CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN (*)- Chú giải của Noel Quession 11
HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- Chú giải của Fiches Dominicales 18
CUỘC SÁNG TẠO MỚI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 24
CHÚA THÁNH THẦN LÀ NGUYÊN LÝ HỢP NHẤT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 36
THẦN KHÍ CỦA ĐẤNG PHỤC SINH- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt 53
ĐẤNG ĐỔI MỚI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt. 61
CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- ĐGM. Giuse Phêrô Nguyễn Văn Khảm 64
HỒNG ÂN THÁNH THẦN– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 70
THÁNH THẦN, ĐẤNG PHÙ TRỢ VÀ TÁC SINH- Lm. Đan Vinh HHTM 74
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ HIỆP NHẤT- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 94
CUỘC SÁNG TẠO MỚI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 100
HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- Lm Giuse Phạm Thanh Minh.. 104
HOA TRÁI THÁNH THẦN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 111
VAI TRÒ CỦA CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên 118
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: Xh 19,3-8a. 16-20b
“Trước mắt toàn dân, Chúa sẽ ngự xuống trên núi Sinai”
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môisen lên cùng Thiên Chúa.
Từ trên núi, Chúa gọi ông và bảo: “Ngươi hãy nói với nhà Giacób, và thông báo cho con cái Israel thế này: “Chính các ngươi đã thấy những gì Ta làm cho người Ai cập. Ta đã mang các ngươi trên cánh phượng hoàng, và đem các ngươi đến với Ta. Từ nay, nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của Ta. Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh. Đó là những lời ngươi sẽ nói lại với con cái Israel”. Môisen trở xuống triệu tập các trưởng lão trong dân và trình bày cho họ mọi điều Chúa đã truyền cho ông. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi điều Thiên Chúa dạy, chúng tôi xin thi hành”.
Qua ngày thứ ba, trời vừa sáng, có sấm vang chớp loè và mây dày đặc che phủ ngọn núi và tiếng tù và rền vang. Toàn dân trong trại kinh hãi. Môisen đưa dân ra khỏi trại để gặp Chúa, họ đứng dưới chân núi. Khắp núi Sinai bốc khói, vì Chúa ngự xuống đó trong ngọn lửa: khói bốc lên như bởi lò lửa và cả núi rung chuyển dữ dội. Tiếng tù và càng rúc mạnh. Môisen nói và Thiên Chúa đáp lại trong tiếng sấm. Chúa ngự xuống trên đỉnh núi Sinai, Người gọi Môisen lên đỉnh núi.
Đó là Lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 103, 1-2a và 25c, 27-28, 29bc-30
Đáp: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, và xin canh tân bộ mặt trái đất.
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thượng Đế của tôi, Ngài quá ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác.
2) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài, kìa biển khơi mênh mông bát ngát, những vật tý hon sống chung cùng loài to lớn.
3) Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng no đầy thiện hảo.
4) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi tới, chúng được tạo thành, vì Ngài canh tân bộ mặt trái đất.
BÀI ĐỌC II: Rm. 8,22-27
“Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết rằng cho đến nay, mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta. Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ. Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai đã thấy điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa? Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi. Đàng khác, cũng có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu ngyện thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Đấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.
Đó là Lời Chúa.
ALLELUIA:
All. All. – Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu Chúa, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng họ. – All.
PHÚC ÂM: Ga 7,37-39
“Phát sinh nước hằng sống”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, Chúa Giêsu đứng lên giảng lớn tiếng rằng: “Ai khát nước hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như giòng sông”.
Người nói điều ấy về Chúa Thánh Thần mà các kẻ tin nơi Người sẽ lãnh lấy, vì bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh.
Đó là Lời Chúa.
THÁNH LỄ CHÍNH NGÀY
BÀI ĐỌC I: Cv 2, 1-11
“Các vị được tràn đầy Chúa Thánh Thần và bắt đầu lên tiếng nói”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói.
Khi ấy, cư ngụ tại Giêrusalem, có những người Do-thái đạo đức từ khắp các nước dưới gầm trời tụ về. Nghe tiếng ấy phát ra thì đoàn lũ tuôn đến, tâm trí bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình. Mọi người đều sửng sốt và bỡ ngỡ nói rằng: “Nào tất cả những người đang nói đây không phải là người Galilê ư? Nhưng tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pôntô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai-cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ ở đây, là Do-thái và tòng giáo, là người Crêta và Á-rập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa!” [Mọi người đều sửng sốt bỡ ngỡ nói với nhau rằng: “Thế này nghĩa là gì?” Nhưng lại có người khác nhạo báng rằng: “Họ đầy rượu rồi”.]
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 103, 1ab và 24ac. 29bc-30. 31 và 34
Đáp: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, và xin canh tân bộ mặt trái đất (c. 30).
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài quá ư vĩ đại! Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài.
2) Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất.
3) Nguyện vinh quang Chúa còn tới muôn đời, nguyện cho Chúa hân hoan vì công cuộc của Chúa. Ước chi tiếng nói của con làm cho Chúa được vui; phần con, con sẽ hân hoan trong Chúa.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 3b-7. 12-13
“Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, không ai có thể nói “Đức Giêsu là Chúa” mà lại không do Thánh Thần. Vậy có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, là Đấng làm mọi sự trong mọi người. Sự xuất hiện của Thánh Thần được ban cho từng người, tuỳ theo lợi ích. Cũng như chỉ có một thân thể nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần.
Đó là lời Chúa.
Ca Tiếp Liên
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến,/ và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra!/ Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến;/ Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!/ Lạy Đấng an ủi tuyệt vời,/ là khách trọ hiền lương của tâm hồn,/ là Đấng uỷ lạo dịu dàng./ Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than,/ là niềm an ủi trong lúc lệ rơi./ Ôi sự sáng chứa chan hồng phúc,/ xin chiếu soi tràn ngập tâm hồn tín hữu của Ngài./ Nếu không có Chúa trợ phù,/ trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội./ Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan,/ và chữa cho lành nơi thương tích./ Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng,/ chỉnh đốn lại chỗ trật đường./ Xin Chúa ban cho các tín hữu,/ là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn./ Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức,/ được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời. (Amen. Alleluia.)
ALLELUIA:
All. All. – Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu Chúa, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng họ. – All.
PHÚC ÂM: Ga 20, 19-23
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con!” Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN (*)- Chú giải của Noel Quession
Chiều ngày thứ nhất trong tuần…
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của cuộc sống lại, và Giáo hội được khai sinh nhờ khí thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem ra giữ ưu thế hơn Thánh Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung thần học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự một cuộc tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới. Thiên Chúa lại cầm “con người” trong bàn tay, và nhào nắn nó lại trong một thứ “đất sét” hoàn toàn mới.
Và từ hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ “ngày thứ nhất trong tuần” này đến ngày thứ nhất trong tuần khác…. từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng như thế, trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Cần phải tổ chức những Chúa nhật, để giúp mọi Kitô hữu dần dần… sống nhịp theo những lần “hiện đến” của Đức Giêsu. Chúng ta không thích “nghĩa vụ dự lễ Chúa nhật” một cách nhạt nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một nhu cầu sống! “Cần phải thở hít mà”? Do đó, không phải một năm chỉ dự lễ một lần.
Nơi các môn đệ ơ, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái.
Sợ hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên sợ hãi. Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó “gây khiếp sợ”.
Trước khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi sợ hãi của tôi là gì? Nơi “xảy ra biến cố Phục sinh”, là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi” mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ bị tổn thương, rủi ro, đau khổ.
Đối với tôi tình huống nào làm tôi dễ “đóng cửa then cài”?
Trường hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi? Thánh Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một kiểu chết chóc: “Sự chết hoạt động nơi chúng tôi… Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong cua chúng tôi ngày càng đổi mới… Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4, 12. 16. 17).
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh của Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta quả quyết rằng, Thánh Thần là “Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống”. Việc trao ban sự sống này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần, Thần Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc thầy!
Trong con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh, nên mang tính hữu hạn, thì “tinh thần” và “thân xác” liên kết với nhau trong mọi tình huống. Nhưng dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng nhận ra một suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân xác của mình: “con người” cũng có nghĩa là phải chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay chết đó, Đức Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu hạn của tinh thần con người, nhưng Người còn nhận được những năng lực vô biên dành riêng cho Thiên Chúa. Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với tinh thần của con người, nên không sử dụng Thánh Thần, là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống? Đức Giêsu phá bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất hiện giữa cac môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ rằng Người không để cho bất cứ một chướng ngại vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến “đứng giữa các người thuộc về mình. Sáng nay, Người đã nhận một luồng sinh khí đặc biệt mơi mẻ, biến Người trở thành một “thân thể thiêng liêng”, một thân thể được sống sự sống của Thánh Thần tác động (1 Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí cho các bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng lên cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa” (Cv 2,33). Chính Thánh Phêrô đã công bố mạc khải kỳ diệu trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống.
Vâng, sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Bạn muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ thấy khó phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó, hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống bạn, cũng như trong thế giới hay trong Giáo hội.
Chúc anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ đang bị “nhốt kín”, giờ lại được “sai đi”.
Việc sai đi thi hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm một tổ chức nào đó: không phải là một thứ “xí nghiệp” quảng cáo được trang bị đầy đủ đồ hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước vào con đường “thừa sai” Theo Người, chỉ có một điều quan trọng: đó là nguồn gốc phát sinh công cuộc thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với Chúa Cha”. Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của Đức Giêsu, và trở thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt ám chỉ tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: “Thiên Chúa thổi vào mũi con người một sinh khí” (St 2,7).
Cuộc sáng tạo cuối cùng: “Hãy thổi vào các bộ xương chết khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong, quá khứ đó là sự phát sinh sức sống đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ có một cuộc sáng tạo trong tương lai, đó là sự sống lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc sáng tạo hien hành: đó là “Hơi thở” của Thiên Chúa đang hoạt động. Tôi tin Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống!
Đó là hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy mình có khả năng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới, nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt thiết nhất: đó là hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều hít thở cùng một thứ o-xy, được cống hiến cho tất cả chung quanh hành tinh chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình ảnh cảm kích về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta sống động! Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió trên đây: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống động” (Ga 3,6-8).
Anh em hãy nhận lấy
Tôi cầu nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người thơi nay không thích “nhận”: người ta từ chối việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là thứ tội nguy hiểm nhất: tự phụ mình “như thần thánh”. Nhưng điều đó đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn hay không, con người vẫn là một sinh vật phải lệ thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón nhận sự sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt trời, giúp tôi có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc, từng ngàn con người, và rất nhiều điều kiện.
“Hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy”. Cần phải “nhận “lãnh” “Thân Thể”. Nên cũng cần phải “nhận lãnh” Thần Khí đó!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý nhận lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh Thần
Nhân loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một! Như thế, chúng ta cũng khám phá ra rằng, trong sứ vụ của Giao hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người sai gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới mọi người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh Gioan trên đây thật sống động:
Một cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với Chúa Phục sinh.
– Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ kinh nghiệm ai đó.
– Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi hành sứ vụ.
Sứ vụ đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện.
Như thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu, có tinh tiêu cực trên đây, hiển nhiên không có nghĩa là: Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết độc đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: “Liệu Thiên Chúa có tha thứ cho tôi không? Thập giá của Đức Giêsu đã trả lời cho cau hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu hỏi: Liệu tôi có “lãnh nhận” ơn tha thứ đó không?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ HIỄN XUỐNG- B
HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- Chú giải của Fiches Dominicales
1/ Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết này, có lẽ tác giả muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến các cuộc bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị trục xuất khỏi hội đường vì dám tin nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội đường: Ga 9,34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó của những kẻ bách hại họ.
Họ tụ tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên Người nói là lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em (Shalom). Không chỉ là lời chào xã giao, nhưng là một xác nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.
2/ Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
Đức Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên tưởng tới lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú giải rằng: Dù thuật lại những lần hiện ra lạ lùng của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn bị đâm thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa là, một ai khác chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện diện thể lý thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là Đức Giêsu họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục sinh. Không sợ hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng” (“L’evangile de Jean, Centurion”. trg 246).
3/ Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du, nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để đem Tin Mừng ơn Tha Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1/ Một hơi thở nhẹ như làn gió thoảng.
Làm thế nào mà một hơi thở từ cửa miệng lại có thể trở thành cơn bão trong lịch sử? Người ta sẽ không bao giờ nói cho hết được về làn gió thoảng đổi mới vũ trụ này. Từ buổi bình minh của vũ trụ, nó đã lên tiếng ngợi ca làm bừng lên dòng nhựa sống đầu tiên. Ngon sứ Êdêkiel đã trông thấy nó làm sống lại cả một cánh đồng đầy xương khô: đó là hình ảnh dân tộc bị lưu đày biệt xứ và bị hạ nhục vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Và giờ đây, Đức Giêsu đang mấp máy môi, dường như để ban cho các bạn hữu của Người đang hoảng sợ một linh hồn khác: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chính Thần Khí này đã bay lượn trên làn nước nguyên sơ, đã vực các ngôn sứ đứng lên, đã đánh thức cả một dân tộc đang mê ngủ. Trong ngôn ngữ Hípri. từ Thần Khí thuộc giống cái. Dường như hơi thở của Thiên Chúa có chức năng từ mẫu là sinh sản một nhân loại tương lai, tương lai mà Người muốn cho họ được hưởng.
