CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CÁC CON KHÔNG CÓ LÒNG TIN SAO (*)- Chú giải của Noel Quession 6
CHÚA GIÊSU DẸP YÊN SÓNG GIÓ- Chú giải của Fiches Dominicales 13
QUYỀN CHỦ TỂ CỦA THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 22
CHÚA TỂ CỦA THIÊN NHIÊN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 42
BÃO TỐ DẸP YÊN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 68
THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 71
ĐỨC GIÊSU BIỂU LỘ QUYỀN NĂNG THẦN LINH- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 75
CÓ CHÚA Ở CÙNG– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 80
QUYỀN UY TRÊN THIÊN NHIÊN- Lm. Đan Vinh HHTM.. 84
SÓNG GIÓ CUỘC ĐỜI- Lm. Anphong Trần Đức Phương.. 96
NGƯỜI DỰA VÀO CHIẾC GỐI MÀ NGỦ- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 100
BIỂN ĐỜI VÀ BIỂN KHƠI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.. 105
BÃO BIỂN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 109
“LÀM SAO MÀ ANH EM VẪN CHƯA CÓ LÒNG TIN”- Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Thế 113
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Sóng cồn của ngươi phải dừng lại đây”.
Trích sách Gióp.
Bấy giờ từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời Gióp rằng: “Khi nước chảy mạnh vỡ bờ như sinh ra bởi lòng mẹ, ai đã lấy cửa mà ngăn lại, lúc Ta lấy mây làm áo che nó, và lấy u tối che phủ nó như khăn bọc con trẻ? Ta đã vạch biên giới chung quanh nó, đã đặt khung cửa và then chốt mà phán rằng: “Ngươi chảy đến đây mà thôi, không được chảy xa nữa và vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 106, 23-24. 25-26. 28-29. 30-31
Ðáp: Hãy tán tạ Chúa, bởi đức từ bi Người còn muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Những người xuống tàu vượt biển ra khơi, làm nghề thương mại trên nơi nước cả, họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa, và những việc huyền diệu của Người ở chỗ thâm uyên.
Xướng: Chúa lên tiếng, và Người đã khiến phong ba nổi dậy, Người đã khiến cho sóng biển dâng cao. Những người đó lên tới trời xanh, xuống lòng biển thẳm, tâm hồn họ bủn rủn trong cảnh gian nguy.
Xướng: Họ đã kêu cầu Chúa trong cơn khốn khó, và Người đã giải thoát họ khỏi chỗ lo âu. Người biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, và bao làn sóng biển đều im lặng.
Xướng: Họ mừng vui vì thấy sóng biển yên, và Chúa đã đưa họ cập bến ước mong. Những người đó hãy cảm ơn Chúa vì lòng nhân hậu, và những điều kỳ diệu của Người đối với con người ta!
Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 14-17
“Ðây mọi cái mới đã được tạo dựng”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lòng mến của Ðức Kitô thúc bách chúng ta; chúng ta xác tín điều này là một người đã chết vì mọi người, vậy mọi người đều đã chết. Và Ðức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, thì không còn sống cho chính mình nữa, mà là sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì họ.
Vì thế, từ nay chúng ta không còn biết ai theo xác thịt nữa. Mặc dù nếu chúng ta đã biết Ðức Kitô theo xác thịt, thì giờ đây chúng ta không còn biết như thế nữa. Vậy nếu ai đã trở nên một tạo vật mới trong Ðức Kitô, thì những gì cũ đã qua rồi, vì đây mọi sự đều được trở nên mới.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! – Ngôi Lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 35-40
“Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ”. Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người. Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: “Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?” Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: “Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?” Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
CÁC CON KHÔNG CÓ LÒNG TIN SAO (*)- Chú giải của Noel Quession
Giáo huấn bằng dụ ngôn của Đức Giêsu đã nói lên sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại người: Đối với những “người ở ngoài”, thì tất cả đều bí hiểm. Còn đối với các “môn đệ”, thì mọi sự đều sáng tỏ trong các mạc khải về mầu nhiệm mà “vị Thầy “ đã thông tỏ riêng cho họ. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, tiếp theo một chuỗi những dụ ngôn là bốn phép lạ. Những phép lạ này có đặc tính rõ ràng: Không được thực hiện trước công chúng, nhưng chỉ “trước mặt các môn đệ” . Phải chăng những phép lạ này là những dụ ngôn bằng hành động, phải được hiểu trên bình diện biểu tượng cũng như bình diện thực tế? Các tông đồ giữa cơn bão tố được kể lại hôm nay, gọi Đức Giêsu là “Thầy” (tiếng Hy Lạp là didaskalos có nghĩa là “Thầy dạy dỗ”), việc này phải chăng có một giá trị mạc khải lớn? Vậy chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Người trong biến cố này. Đọc một biến cố để nêu ý nghĩa thần học, không làm cho biến cố đó mất tính cách lịch sử, nhưng mang lại cho nó chiều kích sâu xa hơn.
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi?”. Vì Người đang ở trên thuyền, các ông cứ thế chở Người đi bỏ dân chúng ở lại; có những thuyền khác cùng theo Người”.
Trên bình diện thực tế lịch sử, tôi tưởng tượng một buổi chiều hè đẹp trời, Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon Phêrô và từ từ rời xa bờ biển Ca-phác-na-um. Sau một ngày nóng bức, bây giờ là buổi chiều tà mát mẻ. Sau khi đã tiếp xúc với đám đông ồn ào, bây giờ là lúc thân mật ân tình với nhóm bạn hữu trên biển. Chính Đức Giêsu đã có sáng kiến tạo ra những giây phút yên tĩnh này:
“Chúng ta hãy qua bờ bên kia”. Gió tốt, cánh buồm căng phồng đang nhẹ rung – Người ta chỉ nghe tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn thuyền đang rẽ sóng và tiếng kêu của một vài con chim biển. Sau một ngày giảng dạy bằng dụ ngôn, Đức Giêsu mệt mỏi thiếp ngủ nơi cuối thuyền. Bên cạnh Người là Phêrô đang cầm bánh lái. Nhưng nếu chỉ dừng ở những trang này thì thật đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng, đều được khoa Giáo lý ban đầu chú giải. Do đó chúng ta cũng phải đọc và hiểu theo nghĩa tượng trưng, như những chú giải của các Giáo phụ minh chứng.
“Ngày hôm đó”: Đây không phải là một kiểu nói thông thường, có nghĩa là: Ngày giảng dạy bằng dụ ngôn đã chấm dứt. Đối với Thánh Maccô “sự trình bày cán sự kiện nối tiếp nhau là một cấu trúc thần học hơn là một phóng sự “Ngày hôm đó” sẽ không phải một ngày thường. Phêrô sẽ nhớ ngày đó suốt đời. Vì ông gợi nhớ những hình ảnh Thánh kinh: “Ngày hiển hách của “Giavê”, “Ngày Thiên Chúa quyền năng can thiệp mạnh mẽ”, ngày đó có những tai họa cánh chung đi trước (Ga 2,3).
“Chiều tối đến”: Không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn “giờ của bóng tối”, giờ thử thách (Mc 14,17; Ga 9,4-13.30).
“Bờ bên kia”: Không chỉ là bờ hồ đối diện mà còn là bước đi vĩ đại sang bên kia thế giới. Đó là số kiếp của mỗi người vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Đó là ngày trọng đại Ngày của Thiên Chúa”… Tất cả những ngày khác đều phải chuẩn bị cho ngày đó.
Bỗng nổi lên một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Bão tố thực sự. Ngày nay hồ Tibêria vẫn nổi tiếng về những cơn bão bất ngờ và mãnh liệt từ đồi Gôlăng thổi xuống. Hơn ai hết, vì nghề nghiệp Phêrô đã biết rõ điều này. Những cơn gió thổi mạnh đập vào cánh buồm và làm nghiêng ngả chiếc tàu thật nguy hiểm. Nhưng không cần phải đi biển mới bị những cơn bão tố như thế. Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều dùng chữ bão tố để ám chỉ “một cơn thử thách bất ngờ đổ xuống trên con người”. Trong Thánh Kinh, đề tài bão tố thường được dùng để nói về sức mạnh của sự dữ. Công cuộc tạo dựng ta được hiểu như sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cảnh hỗn loạn của biển khơi nổi dậy (St 1,2). Theo khoa huyền thoại xưa của Do Thái. Biển cả là “vực thẳm vĩ đại”, nơi những con rồng, những thủy quái, Lêviathan, biểu tượng của Satan, thống trị (Is 27,1; Tv 74,13; G 9,13; Đn 7; Kh 12,13).
Trong khi đó, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đang ngủ, đôi mắt nhắm, hơi thở đều đặn, vẻ bình thản, ở đằng lái thuyền, trong cớn bão tố. Chi tiết này gợi cho tôi tâm tình cầu nguyện nào? Lạy Chúa, Chúa đưa chúng con đi đến đâu? Chúa làm cho chúng con bối rối biết bao? Trong Thánh kinh, có một người khác cùng ngủ trong cơn bão táp, đó là Giona. Người ta phải đến đánh thức ông dậy (Gn 1,3-16). Có phải tình cờ, mà Đức Giêsu nói về “dấu lạ của Gio-na” như một dấu hiệu duy nhất để diễn tả về: Cái chết và sự Phục sinh của Người? (Mt 12,39-40; Lc 11,29-30; Mc 8,12-13). Vả lại các tác giả Kinh thánh thường nói về “cái chết” bằng từ “giấc ngủ” (Tv 13,4; Đn 12,2; Ep 5,14; Ga 11,11; Mc 5,39-41). Hình ảnh này cũng dùng để diễn tả sự “lãnh đạm của Chúa”, sự “vắng mặt của Chúa”: Lạy Chúa, xin Chúa chỗi dậy đi, tại sao Chúa lại ngủ? Chúa hãy thức dậy đi (Tv 44,24; 45,23; 59,6; 78,65; Is 51,9-10). Vâng, đúng vậy trong những cơn bão tố cuộc đời chúng con, dường như Chúa vẫn ngủ. Lạy Chúa, không phải chỉ có con người hiện đại nghĩ ra đề tài “cái chết của Thiên Chúa”, nhưng đó là tình cảm tự nhiên của thân phận con người, khi thấy mình bất lực, bị đe dọa trước một Thiên Chúa không can thiệp để cho lực lượng của thần chết hành động, một Thiên Chúa dường như đang ngủ.
Các môn đệ đánh thức Người dậy, và nói: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Đây là một lời cầu tuyệt diệu, đáng cho chúng ta bắt chước, trước những bão tố cuộc đời.
Người thức dậy, ngăn đe gió, và truyền cho biển: “Im đi? Câm đi?” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
Ở đây chữ được dịch là “thức dậy”, “diégertheis” cũng chính là chữ được dùng để nói “được sống lại, Phục sinh” (Mc 5,41- 16,6.14).
Qua tình tiết có thực mà Maccô kể lại (đó là bài giảng của Phêrô), chúng ta có lý do chính đáng để nhận ra cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một cơn bão dữ dội: Nó làm lắc lư con thuyền nhỏ bé của cộng đoàn tông đồ, vào lúc Đức Giêsu đã ngủ yên trong cái chết của Người. Nhưng đối đầu với lực lượng thần chết được tượng trưng là “biển cả” Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta gặp lại kiểu nói của người Do Thái về biển cả, hình ảnh những lực lượng thù địch với con người, vì ở đây, Maccô dùng chính những từ như khi Đức Giêsu “hăm dọa” quỷ dữ để “bắt chúng im lặng” (Mc 1,25; 9,25).
Đức Giêsu nói với họ: “Tại sao lại sợ? Tại sao các người không có đức tin?”
Câu nói rất nghiêm khắc: “Các anh không có đức tin”, “các anh đã mất lòng tin”, thực sự đã được áp dụng vào lúc Đức Giêsu chịu khổ nạn, lúc này tất cả các tông đồ chạy trốn, chối bỏ, hoài nghi. Chúng ta sẽ nghe lặp lại ba lần rằng, các tông đồ “đã không tin”: “Chúa trách sự cứng lòng tin của họ, vì. họ đã không tin những người đã thấy Chúa Phục sinh” (Mc 16,11-13).
Những cơn bão tố đời tôi thế nào? Chúa có làm nhẹ bớt những cơn bão đó không?
Nếu đọc Thánh kinh một cách ngây ngô, chúng ta có thể tin điều đó. Sự bình lặng của hồ Tibêria làm chúng ta mơ tưởng một cuộc sống an bình, trong đó Chúa sẽ thường xuyên can thiệp vào những nguyện nhân tự nhiên để tránh cho chúng ta sự thử thách và cái chết.
Nhưng đọc Thánh kinh cách đúng đắn, sẽ dẫn chúng ta đến sự “thanh tẩy đức tin” theo lời mời gọi của Chúa. Chính qua giấc ngủ của sự chết, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi những thế lực của hỏa ngục và sự chết.
Không phải đức tin nào cũng dẹp yên được bão tố, mà chỉ đức tin nới “Đức Kitô tử nạn và Phục sinh” mới có khả năng. Sự cứu độ mà chúng ta tin, không làm cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ gắn liền với bản chất con người cách lạ lùng và đặc biệt.
Sự xác tín vào quyền lực của Chúa đã không ngăn cản Chúa Kitô trải qua, giấc ngủ ở trong hồ. Chính chúng ta cũng phải trả qua thử thách mới đến được “bến bờ bên kia”. Nhưng Đức Giêsu đang ở đó với chúng ta trong những thử thách. Quả thật trang Tin Mừng này có một biểu tượng đáng phục.
Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Đây là lần đầu tiên Thánh Maccô ghi lại câu hỏi này của các môn đệ. Câu hỏi chủ yếu nhắm đến lai lịch sâu xa của vị “Thầy” trẻ trung. Người phải chăng chỉ là một ông “Thầy” (Rabbi) như bao ông thầy khác? Người là ai? Người sẽ đưa họ đến đâu? Một ngày gần đây, Đức Giêsu sẽ hỏi Phêrô: “Đối với anh, Thầy là ai?” (Mc 8,29).
Không người nào có thể tự miễn cho mình khỏi phải đặt câu hỏi đó. Và nếu không trả lời thì đó là chấp nhận rằng, những cơn bão trong cuộc đời sẽ kết thúc bằng một sự chìm đắm vào hư vô. “Nhưng nếu người nào ở trong Đức Giêsu, người đó sẽ là một tạo vật mới” (1Cr 5,7). Đức tin được thanh luyện đưa chúng ta vào cuộc sống mới. Lạy Chúa, Chúa đã nói: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
CHÚA GIÊSU DẸP YÊN SÓNG GIÓ- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1/. Một trình thuật giống kiểu trừ tà
Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng CN.11 TN) để phiêu lưu sang “bờ bên kia”, nơi có đông dân cư’ là người ngoại. Trình thuật Maccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó.
Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum.
Thực vậy, “gió” và “biển” đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: “Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “Thần trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một “thần tríxấu (Satan chăng) đang, tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, “tức là tân công các môn đệ” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại!
Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ.
+ Nơi Mc 1,25: Đức Giêsu đã quát mắng “thần ô uế”. “Câm đi” hãy xuất khỏi người này!”. Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi, câm đi”.
+ Nơi Mc 1,26: thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: ” Gió liền tắt và biển lặng như tờ”.
+ Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: các ông hoảng sợ và nói với nhau. Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”.
Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trữ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người.
Còn về lời bàn tán của các môn đệ “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”, thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả. Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những ‘thế lực ấy’. Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy. Đều là biểu tượng ơn nâng đỡ người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hôi lâm cảnh lênh đênh sóng gió “Jésus, l’histoire vaie”, Centurion, 1994, trang 256-257).
2/. Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh.
Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại.
Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Ga 1,31 Mc 4,35-36).
+ Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại.
+ Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người.
Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội.
Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B).
Tất cả đều “cùng sợ hãi”: các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: “Ông làm nghề gì”? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng? Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: “Thầy ơi chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”.
– Cùng cảnh êm ả trở lại.
+ ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông.
+ Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu.
– Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc:
+ Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa, họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khân hứa”.
+ Nơi Mc 4: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”.
Ở đây “dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu ttượng của sự chết và động từ chỗi dậy” được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh)?.
J.Hervieux đưa ra nhận xét: “Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ – chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp – lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên” (“Evanglle de Marc”, Centurion, trang 75).
Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Maccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa, đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc người: “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập?
Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết đinh đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?” (Sđd)
BÀI ĐỌC THÊM
1/. “Vậy người này là ai”.
“Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao? Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Đức Giêsu biết rõ lòng các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy những lo gì sao? Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. “Vậy người này là ai? Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy”.
2/. “Từ sợ hãi đến tin tưởng”
“Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thử thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của Chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự ác.
Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là Chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình.
Maccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời” rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2).
Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lì và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước. Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vấn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể.
Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai” cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát.
Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: những hết cả rồi, khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? Há các bạn không nhìn thấy trong “cơn gió chướng mạnh” Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất. bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ “cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi” (Bài đọc 2)
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
QUYỀN CHỦ TỂ CỦA THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XII Thường Niên năm B nêu bật quyền chủ tể của Thiên Chúa trên thiên nhiên, nhất là trên phong ba bão tố, biểu tượng các thế lực sự Dữ.
G 38: 1, 8-11
Trong Bài Đọc I, trích từ sách Gióp, Thiên Chúa trả lời những chất vấn của ông Gióp về những khốn khổ mà ông phải chịu bằng cách giúp cho ông hiểu quyền năng của Ngài. Chính Ngài đã dựng nên đại dương, một sức mạnh hung dữ của thiên nhiên, và cũng chỉ mình Ngài mới chế ngự được phong ba bão tố.
2Cr 5: 14-17
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô tiếp tục biện minh sứ vụ tông đồ của mình.
Mc 4: 35-41
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão tố để con thuyền của các môn đệ Ngài đến bến bờ bình an.
BÀI ĐỌC I (G 38: 1, 8-11)
Đoạn trích sách Gióp nầy có thể được xem như dẫn nhập cho câu chuyện Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su dẹp yên trận cuồng phong nổi lên trên biển hồ Ghê-nê-sa-rét: Đức Giê-su sở hữu cùng một quyền năng thần linh như Thiên Chúa. Khi sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã ấn định những giới hạn cho biển cả bằng “lời quyền năng” của Ngài (St 1: 6-10). Không phải Ngôi Lời đã dự phần vào công trình sáng tạo sao?
Theo thể thi ca đối thoại, tác giả sách Gióp phác họa chân dung ông Gióp, một người công chính phải hứng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông than thân trách phận với bốn người bạn thân. Những người bạn nầy một mực trung thành với lời giải thích truyền thống: ác giả ác báo, sự đau khổ của một ai đó cho thấy kẻ ấy đã phạm tội; hay nếu người đó được xem là công chính mà phải chịu đau khổ, chính vì Thiên Chúa muốn ngăn ngừa người ấy khỏi sa vào tính tự cao tự đại.
Lúc đó, Gióp nỗi trận lôi đình; ông kêu gào mình vô tội và xin Thiên Chúa chứng giám sự vô tội của ông. Thiên Chúa trả lời cho ông “giữa cơn bão táp” (38: 1), như khi xưa Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông Mô-sê trên núi Xi-nai. Đây là câu trả lời uy nghi của Đấng sáng tạo vũ trụ. Đức Chúa mô tả công việc của Ngài như nhà kiến trúc tự hào về công trình sáng tạo của mình: Ngài công bố quyền tối thượng của Ngài trên toàn cõi thế, trên đại dương (đây là đoạn trích dẫn hôm nay), trên ánh sáng và bóng tối, trên gió bão và mây trời, trên muôn loài muôn vật…
Đây đích thực là bài thơ ca ngợi công trình sáng tạo. Bài thơ nầy là một trong những lý do khiến nhiều người nghĩ rằng công trình biên soạn sách Gióp được định vị vào thời lưu đày Ba-by-lon.
1/.Khung cảnh lịch sử:
Quả thật, hằng năm, ở Ba-by-lon vào ngày lễ Tân Niên, người ta ngâm thiên hùng ca về cuộc sáng tạo để tôn vinh cuộc chiến thắng khải hoàn của thần Mác-đút trên thủy thần Ti-a-mát. Như để đáp trả sự tán dương của một vị thần dân ngoại và các nghi lễ hằng năm nầy trong bối cảnh đa thần, những người Do thái lưu đày sáng tác những bài thi ca chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ngài là Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, chỉ mình Ngài thật sự sáng tạo vũ trụ và an bài mọi sự. Chuyện tích về công trình sáng tạo trong sáu ngày ở đầu bộ Kinh Thánh làm chứng điều nầy (St 1: 1-2: 4a). Đoạn trích sách Gióp từ chương 38 nầy cũng làm chứng như vậy, trong đó những ám chỉ bản văn Ba-by-lon thật rõ ràng.
Bài thơ Ba-by-lon kể như thế nầy: sau khi đã chiến thắng thủy thần Ti-a-mát, hiện thân của vị thần vực thẳm nước nguyên thủy, thần Mác-đút liền phân đôi tử thi của ác thần nầy. Với phân nữa tử thi nầy, thần Mác-đút bao phủ bầu trời… Thần đóng cửa vực thẳm và đặt ngay tại chỗ những người canh cửa, rồi thần truyền lệnh cho họ không được để nước phun trào ra ngoài. Những cách diễn tả tương tự với những hình tượng của bản văn Ba-by-lon được gặp lại trong vài Thánh Vịnh, như Tv 89: 10-11:
“Chính Ngài (Đức Chúa) chế ngự trùng dương ngạo nghễ,
dẹp yên bao sóng cả sóng cồn.
