CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
BÁNH HÓA NHIỀU (*)- Chú giải của Noel Quession.. 6
ĐỨC GIÊ-SU HÓA BÁNH VÀ CÁ RA NHIỀU- Chú giải của Fiches Dominicales 13
HIỆP NHẤT TRONG MỘT BÀN TIỆC CỦA CHÚA(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 24
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B.. 42
CHÚA NUÔI DƯỠNG DÂN NGÀI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 42
BÁNH NGƯỜI NGHÈO (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 64
ĐÀO TẠO TRÁI TIM– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 70
PHÉP LẠ HÓA BÁNH, DẤU CHỈ THỜI CÁNH chung- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 75
TẤM BÁNH YÊU THƯƠNG– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 78
LÃNH NHẬN VÀ CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI- Lm. Đan Vinh HHTM 83
BÀI DẠY BẰNG THỰC HÀNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An.. 93
XÂY DỰNG PHÚC LỢI CỘNG ĐỒNG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 101
CƠM BÁNH HÀNG NGÀY- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 106
CHÚA GIE6SU CẦM LÁNH BÁNH, TẠ ƠN VÀ PHÂN PHÁT CHO HỌ ĂN NO- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 111
BÁNH HÓA NHIỀU- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 115
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Họ ăn xong mà hãy còn dư”.
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, có một người từ Baal-salisa mang đến dâng cho Êlisê, người của Thiên Chúa, bánh đầu mùa, hai mươi chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Người của Thiên Chúa liền nói: “Xin dọn cho dân chúng ăn”. Ðầy tớ của người trả lời: “Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?” Nhưng người ra lệnh: “Cứ dọn cho dân chúng ăn, vì Chúa phán như sau: ‘Người ta ăn rồi mà sẽ còn dư’”. Ðoạn người dọn cho họ ăn mà còn dư đúng như lời Chúa phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 15-16. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê (c. 16).
Xướng: Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
Xướng: Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê.
Xướng: Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. Chúa gần gũi những kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm.
Bài Ðọc II: Ep 4, 1-6
“Chỉ có một thân thể, một Chúa, một đức tin và một phép rửa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi là tù nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh em đã lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận làm dây ràng buộc.
Chỉ có một thân thể và một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6, 1-15
“Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới.
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Chúa Giêsu nói: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi”. Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến trong thế gian”. Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
BÁNH HÓA NHIỀU (*)- Chú giải của Noel Quession
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều” và tiếp tục bằng “bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông “không tin”: Họ từ chối theo Đức Giêsu trong đức tin.
Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích “những sự lạ” như đám đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được “ý nghĩa” thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước mắt.
Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng (“Eucharistèsas” trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa” mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt qua.
Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: “Hãy cho họ có cái ăn”… cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về với cuộc sống “thường nhật” với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.
Ông Philípphê đáp: “Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!”.
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: “đói khát”, “hòa bình”, “công lý”, chúng ta thường trả lời: “Chúng ta có thể làm gì được? Việc này quá sức chúng ta”. Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?
Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một hành vi sáng tạo “từ không mà có” (Người cũng có thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.
Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: “Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?”. Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người “tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa phương tiện của con người.
Đức Giêsu đã “tạ ơn” (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống” tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường “cơn đói của thể xác” nhưng Người nghĩ đến “cơn đói Thiên Chúa” mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”.
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa “bánh” và “rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”.
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến”, chờ một “giải pháp lạ lùng” có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những “công thức ma thuật” sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến bộ”, của “ngày mai vui tưới”. Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: “Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi “. Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ “chính trị” của những người đồng thời với Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta “đóng khung” Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: “Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng”. Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con”, để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ “giải phóng” chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, “Người lui vào thanh vắng một mình”, Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu “Người là ai”, là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai “đói Thiên Chúa”? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66-71).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
ĐỨC GIÊ-SU HÓA BÁNH VÀ CÁ RA NHIỀU- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
*1. Bánh hóa nhiều dư dật.
Tạm rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng gian câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều, rồi tiếp liền đó là “diễn từ về Bánh trường sinh” được phân chia để đọc liền trong bốn Chúa nhật tiếp theo.
Chỉ có phép lạ hóa bánh là được cả bốn Tin Mừng cùng tường thuật (Máccô còn tường thuật tới 2 lần ở 6,35-44 và 8,1-9). Khi tường thuật việc hóa bánh, tác giả Tin Mừng bốn đã tập trung vào Đức Giêsu như con người lèo lái hành động từ đầu đến cuối.
“Sang bên kia Biển Hồ Galilê, Đức Giêsu “lên núi ” và “ngồi” đó với các môn đệ.
Người “nước mắt lên” và nhìn “thấy đông đảo dân chúng” đến với mình.
– Hoàn toàn biết mình sắp làm gì rồi, Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Câu hỏi thật lấp lửng: “Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.
– Dù chẳng có sự tương xứng (5 cái bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với đám đông chừng 5000 người), Người vẫn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”.
Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát thật sự bánh đã hóa ra rất nhiều. Người bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa.
– Sau cùng biết được ý đồ và sự hồ hởi của dân chúng sau khi đã được ăn no, Người lại lánh mặt đi lên núi một mình.
*2. Manna mới trên đường xuất hành mới…
Trình thuật này tập trung vào Đức Giêsu, lại mang âm hưởng sâu xa của thời dĩ vãng xa xưa trong Cựu ước mà nay đang ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; trình thuật cũng loan báo bí tích Thánh Thể.
Chuyện kể lấy hậu cảnh là Thánh Kinh (Cựu ước) nên cần được khai thông để có thể thấu triệt được tất cả ý nghĩa phong phú của câu chuyện.
+ Tác giả trình thuật lấy hứng từ việc hóa bánh xảy ra trong thời ngôn sứ Êlisê.
Cũng không có sự cân xứng 20 bánh lúa mạch cho 100 người, trong trường hợp của ngôn sứ Êlisê; 5 cái bánh và 2 con cá cho chừng 5000 người đàn ông, trong Tin Mừng.
Các người chứng kiến cùng tỏ vẻ lo lắng:
– “Làm sao mà đủ cho 100 người được? ” người đầy tớ của ngôn sứ Êlisê hỏi.
– Thưa, có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ…”, ông Phipphê trả lời.
Cùng ra lệnh bảo làm:
“Cứ cho hết mọi người ăn”, Ngôn sứ Êlisê nhấn mạnh.
“Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Đức Giêsu bảo.
Bánh ăn rồi đều cùng có dư thừa:
“Họ ăn rồi mà còn dư lại”, trình thuật của sách Các Vua quyển hai.
“Họ chất đầy được rnười hai thúng miếng bánh vụn”, Tin Mừng Gioan viết.
Như vậy, thánh Gioan muốn cho thấy rằng việc làm của Đức Giêsu vượt trội hơn hình ảnh mờ nhạt của Cựu ước tiên báo về thời của Đấng Thiên Sai nhiều. Và nếu bánh thừa nhiều vô vàn hơn thời kỳ ngôn sứ Êlisê còn thừa, thì chính là để ngụ ý rằng hôm đó Đức Giêsu không những bẻ bánh cho đám đông ăn, mà còn cho hết thảy mọi người nữa.
+ Trình thuật của Gioan cũng ám chỉ nhiều đến những biến cố của thời Xuất hành.
Đức Giêsu đã lên “núi”, núi Sinai mới nơi đó Người là Môsê mới, sẽ ban Lời Chúa và Manna mới cho dân Người.
Tác giả xếp đặt cho cảnh xảy ra vào “ít ngày trước Lễ Vượt Qua”, đặt biến cố vào bối cảnh cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập có ngụ ý đây chính là một cuộc xuất Hành mới đang mở màn, một cuộc Vượt qua mới được loan báo, lễ vượt qua của Đức Giêsu (cf. Ga 2,13-20; 11,55-57).
Còn về câu Chúa hỏi Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây” chính là tiếng vang vọng lại lời của Môsê hỏi Thiên Chúa khi dân Do thái lẩm bẩm kêu trách ông trong hoang mạc: “Con sẽ kiếm đâu ra thịt mà cho dân này đây? (Ds 11,3).
Nhưng X.Léon-dufour nhận xét thêm: “Khác với Môsê có vẻ lo lắng, Đức Giêsu đã biết người sắp làm gì rồi”. Việc Đức Giêsu sắp “làm” đây sẽ không chỉ là một việc lạ lùng sắp diễn ra mà còn bao gồm luôn chính thực tại mà phép lạ ấy là dấu chỉ nưa: để cho muôn người được sống, Đức Giêsu sẽ ban không chỉ những lời nghe được từ Cha, mà cả chính bản thân Người qua cái chết nữa. Điều này còn quí trọng hơn cả những tấm bánh hứa nhau lạ lùng hôrn nay (“Lecture de l’Evangile selon saint Jean”, cuốn 11, Seuil, trang 107).
Nếu Gioan thêm câu “Người nói thế là để thử ông”, thì cũng là để ám chỉ những thử thách dân Do Thái đã trải qua xưa trong cuộc hành trình qua hoang mạc vậy.
Ngần ấy hình ảnh ám chỉ như vậy, khiến tấm bánh hóa nhiều chính là Manna mới dành để dưỡng nuôi một dân mới do Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo.
Nhưng nếu trình thuật này mang âm hưởng sâu xa của thời Cựu ước xa xưa, thì đồng thời cũng báo trước Bí tích Thánh Thể.
A.Marchadour nhận xét: “Lời lẽ của trình thuật, Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn (c.11) chính là những lời cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cứ hành Thánh Thể.
Như ta được biết, trong bữa ăn tối trước khi chia tay, chính Đức Giêsu làm cử chỉ phân phát, (chứ không phải các môn đệ đã làm việc này theo như tường thuật của ba Tin Mừng nhất lãm). “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí” (c.12) lời nhận xét này ngụ ý diễn tả thời điểm lịch sử của Đức Giêsu là trổi vượt, rất đáng trân trọng, nên đừng để uổng phí. Người ban dư đầy ăn huệ, để chính Giáo Hội cũng được thụ hưởng dồi dào. Đức Giêsu đến cho người ta được sống và sống dồi dào (10, 10). Phải dồi dào đủ cho hết thảy các thế hệ Kitô giáo” (“L’evangile de Jean”, Centurion, trang 101)
*3. Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo cuộc Xuất hành mới.
Đây là trường hợp hi hữu trong Tin Mừng Gioan: Đấng làm phép lạ ấy được dân chúng hoan hô, vì họ nhận thấy Người còn hơn là vị ngôn sứ; Người là nhân vật Thiên Chúa hứa trong Nhị Luật 18,15 giống như Môsê; dân chúng nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian “.
Nhưng thay vì lấy lòng tin để mở lòng ra đón nhận Đấng mà phép lạ ấy nói cho biết, thì dân chúng lại chỉ nghĩ đến cơm bánh mà họ đã được no nê. Họ còn ra sức giam hãm Đức Giêsu trong quan niệm quá phàm trần họ vốn có về Đấng Mêsia: “Họ sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”.
Vì thế Đức Giêsu lánh mặt đi “lên núi một mình”. Người không phải là “vi ngôn sứ” đúng như họ mong muốn khi trông đợi một Đấng Mêsia trần tục.
