CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA- ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt. 25
THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI- ĐGM. GB. Bùi Tuần.. 29
ĐỨC MARIA, ĐẠI CHỈ TRÊN CAO- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống.. 35
ĐỨC MARIA, MỘT MẪU GƯƠNG TUYỆT HẢO- Lm. Jos. Nguyễn Văn Tuyên 41
MARIA, THẦY DẠY ĐỨC TIN– Lm. GB. Trần Văn Hào SDB.. 46
MẸ VỀ TRỜI LÀ LỜI MỜI GỌI ĐẦY HI VỌNG- Lm. Brunô Phạm Bá Quế 51
LỜI THƯA XIN VÂNG– Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài 56
ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI- Lm. Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCTT 60
TRỞ VỀ QUÊ NHÀ- Lm. Dom. Nguyễn Ngọc Long.. 64
ƯỚC VỌNG LÊN TRỜI- Lm. Jos. Phạm Quốc Hưng CSsR.. 68
LINH HỒN TÔI NGỢI KHEN THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Hoàng Kim Toan 73
NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA KI-TÔ- Lm. Giuse Vũ Xuân Hạnh 81
THẬP GIÁ, CON ĐƯỜNG ĐƯA TỚI VINH QUANG- Lm. Pet. Trần Thanh Sơn 85
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
Bài đọc 1 – Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab
Có một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng.
Lời Chúa trong sách Khải huyền của thánh Gioan tông đồ.
Tôi là Gioan, bấy giờ tôi thấy Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời : một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời : đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, đê khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc. Và tôi nghe có tiếng hô to trên trời : “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biêu dương uy lực với vương quyền, và Đức Ki-tô của Người giờ đây cũng biêu dương quyền bính”.
Bài đọc 2 – 1 Cr 15,20-27
Mở đường là Đức Ki-tô, rồi đến lượt những kẻ thuộc về Người.
Lời Chúa trong thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Thưa anh em, Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình : mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha. Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài, thì dĩ nhiên không kê Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.
Tin Mừng – Lc 1,39-56
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều ca cả. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Bấy giờ Maria nói : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diêm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biêu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
MARIA DIỄM PHÚC HƠN MỌI NGƯỜI NỮ- Lm. Đan Vinh HHTM
1/.TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2/.Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
3/.CHÚ THÍCH:
– C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
– C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
– C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
– C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
– C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
– C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
– C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
4/.CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì?
II/. SỐNG LỜI CHÚA:
1/.LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2/.CÂU CHUYỆN:
*1) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A, HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
*2) MẸ LUÔN CỨU GIÚP NHỮNG AI TIN CẬY KÊU CẦU:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
*3) NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
*4) TỪ TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA ĐẾN MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3/.SUY NIỆM:
*1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ CHÚA GIÊ-SU:
Là Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
*2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta.
+ Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu qua việc luôn lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36). Người cũng nêu gương bác ái khi chủ động thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đem niềm vui ơn cứu độ đến cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Sau đó Người còn ở lại 3 tháng để phục vụ, giúp đỡ việc nhà cho bà Ê-li-sa-bét trong ba tháng trước ngày bà sinh con, rồi trở về nhà mình (x. Lc 1,39-56). Người cũng quan tâm đến đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới bị thiếu rượu tại thành Ca-na khi cầu thay nguyện giúp đội tân hôn với Đức Giê-su, xin Người can thiệp giúp đôi này. Dù Giờ chưa đến, nhưng Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên là biến nước lã trở thành rượu ngon để giúp họ (x. Ga 2,1-11).
*3) ĐỨC MA-RI-A LÀ ĐẤNG ĐẦY ƠN PHÚC:
Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa luôn ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức MA-RI-A chứa đựng chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có phúc vì đã trở thành môn đệ Đức Giê-su như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người Mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
*4) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC RƯỚC VỀ TRỜI ĐỂ CHUYỂN CẦU CHO CHÚNG TA:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường đau khổ thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn được chết lành trong tay Đức Mẹ và sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per MA-RI-Am): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy gắn bó với Mẹ và nhờ Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến với Chúa noi gương Đức Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm hiểu ý Chúa dạy và xin vâng ý Chúa muốn, chấp nhận mọi may rủi xảy đến cho ta với lòng cậy trông phó thác.
4/.THẢO LUẬN: 1) Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao? 2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc lên trời với Mẹ?
5/.NGUYỆN CẦU:
*1) LẠY CHÚA BA NGÔI CỰC THÁNH. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con của mình là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ thông phần với nỗi đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá… mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu lên trời cả hồn lẫn xác.
*2) LẠY ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách: khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na: « Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo » (Ga 2,5).
*X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
CẢM NGHIỆM ƠN CHÚA- ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã.
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn.
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ.
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ.
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1/.Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2/.Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3/.Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần gian?
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
THEO ĐỨC MẸ LÊN TRỜI- ĐGM. GB. Bùi Tuần
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18).
Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể.
Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa.
Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
ĐỨC MARIA, ĐĨA CHỈ TRÊN CAO- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấymang tên Maria.
1/.Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin.
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2/.Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu.
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3/. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời.
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng?
Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn.
Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
ĐỨC MARIA, MỘT MẪU GƯƠNG TUYỆT HẢO- Lm. Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời. Quả thật, việc Mẹ được vinh thăng về thiên quốc không chỉ mang đến cho chúng ta niềm vui, nhưng còn cho chúng ta niềm tin yêu và hy vọng.
Chúng ta vui vì Mẹ đã về quê hương đích thực trên trời, nơi không còn khổ đau, không còn tang ma, khóc lóc. Chúng ta hy vọng, vì sẽ có ngày chúng ta cũng được cùng Mẹ hưởng vinh phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhưng bởi đâu Mẹ được những đặc ân cao cả đó? Phải chăng vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng vì Mẹ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội? Phải chăng Mẹ là Đấng đồng trinh trọn đời?
Vâng, đúng như vậy. Nhưng Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1, 39-56) hôm nay còn cho chúng ta biết thêm, sở dĩ Mẹ được vinh phúc đó là vì Mẹ đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, như chính lời Mẹ ca lên trong bài Magnificat: “Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến” (Lc 1, 48). Và để đáp trả lại tình thương ấy, Mẹ đã biết mau mắn vâng theo những tác động của Chúa Thánh Thần.
Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại rằng: “Trong những ngày ấy, Đức Maria vội vã lên đường đến một thành thuộc xứ Giuđa, vào nhà bà Eâlisabet” (Lc 1, 39). Sự “vội vã” ở đây không phải là hấp tấp, nhưng thể hiện một sự mau mắn, ước muốn được chia sẻ. Chúng ta biết rằng, để đi đến được với người chị họ, Đức Mẹ đã phải vượt qua quãng đường gập ghềnh, hiểm trở, dài hơn một trăm cây số, với phương tiện giao thông hết sức thô sơ. Sự “vội vã” của Mẹ, còn thể hiện một niềm hân hoan, vì Mẹ được đem Chúa đến cho người khác.
Khi được người chị họ khen là người có phúc nhất trong những người phụ nữ, Đức Mẹ đã không tỏ ra kiêu căng, tự phụ, nhưng Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa qua bài ca bất hủ mà cho đến hôm nay, Hội Thánh vẫn giữ lại trong lời kinh của mình: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).
Cũng như biết bao thiếu nữ Do-thái cùng thời, Mẹ biết rõ lời ngôn sứ Isaia đã từng nói trước đó 8 thế kỷ: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”, nhưng có lẽ, chưa bao giờ Mẹ nghĩ mình là người thiếu nữ “đầy ơn phúc” đó. Chẳng thế mà khi nghe thiên thần truyền tin Con Thiên Chúa nhập thể, Mẹ đã tỏ ra hết sức ngạc nhiên: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Nhưng khi nghe thiên thần giải thích, Mẹ đã hiểu rằng, mình đã được Thiên Chúa chọn để thực hiện công trình cứu độ của Người. Với tất cả sự khiêm tốn của một người tì nữ, Mẹ đã nói lời “xin vâng”: “Này tôi là nữ tì của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38).
Braunstein đã từng nói một câu rất nổi tiếng rằng: “Có thể người ta cho mà không thương, nhưng không thể thương mà không cho”. Mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ đã không ngần ngại dấn thân phục vụ người chị họ mình đang mang thai trong lúc tuổi già. “Maria ở lại với bà Eâlisabet độ ba tháng, rồi trở về nhà mình” (Lc 1,56). Kinh Thánh chỉ diễn ta bằng mấy lời ngắn ngủi, nhưng chúng ta cũng có thể mường tượng ra sự vất vả của Mẹ khi phục vụ người chị họ sinh nở trong lúc tuổi già là như thế nào. Tuy nhiên, Mẹ đã không một lời phàn nàn, than trách.
***
Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi biến đổi đời sống của mình để trở nên giống như Mẹ.
Trước tiên là bài học về sự khiêm tốn. Mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, những Mẹ chỉ nhận mình là “tì nữ thấp hèn của Thiên Chúa”. Quả vậy, nếu không có một tâm tình đơn sơ khiêm tốn, chúng ta khó có thể nhận biết được ơn Chúa ban. Chính thánh Phaolô Tông đồ đã có kinh nghiệm này khi ngài khẳng định rằng: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,9-10).