Chính Ngài giày xéo thủy thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
tay mạnh mẽ đập tan quân thù”.
Hay Thánh Vịnh 74: 12-13:
“Thế mà lạy Chúa, Vua chúng con từ muôn thuở,
Đấng từng chiến thắng trên mặt địa cầu,
chính Ngài đã ra oai sẻ đôi lòng biển, trên làn nước biếc,
Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng”.
2/.Quyền năng của Thiên Chúa:
Trong sách Gióp, việc Thiên Chúa nhắc nhớ quyền năng của Ngài trên đại dương được diễn tả bằng những từ ngữ cao vời:
“Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
khi Ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tả che thân?
Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
rồi Ta phán: ‘Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (38: 8-11).
Tác giả hướng phần cuối tác phẩm mình về mầu nhiệm Thiên Chúa. Đức Chúa dạy cho ông Gióp một bài học: ai có thể tự cho mình vô tội? Ai có thể khoác lác khi đòi chất vấn Thiên Chúa và tính sổ với Ngài? Thiên Chúa không phải phân minh với bất cứ ai; Ngài siêu vượt trên muôn loài muôn vật.
BÀI ĐỌC II ( 2Cr 5: 14-17)
Trong đoạn trích thư nầy, thánh Phao-lô tiếp tục biện minh sứ vụ tông đồ của mình. Sau khi đã nêu lên những gian truân và những niềm hy vọng của sứ vụ tông đồ, thánh Phao-lô vén mở cho thấy ngọn lửa nào đã hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân, đó chính là “tình yêu Đức Ki tô”.
Kiểu nói: “Tình yêu Đức Ki tô”, vừa diễn tả tình yêu của thánh Phao-lô đối với Đức Ki-tô, vừa diễn tả tình yêu của Đức Ki-tô đối với nhân loại. Chính nghĩa thứ hai nầy: tình yêu Đức Ki tô đối với nhân loại đã nung nấu lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân.
1/. “Nếu một người đã chết thay cho mọi người”:
Khi nghĩ đến hy tế của Đức Ki-tô đã đem lại ơn cứu độ cho muôn người, thánh Phao-lô đã xúc động một cách sâu xa. Niềm cảm mến nầy dâng lên từ cuộc tử nạn của Đức Ki-tô. Cuộc tử nạn của Ngài không thể nào khơi dậy những hình ảnh hung bạo được. Sự kiện các sách Tin Mừng mô tả chừng mực cuộc tử nạn của Chúa Giê-su đã duy trì tính khách quan của các bài trình thuật đầy cảm xúc bao nhiêu, thì các bức thư với cung giọng cá nhân, như những bức thư của thánh Phao-lô, đã khơi dậy biết bao tâm tư tình cảm dạt dào bấy nhiêu.
Tuy nhiên, tâm tư tình cảm của thánh Phao-lô sống động một cách đặc biệt khi thánh nhân gợi lên sự liên đới của Đức Giê-su đau khổ với nhân loại tội lỗi. Ơn cứu độ không được đem đến cho một mình dân Ít-ra-en, nhưng cho toàn thể nhân loại. Tâm hồn Do thái của thánh Phao-lô xúc động sâu xa về điều nầy. Thánh nhân sẽ khai triển sâu xa khía cạnh đạo lý về mặc khải nầy trong thư gởi tín hữu Rô-ma.
2/. “Mọi người đều chết”:
Tư tưởng rất ngắn gọn; từ ngữ rất giản dị chắc chắn âm vang giáo huấn của thánh Phao-lô. Để hiểu đoạn trích nầy, tốt nhất nên quy chiếu đến chương 6 thư gởi tín hữu Rô-ma. “Mọi người đều chết”, nghĩa là, chết đối với tội lỗi. Chính “con người xưa cũ” của chúng ta đã bị đóng đinh với Đức Ki-tô. Chính vì chết đối với tội mà việc dìm mình vào trong nước thánh tẩy là dấu chỉ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6: 8) và “Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6: 10).
3/.“Để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”:
Đây là suy tư khái quát, nhưng đặc biệt nhắm đến các Ki-tô hữu Cô-rin-tô và những chia rẽ giữa họ, vì thánh nhân đặt trọng tâm phần trình bày nầy chung quanh khía cạnh sứ vụ hòa giải. Sống trong Đức Ki-tô, chính là không còn nhìn tha nhân “theo quan điểm của loài người”, nhưng “theo quan điểm của Thiên Chúa”.
4/.“Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa”:
Khi phát biểu: “Chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người”, phải chăng thánh Phao-lô muốn nói rằng trước kia thánh nhân đã biết Đức Giê-su trần thế, hay ít ra đã thấy Ngài và đã nghe Ngài nói; tuy nhiên, vào lúc đó, thánh nhân đã thuộc về số người không tin vào sứ điệp của Đức? Hay đúng hơn phải chăng thánh Phao-lô muốn ám chỉ đến thời thánh nhân đã là kẻ bách hại, thời thánh nhân đã khảo sát Đức Ki-tô “theo quan điểm loài người”?
Để có thể nắm bắt tư tưởng của thánh nhân ở đây, chúng ta phải đọc đoạn văn này trong quan điểm bút chiến, đó có thể là chìa khóa của bản văn nầy. Thánh Phao-lô đã viết không bao lâu sau cái chết của Đức Giê-su. Trong đám thính giả của thánh nhân và trong những người nhận thư của thánh nhân, thánh nhân là một trong số họ đã biết Đức Ki-tô. Vài người trong số họ kiêu hãnh vì mình thuộc “nguồn gốc Do thái”; thậm chí họ còn dựa trên sự kiện Đức Giê-su đã thực hành luật Do thái để áp đặt luật nầy trên những Ki-tô hữu gốc lương dân. Dường như trong số những đối thủ của thánh nhân ở Cô-rin-tô có những người Ki-tô hữu gốc Do thái thuộc loại nầy. Họ đã đưa ra những lập luận dựa trên một quan niệm về Đức Ki tô “theo xác thịt” để đòi hỏi áp dụng những yêu sách của họ.
Thánh Phao-lô công bố rằng quan niệm nầy đã lỗi thời. Chính không còn ở nơi cuộc sống “theo xác thịt” nhưng ở nơi cuộc sống “theo Thần Khí” mà người Ki tô hữu được mời gọi dự phần vào: họ đã trở thành “một thụ tạo mới”. “Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi” (5: 17). Thánh Phao-lô hướng tầm nhìn về tương lai. Đối với thánh Phao-lô, không có gì có thể kiềm chế niềm hưng phấn lao về phía trước, về Đức Ki-tô quang vinh… Khi viết cho tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô dùng động từ ở thì hiện tại: “Người cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời rồi” (Ep 2: 6); ấy vậy “cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô” là chuyện tương lai (Rm 6: 3-11), tuy nhiên qua việc hiệp thông với Đức Ki tô, ngay từ bây giờ chúng ta thật sự đã được cùng sống lại và cùng ngự trị với Ngài trên cõi trời rồi.
TIN MỪNG (Mc 4: 35-41)
Đây là một trong những bài trình thuật sống động nhất và ý vị nhất của Tin Mừng Mác-cô. Bài trình thuật này cho thấy thánh Mác-cô quả là một người kể chuyện bậc thầy. Trong cùng một câu chuyện, hai bài trình thuật của Mt 8: 23-27 và của Lc 8: 22-26 không cung cấp những chi tiết sống động đến như thế và cũng không tường thuật với giọng điệu rất thân quen đến như vậy.
Câu chuyện này được dàn dựng như sau:
A-Đức Giê-su và các môn đệ trước trận cuồng phong (4: 35-37).
B-Đức Giê-su và các môn đệ trong trận cuồng phong (4: 38-39).
C-Đức Giê-su và các môn đệ sau trận cuồng phong (4: 40-41).
A-Đức Giê-su và các môn đệ trước trận cuồng phong (4: 35-37):
35.“Hôm ấy, khi chiều đến”: Thánh Má-cô quen dùng hai diễn ngữ chỉ thời gian đi liền nhau trong đó diễn ngữ thứ hai: “Khi chiều đến”, xác định diễn ngữ thứ nhất: “Hôm ấy” (x. 1: 32, 35). Diễn ngữ thời gian kép này được dùng để nối kết câu chuyện trước đó với câu chuyện theo sau: Sau khi Chúa Giê-su giảng dạy bằng dụ ngôn suốt ngày, thì chiều dần buông, đêm đang tới. Trong não trạng thời xưa, đây là thời điểm thuận tiện cho quỷ thần xông ra quấy phá. Đối với những người quen sống trên đất liền và ngán sợ biển cả thì dòng nước sâu thẳm là nơi quyền lực ma quỷ rất thích cư ngụ.
-“Chúng ta sang bờ bên kia”: Nghĩa là sang bờ phía đông Biển Hồ Ga-li-lê, đây là vùng đất dân ngoại sinh sống. Tại sao Người muốn đi sang đó để thoát khỏi sự chống đối hay để gặp thấy một vùng đất mới mà rao giảng? Chúng ta không rõ, nhưng một điều chắc chắn đây là sáng kiến của Đức Giê-su. Dù thế nào, cuộc hành trình trên Biển Hồ vào lúc chiều hôm buông xuống và đêm đang tới là một cuộc hải trình thử thách đầy cam go.
36.“Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền”: Câu nầy nhắc nhớ đến khung cảnh Đức Giê-su rao giảng bằng dụ ngôn như đã được chỉ rõ trước đó: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều” (4: 1-2).
-“Có những thuyền khác cùng theo Người”: Trong khi câu chuyện diễn tiến, những thuyền khác nầy biến mất khỏi hoạt cảnh. Vài nhà chú giải gặp thấy một ám chỉ đến Tv 107, phác họa chân dung của Thiên Chúa, Đấng cứu các thương thuyền trong phong ba bão tố:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm bổng đâu im tiếng,
họ vui sướng vì trời êm bể lặng
và Chúa dẫn đưa họ về bờ bến mong chờ” (Tv 107: 28-30).
37.“Một trận cuồng phong nổi lên”: Trận cuồng phong thường xảy đến trên Biển Hồ Ga-li-lê do cuộc gặp gỡ giữa luồng gió từ Địa Trung Hải (phía Tây) và luồng gió từ hoang địa Xy-ri-a (phía Đông) tạo nên. Trong khi giảng dạy cho dân chúng bằng dụ ngôn, Đức Giê-su đã gợi lên rằng Nước Trời đến một cách quyền năng. Bây giờ, Đức Giê-su sắp chứng minh cho các môn đệ bằng hành động. Đối với các đối thủ của Người, những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Đức Giê-su luôn từ chối yêu sách của họ là thực hiện một dấu lạ ngoạn mục để cho thấy uy quyền Thiên Sai của Người. Riêng đối với các môn đệ của Người, Đức Giê-su sắp ban cho họ dấu lạ quyền năng nầy.
B-Đức Giê-su và các môn đệ trong trận cuồng phong (4: 38-39):
38.“Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”: Giữa trận cuồng phong, Đức Giê-su “dựa đầu vào gối mà ngủ” cách bình an tự tại. Sự thanh thản bình an của Đức Giê-su tương phản với trận cuồng phong.
Phải chăng Người quá mệt nhọc sau một ngày rao giảng nên Người “đang ở đằng lái, dựa đầu vào gối mà ngủ”? Chỗ đằng lái là chỗ dành cho tài công. Dường như người lái thuyền nhường chỗ đằng lái này cho Đức Giê-su để Người ngủ cho lại sức sau một ngày giảng dạy cho dân chúng. Chi tiết này cho thấy Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng câu chuyện tiếp theo cho thấy Người không đơn thuần là một con người khi Người chế ngự sức công phá của thiên nhiên. Sự đối lập giữa sự mệt mõi thể lý và sức mạnh thần linh mặc khải mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng làm chủ mọi yếu tố thiên nhiên.
Thật ra, Đức Giê-su ngủ thế nào được khi mà sóng to gió lớn làm chao đảo con thuyền dữ dội? Dù thế nào, hình ảnh Đức Giê-su vẫn thản nhiên nằm ngủ trong phong ba bão tố cho thấy Người vừa đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa (x. Tv 4: 9; 3: 24-26) vừa chứng tỏ Người luôn luôn làm chủ mọi tình huống. Việc mô tả Đức Giê-su thản nhiên nằm ngủ ở đây giống như người gieo giống ngủ (cùng một động từ) cách yên lành trước mầu nhiệm “hạt giống tự nẩy mầm, đơm bông kết trái” cho đến ngày mùa (4: 26-29).
-“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”: Trong đêm tối, các ông ra sức chèo chống con thuyền trước những đợt sóng to gió lớn. Khi thấy “nước ập vào thuyền”, các môn đệ kinh hãi đánh thức Người. Độc giả như nghe tiếng kêu trối chết của các môn đệ trong cơn hoảng loạn, tiếng kêu cứu của họ pha lẫn niềm tin tưởng với lời trách cứ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy vẫn cứ ngủ và nghỉ sao?”. Chúng ta lưu ý đại từ xưng hô ở đây không là “chúng con” nhưng là “chúng ta”. Qua đại từ “chúng ta”, các môn đệ liên kết số phận của họ với số phận của Thầy: “Đồng hội đồng thuyền, đồng sinh đồng tử”, thế mà Đức Giê-su chẳng quan tâm gì đến tình cảnh thập tử nhất sinh này. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca giảm nhẹ đáng kể tiếng kêu cứu này: “Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất” (Lc 8: 24), còn thánh Mát-thêu thì chuyển tiếng kêu cứu này thành lời khẩn nguyện trong phụng vụ: “Thưa Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất” (Mt 8: 25).
39.“Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển”: Sự kiện Đức Giê-su chế ngự phong ba bão tố minh nhiên cho thấy quyền năng thần linh của Người, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền năng ngự trị trên sức mạnh hung dữ của biển cả:
“Chính Ngài đã ra oai xẻ đôi lòng biển,
trên làn nước biếc, Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng;
chính Ngài đã nghiền nát bảy đầu con giao long,
vứt nó làm mồi cho thủy quái” (Tv 74: 13-14; x. 89: 10-12).
– “Im đi! Câm đi!”: Đức Giê-su truyền lệnh cho biển như một quyền lực được nhân cách hóa. Cũng bằng lệnh truyền đầy uy quyền như vậy, Đức Giê-su đã buộc quyền lực của quỷ ở trong người bị quỷ ám phải xuất khỏi người này (Mc 1: 25-26). Đức Giê-su là Đấng làm cho quyền lực của quỷ dữ phải khuất phục. Những yếu tố thiên nhiên đang điên cuồng gào thét biểu tượng sức tàn phá khủng khiếp của thế lực sự dữ. Lời Đức Chúa Giê-su có hiệu lực trên thế lực của sự dữ ngay lập tức như Lời quyền năng của Thiên Chúa trong Cựu Ước.
– “Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”: Nét đặc trưng nầy nêu bật tính hiệu quả của Lời Đức Giê-su và quyền năng của Người trong việc chế ngự quyền lực của sự Dữ.
C-Đức Giê-su và các môn đệ sau trận cuồng phong (4: 40-41):
40.“Rồi Người bảo các ông: ‘Sao nhát thế?’”: Nhiều lần các tác giả Tân Ước đã cảnh giác về sự nhát đảm (x. 2Tm 1: 7; Ga 14: 1). Kh 21: 8 kể ra những người nhát đảm cùng với những người không tin.
-“Làm sao anh em vẫn chưa có lòng tin?”: Lời quở trách nầy là lời quở trách nặng nhất trực chỉ nhắm đến các môn đệ (x. 8: 14-21). Các môn đệ bị trách cứ vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa hay vào Đức Giê-su? Nếu vào Thiên Chúa, các ông bị quở trách vì không theo mẫu gương của Đức Giê-su tín thác vào Thiên Chúa (4: 38). Nếu vào Đức Giê-su, lời trách cứ muốn nói phải tin tưởng tuyệt đối vào sự hiện diện của Đức Giê-su. Cho dù phong ba bão tố có dữ dội đến đâu, con thuyền không thể bị nhận chìm được vì có Đức Giê-su đang ở trong con thuyền, ngay cả khi Người đang ngủ. Như vậy, trong Tin Mừng Mác-cô, đức tin không đơn thuần chỉ là xác tín về mặt tri thức mà thôi, mà còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa và vào Đức Giê-su, dù gặp phải những thách đố trong cuộc sống (5: 34, 36; 9: 23-24).
41.“Các ông hoảng sợ”: Ở câu 40, Đức Giê-su trách cứ các môn đệ là nhát sợ. Ở đây, các môn đệ “hoảng sợ”. Tuy nhiên, ở câu 40, các ngài sợ phong ba bão tố, còn ở đây, các ngài kính sợ quyền năng của Đức Giê-su. Trình thuật kết thúc bằng nỗi kinh hoàng linh thánh của các chứng nhân trước việc Đức Giê-su biểu lộ quyền năng trên hoàn vũ của Người. Bởi vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể chế ngự phong ba bão tố: biểu tượng sức mạnh đối nghịch với Thiên Chúa, nên câu hỏi của các môn đệ: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cùng tuân lệnh?”, mặc lấy một lời tuyên xưng mặc nhiên về thần tính của Đức Giê-su, ít ra đến mức Người thực hiện những công việc thường được xác nhận thuộc về Thiên Chúa trong Cựu Ước.
Trong sách Mác-cô, chúng ta thường gặp những sự việc như vậy: lời Đức Giê-su nói và việc Người làm buộc người ta phải tự hỏi: “Người này là ai?” (1: 27; 2: 7; 4: 41; vân vân). Toàn bộ câu chuyện được nâng đỡ bằng sự căng thẳng liên tục nhắm đến mục tiêu cuối cùng nhằm làm nổi bật câu hỏi chung cuộc này: Vậy ông Giê-su này là ai? Do đâu ông có được quyền năng trấn áp trận cuồng phong để cứu vớt những môn đệ trong một con thuyền thập tử nhất sinh? Các câu hỏi ấy dần dần dẫn người đọc đến tận Thập Giá, ở đó mới gặp thấy câu trả lời ở nơi lời tuyên xưng của viên quan ngoại giáo: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).
D-Ý nghĩa thần học của câu chuyện:
Câu chuyện “Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão tố” không đơn thuần là một trình thuật về phép lạ. Về phương diện biểu tượng, biến cố này giống như một tường thuật cô đọng về định mệnh của Chúa Giê-su. Nếu Đức Giê-su lôi kéo các môn đệ vào trận cuồng phong thì đó đâu phải là chuyện tình cờ! Cả cuộc đời của Đức Giê-su là một cuộc chiến gian khổ chống lại thế lực của sự Dữ mà Người phải đương đầu cách hung dữ nhất bằng chính cái chết của Người. Sự kiện Chúa nằm ngủ, dáng vẻ bình an tự tại trong một con thuyền giữa phong ba bão tố chứa đựng biết bao ý nghĩa.
Câu chuyện này đầy những từ ngữ biểu tượng khiến gợi lên trong tâm trí chúng ta rằng giấc ngủ ở đây tượng trưng một tình trạng “vắng mặt”, hoặc tượng trưng cho “cái chết” (x. Mc 5: 39). Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su như đang diễn ra trước trong câu chuyện này. Khi thấy Đức Giê-su chết và mai táng trong mồ, các môn đệ hoàn toàn mất niềm tin vào Ngài. Tuy nhiên, “Sau khi chỗi dậy”, Đức Giê-su biểu lộ quyền năng chiến thắng của Người trên sức mạnh của sự Dữ và sự Chết. Quyền tối thượng này đã khiến các môn đệ thắc mắc và tự hỏi một câu hỏi quan trọng: “Người này là ai mà lại có quyền lực siêu nhiên đến như vậy?”. Trong Kinh Thánh, chỉ Thiên Chúa mới có quyền chế ngự sóng nước của tử thần.
Trong khi dựng lại bức tranh hiện thực này, thánh Mác-cô nhắm đến hai mục đích. Trước hết, Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng cũng thật sự là Thiên Chúa, Đấng có quyền năng tuyệt đối trên sự Dữ và sự Chết. Thứ nữa, tác giả nhằm đáp ứng nhu cầu hiện thực của Giáo Hội đương thời. Trong Tân Ước, “con thuyền” biểu tượng Giáo Hội đang lữ hành trong thế gian trên đường tiến về Quê Trời. Trong hoàn cảnh đương thời, các Ki-tô hữu Rô-ma đang bị bách hại khủng khiếp. Như các môn đệ trong con thuyền giữa trận cuồng phong, các tín hữu vô cùng sợ hãi. Trong cơn bách hại dữ dội nầy, dường như Đức Giê-su đang ngủ. Việc Đức Giê-su ngủ cách thanh thản bình an trong khi họ phải đương đầu với biết bao nỗi truân chuyên, khiến họ nghi nan ngờ vực. Chúa sẽ làm gì để cứu họ khỏi cái chết đang cầm chắc nầy? Câu chuyện nầy là câu trả lời của thánh Mác-cô gởi đến cho họ.
Cuối cùng, chúng ta đừng quên rằng trận cuồng phong xuất hiện khi Chúa Giê-su quyết định đưa các bạn hữu vượt Biển Hồ đến vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mạng. Người ta có thể tự hỏi liệu các Ki-tô hữu Rô-ma tiên khởi đã không từng cảm thấy việc loan truyền Tin Mừng cho những người đương thời với họ là một công việc đáng sợ sao?
