúa, mà tiếp đón anh chị em mình là tiếp đón chính Chúa, và tiếp đón Chúa là tiếp đón Đấng đã sai Chúa.
Qua đó, Chúa cũng dạy chúng ta giống như các ngài và Chúa còn dạy thêm chúng ta một điều nữa là để tránh ganh tỵ hơn thua nhau, chúng ta phải sống khiêm nhường, đơn sơ, trong trắng, ôn hòa, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ, không xét đoán thiên vị, không giả dối, luôn hân hoan phục vụ và lo xây dựng cuộc sống cho mình và mọi người trong bình an và thắm được tình yêu của Chúa ( Bđ II ).
Lạy Chúa, Chúa chịu chết vì chúng con mà chúng con lại sống quá nhỏ nhen, ích kỷ với nhau. Chúng con chỉ muốn hơn người khác chứ chẳng muốn người khác hơn mình. Xin Chúa cho chúng con biết sống khiêm nhường, yêu thương, phục vụ, biết dùng đôi chân của chúng con để đến với tha nhân và dùng đôi tay để giúp đỡ mọi người. Làm như vậy là chúng con nơi gương Chúa, vì như Chúa đã nói: “ Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người “ ( Mt 20, 28 ). Amen.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
CON ĐƯỜNG ĐƯA TỚI VINH QUANG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định mình là một nhu cầu hết sức quan trọng của con người và nhu cầu này được biểu hiện bằng nhiều hình thức trong cuộc sống.
Thời Chúa Giê-su, các vị kinh sư và các người biệt phái tự khẳng định mình bằng cách “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” (Mt 23, 5-7).
Ngay cả các môn đệ Chúa Giê-su cũng hay tranh luận với nhau xem ai trong họ là người lớn nhất. Điều nầy đã được ghi lại nhiều lần trong Tin Mừng (Mc 9, 33-34; Lc 9, 46; Mt 18,1; Lc 22, 24).
Có lần, hai môn đệ Gioan và Giacôbê cùng với mẹ mình đến xin Chúa Giê-su cho ngồi bên tả bên hữu Chúa khi đến thời Ngài được hiển vinh. Bấy giờ, mười môn đệ kia tỏ ra bất bình với Gioan và Giacôbê vì anh em nhà nầy muốn giành trước hai chiếc ghế mà họ đang mơ ước (Mt 20, 20-24; Mc 10, 35-37).
Khát vọng của con người là thế đó. Ai cũng muốn nổi bật, ai cũng muốn vươn cao; không ai muốn bị lu mờ. Nói chung, ai cũng muốn làm gia tăng giá trị của mình.
Đây là một khao khát rất tự nhiên. Chính Thiên Chúa đã đặt vào tâm hồn con người khát vọng đó để thúc đẩy họ vươn lên thành những người cao cả. Chúa Giê-su cũng kêu gọi các môn đệ vươn tới đỉnh trọn lành: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48)
Làm thế nào để trở thành người cao cả thật sự?
Có người cố làm tăng giá trị của mình bằng cách trang điểm thân xác. Tuy nhiên, người ta không thật sự trở nên cao cả nhờ nhan sắc, vì “tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Có người tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng của cải vàng bạc, nhưng thực ra, “giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu.”
Có người trau dồi và phát huy tài năng cho người ta nể phục, hoặc cố giành những địa vị cao trong xã hội để nâng giá trị mình lên.
Còn Chúa Giê-su, nhân cơ hội các môn đệ tranh cãi sôi nổi ai là người lớn nhất, Ngài chỉ cho họ một cách để trở thành cao cả thực sự. Đó là “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).
Lời dạy của Chúa Giê-su xem ra trái nghịch với suy nghĩ của người đời. Thông thường, muốn làm lớn thì phải tôn mình lên để thống trị người khác; đằng nầy Chúa Giê-su dạy phải hạ mình xuống làm tôi tớ hầu hạ mọi người. Thật thế ư?