Thứ đến là bài học về tâm tình tạ ơn. Sở dĩ Mẹ vội vã ra đi đem Chúa đến cho người chị họ, vì Mẹ đã cảm nếm được những ân huệ cao cả mà Thiên Chúa đã thi ân cho Mẹ, cho dù Mẹ chỉ là một tì nữ thấp hèn. Còn chúng ta, mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn lành từ nơi Chúa, như ơn được sinh ra làm người, ơn được làm con cái Chúa và Hội Thánh, ơn sức khỏe, ơn bình an… nhưng chúng ta có biết tạ ơn Chúa cho tương xứng hay không?
Sau cùng là bài học về sự phục vụ. Có lẽ, lời tạ ơn đẹp lòng Chúa nhất không phải là những lễ vật chúng ta dâng, nhưng là tình yêu thương, như lời Chúa phán: Ta đã chán ngấy của lễ toàn thiêu, chiên bò. Ta chỉ muốn tình yêu chứ không cần hy lễ…
Noi gương Mẹ đi thăm viếng, chúng ta cũng hãy biết mở lòng ra để đến với muôn người. Cuộc sống quanh ta, có biết bao người đang cần đến chúng ta trợ giúp. Sự giúp đỡ ấy, có thể chỉ là một lời thăm hỏi, một cái bắt tay, một ánh mắt cảm thông… Những sự chia sẻ tưởng chừng như đơn giản đó, đôi khi lại mang lại những kết quả to lớn.
Công việc tông đồ của chúng ta chắc chắn sẽ thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nếu như chúng ta biết đặt dưới sự trợ giúp của Mẹ. Để chớ gì, qua đời sống chứng tá của chúng ta, mọi người sẽ nhận biết, chúng ta là con của Mẹ và là con của cùng một Cha trên trời.
***
Lạy Mẹ Maria, hôm nay, Mẹ đã được Thiên Chúa đưa lên trời cao cả hồn lẫn xác. Hợp cùng với triều thần thiên quốc, chúng con xin chúc mừng Mẹ. Chúng con tin rằng, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng con. Với trái tim từ mẫu và đầy dịu hiền, xin Mẹ giúp chúng con cũng biết noi gương Mẹ, sống đơn sơ, khiêm tốn. Nhờ đó, chúng con có thể nhận ra những ơn lành của Thiên Chúa ban xuống trên cuộc đời mỗi người chúng con, để chúng con có thể sẵn sàng giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
MARIA, THẦY DẠY ĐỨC TIN– Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Trong một đan viện nọ, có hai tu sỹ ngồi đàm đạo để cùng giúp nhau thăng tiến về đời sống thiêng liêng. Họ mở Kinh Thánh ra và cùng nhau chia sẻ. Đoạn Kinh Thánh được đọc lên, trích trong Tin mừng Luca chương 15, nói về dụ ngôn đứa con hoang đàng. Câu chuyên khá dài với nhiều tình tiết. Gấp sách lại, cả hai thinh lặng cầu nguyện và trao đổi. Một đan sĩ lên tiếng “Tôi không hiểu tại sao thằng bé này lại bỏ nhà đi hoang. Nó có một gia đình khá đầy đủ về vật chất. Hơn nữa, nó còn có một ông bố yêu thương nó hết lòng. Vậy tại sao nó lại thoát ly gia đình ?”. Suy nghĩ một lát, vị đan sĩ kia lên tiếng “Đứa bé này bỏ nhà đi bụi, vì trong ngôi nhà ấy vẫn vắng bóng một người mẹ”.
May mắn, chúng ta có một người Mẹ tuyệt vời là chính Đức Maria. Người vừa là hiền mẫu, vửa là Thầy dạy đức tin và cũng là đấng phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin trần thế. Mừng lễ Mẹ lên trời hôm nay, Giáo hội cũng nhắc nhớ chúng ta hướng về người mẹ thiêng liêng và tuyệt diệu này. Đồng thời, chúng ta cũng nhìn về Đức Maria như là khuôn mẫu đức tin để noi theo.
Ý nghĩa mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác.
Năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã công bố tín điều này. Đây là tín lý thuộc đức tin mang tính thần khải và Công giáo. Giáo hội xác tín chân lý ấy dựa vào nhiều lý chứng.
Trước hết, bởi vì Mẹ là thụ tạo vượt trổi, đã được Chúa giữ gìn khỏi lây nhiễm tội lỗi. Tội tổ tông không để lại âm hưởng gì nơi Mẹ, đồng thời Thiên Chúa cũng gìn giữ mẹ luôn mãi vẹn tuyền. Ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Ngài phó trao cho Mẹ những đặc sủng tương thích với sứ vụ cao cả này. Thân xác Mẹ cho dù có phải nếm trải sự chết giống như Đức Giêsu, nhưng thân xác vẹn tuyền đó không thể bị hủy hoại. Vì vậy Giáo hội xác tín rằng sau khi chết, Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Thứ đến, cuộc đời của Mẹ đã gắn kết chặt chẽ với Đức Giêsu. Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Mẹ cũng vậy. Phần thưởng nước trời dành cho Mẹ như một hệ quả tất yếu của sự hiệp thông vẹn tròn với Đức Giêsu.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã nói đến sự chiến thắng của người nữ trên con rắn. Người nữ đạp dập đầu con rắn và con rắn rình cắn gót chân bà. Người phụ nữ này là hình tượng chỉ về Hội thánh, về Đức Maria, về những con người sống hiệp thông chặt chẽ với Đức Giêsu trong nhiệm cục cứu độ. Cũng tương tự, người nữ trong sách Khải Huyền đã chiến thắng con rồng đỏ, cũng ám thị về Đức Maria và về toàn thể Giáo hội.
Giáo hội công bố tín điều này để mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như khuôn mẫu đức tin. Mẹ chính là Thầy dạy Đức tin cho chúng ta.
Thầy dạy đức tin.
Sau khi Chúa về trời, Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ. Tin mừng Gioan chỉ tóm gọn trong một câu ngắn: “Từ lúc ấy, môn đệ đem Mẹ về nhà mình (Ga 19,27). Sách Tông đồ Công vụ chỉ duy nhất một lần nói về sự hiện diện của Đức Maria giữa các tông đồ khi cầu nguyện tại Giêrusalem trong dịp lễ Ngũ Tuần. Sau đó, Chúa Thánh Thần đậu xuống trên các tông đồ và trên Đức Mẹ. (Cv. 1,12). Như vậy, sau biến cố Phục sinh, Mẹ đã hoàn toàn rút vào trong thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện. Thái độ đức tin này cũng được Thánh Luca tóm kết bằng một câu đơn giản : “ Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc. 2,19). Vì vậy, qua phụng vụ hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của mọi tín hữu.
“Phúc cho bà là kẻ đã tin” (Lc. 1,45). Đây là lời được mặc khải qua miệng bà Elizabeth. Trước khi chúng ta chiêm ngắm các nhân đức và những đặc phúc nơi Mẹ, chúng ta hãy nhìn về Mẹ như là Thầy dạy đức tin của chúng ta.
Cuộc hành trình đức tin của Mẹ được dàn trải trong suốt cả cuộc sống, từ biến cố truyền tin đến cao điểm là phút giây hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu dưới chân Thập giá. Thái độ đức tin đó được thể hiện bằng cách Mẹ luôn tìm kiếm và quy thuận thánh ý Thiên Chúa. Có lần, khi Chúa Giêsu đang giảng giữa đám đông, Đức Maria chợt đến. Người ta báo cho Chúa biết là ‘bà cố’ đang đến. Người trả lời :“Ai là mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Mc. 3,31-35). Đức Giêsu gián tiếp đề cao thái độ đức tin nơi Mẹ. Tính cách làm Mẹ của Ngài hệ tại ở việc biết nghe lời Thiên Chúa và đem ra thi hành.
Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác là dấu chứng của một cuộc vinh thắng, và đó chính là cuộc chiến thắng trong đức tin. Trong thư Rôma, thánh Phaolô so sánh Ađam với Đức Kitô (xem chương 5). Ađam gieo sự tội vào trần gian vì bất tuân, còn Đức Kitô đưa sự giải án tuyên công đến cho con người qua vâng phục. Cũng như Evà đã liên đới với Ađam trong tội nguyên tổ, thì Đức Maria được sánh ví như Evà mới, đã hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu để đem ơn cứu độ đến cho con người. Nhiều thần học gia còn gọi Mẹ là Đấng ‘Đồng công Cứu chuộc’ (Corredemptorist). Sách Giáo lý Công giáo cũng mời gọi chúng ta hướng nhìn về Mẹ như là Biểu tượng Cánh chung (Eschatological Icon) cho toàn Giáo hội trong cuộc lữ hành trần thế ( Giáo lý Công giáo số 972). Những điều này nói về Mẹ như là khuôn mẫu và Thầy dạy đức tin cho chúng ta.
Kết luận
Ở Đức, trong một vở kịch diễn lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, diễn viên trình diễn cảnh Giuđa sau khi phản bội đã ra đi tự vẫn. Trước khi chết, anh ta thét lên: “Khốn thân tôi, tôi biết chạy đến với ai bây giờ ?”. Nghe vậy, một đứa trẻ ở gần đó nói với mẹ: “Mẹ ơi, sao anh ta không chạy đến với Đức Maria”.