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA TỂ CỦA THIÊN NHIÊN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (G 38,1.8-11) : Giavê cho ông Gióp biết Ngài là chúa tể của thiên nhiên.
– Đáp ca (Tv 106) : Ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
– Tin Mừng (Mc 4,35-41) : Đức Giêsu dẹp yên bão tố.
I/. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Đồng bào chúng ta vẫn tin ở Ông Trời, coi Ông Trời là Đấng làm chủ gió mưa, thời tiết, mùa màng và nắm vận mạng của con người. Phần chúng ta, nhờ đức tin, chúng ta được biết Ông Trời ấy chỉ là một ý thức mơ hồ về Thiên Chúa. Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho chúng ta được biết Ngài và chúng ta hãy cố gắng yêu mến thờ phượng Ngài cho xứng đáng, nhất là trong Thánh lễ này.
II/. Gợi ý sám hối
– Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên. Đối với Ngài, chúng ta thường cầu xin ơn này ơn nọ, nhưng ít khi để ý tới việc thờ phượng Ngài.
– Thiên Chúa là Đấng quan phòng chăm sóc mọi loài. Nhưng ít khi chúng ta trông cậy phó thác vào Ngài.
– Ngày xưa, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu đức tin. Huống chi chúng ta, đức tin chúng ta cũng rất yếu kém.
III/. Lời Chúa
1/.Bài đọc I (G 38,1.8-11)
Gióp là một người công chính nhưng phải gặp rất nhiều tai họa. Thân nhân ông trách móc Chúa và không tin vào Chúa nữa. Phần ông, ông không dám trách mà chỉ than thở và cầu xin Chúa cho ông một lời giải đáp về lý do những khổ sở ông đang chịu.
Trong trích đoạn này, Thiên Chúa đưa ra một lời giải đáp gián tiếp : Ngài là chủ tể của thiên nhiên. Chính Ngài điều hành sức mạnh của nước : Ngài tạo dựng ra nó, ấn định cho nó được chảy tới đâu, ngăn không cho nó tràn bờ…
Lời giải đáp hàm chứa trong Lời Chúa là : mọi sự lành hay sự dữ đều được Chúa cho phép mới xảy tới, con người phải biết phó thác vào sự sắp xếp của Ngài.
2/.Đáp ca (Tv 106)
Tv này là một bài ca tụng uy quyền Thiên Chúa trên biển cả.
3/.Tin Mừng (Mc 4,35-41)
Biển hồ Galilê thường có bão, nhất là vào buổi chiều. Chiều hôm ấy Đức Giêsu bảo các môn đệ dùng thuyền đi từ bờ bên này sang bờ bên kia. Xem ra Ngài cố ý để cho họ gặp bão.
Khi bão đến, Đức Giêsu lại bình thản dựa vào chiếc gối sau lái mà ngủ. Đây lại là một việc làm cố ý để thử xem các môn đệ phản ứng thế nào trong cơn bão.
Phản ứng của họ là “kinh hãi”, lại còn trách Chúa “Chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm sao !”
Đức Giêsu đứng lên, và chỉ cần phán một lời, bão liên ngưng. Một bằng chứng rõ ràng Ngài là chủ tể của thiên nhiên.
Sau đó, Đức Giêsu vừa trách các môn đệ vừa kêu gọi họ hãy tin vào uy quyền của Ngài.
4/.Bài đọc II (2 Cr 5,14-17)
Chúng ta có thể tóm tắt ý tưởng của Phaolô trong trích đoạn này là : Đức Giêsu Kitô là tất cả.
Sau đây là các chi tiết trong lập luận của thánh Phaolô :
– Vì Đức Kitô đã chết thay cho chúng ta, nên đáp lại chúng ta phải sống cho Ngài chứ đừng sống cho mình nữa.
– Chúng ta cũng chẳng cần biết ai khác ngoài một mình Đức Kitô.
– Đức Kitô đã ban cho chúng ta một cuộc sống mới, vậy từ nay chúng ta phải bỏ hết những gì thuộc cuộc sống cũ để sống một cuộc sống hoàn toàn mới trong Đức Kitô.
IV/. Gợi ý giảng
* 1. Chúa tể thiên nhiên
Bài đọc thứ I của Thánh Lễ hôm nay trích từ sách Gióp, trong đó có một hình ảnh hơi lạ : Chúa đã đóng cửa và gài chốt để ngăn không cho nước chảy tràn lan khắp mặt đất. Đó là một lối diễn tả, dựa theo vũ trụ quan của thời kỳ quyền sách này được biên soạn, tức thế kỷ thứ V trước Công nguyên, nghĩa là cách đây đến 2.500 năm. Thời đó người ta nghĩ rằng trái đất như một cái đĩa nổi bồng bềnh trên mặt đại dương. Chung quanh trái đất và bên dưới trái đất toàn là nước. Phía trên trái đất là vòm trời như một cái chụp tròn úp xuống, và cũng chứa đầy nước. Tất cả lượng nước trên vòm trời và dưới biển ấy được chặn lại bằng những cánh cửa. Khi cửa trời mở ra thì nước mưa rơi xuống ; khi cửa biển mở ra thì nước thuỷ triều dân lên ; còn khi cả cửa trời và cửa biển đều đóng kín lại trong một thời gian lâu dài thì đó là hạn hán. Và người giữ quyền đóng hay mở các cửa đó chính là Thiên Chúa. Đây quả là một lối nhìn vũ trụ rất là đơn sơ và có phần ngây ngô nữa. Tuy nhiên chúng ta có thể thông cảm với tác giả, vì ông sống cách chúng ta đến 2.500 năm, làm sao ông có thể diễn tả chính xác như các nhà khoa học thế kỷ 21 này được. Chúng ta chỉ cần ghi nhận tư tưởng của ông, đó là : chính Thiên Chúa là Đấng làm chủ thiên nhiên, và điều khiển thiên nhiên vận hành để giúp có thể sinh sống.
Có một điều hay, là tư tưởng ấy được chính các nhà khoa học ngày nay xác nhận. Mặc dù không trực tiếp nói đến Chúa như là Chúa tể thiên nhiên, nhưng các nhà khoa học đã cho thấy thiên nhiên đã vận hành theo một trật tự xít xao, nhờ đó mà loài người mới có thể sinh sống được. Thí dụ như trật tự vận hành của trái đất, mặt trời và mặt trăng. Cả 3 đều di chuyển không ngừng, mỗi cái theo quỹ đạo riêng của nó. Nhưng khoảng cách của chúng thì hình như đã được tính toán và điều khiển thật xít xao : chỉ cần mặt trời và trái đất gần nhau hơn một chút nữa thì trái đất sẽ nóng khủng khiếp, do đó loài người sẽ chết cháy ; ngược lại chỉ cần trái đất và mặt trời xa nhau thêm một khoảng nữa thì mặt đất, sẽ giá lạnh, loài người sẽ chết cóng. Còn khoảng cách giữa mặt trăng với trái đất cũng thế : xích gần hơn chút nữa thì thuỷ triều sẽ dâng phủ ngập mặt đất, loài người chết chìm ; còn dang xa hơn một chút thì không còn thuỷ triều, mọi loài trên mặt đất sẽ chết khô.
Ngay cả một hiện tượng thiên nhiên mà người ta thường coi là tai hoạ, đó là giông bão, nhưng khoa học cũng xem là có lợi. Khi nào có giông bão ? Thưa là khi một vùng quá nóng, không khí bốc lên cao tạo thành một khoảng trống. Không khí ở các vùng khác liền ùa về để lấp đầy khoảng trống đó. Dĩ nhiên, khi mà không khí di chuyển như thế với một tốc độ nhanh thì sẽ tạo ra những luồng gió mạnh, có thể làm gãy cây cối, sập nhà, và có người chết. Nhưng nếu nhìn hiện tượng ấy một cách bao quát thì sẽ thấy giông bão là có lợi, và cần thiết nữa, vì nhờ đó mà không khí trên mặt đất được điều hoà.
Rõ ràng thiên nhiên đã được điều khiển theo một trật tự diệu kỳ bởi một Đấng đầy quyền năng. Đấng quyền năng ấy là ai ? Nhiều người chưa được biết, nhưng từ xưa tác giả sách Gióp đã biết và gọi đó là Thiên Chúa. Hôm nay Tin mừng lại nói cho chúng ta biết thêm một lần nữa. Chúng ta hãy nói đến cơn giông bão trên biển hồ Gênêzarét. Vị trí của Biển hồ này hơi đặc biệt : nó giống như một cái lòng chão dưới thấp, chung quanh được bao bọc bởi những rặng núi. Như đã nói ở trên giông bão là do không khí di chuyển đổi vùng với một tốc độ nhanh mạnh. Vậy thì cái Biển Hồ này, do địa thế đặc biệt của nó nên nó rất thường gặp giông bão. Bởi vì khi những luồng gió mạnh thổi qua, gió bị núi ngăn chặn nên không lướt ngay đến vùng khác được., nhưng chạy vòng vòng giữa các rặng núi tạo thành những cơn lốc xoáy, và thế là có bão trên mặt biển. Tuy nhiên những cơn bão này cũng chóng tan. Hôm ấy, Đức Giêsu và các tông đồ đang di chuyển bằng thuyền trên mặt Biển Hồ thì gặp giông bão. Đức Giêsu vì đã nắm rõ bản chất của những cơn bão loại đó nên an tâm cứ nằm ngủ. Còn các tông đồ thì hoảng sợ cuống cuồng. Các ông còn trách móc Chúa “Thưa Thầy, chúng con chết đến nơi rồi mà Thầy không quan tâm sao ?” Đức Giêsu bình tĩnh đứng dậy ra lệnh cho gió và biển, lập tức bão yên, biển lặng. Sau đó Chúa trách lại các tông đồ “Sao các con sợ hãi thế ? Các con không có đức tin ư ?” Qua sự kiện này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài chính là chúa tể của thiên nhiên, và mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài.
Thế nào là tin vào Chúa là chúa tể thiên nhiên ?
– Trước hết là đừng kiêu căng : có một số người có chút ít kiến thức về khoa học, hay có được một vài công trình khoa học ứng dụng trên thiên nhiên, rồi tưởng mình đã là giỏi lắm, đã hoàn toàn điều khiển được thiên nhiên, và từ đó tự coi mình là chúa tể, phủ nhận cả Thiên Chúa. Thực ra khoa học không tạo ra thiên nhiên, khoa học cũng không sửa đổi được những quy luật điều khiển thiên nhiên. Tất cả những gì mà khoa học có thể làm được chỉ là nghiên cứu thiên nhiên có sẵn, tìm hiểu những quy luật có sẵn trong thiên nhiên, rồi ứng dụng để mưu lợi ích cho loài người. Thí dụ như khoa học làm ra được một chiếc tàu chạy trên mặt biển, thì cũng nhờ dựa vào những quy luật thiên nhiên có sẵn, như luật về sức đẩy Archimède khiến cho thân tàu có thể nổi trên mặt nước, luật về sức đẩy của gió được ứng dụng để thổi những cánh buồm v.v. Có gì là ghê gớm lắm đâu ? có gì mà đã lên mặt coi mình giỏi hơn cả Thiên Chúa ? Có gì mà kiêu căng ?
– Thứ hai là đừng mê tín dị đoan : nếu như người kiêu căng là người quá tự phụ vì những hiểu biết khoa học của mình đến nỗi phủ nhận vai trò của Chúa, thì người mê tín dị đoan là người vì không có những kiến thức cơ bản của khoa học và của giáo lý nên không đủ tin vào Chúa mà lại tin những điều nhảm nhí. Ngày xưa vì ngu dốt nên người ta nhìn đâu đâu cũng cho là có thần : như thần sấm sét, thần gió, thần lửa, thuỷ thần, hà bá… Còn ngày nay cũng có người coi các thứ bệnh tật như là do tà ma, do quỷ ám, do bị thư, bị bùa, bị ngãi… Thực ra bệnh tật là gì ? Theo giáo lý, đó là thân phận tự nhiên của loài người kể từ sau tội nguyên tổ. Còn theo khoa học, bệnh là do cô thể suy yếu mà ra. Có bệnh thì phải chữa trị bằng vệ sinh, bằng y dược, chứ không phải chỉ cầu xin, khấn vái hay uống bùa uống ngãi mà hết được, vừa không hết bệnh, lại vừa phạm tội thiếu lòng tin vào Chúa.
– Điều thứ ba để tỏ lòng tin vào Chúa là Chúa tể thiên nhiên là an tâm vui sống dưới ánh mắt Chúa Quan phòng : Chúa đã tạo dựng muôn loài, Chúa còn tiếp tục chăm sóc cho muôn loài, trong đó đương nhiên và hơn hết là loài người chúng ta. Đức Giêsu đã phán “không một sợi tóc nào trên đầu chúng con rụng xuống mà không do ý của Chúa”. Vì thế cho dù sự đời có lúc suy, cuộc đời có lúc thăng lúc trầm, nhưng nếu ta biết mọi sự đều năm trong tay Chúa quan phòng thì chúng ta hãy an tâm phó thác đời mình cho Chúa, không có gì phải sợ hãi quá “Sao các con sợ hãi thế ? Các con không có đức tin ư ?”
* 2. Quyền năng Thiên Chúa và phát minh khoa học.
Trong vài thế kỷ gần đây, loài người đã có nhiều phát minh khoa học rất to lớn :
. Cuối thế kỷ 19, Lilienthal làm ra chiếc máy bay có 2 cánh rộng để lượn theo chiều gió. Sau đó Ader đã cải tiến cho chiếc máy bay chạy bằng động cơ.
. Cũng trong thế kỷ 19 đó, Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Phát minh đó đã khiến cho người ta mừng rỡ và nhiều người đã coi ông như là Thần Ánh Sáng.
. Đến thế kỷ 20, người ta đã bước lên cung trăng và còn đang tiếp tục đi đến các hành tinh khác.
. Cách đây vài năm, người ta đã biết phương pháp “nhân bản” sinh vật (cloning), nghĩa là lấy một tế bào của một sinh vật rồi làm cho thụ tinh để sinh ra một hoặc nhiều sinh vật giống y sinh vật gốc.
. Và hiện nay người ta đang giải mã bộ gien của người và các sinh vật. Kết quả này sẽ giúp trị được rất nhiều chứng bệnh nan y.
Những thành công to lớn ấy của khoa học đã khiến cho một số người nghĩ rằng loài người có thể làm được mọi sự, không cần đến Thiên Chúa nữa… Có kẻ còn cho rằng chẳng có Thiên Chúa nữa. Có đúng như vậy không ?
– Xét kỹ những phát minh khoa học chúng ta sẽ nhận ra rằng loài người thực ra chẳng làm gì hơn là khám phá ra những quy luật có sẵn trong thiên nhiên và áp dụng những quy luật ấy để phục vụ cho đời sống. Chẳng hạn như những phát minh mà chúng ta vừa nói ở trên :
. Chiếc máy bay : đây không phải là sáng kiến mới mẻ gì, mà chỉ là bắt chước khả năng của loài chim thôi.
. Còn về dòng điện : cũng không phải là do con người sáng tạo ra. Điện đã có sẵn trong thiên nhiên từ khi mới có vũ trụ. Đến cuối thế kỷ 18, Benjamin Franklin mới khám phá ra nó có trong sấm sét. Về sau người ta mới đưa điện vào sử dụng trong nhiều việc.
. Và việc người ta tạo ta những bào thai trong ống nghiệm cũng không phải là vượt quyền Chúa sáng tạo nên một con người. Người ta vẫn phải dùng đến những tế bào nam nữ có sẵn và cho kết hợp trong ống nghiệm thay vì kết hợp trong bụng mẹ thế thôi.
Tóm lại, Khoa học chỉ là bắt chước thiên nhiên, làm lại những gì mà thiên nhiên đã từng làm từ ngàn triệu năm trước. Do đó, nếu ai biết nhìn xa cho tới Đấng đã sáng tạo nên thiên nhiên thì người đó càng đi sâu vào khoa học chừng nào thì càng ngưỡng mộ Thiên Chúa bấy nhiêu. Chỉ có những kẻ thiển cận mới tưởng những khám phá ấy là do chính mình sáng tạo và phủ nhận quyền năng của Thiên Chúa. Chúng ta thấy có 2 thái độ nơi những nhà khoa học : một là thái độ khiêm tốn của một nhà thiên văn kia, ông nói “Tôi đã nhìn ra Thiên Chúa qua ống kính viễn vọng của tôi” ; và một nhà du hành vũ trụ khác thì ngạo mạn tuyên bố “Tôi đã bay lên tận trời, nhìn khắp nơi mà chẳng thấy có Thiên Chúa đâu cả”. Hai thái độ khác nhau ấy xuất phát từ hai lối nhìn khác nhau : một nhìn xa và một nhìn gần ; xuất phát từ hai tâm trạng khác nhau : một là khiêm tốn, hai là kiêu căng.
– Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta xác định rõ ai là chủ thực sự của thiên nhiên : chỉ có Chúa mới là chủ thiên nhiên đích thực và đúng nghĩa. Con người chẳng làm gì hơn là khám phá những bí mật của thiên nhiên. Nếu có nói con người là chủ thiên nhiên thì chỉ là theo nghĩa con người được Thiên Chúa ban quyền quản lý thiên nhiên và ban cho những khả năng để khám phá những bí mật trong thiên nhiên ấy. Con người biết suy nghĩ chín chắn và khiêm nhường không thể nào phủ nhận vai trò của Thiên Chúa được. Con người chỉ khám phá những gì có sẵn thôi. Chừng nào con người không cần dùng tới những gì có sẵn ấy, chỉ nói một lời mà có được mọi sự (như Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay chỉ phán một lời thì gió liền yên, biển liền lặng) thì khi đó con người mới có quyền tuyên bố mình là chủ thực sự của thiên nhiên.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng khoa học kỹ thuật ngày nay đang tiến những bước thật xa thật nhanh đến nỗi có thể khiến chúng ta say sưa khâm phục. Sự say sưa khâm phục ấy có thể giúp con người suy nghĩ xa hơn, tìm đến chính Đấng là tác giả của những việc kỳ diệu ấy trong thiên nhiên. Nhưng cũng sự say sưa khâm phục ấy có thể làm choáng mắt con người khiến con người chỉ thấy tài năng của mình mà ngạo mạn phủ nhận vai trò của Thiên Chúa.
– Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi không làm chúng ta xa Chúa nhưng khiến chúng ta càng tới gần Chúa hơn. Cầu mong cho việc học hỏi tìm tòi của chúng ta không biến chúng ta thành những kẻ kiêu căng, nhưng giúp các bạn càng khiêm nhường hơn, như lời của một danh nhân nọ “Càng học thì thấy mình càng dốt”.
Trong một cuộc hải trình vượt Đại Tây Dương, khách du lịch đang thư thái ngắm cảnh hoàng hôn trên boong tàu.
Nơi tít mù xa, mặt trời đỏ cam đang chiếu những ánh vàng cuối cùng của một ngày còn sót lại.
Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, tối sầm cả một vùng trời. Sấm chớp đổ xuống liên hồi, giông tố cuồn cuộn nổi lên, càng lúc càng thét gào dữ dội.
Mọi người trên boong chen lấn nhau chạy về phòng mình. Duy chỉ có một bé trai cứ tiếp tục chạy giỡn trên boong giữa trận cuồng phong.
Được hỏi tại sao em không sợ hãi trước cơn giông tố ?
Em thản nhiên đáp lại :
– Vì cha em là người cầm lái con tàu !
*
Giống như khách du lịch trong câu chuyện trên, các môn đệ cũng gặp một trận cuồng phong khi vượt biển. Các ngài kinh hoàng vì thấy mình sắp bị nuốt chững. Bó tay bất lực trước phong ba bão táp, các ngài đã vội đánh thức Đức Giêsu và xin Người ra tay cứu giúp : “Thưa Thầy, chúng con chết mất, Thầy không quan tâm sao” (Mc. 4,38). Người liền đe gió và phán với biển như một người bị quỉ ám : “Hãy im đi”. Tức thì sóng yên biển lặng.
Ai cũng thích sóng yên biển lặng, xuôi chèo mát mái. Nhưng cuộc đời nào mà chẳng có những cơn giông ? Đại dương nào mà không có những bão tố ?
Tuy nhiên, chính giông tố mới giúp chúng ta nhận ra chính mình : mình còn yếu đuối và bất lực, còn nhát đảm và kém tin.
Cũng chính giông tố sẽ đưa ta đến với Chúa, để ta hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Người. Cũng chính giông tố sẽ giúp ta biểu lộ đức tin. Có thể nói, đức tin sẽ lớn lên ít nhiều sau mỗi lần giông tố.
Thánh Phaolô viết : “Thiên Chúa không ban cho ta một thần khí nhát sợ nhưng mạnh mẽ, bác ái và tự chủ” (2Tm.1,7),
Mỗi người chúng ta không khác chi chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin ở Thiên Chúa tình yêu. Người sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Có Chúa trong đời, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được mạnh sức. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
Thánh Phanxicô Salêsiô dạy : “Phải ở lại trong con thuyền mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, để hành trình từ cõi đời này về chốn đời sau. Chúng ta phải sẵn sàng ở lại trong sự bình an thanh thản”.