A.Marchadour kết luận: “Thánh Gioan đã khéo léo lồng vào câu chuyện này ba thời điểm khác nhau: thời xuất hành lúc dân Israel đã bắt đầu rong ruổi trong sa mạc, thời gặp gỡ lịch sử với Đức Giêsu làm khung cho câu chuyện, và thời của Giáo Hội. Điều đó phải muốn nói lên rằng qua ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau này vẫn một câu hỏi căn bản còn phải được đặt ra là: Làm thế nào để sống tin tưởng vào Chúa khi ở trong sa mạc (manna)? trong lúc Chúa nhập thể ở giữa con người (Đức Giêsu)? và trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Trong tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu không nhắm mục tiêu tỏ bày lòng thương xót của Người đối với đám đông đang đói cho rằng muốn mạc khải nhân tính đích thực của mình vì thế Gioan đã đẩy các môn-đệ lui vào hậu cảnh, để tâm cả câu chuyên tập trung vào con người toàn năng là Đức Giêsu, Đấng lèo lái các biến cố và làm cho các biến cố có ý nghĩa. trình thuật kết thúc bằng một thất bại, nhưng phần sau câu chuyện lại sẽ cố gắng làm cho mạc khải được sáng tỏ khi đào sâu ý nghĩa biểu tưởng của bánh vốn đã có ngay trong dấu chỉ rồi. Người ta sẽ nhận ra ngay được rằng Đấng ban lương thực, thì chính Người cũng là lương thực nuôi sống mọi người” (O.C. trang 101)
BÀI ĐỌC THÊM.
*1. “Một dấu” chỉ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết”
Trong tâm tưởng của Đức Giêsu Nagiarét, đây chính là một kiểu chia sẻ lương thực mới lạ. Một dấu lạ gây được niềm hồ hởi, nhưng sẽ bị ngộ nhận. Một dấu lạ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới tiếp cận được. Một Bánh Trường sinh cần khám phá. Nhưng Bánh nào và sự sống nào?
Chắc hẳn chúng ta đều bị lôi cuốn muốn đọc những biến cố này một cách quá ư duy vật khi chỉ cho đó là phép lạ. Nên không đòi hỏi nhiều đức tin. Trái lại điều “người môn đệ Chúa yêu” trình bày, là thuộc lãnh vực thiêng liêng. Nên coi như phải đòi hỏi nhiều đến đức tin, bởi lẽ, đàng sau hình ảnh hay dấu chỉ là chân lý sâu xa phải đạt tới, là giáo lý Chúa dạy, là kho tàng phong phú Chúa ban cho.
Dân chúng thích được ăn “bánh ngọt” mà không quan tâm đến Đấng muốn nhân đấy tỏ mình ra là Đấng Mêsia mà đức tin cho biết là Đấng ban tặng lương thực và là chính lương thực. “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Manna trong sa mạc xưa đã nên như biểu tượng nói lên tính cách chân thật của Lề Luật vì rằng khi Thiên Chúa thử thách dân người và thực hiện vô số những dấu lạ, thì người muốn dạy cho họ biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (NL 8.3b).
Lương thực của kẻ nghèo và vài con cá nhỏ cũng đã được coi như một Manna mới. Nhưng đàng sau những thực tại khiêm tốn của con người. Đức tin sẽ phải dần dần tìm thấy ở đấy là nghi lễ “Bẻ Bánh” tên ban đầu được dùng để chỉ cử hành Thánh Thể. Đức Giêsu là Lời và Bánh, ban mình làm lương thực cho dân mới, nơi Người đã qui tự lại để khai trương và xây dựng một vương quốc sung túc mọi bề.
Giờ đây hẳn chúng ta cũng đang ở trước “một phép lạ lịch sử gây ngỡ ngàng cảm phục, khiến chúng sẽ phải vỗ tay ca ngợi Đấng làm phép lạ và gợi cho lòng ta ước muốn tôn Người làm Vua-cứu-tinh vậy”.
*2. “Từ Mười Hai Thúng, chúng ta nhận lấy bánh Thánh Thể”
(Mgr. L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”. DDB, trang 130).
Những kiểu nói này dùng trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay: Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho, hẳn phải làm ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa bữa ăn đột xuất ngoài trời khi xưa và Bữa Tiệc Ly. Chính Đức Giêsu trao bánh cho mọi người; một cử chỉ hoàn toàn khó tin, bởi lẽ làm sao mà chính Người có thể phân phát bánh cho cả năm ngàn người? Điều đó cũng khiến ta phải nghĩ rằng tấm bánh hóa nhiều đó là dấu chỉ của Thánh Thể. Sau cùng, còn lại mười hai thúng đầy, số mười hai chỉ mười hai chi tộc Israel có nghĩa là ân huệ Chúa ban sẽ luôn dư dật cho Israel mới. Mười hai thúng cũng nói lên sự dồi dào phong phú của Chúa. Chính trong mười hai thúng này mà chúng ta được múc lấy tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt. được nhận lấy bánh, bánh từ bàn tiệc Thánh Thể, bánh đem lại phúc trường sinh.
*3. “Phải vừa là người của lương thực hằng ngày, vừa là người Thánh Thể”.
(H.Vulliez, trong “Dieu si proche. Năm B”, Desclée de Brouwer, tr.76-77).
Dấu lạ Đức Giêsu làm diễn ra thật vĩ đại. Nên sau đó những kẻ mục kích nhìn nhận Người là vị ngôn sứ phải đến và muốn tôn Người làm vua, âu cũng là điều dễ hiểu!
Nhưng rõ ràng cũng chính bởi tại đó nên mới xảy ra đổ vỡ. Đức Giêsu phải lánh ra và rút lui. Khi gặp lại họ ở phía bên kia Biển Hồ, Người phải giải thích nhiều để họ hiểu rằng sự sống Người đến để ban cho họ không phải là chuyện ăn uống sinh sống ở đời này. Đó là sự sống đời đời. Bánh Người chia cho ăn hôm ấy chỉ là thứ đồ ăn mau hư nát. Thực ra, đó chính là dấu chỉ của một lương thực khác, thứ lương thực “trường tồn đem lại phúc trường sinh” (6,27). Phải có được sự tỉnh táo của Đức Giêsu thì những dấu lạ Người làm cho con người mới không bị thu hẹp vào chỉ một vấn đề tìm thỏa mãn những nhu cầu trần thế mà thôi. Phải được Người gắn bó ta với sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người.
Chúng ta cũng sẽ gặp phải cơn cám dỗ này, mối nguy hiểm này là khuynh hướng thích thu hẹp lại. Những nhu cầu cấp bách vốn dằn vặt con người khiến chúng ta phải trăn trở. Chúng ta đành phải dấn thân như Đức Giêsu để đối phó với những nhu cầu của họ. Thái độ dấn thân này, đối với lòng tin của ta, là dấu chỉ tình yêu của Chúa muốn cho con cái Người được hạnh phúc. Chúng ta không thể vô tình trước các nỗi bệnh tật, đói khát, bất công. Ta phải không ngừng mở rộng con tim và bàn tay, không ngừng bắt tay vào việc chia sẻ và xây dựng một thế giới công bằng và có tình liên đới. Việc làm ấy tham dự vào sứ mệnh của ta. Đồng thời ta phải tỉnh thực để không chỉ thu hẹp tầm nhìn vào những nhu cầu vật chất mà thôi, không say sưa vì khao khát cho công việc thành tựu, hoặc ngây ngất trước vẻ cao cả lớn lao của công trình đang thực hiện. Ta phải mở mắt nhìn vào một nhu cầu khác kín đáo hơn? vì sâu xa hơn: đó chính là sự sống đời đời, chỉ sự sống đó mới làm cho con người được phỉ chí toại nguyện. An uống no nê, con người chưa lấy làm đủ. Đây là một thế quân bình khó giữ. Chúng ta vừa phải là những con người đem lại cơm no áo ấm, vừa phải là những con người đem đến Thánh ‘Thể”.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
HIỆP NHẤT TRONG MỘT BÀN TIỆC CỦA CHÚA(*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa”, ở đó Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.
2V 4: 42-44
Phép lạ hóa bánh ra nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lê-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn: bánh hóa nhiều cho trăm người ăn.
Ep 4: 1-6
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…
Ga 6: 1-15
Dấu lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su cho đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 t.Cn.).
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.
Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ly kỳ ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.
*1.Thời kỳ đói kém:
“Khi nạn đói xảy ra trong xứ” (4: 38): Nạn đói nầy không phải là chuyện hi hữu ở miền Pa-lệ-tin. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lê-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau nầy các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-ô này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.
“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa…” (4: 42). Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hay “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).
Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích nầy rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa điểm nơi xảy ra phép lạ.
*2.Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Vị ngôn sứ không giữ quà tặng cho riêng mình, nhưng liền chia sẻ ngay với những người túng thiếu và quà tặng nầy hóa ra nhiều. Nhờ tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.
Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch cho trăm người ăn có nhiều điểm tương đồng với những bài trình thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch cho năm ngàn người ăn không kể đàn bà trẻ con:
-Ngôn sứ Ê-li-sa bảo tiểu đồng của mình: “Phát cho người ta ăn” (4: 42). Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).
-Tiểu đồng thưa: “Có bằng nầy, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” (4: 43). Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).
-Vị ngôn sứ nói: “Cứ phát cho người ta ăn!… Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các tác giả Tin Mừng viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.
-Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ” của chiếc bánh khác: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ!” (Ga 6: 35).
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau. Đoạn trích hôm nay (4: 1-6) là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
*1.“Tôi là người đang bị tù vì Chúa”:
Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.
*2.Ơn gọi làm người Ki tô hữu:
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trong đó mọi người, dù dân Do thái hay lương dân, đều được mời gọi để chia sẻ cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc hết mọi người Ki-tô hữu nhớ rằng, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyến khích họ: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nại; hãy lấy tình đức ái mà chịu đựng lẫn nhau” (4: 2). Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 29). Tiếp đó, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (4: 3) Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
*3.Lời tuyên xưng đức tin:
Trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức này tự nguồn gốc có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.
TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)
Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”, vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ bằng cách ban Lời Hằng Sống của Ngài (Mc 6: 34). Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dở của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: dấu lạ hóa bánh ra nhiều. Câu chuyện hóa bánh ra nhiều của thánh Gioan là phần mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.
*1.Nơi chốn:
Dấu lạ hóa bánh nhiều là dấu lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mình thuật lại. Ngoài ra, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Như vậy, dấu lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành hoàn vũ, Ngài không chỉ chăm lo cho dân Do thái mà cho cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Thánh Gioan mở đầu bài trình thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là biển hồ Ti-bê-ri-a” (6: 1). Tuy nhiên, địa danh biển hồ Ti-bê-ri-a nhắc chúng ta nhớ đến bửa ăn vào lúc trời vừa sáng mà Đức Giê-su Phục Sinh dọn sẵn cho các môn đệ (21: 9-14), sau một mẻ lưới cá lạ lùng, xa hơn một chút sau suốt một đêm đánh cá vất vả trong sương lạnh mà không bắt được một con cá nào.
Có đám đông dân chúng đi theo Ngài vì họ đã chứng kiến những dấu lạ Ngài đã thực hiện. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan không bao giờ dùng từ “phép lạ” như các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng “dấu lạ”, vì phép lạ nhắm đến quyền năng siêu phàm của Đức Giê-su khiến người chứng kiến phải kinh ngạc, trong khi dấu lạ đòi hỏi người chứng kiến phải tìm hiểu để khám phá ra ý nghĩa của thực tại mà dấu lạ nhắm đến.