“Trên đời này, không có một kỳ quan nào cao cả và vĩ đại cho bằng trái tim của người mẹ”. Cũng vậy, chúng ta có Đức Maria là Hiền Mẫu, là Thầy dạy đức tin và cũng là nơi nương náu an toàn nhất trong cuộc lữ hành trần thế hôm nay.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
MẸ VỀ TRỜI LÀ LỜI MỜI GỌI ĐẦY HI VỌNG- Lm. Brunô Phạm Bá Quế
Một người Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.
Trong ngày mừng Đức Maria Hồn Xác lên trời, Giáo Hội mượn lời thánh Gioan trong sách: 15/8-5
Trong ngày mừng Đức Maria Hồn Xác lên trời, Giáo Hội mượn lời thánh Gioan trong sách Khải Huyền để ca ngợi Mẹ: “một người Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” (Kh 12,1).
Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác lên trời đã được Đức Thánh Cha Piô XII tuyên bố ngày 01 tháng 11 năm 1950, trong bửu sắc “Munificentissimus Deus”, như sau: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng, và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả Hồn lẫn Xác”.
Đây là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải.
Thánh Kinh đã cung cấp các dữ kiện, các luận cứ về việc Đức Maria Hồn Xác lên trời. Từ những trang đầu Sách Sáng Thế đã nói về một cuộc chiến giữa một người nữ với Satan: “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đạp giập đầu ngươi, và ngươi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Giáo Hội hiểu người đàn bà nói ở đây là Ðức Maria và dòng dõi là Ðức Kitô. Như vậy, lời Kinh Thánh này đã tiên báo cuộc chiến thắng của Mẹ Maria và Giáo Hội nhờ Chúa Giêsu con Mẹ. Nếu Giáo Hội nhìn nhận “Đức Maria là Hòm Bia của Chúa Kitô” thì ngôn sứ Isaia đã viết: “Ta tôn vinh chỗ Ta đặt chân” (Is 60,13); Thánh Vịnh 16 cũng ám chỉ mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác lên trời khi nói: “Vì thế, tâm hồn tôi mừng rỡ và lòng dạ hân hoan, thân xác tôi cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16, 9-10). Sách Khải Huyền trong bài đọc 1 cũng nói về hình ảnh “một người Phụ Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao” (Kh 12, 1). Đó chính là người nữ chiến thắng mà sách Sáng Thế đã loan báo (St 3, 15). Một luận cứ nữa chúng ta đọc thấy trong bài đọc 2 (1 Cr 15,20-27). Thánh Phaolô khẳng định: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống”. Thử hỏi có ai “liên đới với Đức Kitô” khắng khít hơn là chính Thân Mẫu Người?. Nhìn vào cuộc đời của Ðức Mẹ, chúng ta dám khẳng định rằng: Mẹ luôn đồng hành với Ðức Giêsu từ khi nhập thể cho đến chân Thập Giá, một cách nói mạnh mẽ hơn là Mẹ đã “đồng công” với Chúa Giêsu trong công trình cứu chuộc nhân loại (x. LG 53-70). Như vậy, việc Mẹ được Thiên Chúa đưa vào hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác là điều chắc chắn và không sai lầm. Thánh Đamascênô nói: “Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra, đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết, khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh”.
Lễ Mẹ lên trời là một lời mời gọi đầy hy vọng
Mẹ Maria lên trời là hình ảnh vẹn toàn nhất của Giáo Hội ngày mai, là bình minh của Giáo Hội khải hoàn. Sách Giáo lý Hội Thánh xác quyêt điều này khi nói: “Việc Đức Trinh Nữ được lên trời Hồn Xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu” (số 966). Đó cũng là điều xác quyết của Công Đồng Vaticanô II: “Trong việc Đức Maria Hồn Xác Lên trời chúng ta nhìn thấy lời hứa, những thành quả đầu tiên của hạnh phúc vinh quang của chính chúng ta…Mầu nhiệm Đức Maria Hồn Xác Lên Trời là một mầu nhiệm của và cho toàn thể Giáo Hội” (LG 65).
Để được lên trời với Mẹ, Giáo Hội phải bước vào cuộc chiến đức tin với Mẹ.
Trong ngày Lễ Đức Mẹ lên trời, qua bài đọc Sách Khải Huyền (Kh 12), Giáo Hội đã trình bày cho chúng ta một hình ảnh sống động, đầy tính cách bi đát, gian nan, nhưng cũng đầy hy vọng, mà Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta. Đó là hình ảnh một Người Nữ huyền nhiệm, “đầu đội triều thiên…đang mang thai, kêu la chuyển bụng…và con rắn mãng xà gian ác đang chực sẵn để nuốt sống đứa con khi Người Nữ vừa sinh ra”. Đó phải chăng là vọng lại lời sách Sáng Thế Ký 3,15! Giáo Hội nhìn thấy nơi thị kiến này hình ảnh của Giáo Hội đang lữ hành trong gian nan của cuộc chiến đức tin. Ngày nay hơn bao giờ hết, Giáo Hội đang phải đối mặt với mọi đe dọa và thách đố đến từ mọi phía, từ trong cũng như ngoài Giáo Hội. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những chiến dịch chống phá Giáo Hội từ các phương tiện truyền thông trong năm qua. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những cuộc bách hại đạo vào thời các Kitô hữu tiên khởi – ở Giêrusalem, ở Rôma, và ngay trên quê hương chúng ta xưa cũng như nay. Đây không phải là một điều mới mẻ. Chúng ta biết rằng suốt dòng lịch sử của Giáo Hội, từ buổi đầu khai sinh cho tới hôm nay và còn tiếp tục trong tương lai, những đe dọa và bắt bớ những chống đối và đàn áp khốc liệt luôn gắn liền với đời sống Giáo Hội.
Qua hình ảnh được mặc khải về Người Nữ bị con rồng đe dọa, thánh Gioan đã nhìn thấy được những đe dọa, những thử thách gian nan này trước đây hai ngàn năm. Vì thế người ta nói thật đúng khi sử dụng cụm từ «Giáo Hội chiến đấu» để nói về Giáo Hội Đức Kitô tại thế. Vậy, hình ảnh «Người Nữ» trong Sách Khải Huyền đã làm cho chúng ta hiểu rằng: Một đàng, mãi cho đến ngày tận thế, Giáo Hội luôn phải đối mặt với mọi gian nguy thử thách, nhưng đàng khác, quỷ dữ và thuộc hạ gian ác của nó sẽ không thể chiến thắng hay loại bỏ được Giáo Hội. Giáo Hội sẽ chiến thắng và cuộc chiến thắng này đã được hiện thực một cách cụ thể nơi con người Mẹ Maria. Cũng như Mẹ Maria đã được rước về trời cả hồn lẫn xác, Giáo Hội chắc chắn cũng sẽ từ một «Giáo Hội chiến đấu» trở thành một «Giáo Hội chiến thắng» trong ngày tận thế.
Mừng lễ Mẹ Maria hồn xác lên Trời, chúng ta cầu xin Chúa, qua lời bầu cử của Đức Mẹ cho chúng ta cũng được lên Trời vinh hiển với Mẹ. Xin cho mỗi người luôn biết ngước nhìn lên Mẹ để có thể vượt qua biển đời thử thách, gian nan với lòng tin vào cuộc khải hoàn nhờ Chúa Kitô. Để một ngày kia chúng ta được cùng nhau chiêm ngắmMẹ: “Một người Nữ, mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao”.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
LỜI THƯA XIN VÂNG– Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Triết gia hiện sinh của Pháp, Albert Camert đã nói rằng: “Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận chính mình. Con người đành phải chịu đựng chính mình và chính vì phải chịu đựng mình mà con người luôn phẫn nộ với những giới hạn của mình và tìm cách vượt qua chính mình”.
Một trong những thể hiện của thái độ không chấp nhận chính mình là ước mơ bất tử trường sinh được nuôi dưỡng và bày tỏ bằng nhiều cách khác nhau. Từ các vua chúa của Ai Cập qua Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa đến những lãnh tụ độc tài của các thời đại, và cuối cùng, những nhà khoa học của thời đại, con người vẫn tìm đủ mọi cách để trở thành bất tử. Các vua Ai Cập khi qua đời không những được ướp xác, mà người ta còn chôn sống cả những người thân tín của họ. Tần Thủy Hoàng cũng đã suốt một đời đi tìm thuốc trường sinh bất tử. Những cái xác ướp của thời đại hiện đang được trưng bày trong những lăng tẩm nguy nga, mà sự bảo trì đòi hỏi bao nhiêu tốn kém cũng là thể hiện của những giấc mơ được sống mãi, dù chỉ là sống mãi với một thứ hào quang giả tạo.