*
Lạy Chúa, thuyền đời chúng con chẳng bao giờ được êm ả, nó chỉ êm ả khi tới bến thiên đàng. Xin cho lòng chúng con luôn bình an ngay cả khi Chúa còn đang ngủ, miễn là có Chúa trong thuyền, vì Chúa chính là thuyền trưởng của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Vượt tầm kiểm soát
Chiều hôm ấy, Đức Giêsu và các môn đệ đi thuyền vượt biển. Một cơn bão nổi lên. Ban đầu, các môn đệ còn chèo chống và giữ được con thuyền vẫn còn đứng vững trước phong ba bão táp. Đó là tình trạng còn trong tầm kiểm soát. Khi mọi sự còn trong tầm kiểm soát nghĩa là chúng còn nằm trong khả năng xoay sở của ta. Khi đó ta rất dễ nghĩ rằng mình có đức tin. Lèo lái con thuyền đời mình cũng thế. Khi ta còn kiểm soát được những sự việc xảy ra cho đời mình thì ta cảm thấy hạnh phúc. Ta xác định những mục tiêu, ta hoạch định chương trình, ta làm chủ tình thế. Những khi đó, ta không thực sự cảm thấy cần đến Chúa.
Nhưng giông tố ngày càng lớn. Các môn đệ dù đã làm hết sức mình nhưng vẫn không giữ được con thuyền, nó sắp chìm. Các ông chợt nhận ra rằng tình thế đã vượt tầm kiểm soát của họ. Trong đời chúng ta cũng có những lúc tương tự như thế. Đó là khi ta gặp một hoàn cảnh quá khó khăn, hay khi ta bệnh nặng, ta sắp chết. Những khi đó ta thấy mình như không còn sức lực, ta hoang mang, sợ hãi. Chính những khi đó ta mới biết đức tin của mình còn quá yếu kém, thậm chí không có đức tin thực sự. Ta nghĩ rằng không có Chúa hoặc Chúa đã bỏ ta. Trong bài Tin Mừng này, các môn đệ cũng cảm thấy như thế. Họ chạy đến tìm Đức Giêsu nhưng họ thấy Ngài đang ngủ. Họ còn trách Ngài nữa.
Giữa phong ba bão táp, Đức Giêsu vẫn ngủ. Đó là dấu chỉ một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ngược hẳn với đức tin yếu kém của các môn đệ. Khi họ kêu cầu Ngài, Ngài thức dậy, và chỉ một lời thôi, Ngài dẹp yên bão táp.
Con thuyền trong bão táp, đó là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Nên nhớ là trong thuyền có Đức Giêsu. Mặc dù Ngài ngủ nhưng Ngài không ở xa và không bỏ chúng ta một mình. Ngài ngủ để thử đức tin của chúng ta đó thôi, để chúng ta biết được đức tin của mình đã vững mạnh hay vẫn còn yếu kém. Chỉ cần chúng ta nhớ đến Ngài, kêu xin Ngài thì Ngài sẵn sàng thức dậy và dẹp yên bão táp đang đe dọa chúng ta.
- Chuyện minh họa
a/ Câu chuyện của cây vả
Một cây vả kia đã đứng vững suốt mùa đông trước bao cơn gió mạnh. Nhưng đến đầu mùa hè, khi gặp một cơn gió trung bình thôi, nó đã ngã sập xuống. Nhiều người lấy làm lạ.
Thực ra cũng chẳng có gì lạ lắm : Trong mùa đông, cũng như hầu hết các cây khác, cây vả này bị rụng trụi lá. Gió đông có thổi đến thì cũng lọt qua các cành trơ trụi khẳng khiu của nó và bay đi. Bởi thế bao nhiều cơn gió mùa đông cũng không làm cho nó nhúc nhích. Nhưng đông tàn, xuân tới, cây vả bắt đầu đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa hè thì cành lá đã xum xuê. Khi gió thổi đến, lá cây cản lại làm sức tấn công của gió càng mạnh hơn. Chính vì thế mà cây vả không còn đứng vững được nữa.
Câu chuyện này giúp ta hiểu thế nào là “giông tố mùa đông” và “giông tố mùa hè”. “Giông tố mùa hè” gây hại nhiều hơn “giông tố mùa đông”. “Mùa hè” nói đây là lúc cuộc đời ta đang đầy đủ, thoải mái, sung sướng.
b/ Loại máy bay đầu tiên
Ngày kia, tôi đang ngồi trong phòng, một con ruồi vo ve bay vào. Nó bay dập dờn và vù xuống ăn những thức ăn thừa….Nó làm bất cứ điều gì nó thích và bất cứ khi nào nó muốn.
Một con ruồi chỉ là một sinh vật. Nó hơn hẳn chiếc máy bay…. Nó cất cánh mà không cần chạy như máy bay. Nó đáp xuống ngay tức khắc. Nó không bao giờ rơi và không bao giờ đâm vào bất cứ vật gì hoặc gặp một tai nạn nào. Phi hành đoàn của nó không phải học cách lái hoặc kiểm tra. Nó không có những động cơ trục trặc hay hết nhiên liệu. Và hơn thế nữa : nó có thể sản xuất ra những chiếc máy bay tương tự mà chỉ cần một chút sức lực.
Thật khó có thể kiếm được một thiết bị điện tử hoặc động cơ nào sánh với tất cả những gì một con ruồi có thể làm.
Nó chỉ là một trong nhiều sinh vật của Chúa…..và cho ta thấy rằng có ai đó đã tạo ra nó.
c/ Điều huyền bí.
Một thanh niên đi du lịch tới một thành phố lớn. Đến một nhà thờ, cậu ngả mũ cung kính cúi chào. Thấy điều này, một hành khách vẻ trí thức bên cạnh cậu nhận định :
– Ồ, tôi biết bạn có đạo. Bạn học gì ở đó ?
– Tôi học những điều huyền nhiệm của tôn giáo.
– Huyền nhiệm ? Bạn không biết rằng chúng ta chẳng bao giờ tin những gì chúng ta không hiểu ? Ít ra đó là nguyên tắc của tôi.
– Vậy anh hãy nói cho tôi biết tại sao ngón tay anh cử động khi anh ngoáy nó ?”
– Nó cử động vì sự sống trong tôi làm nó cử động.
– Nhưng tại sao nó cử động ?
– Vì tôi muốn thế.
– Tại sao tai của anh không cụp lại khi anh muốn ?
Lúc đó cuộc đối thoại chấm dứt.
- Tin vào quyền năng Thiên Chúa
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương kính Đức Mẹ tại Lộ Đức. Ở đại học Madrid, người sinh viên này đã từng nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như xuất xứ của những thứ mê tín dị đoan vẫn còn được loan truyền đi nhiều nơi. Ba tháng ở Lộ Đức, anh muốn theo dõi việc làm của văn phòng xác minh các phép lạ xảy ra tại trung tâm này.
Vậy thời gian ba tháng ở Lộ Đức, người sinh viên này đã được chứng kiến ba phép lạ. Cả ba trường hợp đều có các bác sĩ vô thần theo dõi để xác minh tính đích thực của phép lạ.
Hãy nghe người sinh viên này chia sẻ điều mắt thấy tai nghe về một trong ba phép lạ đó.
Tại Lộ Đức
“Hôm đó tôi đang ở tiền đường vương cung thánh đường Lộ Đức cùng với các chị của tôi hiện có đó chỉ mấy phút trước khi Kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Khi ấy một người đàn bà tuổi trung tuần đang đẩy chiếc xe lăn qua trước mắt chúng tôi. Một người chị tôi lưu ý chứng tôi khi nói “Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương trên chiếc xe lăn !” Đó là một chàng trai chừng 20 tuổi bị bệnh bại liệt làm biến dạng. Mẹ của chàng khi ấy lần chuỗi to tiếng, lúc lúc lại thở dài thưa với Đức Mẹ “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin giúp đỡ chúng con !” Quả là một cảnh tượng cảm động gợi nhớ lại bệnh nhân xưa đã thưa với Đức Giêsu : “Lạy Chúa, xin cho con được sạch khỏi bệnh phong.” Người đàn bà đẩy xe lăn không muốn chậm trễ nhưng đã tới ngay chỗ những người đang chờ Đức Giám Mục rước Mình Thánh đi ngang qua.
Đã đến lúc Đức Giám Mục sắp ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt. Khi ấy chàng thanh niên nhìn thẳng mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa. Đó xem ra là cách anh biểu lộ niềm tin của anh. Thế rồi khi Đức Giám Mục ban phép lành với dấu thánh giá bao quát, cậu thanh niên bại liệt liền chỗi dậy, ra khỏi xe lăn, hoàn toàn khỏi bại liệt ! Dân chúng liền hô to trong niềm vui : “Đó là một phép lạ ! Đó là một phép lạ !”
Nhờ có giấy phép đặc biệt, tôi được chứng kiến những xác minh tiếp theo để thấy quả thật, Chúa đã chữa lành người thanh niên. Tôi không thể nào diễn tả hết được những điều tôi cảm nhận và tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín (và nhiều vị nổi tiếng). Nhiều sinh viên bạn học tôi luôn nhạo báng các phép lạ. Và giờ đây, tôi được thấy tận mắt một phép lạ. Đây là một phép lạ do Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện, cũng Đức Giêsu xưa đã từng chữa lành bao người bại liệt và bệnh nhân khác. Tôi nghiệm được một niềm vui lớn lao. Tôi có ấn tượng tôi được ở ngay bên cạnh Chúa. Khi ấy tôi cảm nhận sức mạnh vô song của Chúa và cảm thấy thế giới bao quanh tôi bỗng trở nên cực kỳ nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha. Những chồng sách, những bài học, những cuộc thí nghiệm tôi đã từng thực hiện với bao là hứng khởi nay không còn là sức nặng lôi kéo tôi nữa. Các bạn tôi hỏi tôi : “Điều gì đã xảy ra cho cậu trong niên học này vậy ? Điều gì khiến cậu sững sờ ?” Quả thật tôi bị sững sờ do kỷ niệm khiến tôi bị khuynh đảo mỗi ngày. Duy hình ảnh Mình Thánh Chúa được giơ lên để ban phép lành khiến cậu thanh niên bại liệt kia nhảy vọt ra khỏi chiếc xe lăn, hình ảnh ấy in sâu vào ký ức và vào trái tim tôi. Ba tháng sau đó tôi nhập Tập Viện Dòng Tên. Đó là ngày 15 tháng 1, 1927.”
Tại Nhật Bản
Chàng sinh viên ấy tên là Pedro Arrupe. Suốt đời chàng sẽ không bao giờ quên được phép lạ Chúa làm trước mắt anh. Được củng cố mạnh mẽ do phép lạ như dấu chỉ về quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, anh sẽ không bao giờ lùi bước trên đường dấn thân phục vụ Người :
+ Bị trục xuất khỏi quê hương Tây Ban Nha ngày 13 tháng 02, 1932 cùng với tất cả các tu sĩ Dòng Tên.
+ Nhận thừa tác vụ Linh Mục ngày 30 tháng 7, 1936 tại Hà Lan.
+ Được phái đi truyền giáo tại Nhật Bản ngày 15 tháng 10, 1938
+ Phục vụ nạn nhân bom nguyên tử giáng trên Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945.
+ Được bầu làm Tổng Quyền thứ 29 Dòng Tên ngày 22 tháng 5, 1965 sau nhiều năm làm giám đốc Tập Sinh và làm giám tỉnh Dòng Tên ở Nhật.
Quả thật phép lạ xưa cũng như nay chỉ có ý nghĩa khi là dấu chỉ về Nước của Thiên Chúa như lời Đức Giêsu tuyên bố với người Pharisêu : “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28). Ai nhận ra dấu lạ Chúa làm cũng được thúc đẩy dấn thân hết mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Câu chuyện phép lạ chàng thanh niên bại liệt được chữa lành tại Lộ Đức khiến chàng sinh viên Pedro Arrupe được hoán cải như thế nào trên con đường phục vụ Nước Chúa. Cuộc hoán cải ấy không thấm vào đâu so với cuộc hoán cải của Simon Phêrô và các bạn một khi nhận biết quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Họ đã hy sinh cả mạng sống mình để phục vụ Nước Thiên Chúa. Họ đã thực sự trở nên giềng cột của Hội Thánh Chúa nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V/. Lời nguyện cho mọi người
CT : Anh chị em thân mến
Trong niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là chủ tể thiên nhiên, chúng ta hãy dâng lên Ngài những lời cầu xin của chúng ta :
- Hội Thánh có sứ mạng rao giảng cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chủ tể của thiên nhiên. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho nhân loại đón nhận lời rao giảng của Hội Thánh.
- Khoa học kỹ thuật ngày nay rất tiến bộ, phát minh ra nhiều điều kỳ diệu. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những phát minh đó không làm cho loài người kiêu căng chối bỏ Chúa, trái lại giúp loài người càng nhận biết và khâm phục Chúa hơn.
- Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng đành phải bó tay trước cái chết, nghĩa là không thể làm cho con người thành bất tử được. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người mang những chứng bệnh ngặt nghèo và nhất là những người hấp hối, để họ biết bình an phó thác mạng sống của mình trong tay Chúa.
- Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta thực sự là một cộng đoàn đức tin, một cộng đoàn phượng tự, nghĩa là luôn tin tưởng vào Chúa và thờ phượng Chúa như chủ tể mọi loài.
CT : Lạy Đức Giêsu, ngày xưa Chúa đã trách các môn đệ rằng “Sao các con sợ hãy thế ? Các con không có đức tin ư ?”. Ngày nay cũng vì thiếu đức tin mà chúng con phải sợ hãi nhiều điều. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con, để trong mọi hoàn cảnh chúng con biết hoàn toàn cậy dựa vào Chúa và phó thác trong tay Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI/. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta có một người Cha “ở trên trời”, nghĩa là một người Cha uy quyền, làm chủ mọi loài mọi vật. Chúng ta hãy tin tưởng cầu nguyện với Ngài.
– Chúc bình an : Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an, bình an vì biết mình đang sống trong vòng tay yêu thương của Chúa.
VII/. Giải tán
Cuộc sống ví như một cuộc đi thuyền giữa biển cả cuộc đời nhiều phong ba bão táp. Nhưng có Chúa trên thuyền thì mọi sự đều bình an. Chúng ta hãy trở lại cuộc sống với tâm tình trông cậy phó thác tất cả trong tay Chúa. Chúc anh chị em luôn bình an.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN -B
BÃO TỐ DẸP YÊN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
- Người tín hữu thường quên chiều kích vũ trụ trong hành động của Chúa Kitô, trong khi thời đại này, các khoa học kỹ thuật nói nhiều đến việc khai thác, nhân hóa, bảo tồn, chinh phục thiên nhiên, các khoa học nhân văn nói nhiều đến mối liên quan giữa con người và vật chất, thiên nhiên, vũ trụ, môi trường sống. Kitô hữu phải hiểu cùng làm cho người khác hiểu rằng Chúa Kitô không xa lạ với vật chất đã làm nên vũ trụ. Trái lại qua việc nhập thể và phục sinh trong thân xác, Người đã mở rộng ơn cứu rỗi tới cho tất cả những gì hiện hữu. Chúa Giêsu đã đến không phải chỉ để cứu linh hồn con người mà thôi, nhưng cứu toàn thể con người xác hồn, và qua thân xác con người, Người biến đổi sâu xa cả vũ trụ vật chất (x. Rm 8,19): chính vũ trụ vật chất đang trên đường về với Thiên Chúa.
- Câu chuyện xảy ra được Maccô kể lại theo lời chứng nhân tận mắt là Phêrô nên có nhiều chi tiết. Nhưng một trong những điểm quan trọng, chủ yếu của trình thuật là chính thắc mắc của các sứ đồ sau khi bão yên: “Người là ai mà gió cùng biển phải tuân phục Người?”. Ngày nay với phát minh khoa học kỹ thuật, con người khắc phục được thiên nhiên rất nhiều đã từng nghiêng đồng đổ nước, thay trời làm mưa, bắt sông uốn khúc, ép núi cúi đầu, nên dễ quên Đấng Tạo Hóa. Kitô hữu phải biết khám phá thấy trong mọi chuyển động tự nhiên của vũ trụ cũng như trong mọi khắc phục thiên thiên của con người bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
- “Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng ngập đầy”. Ngày nay, đâu là cơn bão tố lớn đang vùi dập con đò Phêrô? Là trào lưu vô thần, là sự tục hóa, là thái độ tấn công tinh vi hay dửng dưng với tôn giáo. Nhưng Kitô hữu đừng lo! Giáo Hội đã trải qua nhiều cơn bão lớn hơn trong lịch sử rồi, như những sa đọa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự cấu kết thái quá với thế quyền, sự chểnh mảng trong việc trau dồi đức tin, những xâu xé nội bộ, thế mà Giáo Hội vẫn không chìm đắm. Vì Chúa Kitô và Thánh Thần luôn ở với Giáo Hội.
- “Tại sao sợ hãi? Các ngươi không có đức tin ư”. Lời chất vấn và trách cứ của Chúa Giêsu cũng như lời mời gọi hãy tin tưởng đang được gởi đến những tín hữu mà niềm tin vào Thiên Chúa hôm nay đang bị lung lay vì bao bão tố, đau khổ. Kitô hữu hãy nhớ: tin trước hết là xác tín rằng dù gặp phải bao yêu thương, là hiểu rằng mọi chướng ngại chỉ là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa, là phương tiện giúp ta về với Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu không hứa với Giáo Hội là sẽ che chở cho khỏi cơn bão tố, trái lại người hứa là Giáo Hội sẽ thắng bão tố, sẽ không bị chìm ngập và con thuyền Giáo Hội, cho dầu có xảy ra gì chăng nữa, sẽ đến bờ như đã hứa. Chúa Kitô đã chẳng trải qua cơn bão tố Tử nạn để rồi đạt đến bờ Phục sinh ư? Cuộc sống Giáo Hội và cuộc sống mỗi Kitô hữu chúng ta không thoát khỏi định luật này, là định luật của tất cả những ai, những gì muốn về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây không phải là định luật Thiên Chúa ra một cách độc đoán, như thể Ngài muốn ta phải trả giá Nước Trời, hành hạ ta đã rồi mới cho được nghỉ ngơi. Bão tố, gian nan, thử thách chính là những gì xảy ra khi ta quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, khi ta từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi sự để chiếm đoạt cho được Thiên Chúa là hạnh phúc đích thực của ta.
CHÚA NHẬT XiI THƯỜNG NIÊN- B
THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong đời ta gặp nhiều trường hợp giả vờ rất đáng yêu. Chẳng hạn bà mẹ trẻ giả vờ trốn đứa con nhỏ, để nó phải lo âu đi tìm. Và khi thấy nó đã lo âu đến độ tuyệt vọng, sắp khóc đến nơi, bấy giờ bà mẹ mới xuất hiện. Vừa thấy bà mẹ xuất hiện, đứa trẻ vui mừng khôn xiết. Và nó càng yêu mến, càng bám chặt lấy mẹ nó hơn nữa.
Chúa Giêsu cũng có nhiều lần giả vờ như thế. Lần giả vờ được minh nhiên ghi lại trong Tin Mừng là khi Người cùng hai môn đệ đi trên đường Emmaus. Khi đã đến nơi, Người giả vờ muốn đi xa hơn, làm cho các môn đệ phải tha thiết nài nỉ Người mới chịu ở lại. Khi Người ở lại, các môn đệ vui mừng khôn xiết. Và niềm vui lên đến tuyệt đỉnh khi các môn đệ nhận ra Người lúc bẻ bánh.
Hôm nay tuy Tin Mừng không minh nhiên ghi lại, nhưng ta có thể đoán biết Chúa Giêsu đang giả vờ. Vì sóng to gió lớn dập vùi làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, nước tràn vào đến nỗi thuyền có nguy cơ bị chìm đắm, trong khi đó các tông đồ xôn xao chạy ngược chạy xuôi, hò hét nhau tìm cách tát nước ra. Giữa khung cảnh như thế, làm sao có thể nằm ngủ ngon lành được. Chỉ có thể là giả vờ. Việc giả vờ của Chúa phát xuất do tình yêu.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn ta đáp lại tình yêu thương của Chúa. Đó là định luật thông thường trong tình yêu. Khi yêu ai cũng muốn được đáp trả. Chúa không đi ra ngoài định luật thông thường đó. Người tha thiết yêu ta. Người mong ta yêu mến gắn bó với Người, nên đôi khi Người giả vờ lãng quên để ta nhớ mà chạy đến với Người, gắn bó với Người hơn. Như bà mẹ muốn đứa con tỏ ra cần đến mẹ, tha thiết đi tìm mẹ, hốt hoảng khi không thấy mẹ, Chúa cũng mong ta cần đến Chúa, tha thiết đi tìm Chúa và hốt hoảng lo âu khi thấy vắng bóng Chúa.
Vì yêu thương ta, Chúa muốn rèn luyện ta nên người. Để rèn luyện ta, Chúa gửi những thử thách tới. Cuộc đời ví như mặt biển cả mênh mông. Mỗi người là một con thuyền lênh đênh trên mặt nước. Sóng gió là những thử thách trong cuộc đời. Những thử thách Chúa gửi đến giúp ta trưởng thành ở ba phương diện.
Những thử thách giúp ta biết mình hơn. Bình thường ta nghĩ mình chẳng kém thua ai. Nhưng khi gặp thử thách mới biết mình thật yếu đuối. Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên mặt nước thì tưởng mình cũng đi được. Nhưng chỉ được mấy bước đã chìm xuống. Các tông đồ là những bạn chài đã quen với sóng nước. Thế mà vẫn kinh hoảng trước bão tố. Đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng khi gặp gió bão vẫn hoảng kinh. Thử thách giúp ta biết mình. Biết mình để thêm khôn ngoan, thêm trông cậy và nhất là để biết rèn luyện bản thân cho tiến bộ hơn.