Đức Giê-su không lưu lại trên bờ biển hồ, nhưng “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ” (6: 3). Trong Cựu Ước, núi Xi-nai là nơi Thiên Chúa hiện ra và ban Lề Luật như giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Trong Tân Ước, núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của dấu lạ hóa bánh ra nhiều…
*2.Thời điểm:
Ngay từ đầu câu chuyện, tác giả cho chúng ta thời điểm xảy ra dấu lạ hóa bánh ra nhiều: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái” (6: 4). Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ mà những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một ý nghĩa sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” nầy làm cho cử chỉ của Đức Giê-su trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, trong đó dấu lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, đó là bàn tiệc Thánh Thể.
*3.Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người:
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su khi nhắc Ngài là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.
Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây” (6: 5). Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một môn đệ rất năng động và thực tiển. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?”, ông trả lời ngắn gọn nhưng thực tiển: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối quan hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay cũng rất thực tiển: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện hóa bánh ra nhiều nầy, Đức Giê-su nêu lên với ông một vấn nạn: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”, câu hỏi này hàm chứa một thực trạng: một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ như ông Phi-líp-phê mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp nào, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó dấu lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất phương thế nào giải quyết cho vấn đề này, tuy nhiên chẳng có phương thế nào được gặp thấy ở đây.
Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ “để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (6: 6). Điều này cho thấy dấu lạ hóa bánh ra nhiều hoàn toàn xuất phát từ tấm lòng yêu thương của Ngài đối với đám đông dân chúng đang mệt mỏi và đói khát này. Ngài hỏi ông Phi-líp-phê như thế là để ông ý thức rằng nếu chỉ cậy dựa vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.
Ông Phi-líp-phê tính toán một cách thực tế: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (6: 7). Như chúng ta biết, tiền công nhật là một đồng bạc (chúng ta biết điều nầy nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy mà dù có hai trăm đồng bạc mà mua bánh đi nữa, cũng chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu của một đám đông dân chúng quá lớn, như lời nhận xét của ông Phi-líp-phê: “Cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, câu trả lời của ông Phi-líp-phê cho thấy rằng chỉ cậy dựa vào giải pháp nhân loại mà thôi, không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.
*4.Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Ông An-rê thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (6: 8). Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông hóa ra nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm dấu lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một dấu lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách thức như vậy.
*5.Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai:
Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (6: 10). Dân chúng từ một đám đông hỗn tạp đi theo Ngài, trở thành một cộng đoàn có trật tự chỉnh tề hàng ngũ. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lê-tin. Phải chăng điều nầy hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô nhắc nhớ điều nầy khi xác định “cỏ xanh” gợi nhớ Tv 23 về “người mục tử nhân hậu”. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.
*6.Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể:
Không ai có thể phủ nhận rằng dấu lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (6: 11). Lời nói và cử chỉ nầy tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14: 22). Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là thân thể vinh quang của Đức Ki-tô hóa ra nhiều, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, cùng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.
*7.Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa:
Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa hay sao?
Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).
8.Phản ứng của dân chúng:
Phấn khích trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng nầy”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua” (6: 14). Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn nầy, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (6: 15). Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất ghi lại phản ứng của dân chúng.
9-Nét đặc trưng của dấu lạ hóa bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan:
Chúng ta ghi nhận rằng dấu lạ “hóa bánh ra nhiều” tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể là gia sản chung của tất cả các cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi.
Trong các bài trình thuật của các Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su, “cầm lấy năm chiếc bánh… dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ, để các ông dọn ra cho dân chúng” (Mc 6: 41). Quả thật, điều Chúa Giê-su làm với bánh nghe có vẻ như lệnh truyền cho “thừa tác viên” Ki-tô giáo tiếp tục thực hiện như vậy khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Tin Mừng Gioan cũng mô tả cử chỉ của Chúa Giê-su theo cùng nghi thức như vậy, nhưng với hai nét đặc thù thậm chí còn mang đậm nét Ki-tô giáo hơn: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (6: 11).
Về nét đặc thù thứ nhất, kiểu nói: “dâng lời tạ ơn” của Tin Mừng Gioan thuộc nền văn hóa Hy-lạp, trong khi kiểu nói: “dâng lời chúc tụng” của các Tin Mừng Nhất Lãm thuộc văn hóa Do thái. Kiểu nói Hy lạp: “dâng lời tạ ơn” (“eucharisteô”) cho chúng ta thuật ngữ: “lễ Tạ Ơn” để chỉ bàn tiệc Thánh Thể của Ki-tô giáo. Kiểu nói nầy lại còn xuất hiện ở 6: 23: “Có những thuyền khác từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn”.
Về nét đặc thù thứ hai, chính Đức Giê-su đích thân phân phát bánh cũng như Ngài sẽ làm như vậy vào buỗi chiều Tiệc Ly, chứ không qua các môn đệ như Tin Mừng Nhất Lãm. Đây là dấu lạ tối hậu nhắm đến việc Đức Giê-su không chỉ là Đấng ban Bánh Trường Sinh, nhưng còn là Bánh Trường Sinh nuôi dưỡng dân chúng, đặc biệt ở bàn tiệc Thánh Thể, như chính Ngài sẽ công bố trong diễn từ về Bánh Trường Sinh: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời” (6: 53).
Như vậy, qua dấu lạ hóa bánh ra nhiều, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).
Thánh Lễ là nét đặc trưng của Ki-tô giáo. Ngay từ rất sớm, Hội Thánh đã xem Thánh Lễ là nguồn sống của mình. Cv 2: 42 ghi nhận nếp sống của các tín hữu sơ khai: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”. Thánh Phao-lô, trước khi thuật lại bàn tiệc Thánh Thể, đã nói với tín hữu Cô-rin-tô: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1Cr 11: 23). Đối với người Ki-tô hữu, Thánh Lễ là một ân ban vô giá không thể chuyển nhượng, cũng không có thể được thay thế bởi bất kỳ hành vi đạo đức nào. Nhờ Thánh Lễ, người Ki-tô hữu có được sức mạnh thần thiêng giúp họ đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Lm Henry de Lu-bac tóm tắt tiến trình phát triển của Ki-tô giáo bằng một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa: “Thánh Thể làm nên Hội Thánh và Hội Thánh làm nên Thánh Thể”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NUÔI DƯỠNG DÂN NGÀI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (2 V 4,42-44) : Ngôn sứ Êlisê làm cho bánh hóa ra nhiều.
– Đáp ca (Tv 144) : “Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê”.
– Tin Mừng (Ga 6,1-15) : Đức Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều.
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân do thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân do thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân do thái.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ này trong tâm tình sốt mến tạ ơn.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta lười biếng tham dự Thánh lễ.
– Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta rước lễ không xứng đáng.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng ta ích kỷ không chia xẻ với anh chị em chúng ta.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I(2 V 4,42-44)
Ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hóa nên nhiều cho 100 người ăn no nê.
- Đáp ca(Tv 144)
Tv này mô tả Thiên Chúa như một vị vua lý tưởng. Một vị Vua tốt luôn chăm lo đến đời sống của thần dân mình, nhờ đó mọi người đều có thức ăn đúng giờ và luôn no nê. “Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê”.
- Tin Mừng(Ga 6,1-15)
Phép lạ hóa bánh ra nhiều theo cách tường thuật của Thánh Gioan có một số chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt :
– Phép lạ này diễn ra trong thời gian lễ Vượt Qua. Chi tiết này nhằm cho thấy thứ lương thực mà Đức Giêsu ban cho dân chúng trổi vượt thứ manna mà dân do thái được ăn trong thời gian ở sa mạc.
– Không phải dân chúng xin Đức Giêsu, cũng không phải các môn đệ can thiệp, mà chính Đức Giêsu thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm thức ăn cho họ.
– Đức Giêsu làm phép lạ này từ phần đóng góp 5 chiếc bánh và hai con cá của một em bé.
– Lương thực được phân phát qua trung gian của các tông đồ.
- Bài đọc II(Êp 4,1-6)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêxô sống hòa thuận hiệp nhất với nhau.
– Lời kêu gọi này rất tha thiết, bởi vì lúc đó Phaolô đang ngồi tù mà vẫn phải băn khoăn lo lắng cho họ.
– Muốn hòa thuận hiệp nhất thì phải khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng nhau.
– Lý do phải hoà thuận và hiệp nhất là vì mọi người cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lòng rộng rãi của Chúa
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự nó, phép lạ này cũng có một ý nghĩa được nhiên, nó biểu lộ tấm lòng rộng rãi của Chúa đối với loài người.
Thánh Gioan ghi lại rất nhiều chi tiết về lòng rộng rãi ấy :
– Trước đó Đức Giêsu đã chữa cho rất nhiều người bệnh tật.
– Chính Đức Giêsu ngước mắt nhìn dân chúng và Ngài biết họ đói, chính Ngài nẩy ra ý định kiến cái gì cho họ ăn.
– Chẳng những Ngài lo cho họ ăn no, mà còn thừa thải.
– Chi tiết Đức Giêsu bảo họ ngồi xuống trên thảm cỏ là một so sánh kín đáo Đức Giêsu với người mục tử nhân lành nuôi dưỡng đoàn chiên mình.
Trong Tin Mừng, đây không phải là chỗ duy nhất nói đến lòng rộng rãi của Chúa. Ở chương 6 Tin Mừng Mt, Đức Giêsu cũng bảo chúng ta đừng bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất của cuộc sống này, vì Cha trên trời đã biết chúng ta cần những thứ đó và đã lo sẵn tất cả cho chúng ta.
Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa : họ sợ thiếu, nên họ dành giật và tích trữ.
Em bé trong đoạn Tin Mừng này đã không sợ như thế nên em đã dám chia xẻ 5 chiếc bánh và hai con cá của em. Kết quả : chẳng những bản thân em mà tất cả hàng mấy ngàn người đều no nê thừa thải.
Chúa rất rộng rãi, nhưng con người lại hẹp hòi. Đó là lý do của thảm cảnh nhân loại hiện nay.
* 2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Đây là một phép lạ lớn : Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thải : đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.
Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người :
. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.
. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.
Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.
Đây là lề lối hành xử hầu như thường xuyên của Chúa :
. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu : Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.
. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi “Con có tin không ?”, và sau khi làm phép lạ, Chúa nói “Đức tin của con đã cứu con”.
. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói “Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó”.
Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi chờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ) nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.
Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.
Cụ thể :
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hoà lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.
. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc… và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài cố suy tính cân nhắc cẩn thận…
. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.
* 3. Phép lạ của lòng quảng đại
Một vị Linh mục kia đã giảng rằng : phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị Linh mục rất hài lòng, nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị Linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị Linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai, đại khái như “Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói”. Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ : “Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi”. Vị Linh mục hỏi tiếp : “Thế trong túi có gì vậy ?”. Bà đáp : “Chỉ có hai chiếc bánh”.
Câu trả lời khiến vị Linh mục vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.
Quảng đại phải là một nhân đức của người kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, vì hằng ngày ta gặp biết bao người và bao nhiêu dịp để thể hiện nó. Và chúng ta có thể thể hiện quảng đại bằng nhiều cách : cho đi tiền bạc, cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi công sức, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến v.v.
Và quảng đại cũng trổ sinh niềm vui. Ít khi ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi ta gặp người nào bủn xỉn mà vui. (Viết theo Flor McCarthy)
Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày “Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế”. Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.
*
Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Hôm nay, Người “nuôi năm ngàn người ăn no”. Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.
Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện : “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?” (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là “Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới”. Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin : dù chỉ với “năm chiếc bánh và hai con cá”. Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.
Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.
*
Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn“
Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa : “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn”.
Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện “Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này”.
Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc : trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ : Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách ? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy ? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác ? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.
Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát ; ta không thể tạ ơn Chúa đã cho ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.
Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?”
* 6. Phải biết thế nào là đói
Dưới triều vua Salomon, ở Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.
Thế rồi trong nước xảy ra nạn đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo. Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.
Việc làm của Simeon đến tai vua Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế : ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một vài quy định : thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì cả ; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả ; thứ ba, nếu nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng. Sau khi giải thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi : “Ông có đồng ý những điều kiện ấy không ?”. Hắn đáp “Đồng ý”. Người hầu nói : “Vậy thì ông hãy ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông”.
Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn : “Hãy ngồi xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý”. Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa nói “Món cá này ngon tuyệt”. Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.
Tiếp đến, người hầu mang tới cho nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi : “Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng”. Tên nhà giàu vội vàng đáp : “Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng”. Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại : “Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn cho ông thưởng thức”. Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo “Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung”. Chẳng thể làm cách nào khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.
Nằm trên giường mà bụng đói cồn cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ : “Sao nhà vua mời mình dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả ?” Và hắn đã tự tìm được câu trả lời : Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor McCarthy)
* 7. Chứng từ về chia xẻ
“Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.
Ba năm về trước : Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết :
Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.
Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.
Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.
Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.
Ba năm về sau : – Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.
+ Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ông Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.
Tay phải làm tay trái chẳng biết
+ Tay phải làm tay trái chẳng biết : – Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Được biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, dân chúng xưa đói khát, cả tâm hồn lẫn thể xác, và Đức Giêsu đã rộng lòng để thỏa mãn họ cả xác hồn. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Người :
- Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn sống hiệp thông với Chúa nhờ Bí tích Thánh Thể / để có thể quan tâm chia sẻ cho những người đang đói khát về tinh thần cũng như vật chất.
- Xin cho các chính quyền trên thế giới / biết tận tâm lo thỏa mãn các nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa / và các nhu cầu tinh thần như tự do, hòa bình, văn hóa, tôn giáo / để mọi người dân sống đúng phẩm giá con người hơn.
- Xin cho những người đang là nạn nhân của chậm tiến, đói nghèo và dốt nát / được nhiều người khá giả hơn quan tâm giúp đỡ / để sớm thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
- Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta biết giúp đỡ và chia sẻ cho nhau / noi gương cộng đồng các tín hữu đầu tiên / để không còn ai trong cộng đồng chúng ta còn dốt nát và đói nghèo.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, chúng con họp nhau dâng lễ tạ ơn Chúa, vì đã quan tâm nuôi dưỡng cả xác hồn chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị…
- TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta cầu xin cho có “lương thực hằng ngày”, một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
– Trước Rước lễ : Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân do thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
VII. GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN -B
BÁNH NGƯỜI NGHÈO (*)- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“Hai trăm đồng quan bánh cũng không đủ”: Số tiền quả là lớn vì một quan là tiền công của một ngày làm việc (Mt 20,2; Lc 10,35).
“Nơi ấy có nhiều cỏ”: Điều này xác nhận chi tiết nói rằng sắp đến lễ Vượt qua, vì lễ Vượt qua là thời kỳ duy nhất mà, sau những trận mưa mùa đông và trước cái nắng gay gắt của mùa hạ (bắt đầu từ tháng 5), người ta mới tìm thấy một ít cỏ ở Palestin.
“Bấy giờ Người trốn đi”: Như sẽ nói trong phiên tòa Rôma rằng vương quốc Người không thuộc về thế gian (18,36), Chúa Giêsu lúc này từ chối đảm nhận một vương quyền theo như quần chúng quan niệm. Đó đã là một sự đoạn tuyệt với những quan niệm cách chung và thiên sai phàm trần
KẾT LUẬN
Đám dân đông đảo đến cùng Chúa Giêsu để có của ăn, tượng trưng cho hết những kẻ đói khát về phần thiêng liêng đang “đến với Người” qua đức tin để xin người thoa dịu cơn đói của họ. Ngoài Người ra, không ai có thể cung cấp cho đám đông ấy thứ bánh mà họ đang trông chờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG.
*1. Trong đoạn hôm nay, ta khám phá ra một sự ám chỉ thường xuyên đến cuộc Xuất hành: việc vượt qua biển Galilê (hồ Tibêria) nhắc đến lần vượt qua Biển đỏ; bánh hóa nhiều gợi nhớ manna; những tiếng kêu ca của người Do thái (cc.41-43.52.60-61.66) nối tiếp những cuộc nổi loạn của người Hy bá chống lại Môisen trong hoang địa. Về phần ngọn núi, nó là phóng bản của núi Sinai. Sự nhấn mạnh rằng lễ vượt qua gần tới (c 4) đánh dấu vị trí của biến cố này đối với quá khứ (Lễ Vượt qua kỷ niệm Xuất hành), đối với hiện tại (lễ Vượt qua này là một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Chúa Kitô, và đối với tương lai (trong dịp lễ Vượt qua Do thái này, Chúa Giêsu sửa soạn cho một lễ Vượt qua mới, cho việc thiết lập Thánh Thể tại nhà Tiệc ly và cho việc cử hành nó cách mới mẻ trong Giáo Hội bằng Thánh lễ.
*2. Từ một hoàn cảnh cụ thể, Chúa Giêsu đòi hỏi các sứ đồ một sự vâng phục của đức tin. Lương tri tự nhiên khiến Người hỏi Philipphê: Ta mua được đâu bánh cho họ ăn? Rồi Người trả lời: Hãy cho họ ngồi xuống. Các sứ đồ thi hành lệnh của Thầy, và chắc hẳn họ cũng tự hỏi cái gì sắp xảy đến. Có lẽ họ nghĩ rằng: với Thầy họ thì không nên tìm hiểu. Gioan viết: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho những người dùng bữa”. Nhưng chắc chắn Người đã nhờ các sứ đồ làm công việc phân phát ấy. Thánh Mátcô thì bảo: “Người ban tiếp cho các môn đồ để họ thết đãi người ta” (6,41). Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đồ, trước sự bất khả, đã chống lại ý Chúa Giêsu? Có thể họ đã không phải là những cộng tác viên với công việc thần linh của Người. Thành thử ta thấy sự vâng phục của đức tin dẫn tại đâu. Nó làm cho kẻ tin trở nên cộng tác viên của Thiên Chúa trong những công việc vô cùng vượt quá phương tiện loài người. Chúng ta có biết tuân hành những bổn phận mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là khi những công việc ấy vượt quá khả năng chúng ta?
*3. Dù không bàn đến tính cách kỳ diệu của việc hóa bánh, người ta tuy vậy cũng phải lưu ý rằng phép lạ đã chẳng xảy ra từ số không. Chúa Giêsu đã cần đến năm chiếc bánh và hai con cá do một em bé nhường lại như là chất liệu đầu tiên xét một cách nào đó. Ngày nay cũng vậy, tất cả mọi của cải dư dật, để có thể thấu đến nhiều người, thì trước tiên đòi buộc một sự để chung các tài nguyên đôi khi lúc đầu rất ít ỏi. Cái làm no nê thỏa mãn mỗi một người trong chúng ta, không phải là số lượng sản vật tích lũy mà mỗi người chiếm hữu cho mình, nhưng là ban phát và chia sẻ các sản vật đó cho tha nhân và chính việc ban phát chia sẻ này làm tăng giá trị và hương vị cho của cải, làm lộ ra cứu cánh đích thật của chúng: nuôi dưỡng sự thông hiệp của chúng ta với tất cả mọi người. Chúng ta kinh nghiệm điều này trong nhiệm tích Thánh Thể. Sẽ không có việc hóa bánh ra nhiều về phương diện phẩm cũng như không có bữa ăn thỏa mãn còn đói của chúng ta nếu chính chúng ta không mang tới bánh riêng của mình và chia sẻ nó một cách huynh đệ. Nhưng chỉ Lời Chúa trong Kinh Thánh mới có thể biểu dương và tạo ra những chiều kích vô biên của tình huynh đệ ấy.
*4. Vẫn biết Chúa Giêsu là vua, và Người sẽ khẳng định điều có trước Philatô (18,37), nhưng vương quyền của Người không thuộc về thế gian này (18,36) và Người không chịu để mình bị bắt lấy, bị tôn phong và thống trị như một quân vương trần thế. Người đến trong thế gian để chỉ làm chứng cho sự thật và thông ban sự thật cho chúng ta, không phải để thỏa mãn lòng khát vọng của cải và quyền lực của chúng ta. Người biết rằng Người sẽ lừa gạt chúng ta khi không cho chúng ta một thức ăn hư nát (x.6,26); người thấy phải giác ngộ chúng ta khỏi ý niệm sai lạc của chúng ta về đấu chỉ mà Người vừa thực hiện. Trong lúc này, Người chỉ có thể làm được việc đó bằng cách trốn đi; là Đấng đã hóa bánh ra nhiều, Người vẫn bất lực đối với những con tim khờ khạo và những dạ dày quá nô nê. Nếu chúng ta không nghe tiếng Người, thì người không muốn và không thể ngự trị trên chúng ta. Vương quyền của Người hệ tại chỗ giải phóng chúng ta nhờ sự thật (Ga 8,31-36). Nhưng, ngay cả khi tung hô Người như là vua chúng ta, thì chúng ta vẫn thường quá ao ước làm nô lệ của ăn trần thế và bắt Người phục vụ cơn đói của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta sẽ mất công năn nỉ Người, vì hãy biết rằng chúng ta sẽ không thể bắt Người làm vua chúng ta ta trái với ý Người được; Người sẽ chạy trốn chúng ta và chúng ta sẽ không bao giờ bắt Người lài được nữa, trừ phi chúng ta thực sự lắng nghe Người với tất cả tâm hồn chúng ta (6,63). Và bấy giờ Người sẽ tự biến thành Bánh bổ dưỡng nuôi chúng ta vượt qua đời này, sẽ thành Nước hằng sống, ánh sáng và Sự sống của ta.
*5. Chúng ta đang sống trong một thời đại kỹ thuật mà xét trong toàn bộ chứ không xét trong chi tiết, là một thời đại do ý Thiên Chúa muốn. Vậy nếu chúng ta con thời đại chúng ta như một việc hóa bánh ra nhiều, thì chúng ta phải bảo rằng Tin Mừng hôm nay còn có nhiều điều muốn dạy chúng ta về thời đại kỹ thuật của chúng ta và về cuộc sống hoàn toàn cá nhân của chúng ta. Nếu không chúng ta cũng có thể thuộc vào số những kẻ đã góp phần một cách rất mầu nhiệm vào tội lỗi của thời đại này, cho dầu tội đó không có tên gọi trong các công thức xét mình của sách lễ chúng ta. Mỗi người đều góp phần tạo nên tinh thần của thế kỷ mình đang sống Và mỗi người đều có bổn phận sống trong thời này làm sao cho nó thành một thế kỷ mà trong đó Thiên Chúa có thể tin tưởng vào vẻ trong sáng của tâm trí chúng ta cũng như vào tình yêu của tâm hồn chúng ta đối với Ngài, và có thể ban cho chúng ta chính bánh của đời sống trần gian, ngõ hầu trong hoang địa của đời sống này, chúng ta nhận lãnh được bánh của sự sống vĩnh cửu đến thiên thu.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
ĐÀO TẠO TRÁI TIM– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.
Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.
Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2) Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3) Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4) Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN– B
PHÉP LẠ HÓA BÁNH, DẤU CHỈ THỜI CÁNH CHUNG- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Phép lạ hóa bánh ra nhiều đã được tiền báo trong những tường thuật của các tiên tri thời Cựu Ước. Vào thời tiên tri Êlisê, phép lạ này cho thấy với sự hiện diện của tiên tri, người ta không sợ hãi vì số lượng ít ỏi của bánh mà mình đang có, vì nhờ vị tiên tri, chính Chúa sẽ ban phát dư dật bánh ăn cho mọi người, ngay cả trong thời kỳ đói kém. Trong khi người dâng bánhvà người môn đệ bối rối vì biết mình chỉ có một số bánh ít ỏi và hạn chế, nhưng tiên tri Êlisê vẫn cứ truyền cho ông : “cứ dọn cho dân chúng ăn, vì Chúa đã phán người ta ăn rồi mà vẫn còn dư”. Những phép lạ này cũng như phép lạ manna trong sa mạc thời Môisen báo trước thời kỳ của Đấng cứu thế sẽ ban bánh đích thực nuôi dưỡng linh hồn người tín hữu và là lương thực ban sự sống đời đời. Chúa Giêsu sẽ thực hiện cụ thể những hình ảnh đã được báo trước trong Cựu ước. Người sẽ hoàn tất những gì đã được báo trước qua các tiên tri. Đấng cứu thế sẽ ban tặng bánh dư dật, người sẽ là vị Môisen mới qui tụ dân chúng tản mác quanh bàn tiệc Thánh Thể, thực hiện một cuộc xuất hành mới quyết định, sẽ dẫn đưa tới quê trời đích thực và sự sống thần linh. Vì thế, câu chuyện của bài Tin mừng Gioan Chúa nhật này với những lời dẫn nhập thật ý nghĩa: lúc bấy giờ là lúc gần đến đại lễ Vượt qua của những người do thái, Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ, có đám đông dân chúng theo người. Câu chuyện được tập trung ngay từ đầu vào Chúa Giêsu: người lên núi và ngồi đó với các môn đệ, người ngước mắt lên và nhìn thấy dân chúng, người có sáng kiến tìm bánh cho dân chúng ăn nên người chủ động hỏi Philipphê : “Ta mua đâu bánh cho những người này ăn”. Tuy hỏi môn đệ Philipphê, nhưng người biết mình sẽ làm gì, người ra lệnh cho dân chúng ngồi xuống và từ năm chiếc bánh và hai con cá ít ỏi của một em bé, người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi đoàn người đông đảo, khoảng năm ngàn người đàn ông. Sau khi ăn no, các tông đồ còn thu lại được mười hai thúng đầy.
Chúa Giêsu là Đấng cứu thế đã được báo trước. Người là Môisen mới dẫn đưa mọi người đến sự sống chân thực. Người không chỉ thực hiện phép lạ hóa bánh để nuôi mọi người ăn no, mà còn ban tặng Thánh Thể là thịt máu của người. Bài tường thuật phép lạ vượt quá khung cảnh lịch sử với những lời tường thuật của cộng đoàn Giáo hội hậu phục sinh là những lời mà các tín hữu vốn đã quen thuộc trong những cử hành Thánh Thể: “Người cầm lấy bánh và tạ ơn”. Chính người là Đấng hành động cách quyết định và mạnh mẽ, người cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát. Chính Người là Đấng ban tặng cách dư dật từ nguồn sống phong phú của người và mọi người được hưởng nhờ sự sống sung mãn của người. Các tông đồ là những người được mời gọi cộng tác với người để phân phát cho dân chúng và số bánh được thu lại là mười hai thúng đầy là hình ảnh đoàn dân mới của Thiên Chúa được nuôi dưỡng bằng lương thực thần linh là Thánh Thể. Đứng trước phép lạ hóa bánh, nhiều người có thể hiểu lầm và lợi dụng. Những người do thái đã hiểu rằng Chúa Giêsu là vị tiên tri cao cả mà Thiên Chúa ban tặng khi chứng kiến phép lạ hóa bánh, nhưng họ dừng lại ở ý nghĩa vật chất của bánh ăn, họ muốn bắt người để tôn người lên làm vua, nhưng người lại trốn lên núi một mình.
CHÚA NHẬT XVIITHƯỜNG NIÊN- B
TẤM BÁNH YÊU THƯƠNG– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Trong ba năm rao giảng Tin mừng thực thi chương trình cứu độ mà Thiên Chúa Cha trao phó, Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có uy quyền và kèm theo các phép lạ. Một trong những phép lạ mà Tin mừng hôm nay đề cập đến đó là hóa bánh ra nhiều. Qua phép lạ này, làm nổi bậc lên lòng Chúa thương xót con người.
Xưa kia trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa, dân Do Thái van xin Chúa ban lương thực cho họ. Trước những lời cầu khẩn đó, Thiên Chúa chạnh lòng thương, Ngài ban Manna từ trời rơi xuống và nước từ tảng đá vọt ra nuôi dưỡng họ suốt 40 năm.
Nay trên hành trình rao giảng Tin mừng, dân chúng tin theo Chúa đông lắm, nhìn thấy họ như đàn chiên không người chăn dắt, Chúa chạnh lòng thương nên dạy dỗ họ nhiều điều. Và vì thương xót, nên Ngài hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh tiến bộ không ngừng. Thực phẩm chứa đầy trong các siêu thị và kho lẫm. Ấy thế mà, có những tấm lòng con người hẹp hỏi ích kỷ, chỉ lo cho mình hơn là lo cho người khác. Vì thế, thánh Gioan Phaolô II nói rằng: “Đó là nền văn minh của sự chết “.
Theo ngành y tế thế giới cho biết, hiện nay có gần hai tỉ người đang rơi vào cảnh thất nghiệp nghèo đói cùng cực. Mỗi ngày có gần một tỉ người đi ngủ đêm với bụng đói. Và mỗi ngày có hơn cả trăm ngàn người chết đói, chết khát, chưa kể chết vì phá thai, tai nạn, dịch bệnh, thiên tai…
Mặc dầu thế giới văn minh như thế, nhưng luôn có những người bần cùng khốn khổ, trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh nhân không có thuốc uống. Bên cạnh đó có những người cư ngụ trong những biệt thự cao cấp, ăn sang, mặc đẹp không làm chi cho hết tiền.
Xã hội văn minh hôm nay đang tạo ra những “cỗ người máy”, sống vô cảm dửng dưng với anh em đồng loại. Một số người làm ăn giàu có, tích trữ của cải, nhưng lại khép lòng trước người nghèo, và không quan tâm gì đến việc từ thiện đồng cảm với nhau.
Những chuyên viên nghiên cứu cho biết rằng: nếu của cải vật chất trên trần gian này được phân phối đồng đều, thì sẽ không có cảnh đói khát và nghèo khổ. Có khi, người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng người ta đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ cho nhau.
Tuy nhiên, từ khi dịch bệnh lây lan, chúng ta phải giãn cách vì phòng chống dịch bệnh. Một số công ty, xí nghiệp, giao thông, hàng quán, chợ búa phải ngưng hoạt động… từ đó làm cho nhiều người rơi vào hoàn cảnh thất nghiệp không có công ăn việc làm, có nhiều người đang gồng mình với cơm áo gạo tiền và những khoảng chi trả khác.
Trong tình trạng đau thương đó, chúng ta thấy có nhiều người quan tâm đến những hoạt động từ thiện, giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh được thể hiện trong tinh thần “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Đó là nhưng siêu thị không đồng, quán ăn giả chiến, bữa cơm từ thiện….Có thể nói đây là những điểm sáng bừng lên giữa đêm đen, là bình minh của yêu thương. Từ đó, chúng ta nhận định rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn có những tấm lòng nhân ái, nghĩa cử quan tâm, tấm bánh yêu thương.
Điểm thứ hai rút ra từ bài Tin mừng hôm nay, đó là sự cộng tác. Chúa Giêsu, Đấng quyền năng làm được mọi sự, nhưng Ngài cũng cần con người cộng tác. Khi chữa lành bệnh nhân, Chúa đòi lòng tin nơi họ. Nay làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Ngài cần có sự cộng tác của con người.
Cụ thể như hôm nay, nhờ năm chiếc bánh và hai con cá do lòng quảng đại của một cậu bé, mà Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, để bao nhiêu ngàn người được ăn dư thừa.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cả bốn Tin Mừng đều kể lại, như hình ảnh báo trước Bí tích Thánh Thể mà sau này Chúa Giêsu sẽ thiết lập trong bữa Tiệc ly. Ngày xưa, Chúa đã ban bánh từ trời xuống cho nhân loại thế nào, thì ngày nay, trên bàn thờ khắp cùng thế giới, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nhờ đôi tay linh mục bẻ tấm bánh là Mình Máu thánh Ngài để nuôi sống linh hồn con người như vậy. Nhờ của ăn thần lương này, mà con người được nuôi dưỡng và tăng thêm sức mạnh thiêng liêng, để đủ sức tiến về đất hứa là quê hương Nước trời.
Ước gì, chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa, cống hiến đời mình thành những tấm bánh yêu thương chia sẻ cho tha nhân, tuy đơn sơ nhỏ bé, nhưng với lòng thương cảm và con tim rộng mở, Chúa sẽ làm phép lạ, để thế giới này bớt đi cảnh đói nghèo vật chất và đói khát tình thương, nhất là trong bối cảnh thế giới đang đối diện với cơn đại dịch làm chúng ta phải giãn cách nhưng không giãn lòng. Những người con Chúa sẽ thấy đại dịch là cơ hội để trở thành tấm bánh chia sẻ, có sức lan tỏa yêu thương. Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN-B
LÃNH NHẬN VÀ CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI- Lm. Đan Vinh HHTM
*1. TIN MỪNG : Ga 6,24-35
(24) Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói : “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy ? (26) Đức Giêsu đáp : “Thật, tôi bảo thật các ông : Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (28) Họ liền hỏi Người : “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn ?” (29) Đức Giêsu trả lời : “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (30) Họ lại hỏi : “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép : Người đã cho họ ăn bánh bởi Trời” (32) Đức Giêsu đáp : “Thật, tôi bảo thật các ông : Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực. (33) Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (34) Họ liền nói : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy. (35) Đức Giêsu bảo họ : “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
*2. Ý CHÍNH:
Đức Giêsu cảnh báo việc dân chúng đi tìm Người chỉ vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát. Ngay cả man-na thời kỳ Xuất Hành cũng không phải là bánh bởi trời thực sự và không cứu được người ta khỏi chết. Họ cần phải tìm kiếm thứ Bánh bởi trời đích thực là Con Người là Đấng từ trời mà đến và ban sự sống cho trần gian. Bánh Hằng Sống đó chính là Mình Máu Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
*3. CHÚ THÍCH :
– C 24-25: + Ca-phác-na-um : Là một thành phố thuộc xứ Ga-li-lê, nằm gần biển hồ Ti-bê-ri-a. Đức Giêsu chọn Ca-phác-na-um làm trung tâm hoạt động trong thời gian giảng đạo công khai. Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21), làm nhiều phép lạ như : Xua trừ ma quỷ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho nhạc mẫu ông Phê-rô và chữa lành nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ nữ bệnh 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết sống lại (x. Mc 5,21-43), giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)… Thành này là một trong các thành Do Thái bị Đức Giêsu quở trách, vì đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn cứng lòng không tin vào Người (x. Mt 11,23-24). + Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ : Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình làm vua, nên Đức Giêsu đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15).