Giấc mơ được sống lại ấy, ngày nay cũng đang được những nhà khoa học muốn hiện thực hóa qua việc tạo sinh vô tính con người, hay sử dụng tế bào gốc của các phôi thai người để chữa trị những căn bệnh nan y, và như vậy vượt qua biên giới của sự chết. Trước khi chết, người ta chỉ cần để lại một tế bào sống của mình và từ đó các nhà phù thủy khoa học sẽ nối dài cuộc sống của người đó bằng cách tạo sinh vô tính một con người y hệt như người đó. Với tế bào gốc rút ra từ phôi thai người, những nhà phù thủy khoa học cũng sẽ đánh bại thần chết bằng cách chữa trị mọi căn bệnh nan y.
Nhưng viễn tượng mà những nhà khoa học đang vẽ ra vì một vài người trường sinh bất tử trên mặt đất này, không chỉ thỏa mãn ước mơ được sống mãi, nó còn gợi lên bao nhiêu hệ lụy mà một cái nhìn có trách nhiệm không thể làm ngơ. Những con người trường sinh bất tử ấy sẽ là những con người bình thường, hay là những quái thai? Có được phép sử dụng hay sản xuất phôi thai để dùng vào việc chữa trị các căn bệnh nan y và làm cho con người trường sinh bất tử không? Ðó là những câu hỏi mà tinh thần trách nhiệm không thể tránh né được.
Tựu trung, sống và cư xử có trách nhiệm là đòi hỏi tất yếu của con người. Ðã là người đương nhiên phải có trách nhiệm. Nhưng nói đến trách nhiệm cũng là nói đến thân phận giới hạn của con người. Chính vì tính giới hạn ấy của con người mà tự do cũng đương nhiên có tính giới hạn.
Ðây là chân lý mà lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng suy nghĩ. Mẹ Maria là mẫu mực của một con người có trách nhiệm. Trách nhiệm ấy trước tiên là thể hiện qua sự cộng tác của Mẹ trong mầu nhiệm nhập thể. Mẹ đã thưa “Xin Vâng” với tất cả tinh thần trách nhiệm. Thưa “Xin Vâng” là chấp nhận đi vào một chương trình của Thiên Chúa, trong đó sự cộng tác của con người phải là toàn diện. Thưa “Xin Vâng” là ý thức về thân phận bất toàn và giới hạn của con người, nhưng đồng thời cũng triệt để tin tưởng nơi quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Chính vì đã thưa xin vâng một cách triệt để mà Mẹ Maria đã là người đầu tiên trong nhân loại vượt qua được ranh giới của sự chết để trở thành trường sinh bất tử thật sự.
Chấp nhận thân phận giới hạn của kiếp người và tin tưởng ở quyền năng của Ðấng có thể làm được mọi sự. Mẹ Maria đã được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác. Mẹ đã trở thành đích điểm của cuộc lữ hành đức tin của chúng ta. Mẹ đã chỉ ra cho chúng ta con đường đích thực để đi, hầu đạt được cứu cánh vĩnh cửu của chúng ta. Nhìn lên Mẹ từ giữa bao nhiêu giới hạn bất toàn và khổ đau của kiếp người, chúng ta được mời gọi củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Giữa cuộc đời khổ lụy và tăm tối, chúng ta vẫn nhận ra ánh sáng để tiến tới. Ước gì bài ca Ngợi Khen mà Mẹ và cộng đoàn tiên khởi đã hát vang cũng trở thành tâm tình của chúng ta.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI- Lm. Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCTT
Giáo Hội dành cho Mẹ Maria biết bao tước hiệu. Mọi danh xưng của Mẹ đều gói trọn ý nghĩa cao vời. Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu và cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta.
Do đó, tên Maria gợi lên cho ta tình thương vô biên của một người Mẹ luôn sẵn sàng yêu ta, cảm thông, tha thứ cho ta mỗi khi ta lỗi lầm yếu đuối. Còn tên nào trìu mến cho bằng tên Maria. Con người trần gian không thể dùng bất cứ ngôn ngữ nào để diễn tả về Mẹ Thiên Chúa. Con người chỉ biết cúi đầu trước bao danh xưng ý nghĩa tuyệt vời. Vì là Mẹ Thiên Chúa, Maria đã được Thiên Chúa ban cho nhiều đặc ân cao trọng mà bất cứ người phụ nữ nào trên trần gian cũng không có được. Ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn hồn xác về trời là những đặc ân vô cùng quí giá. Chỉ mình Mẹ có được và chỉ mình Mẹ mới có thể hiểu thấu. Mừng lễ Đức Maria hồn xác lên trời, chúng ta cảm nghiệm sao về đặc ân vô cùng quí giá ấy.
MẸ MARIA: Có Mẹ có Cha là một hạnh phúc lớn lao đối với con người. Tiếng Mẹ tiếng Cha luôn cho con trẻ và ngay cả người lớn cái cảm giác êm đềm, dễ chịu. Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài cũng không đi một con đường nào khác, Ngài không sinh ra như một Tiên Nga giáng trần hay như một vị thần thánh nào khác. Ngài đã chọn một gia đình: có Cha, có Mẹ. Ngài đã sinh ra một cách bình thường như bất cứ một trẻ nhỏ nào khác. Đọc lại Kinh Thánh và học Giáo Lý, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và vô cùng sung sướng khi thấy sự lạ lùng của việc Chúa làm. Con đường của Chúa hết sức kỳ diệu và con đường của Người vô cùng lạ lùng. Maria đã được chuẩn bị từ trước. Mẹ đã được sinh ra trong cung lòng của bà thánh Anna vào lúc bàđã tuổi già. Thánh Gioakim cũng đã ngã chiều và ở vào cái tuổi hai ông bà không thể nào sinh con vì tuổi tác. Nhưng Thiên Chúa đã làm một việc hết sức kỳ diệu, bà thánh Anna đã sinh con duy nhất là Đức Trinh Nữ Maria. Thế rồi cuộc đời của Maria cứ lớn lên trong ơn nghĩa của Chúa. Thiên Chúa lại để ý và sủng ái Mẹ Maria. Nhân loại phản bội Thiên Chúa. Cái tội phản bội đáng lẽ bị Chúa loại trừ, tiêu diệt. Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương con người. Ngài đã cất nhắc và chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa. Ơn cao quí làm Mẹ Thiên Chúa là một ơn nhưng không Thiên Chúa tặng ban cho Mẹ Maria. Chính vì thế, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn trinh thai và ơn hồn xác lên trời. Đứng trước những ơn vô cùng quí báu, Maria chỉ biết chấp nhận với tất cả lòng tin thâm sâu và lời xin vâng tuyệt vời. “ Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều cao trọng, danh Người thật chí thánh chí tôn”( Lc 1, 49 ).
ƠN HỒN XÁC LÊN TRỜI LÀ ƠN HUỆ CAO QUÍ CHÚA TẶNG BAN CHO MẸ:
Hơn ai hết Mẹ Maria đã hiểu rõ cái giới hạn của kiếp sống phù du của kiếp người.
Evà đã phạm tội, nghe lời xúi giục của con rắn mà phản nghịch lại lời giao ước của Thiên Chúa. Evà phải chết. Thân xác của bà trở về cát bụi. Maria, Mẹ của Thiên Chúa đã luôn làm theo ý Chúa. Lời xin vâng của Mẹ đã nói lên tấm lòng thẩm sâu của Mẹ. Mẹ tin, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn đi vào đường lối của Thiên Chúa, đi vào chương trình yêu thương của Thiên Chúa, Mẹ đã bám chặt vào Thiên Chúa, đã tin vào lời của Chúa. Mẹ tin mọi sự, Chúa đều có thể thực hiện. Mẹ đã tin, nên Mẹ sau khi chết đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đặc ân cao quí này chỉ mình Mẹ có được, chỉ mình Mẹ được thừa hưởng. Mẹ đã về trời cả hồn lẫn xác ở cạnh ngai toà Thiên Chúa. Đặc ân hồn xác lên trời của Mẹ cũng là ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đang mời gọi từng người chúng ta. Mẹ mời gọi nhân loại hãy đi vào chương trình của Thiên Chúa, bám chặt, tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Chúa. Hãy xin Mẹ hồn xác về trời cầu thay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta cũng được về trời như Mẹ.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã đưa lên trời cả hồn lẫn xác Đức Maria là trinh nữ vô nhiễm và là thánh mẫu của con Chúa. Xin cho chúng con hằng biết hướng lòng về phúc lộc quê trời để mai sau được cùng thánh mẫu chung hưởng vinh quang( Lời nguyện nhập lễ, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời ).
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
TRỞ VỀ QUÊ NHÀ- Lm. Dom. Nguyễn Ngọc Long
Đời sống con người trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa gắn liền với quê hương nguồn gốc của họ.
Đức tin Công giáo dạy: Đời sống con người có lúc khởi đầu và cũng có lúc chấm dứt.
Từ lúc khởi đầu đời sống họ hành trình trong một quê hương hình thể địa lý. Lúc đời sống trên quê hương hình thể địa lý đó chấm dứt, đó là lúc chết, con người trở về quê hương nguồn gốc của mình. Hay gọi nôm na là trở về quê nhà.
Trong Kinh Thánh không thấy nói đến ngày chấm dứt, sự chết của Đức Mẹ Maria, người đã sinh thành nuôi dưỡng Chúa Giêsu, hay còn có danh xưng tụng là Mẹ Thiên Chúa. Nhưng trong đời sống Giáo Hội Chúa có tập tục đạo đức. Phải, có cung cách nếp sống đức tin: mừng kính ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 15.08. hằng năm.