Thử thách giúp ta biết yêu mến, cậy trông vào Chúa hơn. Có thử thách ta mới biết sức mình, biết có những việc ở ngoài tầm tay của mình, chẳng ai có thể giúp mình ngoài Chúa. Vì thế gặp nhiều thử thách giúp ta biết cậy trông phó thác vào Chúa hơn. Gặp thử thách ta mới biết chẳng ai yêu thương ta bằng Chúa. Chúa sẽ không để ta bị thử thách quá sức chịu đựng, nên ta sẽ biết yêu mến Chúa hơn.
Thử thách giúp đức tin vững mạnh. Chẳng có thử thách nào kéo dài mãi mãi. Chúa chỉ cho thử thách một thời gian. Rồi Chúa lại can thiệp để sóng yên biển lặng. Khi sóng yên biển lặng rồi, các môn đệ càng vững tin nơi Chúa hơn. Để từ nay các ngài không còn cuống quít lo sợ mỗi khi gặp gian nan nữa. Đời sống mỗi người chúng ta cũng thế. Ai càng gặp nhiều thử thách thì càng trở nên từng trải, vững vàng.
Đời sống không thể thiếu thử thách. Hãy biết rằng Chúa cho phép thử thách vì yêu thương ta, để rèn luyện ta nên người. Hơn nữa Chúa luôn ở bên ta. Vì thế ta hãy vững tin, hãy cậy trông phó thác và hãy biết tận dụng những khó khăn để đức tin thêm vững mạnh. Thử thách rồi sẽ qua đi. Nhưng cách ta phản ứng trước thử thách lại tồn tại và tạo thành giá trị đời ta. Ước gì mọi thử thách ta gặp trong đời đều biến thành cơ hội cho ta được thêm lòng, lòng cậy và lòng mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tại sao Chúa cho ta bị thử thách? Thử thách có cần thiết không?
2) Thử thách giúp ta trưởng thành thế nào?
3) Ta phải sống thế nào trong thử thách để vượt lên trên thử thách?
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN– A
ĐỨC GIÊSU BIỂU LỘ QUYỀN NĂNG THẦN LINH- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Chúa nhật XI vừa qua, bài Tin mừng đã đề cập đến Nước Thiên Chúa, bài tin mừng tuần này là minh họa cụ thể của quyền năng Nước Thiên Chúa, được biểu lộ nơi chính những lời nói và việc làm của Đức Giêsu, là hai mặt của việc thực thi quyền năng Nước Thiên Chúa chiến thắng mọi sức mạnh sự dữ và sự chết vốn đang đe dọa con người. Thánh sử Marcô tường thuật một tình huống cụ thể, sau khi rao giảng cho dân chúng Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ xuống thuyền để qua bờ bên kia biển hồ vào buổi chiều lúc đêm tối đang đến. Trong tâm trí của những người xưa, đêm tối là thời gian của những sức mạnh sự dữ tung hoành và hơn nữa biển cả cũng là nơi chốn của những sức mạnh ma quỉ và mặt khác phía bên kia biển hồ cũng là quê hương các dân ngoại thù nghịch với những người do thái. Tình huống cụ thể của hoàn cảnh các môn đệ trên thuyền lúc bấy giờ thực thương tâm, giớ thổi lớn và sóng đánh mạnh vào mạn thuyền, ngay cả ùa vào thuyền đến nổi thuyền sắp chìm, các môn đệ đều sợ hãi trong khi đó Chúa Giêsu vẫn bình yên ngủ như không hay biết chuyện gì. Các ông đến đánh thức người với những lời trách móc : chúng con chết mất mà thầy không quan tâm sao. Chỗi dậy, Người đã truyền khiến cho sóng biển và sóng biển im lặng như tờ. Đây chính là điểm nhấn của bài tường thuật : Chúa Giêsu đã truyền khiến sóng biển hãy im đi và biển cả sóng gầm đã im lặng như tờ khiến các môn đệ đã phải tự hỏi : người là ai mà cả gió biển cũng vâng lệnh người. Và các nhà chú giải cũng nhận định rằng bài tường thuật của Tin mừng Marcô với những tình tiết mô tả tình huống căng thẳng dữ dội làm nổi bật câu hỏi này giữa các môn đệ : người là ai ? bởi đâu người có sức mạnh và quyền năng truyền khiến được biển cả ? Suy nghĩ sâu xa hơn, người ta có thể hình dung câu chuyện này là minh họa cuộc đời và sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Người chiến thắng mọi sức mạnh sự dữ. Nhất là hình ảnh Chúa Giêsu nằm ngủ trên thuyền trong khi chung quanh người biển cả đang thét gào là hình ảnh rất ý nghĩa để nói đến cái chết của người trong cuộc thương khó. Trong Thánh kinh, giấc ngủ cũng là hình ảnh của cái chết. Và Chúa Giêsu đã trỗi dậy truyền khiến sóng biển là hình ảnh sự trỗi dậy từ cõi chết của người. Người thức dậy như người sẽ trỗi dậy từ trong kẻ chết và người biểu lộ quyền năng của mình trên biển cả cũng như sẽ biểu lộ chiến thắng của mình trên sự chết. Nơi chính bản thân người, Thiên Chúa hành động cách mạnh mẽ và các môn đệ được mời gọi tin tưởng vào người.
Các bài đọc hướng chúng ta đến việc chiêm ngắm sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi cảm nghiệm lần hồi sức mạnh này của Thiên Chúa trong thiên nhiên vũ trụ để rồi đặt lòng tin tưởng vững mạnh vào Người. Bài đọc sách Gióp cho biết chính Thiên Chúa định nơi xác định vị trí cho biển cả, vạch những ranh giới qui định cho biển không làm hại tàn phá con người. Bài thánh vịnh 106 cũng nhắc những người sinh sống làm nghề buôn bán trên biển cả phải học nhìn ngắm những kỳ công lớn lao của Thiên Chúa trên biển cả. Chính Chúa làm cho gió biển thổi lên, sóng dữ thét gào, nhưng cũng chính Thiên Chúa làm cho biển trở lại im lặng : « Chúa biến đổi phong ba thành gió thổi hiu hiu, bao làn sóng biển thành im lặng như tờ ». Vì thế, bài tường thuật của Tin mừng Marcô được nối kết cách khéo léo với những bài đọc Thánh vịnh và sách Gióp. Từ một tình huống cụ thể là chuyến hành trình vượt qua biển hồ Galilê trong một cơn giông bão, thánh sử Marcô liên hệ tới mầu nhiệm của Đức Giêsu. Cho tới lúc bấy giờ, đức tin các môn đệ vẫn còn hèn yếu và các môn đệ vẫn còn chưa biết rõ mầu nhiệm con người Đức Giêsu. Cho đến khi chứng kiến việc Người truyền khiến cho sóng biển và sóng biển im lặng như tờ thì các môn đệ lần hồi mới hiểu rõ hơn căn tính thần linh của người. Bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng có quyền năng truyền khiến cho sóng biển, mà Chúa Giêsu lại có quyền năng truyền khiến cho sóng biển và sóng biển vâng lệnh người, vậy phải chăng người là Thiên Chúa. Vì thế, khi Đức Giêsu trách các môn đệ : « Sao các con sợ hãi thế, các con không có đức tin ư ? », thì đó cũng là một lời mời gọi các môn đệ hãy tin tưởng vào người, không chỉ là một vị thầy mà còn hơn thế nữa, người chính là Đấng cứu thế vẫn hằng được mong đợi, người chính là Con Thiên Chúa và các môn đệ hãy đặt lòng tin vào người là Con Thiên Chúa. Tường thuật về việc Chúa Giêsu ngủ trên thuyền giữa con sóng bảo của biển cả còn gợi nhắc đến cái chết và sự phục sinh của người chiến thắng mọi sức mạnh sự chết.
Thánh Phaolô là người đã bắt đầu sống và cảm nghiệm mầu nhiệm thần linh của Chúa Giêsu trong cuộc đời của mình và nhắc nhở các tín hữu Corintô để dẫn đưa họ vào đời sống này. Đối với thánh Phaolô, ông cảm nghiệm thực sự tình yêu của Chúa Giêsu và vì thế ông đáp lại tình yêu này bằng trọn vẹn cuộc đời của mình cho đến chết và thúc đẩy các anh chị em khác cũng hãy bắt chước ông đi vào con đường này : đó là Đức Giêsu đã chết cho mọi người và mọi người được mời gọi đáp lại bằng cách sống chết cho người. Thân phận mỗi người chúng ta lẽ ra phải chết do tội, nhưng Đức Giêsu đã chết đền thay tội lỗi chúng ta, vì thế chúng ta không còn được phép sống cho mình nữa mà sống và chết cho Đức Giêsu : « Đức Giêsu đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống thì không sống cho mình nhưng sống và chết cho Đấng đã chết và sống lại vì họ ». Mầu nhiệm cuộc đời của Đức Giêsu có liên hệ mật thiết với mỗi người chúng ta. Người đã sống và chết cho mọi người thì ngược lại, chúng ta được mời gọi sống chết cho người và với người. Cuộc đời của chúng ta chỉ có ý nghĩa và chỉ hoàn tất trọn vẹn trong Người mà thôi. Không có người và không kết hợp với người, cuộc đời chúng ta sẽ không có ý nghĩa gì cả và sẽ dẫn đến sự hư mất đời đời. Ngược lại, được kết hợp với người, cuộc đời chúng ta sẽ thực sự có ý nghĩa trọn vẹn, chúng ta được kết hợp với con Thiên Chúa, nhờ đó chiến thắng mọi sức mạnh của sự chết.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
CÓ CHÚA Ở CÙNG– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Có ai trong chúng ta đã từng đi tàu trên biển, đã từng đối diện với những cơn cuồng phong nổi lên, làm cho con tàu nghiêng ngả, lúc bấy giờ chúng ta mới cảm thấy con người mình bất lực khi bà mẹ thiên nhiên nổi giận. Có trải qua như thế, chúng ta mới hiểu được tâm trạng của các môn đệ khi đối diện với sóng to gió lớn, làm cho chiếc thuyền nghiêng ngả chòng chành, nước đã tràn vào và có nguy cơ bị chìm, khiến các môn đệ sợ hãi hết sức, vì cảm thấy con người quá ư là mong manh bé nhỏ trên biển cả.
Trong lúc nguy biến như thế, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nằm nghỉ yên trên thuyền, không biết Ngài có ngủ hay không. Cho đến lúc các ông phải thốt lên lời cầu cứu: “Thầy ơi! chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy chẳng lo gì sao?”, lúc bấy giờ Chúa mới ra tay cứu giúp.
Việc Chúa trách các môn đệ: “Sao nhát thế! Các con chưa có lòng tin ư!”. Phải chăng đây là dịp để Chúa mặc khải cho các môn đệ biết: Ngài là ai?, khi biểu lộ quyền năng trên biển cả, bão tố… để họ nhận ra và xác tín niềm tin của mình. Quả thật, chỉ một lời:” Hãy im đi, hãy lặng đi” thì sóng to gió lớn liền yên lặng. Thấy vậy, các ông mới tin Chúa là Đấng quyền năng làm được mọi sự, ngay cả biển còn phải vâng lệnh Ngài.
Biến cố con thuyền của các môn đệ năm xưa bị sóng đánh chập chùng trên biển cả, còn là hình ảnh minh họa cho con thuyền của Giáo Hội từ hơn 2.000 năm qua, đã gặp biết bao sóng gió cả bên trong lẫn bên ngoài.
Từ bên ngoài, đó là các cuộc bách hại liên tục và đẫm máu, còn bên trong là những cuộc ly khai đầy đau buồn của anh em Tin lành và Chính Thống Giáo. Đau buồn hơn nữa là ngày nay nhiều tín hữu bỏ nhà thờ, bỏ đức tin. Ơn gọi ngày mỗi suy giảm, rồi Đức Thánh Cha bị kẻ thù công kích…
Biết bao lãnh chúa hùng cường, bè rối, giáo phái đứng lên chống phá Giáo Hội, tựa như con thuyền đi giữa sóng gió trần gian, vậy mà Giáo hội vẫn đứng vững trên tảng đá Phêrô do Chúa thiết lập, nên không quyền lực trần gian nào có thể phá đổ được. Bởi vì có Chúa luôn ở cùng Hội Thánh.
Thật vậy, khi Chúa trao sứ mạng cho ai, thì Ngài hứa: Ta sẽ ở cùng ngươi. Chẳng hạn như: Chúa hứa ở cùng Giacóp, ở cùng Môisen, ở cùng Đavít. Với Mẹ Maria, Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Với các môn đệ, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Ngày nay, mỗi khi cử hành Thánh lễ, vị linh mục chủ tế nhiều lần nhắc lại: Chúa ở cùng anh chị em; bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em.
Anh chị em thân mến,
Nhìn vào cuộc đời mỗi người, có lẽ không ai trong chúng ta tránh khỏi những lúc hoảng sợ, chơi vơi như người đi biển. Đời người ta, ai cũng có lúc gặp những sóng gió, phong ba, đau khổ và thử thách tư bề. Đó là những rủi ro, bệnh tật, những áp lực….như những cơn bão xô đẩy làm ta nghiêng ngả giữa dòng đời. Nếu không vững tin vào Chúa, thì dễ làm ta hoang mang, lo sợ và như buông xuôi tất cả.
Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn luôn đồng hành thiêng liêng dẫu xem ra “như Ngài đang ngủ”. Trong những lúc gian nguy như thế, nếu ta đánh thức Ngài dậy như các môn đệ năm xưa, thì Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Về phía Chúa thì lúc nào Ngài cũng có mặt ở bên cạnh chúng ta. Còn về phía chúng ta, có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình hay không?
Trong cuộc sống, khi gặp đau khổ và thử thách, chúng ta cảm thấy dường như Thiên Chúa bỏ rơi mặc cho bão tố xô đẩy, nhưng thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho mỗi người chúng ta trí thông minh, tự do và ân sủng để trợ giúp chúng ta lướt thắng những sóng gió trên đường đời, nhưng không phải vì thế mà ta cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xẩy ra và những gì Ngài sẽ làm.
Xin cho mỗi chúng ta, hãy luôn tin tưởng cậy trông phó thác vào Chúa. Có Chúa ở cùng, Ngài sẽ giúp chúng ta không chỉ vượt qua phong ba đe dọa mạng sống con người, nhưng Ngài còn đưa thuyền đời chúng ta về tới bến bờ yêu thương hạnh phúc.
Vì thế, Lời Chúa hôm nay, một lần nữa nhắc nhở chúng ta: giữa những cơn sóng của cuộc đời, là cơ hội làm cho đức tin của chúng ta trưởng thành hơn, nhất là cả thế giới đang đối diện với cơn đại dịch, làm tê liệt hết mọi sinh hoạt. Chúng ta hãy luôn tin tưởng vào sự hiện diện đầy quyền năng và lòng thương xót vô biên của Chúa, nhờ đó chúng ta an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an. Amen
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-B
QUYỀN UY TRÊN THIÊN NHIÊN- Lm. Đan Vinh HHTM
*TIN MỪNG : Mc 4,35-41
(c 35) Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ : Chúng ta sang bờ bên kia đi !” (36) Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền. Có những thuyền khác cũng theo Người. (37) Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền đến nỗi thuyền đầy nước. (38) Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói : “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” (39) Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển : “Im đi ! Câm đi !” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. (40) Rồi Người bảo các ông :”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ? (41) Các Ong hoảng sợ và nói với nhau :”Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”
*Ý CHÍNH : Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng của Người trên gió và biển, tượng trưng cho những thế lực của ma quỉ muốn chống lại Thiên Chúa. Người đã dùng lời quyền năng dẹp yên sóng gió để củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ. Đồng thời cũng để các ông vững tin khi gặp phải những cơn thử thách bách hại sau này.
*CHÚ THÍCH :
-C 35-36 : +Chúng ta sang bờ bên kia đi” :Biển hồ ở đây là hồ Galilê, cũng có tên Giê-nê-sa-rét hay Ti-nê-ri-a. Đây là một các hồ lớn nằm bên trong đất liền xứ Ga-li-lê, dài 21 km và rộng 13 Km. Hồ thấp hơn mặt biển 210 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng thương hay có những trận cuồng phong. Biển hồ theo nghĩa của Thánh Kinh là một thế lực gian ác chống lại Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su đã làm nhiều phép lạ tại vùng biển hồ này như : Hóa bánh ra nhiều (x Mt 14,14-31); Đi trên mặt nước (x Mt 14,25); Chữa nhiều bệnh nhân (x Mt 15,29-31); Hiện ra sau khi sống lại (x Ga 21,1); Mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,4-8).
-C 37-38 : +Và một cơn cuồng phong nổi lên :Cơn cuồng phong đe doạ sẽ nhấn chìm thuyền của các Tông đồ xuống lòng biển, tiên báo những nguy hiểm thử thách mà Hội Thánh sẽ phải trải qua sau này. +Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ :Trong khi chiếc thuyền và những người trên thuyền lâm nguy vì bị bão tố trù dập thì Đức Giê-su vẫn nằm ngủ để thử thách đức tin của các môn đệ. Giấc ngủi còn là hình ảnh ám chỉ về sự chết của Người (x Tv 13, 4; Ep 5, 14).. +Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói : “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” :Đánh thức là hành động của các môn đệ kêu cầu Đức Giệ-su cứu giúp trong cơn nguy hiểm. Điều này cho thấy lòng tin yếu kém của các ông vì chưa tín vào quyền năng và tình thương của Thầy mình. +Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao ?” : Các môn đệ hốt hoảng khi thấy thuyền của các ông sắp bị chìm đắm giữa biển khơi mà xem ra thầy các ông không hay biết.
-C 39-41 : +Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển : “Im đi ! Câm đi !”: Đức Giê-su bày tỏ uy quyền trên gió bão và biển động. Khi ra lệnh cho ai là chứng tỏ mình có quyền trên người đó. Khi truyền cho sóng gió yên lặng, Đức Giê-su chứng tỏ quyền năng trấn áp các thế lực gian ác. +Lập tức gió ngưng biển lặng :cho thấy sự dữ đã phải tùng phục uy quyền của Con Thiên Chúa.+”Sao nhát thế ? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin ?: Đức Giê-su quở trách sự hèn tin của các môn đệ như nhiều lần khác Người đã trách các ông chậm tin vào Người: “Hỡi những kẻ ngu muội và trí lòng chậm tin”(Lc 24, 25); “Người quở mắng sự cứng tin chai đá của họ, bởi họ không tin những kẻ đã thấy Người sống lại” (Mc 16,14).+Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ? :Các môn đệ ngạc nhiên và đầy lòng thán phục Đức Giê-su, khi họ được chứng kiến lời phán đầy uy quyền của Người trên thiên nhiên là gió và biển..
*CÂU HỎI :
1-Biển hồ Ga-li-lê còn có những tên gọi nào ? Dài rộng bao nhiêu ?
2-Đức Giê-su đã làm các phép lạ nào tại vùng biển hồ này ?
3-Cơn cuồng phong tượng trưng cho điều gì ?
4-Đức Giê-su ngủ ở đàng lái trong khi cuồng phong nổi lên nhằm mục đích gì ?
5-hành động đánh thức Đức Giê-su nói lên điều gì về đức tin của các môn đệ ?
6-Đức Giê-su bày tỏ quyền năng Con Thiên Chúa qua lời nói và hành động nào ?
7-Ngoài lần này, Đức Giê-su còn trách các môn đệ hèn tin trong những hoàn cảnh nào nữa không ?
8-Các môn đệ đã biểu lộ đức tin thế nào khi chứng kiến phép lạ Đức Giê-su thực hiện trên thiên nhiên ?
*SỐNG LỜI CHÚA
*LỜI CHÚA : Môn đệ liền nói : ”Người là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh ?”(Mc 4,41).
*CÂU CHUYỆN :
*1) TÍN THÁC VÀO TÀI NĂNG CỦA CHA:
Trong một chuyến du hành vượt Đại Tây Dương, nhiều du khách đang đứng trên boong ngắm cảnh hoàng hôn mặt trời đang dần lặn xuống biển. Bỗng mây đen ùn ùn kéo tới, chẳng mấy lúc làm tối sầm cả vùng trời. Rồi sấm chớp đổ xuống liên hồi, trên mặt biển giông tố cuồn cuộn nổi lên, gió càng lúc càng thét gào dữ dội. Mọi người trên boong chen lấn nhau đi về phòng mình, duy chỉ một bé trai là tiếp tục chơi trên boong khi trận cuồng phong sắp ập xuống.
Khi có người hỏi « Em không thấy sợ khi cơn giông tố đang ập đến sao ? » Em thản nhiên đáp lại: « Em không sợ, vì ba em chính là thuyền trưởng cừ khôi đang cầm lái con tàu này ! ».
Giống như cậu bé đã tin tưởng ở cha mình đang cầm lái con tàu, mỗi người chúng ta cũng hãy vững tin Thiên Chúa là Cha đầy tình yêu và quyền năng. Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời chúng ta bước theo đường lối của Ngài để tới bến bình an.
