CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CHÚA (*)- Chú giải của Noel Quession 7
CHÚA GIÊSU HIỆN RA LẦN CUỐI VÀ SAI CÁC MÔN ĐỆ ĐI- Chú giải của Fiches Dominicales. 14
LỆNH LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 20
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 38
RAO GIẢNG TIN MỪNG CHÚA CHO THẾ GIAN- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt 57
NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt. 74
CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI- ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên.. 77
ĐƯỜNG VỀ TRỜI– Lm. Giuse Hoàng Kim Toan.. 81
GÓP PHẦN KIẾN TẠO THIÊN ĐƯỜNG ĐỜI SAU NGAY TỪ HÔM NAY- Lm. Đan Vinh HHTM 85
CHÚA VỀ TRỜI- Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng.. 104
CÙNG LOAN TIN MỪNG VỚI CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 107
HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SBD.. 111
SAO CÒN ĐỨNG NHÌN- Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương.. 116
CHÚA GIÊSU KITÔ TRỞ VỀ TRỜI- Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long 120
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Ðang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9
Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang.
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui! Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý, Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian.
Xướng: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa’ hãy ca mừng, ca mừng Vua ta!
Xướng: Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người.
BÀI ÐỌC II: Ep 1, 17-23
“Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”.
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 16, 15-20
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CHÚA (*)- Chú giải của Noel Quession
Những câu từ 9 đến 20 của chương cuối cùng Tin Mừng theo Thánh Maccô không có trong những văn bản cổ xưa nhất vì có nhiều Giáo phụ trong Giáo Hội không biết đến những câu này. Ý kiến thông thường là những câu này đã được thêm vào do một tác giả khác không phải là Thánh Maccô (cách hành văn cũng có khác). Dầu vậy, đoạn cuối này vẫn “Hợp luật Giáo Hội” và là một phần bản văn chính thức của Thánh Kinh đã được linh ứng. Nên đó cũng là “Lời Chúa” như tất cả Tin Mừng. Đàng khác chúng ta nhận thấy nhũng câu này không có gì “mới lạ”. Tác giả vô danh đã tóm lại đoạn cuối của những bản Tin Mừng khác. Trước tiên đoạn này có giá trị thần học. Chúng ta sẽ lưu ý đến điều mà tác giả nhấn mạnh trong đoạn này: “Đức Giêsu phục sinh nói với 11 tông đồ: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho tất cả loài người”.
Nếu chúng ta hiếu kỳ đọc câu liền trước câu này, chúng ta sẽ thấy: Đức Giêsu hiện ra cho 11 môn đệ thấy, Người trách sự cứng lòng của các ông vì các ông đã không tin theo những người đã trông thấy Chúa sống lại (Mc 16,14). Như thế chúng ta đột ngột đi từ chỗ Chúa Giêsu trách cứ nặng nề sự không tin của các môn đệ đến việc Người sai các môn đệ đi rao giảng khắp thế giới. Dĩ nhiên là tác giả đã tóm lược lại qua những trình thuật khác. Chúng ta biết rằng, ban đầu các môn đệ đã “không tin”. Nhưng trình thuật tóm tắt này nhắc nhở trong lòng chúng ta rằng: Chúng ta không nên trì trệ trong những hoài nghi và do dự Đức Giêsu sống lại đã thúc đẩy “Các môn đệ”. Không đếm xỉa đến việc họ không tin, Đức Giêsu chủ động, đặt niềm tin cậy nơi các ông còn đang bất toàn -Hai động từ chia vào mệnh lệnh cách: “Anh em hãy đi” và “Hãy rao giảng”, hai cách nói này diễn tả một động lực mãnh liệt biết bao!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không đợi chúng con –Giáo Hội Chúa cũng chưa hoàn hảo, những môn đệ cũng không hoàn hảo, và con cũng không hoàn hảo nhưng đó không phải là nguyên cớ để chúng con không làm gì cả.
“Khắp thế giới” – “Tất cả loài người”.
Những dự án, chương trình của chúng ta nhỏ nhen và tầm thường biết bao. Đức Giêsu mời gọi các bạn của Người loại trừ thói quen nhỏ nhen, để đến gặp gỡ mọi người. Có sứ vụ, thì phải có khởi hành, phải ra khỏi chính mình, ra khỏi thế giới tinh thần nhỏ bé của mình. Đối với các môn đệ, họ phải ra khỏi môi trường Do Thái để đi về phía dân ngoại. Đối với chúng ta cần phải quan tâm đến những nền văn hóa mới, chấp nhận những tư tưởng hiện đại, lắng nghe những ước vọng tân thời, “rời bỏ sự thoải mái trí thức của những tư tưởng sẵn có”, để làm cho những người không suy nghĩ như chúng ta hiểu được chúng ta.
Nếu chúng ta trung thành với chiều hướng phổ quát này, chúng ta sẽ thích thú để thấy những nơi vừa mới được Tin Mừng hoá đã có những ngôn ngữ mới để loan báo tin mừng. Chúng ta sẽ cầu nguyện sao cho “những lục địa nhân loại” mới, những tâm thức mới đến được Giáo Hội, dù có phải xáo trộn một chút những gì đã có sẵn của chúng ta. Tin mừng dành cho “toàn thế giới” và cho “toàn nhân loại”.