Hiệu quả của nó thật la khôn lường và ấm áp. Còn đâu nữa cánh cửa cài then vì sợ hãi. Nhưng bình an đang tỏa lan trên những khuôn mặt. Bình an vì không còn chinh chiến. Bình an của tâm hồn. Họ ra đi người này đến với người kia như những người đươc Thiên Chúa sai đi, giống như chàng thợ mộc thành Nadarét xưa đã chứng tỏ tình thương của Chúa Cha bằng những việc làm đầy tình thương xót. Họ sẽ mạnh hơn cả tội lỗi vốn làm méo mó, ti tiện và xuyên tạc hình ảnh con Ngươi. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ năng lực biến đổi của Người là ơn tha thứ, một sức mạnh lạ lùng nhất của vũ trụ, có thể biến đổi những con người lúc này và mãi mãi muôn đời.
Họ sẽ không quên những thương tích của Đấng Công chính bị tử hình vì dòng họ đi đôi khi sẽ là gian khổ. Họ sẽ không quên lời Người nói vì như lời Người, men của họ sẽ làm dậy các tâm hồn. Họ sẽ không quên các việc Người làm, vì nhờ đó, họ sẽ lay chuyển và luôn thúc đẩy mọi người, mọi nhóm, mọi xã hội lại cất bước lên đường. Không hoàn cảnh thực tế nào sẽ làm cho những hạt giống này chết đi và làm tiêu ma sự bảo đảm của Thiên Chúa. “Các môn đệ lòng đầy hân hoan”.
Liệu chúng ta có biết lắng nghe và cảm nhận luồng hơi thở nhẹ như gió thoảng kia là sự sống của Thiên Chúa chăng?
2/ Người Canh tân bộ mặt địa cầu:
Thần Khí luôn luôn đi đôi với những gì là đổi mới, là tái tạo là cởi mở và giải thoát, là sai đi và qui tụ. Người là tác nhân không mệt mỏi luôn canh tân và hiện tại hóa mọi sự. Từ một đám đông gồm nhiều thành phần khác nhau, Người làm nẩy sinh và khơi dậy sự hiệp nhất và cả tình hiệp thông.
Là nguồn sự sống không bao giờ cạn kiệt, Thần Khí không ra khỏi thế giới sau hành động ban đầu còn ghi trong sách Sáng thế. Và cũng vậy, sự can thiệp “ồn ào” của Người nơi các môn đệ hoảng sợ đến tê liệt, không phải là lễ Hiện Xuống duy nhất và cuối cùng, chỉ gợi cho lòng ta luyến tiếc mỗi khi nhớ lại mà thôi Thiên Chúa không ngừng gởi hơi thở của Người đến và ta vẫn còn có thể nghe biết Người, tuy không biết hơi thở từ đâu đến và sẽ đi đâu. Thế nhưng, người ta có thể cảm nhận rõ sự hiện diện và hoạt động của Người đem lại hiệu quả thực sự. Thần Khí mở toang mọi cánh. Người làm cho người ta phải bung ra khỏi những bức tường khép kín và giã từ những tổ ấm được coi là an toàn, vững chắc và đạo đức phô trương.
Thần Khí đánh thức, chỉ trích và uốn nắn. Người dứt ta ra khỏi niềm luyến tiếc về quá khứ, khỏi nỗi nhớ nhung tìm lại “thiên đường đã đánh mất” để hòa nhập với hiện tại luôn biến chuyển như bãi phù sa, cho lòng ta tràn đầy hy vọng để chuẩn bị cho ngày mai. Thần Khí làm trẻ lại những con người trì trệ, khiến người bại liệt đứng dậy và chạy nhảy. Người ban cho những ai bị suy sụp tinh thần vì thứ tôn giáo sợ sệt, vì thứ lề luật cứng ngắc và mù quáng và vì những mớ giáo lý khô khan, tìm lại được can đảm, mạnh bạo về niềm vui. Thần Khí dẫn ta vào cốt lõi của Thiên Chúa, và của con người: tức là chân, thiện, mỹ, nghĩa là mối quan hệ hoàn hảo, sự truyền thông thành công, sự hiệp thông. Thần Khí không phải là Thiên Chúa tự hiến mình đó sao? Và hoa quả đầu tiên mà người đem đến cho kẻ tiếp nhận Ngươi, không phải là đức ái đó sao?
Cũng phải kể là dấu chỉ của Thần Khí, khi tính đồng nhất nhường chỗ cho sự hiệp nhất, khi tính đa dạng được canh tân nhờ những ân huệ và đặc sủng, nhờ những chức năng và hoạt động, đẩy lui được những cám dỗ muốn thống trị và độc quyền, tính cạnh tranh là ghen tuông, tính tự tôn và những phán quyết không thể thay đổi. Thần Khí là sự dịu hiền và là sức mạnh, là nước và ánh sáng, là quyền năng và êm ái. Người là tiếng thì thầm và là gió bão, là lửa cháy. Người canh tân bộ mặt trái đất.
3/Chúa Thánh Thần hiện tại hóa sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong đời sống Kitô hữu.
Đức Giêsu hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cho các môn đệ, khi Người “vượt qua” trần thế để về cùng Cha, như vậy chắc hẳn ân huệ của Thánh Linh liên hệ rõ rệt với mầu nhiệm vượt qua. Tiếp nối sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, giờ đây là một quan hệ khác với người, quan hệ trong Thánh Thần, Đấng được mô tả như là:
– “Paraclet”, Đấng bảo trợ, bênh vực nơi tòa án trong vụ kiện chống các nhân chứng, giống như Đức Giêsu.
– “Thầy chân lý”, giống như Đức Giêsu, chứng nhân của chân lý (18,37). Người được Chúa Cha ban “để ở với anh em luôn mãi” và ở với mọi người được sai đi. Thánh Linh như chính Đức Giêsu, hiện diện bên các môn đệ suốt thời kỳ của Hội Thánh.
Hoạt động của Người nơi các tín hữu được mô tả là:
– Người là tác nhân tạo nên sự trung thành với Lời của Đức Giêsu và Tình yêu của Người.
– Người là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện: “Chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”.
– Người dần dần dẫn dắt họ tới sự hiểu biết đầy đủ sứ điệp của Đức Giêsu: “Người sẽ giúp anh em nhớ lại mọi điều”. Với tư cách Đấng Bảo Trợ, là Hiện diện, là Ký ức, Thần Khí hiện tại hóa sự có mặt của Đấng Phục sinh trong cuộc sống người Kitô hữu.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
CUỘC SÁNG TẠO MỚI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Sau khi đã tưởng niệm triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa trong suốt Mùa Vọng và cuộc giáng trần của Chúa Con từ mầu nhiệm Nhập Thể đến biến cố Thăng Thiên, nay chúng ta tưởng niệm lễ Ngũ Tuần khai mạc kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca thuật lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giê-su, khi họ tụ họp trong phòng Tiệc Ly. Biến cố nầy có nhiều điểm chung với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày nầy.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng tính đa dạng của những ân sủng làm chứng về sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mỗi tín hữu lãnh nhận những ân sủng của một Chúa Thánh Thần duy nhất để hình thành nên một thân thể duy nhất.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật “tiền Ngũ Tuần”, tức là ngay khi sống lại, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ, thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chắc chắn những ân sủng của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy, nhưng thánh ký nhấn mạnh rằng biến cố Phục Sinh của Chúa Giê-su là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Ngay từ ngày đầu tiên này, Chúa Thánh Thần ở với Giáo Hội.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11)
Theo Tin Mừng Lu-ca, sau khi Chúa Giê-su lên trời trên núi Ô-liu, các Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem, tuân theo lời căn dặn của Ngài: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi các ông tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13), chắc hẳn đó là căn phòng Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể. Đó cũng là căn phòng, dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra cho các ông vào buổi chiều Phục Sinh. Đó cũng là căn phòng Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông vào ngày lễ Ngũ Tuần.
1/.Mọi người đang tề tựu ở một nơi.
Không nên hiểu kiểu nói: “Mọi người đang tề tựu ở một nơi” (2: 1), là cộng đoàn gồm một trăm hai mươi người họp mặt vài ngày trước đó để chọn ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa (x. Cv 1: 15). Chắc hẳn đây là một nhóm nhỏ hơn được mô tả ở Cv 1: 13-14: “Các Tông Đồ… cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a, thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su”, họ cùng nhau cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng chú ý, Chúa Thánh Thần chọn tỏ mình ra vào ngày đại lễ Do Thái được gọi là lễ Ngũ Tuần, lễ tưởng niệm cuộc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai, giữa Thiên Chúa và dân Ngài, trong trận cuồng phong và lửa.
2/.Lễ Ngũ Tuần.
Được gọi là “lễ Ngũ Tuần” vì ngày đại lễ nầy được cử hành đúng vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Lễ Ngũ Tuần Do Thái tự nguồn gốc là ngày lễ mùa, lễ này kết thúc giai đoạn được khai mạc vào ngày lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, những ngày đại lễ của dân Do thái đều đã trải qua một tiến trình thiêng liêng hóa, từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử thánh. Đối với dân Chúa chọn, lịch sử cốt yếu là hành động của Thiên Chúa. Thế nên, lễ Vượt Qua tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập; lễ Ngũ Tuần tưởng niệm Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập; lễ Lều tưởng niệm cuộc lữ hành bốn mươi năm trong Sa-mạc. Vào thời kỳ gần với kỷ nguyên Ki-tô giáo, lễ Ngũ Tuần không chỉ tưởng niệm việc ký kết giao ước, nhưng còn là dấu chỉ của việc làm mới lại giao ước hằng năm. Vào ngày đại lễ nầy, dân Do thái lập lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa.
3/.Núi Xi-nai và phòng Tiệc Ly.
Trên núi Xi-nai, lời cam kết trung thành với Giao Ước và ân ban Lề Luật được diễn ra trong một khung cảnh rất long trọng. Biến cố nầy được tác giả mô tả bằng một văn phong rất gần với kiểu nói ngoa dụ. Trong đa số các tôn giáo, cuộc thần hiển thường được mô tả ngay sau trận cuồng phong. Trong Do thái giáo, chúng ta ghi nhận một nét đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối mọi hình ảnh về Ngài, nhưng chấp nhận dấu chỉ của lửa (hay ánh sáng, đám mây chói sáng) và dấu chỉ của gió (cuồng phong hay gió hiu hiu), cũng là hơi thở hay thần khí, bởi vì đó là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo khung cảnh của những cuộc thần hiển Cựu Ước. Thêm nữa, những hình tượng truyền thống này đã trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Chúng ta đọc thấy ở nơi thể loại văn chương khải huyền nầy, trận cuồng phong loan báo cuộc quy tụ muôn dân nước vào ngày phán xét; những hình lưỡi lửa thuộc vào cùng một hình tượng của ngày cánh chung. Thánh Lu-ca liên kết trực tiếp những hình tượng nầy với ân ban “nói các thứ tiếng khác” (2: 4) mà các Tông Đồ lãnh nhận. Như thế, kỷ nguyên Ki-tô giáo thật sự được loan báo theo cùng những dấu chỉ của kỷ nguyên cánh chung.
Sau cùng, truyền thống Kinh Sư đã suy gẫm biến cố Xi-nai và đã khai triển những hàm chứa của nó, theo đó, giọng nói của ông Mô-sê đã được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngõ hầu mọi dân tộc đều có thể hiểu được. Ngoài ra, làm thế nào không gợi lên lời cầu chúc của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29)?
Vì thế, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước; Tân Ước đáp trả sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai chi tộc Ít-ra-en ở chân núi Xi-nai; mười hai Tông Đồ ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra những khác biệt thật sâu xa.
4/.Phép rửa trong Thần Khí.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã báo trước rồi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi… Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Các Tông Đồ đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Giáo Hội xuất phát từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo nầy: “Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần”.
Những biến cố xảy ra trên núi Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật; những biến cố xảy ra trong phòng Tiệc Ly thiết lập kỷ nguyên Chúa Thánh Thần. Xưa kia, một dân duy nhất trở thành đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, muôn dân đều được mời gọi chung hưởng cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ơn huệ đầu tiên của Chúa Thánh Thần là ân ban nói các thứ tiếng khác, nhờ đó các Tông Đồ mới có thể ngỏ lời với đám thính giả “từ các dân thiên hạ trở về” (2: 5). Một danh sách dài liệt kê các dân tộc (2: 9-11) nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.
Như vậy, lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11). Theo chuyện tích này, sự xáo trộn của ngôn ngữ dẫn đến sự phân tán của các dân tộc xuất hiện như một sự trừng phạt. Vì thế, Giáo Hội của Đức Ki-tô dâng hiến cho nhân loại một khả năng phục hồi sự hiệp nhất của các dân tộc.
Chúng ta có thể nhận thấy ngay ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được đầy tràn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ ra khỏi căn phòng cửa đóng then cài, họ loan báo cho tất cả mọi người những kỳ công của Thiên Chúa. Với sự dạn dĩ, họ phục hồi quyền của Đấng chịu đóng đinh và làm chứng là Ngài đã sống lại.
5/.Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a.
Như chúng ta đã ghi nhận trên, kiểu nói: “Mọi người đang tề tựu ở một nơi”, bao gồm Đức Ma-ri-a cùng với mấy người phụ nữ. Việc Đức Ma-ri-a hiện diện vào ngày khai sinh Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần thật là quan trọng. Vào lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong bầu khí linh thánh của căn phòng Na-da-rét, Thiên Chúa đã kín đáo đến ở giữa nhân loại với tư cách là con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Còn bây giờ, Đức Ma-ri-a đảm nhận một tình mẫu tử khác, tình mẫu tử của Nhiệm Thể Đức Giê-su, Con của Mẹ.
Vài người phụ nữ cũng đón nhận Thánh Thần. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng ở giữa họ có bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Những người phụ nữ nầy không phải dãi dầu sương gió trên những dặm đường xa, chịu tù đày bắt bớ như các Tông Đồ, các bà làm chứng theo một cách khác. Rõ ràng, các bà hoạt động đến mức mà truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la là “tông đồ của các tông đồ”, nghĩa là “tông đồ tuyệt hảo nhất”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-xô, có lẽ vào mùa xuân năm 55, gởi cho giáo đoàn Cô-rin-tô mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đó, vào khoảng những năm 50-52.