Ngày 5 tháng 9 năm 1997, cả thế giới xúc động, thương tiếc và bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa khi hay tin Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu già nua, thấp bé, nghèo nàn, không chút nhan sắc… qua đời tại Calcutta, Ấn-độ ở tuổi 87. Nhà Nước Ấn-độ, một quốc gia phần đông theo Ấn-độ-giáo, đã long trọng tổ chức quốc táng cho Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu công giáo khiêm tốn bình dị, người gốc An-ba-ni! Hơn triệu người dân Ấn-độ tuôn ra đường để tiễn đưa Mẹ Tê-rê-xa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Thật là điều không tưởng tượng nổi.
Tại sao Mẹ Tê-rê-xa lại được vinh dự lớn lao như thế?
Vì Mẹ đã thực hành đến mức hoàn hảo điều mà Chúa Giê-su truyền dạy cho các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay. Đó là hạ mình làm tôi tớ hầu hạ phục dịch những con người khốn khổ nhất thế gian với lòng yêu thương vô hạn.
Cuộc đời của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta là một bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng giáo huấn của Chúa Giê-su là xác đáng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).
Như thế, phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ chính là con đường đưa tới vinh quang.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con tỉnh táo nhận ra rằng giá trị con người không tuỳ thuộc vào những thứ “phụ tùng” mà người ta khoác vào thân như các loại y phục hợp thời trang hay các đồ trang sức xa hoa, đắt giá; giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào của cải, bạc vàng châu báu hay địa vị công danh… nhưng cốt yếu là tuỳ vào đức hạnh, vào phẩm chất cao đẹp của mỗi người.
Xin dạy chúng con biết làm gia tăng giá trị bản thân bằng cách hiến thân hy sinh phục vụ mọi người như Chúa đã nêu gương.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
HÌNH THÀNH CHÍNH MÌNH QUA CHỌN LỰA- Lm. Giuse Phạm Thanh liêm SJ
Kẻ ác người lành, khác nhau một trời một vực, nhưng lành dữ là do quyết định chọn lựa của mỗi người. Chọn Thiên Chúa là chọn tha nhân và chính mình; chỉ chọn mình là hủy hoại tất cả.
I/.Người công chính bị kẻ dữ ám hại
Sách Khôn Ngoan cho biết những người không tôn thờ Thiên Chúa tìm mưu bày kế hãm hại người công chính, vì người công chính chống lại cách sống của họ, khiển trách họ vi phạm lề luật, tố cáo họ gian dối kiếm lời. Cách sống của người không tôn thờ Thiên Chúa, đã không đặt Chân Thiện Mỹ làm tiêu chuẩn sống. Tiêu chuẩn sống của người không tôn thờ Thiên Chúa là lợi ích cho chính họ; họ không tôn trọng người khác và quyền lợi của những người này, thậm chí cả của những người thân. Những người không sống theo Chân Thiện Mỹ là những người ích kỷ: chỉ nghĩ đến họ, đến quyền lợi của họ.
Tiên tri Yêrêmia là người đã bị những người không thật sự tôn thờ Thiên Chúa thời đó hãm hại, vì tiên tri nói những gì Thiên Chúa đã truyền cho ông nói. Và vì nói những gì không hợp với ý muốn của những người lãnh đạo thời đó, nên tiên tri đã bị người ta ghét và muốn loại trừ ngài khỏi đất của kẻ sống. Tiên tri đã run sợ, và đã bỏ cuộc; nhưng Thiên Chúa đã giúp tiên tri trở lại với Ngài, và Thiên Chúa lại dùng tiên tri để nói cho dân ý định của Thiên Chúa.
Trong lịch sử nhân loại, bao nhiêu người lành bị kẻ dữ ghen ghét và hãm hại. Điều này đã xảy ra và sẽ còn xảy ra. Khi người ta sống theo đường ngay nẻo chính, khi người ta tôn trọng sự thật, tôn thờ Chân Thiện Mỹ, thì người ta tôn trọng phẩm giá con người, tôn trọng tha nhân và quyền lợi của họ; lúc đó, con người được bình an sâu thẩm trong tâm hồn, thế giới sống trong hòa bình, người người sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương trợ; con người sống hạnh phúc. Nhược bằng nếu con người đặt mình và quyền lợi của mình trên tất cả, nếu người ta không sống theo Chân Thiện Mỹ, không tôn trọng người khác và quyền lợi của tha nhân, thì thế giới sẽ sống trong hỗn loạn; chiến tranh sẽ nổ ra để người ta giành giựt quyền lợi; chết chóc sẽ lan tràn; con người không bình an và hạnh phúc.