*2) CON RUỒI : MỘT TẠO VẬT TINH XẢO CỦA THIÊN CHÚA:
Ngày kia khi tôi đang ngồi ăn trong phòng thì một con ruồi từ bên ngoài bay vào. Nó bay mấy vòng trên bàn rồi nhẹ nhàng hạ cánh xuống miếng chuối ăn dở trên bàn…. Con ruồi đã có thể làm bất cứ điều gì nó thích và bay đến bất cứ nơi nó muốn.
Con ruồi chỉ là một sinh vật nhỏ bé và không chứt giá trị, thế nhưng hoạt động của nó lại trổi vượt hơn hẳn một chiếc máy bay tinh xảo đắt tiền…. Ruồi cất cánh mà không cần lấy đà như máy bay. Đang bay nhưng nó vẫn có thể đáp xuống ngay. Ruồi không bị rơi, không va chạm vào vật nào khác và cũng không bị tai nạn mjuw máy bay. Nó không cần phải học bay và động cơ cũng không bao giờ bị trục trặc hay gặp sự cố. Và cuối cùng nó có khả năng sản xuất ra ngàn vạn con ruồi tương tự mà không phải tốn bao nhiêu công sức.
Con ruồi cho chúng ta thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa trong vũ trụ thiên nhiên.
*3) TẬN MẮT CHỨNG KIẾN PHÉP LẠ TẠI LỘ ĐỨC :
Một sinh viên y khoa người Tây Ban Nha đi viếng trung tâm hành hương Đức Mẹ tại Lộ Đức bên Pháp. Ở đại học Madrid, chàng sinh viên này đã nghe các giáo sư vô tín ngưỡng nói về Lộ Đức như là nơi sản xuất của những mê tín dị đoan trong tôn giáo. Nên trong thời gian ba tháng này, anh sinh viên muốn điều tra thực hư về các phép lạ. Tại đây anh đã được tận mắt chứng kiến một phép lạ như sau :
“Hôm đó tôi đang ở sân Vương cung Thánh đường Lộ Đức cùng với các bà chị của tôi chờ Kiệu Mình Thánh Chúa sắp đi qua. Bấy giờ một bà tuổi trung tuần đang đẩy một chiếc xe lăn đi tới ngay trước mắt chúng tôi. Bà chị tôi chỉ chiếc xe lăn nói : “Kìa hãy coi cậu con trai đáng thương của bà ta !” Đó là một anh chàng khoảng 20 tuổi bị bại liệt và toàn thân biến dạng. Mẹ của anh ta đang lần chuỗi to tiếng, kèm theo lời cầu nguyện “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin hãy giúp đỡ chúng con !”.
Khi Đức Giám Mục ban phép lành Mình Thánh cho chàng thanh niên bại liệt, đang lúc anh ta nhìn vào mặt nhật có đựng Mình Thánh Chúa. Đột nhiên chàng thanh niên bại liệt trỗi dậy, từ từ bước ra khỏi chiếc xe lăn và đã hoàn toàn bình phục ! Dân chúng thấy vậy liền hô to trong niềm vui hân hoan: “Phép lạ ! Phép lạ !”
Sau đó nhờ có giấy phép, nên tôi được xem các bằng chứng xác minh phép lạ này. Tôi không thể diễn tả hết những điều tôi cảm nhận và về tâm trạng tôi lúc đó. Tôi đến từ trường Y Khoa Đại Học Madrid, nơi có nhiều giáo sư vô tín nổi tiếng và nhiều sinh viên bạn học của tôi luôn miệng nhạo báng phép lạ. Thế mà giờ đây, tôi đã được chứng kiến tỏ tường một phép lạ do Chúa Giê-su Thánh Thể thực hiện. Khi ấy tôi đã cảm nhận được một sức mạnh vô song của Chúa và thấy thế giới chung quanh tôi thật nhỏ bé. Tôi đã trở về Madrid, Tây Ban Nha và ba tháng sau tôi chính thức được gia nhập vào Tập Viện Dòng Tên».
*4) SỨC MẠNH VÔ SONG CỦA LỜI CẦU NGUYỆN :
XÁC INH-LÍT (Charles Inglis), một nhà truyền giáo nổi tiếng thánh thiện đã kể lại câu chuyện như sau: trên một chuyến đi biển kia có một nhà truyền giáo tên là GIOÓC-DƠ MU-LƠ ở BỚ-RAI-TƠN, dự định sẽ đến nhà thờ lớn ở QUÊ-BÉC giảng đạo vào chiều thứ Bảy cuối tuần. Nhưng do bị sương mù quá dầy khiến vị thuyên trưởng phải cho tàu chạy chậm và như thế khiến nhà truyền giáo sẽ bị trễ hẹn. Bấy giờ nhà truyền giáo mới nói với thuyền trưởng mình có cách sẽ sớm làm tan làn sương mù kia đi. Thuyền trưởng nghĩ ông này bị mát dây thần kinh nên không thèm để ý. Bấy giờ nhà truyền giáo liền yêu cầu thuyền trưởng cùng quỳ gối cầu nguyện với mình. Rồi ông một mình quỳ gối xuống dâng một lời cầu nguyện sốt sắng, đang khi viên thuyền trưởng vẫn đứng nhìn với con mắt không mấy tin tưởng. Chờ cho nhà truyền giáo cầu nguyện xong, vị thuyền trưởng mới nói : “Ngài có biết độ dày của sương mù kia đến cỡ nào không ?”. Nhà truyền giáo trả lời :”Không biết! Nhưng tôi không nhìn vào sương mù. Tôi chỉ nhìn vào Đấng dựng nên sương mù mà thôi”. Viên thuyền trưởng định quỳ gối xuống cầu nguyện thì nhà truyền giáo đã ngăn lại và nói : “Nếu lòng ông không tin thì cầu nguyện nào có ích gì ? Hơn nữa, tôi tin chắc Chúa đã nhận lời cầu của tôi rồi nên ông chẳng cần phải cầu thêm làm chi ! Tôi đã nhận biết Chúa được 57 năm rồi, và trong suốt thời gian đó không ngày nào mà tôi không thưa chuyện với Người. Bây giờ ông hãy mở cửa ra mà xem việc Chúa làm”. Quả nhiên khi mở cửa ra thì viên thuyền trưởng thấy làn sương mù dày đặc trước đó đã tan biến hết, con tàu lại tiếp tục tăng tốc và cuối cùng đã cập bến đúng theo lịch trình.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đức tin mạnh mẽ của nhà truyền giáo. Chính Chúa Giê-su đã luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và hoàn toàn tín thác cậy trông nơi Cha. Ngày nay, vì thiếu lòng tin nên người ta coi thường việc cầu nguyện. Mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn hay gặp gian nan thử thách, người ta thường chỉ biết dựa vào sức riêng mình, đang khi lẽ ra vừa phải xin Chúa ban ơn soi sáng để tìm ra giải pháp tốt nhất, lại vừa phải cố gắng làm hết sức mình để giải quyết các khó khăn trở lực ấy.
*SUY NIỆM :
Tin Mừng kể lại cảnh tượng xảy ra trên biển hồ Ga-li-lê : Đức Giêsu đang ngủ. Ngài ngủ vì mệt mỏi sau khi dùng thuyền làm giảng đài để dạy dỗ dân chúng. Các môn đệ đều là các ngư phủ chuyên nghiệp, và vùng biển này là điạ bàn hoạt động quen thuộc của các ông, thế mà lúc này các ông lại đang trong tâm trạng hoảng loạn.
- Chúa ngủ trong thuyền giữa cơn bão:Theo Chúa không phải lúc nào cũng thuận buồn xuôi gió hay được hưởng thái bình thịnh vượng. Ngay cả những lúc chúng ta gần Người nhất, khi không có tội lỗi hay nghi ngờ nào làm ta cách ly Người, thì giông tố vẫn có thể xảy tới. Chúa không hứa cho chúng ta được thư thái an nhàn, nhưng đòi ta phải sẵn sàng chiến đấu, từ bỏ, thậm chí có khi còn phải chịu chết vì danh Người…
- Chết đến nơi rồi mà Thầy không lo gì sao ?:Câu nói biểu lộ sự kinh hãi tột độ và ngụ ý trách móc Chúa đã không quan tâm giúp đỡ khi môn đệ đang gặp nguy nan. Ngày nay một bộ phận tín hữu chúng ta cũng có tư tưởng này mỗi khi bị cơn bão cuộc đời vùi dập. Từ khi tin theo Chúa chúng ta thường nghĩ rằng chúng ta sẽ đương nhiên được Chúa che chở và cứu khốn phò nguy như đó là trách nhiệm Chúa phải chu tòàn, đang khi lẽ ra ta phải luôn cầu xin Chúa giúp ta vượt qua thử thách và phó thác cuộc đời trong bàn tay Chúa quan phòng.
- Gió liền tắt và biển lặng như tờ : Chúa Giêsu đã lệnh cho sóng gio yên lặng. Ngày nay cũng có người tự hỏi: “Tại sao Chúa lại không ra tay can thiệp cứu giúp các tín hữu mà lại mặc họ phải bị chết chìm trong biển cả cuộc đời ?” Nếu chúng ta hiểu câu chuyện chỉ vỏn vẹn là sự dẹp yên bão tố của thời tiết thì chắc chắn sẽ phát sinh nhiều vấn đề làm chúng ta phải nặng lòng. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện này còn lớn hơn thế nữa :
- Chúng tôi phải làm gì ? : Trong cuộc sống, các tín hữu chúng ta phải thể hiện đức tin bằng cách :
-Khi sự sầu muộn đến như nó phải đến :Ta tin rằng Chúa sẽ biến đổi bóng tối của sự chết thành ánh sáng phục sinh vĩnh cửu. Người sẽ giúp chúng ta tin cậy vào tình yêu vô cùng của Ngài. Chằng hạn khi ta bị nất đi một người thân yêu, thì chúng ta nên biết rằng : Chết không phải là hết, nhưng là bườc vào một đời sống mới vình hằng và mai ngày chúng ta sẽ gặp lại người thân của chúng ta trên Thiên đàng.
-Khi chúng ta gặp phải một hoàn cảnh nan giải: Khi ta không biết phải làm gì, phải giải quyết thế nào mới đúng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa sẽ làm gì ?” hoặc : “Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ?” Bấy giờ Chúa sẽ nói trong lương tân để giúp chúng ta nhận biết con đường phải đi và ta sẽ có thể mạnh dạn thưa cùng Chúa :”Này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”.
-Khi gặp cơn lo âu bối rối : Khi ta phảilo cho bản thân, lo về một tương lai bất định, lo cho con cái sau này… Chúng ta hãy ý thức về lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa để trông cậy phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng. Người sẽ luôn giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc đời đời. Bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ được bình an như lời Chúa Giê-su phán :”Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.… Và tâm hồn các con sẽ được bình an” (Mt 11,29).
*THẢO LUẬN :
1). Một người có đức tin vững mạnh có bị thất bại hay gặp phải những sự gian nan khốn khó trong cuộc đời hay không ?
2). Một người chỉ biết cầu xin Chúa giúp mà không cố gắng làm việc để tự giải quyết những khó khăn gặp phải thì có phải là người có đức tin vững mạnh không ? Tại sao ?
3). Vậy khi gặp gian nan thử thách, người tín hữu phải làm gì để chứng tỏ đức tin vững mạnh của mình ?
*CẦU NGUYỆN :
-LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày nào chúng con cũng gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhiều khi những sự sui sẻo hoạn nạn lại cứ dồn dập đổ xuống làm con thuyền đức tin của chúng con như sắp bị chìm đắm. Trong những lúc ấy, xin cho chúng con ý thức rằng Chúa vẫn đang ở trong thuyền linh hồn chúng con, để chúng con yên tâm và không còn bị nao núng sợ hãi nữa. Xin cho chúng con biết vừa làm hết sức mình, vừa tín thác cậy trông vào ơn cứu độ của Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ có thể vượt qua các cơn gian nan sóng gió và tới bến bình an.
-LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn tin vào tình thương quan phòng của Chúa. Cho chúng con biết xử dụng những ơn lành Chúa ban để giải quyết những trở ngại gặp phải trên đường đời. Mỗi khi gặp phải điều gì trái ý, xin cho chúng con biết cầu nguyện như Chúa khi xưa: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khòi uống chén này. Nhưng đừng theo ý riêng con, một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39). Xin cho chúng con vừa làm việc vừa cầu xin Chúa trợ giúp như lời bài hát :“Có Chúa đi với con, con sẽ không còn sợ chi. Có Chúa đi với con, con sẽ không còn thiếu gì”. Xin cho con năng dâng lời ngợi khen cảm tạ Chúa về muôn ơn lành Chúa đã thương ban, cho con biết noi gương Mẹ Ma-ri-a mà dâng lên lời ngợi khen cảm tạ tình thương bao la của Chúa, vì Chúa đã làm cho con biết bao điều lớn lao kỳ diệu (x Lc 1,46-55).
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
SÓNG GIÓ CUỘC ĐỜI- Lm. Anphong Trần Đức Phương
Tôi đã được nghe một câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963). Ngài chỉ ở trên ngôi vị Giáo Hoàng trong vòng 5 năm (1958-1963), nhưng được nhiều người sùng mộ. Sau khi Ngài qua đời, rất nhiều người đã đến viếng mộ của Ngài, đến nỗi di hài của Ngài đã được đưa từ hầm mộ lên trên nền Đền Thờ Thánh Phêrô để dễ dàng cho giáo dân kính viếng. Ngài có một niềm ưu tư đặc biệt về việc hiện đại hóa Giáo Hội. Ngài cũng luôn quan tâm về nền hòa bình thế giới. Một trong những thông điệp nổi tiếng của Ngài là Thông Điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới” (Pacem in Terris), ra ngày 11-4-1963, trong đó Ngài kêu gọi mọi người có thành tâm thiện chí hãy chung tay xây dựng Hòa Bình và sự Công Chính trên thế giới, để “làm cho trái đất này trở nên nơi ở tốt đẹp hơn cho nhân loại!”(Lời kết Thông Điệp) Một đêm khi Ngài đang ngủ, Ngài chợt nghĩ đến bao nhiêu những điều cần phải thực hiện trong Giáo Hội. Ngài mong cho đến sáng để xin vào trình bày với Đức Giáo Hoàng về những việc cần phải làm ngay. Nhưng Ngài sực tỉnh và mới nhận ra chính Ngài đang là Giáo Hoàng! Lúc đó, Ngài cảm thấy hết sức sợ hãi! Nhưng như có tiếng Chúa nói với Ngài: “Giáo Hội là của Cha chứ không phải của con!” Bấy giờ Ngài mới lấy lại can đảm và cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Ngài biết phải làm gì để canh tân Giáo Hội. Rồi Ngài đã mở Đại Công Đồng Vatican II (1962-1965), mời các vị Hồng Y và Giám Mục từ các nơi trên thế giới trở về Rôma họp để cùng nhau đưa ra những ý kiến hiện đại hóa Giáo Hội.
Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay, trong Bài Phúc Âm (Mc 4, 35-41), chúng ta thấy các Thánh Tông Đồ đang chèo thuyền trên Biển Hồ Tibêriat trong đêm tối, thì sóng to gió lớn nổi lên, nước ùa vào trong thuyền đến nỗi thuyền sắp chìm, mà Chúa Giêsu cứ ‘ngủ yên’ trên mạn thuyền, như không biết gì cả. Các Tông Đồ phải đánh thức Chúa dậy: “Chúng con sắp chết đến nơi mà Thày không quan tâm đến sao?” Chúa Giêsu đã ‘thức dậy’ và làm phép lạ cho gió yên, biển lặng! Rồi Chúa trách các Tông Đồ: “Các con không có đức tin ư? Sao mà qúa sợ hãi như vậy!”
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta có nhiều lúc cũng gặp “bão tố nổi lên” và chúng ta có cảm tưởng Chúa cứ ‘ngủ yên’ mà không thương cứu giúp chúng ta. Y như trong trường hợp khổ đau của ông Gióp trong Bài Đọc I (Gióp 38, 1.8-11). Nhưng ông Gióp đã luôn vững tin nơi Chúa, không phàn nàn, kêu trách; rồi Chúa đã làm cho sóng gió cuộc đời ông chấm dứt, và ban lại cho ông một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Bài Đọc II (2Cr 5,14-17), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: Vì thương yêu chúng ta, “Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại!..”, đem lại cho chúng ta một niềm tin vững chắc vào tình thương của Chúa.
Là những tín hữu của Chúa, chúng ta hãy noi gương ông Gióp, luôn biết tin tưởng, phó thác nơi Chúa trong mọi biến cố xảy ra cho chúng ta, gia đình chúng ta, thế giới chúng ta và ngay trong Giáo Hội Chúa nữa; vì Chúa là Thiên Chúa toàn năng, và là Cha yêu thương của chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta và lo lắng mọi điều cần thiết cho chúng ta. (Mt 6, 25-34)
Trong thế giới ngày nay, người ta thường thiếu niềm tin nơi Chúa, và vì thế dễ lo lắng, sợ hãi trước những biến cố đau thương xảy ra trong cuộc đời, và trở nên khủng hoảng tinh thần, bất mãn với cuộc đời, tâm trí bị căng thẳng, rồi suy nhược (depressed) và có những trường hợp đưa đến loạn trí, hành động điên rồ gây nên những tội ác khủng khiếp: như tự hủy chính mình, có khi giết hại mạng sống cả gia đình, có khi giết hại những người vô tội, như những cuộc bắn giết tại các trường học, tiệm ăn, sở làm và các trung tâm thương mại v.v…
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho chúng ta được vững niềm tin phó thác nơi tình thương che chở của Chúa là Cha chúng ta. Xin cho chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa để chấp nhận mọi đau khổ, thử thách xảy ra cho chúng ta , gia đình chúng ta. Chính những đau khổ, thử thách tôi luyện đức tin của chúng ta, làm cho đức tin của chúng ta trở nên vững chắc hơn. Đau khổ và thử thách cũng là những dịp để chúng ta được thông phần với sự đau khổ Chúa đã chịu để cứu chuộc chúng ta (Xin xem 1 Pr 1, 6-9; 2 Cr 4, 17-18; Rm 8,18).
“Anh em hãy phó thác mọi nỗi lo âu cho Chúa; vì Chúa luôn lo lắng cho anh em!” (1Pr 5,7).
“Hãy phó thác đường đời cho Chúa,
Người sẽ lo liệu mọi sự cho chúng ta!”
(TV 37).
“Tôi tin, tôi tin Chúa đã thương tôi, nên Người đã chết, chết vì tôi…
“Tôi tin Chúa vẫn thương tôi, cho dù đời tôi bao phen giông tố…”
(Bản Thánh ca “Tôi Tin” của Thành Tâm)
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-B
NGƯỜI DỰA VÀO CHIẾC GỐI MÀ NGỦ- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?”
Cũng như hai dụ ngôn ‘hạt giống tự mọc’ và ‘hạt cải nhỏ bé’ được kể trước đó, sự kiện cuồng phong nổi lên và sóng nước ập vào làm cho con thuyền các môn đệ hòng chìm, trong khi đó Đức Giê-su ‘đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ’ buộc ta phải suy nghĩ khi giáp mặt với những nghịch lý đầy thách thức trong chính đời sống Tin Mừng. Tự nhiên, khi nghĩ về Thiên Chúa cũng như về vương quốc của Ngài, thì quyền năng và sức mạnh mới chính là điều mà mọi người thường nghĩ tới trước nhất. Chính vì vậy mà khi nhìn thấy đau khổ tràn lan, bất công ngập tràn và sự ác thống trị, trong khi sự thiện lại thoi thóp trong tuyệt vọng, nhiều người đã cho rằng, đó là một bằng chứng thuyết phục cho thấy không hề có Thiên Chúa; vì nếu Ngài thật sự hiện hữu, thì với tất cả quyền năng và thánh thiện như thế, tại sao lại không can thiệp, không giáng phạt bằng tất cả sức mạnh của Ngài? Thiên Chúa lẽ nào lại vô tâm tới mức đó sao? Giải đáp duy nhất mà người ta thường nại tới để giải quyết nghịch lý này là sự kiên nhẫn chịu đựng có giới hạn của Thiên Chúa, sự nhẫn nhục này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi của cuộc đời này, để rồi tới kiếp sau sự công thẳng và quyền bính của Ngài sẽ hiển trị qua việc nghiêm minh xét xử, với phần thưởng thiên đàng dành cho người thiện, hay hình phạt hỏa ngục dành cho người dữ. Giải đáp này trên thực tế hình như được hầu hết các tôn giáo trưng ra, tuy với những hình thái khác nhau, chẳng hạn như thuyết luân hồi của Phật Giáo.