Giáo đoàn Cô-rin-tô rất năng động, nhưng cũng gây ra những bất đồng nội bộ khiến thánh Phao-lô phải bận tâm. Đây là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô. Giáo đoàn nầy sống ở giữa thế giới lương dân và trong một thành phố mở rộng cửa đón nhận những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những đạo thần bí đông phương đang hồi cực thịnh. Những trào lưu nầy không phải là không tác động đến cách ăn nếp ở của các Ki-tô hữu.
Ngoài ra, đây không là hoàn cảnh đặc thù của cộng đoàn Cô-rin-tô. Trong những năm đầu tiên, các cộng đoàn Ki-tô hữu đã khổ sở vì thiếu cơ cấu: chưa có phẩm trật, tổ chức còn non yếu và chưa chặt chẻ. Ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê đến rồi đi chứ chưa bao giờ cư ngụ lâu dài ở đó. Vào lúc đó, mọi việc đều hoàn toàn tự phát và Chúa Thánh Thần bổ túc những thiếu thốn ban đầu nầy. Quả thật, những đặc sủng thì nhiều, sau đó sẽ trở nên hiếm hơn. Đó là thực tế.
Xem ra các tín hữu Cô-rin-tô đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, đôi khi không phải là không gây ồn ào huyên náo hay phô trương. Vì thế, thánh Phao-lô đòi hỏi họ tiên vàn phải hiểu rõ nguồn mạch của những ân huệ nầy.
1/.Nguồn mạch duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính là Ba Ngôi Thiên Chúa (12: 4-6):
Thật đáng lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những ân sủng và mọi hoạt động Ki-tô giáo dưới dấu chỉ của Ba Ngôi Thiên Chúa, bắt đầu từ Chúa Thánh Thần: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (Chúa Ki-tô). Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa (Chúa Cha) làm mọi sự trong mọi người” (12: 4-6).
2/.Mục đích duy nhất của muôn vàn ân sủng, chính vì lợi ích chung (12: 7-11):
Tiếp đó, thánh Phao-lô đưa ra một luật vàng: tiêu chuẩn của những ân sủng phải là đem lại lợi ích cho cộng đoàn, nghĩa là, nếu không vì lợi ích cho cộng đoàn, ân sủng đó chỉ là ngụy tạo, mạo danh.
3/.Nhiệm Thể của Đức Giê-su (12: 12-13):
Sau cùng, thánh nhân so sánh thân thể với Đức Ki-tô, hình ảnh này rất nổi tiếng. Một thân thể làm cho mọi chi thể nên một như thế nào, Đức Ki-tô làm cho Giáo Hội nên một cũng như thế, bất chấp vô số thành viên. Nguyên tắc hiệp nhất chính là Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất ban muôn ân sủng cho mọi tín hữu trong bí tích Thánh Tẩy. Chúa Thánh Thần tuôn trào sự sống trong chúng ta như mạch nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (12: 13).
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Chúng ta đã đọc đoạn Tin Mừng nầy rồi vào Chúa Nhật II Phục Sinh, với một đoạn trích dẫn dài hơn và trong ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Hôm nay, bản văn nầy được đề nghị cho chúng ta trong viễn cảnh của biến cố Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng nầy được gọi “lễ Ngũ Tuần” của Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20: 22). Biến cố nầy không mâu thuẩn với biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống mà sách Công Vụ tường thuật, nhưng bổ túc: “Giáo Hội được khai sinh ngay từ biến cố Phục Sinh”, cho dù những ân huệ của Chúa Thánh Thần chỉ được bày tỏ sau nầy.
1/.Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su trao gởi sứ vụ cho cộng đoàn nhỏ bé nầy, họ tiếp tục sứ vụ của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (20: 21). “Nhóm còn lại” nầy hình thành Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội được khai sinh dưới dấu chỉ của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Đây là một trong những giáo huấn cốt yếu của bản văn nầy.
Đức Giê-su thổi hơi vào họ, tái hiện cử chỉ của Đấng Sáng Tạo: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy từ bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2: 7). Đây cũng là động từ mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en dùng để mô tả cuộc hồi sinh của những bộ xương khô: “Ngươi hãy nói với Thần Khí: ‘Hỡi Thần Khí hãy thổi hơi vào những người đã chết nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế, đây cốt là khởi điểm của một “cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới khởi sự. Đức Giê-su làm cho các môn đệ trở thành hạt nhân của một nhân loại được tái sinh. Chính sự sống của Đấng Phục Sinh mà Ngài chuyển thông cho các ông.
2/.Hiệp nhất biến cố Phục Sinh với biến cố Ngũ Tuần.
Thánh Gioan luôn luôn liên kết biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống với biến cố Phục Sinh, như thánh ký đã giải thích lời công bố của Chúa Giê-su về “những dòng nước hằng sống” vào ngày bế mạc lễ Lều: “Đức Giê-su nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần nội tại nầy, được thánh Gioan ghi lại, chỉ là khúc dạo đầu của ngày lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động của Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi ngay lập tức các Tông Đồ. Nhưng khi đặt biến cố Phục Sinh và biến cố Ngũ Tuần bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự hiệp nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày lễ nầy đã được liên kết rồi trong Do thái giáo; đến lượt mình, thánh Gioan khẳng định sự liên đới của hai biến cố nầy trong một viễn cảnh mới.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA THÁNH THẦN LÀ NGUYÊN LÝ HỢP NHẤT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
– Đáp ca : Lạy Chúa, xin cử Thánh Thần tới, để canh tân địa cầu.
– Bài đọc II : Chúng ta đã được chịu phép Rửa nhờ một Thánh Thần để trở nên một thân thể.
– Tin Mừng : Buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ.
Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua : Đức Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.
– Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Đấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta.
– Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
– Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.
1/Bài đọc I: Cv 2,1-11 : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
– Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
– Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.
Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do “sinh khí” của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.
3/ Bài đọc II: 1 Cr 12,3b-7.12-13
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần :
– Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
– Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.
Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).
Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau :
– Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.
– Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội : chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
– Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.
Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó : tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu ? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.
2/Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần
Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung : hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.
Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.
Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được “lưỡi lửa” mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hôm lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Đó là hiệu quả bởi “lưỡi lửa” của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.
Xin “lưỡi lửa” hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.
Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. “Hơi thở” của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.
Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Địa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế ? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng “hơi thở” là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.
Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng : đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến… Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.
Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.
Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sắc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay :
– Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng “đặc sủng” của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.
– Đừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Đó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.
– Tận dụng “đặc sủng” Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
5/Chúa Thánh Thần, Đấng bị quên lãng
Chúa Thánh Thần là Đấng bị quên lãng. Đúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần
Thế nhưng CTT lại là Đấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.
– Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe : CTT hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả : vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi CTT ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn : nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.
– Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM. LM này trước đó có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của cô : ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM ! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy ? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn CTT hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy ? Xin đề nghị 2 điều :
– Một là chúng ta hãy cầu nguyện cùng với CTT. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Đấng biết tất cả mọi sự kia mà. Điều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với CTT, để CTT soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đổi.
– Điều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Đó là CG vừa ban CTT vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ : “Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai… ” Tại sao CG ban CTT và ban ơn tha tội chung nhau ? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẻ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh BTGT cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với CTT. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc : một là xét mình xem mình có những tội gì ; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội ; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào ; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh ; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào ? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi. Xưng tội cùng với CTT nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với CTT, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó ; xin CTT soi sáng cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với CTT nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin CTT soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.
6/Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi
Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường : gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng… Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội…
Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện : các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với CG, cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với CG suốt 3 năm trời, được CG dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của CG… Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế ? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục : Đi theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi ; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của CG đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toàn của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.
Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thương
Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện : thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông : Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa ; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.
Ngày nay chúng ta mừng lễ CTT hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ…. mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.
Đó cũng chính là ý tưởng của ĐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của Ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo Ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời Ngài “làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền GH, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho GH…”
Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được CTT Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Đầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục : chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phòng không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về TC, về linh hồn, về thiên đàng hoả ngục, về bí tích ; chúng ta đòi hỏi GH có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của GH mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v….Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tục như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.
Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có CTT hiện xuống trên chúng ta. CTT sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa : làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.
CT : Anh chị em thân mến
Thể theo lời Đức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và cầu xin.
- Lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin / Chúa Cha ban Thánh Thần để soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các vị mục tử / trong việc điều khiển con thuyền Hội Thánh / vượt qua mọi phong ba bão táp ở trần gian.
- Nhiều nơi trên thế giới ngày nay vẫn còn đang sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha cử Thánh Thần đến / đem yêu thương vào nơi oán thù / đem niềm vui cho người đau khổ / đem hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
- Ngày hôm nay / bạo lực và hận thù vẫn còn đang làm cho biết bao gia đình phải tan nát / biết bao người phải lâm vào cảnh khốn khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần là nguồn tình yêu / để đổi mới lòng trí con người trên khắp địa cầu.
- Đường lối Thiên Chúa thì nhiệm mầu / Lời Người thì cao siêu / nhiều khi chúng ta không thể hiểu tường tận được / Vì thế chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha / ban Thánh Thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta / những điều Chúa Giêsu đã dạy lúc còn ở với các môn đệ.
CT : Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám phá được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ…
– Trước kinh Lạy Cha : Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta và cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những tiếng than van khôn tả. Vậy chúng ta hãy cùng Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha sau đây.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, cách riêng là sự chia rẻ nhau. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, và được hiệp nhất với nhau trong Chúa Thánh Thần. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
– Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp được ăn cùng một tấm bánh là chính Đức Giêsu. Xin Chúa giúp chúng ta hiệp nhất với nhau. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
Anh chị em đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần và được thêm sức bởi hơi thở tình yêu của Ngài. Giờ đây anh chị em hãy ra về như những sứ giả của Tin Mừng và Bình an đối với mọi người anh chị em sẽ gặp gỡ.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG -B
THẦN KHÍ CỦA ĐẤNG PHỤC SINH- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt
1/Vào chiều phục sinh, Chúa Giêsu đã hai lần chúc cho các tông đồ đang hội họp (có lẽ tại nhà Tiệc ly): “Bình an cho các con”, và giữa hai lần chúc này, Ngài tỏ cho họ thấy dấu đinh nơi chân tay và vết đâm cạnh sườn Ngài. Lời cầu chúc trước và sau khi nhắc lại cuộc tử nạn xem ra rất phù hợp với một ý hướng đặc biệt của Chúa Giêsu. Thật vậy, việc lặp lai lời chúc này cho thấy đây không phải là một công thức chào hỏi thông thường, như là thứ bình an hòa lẫn với các dấu vết cuộc tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Nỗi đau khổ biệt ly không thể biến thành một niềm vui chóng qua làm ta quên mất cuộc tử nạn. Nỗi khổ đau ấy phải trở nên một niềm vui hằng cửu, được chín mùi trong đau khổ; đó là niềm vui của Chúa Giêsu cũng như của các môn đệ, thứ niềm vui không ai có thể cướp mất được (16,20-22). Niềm vui này là niềm vui của mùa gặt, kết quả của sức cần lao và khổ cực của cuộc tử nạn (4,38; 17,13).
2/Nếu phải có thần khí trợ giúp, các môn đệ mới hiểu được “chân lý” huống hồ để làm cho người khác hiểu chân lý, các ông phải cần đến thần khí dường nào nữa. Cũng như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên (St 2,7; Kng 15,11). Cũng vậy, Chúa Giêsu hôm nay thổi Thánh thần, hơi thở Thần linh cho các môn đệ (ruah trong tiếng Hy bá, và pneuma trong tiếng Hy lạp đều có nghĩa: hơi thở, gió). Giờ đây, họ được tái tạo để thi hành sứ mệnh. Việc trao ban thần khí ở đây không chủ yếu nói lên việc tái sinh các môn đệ trong nước trời và trong sự sống siêu nhiên (3,3-8), nhưng nhằm đến sứ mệnh được trao cho họ: sứ mệnh thôi thúc kẻ khác đến cùng chính sự sống ấy.
3/Tại sao Thần khí đã được trao ban cho các môn đệ ngay từ ngày Chúa phục sinh, trong lúc đó Giáo hội sơ khai cho rằng Thần khí được tuôn tràn trong dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4). Lc chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ ngũ tuần (Lc 24,49), nhưng ông đưa về tác phẩm thứ hai của ông là sach Cv, còn Gioan thì không. Như vậy thần khí phải chăng là một sản phẩm có điều kiện? hoặc thần khí được trao ban cách “nhỏ giọt”?