II/.Đức Yêsu loan báo ba lần Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết
Đức Yêsu đã dạy con người những điều tốt lành, đã làm nhiều phép lạ để chữa bao người đau ốm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn ghét Ngài, đặc biệt là những người có chức có quyền, bởi vì Ngài không đồng ý với suy nghĩ, cách sống, và cách hành xử của họ. Đức Yêsu mới chỉ đi rao giảng được ba năm, nhưng người ta đã ghét Ngài đến độ muốn loại Ngài khỏi đất kẻ sống.
Đức Yêsu báo cho các tông đồ biết Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.Chính cách sống, cách hành xử, lời nói của Ngài đã làm một số người quyền thế ghét Ngài và muốn giết Ngài. Đức Yêsu biết điều này; Ngài biết Ngài khó có thể tránh cái chết vì những người ghen ghét muốn giết Ngài. Tuy nhiên Ngài tin rằng Thiên Chúa sẽ phục sinh Ngài, vì Thiên Chúa là Đấng Công Bình. Đức Yêsu tin điều đó là sự thật, nên Ngài đã báo cho các tông đồ biết điều này.
Đức Yêsu đã sống thân phận con người cho đến cùng. Ngài phải chết như bao con người. Là người, nghĩa là có thể bị những bất công, những sự dữ mà người khác gây ra cho mình. Đức Yêsu đã chấp nhận tất cả những cách đối xử bất công của con người thời đó đối với Ngài. Những gì con người gặp trong cuộc sống, chính Đức Yêsu cũng đã gặp. Cách hành xử khi gặp sự dữ của Đức Yêsu, trở thành mẫu mực hành xử cho tất cả mọi người.
III/.Sự dữ từ lòng con người
Tại sao người ta muốn tru diệt người khác? Vì người đó làm nguy hại đến họ hay người khác, nhất là vi phạm đến quyền lợi của họ, đến tính “nhất” của họ. Ai cũng muốn mình là nhất, là người trổi trang và có quyền hành; nếu người khác có ảnh hưởng và người ta thấy uy quyền của họ bị đe dọa, thì người ta có khuynh hướng hủy diệt đối thủ cạnh tranh của mình. Đức Yêsu đã giảng dạy như một người có uy quyền; Ngài không phục tùng uy quyền của họ; Ngài phê bình cách sống quá nệ vào hình thức của họ; Ngài muốn dân chúng đến với Thiên Chúa bằng tất cả con người, chứ không chỉ là giữ một vài hình thức. Chính vì vậy những người có quyền đương thời đã quyết định giết Đức Yêsu.
Các tông đồ cũng là những người muốn có địa vị và quyền thống trị trên người khác. Các ngài khi được Thầy báo tin sẽ bị bắt bị giết, thì các ngài đã vội tranh cãi xem ai sẽ là người lớn nhất giữa họ. Đáng lẽ khi được báo tin thầy sẽ gặp cảnh tang thương như vậy, thì các ông phải buồn sầu, và phải quan tâm đến số phận của thầy; đằng này các ông lại tranh nhau xem ai là người lớn nhất. Đức Yêsu đã phải dạy các tông đồ bằng việc đặt một em bé ở giữa các ông, cho các ông biết ai đón tiếp một em bé là đón tiếp Ngài, ai muốn là đầu thì phải là người chót hết, là người phục vụ người khác. Và khi các ông vẫn chưa hiểu bài học Đức Yêsu dạy, thì Đức Yêsu đã phải rửa chân cho các ông để dạy các ông bài học phục vụ và khiêm tốn.