– C 26-27) : + Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê : Đức Giêsu cảnh báo dân chúng đi tìm Người do động lực vụ lợi : Để được có cơm bánh mà không phải lao công làm việc. + Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh : Đức Giêsu không phủ nhận nhu cầu bánh ăn vật chất, nên Người đã làm phép lạ cho dân chúng ăn no. Nhưng Người còn muốn dạy rằng : Trên cuộc sống thể xác là cuộc sống tinh thần sẽ tồn tại mãi mãi. Chính Người sẽ ban cho họ thứ lương thực đem lại sự sống đời đời là bí tích Thánh Thể mà Ngừơi sắp thiết lập. + Con Người : Là một nhân vật thần thiêng mà ngôn sứ Đa-ni-en trong một thị kiến đã xem thấy đứng bên Thiên Chúa (x. Đn 7,13-14). Khi tự xưng là Con Người từ trời mà đến, Đức Giêsu khẳng định Người mới là sứ giả đích thực của Chúa Cha, được Thánh Thần thánh hiến trở thành Đấng Thiên Sai và giúp chu tòan sứ mệnh ấy (x. Lc 4,18 ; Is 61,1-2). + Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận : Con dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Ngoài việc in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời Thánh Phaolô : “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,22). Câu này cho thấy Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giêsu làm bảo chứng xác nhận Người thực là Đấng Thiên Sai.
– C 28-29 : + Chúng tôi phải làm gì ? : Đây là câu hỏi của dân chúng bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa, sau khi họ nghe rao giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gio-an Tẩy Giả tại sống Gio-đan (x. Lc 3,10.12.14), hay dân chúng hỏi Phê-rô vào lễ Ngũ Tuần tại Giê-ru-sa-lem (x.Cv 2,37). + Tin vào Đấng Người đã sai đến : Đấng Thiên Chúa sai đến nói đây chính là Đức Giêsu.
– C 30-31 : + Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? : Dù mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân chúng vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi Đức Giêsu làm một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh chứng sứ mệnh Thiên Sai của Người, giống như Mô-sê đã làm phép cho man-na từ trời mưa xuống để nuôi dân Ít-ra-en suốt 40 năm trong sa mạc, nên man-na được gọi là bánh bởi trời. + Man-na : Phát xuất do từ “Man-nu ?”, nghĩa là “Cái gì vậy ?”, vì dân Ít-ra-en không biết đó là cái gì (x. Xh 16,15). Mô-sê bảo dân rằng : “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn !”. Như vậy, Man-na chính là lương thực đi đường mà Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en một cách lạ lùng, trong thời gian họ đi băng qua sa mạc về Miền Đất Hứa (x. Xh 16,11-18). Man-na có hình dạng giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8). Man-na là hình bóng của Lời Chúa, là của ăn được Đức Chúa ban, và dân Ít-ra-en phải ý thức tầm quan trọng của Lời Chúa : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Khi dân Ít-ra-en vào tới Đất hứa Ca-na-an và bắt đầu được ăn các loại thổ sản tại đó thì Man-na không còn rơi xuống nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong thời gian lưu lạc trên trần gian, các tín hữu cũng được ăn lương thực thiêng liêng là Mình Thánh Chúa để họ đủ sức tiến về Đất Hứa Thiên Đàng, tham dự Bữa Tiệc Cánh Chung trong Nước Trời với Đức Giêsu (x. Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp (x. Mt 8,11).
– C 32-33 : + Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi : Đức Giêsu đã giúp dân chúng hiểu rõ : Man-na được ban trong thời kỳ Xuất Hành không phải do Mô-sê ban, nhưng là do chính Đức Chúa đã ban cho dân. Ngoài ra man-na cũng không thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là luơng thực vật chất mau hư nát và chỉ nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16,19-21), nên dù có ăn man-na, người ta cũng vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35). + Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian : Để được gọi là Bánh của Thiên Chúa thì cần phải có hai đặc tính là xuất phát từ trời, và ban sự sống đời đời. Bánh ấy chính là Đức Giêsu. Người vừa là Ngôi Lời vốn ở trên trời, nay được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,14), và Người sắp ban Mình Máu Người làm lương thực đem lại sự sống muôn đời cho ai lãnh nhận (x. Ga 6,51).
– C 34-35 : + Chính tôi là Bánh Trường Sinh : Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giêsu dùng và Gio-an đã ghi lại một số câu như : “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,34) ; Tôi là Ánh Sáng thế gian (x. Ga 8,12 ; 9,5) ; Tôi là Cửa cho chiên ra vào (x. Ga 10,7) ; Tôi là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11) ; Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống (x. Ga 11,25); Tôi là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (x. Ga 14,6); Tôi là Cây Nho thật (x. Ga 15,1)… Ở đây, khi khẳng định: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muớn nói về bí tích Thánh Thể mà Người sắp lập. Qua đó Người sẽ nên bánh thiêng nuôi người dương thế và đem lại cho họ hạnh phúc muôn đời. + Ai đến với tôi, không hề phải đói; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ : Người hứa sẽ ban cho những ai lãnh nhận bí tích Thánh Thể được no thỏa. Người cho những ai đặt trọn niềm tin vào Người thỏa mãn khát vọng sống vĩnh hằng.
*4. CÂU HỎI : 1) Bạn biết gì về thành Ca-phác-na-um ? 2) Khi nói lên động cơ đi tìm Chúa của dân chúng là tìm bánh ăn vật chất, Đức Giêsu muốn họ phải tìm kiếm điều gì khi đến với Người ? 3) Tại sao Đức Giêsu tự xưng mình là Con Người ? 4) Dức Giêsu trả lời cho dân chúng biết họ cần làm gì sau khi nghe giảng Tin Mừng ? 5) Dân Do Thái muốn Đức Giêsu làm gỉ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người ? 6) Thời Môsê danh từ Manna ám chỉ điều gì, được ban cho ai và nhằm mục đích gì ? Trong Tân Ước Manna ám chỉ điều gì ? 7) Bánh bởi Trời thực sự phải có những đặc tính nào ? 8) Khi tự xưng “Tôi Là Bánh Trường Sinh”, Đức Giêsu muốn nói về điều gì? 9) Người hứa ban cho những ai chịu phép Thánh Thể được những ơn gì ?
*II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh. ai đến với Tôi, không hề phải đói. Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !”
*2. CÂU CHUYỆN: CHIA SẺ TẤM BÁNH TÌNH NGƯỜI
Một hôm có một lão hành khất gặp Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta trên đường phố và chìa tay ra xin bà bố thí. Bà lục lọi hết các túi áo mà không tìm ra một đồng tiền nào, bà đánh vỗ vai ông lão, vừa tươi cười vừa nói lời xin lỗi vì không có gì để chia sẻ cho ông. Bấy giờ lão hành khất nói : “Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhận được. Món quà đó là nụ cười cảm thông và lời an ủi đầy tình người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã được bà tôn trọng và được đối xử bình đẳng !”.
*3. SUY NIỆM :
*1) Cơm bánh vật chất là nhu cầu cần phải được thỏa mãn :
Ngày nay một phần ba nhân lọai đang lâm cảnh đói nghèo có nhu cầu cần được mọi người trong đó có các tín hữu chúng ta tận tình đáp ứng để vượt qua hòan cảnh khó khăn. Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu đã chạnh lòng thương khi thấy dân chúng theo Người bị đói. Và Người đã đáp ứng nhu cầu của họ bằng việc nhân bánh ra nhiều cho họ được ăn no.
*2) Con người còn có những nhu cầu tinh thần cần được đáp ứng :
Tin Mừng hôm nay ghi lại việc đám đông dân chúng háo hức đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh mà không vất vả lao động, giống như Mô-sê xưa đã xin Đức Chúa ban bánh bởi trời là man-na cho dân Do thái thời kỳ xúât hành. Họ đã bị Đức Giêsu cảnh báo “Đừng lo tìm những thứ của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người biết rõ tâm lý con người luôn khát vọng các giá trị tinh thần. Đức Giêsu đã giới thiệu về Bánh Hằng Sống, là bánh từ trời mà đến và ban sự sống đời đời cho trần gian. Banh ấy là chính Đức Giêsu.
*3) Lời Chúa và bí tích Thánh Thể là Bánh Hằng Sống ban ơn cứu độ :
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu hứa ban Bánh Hằng Sống là Lời Người dạy và là bí tích Thánh Thể do Người sắp thiết lập để ban ơn cứu độ cho người đón nhận.
*4) Làm gì để chia sẻ Bánh tình thương cho tha nhân ?
Các tín hữu chúng ta ngòai việc phải lao động làm ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân và chia sẻ cho những kẻ nghèo đói, chúng ta còn có bổn phận năng đi dự thánh lễ để đón nhận Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, và sẵn sàng chia sẻ Chúa là “Con Đường” duy nhất dẫn đưa ta lên trời, là “Sự Thật” được Chúa Cha mặc khải để lòai ngừơi nhận ra tình yêu cứu độ của Chúa, và là “Sự Sống” đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận.
*4. THẢO LUẬN : Bạn cần làm gì để có được hai thứ Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Thánh Thể Chúa ? 2) Bạn sẽ làm gì để giúp những người đói nghèo bệnh tật hay đang đi tìm Chúa nhận được niểm vui ơn cứu độ của Chúa ?
*5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊSU. Những lúc con được no đủ, xin hãy gửi đến cho con một người nghèo đói cần được chia sẻ cơm ăn áo mặc. Khi con đang vùi mình trong chăn ấm nệm êm, xin hãy gửi đến cho con một ngừơi cóng lạnh giữa giá rét đang cần được sưởi ấm. Khi con sống trong an bình, xin hãy dạy con ý thức rằng còn nhiều người đang cần sự trợ giúp quảng đại của con. Khi thập giá đời con giảm nhẹ bớt, xin hãy giúp con sẵn lòng ghé vai vác đỡ gánh nặng cho người anh em. Khi con làm ăn thất bại, xin giúp con khôn ngoan vượt qua để cảm thông với những người đồng cảnh ngộ. Khi con có nhiều thời giờ nhàn rỗi, xin hãy gửi đến cho con một ngừơi khuyết tật để con ân cần phục vụ. Khi con được may mắn thành công, xin hãy gởi đến cho con một người bị thất bại để con động viên khích lệ. Khi con ích kỷ chỉ biết nghĩ đến bản thân, xin dạy con quên mình nghĩ đến tha nhân và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa.- AMEN.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
BÀI DẠY BẰNG THỰC HÀNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày đại dịch covid-19 hoành hành Sài gòn, tôi thường xem trang facebook của linh mục Giuse Lê Quốc Thăng và cảm phục về những việc làm bác ái của ngài. Đọc những comment thật cảm động: “Hình ảnh của một vị Linh mục thức dậy từ 4h sáng, sau khi kinh nguyện & lễ lạc xong là vùi đầu vào phân phối thực phẩm cho các bếp ăn từ thiện, các khu cách ly, điều phối xe, tìm nguồn thực phẩm đủ kiểu để có thể đáp ứng nhanh nhất cho tất cả những lời xin trợ giúp. Và thức đến tận 2h sáng để nhận những chuyến hàng đêm từ khắp các tỉnh gởi về ”…
Ngài viết sáng nay, 20.7: “Tiếp nhận, phân phối xe cá 1,6 tấn xong là 9 giờ tối anh em và vội chén cơm, tranh thủ nghỉ ngơi đôi chút gần 1 giờ sáng đón chuyến xe rau hơn 5 tấn của Giáo xứ Phái Xuân và Ban Caritas Giáo Xứ Chính Toà Giáo phận Ban Mê Thuột chia sẻ cùng Sài Gòn Thân yêu.