Vẫn biết Thiên Chúa là quyền năng và quyền năng này vượt trên tất cả mọi sự, ‘Thức dậy, Người ngăn đe gió và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ’. Thiên Chúa đương nhiên có quyền trên cả sự dữ! Trong trường hợp cụ thể này, theo lối suy nghĩ của các môn đệ, biển cả dậy sóng là hình ảnh quen thuộc của sức mạnh sự dữ, của tà thần (xem Mc 1:25). Có điều là ít tôn giáo nào dám nghĩ rằng quyền năng lớn lao nhất của Thiên Chúa (Thượng Đế…) lại chính là quyền năng buộc Ngài phải câm nín. Ngoài Ki-tô giáo, có tôn giáo nào dám nghĩ rằng có một Thiên Chúa mà quyền năng và bản chất tuyệt hảo nhất của Người lại chính là lòng nhân từ và thứ tha? Đặc tính ‘nhân từ và hay thương xót’ của Thiên Chúa, nếu có tìm thấy trong Do Thái giáo, Hồi giáo…, thì cũng chỉ mang tính tạm bợ và hạn hẹp, và chỉ dành cho một số đối tượng nhất định mà thôi (các tín hữu trung thành, những người công chính chẳng hạn). Chỉ riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, và bản chất của Tình Yêu đó trước hết và trên hết là thứ tha và hay thương xót. Phải chăng từ muôn thuở yếu tính của Thiên Chúa chính là điều này… và sẽ còn tiếp tục mãi mãi cho tới muôn đời? Mạc khải lớn nhất của Đức Giê-su Ki-tô chính là đây: Thiên Chúa không lên án, Ngài không luận phạt, Ngài chỉ làm một điều duy nhất là cứu độ và xót thương. Luận phạt hay lên án là do chính con người tự quàng vào cổ mình “vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-21). Kể từ mạc khải vĩ đại này, thinh lặng trước sự dữ, thay vì là yếu đuối sợ hãi, lại biểu lộ sức mạnh vô địch nhất của Thiên Chúa. “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?… Nhưng đức Giê-su vẫn làm thinh” (Mt 26:62-63).
Thần lực Người làm cho gió im biển lặng đã làm cho các môn đệ hoảng sợ, mối hoảng sợ này có lẽ lớn không kém lúc cuồng phong bão tố nổi lên, ‘Các ông hoảng sợ nói với nhau…’ Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3:1), hoặc I-sai-a khi thoáng nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa (Is 6:5), hoặc bất cứ ai khác cũng đều run sợ trước mọi biểu hiện của quyền lực thần linh. Chỉ duy uy quyền tình yêu của Thiên Chúa là không gây sợ hãi! Và chỉ có sức mạnh tình yêu tha thứ mới làm cho con người được thư thái và an bình thực sự. “Bình an cho anh em… Thầy đây đừng sợ!” (Lc 24:36). Một khi được Đức Giê-su tỏ cho biết Thiên Chúa là ai trong thực chất của Ngài, và Thần Khí giúp ta khám phá ra Thiên Chúa thật gần gũi, thấu hiểu hết các yếu đuối lỗi lầm của con người cho dù họ có gian ác tội lỗi tới đâu đi nữa, bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy tràn ngập một niềm an bình độc đáo, một thứ an bình không ai trên cõi đời này có thể ban cho. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy… không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi…” (Ga, 14:27)
Tuy nhiên, một khi khám phá ra và hiểu rõ hơn về sức mạnh tình yêu tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, con người sẽ không khỏi cảm thấy một mối kinh ngạc thú vị, gần giống như một cảm giác ngất ngây. Hy vọng rằng các Ki-tô hữu chúng ta, một khi nghiệm thấy cảm giác tuyệt diệu đó, hãy để cho mối ‘kinh ngạc ngất ngây’ này tiếp tục tràn ngập tâm hồn mình… bây giờ và cho tới muôn đời!
Lạy Vua Tình Yêu nhân ái, cảm tạ Chúa đã một lần cho con nếm cảm được uy lực tình yêu nhân ái Chúa trong đời sống con. Xin cho con luôn nghiệm thấy Thiên Chúa tình yêu đang thinh lặng hiện diện trong con giữa mọi sóng gió cuộc đời. Xin đừng bao giờ cất khỏi lòng con sự bình an ngây ngất của Thần Khí hiện diện trong con, để con luôn có thể mở miệng kêu lên ‘Áp-ba’ giữa mọi nghịch cảnh. A-men.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
BIỂN ĐỜI VÀ BIỂN KHƠI- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc ra khơi nào cũng chứa đựng những bất trắc, những hiểm nguy. Dòng đời nào cũng có biết bao cạm bẫy giăng ngang. Biển khơi luôn làm cho con người sợ hãi. Dòng đời luôn làm cho con người lo âu. Con người luôn cảm thấy mình quá nhỏ bé trước biển khơi và biển đời. Biển đời và biển khơi mãi mãi làm cho con người cảm thất bất lực. Sóng gió vẫn thét gào. Sự dữ vẫn tung hoành. Con người luôn phải đối phó trước những tình huống rủi ro có thể xảy đến.
Thời gian qua báo chí nói nhiều về những nguy hiểm của các ngư dân Việt Nam đánh cá xa bờ. Lênh đênh trên biển. Không được bảo vệ. Một mình đối phó với biết bao hiểm nguy do thiên nhiên đưa đến, và ghê sợ hơn là do chính con người gây ra. Sự táo bạo của bọn cướp biển. Sự tranh giành phần biển đánh cá của các nước lân bang. Nhiều ngư dân cảm thấy sợ hãi khi phải rời bến xa bờ. Họ cảm thấy bất lực trước gian nguy trước mặt. Họ không dám mạo hiểm đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy một vài con cá. Họ đành rút lui. Họ sợ không thể đương đầu với bao sóng gió nghi nan. Kẻ bán thuyền. Người để thuyền nằm bờ chờ đợi thời cơ. Có mấy ai đủ can đảm ra khơi lúc này? Họ biết rằng ở nhà thì đói. Nhưng ra đi càng thêm nợ nần, có khi còn mất cả tính mạng!
Năm xưa các tông đồ đã từng hoảng loạn, sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên, của giông bão. Giông bão như muốn nhấn chìm tất cả: con người và tài sản. Con thuyền của họ thật mong manh! Họ đâu nghĩ rằng đêm nay biển dậy sóng trào. Họ đâu lường hết được những rủi ro có thể đến với họ đêm nay. Họ phải đối đầu với nguy nan, với bất trắc, với rủi ro. Một chiếc thuyền nan mong manh trên biển cả biết bám víu vào đâu? Làm sao họ có thể vào bờ an toàn trước gió biển và cuồng phong lồng lộng. Họ bất lực. Họ muốn buông xuôi cho dòng đời xô đẩy. Nhưng may thay, họ đã nhớ đến Thầy. Thầy vẫn hiện diện bên họ. Có Thầy hiện diện tại sao không cầu cứu? Thầy có thể làm cho kẻ chết sống lại. Thầy có thể đẩy lùi sự dữ. Thầy có thể làm mọi sự. Tại sao không chạy đến cùng Thầy? Dầu sao Thầy cũng là một cái phao duy nhất để các ông bám víu trong lúc nguy nan của dòng đời.
Các ông đã chạy đến kêu cầu Thầy: “Thầy ơi, chúng con chết mất!”. Đó là tiếng kêu từ thẳm sâu tâm hồn cần đến sự trợ giúp từ Thầy Chí Thánh. Đó là tiếng cầu cứu nói lên sự bất lực của con người trước sóng gió ba đào.
Đó cũng là tiếng kêu cứu của con người hôm nay khi đứng trước biết bao nghịch cảnh xảy đến trong đời. Biển đời vẫn đưa đẩy những sóng gió nghi nan, những bất trắc đau thương. Thiên tai vẫn ập xuống địa cầu. Sự dữ vẫn đang tung hoành. Có nhiều người như muốn thất vọng buông xuôi vì không tìm được lối thoát. Có nhiều người oán trời oán đất vì quá sức chịu đựng. Có nhiều người ôm phiền muộn trong đau thương một mình vì chẳng tìm được sự an ủi, cảm thông và tin tưởng nơi tha nhân. Dòng đời vẫn còn đó tiếng kêu van tha thiết dâng lên Đấng tối cao. “Xin cứu chữa chúng con, Chúa ơi!”.
Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao sóng gió nổi trôi. Cuộc đời tựa như chiếc thuyền nan chòng chành trước bao cám dỗ mời mọc, bao sự dữ bủa vây. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy kêu cầu Chúa. Hãy đưa tay để Chúa dìu chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Dòng đời đâu mấy khi bình yên. Con người mãi chơi vơi trong bể khổ trần gian. Nhưng có Chúa vẫn đang đi trong cuộc đời chúng ta. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy tin tưởng vào tình thương quan phòng của Chúa, Ngài sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho con cái của Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện bên cạnh các tông đồ và bên cuộc đời chúng ta, xin thương đến những cảnh đời đầy khó khăn thử thách của kiếp người
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
BÃO BIỂN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Cơn bão số hai đổ bộ vào tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng từ chiều 24 đến 25 tháng 05 năm 1989, sức gió giật cấp 12 kèm theo mưa to đổ xuống như thác. Đây là cơn bão mạnh nhất từ trước đến nay ở tỉnh này. Thống kê đầu tiên cho biết gần 500 người bị chết và mất tích. Hàng trăm người bị thương, hàng vạn ngôi nhà, nhiều trường học, bệnh viện, trạm trại, kho tàng … bị sụp đổ, hàng nghìn tầu thuyền bị chìm, hư hỏng, thất lạc. Trên 50.000 mét khối kinh mương thủy lợi bị vỡ lở … Bị tổn thất rất to lớn chưa thể tính hết được.
Chỉ một cơn bão ở một miền nhỏ so sánh với cả nước, và nếu sánh với cả địa cầu nó chỉ là một chấm nhỏ đã phải chịu một cơn bão khủng khiếp như thế, thì trên trái đất này còn phải chịu bao nhiêu cơn bão khủng khiếp đến chừng nào! Biển cả đối với loài người vẫn là mối nguy cơ lớn đe dọa ghê gớm, một mãnh lực không thể chế ngự được. Trước nguy cơ của biển, con người quá bé nhỏ mong manh không ai dám cậy tài, cậy sức vào bất cứ một con tàu nào, dù nó là con tàu khổng lồ như Titan, hay tối tân như con tàu nguyên tử, chỉ đụng sơ vào tảng băng, đá ngầm đều vỡ tan, chìm mất tích dưới đáy đại dương.
Biển hồ Tibêria xưa tới nay vẫn nổi tiếng sóng gió đột ngột nổi lên dữ dội do những luồng gió thổi từ cao nguyên Giôlăng tới. Thêm vào đó, thời các tông đồ, thuyền bè chỉ là mấy miếng gỗ, tre, nứa thô sơ, khi gặp bão biển, chỉ còn cách nộp mình cho thần chết. May cho các môn đệ, các ông đã biết Đức Giêsu, Đấng đã trừ khử quỷ dữ (Mc. 1, 25), Đấng chế ngự thần chết (Mc. 5, 35-43), Ngài đang ngủ ở đàng sau thuyền, chắc chắn sẽ khắc phục được bão biển.
Nhưng sao Ngài vẫn ngủ yên trước cuồng phong dữ dội? Thật lạ lùng! Các ông không thể kiên nhẫn chờ Ngài thức dậy. Sóng đã ập vào thuyền đầy tràn nước rồi, mau mau chạy đến kêu gào Ngài cứu nguy: “Lạy Thầy, xin Thầy cứu vớt, chúng con chết mất”.
Chìm thuyền, chết đến nơi rồi, thế mà Ngài còn than trách: “Sao nhát đảm, hỡi kẻ yếu lòng tin?”. Lòng tin quá yếu, nhưng các ông vẫn còn một chút tin tưởng cầu xin Ngài, nhờ đó, Thầy đã quát bảo bão biển phải im lặng ngay. Kinh ngạc bao nhiêu, Ngài là ai mà bão tố, sóng gió biển cả phải tuân lệnh. Thứ mãnh lực vô tri, vô giác, sao biết nghe lời Ngài? Sao những thứ có tri, có giác, không biết nghe lời Ngài mà lặng yên đi, đừng nổi loạn nữa? Tại sao loài người dám nổi loạn chống lại Ngài? Phải chăng họ cậy có tri, có giác, có tài? Vì cậy có tri, có giác, có tài nên đã bị những thứ vô tri, vô giác, vô tài nổi loạn chống lại loài người. Chừng nào loài người mới biết mở mắt ra thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực trước thiên nhiên vô tri giác, lúc đó loài người mới biết chạy đến cầu cứu Đấng đã dựng nên và an bài mọi sự. Thiên Chúa nhiều lần đã dạy cho loài người những bài học đích đáng như đại hồng thủy, động đất, cháy rừng, hạn hán, bệnh tật để đừng bao giờ dám cậy mình đòi bằng Thiên Chúa hay chối bỏ Ngài.
Các môn đệ, phải chăng lúc ra khơi cũng tự mãn cho mình là dân biển lành nghề, chẳng sợ chi ai, mặc kệ Thầy nằm đó, Thầy đang nhờ cậy ta vượt biển! Viết đoạn Phúc Âm này, Marcô không phải chỉ giản dị kể lại một phép lạ, mà chủ đích làm nổi bật câu hỏi: “Ngài là ai mà bão và biển phải tuân lệnh?”. Không phải Ngài vô tình dẫn môn đệ sang bờ biển đối diện bên kia, miền đất của lương dân thù địch với Galilê, miền đất của dân Do thái. Suốt cuộc đời Ngài phải trải qua những cuộc chiến gay go chống lại kẻ tin ma thờ quấy, sự dữ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết khốc liệt. Những sự dữ đó Kinh thánh thường gọi đêm tối, vực sâu biển cả, Ngài ngủ trong đêm tối giữa biển cả trần gian, bao nhiêu cuồng phong bão lực đang phá xiềng, phá xích, xổ lồng tung hoành khủng khiếp. Giấc ngủ kinh hoàng của Ngài là cuộc thương khó; Ngài ở đàng lái, cuối thuyền, dựa đầu vào gối mà ngủ giữa đêm bão biển. Cuối đời Ngài, Ngài cũng phải dựa đầu vào cây thập giá mà chết giữa những địch thù khát máu. Hôm nay, giữa bão biển đêm tối, Ngài muốn thao dượt đức tin non yếu của các ông, để ngày mai giữa cơn khủng hoảng thương khó của Ngài, các ông “đừng sợ”. Nhưng các ông vẫn khiếp sợ chạy trốn. Phúc cho các ông, Ngài thức dậy, dẹp yên sóng gió. Ngài chỗi dậy từ trong kẻ chết cho các ông được bình an! được chỗi dậy với Ngài trong vinh quang, Ngài bảo trước cho Phêrô: “Khi con chỗi dậy, con hãy làm cho anh em con nên vững mạnh” (Lc. 22, 32).
Giờ đây Phêrô đang kể lại kinh nghiệm sống chết này cho giáo đoàn Rôma đang lâm cảnh cuồng phong bão táp gây nên cảnh chết chóc tử đạo khốc liệt để họ kiên trì vững mạnh trong đức tin mà biết dựa đầu vào Đức Giêsu mà chỗi dậy trong “Đấng đã chết và sống lại vinh quang vì họ” (2Cr. 5, 17).
Lạy Chúa, biển đời đầy dẫy những nguy hiểm: “nguy hiểm về sông ngòi, nguy hiểm về trộm cướp, nguy hiểm về đồng bào, nguy hiểm về dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, nguy hiểm chốn hoang vu, nguy hiểm trên biển cả, nguy hiểm vì anh em giả dối … nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Ai vấp ngã mà tôi không bỏng xót!” (2Cr. 11, 26-29).
Lạy Chúa xin cho chúng con biết dựa đầu vào Chúa mà chỗi dậy luôn luôn.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- B
“LÀM SAO MÀ ANH EM VẪN CHƯA CÓ LÒNG TIN”- Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Thế
* Vài hàng sơ lược
– Từ đoạn thánh kinh này Mc 4,35-41 đến 5,43, Mác-cô bắt đầu kể về những phép lạ của Chúa Giêsu. Qua đó những hành động quyền năng của Chúa được nêu bật. Vì vậy mà sau đó người ta bắt đầu thắc mắc về Giêsu: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6, 2)
Ngoài ra, tất cả những phép lạ này đều có một khung cảnh chung, đó khung cảnh biển hồ Ga-li-lê-a. Và hình ảnh thuyền đều xuất hiện trong mỗi phép lạ (x. 4, 36.37; 5,2.18.21)
Một điều luôn được nhấn mạnh trong chuỗi phép lạ này. Đó là niềm tin tưởng. (x. 4, 40; 5. 34.36) Thêm vào đó có thể nhắc đến việc thiếu lòng tin trong 6,6. Ngoài ra, một thái độ đi đôi với niềm tin tưởng được nhắc lại 3 lần trong chuỗi phép lạ này. Đó là thái độ bái lạy, sụp xuống và phủ phục trước Đức Kitô (x. 5, 6.22.33) Điều này làm nổi bật sự “chào thua” của những quyền lực đe dọa trước Chúa Giêsu: quyền lực thiên nhiên (4, 35-42), quyền lực ma quỷ 5, 1-20, quyền lực của bệnh hoạn (5, 24-34) và quyền lực của sự chết (5, 21-23 và 35-43)
– Liên quan đến những đoạn thánh kinh về các dụ ngôn trước đó, chúng ta thấy đoạn thánh kinh này nối kết với đoạn 4,1, mở đầu cho các bài giảng với các dụ ngôn: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ”. Như vậy, khung cảnh biển hồ đức Giêsu giảng dạy vẫn là khung cảnh của câu chuyện phép lạ này, chỉ khác là giờ đây Giêsu lên thuyền và đi trên biển hồ. Ngoài ra, theo Adolf Pohl thì sau những bài giảng bằng lời nói của Giêsu, thì tiếp nối bằng những hành động của Ngài, để qua đó chứng thực về một Thiên Chúa không chỉ nói hay mà còn làm giỏi nữa. Lời nói và hành động đi đôi với nhau.
– Ngoài ra, khi đọc đoạn Thánh Kinh này, người ta có thể liên hệ ngay với đoạn thánh kinh ở Giona chương 1. Theo Rudfolf Pesch thì đoạn thánh kinh là câu chuyện kể lại câu chuyện của Giona, với sự phụ họa của thánh vịnh 107, 23-30. Mục đích chính là sự tuyên xưng: Giêsu lớn hơn tiên tri.
Ở đây, chúng ta có thể so sánh hai câu chuyện với nhau:
(a) Trong Giona 1, 4 ĐỨC CHÚA tung ra một cơn gió to trên biển. Còn ờ trong đoạn phúc âm của Mác-cô thì gió bão đến như là quyền lực muốn chống lại Thiên Chúa.
(b) Trong Giona 1, 5 Giona đi ngủ vì không muốn tuân phục Thiên Chúa. Còn theo Mác-cô thì Giêsu ngủ vì mệt mỏi sau những ngày tuần phục Thiên Chúa làm việc phục vụ mọi người.
(c) Trong Giona 1, 14 mọi người trên tàu sợ hãi và kêu cầu Thiên Chúa. Còn ở Mác-cô thì chính Giêsu là Thiên Chúa đã lên tiếng.
(d) Trong Giona 1, 14 các người dân ngoại trên tàu có niềm tin vào Chúa, còn các môn đệ trong đoạn Mác-cô này lại là những người thiều niềm tin.
(e) Trong Giona 1, 15 Biển dừng cơn giận dữ, vì Giona đã vâng lời Chúa và đồng ý để người ta quăng xuống biển. Ở Mác-cô thì biển hồ và cuồng phong vâng lệnh Giêsu.
– Trong đoạn Thánh Kinh Mc 4, 35-41 này tích cách Kitô học và Giáo Hội học được nêu bật, trong khi những sự kiện lịch sử cụ thể không đóng vai trò quan trọng.
– Ngoài ra, theo Johannes Bours, trong câu chuyện mà Mác-cô kể lại ở trên, có hai câu hỏi đã đụng độ nhau. Câu hỏi đầy sợ hãi của các môn đệ đã gặp gỡ câu hỏi đầy trách cứ của Giêsu. Khi đọc câu chuyện này, tôi cảm nhận rằng, câu chuyện đang kể về chính cuộc đời của chúng ta. Và câu hỏi sống còn của các môn đệ cũng liên hệ đến chính câu hỏi sống còn của mỗi người chúng ta: Cái gì có thể chiến thắng sự sợ hãi? Ai là người mạnh hơn? Thần Dữ, kẻ muốn nhấn chìm chúng ta xuống biển sâu, hay là Đấng mà trong đoạn Thánh Kinh này đã nhắc đến: “Người thức dậy.”
– Biển hồ Genesareth được người Ả-rập gọi là “Ajn Allah” – Mắt của Chúa”. Biển hồ này theo Adolf Pohl, nằm 212 m dưới mặt nước biển và ba phía của biển hồ được bao bọc bởi ba vách núi cao đến 300 m. Và biển hồ này có khí hậu bán nhiệt đới. Giữa tháng 5 và tháng 6 nhiệt độ nóng đến 40 độ C. Sự điều hòa nhiệt độ nhờ luồng khí lạnh trong miền cao, kết hợp với nhiệt độ nóng nực ở trên biển hồ, có thể được những trận gió lớn kéo theo một cách bất ngờ, như Luca diễn tả: “Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập nước và lâm nguy” (8,23). Vì sự bất ngờ không thể dự đoán trước của các trận cuồng phong tại biển hồ này, mà các ngư dân ở đây rất sợ hãi. Và để tránh sự bất ngờ này nên các con thuyền đều cố gắng hướng về phía đông, nơi mà các ngư dân qua tiếng gió thổi, có thể đoán được xem có cuồng phong hay không.