Từ các tông đồ đến các vị lãnh đạo dân Do Thái, tất cả đều có khuynh hướng muốn trổi trang, muốn có quyền hành; tuy nhiên mỗi người ra sao, thành người như thế nào là tùy chọn lựa của mỗi người. Khuynh hướng, như những cám dỗ, không là yếu tố quyết định hình thành nên con người; chính những chọn lựa mới làm nên chân tính của mỗi người. Nếu tôi luôn tôn thờ Thiên Chúa, nếu tôi luôn sống theo đường ngay lẽ phải, nếu tôi luôn theo những gì là chân thiện mỹ, nếu tôi luôn vâng phục lương tâm làm lành lánh dữ, thì tôi sẽ tôn trọng tha nhân và quyền lợi của họ, thì tôi sẽ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân, quan tâm đến nỗi khổ của họ, thông cảm với những lo toan của họ, thì tôi sẽ là người tuyệt vời. Chính hành vi chọn lựa của tôi, làm tôi là người như thế nào.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1/.Theo kinh nghiệm, hành vi nào hủy hoại nhân cách của bạn nhất? Xin giải thích.
2/.Theo kinh nghiệm, hành vi làm tăng giá trị của bạn nhất? Xin chia sẻ.
3/.Lý tưởng của bạn là gì? Bạn muốn trở thành người như thế nào?
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
CUỘC KHỔ NẠN VÀ TINH THẦN PHỤC VỤ- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Ơn cứu độ là ân huệ cao quý nhất mà Thiên Chúa ưu ái tặng ban cho nhân loại. Ngài tặng ban bằng chính sự hạ mình yêu thương phục vụ của Chúa Giêsu, Con Một Ngài. Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay mời gọi Kitô hữu cũng sống đời sống phục vụ, là cách thức thông phần vào cuộc Thương khó tử nạn của Chúa Giêsu.
KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 9,30-37.
Bản văn Tin mừng Chúa nhật hôm nay bao gồm lời loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn và phần đầu của một diễn từ kéo dài cho đến Mc 9,50, thâu tập các lời dạy của Chúa Giêsu về nhiều vấn đề từ tinh thần phục vụ, việc đón tiếp, sự hiệp nhất giữa những người cùng tin vào Chúa cho đến đời sống bác ái và làm gương sáng.
1/.Lời loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn: Lời loan báo này có điểm đặc biệt khác với lời loan báo đầu ở câu “bị nộp vào tay người ta”. Thành ngữ “bị nộp” không xa lạ gì với Kinh thánh. Chúng ta bắt gặp từ ngữ này trong Thánh vịnh nói về nỗi khổ đau của người công chính kêu cầu được giải thoát khỏi tay kẻ bạo tàn (Tv 71,4 ; 140,5) ; trong Đaniel 7,25, nơi các Đấng Thánh của Chúa bị nộp vào tay vị Vua bách hại Antiôkô Êpiphan. Do đó, câu này mạc khải khía cạnh quan trọng của cuộc Thương khó và Tử nạn của Chúa Giêsu: Người thâu tóm và hoàn tất trọn vẹn mọi nỗi khổ đau của người công chính, sự bách hại các Tiên tri phải chịu và cái chết của các vị Tử đạo cùng với mọi nỗi khổ khác của đời người. Khi loan báo về cuộc khổ nạn như thế, Chúa Giêsu cho thấy cuộc khổ nạn của Người là biến cố trung tâm, đỉnh cao của công trình cứu độ.
2/.Tinh thần phục vụ: Máccô trình bày khá độc đáo cuộc tranh luận của các môn đệ xem ai là người lớn nhất trong số họ. Cuộc tranh luận này có lẽ là dư âm của nhiều vấn đề trong cộng đoàn sơ khai về chức tước, địa vị của các Tông đồ (1Cr 1-4 ; Cv: Những đoạn về Phêrô và Gioan). Để giải quyết cuộc tranh luận này Chúa Giêsu không đề cập trực tiếp ai là người lớn nhất, nhưng Người khẳng định một chân lý, một nguyên tắc: “Ai muốn làm người lớn nhất thì tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Với Chúa Giêsu, sự lớn lao đích thực hê tại việc trở nên người tôi tớ phục vụ người khác. Mọi quyền bính đều nhắm mục đích phục vụ, nói cách khác, quyền bính chỉ có thể đến, danh vọng chỉ có thể có khi người ta biết tự hạ mình phục vụ anh chị em mình. Chính Chúa Giêsu đã thực hiện trọn hảo điều này và Người cũng đã khẳng định: Con Người đến để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ.