Anh em hãy loan báo Tin Mừng.
Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng trước tiên là một tiếng “kêu”. Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói: “Hãy kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xét – Lạy Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa. Nếu đối với chúng con, đức tin tôn giáo là một điều buồn tẻ, thì tốt hơn là chúng con nên im lặng về vấn đề này. Nếu đó là một “Tin mừng”, “Tin tốt” thì xin sự mừng tốt đó phát triển ra từ da thịt chúng con, trên môi miệng chúng con thành ra một tiếng kêu hân hoan.
Ai tin và chịu phép rửa sẽ đượ cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.
Nếu Tin Mừng phải được rao giảng lớn tiếng cho mọi người, thì con người cũng có thể chấp nhận hay từ chối một cách tự do. Việc rao giảng Tin Mừng thể hiện một sự “xét xử” gần như là “phiên toà xử Đức Giêsu”. Một số đáp lại bằng đức tin, một số khác bằng “sự không tin” – Dĩ nhiên, không thể đẩy xuống địa ngục vô số con người thiện chí nhưng không thể tin vào Tin Mừng. Cũng không thể tưởng tượng một sự can thiệp của Chúa để trừng phạt. Toàn bộ Thánh Kinh chứng minh rằng Chúa không kết án ai, nhưng cứu rỗi tất cả mọi người. Không bao giờ đặt vấn đề: “Chúa có tha tội cho tôi không?”. Mà là “Tôi có chấp nhận sự tha thứ mà Chúa đã ban cho từ trước hay không?”. Nói cách khác, kẻ nào biết rõ mà lại cố tình chối bỏ Tin Mừng, thì không phải Chúa kết án người đó, mà chính người đó tự kết án mình.
Làm sao hiểu được điều này?
Hiểu đơn giản như sau: Ngoài Tin Mừng, ngoài Chúa Giêsu Phục sinh và Hằng sống, không có sự cứu rỗi, không có câu giải đáp cho số phận con người hay chết. Ngoài Đức Giêsu, con người thực sự chỉ hư mất, số kiếp của con người ngắn ngủi. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người ra khỏi số kiếp của nó. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người khỏi phải “chỉ là một con người” mà thôi. ‘Kẻ nào tin? kẻ nào không tin?’. Đây là phần thưởng đặc biệt cho sự tự do của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn là: Không ai bị bắt buộc phải sống đời đời với Đức Giêsu nếu người đó không muốn -Đức Giêsu tôn trọng chúng ta. Ngài không ép buộc chúng ta.
Những ai có lòng tin, sẽ làm được các dấu lạ này: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được ma quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ có cầm phải rắn hay uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh hoạn yếu đau thì những người này sẽ được mạnh khoẻ”.
Con người thời nay không thể đặt “câu hỏi” về ma quỷ, rắn, bệnh tật và những chất độc khác mà con người tin Chúa được miễn nhiễm. Những “dấu lạ” được hứa này chỉ là những giá trị điển hình, phù hợp với thời đại mà Kitô giáo được nảy sinh giữa cộng đồng dân ngoại, trong đó những “Thầy phép” (phù thuỷ) là những ông vua.
Độc giả ngày nay phải hiểu những “dấu lạ” này theo nghĩa tượng trưng. Điều vẫn đúng là: Người “tín hữu” cùng với Đức Giêsu sống lại, phải lao vào trận chiến chống lại “tất cả những lực lượng thù địch, nô lệ hoá và làm mất phẩm giá con người”, tất cả những gì “đầu độc” nhân loại. Ngày nay có những “dấu lạ” tương ứng với những dấu lạđược tác giả Tin Mừng kể ra trên đây đối với thời của ông. Chúng ta hãy tự hỏi xem ngày nay cái gì có thể là “dấu lạ” cho mình thời bây giờ. Chúng ta đừng coi thường “năng khiếu sinh ngữ” vì ngôn ngữ là một phương tiện truyền thông tuyệt hảo, và nó là một “ân ban của Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho mọi Kitô hữu “khả năng một ngôn ngữ mới” để có thể làm cho Tin Mừng đi vào trong những “tâm hồn mới lạ” (chưa đón nhận Chúa).
Còn về khả năng “săn sóc và chữa bệnh cho người đau yếu” thì chúng ta biết người anh em chúng ta cần đến năng khiếu này như thế nào. Tin Mừng là một sức mạnh cứu rỗi, một nguồn hạnh phúc mà Kitô hữu có trong tay. Vậy thì chúng ta chớ khoanh tay không làm gì cả, chúng ta phải biết xây dựng chúng.