Qua trung gian cha Chánh xứ, bà con Giáo xứ Phái Xuân và ban Caritas Giáo xứ Chính toà đã cùng chung tay chia sẻ yêu thương với Sài Gòn bằng một chuyển xe rau sạch ngon.
Nào là củ cải trắng tinh thơm nồng tình nghĩa
Nào là bắp cải cuốn chặt vòng tay yêu thương
Nào là cải thảo thơm thảo nghĩa đồng bào.
Nào là bí đỏ thắm tươi tình bác ái trong Đức Kitô
Nào là bí xanh khơi niềm hy vọng vượt qua đại dịch.
Đón nhận quà từ cá tới rau qua trung gian các linh mục anh em sao thật ấm áp. Nhận sự sẻ chia của mọi người trên mọi miền Tổ quốc rưng rưng giọt nước mắt xúc động.
Tất cả là Hồng ân.
Xin chân thành cảm ơn cha Chánh xứ Phái Xuân và bà con Giáo xứ cùng Ban Caritas Giáo xứ Chính Toà Giáo Phận Ban Mê Thuột rất nhiều. Xin Chúa chúc lành quí cha, giáo xứ cùng tất cả mọi người”.
Một mục tử tận tâm, tận lực giúp đỡ lương thực, cho bà con nhiều nơi trong thành phố, một linh mục luôn nâng đỡ tinh thần giáo dân. Một mục tử nặng mùi chiên.
***
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể về phép lạ về bánh và cá hoá ra nhiều. Phép lạ này được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (Mt 15,32-38;Mc 8,1-10).
Phép lạ hoá bánh và cá là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẻ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, giúp phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại.
Trong “Phép lạ hóa bánh ra nhiều”, Chúa không làm một mình và làm từ bàn tay không. Không làm một mình mà như dò ý môn đệ, chẳng phải vì quyền năng giới hạn mà chỉ vì Người muốn có sự cộng tác nào đó cho phép lạ trở nên hiện thực. Không làm từ bàn tay không mà cần có năm cái bánh, Chúa trân trọng sự đóng góp của con người, dẫu sự đóng góp ấy rất nhỏ. Năm cái bánh cho năm ngàn người. Tỉ lệ một phần ngàn có nghĩa lý gì. Muối bỏ bể! Thế nhưng trong mắt nhìn của Thiên Chúa, đó lại là cả một thiện chí hùn hạp làm ăn sinh lời đến chóng mặt.
Phép lạ hoá bánh ra nhiều là do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một núi thức ăn để người ta tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ.Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, trao đi thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.
Đức Bênêđitô XVI đã nói: phép lạ này không được làm từ không có gì, nhưng từ những gì bạn có, dù nhỏ bé, mang đặt trong bàn tay của Chúa. Chúa không đòi hỏi chúng ta những gì chúng ta không có. Chúa cho chúng ta hiểu rằng, nếu mỗi người đặt vào tay Ngài những tấm bánh, những con cá bé nhỏ, Chúa sẽ làm cho phép lạ được tiếp diễn hôm nay, bởi Ngài có quyền năng làm cho những cử chỉ yêu thương khiêm tốn của chúng ta trở thành quà tặng lớn lao cho anh chị em chúng ta.
Chúa cần sự cộng tác của chúng ta, cho dù sự cộng tác ấy rất nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé nên lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại nhờ vào tình thương của Người. Như Chúa Giêsu đã yêu thương quan tâm chăm lo đến mọi nhu cầu từ vật chất đến tinh thần cho dân chúng thì Kitô hữu, các môn đệ của Người cũng phải biết yêu thương chăm lo cho tha nhân như vậy.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả, người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.
Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm thành Tabgha, nơi Chúa đã làm phép lạ biến 5 cái bánh và 2 con cá hóa nhiều nuôi hơn 5.000 người ăn no nê. Khi chiêm ngắm bàn thờ và cung thánh trong ngôi Nhà thờ ấy, tôi thấy trên nền Nhà thờ phía trước Bàn thờ có khắc hình một chiếc giỏ đựng 2 con cá và 4 cái bánh. Tại sao lại là 4 chứ không phải là 5 cái bánh như Phúc âm kể? Đây là một sự thiếu sót có chủ ý của nghệ nhân làm nên bức hình đó. Vì cái bánh thứ năm không nằm trong giỏ nhưng nằm trên bàn thờ, đó chính là Mình Thánh Chúa mỗi khi dâng thánh lễ trên bàn thờ này.
Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14, 20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng” (Mc 14, 22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (x. Lc 24, 30) và của Giáo hội (x. Cv 2, 42).
Được bánh ăn, dân chúng muốn “bắt lấy Ngài tôn lên làm vua” (Ga 6, 15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống, chính là “Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá luôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu. Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người.
Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh, chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui, ta uống chén rươụ mừng, nhưng khi buồn, ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu, là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của mình.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta.
Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết cộng tác với nhau, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN–B
XÂY DỰNG PHÚC LỢI CỘNG ĐỒNG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chủ nghĩa Makeno (có nghĩa là mặc-kệ-nó, một cách nói khôi hài chỉ thái độ vô cảm, thờ ơ trước những đau thương khốn khổ của người khác, không quan tâm đến lợi ích chung) là một thói xấu tai hại đang lan rộng trên quê hương đất nước chúng ta.
Vì tiêm nhiễm thói vô cảm cùng với tham lam, người sản xuất thực phẩm độc hại chỉ cần biết thu lãi thật nhiều cho mình mà không thiết gì đến sức khoẻ người tiêu dùng.
Vì tiêm nhiễm thói vô cảm cùng tham lam, nhiều người sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng hoặc độc hại để hốt tiền, bất chấp sinh mạng và sự thiệt hại lớn lao của người khác.
Thấy xe chở bia gặp nạn thì nhiều người ào ào xông tới hôi của, thấy người đi đường lâm nạn thì nhào tới móc tiền, bất chấp nỗi mất mát đau thương của người khác.
Nhiều hình thức gian manh lừa đảo không chỉ xảy ra ở chốn giang hồ, chợ búa mà ngay cả trong những bệnh viện danh tiếng (như vụ nhân bản kết quả xét nghiệm, đánh tráo thuỷ tinh thể ở bệnh viện mắt…)
Gặp nạn nhân nghèo không có tiền ứng trước thì ngay cả một số “lương y như từ mẫu” cũng làm lơ, để nạn nhân chết thảm…
Tất cả cũng chỉ vì vô cảm cùng với hám lợi mà ra.
Thói vô cảm cực kỳ tai hại vì nó hủy diệt tình nghĩa đồng bào, phá vỡ nền móng đạo đức, làm đất nước suy yếu, gây thiệt thòi, mất mát đau thương cho nhiều người… Thói xấu tai hại nầy hoàn toàn trái ngược với chủ trương sống yêu thương phục vụ của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su hiến thân xây dựng phúc lợi cộng đồng
Mang lại phúc lợi cho cộng đồng nhân loại là ưu tiên hàng đầu của Chúa Giê-su. Vì thế, Ngài đã hạ mình xuống thế để phục vụ nhân loại và hiến ban cả mạng sống để cứu rỗi muôn người.
Trong ba năm bôn ba rao giảng Nước Trời, Chúa Giê-su luôn sống vì mọi người: “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kể điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Lc 7, 22).
Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng đặc biệt quan tâm đến hạnh phúc người khác. Ngài không dừng lại ở việc rao giảng Tin Mừng mà còn chăm lo cho cả cái bao tử trống không của họ nữa.
Chúa Giê-su mời gọi chúng ta quan tâm giúp ích cho người khác
Xây dựng phúc lợi cộng đồng là sự nghiệp chung của mọi người, thế nên Chúa Giê-su không thực hiện một mình mà còn kêu mời các môn đệ cùng tham gia vào việc nuôi ăn đoàn dân đông đảo đang theo Ngài ngày hôm ấy.
Trước hết Chúa hỏi Phi-líp-phê, để mời gọi ông cùng chung lo với Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”
Bấy giờ môn đệ thứ hai là An-rê tham gia: “Thưa Thầy, ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu! “
Thế là em bé nầy được đưa đến với Chúa Giê-su. Ngài đã thuyết phục em chịu hy sinh phần ăn quý hóa của mình cho tập thể. Thế là ngay cả trẻ con cũng được Chúa Giê-su mời gọi góp phần cho phúc lợi của cộng đồng.
Khi bụng đói cồn cào thì chẳng có gì cần hơn cơm bánh. Vậy mà em bé nầy đã quảng đại trao năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ vào tay Chúa Giê-su.
Nhờ có sự tham gia của các môn đệ và đứa bé, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy.”
Thế là phép lạ xảy ra: bánh và cá liên tiếp được trao tay từ người nầy qua người khác, mọi người được ăn no nê, “ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.”
Xây dựng xã hội lành mạnh và phát triển là điều kiện tiên quyết để mỗi người được hạnh phúc
Số phận của mỗi tế bào trong cơ thể tùy thuộc vào số phận của toàn thân. Khi thân thể lâm trọng bệnh thì các tế bào cũng bị ảnh hưởng nặng nề và khi thân thể chết đi thì các tế bào không thể nào tồn tại. Trái lại, khi toàn thân khỏe mạnh an lành, thì mỗi một tế bào trong cơ thể cũng được hưởng nhờ. Vì thế, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh, phát triển, hòa bình là điều kiện cần thiết để từng cá nhân trong xã hội được an bình hạnh phúc.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đến trần gian hiến trọn đời mình để mưu cầu lợi ích cho toàn thể nhân loại. Chúa không chỉ cứu rỗi linh hồn con người mà thôi, nhưng còn nỗ lực xây dựng một thế giới lành mạnh, hạnh phúc ngay trên mặt đất bằng cách cổ võ mọi người dấn thân phục vụ, yêu thương.
Xin dạy chúng con xa lánh chủ nghĩa “Makeno” đang dần dần tàn phá xã hội; trái lại, biết noi gương Chúa, học với Chúa để trở nên người hiến thân đem lại phúc lợi cho anh chị em chung quanh mình.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
CƠM BÁNH HÀNG NGÀY- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Cơm bánh ai cũng cần mỗi ngày để sống. Lời Chúa cho thấy tiên tri Elisha cho dân bánh ăn, nhưng lần tới cội nguồn thì chính Thiên Chúa mới là Đấng cho dân bánh ăn. Thiên Chúa nuôi nấng và dưỡng dục dân Người. Thiên Chúa cũng mời gọi mỗi người hãy giúp người khác sống.
*1. Tiên tri cho dân ăn theo lệnh của Đức Chúa
Để có một chén cơm miếng bánh, con người đã phải tốn bao công lao. Từ mảnh đất khô cằn, con người đã phải cày xới, gieo hạt, vun trồng; một khi hạt lúa chín, con người tốn công lao sức lực để thu lượm, làm ra hạt, phơi nắng để có hạt lúa đạt yêu cầu. Để đến được với người dùng, bao người đã phải làm công tác chuyên chở; và rồi nhờ người nghiền bột hay nấu cơm, với bao tâm sức và tình yêu, mới có miếng cơm tấm bánh cho con người ăn và bồi bổ sức lực. Với bao công sức và tình yêu của tha nhân, tôi mới có cơm bánh để sống mỗi ngày.