Đã có nhiều câu giải đáp. Sau đây là hai cách giải đáp khá hấp dẫn:
4/Theo một vài tác giả, thật là sai lầm khi muốn dung hòa Gioan và Cv, bằng cách giả thiết Gioan nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhất, còn Lc nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhì. Không có một dấu chỉ nào cho thấy hai tác giả cua hai tác phẩm này biết tới hoặc để ý tới vấn đề mà tác giả kia bàn đến. Và như tế người ta có thể nói mỗi tác giả đều mô tả cùng một biến cố: chỉ có một thần khí được Đấng phục sinh và lên trời trao ban cho các mon đệ. Nhưng hai tác giả phúc âm đã diễn tả cách khác nhau tùy khuynh hướng, thần học riêng của mỗi người. Chúng ta không thấy hiện tượng các tác giả trình bày khác nhau cùng một biến cố thuộc sứ vụ Chúa Giêsu đó sao? Đặc biệt Gioan và Cv chỉ định hai thời gian khác nhau cho việc trao ban cùng chính một thần khí không phải là một chướng ngại bất khả vượt. Như nhiều kẻ đã lưu ý, ngày giờ mà Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên cho các môn đệ, theo Gioan ghi chép, chỉ có tính cách giả tạo, vì hình như Galilê mới là nơi được hẹn để hiện ra lần đầu tiên hơn là Giêrusalem (x. Mc 16,7 và Mt 28,7), và nếu vậy thì đương nhiên loại bỏ việc xem ngày chúa nhật Phục sinh như là ngày Chúa hiện ra lần đầu tiên. Còn sách Cv lại mang nhiều yếu tố biểu tượng trong việc chọn ngày lễ Ngũ tuần, vì Lc dùng (như là hậu cảnh) chủ đề giao ước Sinai, chủ đề mà ông sẽ nối kết với lễ ngũ tuần khi diễn tả việc thần khí đến. Dù sao, có thể Lc đã giữ lại một kỷ niệm xác thực về việc Thần khí lần đầu tiên đã hiện xuống trên cộng đoàn tiên khởi vào một ngày lễ ngũ tuần nào đó. Điểm đáng chú ý là hai tác giả đều đat việc trao ban thần khí sau khi Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha, dù hai ông đã quan niệm việc về cùng Cha cách khác nhau. Vì thế, với một ít lý do xác đáng, ta có thể nói Ga 20,22 trình bày “lễ hiện xuống” theo nhãn quan Gioan (Pêntêcôte johannique).
5/Cách giải đáp thứ hai theo một đường khác, có tính cách thần học hơn là chú giải. Một số tác giả quan niệm việc trao ban thần khí được thực hiện cách tiệm tiến. Thần khí không phải là một chân lý tĩnh, để trong túi như một đồ vật quí giá. Đối với tín hữu, Thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài được trao ban không ngừng không những vào dịp lễ ngũ tuần, mà sau đó nữa. Việc tuôn tràn thần khí dịp phục sinh, Hiện xuống và các dịp sau đó đều là những dấu chỉ của cùng một thực tại đã biến đổi thế giới (3,3-8), từ khi Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39). Việc phân biệt hai lần trao ban thần khí và lễ phục sinh và lễ ngũ tuần chỉ là phu tùy, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố này phát xuất từ cùng một “giờ”. mọi cuộc tuôn đổ thần khí chỉ là một. Ngày phục sinh, các môn đệ nhận thần khí để thi hành sứ mệnh; Thần khí trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2,1-4) và sau đó Thần khí tiếp tục phù trợ họ.
Thật khó mà biết phải chọn lối giải thích nào. Dù sao đây là vấn đề phụ thuộc, vì những thế hệ Kitô hữu đầu tiên không mấy lưu tâm đến vấn đề, bởi lẽ họ thâu nhận vào trong kinh điển các sách linh ứng cả hai cách trình bày việc trao ban Thần khí.
6/ Quyền tha tội và cầm tội trao ban ở đây cho các tông đồ và những người kế vị trong Giáo hội Đức Kitô, được diễn tả rõ ràng qua chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn công nhận, chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn luôn công nhận như là lời thiết lập bí tích cáo giải. Đó là điều đã được công đồng Tridentinô định tín (Ds 1670,1703) chống lại phái Luthêrô; những người này chỉ cho đó là quyền rao giảng sự tha tội cho các tín hữu hối cải ăn năn.
KẾT LUẬN
Cũng như đã được Cha sai, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào trong thế gian để tiếp tục công việc của Ngài. Những lời nói của Ngài đây cũng chính là những lời Ngài đã dùng trong lời nguyện hiến tế ở chương 17 (c.8). Lần này nói cho các tông đồ, các lời ấy củng cố họ trong ơn gọi họ. Từ đây các ngài ra mắt với thế gian nhân danh Đức Kitô Phục sinh và trong quyền năng của thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1/Khi thông ban thần khí Ngài cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên họ và phán: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Cử chỉ của Chúa Giêsu tiếp nối một trong những đề tài được ưa chuộng nhất trong Thánh Kinh: Thánh Thần, hơi thở của Thiên Chúa. Và có lẽ đây là hình ảnh minh bạch nhất để nói về Thần Khí: Ngài giống như luồng gió thổi.
Người ta không thấy gió, không biết nó đi từ đâu và ngừng lại chỗ nào. Dĩ nhiên, nhà khí tượng học có thể đưa ra cho chúng ta nhiều lý thuyết về việc phát sinh và tàn lụi của các trận bão. Nhưng người đang bị gió bão cuốn đi thì chỉ có một ấn tượng mình bị bao bọc bởi một cái gì huyền bí và mãnh liệt. Thật vậy, gió rít gào và gầm thét. Gió bẻ gãy, uốn cong và bứt tung. Chính gió chở mây, mang bụi. Chính gió tàn phá và làm cho đất được hoa màu. Đó là chủ tể của sự sống. Khi thì tưới mát, lúc thì đốt thiêu. Chúng ta không thấy được gió, chỉ nhận ra nó qua bao hiệu quả muôn vàn.
Hơi thở của thần Thiên Chúa cũng vậy, Ngài hung hăng len lỏi khắp nơi. Ngài bẻ gãy, bứt tung, tàn phá những gì trong chúng ta đang chống lại tình yêu (dĩ nhiên với điều kiện chúng ta chiều theo hoạt động của Ngài, vì Ngài bất lực trước tự do của con người từ khước) và Ngài cũng làm tươi mát, biến đổi nên phì nhiêu những tâm hồn phó thác cho hoạt động của Ngài. Hơi thở của Thiên Chúa không ngừng thổi trong tâm hồn chúng ta: ngọn gió của Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta đến nhà Cha hay không là tùy chúng ta.
2/“Các môn đô mừng rỡ”: nỗi vui mừng này là do việc thấy lại Chúa sau khi quá chán nản thất vọng. Họ đã hy vọng vào Chúa Giêsu, nhưng thập giá đã làm cho họ nản lòng, và này đây Ngài lại hiện ra sống động, niềm hy vọng lại được đảm bảo và củng cố. Nỗi vui mừng ngập tràn. Điều này nhắc lại cho chúng ta nhớ rằng Thánh Thần Chúa Giêsu ban là thần khí của niềm vui.
Tin mừng mở ra với một mầu nhiệm vui: Thánh Thần, ngay từ đầu cuộc hiện hữu nhân loại cùa Chúa Giêsu, đã tạo nên hai niềm vui lớn: Elizabet chị họ Đức Maria, nhảy mừng vì được Mẹ Đấng cứu thế viếng thăm; và Maria, dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần hát lên niềm vui của mình trong kinh Magnificat. Ít lâu sau đó, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một cuộc đản sinh gây bao phấn khởi vui mừng cho cả toàn dân. Thánh Gioan cũng nói “Abraham cũng hân hoan khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của thánh thần, ông đã được thấy và đã reo mừng (Ga 8,56). Chúng ta có vui được niềm vui của kinh Magnificat vì thánh Thần làm phát sinh trong ta niềm tin vào Đức Kitô không? Ngược lại hãy thử tưởng tượng: nếu không có đức tin vào Đức Kitô, đức tin do Chúa Thánh Thần phát sinh trong ta, thì chúng ta sẽ buồn bã biết chừng nào.
3/Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Có nên giới hạn ý nghĩa lời Đức Kitô đây trong câu chuyện ghi lại các lần hiện ra không? Không! Chúa luôn nghĩ đến sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong Giáo hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thời gian của Giáo hội là thời gian Thánh Thần hiện diện trong the giới. Chúng ta có vui mừng khi nghĩ rằng Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta không?
4/Thiên Chúa ban cho chúng ta không những chỉ các hồng ân thụ tạo và đầy giới hạn của Ngài, nhưng còn ban chính mình Ngài, với tự do của tình yêu Ngài, với vinh phúc của cuộc sống Ba Ngôi. Ân huệ cao vời này, chúng ta gọi là Thánh Thần. Ngài thuộc về chúng ta. Ngài hiện diện trong mỗi tâm hồn kêu cầu Ngài với lòng khiêm nhường và tin cậy Ngài thuộc về chúng ta đến nỗi người ta không thể nói con người là gì mà không thêm yếu tố này là Thiên Chúa cũng đã là một thành phần trong sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa đã trở thành Thiên Chúa của chúng ta. Đó là tất cả sứ điệp của lễ Thánh Thần hiện xuống.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
ĐẤNG ĐỔI MỚI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
- Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
- Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- A
CÁC CON HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- ĐGM. Giuse Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: “Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương”. Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. “Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô”. Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: “Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết”. Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: “Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.”. Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình.” Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ… Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ “tôi đang là” đến chỗ “tôi được mời gọi để trở thành…” Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: “Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành”. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. “Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.”
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
HỒNG ÂN THÁNH THẦN– Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là chúng ta kết thúc Mùa Phục Sinh. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần là ứng nghiệm lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ khác, để ở cùng với các con luôn mãi”(Ga 14,16). Đồng thời, đây cũng là ngày khai sinh Hội Thánh. Chúng ta dành một vài phút để cùng ôn nhắc lại với nhau Chúa Thánh Thần là ai? Và là Đấng nào?
Trước hết, trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: Đức Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
Tiếp đến, Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi. Chúa Giêsu biết trước sau khi về trời các tông đồ nói riêng và Hội thánh nói chung, sẽ gặp rất nhiều gian nan thử thách trong sứ vụ rao giảng Tin mừng. Cho nên, Ngài không bỏ các tông đồ mồ côi, nhưng sai Chúa Thánh Thần đến với các ông.
Từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đổi mới lòng dạ các tông đồ cách lạ lùng. Từ những người dốt nát trở nên thông thái nói được nhiều thứ tiếng; từ những người nhút nhát trở nên mạnh mẽ tung cửa ra, hiên ngang đi rao giảng Tin mừng, mà không sợ bất cứ quyền lực trần gian nào vây hãm.
Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các tông đồ. Các ngài đã nhận được sức sống mới của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ thấp chỗ cao, bây giờ các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.
Chúa Thánh Thần còn thêm sức mạnh thiêng liêng cho các vị tử đạo, dạy bảo họ nói những lời lẽ khôn ngoan, mạnh mẽ tuyên xưng danh Chúa trước mặt vua chúa quan quyền, cho dù máu chảy đầu rơi. Như lời Chúa Giêsu căn dặn: “Khi người ta bắt nộp các con, thì đừng lo nghĩ phải nói làm sao và nói gì, vì lúc đó không phải các con nói, nhưng là Thánh Thần sẽ nói trong các con” (Mt 10,19-20).
Chúa Thánh Thần gìn giữ Hội Thánh luôn vững vàng trong sự thật, không hề sai lầm khi dạy điều gì về đức tin hay phong hoá. Đồng thời, còn ban cho Giáo Hội nhiều vị thông thái lỗi lạc viết những sách chân lý, để phi bác những tà thuyết và những trào lưu văn hoá nguy hại đức tin.
Nhờ ơn Chúa Thánh Thần ban ơn trợ giúp, các nhà truyền giáo không buồn lòng nản chí khi ra đi rao giảng Tin mừng. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần đến an ủi, mà các tông đồ cũng như các vị tử đạo đã can đảm làm chứng cho Chúa, sẵn sàng chịu mọi hình khổ cho đến chết vì danh Đức Giêsu Kitô.
Anh chị em thân mến,
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt động trong lòng Hội Thánh. Vì thế, hãy mở cửa lòng mình ra, để luồng gió Thánh Thần thổi vào đổi mới tâm hồn chúng ta. Xin Ngài biến đổi chúng ta. Giúp chúng ta biết từ bỏ lối sống cũ, là tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Ước gì, trong đời sống thường ngày, với thân phận con người có nhiều giới hạn và yếu đuối, rồi có khi rơi vào hoàn cảnh không được may mắn như những người khác, làm cho chúng ta lo buồn hơn là an vui, đau khổ hơn là hạnh phúc. Thì giờ đây, xin Chúa Chúa Thánh Thần Đấng phù trợ, ban ơn đổi mới mọi sự trong ngoài, giúp chúng ta tìm thấy niềm vui trong cuộc đời theo Chúa. Đồng thời, xin Ngài cũng thêm ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa hơn.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ngay trong tháng Năm, tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Xưa kia Mẹ đã hiện diện với các tông đồ trong ngày khai sinh Giáo hội, để cầu nguyện và xin Chúa Thánh Thần ngự đến. Và trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, Đức Mẹ vẫn tiếp tục thể hiện tình mẫu tử hiện diện để che chở Giáo Hội và nâng đỡ các tín hữu.
Vì thế, mỗi người hãy dâng lên Đức Mẹ những đóa hoa lòng, bằng việc siêng năng lần hạt Mân Côi và sống đức bác ái đối với tha nhân. Đó là những đóa hoa lòng tươi đẹp mà Mẹ ưa thích nhất. Chắc chắn Mẹ sẽ ban cho chúng ta bình an và niềm vui trong cuộc sống có nhiều biến động này. Amen.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG-B
THÁNH THẦN, ĐẤNG PHÙ TRỢ VÀ TÁC SINH- Lm. Đan Vinh HHTM
(19) Vào chiều ngày ấy, Ngày Thứ Nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì Người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
2/. Ý CHÍNH:
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện ra với các môn đệ để ban bình an và niềm vui cho các ông, khi ấy đang mang tâm trạng hoang mang sợ hãi (19), chứng minh Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (20). Cuối cùng người còn ra lệnh cho các ông tiếp tục sứ mệnh thừa sai của Người (21b). Để hỗ trợ cho các ông đủ khả năng chu toàn sứ mệnh “được sai đi”, Người đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông kèm theo quyền tha thứ hay cầm giữ tội của người ta (22).
3/. CHÚ THÍCH:
– C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Đức Ki-tô hiện đến trong lúc phòng vẫn đóng kín. Điều này cho thấy thân xác phục sinh của Người có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Đức Giê-su Phục Sinh cũng là Đấng đã bị đóng đinh chân tay vào thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này cho thấy có một sợi dây liên kết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
– C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Chúa Giê-su Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả các tín hữu. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sinh khí hay sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các Giám Mục, kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.