Nói xong Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Tác giả vô danh chỉ có nhắc lại mà không dàn cảnh cụ thể những gì mà thánh Luca đã kể (Cv 1,9). Chúng ta nên lưu ý rằng, trong hai cách nói này, một cách có thể có giá trị lịch sử đối với con người chúng ta, (sự biến mất được nhìn thấy rõ ràng của Đức Giêsu), trong khi cách nói kia hoàn toàn căn cứ vào đức tin (việc bay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa). Chúng ta coi chừng đừng “vật chất hoá” cách diễn tả này: Thiên Chúa không có “bên phải” hay “bên trái” gì cả, Người cũng không “ở trên” trời hay “ở dưới” đất. Trong tâm thức thời đó, hình ảnh bầu trời xanh gợi lên thế giới thần thánh và người ta cũng đã có nói về một vài vị hoàng đế La Mã nào đó đã “lên trời”. Đối với Đức Giêsu, sự Thăng Thiên hoàn toàn khác: Người đạt đến Vương quyền trên toàn vũ trụ, và để diễn tả điều này, người ta dùng đến ngôn ngữ Thánh Kinh trong Thánh vịnh 110,1: “Lời truyền dạy của Thiên Chúa cho Chúa tôi: Hãy ngự bên phải của Ta”. Những từ ngữ gợi hình này nói lên một ý nghĩa thần học về thực tại Đức Kitô Phục sinh: Chúa vinh quang, một thực tại mà ta không nắm bắt được bằng giác quan hay lý trí con người, một thực tại mà ta chỉ có thể đạt đến bằng đức tin.
Còn các tông đồ thì đi rao giảng khắp nơi.
Dường như các ông không để chậm trễ một giây nào. Các ông lên đường ngay lập tức. Đây cũng là một “dấu lạ”. Ngôi mộ trống … “Họ ra đi”… “họ lên đường “…
Chuá cộng tác với họ và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời họ giảng.
Đức Giêsu không còn “ở trong mồ” nữa. Người đồng thời “ngự bên hữu Thiên Chúa” và “hoạt động với các môn đệ”. Đây là dấu lạ mà chúng ta không có từ ngữ nào để diễn tả sự phong phú của mầu nhiệm Thăng Thiên. Những từ ngữ đúng nhất có lẽ lại là “một hiện diện ẩn khuất”, một hiện diện sinh động đang “hành động” dưới hình thức của một lời nói.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
CHÚA GIÊSU HIỆN RA LẦN CUỐI VÀ SAI CÁC MÔN ĐỆ ĐI- Chú giải của Fiches Dominicales
*I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
*1. Trong đoạn kết thứ hai của Tin Mừng Máccô…
Đoạn kết của Tin Mừng Máccô, dùng trong lễ Thăng thiên năm B này, thực ra là đoạn kết thứ hai của Tin Mừng này. Thực vậy, thoạt tiên – như các bản chép tay cho thấy – Tin Mừng Máccô kết thúc ở đoạn các phụ nữ đi viếng mộ Chúa và các bà im lặng vì sợ hãi: “Các bà không hé cho ai biết điều gì, vì các bà sợ” (xem bài Tin Mừng lễ Vọng Phục Sinh). Hiển hiện những hàng trên đã có từ rất lâu (đã được thánh Irênê, Giám mục Lyon vào cuối thế kỷ thứ hai công nhận thuộc về Tin Mừng thánh Máccô) và đã được Giáo Hội nhận vào Quy Điển, nghĩa là thuộc về Kinh Thánh được linh ứng.
2. … Việc sai đi trong một sứ mệnh phổ quát…
Đoạn kết này cắt ngang những truyền thống mà ta thấy ở nơi khác, trong các Tin Mừng khác. Đức Giêsu hiện ra với 11 tông đồ “khi họ đang ăn”. Sau khi đã khiển trách “những kẻ đã thấy Người sống lại” mà vẫn không tin (14), Người sai họ lên đường sứ mạng.
– Đó là một sứ mạng phổ quát: “Hãy đi khắp thế giới. hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”. J.Hervieux nhận xét: “Ta có thể lường được ý thức của Giáo Hội sơ khai. Giáo Hội sơ khai biết mình được kêu gọi đem Tin Mừng cho hết mọi người, hết mọi tạo vật” (“Tin Mừng theo thánh Máccô”, Centurion, trang 238).
– Đó là một sứ mạng có “các dấu lạ đi kèm”. Những dấu lạ đó, đoạn kết thứ hai của Máccô kể ra và ta thấy minh hoạ trong sách Công vụ các Tông đồ: trừ quỉ nhân danh Đức Giêsu (Cv 5,12-16; 8,9; 16,16-18); nói tiếng lạ (một đoàn sủng đôi khi đi với ơn Chúa Thánh Thần (Cv 2,4-13; 10,44-46); đặt tay chữa bệnh (Cv 4,30; 9,10-17); cầm rắn mà không sợ nguy hiểm (Cv 28,3-6).
Đối với một vài người thì những dấu chỉ cổ điển ấy muốn diễn tả uy quyền tất định của Đấng Phục Sinh thắng những thế lực sự Ác và sự Chết. L.Monloubou viết: “Xuyên qua bảng liệt kê bằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu của thời ấy, ta thấy xuất hiện niềm xác tín rằng sự phục sinh của Đức Giêsu đem đến một chất men làm đổi mới con người: một “tạo dựng mới” đã “bắt đầu” nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Mới, vì mọi tấm màn che dấu chân lý về Thiên Chúa đã bị xé rách. Mới, vì mọi rào cản chia cách con người đã bị loại bỏ. Và mới, vì mọi sự ác dày vò con người trong quá khứ nay đã bị khuất phục. Sự thể hiện chiến thắng này không toàn vẹn; trần gian luôn phô bày bộ mặt của một thế giới trần trụi, nhưng đã có những dấu chỉ cho thấy cuộc chiến thắng sẽ hoàn tất” (“Tin Mừng theo thánh Máccô”, Salvator, trang 166).