3/.Thái độ đón tiếp: Sự kiện Chúa Giêsu bồng một em bé đặt giữa các môn đệ và kêu gọi sự đón tiếp có lẽ không liền lạc với văn mạnh cũng như bối cảnh của đoạn trước. Dầu không liên lạc gì với phần trước nhưng cũng có giá trị mạc khải lớn lao. Sự lưu tâm của Chúa Giêsu đối với trẻ em là một nét đặc biệt nơi Người. Với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, trẻ em không được coi trọng, chúng không đáng kể, không đáng được lưu tâm trước mắt người lớn. Nói chung trẻ em cũng như những người thu thuế, gái điếm… là đại diện của tầng lớp bị bỏ rơi, bị chà đạp, bị khinh miệt. Do đó, việc Chúa Giêsu tiếp nhận trẻ em và mời gọi các môn đệ cũng tiếp đón chúng, và xa hơn nữa Người khẳng định ai đón tiếp chúng là đón tiếp Người, đón tiếp chính Đấng đã sai Người là Chúa Cha, đó là một mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa. Một tình yêu không thiên tư, thiên vị, một tình yêu nhưng không dành cho tất cả mọi người.
II/.CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Tin mừng hôm nay tiếp tục phác họa chân dung Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Người cứu độ nhân loại bằng cuộc Thương khó, Tử nạn là trung tâm, là đỉnh cao công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngay chính trong hành trình tiến tới cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu qua lời giảng dạy, qua tình yêu dành cho trẻ em, cho những người bị bỏ rơi và cho những người tội lỗi còn cho thấy: Người đến là để phục vụ nhân loại này. Phục vụ bằng tất cả tình yêu dâng hiến của mình. Theo Người cũng đòi hỏi phải mang lấy tinh thần khiêm nhu phục vụ. Vác thập giá mình theo Người được cụ thể hóa bằng đời sống hy sinh phục vụ anh chị em.
III/. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1/.Khổ nạn và phục vụ:
Tin mừng hôm nay cho thấy có sự liên kết chặt chẽ giữa cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và lời mời gọi trở nên tôi tớ phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đã sống trọn hảo tinh thần tự hạ phục vụ này. Người là Chúa nhưng đã hạ mình làm người để chia sẻ mọi nỗi khốn cùng của kiếp người, đồng cam cộng khổ với mọi người qua hành trình rao giảng Tin mừng, yêu thương chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ… Tất cả đều nhằm lợi ích cho tha nhân, phục vụ sự sống của mọi người. Đỉnh cao của tinh thần phục vụ nơi Người đó là sẵn sàng hiến thân chết để cho nhân loại được sống và sống dồi dào. Kitô hữu, môn đệ của Người cũng được mời gọi phải mang lấy tinh thần phục vụ của Người. Phải tự trở nên người đầy tớ phục vụ anh chị em mình. Đây chính là một nghịch lý cho đời Kitô hữu. Chấp nhận sống nghịch lý ấy đó chính là thái độ chấp nhận vác thập giá theo Thầy Chí Thánh của mình.
2/.Quyền bính đến từ sự phục vụ:
Điều làm nên sự vĩ đại, tạo nên uy tín cho Giáo hội và cho mỗi Kitô hữu chính là đời sống phục vụ. Mọi quyền bính trong Giáo hội được trao ban chính là nhắm mục đích phục vụ, chứ không phải để thống trị. Lời Chúa Giêsu dạy: “Ai muốn làm người lớn nhất thì tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” đã minh nhiên khẳng định phục vụ chính là con đường đưa tới danh vọng, uy quyền thực sự. Kitô hữu không đi tìm danh vọng, quyền chức trần thế, nhưng đi tìm con người và môi trường để phục vụ. Yêu thương, hy sinh, chia sẻ, bác ái, khoan dung, tha thứ… luôn là những việc phải làm của các Kitô hữu, những đầy tớ của anh chị em mình. q
IV/.LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu được sai đến trần gian để phục vụ sự sống nhân loại chúng ta bằng con đường Thương khó, Tử nạn. Người đã dâng hiến chính mình để phục vụ chúng ta. Trong tâm tình cảm tạ, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1/.Giáo hội được mời gọi hãy trở nên rốt hết và làm đầy tớ mọi người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội, đặc biệt các bậc chủ chăn luôn hết mình yêu thương hy sinh phục vụ dân Chúa và lợi ích của cộng đồng nhân loại.