Đâu là ý nghĩa ngày lễ mừng kính này?
1/. Đức Mẹ Maria cũng là con người như bao con người khác trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa, nên Đức Mẹ cũng phải chết. Ngay Chúa Giêsu, tuy là Thiên Chúa, nhưng vì đã xuống thế làm người, nên Ngài cũng đã trải qua sự chết phần thân xác như mọi người.
Chúng ta có thể suy luận được rằng, sự chết nảy sinh sự liên kết gắn bó trọn vẹn tương quan tình mẫu tử và niềm tin của Đức Mẹ Maria với Chúa Giêsu. Từ lúc thụ thai Chúa Giêsu như Thiên Thần Gabriel truyền tin, rồi sinh hạ Chúa Giêsu, trong suốt dọc cuộc sống và cho tới khi Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá, Đức Mẹ lúc nào cũng gần sát cạnh bên con mình. Rồi sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, lúc Chúa Thánh Thần hiện xuống Đức Mẹ luôn sát cạnh gần với cộng đoàn Giáo Hội thời sơ khai các Thánh Tông đồ.
Sự gần gũi tình mẹ con, lòng tràn đầy niềm tin cùng đầy ơn Chúa Thánh Thần cũng được kéo dài trong sự chết. Đức Mẹ Maria chết với Chúa Giêsu trong sự sống thiêng liêng của con mình và trong bàn tay của Thiên Chúa Cha. Có thể nói được, qua sự chết Đức Mẹ Maria đã đi vào trung tâm tình yêu mến là trái tim của Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa đã đón nhận Đức Mẹ cùng với Chúa Giêsu.
2/. Chúng ta xưng tụng Đức Mẹ được cất nhắc đưa lên trời. Trời có thể nói là trái tim của Thiên Chúa, hay là ánh sáng cùng là chiều rộng vòng tay của Thiên Chúa. Trời, không gian mầu xanh cao bao trùm vượt trên đầu con người, theo tầm mắt nhìn của chúng ta là tấm hình bản sao tấm lòng của Thiên Chúa. Trời cũng là cộng đoàn con cái Thiên Chúa. Nơi cung lòng trái tim của Thiên Chúa họ được chở che gìn giữ.
Bầu Trời theo tầm nhìn con mắt con người bao trùm mọi loài trên thế giới đẹp và cao sang. Nhưng bầu trời trái tim của Thiên Chúa không thể nhìn nhận ra bằng con mắt thường của ta còn đẹp còn cao sang hơn nhiều.
Trời là quê hương của mọi con người. Một quê hương nơi chốn còn ẩn dấu, xa vời và nhiều ánh sáng dành cho tất cả mọi người. Đó là chương trình dự liệu của Thiên Chúa dành cho con người như vậy. Vì thế, bao lâu còn hành trình dọc đường trong thế giới trần gian, chúng ta còn mãi sống trong mong chờ cùng lo âu hồi hộp.
Đức Mẹ Maria chết là lúc Đức Mẹ trở về nhà, nơi quê hương của con người. Đức Mẹ được trở về nhà, đồng thời cũng là mẫu gương cho con người cũng sẽ được trở về nhà quê hương trên trời nơi trái tim Thiên Chúa.
3/. Chúng ta xưng tụng Đức Mẹ được cất nhắc đưa lên trời cả hồn lẫn xác là muốn lên niềm tin: con người được Thiên Chúa tạo dựng có cả hồn lẫn thân xác, là toàn thể, bao gồm tất cả trong đời sống.
Con người được tạo dựng có thân xác, có sự sống và có ý chí chí vươn lên muốn đạt tới hạnh phúc. Đức Mẹ Maria cũng là một con người có thân xác, có sự sống cùng có ý chí vươn lên muốn đạt tới hạnh phúc. Dấu vết đó không chỉ tỏ hiện nơi con người Đức Mẹ, nhưng còn tỏ hiện khi đức mẹ đón nhận hạ sinh thân xác và sự sống thai nhi Chúa Giêsu trong cung lòng của mình, khi thân xác và sức sống của đức mẹ ở trần gian chấm dứt với sự chết, và sau đó đức mẹ được dẫn đưa trở về nhà quê hương. Tất cả sự việc cất nhắc đưa về trời, về nhà xảy ra trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa với toàn vẹn thân xác và linh hồn của Đức Mẹ Maria.
Toàn vẹn thuộc về con người tất cả những gì gần gũi với ta, có liên quan họ hàng thân thuộc hoặc cả tinh thần tình liên đới. Những tương quan liên đới này và cả tương quan liên đới đức tin trong Giáo Hội, tất cả cùng được cất nhắc đưa lên theo trong ánh sáng mầu nhiệm quê hương trên trời.
Đức Mẹ Maria đã sống trải qua con đường với Chúa Giêsu trong tương quan liên đới là mẹ và là người tin. Đức Mẹ được cất nhắc về trời với Chúa Giêsu cùng với tất cả những tương quan liên đới giữa mẹ và con.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
ƯỚC VỌNG LÊN TRỜI- Lm. Jos. Phạm Quốc Hưng CSsR
“Phúc cho người, là kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho người!”
Trong buổi lễ tại Tòa Bạch Ốc ngày 30/7/1994, Tổng thống Hoa Kỳ Willam Clinton đã tôn vinh cuộc đổ bộ lên mặt trăng tròn 25 năm (20/7/1969). Ông gọi biến cố ấy là “bước nhảy vĩ đại của nhân loại”. Các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11 là Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins, những người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã được ngưỡng mộ như những người hùng của nhân loại.
Sau chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc sẽ có những cuộc du hành thường xuyên lên mặt trăng để tất cả những ai thích đều có thể mua vé lên nguyệt cầu. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để đặt chân lên một vệ tinh không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra không đáng làm.
Dù sao, việc con người vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu để đặt chân lên một thiên thể khác vẫn là một thành quả đáng khâm phục. Vì điều này đã nói lên một cách hùng hồn khả năng chinh phục vụ trụ của con người. Nhưng dù có vượt ra khỏi sự hạn hẹp của địa cầu khi đặt chân lên nguyệt cầu, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn. Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong thế giới vật chất này vận không phải là quê thật và chung cánh của loài người. Chỉ có Thiên Đàng hay Quê Trời mới là nơi mà mọi khao khát và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn và khỏa lấp hoàn toàn.
Ước mơ Thiên Đàng không phải là ước mơ hão huyền.
Việc phi thuyền Apollo 11 đổ bộ nguyệt cầu đã cho thấy ước mơ lên thăm Chị Hằng của nhân loại từ ngàn xưa đã được thực hiện. Cũng vậy, việc Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo Hội long trọng mừng kính vào ngày 15/08 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ Thiên Đàng, là ước mơ chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi sâu thẳm nhất của lòng người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Mẹ Maria và cũng sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng ta được Chúa cho sống lại như thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Không như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống và dưỡng khí, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc Mẹ lên trời được hiểu như thế, việc “lên trời” của Mẹ chẳng đáng ta ước mong, như lời của một bản tình ca nào đó:
” Lên trời hai đứa hai nơi
Thôi em chỉ muốn làm người trần gian. “
Thực ra, đặc ân Đức Mẹ được “lên trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác. Mẹ đã được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế giới tự nhiên hữu hạn nầy để đi vào thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó, Mẹ được hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình Yêu và Hạnh Phúc viên mãn của chính Chúa.
Tại sai Mẹ được phúc trọng như thế? Tin Mừng theo thánh Luca trong phụng vụ hôm nay cho ta biết Mẹ được phúc trọng vì Mẹ đã tin, tin tất cả những gì Chúa phán cùng Mẹ. Mẹ đã tin với tất cả xác hồn của Mẹ, với tất cả sự sống và tình yêu của Mẹ, Mẹ đã tin trọn vẹn nên Mẹ đã được phúc trọn vẹn.
Chúng ta cũng được Chúa mời gọi bước vào cuộc hành trình đức tin như Mẹ. Chúng ta tin rằng Chúa yêu thương ta từ đời đời. Người dựng nên ta theo giống hình ảnh Người. Người đã ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sinh ra làm người để chia sẻ thân phận chúng ta, đã chết và sống lại để chuộc lại cho chúng ta địa vị làm nghĩa tử của Chúa, và đã lên trời vinh hiển để cho chúng ta hy vọng sẽ được lên trời chia sẻ vinh quang với Người.
Việc Mẹ Maria được lên trời cả hồn cả xác cho thấy Mẹ là người đầu tiên trong nhân loại đã được tận hưởng cách trọn vẹn và hoàn hảo ơn cứu độ do công nghiệp của Chúa Kitô. Đó còn là một mạc khải cho ta thấy trước phần phúc chung cánh Thiên Chúa dành sẵn cho mỗi người chúng ta.
Thực tại đức tin của ta đẹp như thế đấy!
Ta có dám tin và sống trọn vẹn với niềm tin đó không?