Những dấu chỉ ấy có thể thay đổi, tuỳ theo khung cảnh văn hoá, nhưng điều cốt lõi vẫn luôn luôn, như trong mọi dấu chỉ Đức Giêsu đã thực hiện, là mặc khải một chút về tình yêu của Chúa Cha mà sứ điệp đã loan báo.
*3. … Và loan báo sự hiện diện huyền nhiệm của Đấng Phục Sinh:
– Bức tranh Chúa thăng thiên chỉ được chấm phá bằng vài nét. Như kết thúc cuộc mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu. Người được “cất lên trời” giống như Êlia trong sách Các Vua 2,11; Người ngự “bên hữu Chúa Cha”, Người được tôn phong là Kitô và là Chúa, ứng nghiệm lời Thánh vịnh 110,1 nói về Người: “Đức Chúa đã nói với Chúa tôi: “Hãy ngồi bên hữu Ta”.
– Nhưng việc thăng thiên không mở ra một giai đoạn vắng mặt của Đức Giêsu, mà đánh dấu một “khởi điểm”, khởi đầu một hiện diện mới cho các môn đệ, một hiện diện tích cực đem lại vô vàn hiệu quả cho hoạt động truyền giáo của họ. Đoạn kết thứ hai của Máccô kết luận: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
BÀI ĐỌC THÊM.
*1. “Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (G.Bessière, trong “Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDB, tr. 68-69).
Bản văn không đề cao hiện tượng kỳ diệu của việc lên trời, nhưng nhấn mạnh sứ mệnh của các tông đồ. Các ngài mang đi một tin bất ngờ, một tin mừng cho “mọi tạo vật”. Đó là ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn chữa lành, đương đầu với mọi nguy cơ để đổi thay thế giới, cho nhân loại mới ấy, nhân loại ngồi bên hữu Thiên Chúa ấy được hiện hữu và lớn mạnh. Lịch sử đâu có thể nhờ một chiếc đũa thần mà biến đổi trong tích tắc mà phải qua hằng bao thế kỷ, hằng bao thiên niên kỷ, như một nạm men âm thầm nhưng phải luôn luôn khơi dậy tin mừng này, để Thánh Linh Thiên Chúa tái tạo bộ mặt địa cầu.
Suốt dòng thời gian, các môn đệ sẽ là những “chứng nhân hăng say”, “cho đến tận cùng trái đất”, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu ra đi, nhưng Người không vắng mặt, trái lại dường như cuộc ra đi này còn làm cho Người hiện diện nhiều hơn qua tất cả những người tiếp tục đón tiếp, sáng tạo và mưu tìm một thế giới mới. Họ cũng sẽ là những kẻ làm phiền vì tin rằng nhân loại có thể tiến xa hơn trên con đường công bình, tha thứ và yêu thương. Những con người mơ về một nhân loại thần linh này (humanité divine) sẽ luôn luôn phản kháng những gì là hỗn loạn, tồi tệ và chai lì trong đời sống cá nhân cũng như tập thể. Họ cũng sẽ trở thành mục tiêu tấn công của những chủ nhân ông sống một đời sống trì trệ, những tay quản lý ù lỳ và phó mặc cho số phận, những kẻ tôn thờ tiền bạc. Nhưng ngay cả trong cơn bắt bớ, những con người thân cận với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ấy, những người ban phép rửa tội trong tương tai ấy, sẽ nghe thấy trong bản thân một tiếng nói bí ẩn thầm thì: “Thầy ở với các con cho đến ngày tận thế”.
*2. “Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh” (Đức Cha L.Daloz, trong “Vậy Người là ai?”, DDB, tr. 109-110).
Đức Giêsu chứng minh sự hiện diện phục sinh của Người. Đoạn kết của Tin Mừng Máccô kể lại tóm tắt một vài tình huống chứng minh cho việc này. Đó là 3 tình huống khác nhau: Đức Giêsu “xuất hiện”, “tỏ mình ra” cho Maria Madalena, cho hai môn đệ, cho mười một Tông đồ. Những chứng nhân ấy sẽ đi loan truyền điều họ đã thấy. Người ta không tin các ngài; trong lần sai đi cuối cùng này cũng thấy nói đến “ai tin” và “ai không tin”. Đức Giêsu phải “áp đặt” sự hiện diện của Người vì biến cố phục sinh quả thực là bất ngờ! “Người khiển trách sự chậm tin và sự cứng lòng của họ, không tin lời những người đã thấy Người sống lại”. Đoạn kết Tin Mừng này thật ngắn ngủi, vắn tắt như một bài điểm sách. Biến cố Phục sinh đâu cần chi đến những lời lẽ dao to búa lớn, những bài diễn văn dài dòng. Biến cố có đó để mời gọi đức tin. Biến cố tự nó đã có sức thuyết phục, có tính cách quyết định và đòi hỏi một quyết tâm. Biến cố quá mãnh liệt đã mở ra một tương lai và một chân trời bao la cho: “toàn thế giới” và “mọi tạo vật”. Tin Mừng đầy ắp một sức mạnh phục sinh, có khả năng xuyên thấu bề dày tăm tối của thế giới, đem đến cho nó một chất men mới. Đó là ý nghĩa của những dấu chỉ này. Sức mạnh của Tin Mừng được biểu lộ qua con số không nhỏ những dấu chỉ này và tính cách phi thường của chúng. Sức mạnh đó không chỉ là những lời nói suông, nhưng còn là chất men biến đổi cuộc sống. Các môn đệ có thể lên đường rao giảng. Đối với các ông, dù “đã được cất lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, Chúa vẫn tiếp tục hoạt động và xác nhận Lời. Ngày nay, đến lượt chúng ta, chúng ta cũng được sai đến tận cùng thế giới để làm chứng nhân cho Tin Mừng, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Phục Sinh…”.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
LỆNH LÊN ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm đồng lúc hai biến cố: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Giê-su có các Tông Đồ làm chứng và cuộc Siêu Thăng của Ngài không ai có thể chứng kiến được.