4/. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay Hội Thánh chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Ngày Thứ Bảy (Sa-bát) như đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly trong khi cửa nhà đóng kín cho thấy thân xác của Người sau khi sống lại có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào chúc, Chúa Phục Sinh đến đem lại điều gì cho các môn đệ ? 4) Qua việc cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mạng tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất do ai và từ khi nào ? 6) Tại sao Chúa Giê-su lại thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Chúa Giê-su có quyền tha tội và Người thiết lập bí tích giải tội để trao quyền tha tội cho Hội Thánh khi nào ?
5/. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tin Mừng Gio-an thuật lại rằng: Chúa Giê-su Phục Sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Ga 20,22), đang khi sách Công Vụ lại nói: Thánh Thần xuất hiện như tiếng gió mạnh và qua hình lưỡi giống như lưỡi lửa đậu xuống trên từng người vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,1-3). Như vậy Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ vào chiều ngày Phục Sinh hay vào lễ Ngũ Tuần ? Thánh Thần đã tác động thế nào trên cộng đoàn đầu tiên ?
** ĐÁP:
Thực ra Chúa Giê-su đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay từ “buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần”. Vì sau khi phục sinh, Người không còn bị lệ thuộc vào thời gian và không gian nữa, nên đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha và được Chúa Cha tôn vinh, và Người đã ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay buổi chiều ngày phục sinh (x. Ga 7,39). Nhưng phải chờ tới ngày lễ Ngũ Tuần, tức là 50 ngày sau Phục Sinh, Thánh Thần mới phát huy tác dụng, khi các ông đã chuẩn bị bằng việc nghe lời Chúa Phục Sinh trong Sách Thánh và đã xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người; nhất là sau khi các ông đã “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14).
Sách Công Vụ đã thuật lại việc Thánh Thần tác động trên Cộng Đoàn đầu tiên như sau: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi. Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy Ơn Thánh Thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
HỎI 2: Tại sao Thánh Thần lại tác động trên các Tông đồ đúng vào lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái, tức 50 ngày sau khi Chúa Giê-su sống lại ? Có liên hệ nào giữa hoạt động của Thánh Thần với ý nghĩa của lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái hay không?
** ĐÁP:
Tuy Đức Giê-su sau khi sống lại đã hiện ra vào chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần, trùng với lễ Vượt Qua của đạo Do thái, nhưng phải đợi đến ngày thứ 50, trùng với lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần mới tác động trên các Tông Đồ vì những lý do như sau:
+ Thiết lập giao ước: Trong Cựu Ước, Lễ Ngũ Tuần ban đầu là ngày lễ của nông dân, tạ ơn Đức Chúa về các hoa màu mùa màng (x. Xh 23,16). Về sau họ mừng lễ này để kỷ niệm việc Đức Chúa ban Lề Luật và ký kết giao ước Xi-nai với họ. Đến thời Tân Ước vào ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần trước đó đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi ban cho các Tông đồ vào chiều ngày phục sinh, giờ đây đã phát huy tác dụng trên các ông, như sách Công vụ đã thuật lại (x. Cv 2,1-4).
+ Thành lập dân riêng mới: Cũng như trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã ký giao ước Xi-nai và ban Lề Luật vào lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau biến cố Vượt Qua, biến dân Ít-ra-en thành dân riêng của Người, thì đến thời Tân Ước, Thánh Thần đã hiện xuống vào 50 ngày sau biến cố Phục Sinh, trùng với lễ Ngũ Tuần của đạo Do thái, để tác động, biến Hội Thánh trở thành dân riêng mới của Thiên Chúa.
HỎI 3: Qua các hình dạng được diễn tả trong sách Công Vụ như: “Từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp, và xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,2-4), tác giả Sách Thánh muốn diễn tả điều gì về hoạt động của Chúa Thánh Thần ?
**ĐÁP:
+ Tiếng động như tiếng gió mạnh: Ám chỉ Thánh Thần là Đấng thiêng liêng vô hình, giống như gió mà người ta không thể xem thấy, mà chỉ cảm nhận được hiệu quả của nó mà thôi (x. Ga 3,8). “Gió mạnh” tượng trưng cho sức mạnh của ân sủng và tình yêu của Thánh Thần. Sức mạnh ấy sẽ giúp các môn đệ làm được những việc lớn lao hơn Đức Giê-su, nghĩa là ban cho các ông khả năng loan báo Tin Mừng khắp thế gian cho mọi dân tộc, đang khi Đức Giê-su chỉ mới rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân Do thái tại xứ Pa-lét-tin.
+ Lưỡi lửa: Lưỡi là bộ phận dùng để nói. Lưỡi lửa ám chỉ lời nói của các Tông đồ sẽ có tác dụng như lửa: vừa tẩy sạch tâm trí người nghe khỏi những tư tưởng sai lầm để hiểu biết chân lý, vừa hun đúc tâm hồn người nghe để họ tin vào Lời Chúa.
+ Nói các thứ tiếng khác: Là ân huệ đầu tiên của Thánh Thần. Vậy các Tông đồ nói tếng lạ thế nào ? Chắc không phải là thứ tiếng lạ khác thường, vì khi nghe các Tông đồ nói thì “Người ta hiểu được bằng tiếng mẹ đẻ của mình” (Cv 2,6; 1 Cr 14,5). Ở đây, Lu-ca có ý nói rằng: Các Tông đồ được ơn ngôn ngữ, nghĩa là ơn diễn tả về Thiên Chúa cho người khác hiểu được, làm cho người ta trở nên hiệp nhất thay vì chia rẽ thành nhiều thứ tiếng do tội kiêu ngạo như con cái loài người thời tổ phụ Nô-ê (x. St 11,1-9). Cuối cùng, ơn ngôn ngữ của các Tông đồ còn giúp Hội Thánh mang tính phổ quát nghĩa là rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc (x. Cv 2,9-11).
HỎI 4: Ngày nay, khi chịu phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, Thánh Thần sẽ ban những ơn gì cho các tín hữu ?
** ĐÁP:
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ đến hoạt động trong các tín hữu.
+ Thánh Thần sẽ thông ban dồi dào sự sống của Thiên Chúa cho chúng ta, biến đổi chúng ta nên Ki-tô hữu trưởng thành về đức tin, mạnh dạn tuyên xưng đức tin và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cho chúng ta hiểu biết đầy đủ về giáo lý của Chúa Giê-su, hầu giúp chúng ta giữ nghĩa cùng Chúa luôn và ngày càng nên hoàn thiện hơn, như lời Người đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,25).
+ Thánh Thần sẽ cho chúng ta được tham dự vào sứ mệnh của Chúa Giê-su bằng ba việc: rao giảng (Ngôn sứ), thánh hóa (Tư tế), và cai quản dân Chúa (Vương đế). Chúng ta làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời nói, việc làm và bằng chính đời sống tốt lành của mình, nhờ đó sẽ giúp lương dân nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.
+ Thánh Thần sẽ hoạt động trong chúng ta bằng việc ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp chúng ta nên thánh. Đó là các ơn: khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).
II/. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23).
2/. CÂU CHUYỆN: NGƯỜI TRỒNG CÂY SỒI
Vào thập niên 1930, có một thanh niên một mình đi thám hiểu dãy núi AN-PƠ (Alpes) nước Pháp. Anh ta đi ngang qua một dải đất đồi trọc rộng mênh mông. Dải đất này vừa hoang vắng không người lai vãng, lại vừa mấp mô xấu xí và không đáng để người ta quan tâm. Bỗng nhiên anh ta thấy một ông già đang khòm lưng làm việc, trên vai đeo một cái túi khá nặng chứa đầy hạt sồi. Tay ông cầm một khúc ống sắt dài khoảng 1m20. Ông đang dùng ống sắt ấy đâm sâu xuống mặt đất, làm thành những chiếc lỗ cách nhau khoảng 3 mét, Rồi ông thò tay vào túi hạt sồi lấy ra một nắm đặt vào mỗi lỗ một hạt. Khi anh thắc mắc thì ông giải thích như sau: “Nhà tôi ở trong vùng đất hoang vu này. Trước kia tôi cũng có gia đình. Nhưng vợ và 3 đứa con của tôi đã lần lượt bị chết do một dịch bệnh cách đây gần một năm. Sau khi vợ con chết hết, tôi buồn bã chán nản không thiết làm việc trồng tỉa như truớc, mà suốt ngày chỉ đi thơ thẩn khắp vùng này để giải khuây. Một hôm tôi đi ngang qua khu vực đồi trọc rộng bao la này và muốn làm một việc gì đó để đời mình có ý nghĩa. Tôi nảy ra ý định sẽ gieo hạt giống từ cây sồi trong vườn sau nhà, để phủ xanh khu vực đồi trọc này. Tuy biết mình đã lớn tuổi chẳng còn sống được bao năm và không có người thừa kế, nhưng tôi vẫn cố gắng làm việc này với hy vọng sẽ để lại cho thế hệ mai sau một quả đồi đầy những cây sồi. Đến nay, sau một năm miệt mài gieo trồng, tôi ước tính đã gieo được cả trăm ngàn hạt sồi xuống đất. Chỉ cần một phần mười số hạt này mọc lên thôi, thì tôi cũng đã mãn nguyện lắm rồi”.
Hai mươi năm sau, anh thanh niên kia giờ đã trở thành một người trung niên. Một lần, khi đi ngang qua khu vực này. Ông ta sửng sốt khi thấy khu vực đồi trọc hoang vu trước đây hai chục năm giờ đã biến thành một khu rừng sồi rất đẹp, rộng hai dặm và dài khoảng năm dặm. Tại khu rừng sồi này có nhiều lòai chim làm tổ và chạy nhảy trên cành ca hát líu lo. Nhiều loài thú hoang như hươu nai cũng đang nhởn nhơn gặm cỏ. Hoa sồi nở rộ khắp nơi lan tỏa mùi thơm khắp vùng. Toàn cảnh khu vực giống như một địa đàng. Ông nhận định rằng: Sở dĩ có được thành quả tốt đẹp này là do bàn tay của ông lão tốt bụng trước đây hai mươi năm đã để lại.
Lễ Hiện Xuống cũng là một lời mời gọi các tín hữu chúng ta hành động để góp phần xây dựng và mở rộng Nước Chúa đi khắp hòan cầu. Tuy không có khả năng làm thay đổi cả thế giới, nhưng chúng ta vẫn có thể biến đổi được phần nào ngay tại môi trường sống của mình, giống như ông lão trong câu chuyện trên đã làm. Mỗi chúng ta đều đã được Chúa ban cho một túi hạt sồi ân sủng và một khúc ống sắt tài năng khi lãnh nhận phép Thêm Sức. Chỉ cần một chút can đảm của ông lão trồng sồi, cùng với ơn Thánh Thần hỗ trợ, chúng ta cũng có thể góp phần làm cho môi trường chúng ta đang sống ngày một an ninh trật tự hơn, công bình nhân ái hơn và tốt đẹp thịnh vượng hơn. Nếu biết hợp tác với những người thiện chí, với ơn phù trợ của Thần Khí Chúa Giê-su Phục Sinh, chúng ta có thể làm được công việc lớn lao vượt quá khả năng giới hạn của chúng ta, là làm cho thế giới nên một “trời mới đất mới” đầy công bình, nhân ái, an vui và hạnh phúc là thiên đàng đời sau.
3/. SUY NIỆM:
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, khi các cửa nhà các Tông đồ trú ngụ đều đóng kín vì sợ người Do thái. Chúa Giê-su đã hiện đến đứng giữa và nói: ”Bình an cho anh em”. Sau đó Người đã sai các ông ra đi tiếp tục sứ mạng Thiên Sai của Người. Để giúp các ông chu toàn sứ mạng này, Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin của họ bằng việc cho xem các vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn Người. Cuối cùng Người còn thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông và nói: ”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Vậy Thánh Thần là ai ? Làm thế nào để Thánh Thần hoạt động hữu hiêu trong Hội Thánh và nơi mỗi tín hữu hôm nay ?
1). Thánh Thần là ai ?
- a) Ít người biết Chúa Thánh Thần là ai ?:Cũng như trong thời Hội thánh sơ khai một số tín hữu ở Ê-phê-sô khi được Phao-lô hỏi đã nhận được Thánh Thần chưa? đã trả lời rằng: «Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói» (Cv 19,2), thì nhiều tín hữu hôm nay cũng chỉ biết về Chúa Thánh Thần cách lý thuyết qua những câu kinh bổn thuộc lòng từ thuở nhỏ, đang khi Thánh Thần là một thực thể sống động ở ngay trong lòng chúng ta. Không có Ngài, chúng ta chẳng làm được gì tốt đẹp: không thể cầu nguyện với Thiên Chúa, không thể yêu thương và hy sinh cho tha nhân. Thánh Phao-lô đã khẳng định: «Không ai có thể nói rằng: Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí» (1 Cr 12,3); «Chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta» (Rm 8,26); «Chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta là nhờ Thần Khí» (1 Ga 3,24).
- b) Thánh Thần canh tân đổi mới các tín hữu:Cũng như không ai nhìn thấy dòng điện, nhưng chúng ta nhận biết có điện nhờ những biểu hiện cụ thể của nó như: Bóng đèn cháy sáng, máy quạt quay mát, bếp điện nóng lên… Cũng vậy, Thánh Thần sẽ trở nên cụ thể và gần gũi với chúng ta nếu chúng ta có được cảm nghiệm về Ngài. Chúng ta sẽ không thể sống, thở, suy nghĩ và làm điều tốt… nếu không có Thánh Thần của Đức Giê-su trợ giúp như Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5b). Hoa trái thiêng liêng của Thánh Thần là «bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ» (Gl 5,22-23a).