Có lẽ sẽ chẳng bao giờ chúng ta có cơ hội đặt chân lên mặt trăng như các phi hành gia của phi thuyền Apollo 11. Nhưng nếu chúng ta tin như Mẹ đã tin và sống như Mẹ đã sống, chắc chắn chúng ta sẽ được phúc lên trời như Mẹ đã được.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ đầy ơn phúc của chúng con. Cùng với Mẹ chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Mẹ ơn được lên trời cả hồn cả xác. Trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa của Tình Yêu, Mẹ không ở xa chúng con nhưng lại càng gần chúng con và yêu thương chúng con hơn. Vậy xin Mẹ hãy giúp chúng con nhận biết sự hiện diện thật thân thiết của Mẹ trong cuộc đời chúng con, để chúng con hằng sống gắn bó với Mẹ trong cuộc hành trình đức tin nơi dương thế. Nhờ vậy, chúng con sẽ luôn tìm được ý nghĩa đích thực và bình an trong cuộc sống hiện tại và đầy tràn hy vọng sẽ được hưởng phúc Thiên Đàng cùng Mẹ trong cuộc sống đời đời. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
LINH HỒN TÔI NGỢI KHEN THIÊN CHÚA- Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Mừng Kính Đức Maria hồn xác lên trời hôm nay chúng ta hãy nhìn lại cuộc đời của mình, tại sao không là cuộc đời ngợi khen Thiên Chúa?
Đặt ra câu hỏi này cho tôi, để tôi cần được thấy những điều trọng đại mà Thiên Chúa đã thực hiện cho tôi qua lịch sử dân tộc và lịch sử đời thường cá nhân của tôi.
“Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người”. (Lc 11, 54).
Hoàn cảnh của lịch sử một dân tộc.
Với cách nhìn lịch sử của Đức Maria, cuộc đời dân tộc của Mẹ đã trở thành lời ca tụng Thiên Chúa. Đây là điều quan trọng trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống này dù thế nào chăng nữa vẫn là một cuộc sống được thừa hưởng, thừa hưởng gia sản quý báu mà cha ông để lại, là một dân tộc được hiến thánh. Một dân tộc nhỏ bé giữa triều đại Đế quốc Roma rộng lớn, cường thịnh. Một dân tộc được hiến thánh cho Thiên Chúa giữa muôn dân được tuyển chọn từ một cụ già gần đất xa trời là Abraham mà vẫn chưa có một đứa con nối dõi tông đường. Thiên Chúa đã khởi đi từ những gì là mong manh ấy để chuẩn bị cho cho một dân riêng để thờ phượng Thiên Chúa. Giữa muôn ngàn nghịch cảnh của lịch sử, Thiên Chúa đã cho dân tộc Israel được thấy, họ là “con số còn sót lại” để thờ kính Thiên Chúa. Thiên Chúa, Người thích đi con đường nhỏ.
Tại sao một lịch sử nhỏ bé của một dân tộc Việt Nam lại không đọc thấy con đường nhỏ này. Một quốc gia nhỏ bé giữa vùng Châu Á. Một quốc gia biết tôn trọng sự sống được biểu lộ ra bằng hình thức “cầu tự” trong truyền thống dân gian. Một dân tộc đã trải qua một ngàn năm chịu đô hộ giặc Tàu, một trăm năm dưới ách giặc Tây và nhiều năm trong những thử thách của chiến tranh, mà vẫn mang trong mình gióng máu Việt. Từ lòng Âu Cơ, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân tộc Việt Nam một dân được hiến thánh cho Thiên Chúa. Từ một con người rất bình thường của một gia đình nông thôn nghèo khó, Thiên Chúa đã biểu lộ quyền năng của Người nơi gia đình bà Annê Lê Thị Thành, một phụ nữ Việt Nam. Từ một lịch sử đức tin của đời thường ấy Thiên Chúa đã làm bao điều cao trọng. Máu bà đã đổ cũng như máu các Thánh Tử Đạo đã đổ, các vị là một “con số nhỏ” mà Thiên Chúa đã thực hiện Lịch sử Cứu độ của Người cho dân tộc Việt Nam. Giống như từ cung lòng héo hắt của bà Sara, Thiên Chúa đã gầy dựng một dân. Đức tin của dân tộc Việt ấy đã mọc lên từ máu Tử Đạo, kết trái đơm hoa bằng những con người tử đạo, trong đó có máu tử đạo của một người nữ. Trong giai đoạn lịch sử tử đạo này, tôi thích đọc lại hình ảnh của nhà văn H.Sienkievich trong tác phẩm “Quo vadis”, diễn tả khi Phêrô trốn ra khỏi thành Roma trở về và nhận ra:“Hoàng đế cùng tất cả các đạo quân của y cũng không thể thắng được chân lý đầy sức sống kia, cả nước mắt lẫn máu tươi đều không thể nhận chìm nổi chân lý đó, giờ đây mới là lúc chân lý bắt đầu chiến thắng. ông cũng hiểu được tại sao ông được gọi quay trở lại giữa đường trốn chạy: Chính cái thành phố của xa hoa, tội ác, truỵ lạc và bạo tàn này đã biến thành thành phố của ông, trở thành thủ đô hai lần thủ đô, từ thủ đô ấy sẽ trào tuôn ra thế giới sự ngự trị của thể xác lẫn linh hồn”. Suy nghĩ này dẫn dắt tôi đến với lịch sử dân tộc tôi hôm nay: “Cho dù có cả triệu thai nhi bị giết chết trong một năm, nơi đây vẫn còn từ những cung lòng của bao bà mẹ khác vẫn không ngừng đón nhận con cái là hồng ân Chúa ban, để sinh ra những người con cho trần thế và cho Nước Trời”. Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu trong lịch sử và còn tiếp tục thực hiện trong lịch sử của nhân loại.
Với một góc nhìn ấy về sự kiện của ngày Đại Hội giới Trẻ lần thứ 17 tại Toronto, tôi tin rằng Thiên Chúa vẫn đang bày tỏ uy quyền của Người qua những con số nhỏ dám chấp nhận đang lội ngược dòng thế gian này và hình ảnh Giáo Hoàng giữa các bạn trẻ tại Toronto, giống như môn đệ Phêrô, qua dáng người bước ra pháp trường của ngày hôm ấy mà tác phẩm “Quo Vadis” diễn tả: “Vị lão ngư thường ngày vẫn nhẫn nhục còng lưng, lúc này bước thẳng người , tầm vóc hơn đám binh lính, đầy vẻ trang trọng. chưa bao giờ người ta thấy ở ông ấy ngần ấy vẻ uy nghi. ngỡ như đó là một vị quốc vương đang đi giữa dân chúng và binh lính”.
Tôi tin rằng những con người đang bênh vực cho chân lý của sự sống vẫn mang một dáng người như thế giữa ngàn trùng sự dữ, đang bước đi hiên ngang đi về phía trước.
Trong một nhãn quan lịch sử như thế, tôi đang được thừa hưởng sự sống, tôi không thể nào mà không thấy được trong mọi hoàn cảnh của ngày hôm nay lời tán tụng Thiên Chúa, mang nỗi lòng mừng vui của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” khi lịch sử cứu độ còn đang vận hành trong những người mẹ đón nhận những đứa con là hồng ân Thiên Chúa.
“Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới”.
Ơ xứ Palestine thời Chúa Giêsu người nữ không có thế giá, thế giới của họ là gia đình và những việc nội trợ. Họ không được đi học cả việc đạo cũng như đời. Họ không được mời làm chứng tại toà án cũng như không được lên tiếng trong nghi thức phụng tự.
Đức Maria là một thiếu nữ nông thôn, mộc mạc, chất phác và nghèo như các thôn nữ miền quê khác. Cái nghèo không thể khuất phục được một tâm hồn chất đầy lời tạ ơn Thiên Chúa. Có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa trong cuộc đời của Đức Maria, và trong kho tàng ân sủng ấy Đức Maria đã trở thành Lời Ngợi Khen Thiên Chúa.
Hoàn cảnh của Đức Maria từ sau tiếng “Xin Vâng”, cũng không dễ dàng gì khi để cho Thiên Chúa bày tỏ quyền năng của Người. Bất lợi và nhiều đau khổ nhưng vẫn không làm người cúi đầu. Điều đặc biệt trong tư thế đón nhận mà Đức Maria đã đón nhận “tất cả là hồng ân”. Thấy được Hồng Ân mới thấy được quyền năng của Thiên Chúa và từ ấy nhận ra cuộc đời đầy ân phúc của mình.
Đã là người, ai cũng là những người nghèo khó, nghèo khó đủ mặt trong cuộc sống, nhưng được vươn cao đến vô hạn nhờ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Tại sao không thấy được điều Đức Maria đã thấy: “Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Đây có lẽ phải là hình ảnh của người nữ mẫu gương cho mọi người nữ đang đấu tranh cho phẩm giá của mình.