2/.“Dọc đàng các con tranh luận gì thế?” câu hỏi của Chúa dành cho các môn đệ ngày xưa cũng đang là câu hỏi cho con người và thế giới hôm nay. Ngày nay biết bao quốc gia, thế lực, con người đang muốn củng cố danh vị và quyền lực của mình bằng bạo lực chiến tranh, bằng sức mạnh đồng tiền và nhiều cách bất chính khác. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, những công bộc, đầy tớ của nhân dân biết quên mình phục vụ đời sống tự do, công bình và tình thương của dân nước.
3/.“Ai đón tiếp một trong những trẻ nhỏ này là đón tiếp chính Thầy”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu bằng lòng bao dung, yêu thương đón nhận giúp đỡ những anh chị em nghèo khổ, bất hạnh chung quanh.
*Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để hy sinh phục vụ đến độ chấp nhận chết cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con, những môn đệ của Chúa cũng được như Chúa sống đời sống yêu thương phục vụ tha nhân, để xây dựng xã hội chúng con ngày càng có hòa bình, tự do và công lý. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- B
LÀM TÔI TỚ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh học 78 phép biến hóa, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời, Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan, Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa, Ngộ bực tức vì ngu mà mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện. Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi Ngộ bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý. Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau:
Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không.
Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không.
Lời Chúa hôm nay cũng diễn tả một vở kịch có hai cảnh mâu thuẫn nhau: một cảnh phục vụ, một cảnh tranh chấp.
Sau lời tuyên bố khai mạc của Đức Giêsu: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau Người sẽ sống lại”. Các môn đệ không hiểu lời tuyên bố đó, cũng chẳng hỏi xem Thầy muốn nói gì. Các ông cứ diễn đại cái màn kịch theo sở thích của mình. Ông nào cũng say sưa nhiệt liệt tranh giành cho mình được địa vị cao, lớn nhất, danh vọng nhất, vĩ đại nhất. Có lúc các ông cãi nhau to tiếng đến độ gây cấn mà cứ tưởng Thầy lủi thủi đi ở xa không biết. Khi vào tới nhà, ngồi bình tĩnh đàng hoàng, Thầy mới gọi các ông lại hỏi: Dọc đường các con tranh luận gì thế. Các ông cúi đầu làm thinh không dám trả lời, vì các ông đã tranh nhau quá lố về địa vị cá nhân, mong được chức quyền danh vọng vinh hoa, phú quý trong nước Thầy sắp thành lập.
Các màn kịch tranh giành quyền bính này đã diễn ra xưa hơn trái đất. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng tống Luxiphe xuống làm bá chủ hỏa ngục. Ađam Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn cực khổ và chết chóc.
Đến đời con cháu vẫn ngoan cố diễn lại màn kịch bi thảm, chém giết lẫn nhau để tranh bá đồ vương. Cả đến anh đánh dậm kéo tép như Mặc đăng Dung, khi có cơ hội, cũng dám giết vua Chiêu Tôn để chiếm ngôi vua, đến khi quân Minh bên Tầu kéo sang đánh, Đăng Dung khiếp sợ, tự trói mình ra hàng nhục nhã (năm 1537).
Chúa Giêsu phải chạy trốn cái cảnh làm vua tranh giành danh lợi nhơ bẩn của loài người, nhưng Người không chạy trốn sự hy sinh phục vụ con người như một tôi tớ đắc lực.