Cv 1: 1-11
Sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su Phục Sinh với các Tông Đồ, sách Công Vụ tường thuật cuộc Thăng Thiên hữu hình: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”.
Ep 4: 1-13
Sau khi gợi lên cuộc Siêu Thăng của Đức Ki-tô: “Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời”, thánh Phao-lô nhắc lại rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu là gặp lại Đức Ki-tô, vì Ngài là Đầu của Giáo Hội và Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài.
Mc 16: 15-20
Tin Mừng Mác-cô hiệp nhất cuộc Thăng Thiên hữu hình và cuộc Siêu Thăng của Đức Giê-su, theo một biểu thức cô động: “Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”, mà Giáo Hội gìn giữ trong kinh Tin Kính.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Công Vụ Tông Đồ được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô nào đó, mà chúng ta không biết.
*1.Hai cuộc Thăng Thiên:
Sách Tin Mừng Lu-ca kết thúc với cuộc Thăng Thiên của Đức Ki tô: “Người rời khỏi các ông và được đưa lên trời…” (Lc 24: 51) trong khi sách Công Vụ mở ra với hai lần gợi lên cùng một biến cố: “…… cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1: 1-2) và “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (1: 9). Như vậy, qua kiểu trình bày văn chương này: “ở phần cuối” sách Tin Mừng Lu-ca và “ở phần đầu” sách Công Vụ, cuộc Thăng Thiên được trình bày: vừa đích điểm sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa và vừa khởi điểm sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa ở giữa loài người; đồng thời, vừa hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su và vừa khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
Theo cách trình bày của thánh Lu-ca như trên, chúng ta có thể phân biệt hai cuộc Thăng Thiên: Cuộc Thăng Thiên thứ nhất không ai có thể chứng kiến, đó là việc Đức Giê-su “được đem lên trời” ngay sau khi Ngài sống lại. Đây là một cuộc đoàn tụ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức. Đó cũng là cuộc tôn vinh của Đức Giê-su bên cạnh cạnh Chúa Cha, cuộc tôn vinh mà Ngài đã nguyện xin trong lời cầu nguyện của Ngài, trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn của Ngài: “Vậy, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).
Cuộc Thăng Thiên thứ hai là việc Đức Giê-su lên trời hữu hình trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: chính nhân tính, cùng với Đức Ki-tô, sẽ chiếm chỗ trong vinh quang Thiên Chúa. Cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc thăng thiên của chúng ta.
*2.Lý do của cuộc Thăng Thiên hữu hình.
Vào cuộc gặp gỡ sau cùng với các môn đệ, Đức Giê-su Phục Sinh chỉ cần loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, đoạn nói lời từ biệt với các ông, cuối cùng biến mất như Ngài đã nhiều lần làm như vậy trong suốt bốn mươi ngày sau biến cố Phục Sinh. Tại sao Đức Giê-su đã chọn cuộc ra đi khỏi thế giới nầy một cách ngoạn mục như thế, dù thoáng qua và kín đáo? Chúng ta gặp thấy câu trả lời qua cách thức mà Đức Giê-su, trong suốt cuộc đời công khai của Ngài, đã trình bày cuộc sống tiền hữu và cuộc Nhập Thể của Ngài.
Trước hết, Ngài lên trời theo cách thức như vậy nhằm chỉ rõ Ngài dưới danh xưng “Con Người”, nhân vật này, theo thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13; 16: 28; 17: 11, vân vân).
Đức Giê-su cũng sử dụng hình ảnh nầy khi công bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong diễn từ “Bánh Hằng Sống”, Ngài gợi lên sáu lần diễn ngữ “từ trời xuống” nầy, và cuối cùng, Ngài kết thúc bằng những lời nầy: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Đây là cách thức Đức Giê-su dùng để loan báo cuộc Thăng Thiên của Ngài rõ ràng nhất.
*3. “Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra…”
Con số “bốn mươi” nầy chất chứa biết bao ý nghĩa: nó hình thành nên thể song đối với bốn mươi ngày Đức Giê-su trải qua trong hoang địa để chuẩn bị sứ mạng của Ngài, giữa phép rửa bởi thánh Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài. Đó cũng là khoảng thời gian để chuẩn bị cho các môn đệ bắt tay vào sứ mạng của họ, giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Ngài.