- c) Thánh Thần của Đức Giê-su và của chúng ta:Thánh Thần ở trong chúng ta hôm nay cũng chính là Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Mẹ thụ thai Đức Giê-su mà còn đồng trinh (x. Lc 1,35), đã hướng dẫn Đức Giê-su vào trong hoang địa để chịu ma quỷ thử thách (x. Mt 4,1), đã lấy hình chim bồ câu đậu trên Đức Giê-su khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (x. Mt 3,16), đã tác động làm cho Đức Giê-su vui mừng dâng lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21), đã được Chúa Phục Sinh thổi Thần Khí trên các Tông đồ vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần sau khi Người từ cõi chết sông lại (x. Ga 20,22), đã trở thành cơn bão mạnh mở tung cửa nhà Tiệc Ly và trên đầu mỗi môn đệ Chúa đều có một hình lưỡi lửa vào lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,3) v.v… Ngày nay Thánh Thần ấy vẫn đang hoạt động trong Hội Thánh và nơi mối tín hữu, soi sáng cho Hội thánh «sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13), miễn là chúng ta biết mở lòng cầu xin Ngài đến và tích cực cộng tác với ơn phù trợ của Ngài.
- d) Thánh Thần chính là Đấng Bảo Trợ khác thay Đức Giê-su:Đức Giê-su đã hứa với các môn đệ khi sắp từ giã các ông như sau: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em. Nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7). Chúa Thánh Thần sẽ luôn hiện diện trong lòng các tín hữu như lời Chúa dạy: «Thánh Thần luôn ở giữa anh em và ở trong anh em» (Ga 14,17). Thánh Phao-lô cũng viết: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ?» (1 Cr 3,16). Như vậy, tất cả những gì tốt đẹp trong suy nghĩ, hay những việc tốt chúng ta làm được đều nhờ ơn Thánh Thần ban cho chúng ta.
2). Điều kiện để Thánh Thần hoạt động hữu hiệu:
- a) Phải loại trừ cái tôi kiêu căng ích kỷ:Muốn được Thánh Thần ban ơn thánh hóa, chúng ta cần phải có một tâm hồn khiêm tốn. Một người có «cái tôi» quá lớn, coi mình như «cái rốn của vũ trụ», và coi trọng ý riêng, thì sẽ không thể đón nhận được ơn Thánh Thần. Giống như một ly nước chứa đầy nước sẽ không thể nhận thêm gì khác, thì cũng vậy, nếu trong lòng chứa đầy «cái tôi», thì sẽ không còn chỗ cho Thánh Thần tác động.
- b) Phải cầu xin ơn Thánh Thần:Thánh Thần luôn hiện diện nhưng Ngài chỉ ban ơn nếu chúng ta biết tin cậy cầu xin Ngài và sẵn sàng cộng tác với Ngài. Thánh Thần giống như điện năng trong nhà chúng ta. Nếu chúng ta muốn các bóng đèn trong nhà cháy sáng, máy quạt quay gió mát, máy vi tính hoạt động… thì chúng ta phải biết mở cầu dao điện lên và bật các công tắc điện. Cũng như trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su đã thức dậy và truyền cho bão tố lặng im khi thuyền các môn đệ sắp chìm và các ông đã mở miệng xin Người cứu giúp: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất !” (Mt 8,25-26). Cũng vậy, Thánh Thần luôn “ngự trong chúng ta” (x. 1 Cr 3,16), nhưng Ngài trong tư thế thụ động. Nếu chúng ta biết mở miệng cầu xin thì Ngài sẽ sẵn sàng ban ơn thánh hóa chúng ta.
- c) Phải mời Chúa vào làm chủ lóng trí chúng ta:Thánh Thần và Chúa Giê-su là một. Ngài sẽ không thể tác động hữu hiệu nếu chúng ta chỉ coi Ngài như một vị khách lạ. Muốn cho Thánh Thần cúa Chúa Giê-su hoạt động hữu hiệu biến đổi chúng ta nên con người mới, thì chúng ta cần mời Người làm chủ lòng trí chúng ta, và làm những gì Ngài muốn. Hãy mời Chúa Giê-su đến và hiệp thông với Người, để có thể nói được như thánh Phao-lô: «Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi» (Gl 2,20).
3). Vai trò của Thánh Thần trong Hội Thánh hôm nay:
- a) Noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai: Sau khi Chúa Giê-su lên trời, các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-suhội họp nhau trong nhà tiệc ly, hiệp thông với Đức Ma-ri-a Mẹ Chúa Giê-su và các anh em Người để cầu xin Chúa Thánh Thần mau đến (x. Cv 1,14). Ngày nay nếu chúng ta muốn đón nhận ơn Thánh Thần thì chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau trong cộng đoàn để cùng cầu nguyện là điều kiện để Thánh Thần đến canh tân lòng trí chúng ta, biến đổi chúng ta nên những chứng nhân nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Phục Sinh đến tận cùng thế giới (x. Cv 1,8).
- b) Hoạt động của Thánh Thần trong Hội Thánh hôm nay:Khi hiện xuống trong lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã ban cho Hội Thánh nhiều đặc sủng khác nhau để phục vụ lợi ích cộng đoàn (1 Cr 12,4-11). Nhất là được ơn nói tiếng lạ và nói tiên tri (x. 1 Cr 14,5). Ngày nay Thánh Thần cũng hiện diện nơi các vị chủ chăn và cộng đoàn mỗi khi họp nhau cử hành phụng vụ Thánh Thể. Trong Thánh Lễ, Thánh Thần động viên các tín hữu lắng nghe Lời Chúa, giúp họ hiểu biết ý nghĩa và quyết tâm thực hành theo ý Chúa muốn, tác thánh để biến bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giê-su sau lời truyền phép. Nói cách khác: Thánh Thần trở thành linh hồn của Hội Thánh, biến đổi Hội Thánh nên sống động và hữu hiệu hơn. Nếu không có Thánh Thần thì Hội Thánh cũng chỉ như một xác chết không hồn mà thôi.
- c) Hoạt động của Thánh Thần trong các tín hữu:Khi được lãnh nhận phép Rửa Tội, nhất là khi chịu phép Thêm Sức, các tín hữu đã nhận được ơn Thánh Thần. Thánh Thần hiện diện mỗi khi chúng ta họp nhau nghe Lời Chúa; Người sẽ giúp chúng ta thực hành Lời Chúa giữa đời thường (x. Ga 14,17); Người cũng giúp chúng ta tuyên xưng “Đức Giê-su là Chúa” (x. 1 Cr 12,3) và noi gương Đức Giê-su gọi Thiên Chúa là “Áp-ba! Ba ơi!” (x. Rm 8,15) để nên dưỡng tử của Thiên Chúa (x. Rm 8,1). Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta không còn sống theo xác thịt, nhưng sống cuộc sống mới tốt đẹp hơn (x. Rm 8,10-13); giúp chúng ta cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô để được chia sẻ vinh quang phục sinh với Người (x. Rm 8,17).
- d) Thánh Thần sẽ giúp loan báo Tin Mừng bằng gương sáng:Việc loan báo Tin Mừng bằng phong cách sống và bằng lối ứng xử quên mình vị tha và bác ai phục vụ tha nhân rất phù hợp với các tín hữu trong mọi hoàn cảnh. Chính cuộc sống gương mẫu của chúng ta sẽ là bằng chứng hùng hồn về tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Sự quảng đại chia sẻ tinh thần và cơm bánh vật chất của các tín hữu sẽ giúp anh chị em lương dân có thiện cảm với đạo như người ta thường nói: “Lời nói hương bay; Gương bày lôi kéo”, và lời Chúa Giê-su dạy: ”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4/. THẢO LUẬN: 1) Phân biệt Thánh Thần giống và khác thiên thần như thế nào ? 2) Ta phải làm gì để được Thánh Thần ngự đến đổi mới tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta chu toàn sứ mạng “được sai đi”noi gương Hội Thánh Sơ Khai ?
5/. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA THÁNH THẦN. Xin hãy đến như cơn gió mát thổi vào tâm hồn chúng con, thổi vào Hội Thánh, thổi vào thế giới hôm nay, để làm tươi mát dịu dàng và ban sự tự do thanh thoát. Xin hãy đến như dòng nước trong lành chảy vào cuộc đời chúng con, chảy vào Hội Thánh, chảy vào thế giới hôm nay, để tẩy sạch mọi tội lỗi nhớp nhơ, làm dịu đi những khô cằn, uốn lại những tấm lòng cứng cỏi, và làm phát sinh những mầm xanh sự sống mới. Xin hãy đến ban ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con, chiếu sáng Hội Thánh, chiếu sáng thế giới hôm nay, để xua đi bóng đêm tội lỗi ra khỏi tâm hồn chúng con, đẩy lùi bóng tối của đam mê thấp hèn ra khỏi môi trường chúng con đang sống, làm cháy lên những ước mơ cao cả, và làm bừng sáng tình yêu khiêm nhường phục vụ.
X). HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ HIỆP NHẤT- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1) Lễ Chúa Thánh Thần chính là lễ hiệp nhất muôn dân. “Ngài hiện xuống nơi họ tụ họp… Chúng ta từ các dân thiên hạ trở về Giêrusalem, đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa” (Bài đọc I – Cv. 2, 1-11).
a) Chính sức mạnh của Thánh thần đã hiệp nhất các môn đệ lại nhà Tiệc ly, đã hiệp nhất các dân thiên hạ lại Giêrusalem, chính Thánh thần đã cho họ nghe tiếng nói của mình về những kỳ công của Thiên Chúa. Tiếng nói đó chính là tiếng nói của Thánh thần.
Tại sao muôn dân nghe được tiếng nói của Thánh Thần? Thưa Thánh Thần đã hiệp nhất họ nên một thân thể của Đức Kitô. Trong Bài đọc II Thánh Phaolô đã giải thích: “Tất cả chúng ta là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa nhờ một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr. 12, 13). Đức Kitô và Thánh thần hiệp nhất nên một, thì tất cả các bộ phận trong Đức Kitô cũng tràn đầy Thánh thần nên họ đều nghe, đều hiểu, đều lãnh nhận được tiếng của Thánh thần.
b) Thánh Phaolô còn cho thấy rõ: Đây là sự hiệp nhất trong đa dạng, không phải thứ hiệp nhất trong đơn điệu, gò ép, buồn tẻ: Có nhiều đặc trưng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa, có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa hoạt động trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.
Người thì được ơn khôn ngoan để giảng dạy
Người thì được ơn hiểu biết để trình bày
Người thì được ơn Đức tin để hoạt động mạnh mẽ
Người thì được ơn chữa bệnh
Người thì được ơn làm phép lạ
Người thì được ơn nói tiên tri
Người thì được ơn nói tiếng lạ
Người thì được ơn giải thích tiếng lạ
Nhưng chính Thánh Thần duy nhất làm tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách theo ý Ngài (1Cr. 12, 4-11)
Chỉ có Thánh thần mới đầy sức mạnh quy tụ được muôn dân thiên hạ, làm cho muôn bản chất, sắc thái văn hóa của muôn người khác nhau nên một trong Đức Kitô.
Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ vạn vật với muôn hình vạn trạng tinh vi kỳ diệu khác nhau, nhưng hòa điệu duy nhất với nhau để hòa tấu nên một bài ca chúc tụng quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa.
Trong công trình cứu độ, còn hơn nữa, Chúa Thánh thần tuôn tràn sức sống mãnh liệt của Thiên Chúa, như tiếng gió ào ào vang dội khắp muôn phương để thánh hóa muôn dân sống thể hiện bản chất văn hóa thiêng liêng cao quý của mình, của dân tộc mình, làm rạng rỡ vinh quang Thiên Chúa như muôn loài hoa phô bày hương sắc riêng của chúng làm đẹp thiên nhiên, làm thơm môi trường.
2) Trước những chuyển biến của thời đại ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan 23 cùng với Công đồng Vatican II đã cầu xin cho Giáo hội, cho thế giới “một lễ Hiện xuống mới”. Công đồng Vatican II, một Công đồng vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo hội, cũng là một hội nghị hiệp nhất vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới, vì trong hội nghị của Công đồng, ngay kỳ họp I năm 1962 đã có 2.152 nghị phụ, cho đến kỳ họp IV năm 1965 đã có 2.391 nghị phụ gồm Hồng Y, Giám mục từ khắp nơi trên thế giới về Rôma để họp, chưa kể hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc khác.
Công đồng đã chứng tỏ cho thế giới thấy tầm quan trọng và khẩn thiết của sự hiệp nhất, đề cao sự hiệp nhất lên hàng đầu, cho nên có 4 kỳ họp thì 3 kỳ của 3 năm đầu đều nói đến hiệp nhất.
Kỳ họp I từ 11 tháng 10, đến 8 tháng12 năm 1962 đã thảo luận đến sự hiệp nhất Kitô hữu và Giáo hội.
Kỳ họp II từ 29 tháng 9 đến 4 tháng 12 năm 1963 bàn về lược đồ hiệp nhất.
Kỳ họp III từ 14 tháng 9 đến 21 tháng 11 năm 1964 chung quyết và công bố các sắc lệnh hiệp nhất với 2137 phiếu thuận, 11 phiếu không đồng ý và không có phiếu nào chống đối.
Chính Đức Giáo Hoàng Gioan 23 lúc hấp hối, miệng Ngài đã liên lỉ lập lại câu này: “Làm sao để trở nên một” (Lữ Hành Hy Vọng 556).
3) Tại sao phải trở nên một?
Bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất đã sai “Con Một mình đến thế gian để cứu chuộc nhân loại, đoàn tụ họ nên một. Trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền trên Thánh giá, Người đã cầu cùng Chúa Cha cho các tín hữu rằng: “Xin cho hết thảy được hiệp nhất như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để chính họ cũng được nên một trong Ta, cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga. 17, 21). Người đã thiết lập trong Giáo hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ lạ vừa là dấu chỉ, vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội. Người ban cho các môn đệ một giới răn mới là tình thương yêu nhau và ban Thánh thần an ủi, bảo trợ và sự sống để ở với họ mãi mãi (Sắc Lệnh Hiệp Nhất – số 2).
Thế giới cũng đang đi về hướng hiệp nhất: Hiệp nhất Châu Âu, hiệp nhất Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung Đông… để sống hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, đúng câu “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Chúa Thánh thần hiện xuống đã thúc đẩy các môn đệ mở tung căn phòng đóng kín, ra đi thực hiện nhiệm vụ hiệp nhất muôn dân như Chúa Giêsu đã trao phó cho các ông trước lúc Người lên trời “Hãy nhận lấy Thánh thần để đến với muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần để muôn dân trở nên môn đệ Thầy” (Mt. 28, 29).
Không còn thứ hiệp nhất nào hơn nữa: Một sự hiệp nhất Thiên Chúa với loài người, một sự hiệp nhất nên một gia đình Thiên Chúa, một sự hiệp nhất trời và đất. Không có gì phá vỡ sự hiệp nhất đó, trừ có tội lỗi. Chính tội lỗi đã cắt đứt dây tình yêu hiệp nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Nay Con Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi, rửa sạch tội lỗi trong Thánh thần, cho nên bài Tin mừng hôm nay nói: “Hãy nhận lấy Thánh thần, hãy tha tội cho họ”, để thực hiện một kỳ công hiệp nhất, “cho họ nên một trong Chúng Ta” (Ga. 17, 21).
Lạy Cha, xin ban cho Giáo hội “một lễ Hiện xuống mới” để canh tân bộ mặt trái đất, xin Thánh thần Tình yêu xuống đốt lửa kính mến trong lòng chúng con và mọi người để thực hiện sự hiệp nhất, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha muôn dân.
CHÚA NHẬTLỄ HIỆN XUỐNG–B
CUỘC SÁNG TẠO MỚI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Sau khi tạo dựng vũ trụ càn khôn cùng muôn vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với những tác phẩm của mình. Ngài muốn sáng tạo thêm một kiệt tác trổi vượt tất cả những gì Ngài đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người: “Chúng ta hãy sáng tạo con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26).
Cuộc sáng tạo cũ
Thiên Chúa lấy bùn đất, nắn thành một con người, nhưng hình tượng này vẫn còn trơ trơ bất động, vô cảm, vô tri …
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi của hình tượng này và điều kỳ diệu đã xảy ra: khối đất vô hồn mang hình dạng con người đang nằm im lìm bất động bỗng cựa mình chỗi dậy trở thành người sống: có tư duy, có tình cảm, có tự do, có óc sáng tạo… mang dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa. Thế là Thiên Chúa đã hoàn thành kiệt tác A-đam là nguyên tổ của loài người (St 2,7).
Con người cũ bị băng hoại vì tội lỗi
Nhưng tiếc thay, tội lỗi đã thấm nhập vào thế gian làm băng hoại con người. Kiệt tác của Thiên Chúa đã bị biến chất thảm hại nên Thiên Chúa phải theo đuổi một kế hoạch tạo dựng mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc này. Ngài quy tụ những môn đệ đầu tiên và dùng những vị này làm nhân tố phát sinh một dân mới.
Nhưng sau khi Chúa Giê-su sống lại và lên trời, các môn đệ cảm thấy lạc lõng bơ vơ như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, tựa như A-đam lúc chưa được hơi thở của Thiên Chúa thổi vào (Ga 20,19).
Con người mới được tác sinh
Thế rồi “vào chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái, Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”
Và như thuở ban đầu Thiên Chúa thổi hơi vào mũi A-đam để ban cho ông sự sống, thì nay Chúa Giê-su “thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”(Gioan 20,19. 22).
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh (bằng tiếng Do-thái), Chúa Thánh Thần được gọi là Ruah, nghĩa là Hơi Thở hay Thần Khí.
Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa là Chúa Giê-su truyền ban Hơi Thở hay Thần Khí (= Chúa Thánh Thần) cho các ông.
Như hôm xưa A-đam vươn vai chỗi dậy sau khi đón nhận hơi thở của Thiên Chúa, các môn đệ một khi đã lãnh nhận Hơi Thở ban Thần Khí của Chúa Giê-su cũng được tái sinh, cựa mình chỗi dậy, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như mộ địa giam nhốt mình để đi đến với muôn dân, loan truyền Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì Nước Trời…
Thế là nhân loại mới đã được tác sinh từ biến cố trọng đại này, khởi từ ngày hôm ấy.
Lạy Chúa Giê-su,
Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống.
Nếu không được Chúa thổi hơi ban Thần Khí, các tông đồ xưa cũng chỉ là một nhóm người bạc nhược, ươn hèn.
Và hôm nay, nếu không được đón nhận Thần Khí Chúa ban, chúng con cũng chỉ là những kitô hữu nguội lạnh, thiếu nhiệt thành và luôn đứng bên lề Hội Thánh.
Nguyện xin Chúa thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con như đã ban cho các môn đệ năm xưa, để chúng con được đón nhận Sự Sống mới và kiên quyết lên đường thi hành sứ mạng loan Tin Mừng cho muôn dân.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN- Lm Giuse Phạm Thanh Minh
Cách đây 50 ngày, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, và Chúa Nhật tuần trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và cũng là thánh lễ kết thúc Mùa Phục Sinh.
Trong thánh lễ hôm nay, cộng đoàn chúng ta suy ngắm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn cứu độ, và sự hiện diện hoạt động của Ngài nơi các Tông đồ và trong Giáo hội để chúng ta biết sống niềm tin theo sự hướng dẫn của Ngài.
1/.Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ
Chúng ta không thể tìm trong Cựu ước Mạc khải trọn vẹn về Chúa Thánh Thần như trong Tân ước, nhưng chúng ta có thể tìm trong đó rất nhiều tư tưởng phong phú và nhiều màu sắc về thực tại được gọi là Thánh Thần Thiên Chúa.
Trước hết, trong sách Sáng thế, câu đầu tiên ghi: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” (St 1,2)
Như vậy, sự hiện diện của “Thần Khí Thiên Chúa” bay là là trên mặt nước là một cách diễn tả quyền năng của Thiên Chúa biến đổi hư vô, tối tăm và sự chết thành sự hữu, ánh sáng và sự sống. Và qua Lời Thiên Chúa phán mọi sự được tạo dựng: Ánh sáng, trời đất, tinh tú, cỏ cây, súc vật…
Còn khi tạo dựng sự sống con người-biến xác thể bùn đất thành thân thể sinh động-Thiên Chúa trao ban hơi thở, Thần Khí của Ngài cho con người để con người có sự sống: “Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người hà hơi vào mũi nó và người đã thành mạng sống” (x.St 2,7)
Như thế “thổi hơi” gợi lại công trình sáng thế, đặc biệt với con người. Và qua lời tiên báo về việc tái tạo Israel của ngôn sứ Ezechiel (x.Ed 37,9), ngôn sứ cũng nói về việc Thiên Chúa trao ban Thần khí mới, quả tim mới cho con người. Như thế, Thần Khí Thiên Chúa đã thực hiện việc tạo dựng mới.
Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí, hơi thở của Thiên Chúa luôn hiện diện từ khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh.
Mở đầu sứ vụ, Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa Thánh hiến và sai đi loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trên bước đường truyền giáo, Ngài đã rao giảng về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, luôn rộng lượng thứ tha cho người tội lỗi ăn năn hối cải để được ơn tha tội.
Trong ngày Phục sinh, Chúa Kitô sống lại hiện ra với các Tông đồ, Thánh Gioan nhấn mạnh: “Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ: Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Thần Khí nơi Chúa Kitô Phục sinh làm cho các Tông đồ nên những con người mới: từ sợ hãi nên vui mừng hân hoan. Thần Khí đã tác động và biến đổi các Tông đồ kể từ lễ Ngũ Tuần sau Phục sinh, trở thành những chứng nhân can đảm, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, dù bị tù đày để loan báo Tin Mừng (x.Cv 2,28)
2/Chúa Thánh Thần, sức mạnh các hoạt động Tông đồ:
Biến cố Ngũ tuần cũng gọi là lễ Hiện Xuống là bước khởi đầu cho những hoạt động kế tiếp mà Thánh Thần thực hiện trên toàn thế giới và trong cuộc sống con người.
Sách Công vụ Tông đồ mô tả sự kiên này một cách thi vị và theo trình tự thời gian: 40 ngày sau khi sống lại, 10 ngày sau khi lên trời: “Chúa Thánh Thần ngự đến trong khung cảnh tiếng động, gió mạnh và lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người và ai nấy được đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,1-4).
Còn bài Tin mừng thánh lễ hôm nay (Ga 20,19-22), Thánh Gioan tường thuật lại Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đứng giữa các Tông đồ và nói rằng: “Bình an cho anh em. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em… Hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Như thế trước lúc về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ rao giảng sự thống hối và làm phép rửa cho muôn dân được tha tội và được ơn cứu độ.
Vì thế, sứ vụ chính yếu của Người Tông đồ là rao giảng sự thống hối và cầu bình an cho mọi người. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã quả quyết: “mọi sự đều do tự Thiên Chúa, Đấng đã giảng hoà ta lại với chính mình Người nhờ Đức Kitô và đã ban cho chúng tôi được giúp việc giảng hòa” (2Cr 5,18). Nhưng chỉ trong sức mạnh của Thánh Thần, người Tông đồ mới đảm nhận được sứ vụ cao cả ấy. Chính Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được những hoa trái phát sinh khi có Thánh Thần trong mình, Ngài nói: “Hoa trái của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”.
Ngày xưa, Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã đến, Ngài mở ra cho các môn đệ một chân trời mới của cuộc sống mới. Các môn đệ đã mạnh dạn đi vào thế giới, mang tin vui đến cho mọi người, dù hoàn cảnh có thuận buồm xuôi gió hay gặp những trắc trở gian nan. Ngày nay, người Kitô hữu cũng lãnh nhận Thánh Thần, để có thể đi ra khỏi cánh cửa khép kín vì sợ hãi, mà mở rộng cõi lòng đón nhận và đến với tha nhân với vòng tay nối kết mang nguồn vui ơn cứu độ của Chúa đến cho con người. Do đó, lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà lễ Hiện xuống vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo hội, để canh tân thế giới ngày nay.
3/Vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu:
Ngày nay trước viễn cảnh một thế giới ngập tràn bạo lực và khủng bố, chỉ dựa vào những giải pháp trần thế nhân loại không thể đẩy lùi được bao lực và khủng bố, bởi vì “oán không bao giờ diệt được oán”. Vậy chỉ có tình thương tha thứ “dĩ hòa vi quý” mới là giải pháp tối ưu giải quyết tận căn của chủ nghĩa bạo lực và khủng bố.
Do đó, điều quan trong trong công việc: “Tông đồ giáo dân” người Kitô hữu phải trở nên “khí cụ bình an của Chúa” (Mt 10,12; Rm 12,18) phải cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở trong mình và biết chia sẻ tình yêu đó với mọi người xung quanh (1Tx 2,8). Để thực thi được sứ mạng đó, Giáo hội phải truyền giáo, nhất là: “Giáo hội tại Châu Á phải là một Giáo hội truyền giáo. Theo ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay rất ít người Châu Á biết Chúa và tin theo Chúa”. Quả thật Châu Á, trong đó có Việt Nam, có số dân đông nhất năm châu, mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi thao thức của Người Kitô hữu trong Giáo hội.
Vì thế, hơn bao giờ hết, người tín hữu cần ý thức vai trò quan trọng thiết yếu của Chúa Thánh Thần, vì Ngài chính là căn nguyên sự sống và hoạt động của Giáo hội. Không có Thánh Thần thì cũng chẳng có điều chi thành tựu. Ngài đến để thông ban sự sống, để thánh hóa, để canh tân, để khai mở một cộng đoàn gia đình nhân loại mới trong Đức Kitô. Là Thần Chân Lý, Ngài đến để soi sáng cho mọi người biết điều hay lẽ phải, thúc giục người tội lỗi trở về nẻo chính đường ngay, hướng dẫn và đổi mới tâm tư nên người thánh thiện, biến đổi thế giới nên công bình bác ái.
Vậy cộng đoàn phụng vụ hãy mở rộng cõi lòng để đón Chúa Thánh Thần. Xin Người ban lửa thiêng để tấm lòng được ấm áp và lộ trình cuộc đời được soi sáng, tránh xa u mê lầm lạc, luôn biết đi theo và đi đúng con đường Ngài chỉ dẫn.
Hãy canh tân và đổi mới tâm hồn ngõ hầu người tín hữu trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hãy làm điều gì cho Chúa, cho Hội Thánh và có ích cho anh chị em mình. Cụ thể như tận tình yêu thương, kính trọng phẩm giá của những người bất hạnh, nghèo khổ…
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” lệnh truyền đó của Chúa Giêsu hôm nay cũng được chuyển đạt đến người Kitô hữu chúng ta, để chúng ta lên đường với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhiệt tâm làm chứng cho sự thật, cho Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa trong thời đại hôm nay như các Tông đồ ngày xưa.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
HOA TRÁI THÁNH THẦN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Mùa Phục Sinh kết thúc với Lễ Kính Thờ Thiên Chúa Ngôi Ba, Chúa Thánh Thần, đặc biệt với việc kính nhớ mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Thánh Tông Đồ ngay Lễ Ngũ Tuần, chính thức khai sinh nên Hội Thánh. Thiên Chúa Ngôi Hai đã nhập thể, nhập thế. Chân dung của Người đã được lịch sử ghi nhận, cách riêng bốn Tin Mừng đã góp phần trình bày hình ảnh Chúa Ngôi Hai làm người cách rõ nét. Người ta cũng có thể dùng loại suy để hướng về Thiên Chúa Cha. Vì ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9). Còn Chúa Thánh Thần là Đấng mà chúng ta chỉ có thể nhận ra qua, hoa trái của Người theo dòng lịch sử và đặc biệt theo dòng lịch sử cứu độ. Chúa Kitô đã từng ví Người như là gió (x.Ga 3,8). Điều này không chỉ nói lên sự tự do của Thánh Thần mà còn giúp ta nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần qua các kết quả hành động của Người. Qua một vài hoa trái đặc trưng của Thánh Thần, chúng ta cũng có thể biết được cách thế hữu hiệu để trãi lòng mình ra đón nhận tác động của Người.