Tại sao lại có thể tự ty mặc cảm trước hồng ân của Thiên Chúa? bởi vì nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, lòng trí đã trở nên lu mờ theo những tính toán ích kỷ. Đức Maria nhận ra mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, nhưng đây là một nữ tỳ chỉ một phận nhỏ được Thiên Chúa đoái thương. Người nhận ra được Thiên Chúa đoái thương là người ngẩng cao đầu cất tiếng ngợi khen: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” thay cho mặc cảm, tự ty. Lời tán dương ấy, tại sao lại không cất lên được trong cuộc sống đời thường của tôi? Bởi vì, tôi đã không dành thời gian để nhìn lại những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho tôi. Nếu nhìn thấy cánh tay uy quyền của Thiên Chúa thực hiện trong thân phận đầy giới hạn và nghèo túng của tôi thì với nhãn quan ấy tôi đã khám phá ra cuộc đời “Đầy ơn phúc” của tôi.
Những lời tạ ơn trong cuộc sống vẫn cứ như chìm mất trong thái độ cầu xin, phạt tạ, đền tội của tôi. Tại sao lại cúi mặt trước Thiên Chúa? Tại sao tôi không sống đúng với tư thế của người con mà cứ sống thái độ ăn xin nơi ân phúc của Cha?
Tại sao tôi chỉ có biết xin mà chưa biết dùng ân huệ của Người trong cuộc sống của tôi? Một điều đơn giản tôi khám phá ra vì thiếu lời tạ ơn. Thiếu lời tạ ơn, cho nên, dù tôi có nhận được ân sủng từ nơi Thiên Chúa tôi vẫn là những con người chôn giấu những nén bạc. Ân sủng được trao ban là để sinh hoa kết trái và từ hoa trái ấy nên lời tạ ơn trong cuộc sống. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống vẫn đầy những u mê và tính toán, ích kỷ và kiêu căng, tội ác và bóng tối. Thiếu lời tạ ơn nên cuộc sống của tôi vẫn là cuộc sống người ăn xin trong nhà Cha. Lời tạ ơn làm nên thái độ sống xứng đáng của con người. Thiên Chúa được vinh Danh nơi những con người sống và biết sống xứng đáng là một con người.
Lời tạ ơn làm nên sức năng động: Đức Maria, trong lời tán dương, tôi đã thấy Mẹ là người năng động và rất năng động trong ân sủng của Thiên Chúa. Mẹ là người không chịu khuất phục dưới những đè nặng của khó khăn: Khi biết người chị em của mình đã mang thai, Đức maia đã vội vã lên đường đi tới vùng sơn cước. Khi trở về Nazareth hai ông bà nhận ra thiếu người con là Giêsu, hai ông bà đã vội vã trở lại Giêrusalem. Khi bàn tiệc cưới hết rượu, Đức Maria đã nói với Đức Giêsu “Họ hết rượu rồi” và nói với những người giúp việc “Ngài bảo gì, cứ làm theo”. Khi nghe người ta nói về con mình mất trí, Đức Maria vội đi tìm kiếm con để rồi thấy rằng sự mất trí ấy cũng giống như Mẹ là để cuộc đời này thực hành theo Ý muốn của Chúa Cha. Khi đứng dưới chân Thập Giá, Đức Maria đã biết rằng “mọi sự đã hoàn tất”. Cuộc đời đâu thiếu những sóng gió, nhưng những sóng gió đấy lại bình an trong lời tạ ơn, như Đức Maria đã đắm chìm trong Lời tạ ơn của những ngày Phục Sinh.
Cuộc đời tôi tất nhiên là không tránh khỏi những lúc đen tối, thử thách, gian nan, nhưng điều quan trọng, tôi hãy học cùng với Đức Maria sống cuộc sống này là cuộc đời “Đầy ân Phúc” mà Đức Maria đã sống trong Lời tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa …”.
Biến cuộc đời này thành lời tạ ơn, tôi nhận thấy rằng: Ngay cả những lúc thống hối nhất, giữa những lúc mây đen bao phủ dữ dằn nhất, vẫn là những lúc để Vinh Danh Thiên Chúa được hiển trị nhất trong tâm hồn con người biết tạ ơn.
Hãy tạ ơn và hãy làm cho cuộc đời này trở thành “Đầy ân Phúc” nhất, tôi tin rằng cuộc sống con người sẽ trở thành bất tử ngay cả khi còn dưới thế và Lời Xin cho Danh Cha được hiển trị thành sự thật.
Và cuối cùng tôi vẫn tin rằng: Cả hồn và xác Mẹ lên trời là bảo đảm cho cuộc đời nỗ lực làm cho cuộc sống đầy ân sủng này sinh hoa kết trái và trở thành Lời tạ ơn Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA KI-TÔ- Lm. Giuse Vũ Xuân Hạnh
Gọi là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhưng sau khi nghe ba bài Kinh Thánh, bạn có để ý nhận ra Giáo Hội muốn nhấn mạnh một điều gì không? Ta cùng điểm qua các bài đọc để hiểu Giáo Hội muốn nói gì.
Bài đọc I (trích sách Khải huyền) kết thúc: “Nay sự cứu độ, quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa, và của Đức Kitô đã được thực hiện”. Còn bài đọc II, thánh Phaolô gọi Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, sau đó mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Bài Tin Mừng lại càng rõ nét hơn. Chính Đức Maria ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
Điểm qua ba bài đọc, bạn đã thấy gì chưa. Riêng tôi nhận ra rằng. Dù là lễ Đức Mẹ về trời, nhưng Giáo Hội lại mời gọi ta hướng về Thiên Chúa, hướng về Chúa Kitô. Vì lẽ gì vậy? Sao lại hướng về Chúa trong lễ Đức Mẹ? Vì chỉ nhờ ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện, Mẹ mới được hồn xác lên trời. Chính lời nguyện đều lễ xác nhận: “Chúa đã đưa lên trời cả hồn xác Đức Maria”. Còn kinh tiền tụng trong lễ này cũng không đi ngoài nội dung ấy: “Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời”. Những kiểu nói: “Chúa đã đưa”, “được đưa” nghĩa là gì, nếu không phải là chính ơn Thiên Chúa ban, là chính nhờ cuộc khổ nạn, phục sinh, lên trời của Chúa Kitô, Mẹ mới được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Cũng là người như chúng ta, Mẹ không thể tự mình về trời hồn xác. bởi đó trong thánh lễ này, Giáo Hội hướng về Thiên Chúa mà tuyên xưng những hành động kỳ diệu Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Chính Mẹ chứ không phải Giáo Hội hay chúng ta – chính Mẹ chứ không phải ai khác, là người trước tiên tuyên xưng hành động cứu độ ấy của Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ: “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Thiên Chúa và ngợi khen Thiên Chúa, ngợi khen Đấng Cứu độ mình. Chỉ có Đấng Cứu độ, chỉ nhờ Đấng Cứu độ, chỉ trong Đấng Cứu độ, Mẹ mới được đưa lên trời hồn xác, vì Đấng ấy đã cứu độ Mẹ.
Lời ca ngợi quy hướng về Thiên Chúa của Đức Mẹ, còn được hỗ trợ bởi rất nhiều lời Kinh Thánh khác. Chẳng hạn lời của thánh Phaolô trong bài đọc II: “Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, rồi mới đến những người thuộc về Đức Kitô”. Chắc bạn đồng ý với tôi, có ai thuộc về Chúa Kitô cho bằng Đức Maria. Bởi vậy, nếu Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, đã về trời cả hồn và xác, thì Mẹ Maria, người thuộc về hoa quả đầu mùa ấy một cách trọn vẹn, cũng được đưa về trời hồn xác, không phải là điều gì khó hiểu.
Vậy bạn và tôi hãy khẳng định lại một lần nữa rằng, Đức Mẹ không thể tự mình về trời nếu không có Chúa. Khẳng định như vậy không hạ thấp Mẹ chúng ta. Trái lại, ta tuyên xưng đúng vị trí mà Mẹ được Chúa thưởng ban. Trong chính ngày lễ Đức Mẹ hồn xác về trời, bằng các bài Kinh Thánh, bằng các lời nguyện, bằng kinh tiền tụng, Giáo Hội hướng chúng ta về Thiên Chúa, để cùng với Mẹ mà ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
Nếu Mẹ đã ca ngợi Chúa bằng cả cuộc đời của Mẹ thế nào, thì suốt cả cuộc đời của mỗi người, của bạn và của tôi, cũng là một lời ca ngợi Thiên Chúa liên lỷ như Mẹ vậy. Dù trong hoàn cảnh nào, dù cuộc đời có thương đau như một người mang thai “kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con”, hay nỗi bất hạnh, lao đao, hoặc ngay cả tai họa ập đến dữ dội như một con rồng khổng lồ đang đe dọa hãi hùng mà sách Khải huyền diễn tả, chúng ta vẫn một lòng tin tưởng tín thác đời mình cho Chúa như Mẹ. Để có được ơn vinh quang về trời, Mẹ đã sống đức tin trọn vẹn. Ngay cả khi đứng bên thập giá, nhìn con chết tức tưởi, nhục nhã, Mẹ vẫn tin, vẫn ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ của Mẹ. Còn ta, sống giữa biển đời, biết bao nhiêu lần gặp thử thách, biết bao nhiêu bi thương ập đến, có khi như muốn vùi lấp cuộc đời mình, những lúc như vậy, ta có còn tin Chúa không? Có đủ trông cậy để cất lên lời ca ngợi: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” như Mẹ của mình? Câu hỏi này xin gởi đến bạn và cũng là nói với chính bản thân tôi, để tất cả tự tra vấn đức tin của mình đối với Thiên Chúa.Thánh Phaolô nói, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Mẹ đã thuộc về Chúa Kitô, và chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô. Nếu biết sống đức tin mạnh mẽ như Mẹ, chúng ta cũng được hồn xác về trời giống như Mẹ. Những gì Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, Người cũng sẽ thực hiện nơi mỗi người, từng người, từng người một. Mãi mãi bạn hãy cùng tôi xác tín rằng, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi sẽ đến lược chúng ta, là những kẻ thuộc về Chúa Kitô. Tôi chắc chắn, nếu niềm xác tín của ta đạt đến mức độ cao như Mẹ, thì cũng chắc chắn rằng cả cuộc đời ta cũng sẽ là một cuộc đời ca khen Thiên Chúa cùng Mẹ, như Mẹ và hiệp thông với Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
THẬP GIÁ, CON ĐƯỜNG ĐƯA TỚI VINH QUANG- Lm. Pet. Trần Thanh Sơn
Hôm nay, hiệp cùng toàn thể Giáo Hội, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây, mừng kính trọng thể lễ Mẹ Ma-ri-a được đặc ân về trời cả hồn lẫn xác. Đây là đặc ân có một không hai mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Ma-ri-a. Được lên Trời cả hồn và xác, được vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa cũng là ước mơ của tất cả mỗi người chúng ta, những người con của Mẹ Ma-ri-a.