Chúng ta có thể tự hỏi Ngài đã sống như thế nào sau khi sống lại. Một cách nào đó, Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một tiên trưng. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào chúng ta không nghĩ đến sách Tô-bi-a, trong đó thiên sứ Ra-pha-en, sau khi đã hoàn tất sứ mạng trần thế của mình, mặc khải cho hai cha con: ông Tô-bít và ông Tô-bi-a, chân tính của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Chúa… Đừng sợ! Bình an cho các ngươi!… Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi… do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy… Này tôi lên cùng Đấng đã sai tôi…’ Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa” (Tb 12: 15-21).
*4.Chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trước khi từ giả các môn đệ lên trời, Đức Giê-su dặn dò các ông những lời sau cùng và loan báo cho các ông: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (1: 5).
Vào lúc nầy, các ông đã hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (1: 6). Họ vẫn ôm ấp một giấc mơ chính trị xưa kia về việc khôi phục nền độc lập của quốc gia Ít-ra-en. Đức Giê-su không trách cứ họ; Ngài không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, nhưng mượn kiểu nói khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá đất nước nhỏ bé của xứ Giu-đê, cho đến tận cùng thế giới. Nhưng vào lúc nầy đây, họ chưa có thể nào hiểu được vì chưa đón nhận sức mạnh của Thánh Thần.
*5.Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
“Nói xong, Người được cất lên, ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (1: 9). Đây không cốt là đám mây nào, nhưng đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, như đã xảy ra biết bao lần trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là thành ký thuật lại biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào giây phút Ngôi Lời thụ thai trong cung lòng trinh khiết của Mẹ; đó cũng là đám mây quyện lấy Đức Giê-su khi Ngài từ giả cõi thế nầy. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ thưa “xin vâng”. Cũng thế, các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện của biến cố Ngũ Tuần; Chúa Thánh Thần ngự xuống sẽ biến đổi các Tông Đồ và thúc đẩy họ bắt tay hành động. Các thiên sứ đã mời gọi họ rồi: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (1: 11). Nhưng phải chuẩn bị ngày Ngài trở lại nầy bằng cách bắt đầu công việc truyền giáo vĩ đại mà Tin Mừng Mác-cô hôm nay nhắc nhở chúng ta.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-13)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Ê-phê-xô trong khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý (ch. 4-6). Cả hai phần được liên kết chặc chẽ với nhau. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai, trong đó thánh Phao-lô nhấn mạnh cuộc Siêu Thăng của Đức Ki-tô.
*1.“Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (4: 1):
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô chủ ý trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và ra lệnh phải truyền lại cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ.
Trong đoạn mở đầu của phần thứ hai về luân lý, trước khi đưa ra những lời khuyên nhủ, thánh Phao-lô nhắc nhớ ngài đang bị giam cầm: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (4: 1). Như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là chứng nhân chịu đau khổ vì Đức Ki-tô.
*2.Ơn gọi làm người Ki-tô hữu (4: 2-3):
Từ đó, thánh nhân nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng: dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Thánh nhân khuyên họ phải ăn ở thật khiêm nhường, hiền từ và nhẫn nại, lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau (4: 2). Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đã đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng” (Mt 11: 29).
Đoạn, thánh nhân khuyên họ hãy hiệp nhất bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (4: 3). Lời khuyên bảo: “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”, không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
*3.Lời tuyên xưng đức tin (4: 4-6).
Tiếp đó, trong một niềm hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề về sự hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời công bố phụng vụ mà những người chịu phép rửa tuyên xưng khi khẳng định niềm tin của mình, chắc chắn được thánh Phao-lô diễn giải. Những thuật ngữ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê.
Thật kỳ lạ và có thể có chủ ý, khi ngỏ lời cả với những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân, thánh Phao-lô sử dụng những diễn ngữ nhắc nhớ trước hết lời tuyên xưng độc thần của Ít-ra-en: chỉ có một Chúa, đoạn sử dụng từ ngữ rất gần với phái Khắc Kỷ. Theo phái Khắc Kỷ, Thiên Chúa là nguyên lý hiệp nhất, là “cha của muôn loài muôn vật”, đấng duy trì sự cố kết và sự hòa điệu của vũ trụ. Đức Ki-tô cũng là nguyên lý hiệp nhất, nhưng không là một vị thần linh nội tại trong vũ trụ. Vai trò siêu việt của Ngài chính là hiệp nhất tất cả mọi sinh linh: Ngài là “Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (4: 6).
Biểu thức hoàn vũ của thánh Phao-lô cũng thay thế những suy luận Do thái giáo, trong đó họ đề cao những quyền lực trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhất là quy trật tự vũ trụ vào vai trò của các thiên sứ.
*4.Biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần (4: 7-10):
Muôn vàn ân sủng mà mỗi người đón nhận tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban cho, Đấng “đã xuống tận các vùng đất sâu thẩm dưới mặt đất” (4: 9) cũng chính là Đấng “đã lên cao hơn mọi tầng trời” (4: 10). Ở đây, chúng ta nhận ra một trong những ý tưởng chủ đạo của thánh Phao-lô, thánh nhân thiết lập mối liên hệ giữa sự hạ mình của Con Thiên Chúa trong kiếp sống phàm nhân (Nhập Thể) và sự siêu thăng của Ngài.