Tiên tri Elisha cho dân ăn bánh theo lệnh của Đức Chúa, tuy chỉ có hai mươi ổ bánh nhưng cả trăm người ăn mà còn dư. Đây là dấu lạ tiên tri Elisha đã làm. Lịch sử dân Do Thái cho thấy, ngay thời dân ra khỏi Aicập, khi họ lang thang trong hoang địa không nước uống không bánh ăn, Thiên Chúa cũng đã ban Manna để nuôi sống dân. Đức Giêsu trong một lần đối đáp với người Do Thái, đã nói: không phải Môsê ban bánh bởi trời nhưng chính Cha Ta ở trên trời đã ban bánh nuôi cha ông các ngươi (Ga.6, 32).
“Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề khó nhọc cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không gìn giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv.127, 1). Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho cây hạt nẩy mầm, đơm bông kết trái. Con cái được cha mẹ thương yêu, được nuôi nấng giáo dục; nhưng truy tới ngọn nguồn, chính Thiên Chúa là cha là mẹ, chính Thiên Chúa là Đấng yêu thương và nuôi dưỡng con người qua cha mẹ mỗi người.
*2. Đức Giêsu là bánh nuôi sống con người
Đức Giêsu cũng hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn. Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều vì Ngài thương cảm dân chúng đói khát. Khi dân chúng nhận ra Ngài là một tiên tri và muốn tôn Ngài làm vua, Ngài đã trốn lên núi một mình cầu nguyện. Chính vì thương dân chúng, nên Ngài đã cho dân ăn. Đức Giêsu chỉ hóa bánh ra nhiều cho một số rất ít người ăn; và đây là dấu chỉ cho điều gì tuyệt vời hơn Ngài sẽ làm sau này.
Đức Giêsu không chỉ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, nhưng Ngài đã ban chính thân mình Ngài làm của ăn của uống nuôi sống con người. Đức Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra cho con người, để con người được sống. Bàn tiệc Mình Máu Thánh Đức Giêsu Kitô quy tụ Kitô hữu, nuôi sống đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu, và cùng trong bàn tiệc Thánh Thể dân Chúa được Lời Chúa dạy dỗ mỗi ngày.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa thành người. Chính vì yêu con người mà Lời Thiên Chúa đã thành người. Ngài thành người để nên mẫu gương sống cho mọi con người. Ngài vẫn luôn kết hiệp với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Ngài cũng phải đói phải khát, Ngài cũng sống những nặng nề của thân xác con người. Ngài là một người trọn vẹn như bao người trên trần gian này, như mỗi người chúng ta. Ai cảm thấy gì, Ngài cũng cảm thấy như vậy. Ngài chỉ khác hầu hết người ta trong việc sử dụng tự do: không bao giờ Ngài phạm tội. Không bao giờ Ngài làm điều gì mà Ngài thấy không được phép làm. Hơn nữa, Ngài sẵn sàng hủy bỏ chính mình, để ích lợi cho con người, những người mà Ngài chấp nhận như anh em mình.
*3. Mỗi người được mời gọi để trở nên tấm bánh giúp tha nhân sống
Một người đói khi được cho ăn “nhưng không” sẽ dễ dàng cảm nhận tình yêu được trao ban qua miếng cơm tấm bánh hơn một người sung túc đầy đủ cơm bánh hằng ngày. Một người nghèo đói mà có cơm bánh, sẽ dễ dàng rung động và hạnh phúc trước tình yêu của Thiên Chúa và ân nhân hơn là những người giầu có sung túc. Dưới khía cạnh này, nghèo là một mối phúc vì nó giúp con người cảm nhận tình yêu và hạnh phúc.
Mỗi người được mời gọi để trở thành tấm bánh cho người khác, để giúp người khác sống và sống triển nở hạnh phúc. Để có thể trở thành tấm bánh giúp nuôi sống người khác, mỗi người cũng phải hy sinh công sức thời gian như một người làm nông vất vả, như một người nội trợ làm bánh, như một người dọn bàn, như một người phục vụ, để trở thành dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa cho tha nhân.
Mỗi Kitô hữu được gọi để trở nên một Giêsu khác, nên giống thầy Giêsu chí thánh, sống vì mọi người và cho mọi người. Một người làm cha làm mẹ được mời gọi trở nên tấm bánh cho con cái mình; những mục tử được mời gọi trở nên tấm bánh cho đoàn chiên, để đoàn chiên có thể được sống, sống triển nở và hạnh phúc. Mỗi người là con cái Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha mình, và Thiên Chúa mời gọi mỗi người trong cách sống cách cư xử hãy trở nên giống Thiên Chúa, trở nên giống Đức Giêsu. Khi mỗi người nên giống Đức Giêsu, cuộc sống của họ và của những người sống với họ sẽ bình an và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
*1. Một người nói: “Qua miếng cơm tấm bánh con người có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương”. Theo bạn, người nói câu này có là người thực tế không? Tại sao?
*2. Lời mời gọi trở nên tấm bánh cho tha nhân, là gánh nặng hay vinh dự cho bạn? Tại sao?
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
CHÚA GIÊSU CẦM LÁNH BÁNH, TẠ ƠN VÀ PHÂN PHÁT CHO HỌ ĂN NO- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18 tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars. Hai phần ba nhân loại đói khổ vì tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng”. Không phải moi của trời đất, vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho. Phải nói như Kinh Thư của tổ tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói. Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32-33). Họ chẳng khác gì như những tá điền sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33-41). Họ sống trái ngược với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực: “Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút”.
Thời đó hai trăm đồng có thể mua được 4.000 chiếc bánh như ngày nay. Nhưng Thầy và môn đệ lấy đâu ra số tiền lớn đó. Dù có tiền, thì ở nơi đồi núi hoang vu, lấy đâu ra bánh cho họ ăn, vì chỉ kể số đàn ông đã tới năm ngàn.
Anrê còn bồi thêm một câu tuyệt vọng nữa: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá”. Cho thấy đám dân chúng quá nghèo. Họ theo Chúa chỉ có hai bàn tay trắng. Họ lấy đâu ra ăn. Tin mừng nói: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ ăn”. Người đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha. Người biết Chúa Cha giàu lòng thương yêu dân chúng. Người đã cầu xin Chúa Cha nhìn đến nỗi khổ của dân chúng. Nhờ đó, họ muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Họ được ăn no nê thỏa thích, nên ào ào chạy đến tôn vinh Chúa Giêsu làm vua.
Chúa Giêsu lánh mặt, đi lên núi một mình, vì đó là thói tôn vinh thế gian. Trước kia, Người đã thẳng tay đuổi tướng quỷ đem bả vinh hoa cai trị cả thiên hạ ra cám dỗ Người.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho họ ăn, không phải để được tôn vinh, mà để cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa hằng nuôi sống loài người từ khi tạo thành vũ trụ vạn vật, như Thánh vịnh 144, 16: “Chúa thương mở tay ra và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”. Suốt chiều dài lịch sử loài người hoàn toàn sống nhờ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không dựng nên vũ trụ vạn vật, như một kho tàng vô tận, con người phải tự lực cánh sinh thì có lẽ chỉ năm mười phút, cả loài người đều bị tiêu diệt. Thật vậy, những thứ con người cần thiết nhất, cần nhiều nhất, như không khí, nước uống, ánh sáng, nhiệt lượng, môi sinh v.v… thì con người hoàn toàn hưởng không, không phải làm gì. Thiên Chúa chỉ muốn con người cộng tác một chút xíu, như cày cấy, chăm bón, gặt hái, biến chế cho có lương thực ăn uống và đồ dùng tạm bợ. Sự cộng tác đó quá bé nhỏ, như em bé chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá dâng lên Chúa Giêsu để Người làm phép lạ cho hơn chục ngàn người ăn, nếu kể cả nữ giới và thiếu nhi.
Nhưng một chút đóng góp đó thôi cũng đủ cho Thiên Chúa hài lòng để Ngài ban cho những phép lạ vô cùng lớn lao hơn nữa như phép lạ, phép Thánh Thể. Không phải vô tình mà thánh Gioan viết: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua”. Nói đến lễ Vượt qua là nói đến cuộc giải phóng dân Do thái thoát ách nô lệ Ai cập, nói đến cuộc phục sinh cả một dân tộc chết trong nơi lưu đầy, chết trong thờ tà thần. Thánh Gioan nói đến lễ Vượt qua, chính là để cho mọi Kitô hữu nhớ đến Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để sống lại, và tín hữu muốn vượt qua cái chết để sống lại vinh hiển với Đức Giêsu thì phải ăn bánh hằng sống, “chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga. 6, 51).
Lạy Chúa, Chúa không ngừng kêu gọi con như hiền triết Diogène đã khuyên: “Đừng bao giờ sung sướng được làm con heo vỗ béo”. Đừng bao giờ quên rằng Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho họ ăn no nê. Xin cho con biết dâng lên Chúa hằng ngày một chút bánh như em bé có năm chiếc bánh và hai con cá để Chúa làm phép lạ nuôi sống muôn người.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B
BÁNH HÓA NHIỀU- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Ga 6: 1-15: Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, và một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
Nơi đây hoang vắng và đã muộn rồi, xin Thầy giải tán đám đông để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn, đây là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngòai tầm tay của các môn đệ, đây cũng là điều hợp lý. Tất cả đều hợp lý, nhưng lại không được Chúa chấp nhận.
Chúa muốn các môn đệ phải nhận lấy trách nhiệm. Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Nhưng ở đây chúng con vỏn vẹn chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Vậy thì đem lại đây cho Thầy. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải đóng góp phần của mình. Có ít đóng góp ít, điều quan trọng là phải bắt đầu…và một phép lạ đã xảy ra.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải xác nhận rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm một phép lạ.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Trên vạn nẻo đường Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm và gặp gỡ những con người ấy. Chỉ cần một chút quảng đại, và một chút đóng góp của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện một phép lạ.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng sự đóng góp có thể là thời gian, sức khỏe, tiền bạc cho tha nhân, cho những người cần đến chúng ta.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là bớt đi một chút nóng giận, một chút ghen tương , một chút hận thù.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút khiêm nhường, bớt đi những kiêu căng, tự mãn, những phách lối trong cuộc sống gia đình và xã hội.
– Sự đóng góp ở đây, không phải lúc nào cũng là 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng có thể là một chút kiên nhẫn, biết chờ đợi giờ của Chúa.
Một điều chắc chắn là ai trong chúng ta cũng mong muốn những phép lạ, bởi vì phép lạ luôn làm chúng ta ngạc nhiên, phép lạ luôn làm chúng ta phấn khởi, phép lạ luôn mang lại cho chúng ta những niềm vui.
Vậy tại sao chúng ta không chuẩn bị để mỗi ngày phép lạ đến với gia đình chúng ta?
Chắc chắn những phép lạ liên tục sẽ xảy ra trong gia đình chúng ta, trong xứ đạo chúng ta và trên quê hương chúng ta. Nếu trong gia đình, người cha biết đóng góp của mình. Nếu trong gia đình, người mẹ biết đóng góp phần của mình. Nếu trong gia đình, người con biết đóng góp phần của mình. Đó là những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ với năm chiếc bánh và hai con cá Chúa đã cho năm ngàn người ăn no.
Có câu chuyện kể rằng:
Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối. Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người. Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc trở về đô thị, Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông.
Vị sứ thần đã nói với ông như sau:”Ngươi đang toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu hơn chính cuộc sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi hãy ở lại đây và xin Chúa cho ngươi thêm lòng khiêm nhường…”
Được lời của sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông với niềm tin vững vàng rằng mỗi một giây phút qua đi trong cuộc sống là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông, để rồi qua ông Thiên Chúa thực hiện những phép lạ cho những người khác. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxviithuongnienb #suyniemloichuachuanhatgpbr