* Suy niệm
– “35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
“Hôm ấy, khi chiều đến” Câu chuyện được bắt đầu như vậy. Chiều đến nghĩa là ngày sống từ từ chào tạm biệt, công việc từ từ được gác xuống, giờ đây là thời gian để nghỉ ngơi. Ngày sống vừa qua của Giêsu là một ngày làm việc miệt mài. Ngài đi giảng dạy ở ven Biển Hồ. Ngài đã giảng gì vậy? Đọc lại các đoạn trước đó, chúng ta nhận ra rằng, Giêsu đã giảng dậy nhiều dụ ngôn khác nhau: Dụ ngôn người gieo giống; dụ ngôn cái đèn và đấu đong, dụ ngôn hạt cải. Từ ở trên thuyền Giêsu đã giảng dạy những điều đó cho dân chúng. Giờ đây khi bóng dương từ từ ngả xuống, Giêsu cũng từ từ muốn ngả lưng, Ngài cũng cần giờ cho mình, cần giờ để nghỉ ngơi, để ngủ nữa chứ. Vì thế, các môn đệ đã chở thầy mình qua bờ bên kia. Trên thuyền Giêsu mệt nhoài đã thiếp ngủ. Theo sau thuyền của Giêsu là rất nhiều thuyền khác nữa.
– 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
Giêsu bỏ đám đông ở lại mà không chia tay gì với họ, là dấu hiệu Ngài mệt mỏi lắm rồi. Điều này được chứng minh qua câu 38 qua sự thiếp ngủ của Chúa. Thuyền mà Giêsu đang ở sẵn trên đó theo Adolf Pohl thì chắc không nhỏ, vì trên đó có cả một nhóm người. Ngoài ra, có những thuyền khác theo Người. Động từ “theo với, ở với” trong Mác-cô luôn hướng về Giêsu (x. 1, 13; 2,19; 3, 14; 5, 18; 14,57). Điều này nói lên tương quan chặt chẽ với Chúa Giêsu. Không chỉ là nhóm 12 thôi, mà còn cả những môn đệ khác nữa (ss. 4, 10)
– 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
Hôm ấy, khi chiều đến cũng còn là thời gian ánh dương từ từ lặn dần để nhường bước cho đêm đen.
Và đêm càng đen hơn nữa, khi những con thuyền lênh đênh trên mặt hồ bao la kia. Phải chăng đêm đen này như đang dẫn đời người vào trong cái vòng ma quái? Hay đêm đen kia đang như muốn nuốt chửng không chỉ ánh mặt trời, mà tất cả những con người đang ở trên thuyền kia, những con người mệt mỏi sau một ngày vất vả với công việc?
Không chỉ đen, mà thêm vào đó là một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Ở đây cần nhắc đến một yếu tố. Trong bản gốc của Hy-lạp, câu chuyện này được kể tiếp nối với nhau trong thì hiện tại và quá khứ. Ngoài ra, chữ “Kai” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “Và”, được nhắc đến tất cả 12 x. Theo Johannes Bours, thì điều đó làm cho câu chuyện ly kỳ hơn. Cái thảm cảnh trong câu chuyện theo đó được diễn tả thảm não hơn. Thêm vào đó, trong thời cổ đại, thì thần dữ luôn gắn liền với cuồng phong bão táp của biển khơi. Phải chăng đại dương là nơi chốn của thần dữ với sức mạnh tàn phá và nuốt chửng?
Vâng, sự ly kỳ và thảm não của câu chuyện trong Thánh Kinh bắt tôi phải dừng bước một chút, để lật lại những trang sách kể về các chuyến vượt biển của người Việt thân thương. Lênh đênh trên mặt biển chứ không phải là mặt hồ đâu. Đêm đen không chỉ làm đen cả bầu trời xanh ngát, mà còn làm đen cả bao tâm hồn chan chứa hy vọng, khi xuống thuyền ra đi. Rồi chiếc thuyền có lớn lao bao nhiêu đâu. Xăng dầu cũng đã gần cạn rồi. Thuyền nào chẳng may bị bọn hải tặc “ghé thăm” một lần hay nhiều lần, thì còn thê thảm hơn nữa. Có một số thuyền không chỉ đầy nước mà còn bị vỡ tan tành, giờ đây chỉ là những mảnh gỗ của thuyền, làm bè cho một vài thân xác mệt nhoài, lực đã tàn sức đã kiệt, thả cuộc đời trôi theo sóng, trôi theo biển, trôi theo bóng đen, mà không còn nhìn thấy một tia hy vọng, không còn nhận ra một bến bờ để tấp vô. Mà có bờ đâu để tấp để đậu. Phải làm sao đây? Không lẽ đứng chết chân một chỗ? Hay chấp nhận một cái chết thê thảm trong bóng đêm, trong lòng biển? Không, ít nhất cần phải hò hét! Nhưng “hò” thì ai “thưởng thức” và hét thì có ai nghe giữa đại dương mênh mông này không? Đó là câu hỏi của những con người đụng tới đường cùng của cuộc sống. Truớc đường cùng này, tôi cũng xin không chỉ dừng bước, mà với tất cả tấm lòng xin cầu nguyện cho bao người Việt đã qua đời trên biển cả. Xin Chúa thương nhìn đến và đón nhận tất cả vào Nước của Chúa.
Vâng, chúng con dù sao vẫn tin vào lòng nhân từ và ơn giải thoát của Chúa, như Chúa đã nói:
“1 Bấy giờ, giữa cơn bão táp, ĐỨC CHÚA lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:
8 Cửa đại dương, ai ra tay khép lại
khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9 khi Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ sương mù làm tã che thân?
10 Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11 rồi Ta phán: “Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ không được tiến xa hơn nữa,
đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!” (Gióp 38, 1.8-11)
Dù tin đấy, nhưng không dậm chân tại chỗ. Niềm tin cũng cần biết tạo sáng kiến. Niềm tin cũng cần phải lên tiếng. Vâng, lên tiếng để đánh thức Chúa dậy. Một hành động tuyệt vời. Đến đường cùng rồi, vì thế cần phải đánh thức Ánh Dương, cần phải đánh thức Thiên Chúa đang ngủ dậy. Bóng đêm kia không thể mạnh hơn Ánh Sáng. Cuồng phong kia không thể mạnh hơn Thần Khí Thiên Chúa được. Cuồng phong và biển cả đều phải có ranh giới. Chúng phải ở đàng sau cánh cửa kia. Thiên Chúa chính là người không chỉ vạch ranh giới, không chỉ đặt then cài, mà Ngài còn là người có đủ quyền năng để gài then cửa.
– 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Và quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao cho Giêsu, Người con dấu ái. Vì thế, các môn đệ đã đánh thức thầy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
Một câu hỏi chất chứa sợ hãi và âu lo, một câu hỏi mang chút trách cứ và hờn giận Thiên Chúa. Joachim Gnilka, một nhà chú giải thánh kinh đã cắt nghĩa rằng, câu hỏi của các môn đệ đã diễn tả thái độ sai lầm của họ: Khi gặp hiểm nguy họ chỉ nghĩ về mình và về sự an toàn của mình mà thôi. Một cách nào đó họ đã không chia sẻ nỗi hiểm nguy của họ với Thiên Chúa. Họ không để cho Thiên Chúa cùng gánh vác nỗi hiểm nguy của họ. Thái độ này được nhắc lại rất rõ ràng trong biến cố họ chạy trốn trước thánh giá tử nạn của Giêsu. Còn với Rudolf Pesch thì lòng yếu tin của các môn đệ nằm ở chỗ, là họ không hiểu được và chấp nhận được một Thiên Chúa ẩn mình. Và trên con đường thương khó, các ông cũng đã ngựa quen đường cũ, không hiểu được tại sao Giêsu thầy mình phải chịu bắt bớ, tra khảo, kết án và chết tất tưởi trên thập tự.
Đâu rồi niềm tin và sự cậy trông vào một Thiên Chúa đã sinh ra làm người nghèo khổ trong hang lừa, để chia sẻ và gánh vác với đời người những âu lo, những khổ đau? Đâu rồi sứ điệp và tin mừng Phục Sinh của một Giêsu chiến thắng sự chết? Giêsu đó, Thiên Chúa đó ngay từ đầu và mãi mãi nói với con người chúng ta rằng: “Đừng sợ!”
Hay sức mạnh của bóng đêm và sự đe dọa của cuồng phong bão táp đã làm tắt lịm đi chút ánh sáng của niềm tin, và chút hơi ấm của niềm hy vọng? Không, ngay từ ngày đầu tiên, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Thiên Chúa đã thấy rằng, hành động sáng tạo này là hành động tuyệt vời nhất. Còn tạo vật nào hơn con người mà Thiên Chúa yêu thương nữa. Vì thế, dù biển sâu hay cuồng phong, dù bão táp hay đêm đen, dù thần dữ hay lòng người gian dối, không có gì có thể làm cho tình yêu của Thiên Chúa phai nhòa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. “Emmanuel – Thiên Chúa luôn ở cùng với chúng ta”.
Ngay cả trong những đêm tăm tối nhất của cuộc sống, Ngài vẫn không hề bỏ mặc chúng ta một mình. Ngay cả trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời, Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta. Và thậm chí, ngay cả trong đêm cuối đời, trong giây phút cô đơn hiu quạnh cuối cùng của cuộc sống, vốn dĩ không ai có thể đồng hành cùng với chúng ta, trong đêm cuối cùng trước giờ lâm tử đó, Thiên Chúa vẫn không hề từ bỏ chúng ta…. (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI)
Lời của Đức Thánh Cha chất chứa niềm hy vọng. Niềm hy vọng này cũng chính là nguồn sống cho Alfred Delp, một linh mục dòng Tên bị phát xít Đức giam cầm trong ngục tù đen tối. Cha Alfred kể lại rằng: “Vào một buổi tối tôi cảm thấy tâm hồn mình chao đảo. Tôi bị hành hạ rất dã man và sau đó bị tống trở lại vào ngục. Những tên lính phát xít giải tôi vào ngục đã nói những lời như sau: “Như vậy là đêm nay mày không thể nhắm mắt được đâu. Mày sẽ cầu nguyện, nhưng không có một Thiên Chúa và cũng chẳng có một thiên thần nào đến, để cứu thoát mày. Phần chúng ta sẽ đánh một giấc ngon lành, và sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục hành hạ mày.’
Alfred kể tiếp: Thiên Chúa đã thử thách tôi. Giờ đây làm thế nào để có thể bền bỉ đứng vững được thôi. Tôi vẫn luôn tin tưởng vững vàng và hy vọng nơi Bàn Tay nhân từ, Bàn Tay đã đón nhận chúng ta và hướng dẫn chúng ta…. và Thiên Chúa đã ban tặng cho tôi một không gian thật đẹp với sự bình tâm thẳm sâu. Tôi cảm thấy lúc này Chúa thật gần và thương tôi thật nhiều….Với tôi có những lúc thật là khó khăn. Tôi đã trải qua những giờ phút rất đau thương với nước mắt và máu. Nhưng tôi đã luôn luôn cố gắng đưa những giọt nước mắt và máu của mình vào trong hai hành động thật nhỏ bé, để nhờ đó có thể đứng vững được. Hai hành động đó là: Cầu Nguyện và Yêu Thương. Tất cả mọi hành động khác trong lúc đó đều sai cả…. Hôm nay là một ngày tồi tệ. Thiên Chúa như đang thử thách tôi , xem tôi có giữ những lời mà tôi đã từng xác tín không: Chỉ với Chúa thì cuộc sống mới tồn tại và phận người mới đứng vững được.
Giờ phút của Phêrô lại đến. Gió bão và sóng lớn lại đe dọa… Phêrô bắt đầu run lẩy bẩy… Giờ đây mọi sự nằm trong bàn tay của Chúa… Ngài có nhiều cách để vực chúng ta dậy và dìu chúng ta tiếp tục tiến bước. Tôi đã thường cảm thấy điều này trong những tuần lễ thê thảm đầy sợ hãi và dài đằng đẵng. Tôi luôn hy vọng vào Thiên Chúa, và vào tình yêu cùng sự trung thành của Ngài…Tôi muốn đốt lên những ngọn lửa cho các bạn. Các bạn đã cùng đi với tôi trong những đêm đen của cuộc đời. Các bạn cũng đã từng bị gió bão và cuồng phong đe dọa, và các bạn đã đứng vững. Vai kề vai chúng ta cùng gánh vác chung với nhau nhé… Giữa đêm đen Ánh Sáng sẽ bừng lên!”
Hành động của Cha Alfred chắc chắn là một bài học thật quý giá cho chúng ta. Thực vậy, trên con thuyền của cuộc đời, chúng ta chỉ cần tin thôi. Chúng ta hãy cứ an tâm. Dù cho Giêsu có ngủ, nhưng ngủ ở đàng lái đấy! Và không chỉ ngủ ở đàng lái, mà theo Hans Urs von Balthasar, thì Giêsu còn nằm nghỉ trong lòng của Chúa Cha, Đấng canh giữ cuộc sống của Giêsu và sứ mạng của Giêsu, không bao giờ cho phép sức mạnh của thiên nhiên ảnh hưởng đến sứ mạng của Giêsu.
Nhưng sứ mạng của Giêsu là gì? Là yêu thương mọi người, là trao ban tình yêu của Cha cho mọi người, là chở che mọi người trước bao nỗi hiểm nguy, là giải thoát con người khỏi mọi nỗi sợ hãi, và đưa mọi người về với bờ bến của bình an, của hạnh phúc. Vâng, chúng ta hãy an tâm và đừng sợ, Giêsu luôn gìn giữ chúng ta, và không bao giờ để cho chúng ta mất đi. Như người mục tử nhân lành, chính Ngài chứ không ai khác sẽ che chở đoàn chiên trước thú dữ đang nhâm nhe đe dọa.
Vì thế, dù gió có lớn, bão có to đến mấy, thì Giêsu vẫn vững tay lái, vững mái chèo trên con thuyền của cuộc đời. Và dù Ngài đang ngủ, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Dù vì mệt mỏi đang nghỉ ngơi, nhưng Ngài nghỉ ngơi trên con thuyền của chúng ta, của con người yếu đuối, chứ ngài không nằm nghỉ trên giường êm nệm ấm. Và kìa Ngài đã nghe tiếng kêu của các môn đệ. Chúng ta hãy nhìn xem. Ngài đứng dậy. Rồi Giêsu làm gì? Ngài sẽ mắng các môn đệ chăng? Không, điều đầu tiên là:
– “39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Tuyệt vời quá sức! Tuyệt vời như từ thuở xa xưa:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân.
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
họ vui sướng, vì trời yên bể lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ.” (Tv 107, 28-30)
Vâng, dù tiếng sóng có gầm vang, có thét lên đến long trời lở đất, thì cũng cần phải im tiếng đi, cần phải nhường bước cho Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, Đấng từ thuở đời đời luôn ở đó bên người con nhỏ yêu dấu của Ngài:
“Sóng nước đã gầm lên, lạy CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời lở đất.
Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao xanh.” (Tv 93, 3-4)
Sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa đã làm cho biển phải câm lặng. Quyền năng này các môn đệ ngày xưa không thể hiểu được. Có lẽ chính vậy mà niềm tin của các ông còn nhỏ lắm. Và có lẽ Giêsu hiểu thấu được niềm tin của môn đệ mình, nên Ngài chỉ mắng:
– “40 Rồi Người bảo các ông: Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Ở đây một điều thú vị là, trước hết Giêsu ra lệnh cho biển phải im lặng, sau đó Ngài mới mắng các môn đệ. Vâng, ngài đã hiểu thấu sự sợ hãi của các ông, nên điều đầu tiên cần làm không phải là trách mắng người đang sợ hãi, mà ra tay giúp đỡ giải thoát họ ra khỏi sự sỡ hãi trước, sau đó muốn nói gì thì nói, muốn mắng gì thì cũng không sao.
Lời mắng các môn đệ nhát sợ được Giêsu lập lại nhiều lần khác (x. Mc 4, 13.40; 7,18; 8,17tt.21.33; 9, 19). Nhưng khi mắng các môn đệ như thế, Giêsu có ý chống lại sự nghi ngờ của các môn đệ vào chính Ngài, Thầy của họ, cũng như chống lại sự nhát sợ của người được chọn, người môn đệ Chúa. Như vậy lời mắng của Giêsu như là lời tỉnh thức giúp cho những ai theo Chúa cần dừng bước lại, để nhận ra sự yếu đuối rất hay nhát sợ của con người mình, và ý thức bám vào Chúa nhiều hơn. Vâng, ai càng bám vào Chúa và sống trong tình thân với Ngài, thì sẽ chẳng sợ gì, họ càng ngày càng bình tâm hơn. Một sự bình tâm tín thác và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, đến nỗi không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả, và cái gì đúng theo thánh ý của Chúa mà thôi (ss. Sách Linh Thao số 23)
Điều thứ hai mà Giêsu mắng các môn đệ là việc yếu lòng tin của các ông. Về điều này chúng ta cũng thấy Máccô nhắc đến nhiều lần. Vâng, dù cho các ông đã theo Giêsu và ở với Người (ss. Mc 3, 14), dù cho mầu nhiệm Nước Trời đã được trao cho các ông (ss. Mc 4, 11), và giải nghĩa cho các ông cặn kẽ (ss. Mc 4, 34b), nhưng các ông vẫn chưa có lòng tin. Adolf Pohl chú ý chúng ta về từ ngữ “chưa có lòng tin”. Với từ ngữ này chúng ta có thể nhận ra rằng, sự chậm hiểu và thiếu lòng tin của các môn đệ là dấu hiệu của sự thiếu kinh nghiệm thiêng liêng về Thiên Chúa và về niềm tin.
Phải chăng niềm tin không chỉ là một món quà của Chúa ban tặng một lần là xong, mà niềm tin còn cần phải được chăm bón, cần phải được thử sức và tôi luyện, cần phải luôn luôn được lấy ra khỏi “kinh tin kính”, để đem vào cuộc sống, để nhìn lại và để rút ra thêm kinh nghiệm. Và cũng thật quan trọng, khi ý thức như Luca cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, con tin Chúa, nhưng xin Chúa tăng thêm lòng yếu tin của con.” Thực vậy, không ai dám nói rằng, khi tôi bước theo Chúa và trở thành môn đệ của Ngài, thì niềm tin của tôi vào Ngài đã vững vàng 100%, đến nỗi tôi không cần phải “vào nhà tập lại”, không cần phải đi tĩnh tâm năm, không cần phải cầu nguyện hằng ngày, không còn phải ra sức học hành và trau dồi Lời Chúa nữa.
Ai dám nghĩ như thế, thì thật là “tuyệt”, vì họ là con người hoàn hảo rồi. Mà đã hoàn hảo rồi thì đi tu để làm gì nữa? Vì vậy, thật hay từ ngữ “tu” của Việt Nam ta: Tu là để sửa chữa, để ngày ngày học biết tinh thần của Giêsu và ý thức sửa đổi bắt chước Giêsu mỗi ngày nhiều hơn một chút. Hay theo thiển ý của tôi, có thể nói theo kiểu của Linh Thao: Tu là một chuỗi ngày tập thể thao cho linh hồn của mình, bằng cách ngày ngày ý thức dọn dẹp và chuẩn bị linh hồn để xa bỏ những quyến luyến lệch lạc và sau đó tìm kiếm ý Chúa trong cách xếp đặt cuộc sống để mưu ích cho linh hồn mình (ss. Linh Thao số 1)
– 41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Sau khi chứng kiến quyền năng của Giêsu trên thiên nhiên, thì các môn đệ hoảng sợ. Ở đây, Adolf Pohl so sánh một điều rất hay. Trong câu 37 nói về một trận cuồng phong lớn. Và sau đó ở câu 39 là “biển lặng như tờ” nghĩa là sự thinh lặng lớn. Và ở câu 41 này thì các môn đệ “hoảng sợ”, nghĩa là nỗi sợ thật lớn. Như vậy, nỗi sợ thật lớn này không còn là sự nhát sợ mà Giêsu mắng các ông ở câu 40, mà là sự sợ hãi lớn trước sự mạc khải của Thiên Chúa. Sự sợ hãi này cũng là sự công nhận của con người nhỏ bé trước quyền năng phi thường của Thiên Chúa. Vâng, nỗi sợ lớn lao trước Thiên Chúa này không trói buộc con người lại, mà thúc đẩy con người biết ý thức phủ phục, biết ý thức tỏ lòng thờ lạy Chúa của mình, như trong Giona 1, 16: “Những người ấy sợ ĐỨC CHÚA, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên ĐỨC CHÚA và khấn hứa.” Như vậy, trong sự sợ hãi này chứa đựng những điều thật tích cực: Tin tưởng và thờ lạy. Vâng, sau khi biển và cuồng phong đã phải tuân phục và bái lạy Thiên Chúa, thì giờ đây đến lượt con người chúng ta.
Nỗi sợ hãi lớn lao này cũng thúc đẩy con người đi vào trong giao động mới, đó là đi tìm căn tính của Đức Kitô: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh? Theo R. Pesch thì những ai chứng kiến cảnh tưởng này chỉ có thể trả lời rằng: Đấng mà cả gió và biển phải tuân lệnh thì lớn hơn tiên tri Giona. Ngài hành động với sức mạnh của chính Gia-vê Thiên Chúa. Ngài là Đấng lớn hơn cả sức mạnh và bạo lực của hỗn mang. Phần bạn và tôi, chúng ta hãy luôn để câu hỏi này đi với mình trong cuộc đời: “Đức Kitô là ai đối với tôi vậy?” Chắc chắn rằng, mỗi thời điểm câu trả lời sẽ khác, vì kinh nghiệm về niềm tin và về Giêsu của chúng ta cũng sẽ khác đi và dồi dào hơn.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxiithuongnienb #chuanhatxiithuongnienb