Với diễn ngữ: “Để làm cho vũ trụ được viên mãn” (4: 10), thánh Phao-lô hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần, tức là việc Đức Giê-su lên trời và việc Ngài ban xuống muôn vàn ân sủng. Để thực hiện điều nầy, thánh nhân dựa vào một bản văn Kinh Thánh: Tv 68. Thánh Vịnh này là một bài ngợi ca được hát lên khi rước Hòm Bia Chứng Ước lên Giê-ru-sa-lem; bài ngợi ca nầy trình bày Đức Chúa tiến lên thánh điện của Người như một vị lãnh tụ chiến thắng, dẫn theo đám tù binh. Thánh Phao-lô áp dụng bài ngợi ca nầy vào Đức Ki-tô: “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người” (4: 8). Muôn vàn ân huệ nầy được ban trước tiên cho những ai xây dựng Giáo Hội của Ngài.
*5.Giáo Hội, sự viên mãn của Đức Ki-tô (4: 11-13):
Lúc đó, thánh Phao-lô hướng về phía các tín hữu, chính họ xây dựng Nhiệm Thể Đức Ki-tô cho đến khi đạt được tầm mức tăng trưởng tối hậu, tầm vóc viên mãn. Sự viên mãn nầy chỉ có thể được thực hiện trong sự hiệp nhất của đức tin và của sự hiểu biết thật sự về Con Thiên Chúa (thánh Phao-lô trở lại chủ đề về sự hiệp nhất).
Như vậy, cùng với nhau tăng trưởng trong đức tin và trong đức ái, “chúng ta sẽ được đưa lên cao cho đến Ngài”. Biến cố Thăng Thiên của Đức Ki-tô loan báo và chuẩn bị biến cố thăng thiên của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 16: 15-20).
Đây là đoạn kết Tin Mừng Mác-cô. Biến cố Thăng Thiên được gợi lên rất ngắn gọn nhưng đầy đủ: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (16: 19). Đây là cách diễn tả mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính. Quả thật, lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố lên trời của Đức Giê-su: Cuộc Siêu Thăng của Ngài ngay khi Ngài sống lại và cuộc Thăng Thiên hữu hình của Ngài trước mắt các Tông Đồ.
Như Tin Mừng Lu-ca, Tin Mừng Mác-cô định vị hai biến cố vào cùng một ngày: cả hai thánh ký đều đặt biến cố Thăng Thiên vào buổi chiều Phục Sinh. Đây là cách thức thâu tóm hai biến cố trong cùng một quan điểm thần học. Tuy nhiên, sách Công Vụ lại đặt biến cố Thăng Thiên vào “bốn mươi ngày sau”, sau nhiều lần Đấng Phục Sinh đã hiện ra, dạy dổ các môn đệ của Ngài.
Đoạn Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có ba phần:
-Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
-Biến cố Thăng Thiên (16: 19).
-Thi hành sứ mạng (16: 20).
*1.Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
Biến cố Thăng Thiên đánh dấu việc kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giê-su và việc khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
Sự kiện Đấng Phục Sinh sai nhóm Mười Một đi thi hành sứ vụ đều được nhắc lại trong cả bốn sách Tin Mừng. Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh rõ nhất chiều kích phổ quát của sứ mạng nầy: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ” (Mt 28: 19). Tin Mừng Mác-cô cũng nhấn mạnh không kém: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16: 15). Diễn ngữ: “mọi loài thụ tạo”, rất gần với diễn ngữ của thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Rô-ma (Rm 8: 19-22), có chung một viễn cảnh về sự đổi mới tâm linh, không chỉ của nhân loại nhưng cũng toàn thể vũ trụ.
A.Tin và không tin.
Thế chọn lựa đôi ngã: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (16: 16), gợi nhớ bút pháp của Tin Mừng Gioan: hoặc tiếp đón ánh sáng hay ở trong bóng tối. Cuộc giáng trần của Đức Giê-su đòi buộc con người phải chọn lựa. Tất cả lời rao giảng tông đồ quả quyết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, không ai có thể đạt được sự sống siêu nhiên mà không qua Ngài. Chỉ Giáo Hội được trao quyền truyền đạt sự sống siêu nhiên nầy nhờ các Bí Tích, trước hết bí tích Thánh Tẩy. Lập trường không khoan nhượng nầy được giải thích do việc các Tông Đồ ngỏ lời với người Do thái, những người này từ chối tin vào Đức Ki-tô và chỉ thấy ơn cứu độ nhờ Lề Luật.
B.Dấu lạ.
Đức Giê-su kể ra một loạt dấu lạ mà “những ai có lòng tin vào danh Ngài” có thể thực hiện (16: 17a). Ở đây, Chúa Giê-su không không chỉ ngỏ lời với các Tông Đồ, nhưng còn với những ai tiếp nối sau các Tông Đồ: “Họ sẽ trừ được quỷ, họ sẽ nói được những tiếng mới lạ” (16: 17b)
Từ “dấu lạ” có một tầm mức rộng lớn hơn và sâu xa hơn từ “phép lạ”. Phép lạ hàm chứa một sự ngạc nhiên, một sự thán phục, trong khi dấu lạ hàm chứa một giáo huấn, một mặc khải chứ không luôn luôn là một điều kỳ diệu. Như nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giê-su là một dấu lạ về sự sinh hạ của Giáo Hội; cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su tự nó là dấu lạ về tình yêu tận mức của Thiên Chúa đối với nhân loại; muôn vàn ân huệ của Chúa Thành Thần, dù kín đáo, cũng là những dấu lạ không kém.