Muốn được như Mẹ, chắc chắn chúng ta phải đi theo con đường mà Mẹ đã đi. Và con đường đó chính là con đường thập giá mà Đức Giê-su, Con của Mẹ đã đi, vì đây là con đường duy nhất như lời Ngài đã khẳng định: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai có thể đến với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).
Vì thế, mừng Lễ Mẹ cũng là lúc chúng ta chiêm ngắm lại con đường thập giá của Đức Ki-tô, một con đường xem ra thất bại trước mắt người đời, nhưng lại là con đường đưa tới sự sống bất diệt và sung mãn cho tất cả những ai tin như lời Thánh Phao-lô trong bài đọc hai: “Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc” ( 1 Cr 15, 20; x. 1 Cr 1, 18. 23 – 25 ).
Con đường thập giá của Đức Ki-tô, không gì khác hơn là con đường của lòng tin tưởng, vâng phục và khiêm hạ trong tâm tình của người con đối với Cha. Thánh Phao-lô đã viết trong thư gởi cộng đoàn Phi-líp như sau: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” ( Pl 2, 8 ).
Thế đó, vì yêu mến, Đức Giê-su đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá. Với việc vâng phục này, Đức Giê-su đã thể hiện sự bỏ mình và sự khiêm hạ thẳm sâu khi “không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” ( Pl 2, 6 – 7 ). Chính nhờ đó mà Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh để “khi vừa nghe Danh Thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.” ( Pl 2, 10 – 11 ).
Như thế, khi đi trọn con đường thập giá và từ cõi chết sống lại, Đức Kitô đã trở nên “hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc” ( 1 Cr 15, 20 ). Từ đây, sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa, vì kẻ thù cuối cùng sẽ bị Ngài tiêu diệt chính là sự chết ( x. 1 Cr 15, 26 ). Đồng thời, với sự phục sinh của mình, Đức Ki-tô đã ban sự sống mới cho tất cả những ai tin vào Ngài, những kẻ đã cùng chết với Ngài, như lời Thánh Phao-lô: “Hoa quả đầu mùa là Đức Ki-tô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Ki-tô, những kẻ đã tin Người xuống thế” ( 1 Cr 15, 23 ).
Và ai xứng đáng gọi là “thuộc về Đức Ki-tô” nếu không phải là Mẹ Ma-ri-a, người đã cưu mang và sinh ra Chúa Giê-su về phần xác, và cũng đã theo Đức Kitô trọn vẹn cho đến tận chân thập giá ? Do đó, Mẹ Ma-ri-a chính là người đầu tiên được hưởng cách sung mãn Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, vì Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Chúa ngay khi còn sống ở đời này.
Thật vậy, suốt cuộc đời của mình, Mẹ Ma-ri-a đã không làm gì theo ý riêng mình, Mẹ đã hoàn toàn sống phó thác, tin tưởng vào Thiên Chúa và đó chính là mối phúc của Mẹ, như lời khen ngợi của bà Ê-li-sa-bét đối với Mẹ: “Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện” ( Lc 1, 45 ). Điều đó cho thấy, Mẹ Ma-ri-a đã mở đầu cuộc hành trình theo chân Con Mẹ để về quê Trời bằng đức tin của mình. Một Đức Tin thật sự và chân thành. Một Đức Tin mạnh mẽ không nghi ngờ. Mẹ tin, cho dù trước mắt Mẹ vẫn còn đó những trở ngại chưa được giải quyết.
Đó là Đức Tin của lời thưa “Xin vâng” ngày sứ thần truyền tin. Chính lời “xin vâng” này đã thể hiện một sự tín thác sâu xa của Mẹ nơi tình yêu của Thiên Chúa. Chính niềm tin đó đã thúc đẩy Mẹ vội vã đến với bà Elisabeth, người được Chúa cho thụ thai trong lúc tuổi già. Và Mẹ vẫn tiếp tục tin cho dù trước mắt Mẹ không còn gì để tin khi nhìn thấy Con Mẹ bị treo trên thập giá.
Theo bước chân Con yêu dấu của mình, Mẹ Ma-ri-a cũng đã sống đời khiêm nhường thẳm sâu. Một sự khiêm nhường thật sự chứ không phải chỉ trên môi miệng với những lời “không dám đâu !”
Tin Mừng thuật lại, khi được bà Ê-li-sa-bét khen ngợi: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”, Mẹ Ma-ri-a đã không từ chối, nhưng còn cất lên bài ca Magnificat để ca ngợi Thiên Chúa. Mẹ nhận mình là “phận hèn, tớ nữ của Thiên Chúa”, nhưng cũng đồng thời xác định: “Từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước”. Như thế, sự khiêm nhường thật sự chính là nhận ra những hồng ân Chúa ban cho mình và sống xứng đáng với những hồng ân đó.
Tuy nhiên, trong thân phận của một con người, hành trình đức tin của Mẹ Ma-ri-a cũng không thiếu những đắng cay, chua xót. Đó là nỗi đắng cay của một người vợ khi bị chồng hiểu lầm; là nỗi xót xa như đứt từng khúc ruột khi người con yêu dấu bị người ta hành hạ vu oan và giết chết trên thập giá. Hay nói theo cách nói của sách Khải Huyền, đó là nỗi đau của người phụ nữ “đang mang thai, kêu la chuyển bụng và đau đớn sinh con” ( Kh 12, 2 ).
Nhưng cũng giống như Con Mẹ đã được Thiên Chúa tôn vinh sau khi chấm dứt cuộc đời trần thế với cuộc Phục Sinh vinh hiển, Mẹ Ma-ri-a sau khi kết thúc cuộc sống trần thế này, cũng đã được Thiên Chúa ban thưởng xứng đáng như lời Đức Pi-ô 12 trong Tông Hiến “Munificentissimus Deus” ( Thiên Chúa rất rộng lượng ) đề ngày 1.11.1950 đã nói: “Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm, Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, sau khi chấm dứt dòng đời dưới thế, đã được cất về vinh quang trên Trời cả hồn lẫn xác”. Mẹ đã nhận được vinh quang xứng đáng như lời mô tả của sách Khải Huyền: “Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” ( Kh 12, 1 ).
Họp nhau mừng Lễ Mẹ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy noi gương Mẹ, hãy sống Đức Tin như Mẹ đã sống. Một niềm tin thật sự vào Thiên Chúa và được thể hiện cách cụ thể trong cuộc sống phó thác và bác ái hàng ngày. Niềm tin đó không hệ tại ở việc tổ chức một buổi lễ thật rầm rộ với những cuộc rước tưng bừng và ăn uống linh đình, nhưng là một tấm lòng nội tâm ở bên trong. Chúng ta hãy đến với Mẹ, học nơi Mẹ đời sống gắn bó mật thiết với Chúa qua các biến cố vui buồn hàng ngày trong cuộc sống, và sẵn sàng đón nhận thập giá mà Chúa gởi đến cho từng người chúng ta với tâm tình yêu mến.
Cùng với Mẹ, chúng ta hãy đến với Chúa để được kết hợp với Chúa, được tâm sự với Chúa, hay đơn giản hơn chỉ là để “nhìn ngắm Chúa và để Chúa nhìn mình” trong tâm tình của một người con trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Chúng ta hãy đến với Chúa vì tình yêu của chính chúng ta đối với Chúa chứ không phải vì để được người khác khen là đạo đức.
Giờ đây, ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn, mỗi người chúng ta hãy cầm lòng, cầm trí và dọn lòng thật sốt sắng để được rước Chúa vào lòng. Nhờ đó, chúng ta đủ sức đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. ( Mt 16, 24 ). Ngõ hầu, vào ngày sau hết tất cả chúng ta cùng được đoàn tụ với Mẹ trên quê Trời.
#cacbaisuyniemloichua #suyniemloichualeducmelentroi #cacbaisuyniemloichualeducmelentroi #leducmelentroi