Người là Thiên Chúa cao cả, nhưng lại trở nên tôi tớ mọi người. Người đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa, nhận lấy thân phận tôi đòi (Phil. 2, 1). Làm tôi đòi với người thợ mộc làm thuê làm mướn. Khi rao giảng Tin mừng, Người hầu hạ chữa lành các bệnh nhân què, câm, điếc, mù, hủi, liệt, chết, Người không tự cao tự đại như một thầy dạy, hay một bác sĩ, mà chỉ khiêm tốn, hiền lành, âm thầm phục vụ như một tôi tớ bưng nước rửa chân cho môn đệ và mọi người. Chẳng những như tôi tớ mà còn như một nô lệ giơ mặt cho kẻ khạc nhổ, vả mắng, giật râu, phơi lưng cho kẻ đánh đòn, cúi mình xuống, vác thập giá, giang tay chân cho kẻ đóng đinh. Không một tôi tớ, không một nô lệ nào chịu cực khổ, cực hình như vậy, chỉ có Đức Giêsu, làm lớn nhất, đã trở nên bét nhất, như Người đã nói: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”. Kế đó, Người dắt một em nhỏ đặt giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy … Tiếp đón một em nhỏ là tiếp đón kẻ hèn mọn, yếu đuối, vô danh, không có một chút quyền lực, không có một tấc đất nào. Mà ta lại làm tôi tớ phục vụ kẻ bé nhỏ đó, thì mới thật là môn đệ, là người tin theo Chúa, mới thực là người tôi tớ trung tín và khôn ngoan của Thầy và của Cha Thầy. Tôi tớ trung tín và khôn ngoan cần có tinh thần sau đây:
Một là không tranh giành địa vị, lợi lộc: Đức Giêsu đã đuổi satan đem bả vinh hoa của cải, địa vị cả thiên hạ đến cám dỗ Người. Người còn dạy: được lời lãi cả thế gian, mà mất mạng sống mình thì có ích gì? Người đã ngăn chận tức khắc thói ham danh lợi của môn đệ. Người đã dạy phải rửa chân cho nhau. Giuđa vì ham lợi mà mất mạng sống. Vì thế, tuy Phêrô đứng đầu Hội thánh, ông đã xin mọi người cầu nguyện để bầu một tông đồ thế cho Giuđa, các ông bầu chứ không tranh cử, cũng không dám tự ý đề cử hay ứng cử. Truyền thống này đã là kiểu mẫu bầu Giáo Hoàng, Giám mục cũng như Linh mục và giáo dân, loại bỏ mọi thói tranh giành địa vị lợi lộc.
Hai là hoàn toàn vâng lời: Không được tranh giành nhưng cũng không được từ chối, đó là tư cách của đầy tớ, khác với thế gian: có lợi thì tranh đấu cho được, có hại thì bỏ không dám hy sinh.
Đức Cha Lê hữu Từ đã kể lại trong Tuần giảng Tĩnh tâm cho Tiểu chủng viện Trung Linh, Bùi Chu năm 1952. Khi được sắc phong Giám mục, ngài run sợ, từ dòng Châu Sơn Thanh Hóa, đạp xe đạp cũ kỹ xuyên qua rừng núi hơn 400 km vào Huế, xin Đức Khâm sứ Tòa thánh ban cho được từ chức. Hầu hết các Đức Giáo hoàng và Giám mục đều muốn xin từ chức như vậy. Nhưng vẫn phải vâng theo ý Chúa như Đức Giêsu đã cầu nguyện trong giờ hấp hối: “Lạy Cha, xin cất chén đắng này đi, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha”.
Ba là hoàn toàn trung tín với nhiệm vụ được trao phó. Từ Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục cũng như giáo dân đều phải lo chu toàn trách nhiệm: có trách nhiệm chung với mọi người, như phải sống công bình bác ái, tuân giữ giới răn Chúa, truyền giáo, rao giảng Tin mừng. Có trách nhiệm riêng theo chức phận mình, như nhiệm vụ Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, tu sĩ, quý Chức, cha mẹ, con cái, thầy dạy, học trò, công dân, tín hữu, làm vợ, làm chồng.
Lạy Chúa, Chúa đã thiết lập Giáo hội để tiếp tục công cuộc của Chúa phục vụ cứu độ con người, xin cho chúng con, dù ở địa vị nào, đều nhiệt tâm theo gương Chúa, trở thành những đầy tớ trung tín và khôn ngoan phục vụ mọi người.
Xin Chúa cải thiện các nhà cầm quyền trở nên chính quyền, biết chăm lo xây dựng xã hội tốt đẹp chứ không phải hạng tà quyền xảo quyệt, giành giựt danh lợi, vinh thân phì gia để khi chết, cho dòi bọ rúc rỉa thây ma.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxvthuongnienb #suyniemloichuagpbr