- Ơn ngôn ngữ
Ngôn ngữ được biểu hiện dưới nhiều hình thái như chữ viết, ký hiệu… nhưng ở đây chỉ muốn đề cập đến tiếng nói. Tiếng nói là một trong những ưu phẩm của loài người trỗi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Nhờ có tiếng nói mà con người có thể truyền thông cho nhau tâm tư tình cảm và những nghĩ suy của mình. Nhờ có tiếng nói con người có thể hiệp thông với nhau cách đầy đủ và hiệu quả hơn, rộng rãi và sâu đậm hơn.
Đọc Thánh Kinh, nhất là đọc Tân Ước, chúng ta có thể chân nhận một trong những hoa trái của Thánh Thần là ơn ngôn ngữ. Khi Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống trên các Tông đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, Người đã ban cho các ngài ơn được nói các thứ tiếng khác nhau (x. Cvtđ 2,1-13). Sách Công vụ tông đồ cũng tường thuật nhiểu trường hợp những người lãnh nhận ơn Thánh Thần thì được ơn nói tiếng lạ, nói tiên tri (x. Cvtđ 10,45-46; 19,6-7). Chúa Giêsu an ủi động viên các tông đồ khi chịu bắt bớ thì Thánh Thần sẽ nói thay cho các ngài (x.Mt 10,20). Được Chúa Thánh Thần tác động chúng ta sẽ biết nói điều phải đạo, nói điều phải nói, nói lời tình yêu.
Các nhà y học cho ta hay một sự thật về những người vừa câm vừa điếc tư thưở mới sinh. Dân gian truyền tụng rằng vì người ta không nói được (bị câm bẩm sinh) nên trời cho luôn bệnh điếc để khỏi phải chịu nghe những lời chướng tai, phật ý. Vì nếu nghe được những lời phật ý, chướng tai mà không có thể nói lại được thì không ai có thể chịu nổi. Trái lại, theo y học thì chính vì bị tật bệnh điếc bẩm sinh nên người ta mới bị câm. Khả năng nói là một khả năng mà người ta học được nhờ bắt chước tha nhân. Không nghe được tiếng nói của tha nhân thì trẻ thơ không thể tập nói được và vì thế mất luôn kỷ năng nói. Như thế một trong những điều kiện tối cần để có thể nói là có khả năng nghe.
Từ dữ kiện ở bình diện thể lý tự nhiên trên đây chúng ta có thể diễn suy lên bình diện siêu nhiên. Để có thể nói lời phải đạo, lời đáng nói, cần nói và nên nói, để có thể nói lời chân lý, lời tình yêu, nghĩa là nói dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì tiên vàn chúng ta cần biết nghe. Dĩ nhiên là phải biết nghe Chúa Thánh Thần thúc đẩy, biết nghe Người phán dạy.
Trong phạm vi gia đình, ta thường nghe nhiều người bố mẹ than thở rằng con cái càng lớn khôn càng khó bảo, nghĩa là càng không biết nghe. Mở rộng ra ngoài xã hội, có chăng tình trạng khi chức càng cao, quyền càng lớn thì ta càng ít biết nghe. Cũng có thể vì điều kiện hoàn cảnh bên ngoài của các tổ chức xã hội, của trách vụ nắm giữ, làm ta xa rời quần chúng, nhưng cũng có thể vì tâm lý chủ quan cho mình luôn luôn đúng, không thể sai lầm, nên chẳng cần nghe, hoặc giả như cần nghe thì chỉ nghe một đôi người thân cận, những người hợp ý mình? Hy vọng rằng tình cảnh này sẽ không có trong đời sống Hội Thánh và giả như có thì mong sao đó chỉ là cá biệt hay đặc thù.
Biết nghe là một trong những cách thế tốt đẹp để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Xin hãy biết nghe bằng đời sống cầu nguyện chuyên chăm, bằng sự chiêm niệm sâu lắng. Xin hãy biết nghe lời chỉ dạy của mẹ Hội Thánh, nhất là trong lãnh vực đức tin và luân lý. Xin hãy biết nghe những nhà lãnh đạo các quốc gia, đặc biệt trong lãnh vực công bình và ích chung. Xin hãy biết nghe, bằng việc tiếp xúc tha nhân, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ, kém phận. Xin hãy biết nghe những người không đồng thuận với chính kiến của ta, biết nghe cả nhưng người trái ý ta…trong sự trân trọng và khiêm nhu chân thành.
Một khi ta biết sẵn sàng lắng nghe, lắng nghe để thuận theo những gì phải đạo, để ngăn ngừa và phòng tránh những gì sai lạc…là lúc ta đang sẵn sàng đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần. Và khi ấy chắc chắn chúng ta sẽ biết cách nói theo hướng dẫn của Đức Chúa Trời Ngôi Ba.
- Ơn xây dựng sự hiệp nhất:
Ngày lễ Ngũ Tuần, khi hiện xuống trên các Tông đồ, Chúa Thánh Thần một cách nào đó thông ban ơn xây dựng sự hiệp nhất. Nhiều người thuộc nhiều quốc gia, dân tộc và tiếng nói có mặt lúc bấy giờ đã hiểu những lời rao giảng của các Tông đồ (x.Cvtđ 2,13). Chúa Thánh Thần chính là nguyen lý của sự hiệp nhất. Người làm cho muôn dân nên một trong Đức Kitô.
Nói đến sự hiệp nhất là giả thiết phải nhìn nhận sự khác biệt. Có những sự khác biệt chính đáng vốn là tất yếu khách quan. Đó là sự khác nhau về màu da, chủng tộc hay ngôn ngữ. Đó là sự khác nhau về phận vị, nghề nghiệp do sự phân công, phân nhiệm của xã hội. Đó là sự khác nhau về tư tưởng, chính kiến hay quan niệm sống do bởi hoàn cảnh lịch sử hay nên văn hóa chi phối hoặc do ý thức tự chọn của mỗi người xét như một chủ thể có lý trí và ý chí tự do… Nếu không nhìn nhận và tôn trọng những khác biệt chính đáng này thì chỉ có sự đơn nhất và đồng nhất trong bạo lực của độc tài, độc đoán, độc quyền. Và sự chia rẽ sẽ xuất hiện vì nhu cầu đấu tranh sinh tồn.
Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi ơn…nhưng tất cả là để phục vụ ích chung (x. 1Cor 12,4-6). Sự hiệp nhất ở đây được thể hiện nơi việc cùng huớng đến một mục đích: ích chung. Văn hào St Exupéry hình như cảm nhận chân lý này khi nói: “yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau mà cùng nhau nhìn về một hướng”. Cùng với Đức Bênêđictô XVI qua bài diễn văn đọc tai Hội Đồng Lỉên Hiệp Quốc tháng 7/2008 vừa qua, chúng ta có thể nói rằng ích chung của nhân loại xét như là con người đó là nhân quyền. Những quyền lợi căn bản của con người (quyền sống, lao động, học tập, cư trú, đi lai, ngôn luận…) mà Liên Hiệp Quốc tuyên bố cách đây đúng 60 năm chính là một trong những mục đích chính yếu giúp ta hiệp nhất với nhau khi ta nỗ lực dệt xây.
Với những người tin vào Đức Kitô thì một trong những mục đích chính đó là “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (x.Mt 5,48). Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Người anh cả Giêsu, chúng ta là anh chị em với nhau cùng mot Cha trên trời. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Nên hoàn thiện như Cha trên trời không chỉ dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà phải tiến đến chỗ tích cực là hãy làm cho tha nhân những gì mình muốn họ làm cho mình, vì đó là tất cả những gì được dạy trong lề luật và lời các ngôn sứ (x.Mt 7,12). Để cụ thể hóa thái độ sống này Chúa Giêsu truyền bảo chúng ta là “hãy yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta” (x. Ga 13,34).
Cúi xuống phục vụ người mạnh khỏe cũng như người đau yếu, cúi xuống phục vụ người sang giàu cũng như người nghèo hèn, cúi xuống phục vụ người dễ thương cung như người đáng ghét… là thái độ sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách rất tốt đẹp. Vũng đất càng sâu thì nước các nơi sẽ tuôn đổ về càng nhiều. Càng khiêm nhu, bỏ mình để yêu thương phục vụ vô vị lợi thì cang xây dựng tình đoàn kết hiệp nhất, vì khi ấy Thánh Thần, nguyên lý của sự hiệp nhất đang tràn đầy trong chúng ta.
Mong sao người ta đừng đánh lận con đen giữa ích chung và ích riêng, ích riêng của cá nhân hay phe phái của mình. Mong sao hai từ phục vụ được thể hiện cách đích thực là việc làm của người tôi tớ. Cũng mong sao ngày càng hiếm dần và mất hẳn cái cảnh các “quan đầy tớ đạo đời” vinh thân phì da, miệng lưỡi gang thép, chỉ tay năm ngón…để cho đoàn đoàn lớp lớp ông chủ phải khom lưng chầu chực và cật lực hầu hạ.
Chúa Thánh Thần đã được ban cho nhân loại từ Trái Tim Cực Thánh của Chúa Kitô chịu đâm thâu trên thập giá (x. Ga 19,31-37). Chúa Thánh Thần đã được ban cho Hội Thánh cách đặc biệt ngày Lễ Ngũ Tuần. Mong sao khi “lửa cháy” và “gió lên” thì phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp, nhờ chúng ta biết sẵn sàng đón nhận, nếu không thì hậu quả sẽ là “tro và bụi” that nguy hiểm và khó lường.
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG- B
VAI TRÒ CỦA CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khac. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
***
Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Cùng với toàn thể Hội Thánh, hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, có lẽ, chúng ta chỉ biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi. Đối với không ít người Công Giáo, Chúa Thánh Thần như một Đấng xa lạ, thậm chí, Ngài chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới đời sống của chúng ta. Nhưng thực ra, Chúa Thánh Thần có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong đời sống của Giáo Hội, mà còn trong cả đời sống của mỗi người chúng ta nữa.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Hội Thánh
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, chúng ta đã nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng qua hình ảnh: “Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước”, làm tác sinh muôn loài muôn vật. Thần Khí Chúa được ban cho các ngôn sứ, các vua cũng như các vị thủ lãnh, để các ngài thi hành và chu toàn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bước sang thời Tân Ước, Chúa Thánh Thần không ngừng hướng dẫn các hoạt động trong cuộc đời Chúa Giêsu, kể từ lúc Ngài thành hình trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria (Vì Chúa Giêsu thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần) cho tới tận đỉnh đồi Golgotha. Sau cùng, Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Kể từ sau khi Đức Giêsu về trời cho đến hôm nay, Chúa Thánh Thần hằng hoạt động để hướng dẫn Hội Thánh. Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân. Ngài hiện diện trong cac Bí Tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Thế nên, có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu giống như bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta
Kể từ khi lãnh Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đặc biệt, qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta nhận được một cách dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta trở nên “chiến sĩ Chúa Kitô”, can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Chúa Thánh Thần còn có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa. Ngài có mat khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng…
Không những thế, Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất các Kitô hữu. Câu chuyện tháp Baben xưa, loài người vì kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị chia rẽ và phân tán, thì nay, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ có thể nói mà nhiều người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được; mọi người ở các quốc gia khác nhau cùng tuyên xưng một niềm tin vào Chúa.
***
Trong khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu còn ban bình an cho các môn đệ, đang khi các ông lo lắng, phiền muộn. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giêsu trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống trong cảnh khốn cùng; để chớ gì, bất cứ nơi đâu có dấu chân của chúng ta bước tới, nơi đó có sự bình an.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cơ hội nhắc nhở mọi người chúng ta suy nghĩ lại về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Chúa Thánh Thần, dù được cầu khấn mỗi khi chúng ta bắt đầu một công việc, nhưng dường như sự kêu cầu này đã trở nên máy móc, và chúng ta không còn ý thức đến sự hiện diện của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chưa lắng nghe và vâng theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Ngài. Làm sao để Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc đời chúng ta?
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12,4). Như vậy, mỗi thành phần trong Giáo hội đều có những vai trò khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu chung là xây dựng thân thể Hội Thánh. Mỗi người chúng ta hãy duyệt xét lại bản than mình xem, tôi đã sử dụng những ơn huệ Chúa ban như thế nào? Tôi đã dùng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh Chúa, hay sử dụng vào mục đích khác?
Chúa Thánh Thần đã, đang và vẫn còn hoạt động trong Hội Thánh, thế nhưng, đôi lúc, chúng ta chưa nhận ra Ngài là vì như câu chuyện kể trên, chúng ta chưa khao khát Ngài cho đủ, chưa mong muốn Ngài thực sự. Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta, như xưa, Mẹ đã hướng dẫn các môn đệ trong nhà Tiệc Ly, để chúng ta có thể mở lòng ra, đón nhận một cách dồi dào những nguồn ơn phúc vô biên của Chúa Thánh Thần. Amen.
#cacbaisuyniemloichualechuathanhthanhienxuong #suyniemloichuachuanhatlehienxuong