Trước đây Tin Mừng Mác-cô đã tránh dùng từ dấu lạ, vì đây là từ mà các đối thủ của Đức Giê-su đã sử dụng để đòi hỏi Ngài một bằng chứng để chứng tỏ Ngài là Đấng Thiên Sai (8: 11). Trong đoạn kết nầy, từ dấu lạ mặc lấy một giá trị tương đồng với từ dấu lạ thường được dùng trong Tin Mừng Gioan: bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng cứu độ của Đức Giê-su.
Chúng ta gặp lại những dấu lạ nầy trong sách Công Vụ: các Tông Đồ đã trừ được quỷ, nói được những ngôn ngữ; thánh Phao-lô bị con rắn độc quấn vào tay mà không hề hấn gì (Cv 28: 3-6), thánh Phê-rô đặt tay và chữa người què (Cv 3: 7-8), ông Kha-na-ni-a đặt tay và chữa ông Sao-lô được thấy lại (Cv 9: 17-18), vân vân. Vả lại, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ của Ngài vào lúc sai nhóm Bảy Mươi Hai đi thi hành sứ vụ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10: 19).
Đó là những dấu lạ mà các ngôn sứ đã loan báo đánh dấu triều đại Thiên Sai, như ngôn sứ I-sai-a phác họa một cách sinh động: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất nầy, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11: 8-9).
Thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội được minh họa bởi muôn vàn ân sủng mà các Tông Đồ và các Ki-tô hữu tiên khởi được lãnh nhận.
*2.Thăng Thiên (16: 19).
“Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời”. Tước hiệu “Chúa” (Kurios) để chỉ Đức Giê-su chỉ được gặp thấy một lần trong Tin Mừng Mác-cô: khi Ngài sai hai môn đệ ra đi chuẩn bị cuộc khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem của Ngài, chính Ngài tự nhận mình với tước vị nầy: “Nếu có ai bảo: ‘Tại sao các anh làm như vậy?’, thì cứ nói là Chúa cần đến nó” (Mc 11: 3). Tước hiệu “Chúa” nầy Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, được các Ki-tô hữu tiên khởi áp dụng cho Đức Giê-su để công bố “quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài”.
Cuộc tôn vinh của Đức Giê-su được diễn tả bằng hình ảnh: “ngự bên hữu Thiên Chúa”. “Bên hữu Thiên Chúa” là chỗ danh dự và là dấu chỉ của việc dự phần vào quyền năng của Thiên Chúa. Đây là chỗ mà Thánh Vịnh 110 phân định cho Đấng Thiên Sai tương lai, Đấng sẽ là “Đức Chúa”. Chính Đức Giê-su tiên báo biến cố nầy cho các thành viên của Thượng Hội Đồng : “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng…” (Mc 14: 62).
Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất cho vài chi tiết rõ ràng về biến cố Thăng Thiên hữu hình (sách Công Vụ cung cấp nhiều chi tiết rõ ràng hơn sách Tin Mừng Lu-ca), trong khi Tin Mừng Gioan dọi chiếu ánh sáng trên biến cố Thăng Thiên vinh quang không có nhân chứng. Trong bài Diễn Từ Cáo Biệt, Đức Giê-su nhiều lần nói với các Tông Đồ là Ngài “ra đi khỏi thế giới nầy mà về cùng Cha Ngài” và trong lời cầu nguyện của Ngài, Chúa Giê-su gợi lên cuộc tôn vinh của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5). Sau cùng, biến cố Biến Hình trên núi cao là dấu chỉ tiên báo biến cố Thăng Thiên vô hình và vinh quang mà Chúa Con sẽ nhận lại.
*3.Thi hành sứ mạng (16: 20).
Sau cùng, không chút chậm trễ, các Tông Đồ “ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông” (16: 20). Sự hiện diện vô hình của Ngài mà thánh Mát-thêu diễn tả trong cùng một bài tường thuật song song khi nhắc lại những lời sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 20).
Biến cố Thăng Thiên không là một cuộc ra đi của Đức Giê-su, nhưng khai mạc một cách thế hiện diện mới của Ngài. Từ nay, với cách thế hiện diện mới nầy, Ngài không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa, nhưng đồng hiện diện với các ông ở mọi nơi và mọi lúc, thậm chí ở trong các ông.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Cv 1,1-11) : Những lời dạy cuối cùng của Đức Giêsu trước khi thăng thiên.
– Đáp ca (Tv 46) : Chúa lên trời, tiếng hò reo dậy đất ; Chúa lên trời, nhịp kèn sáo trổi cao.
– Tin Mừng (Mc 16,15-20) : Trước khi lên trời, Đức Giêsu sai các môn đệ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng.
– Bài đọc II (Êp 1,17-23) : Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa việc Đức Giêsu “lên trời” : “Thiên Chúa đã tôn Đức Kitô lên”
*I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Việc Đức Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Đức Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Đức Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
*II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Đức Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
– Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
– Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.
*III. Lời Chúa
*Bài đọc I: Cv 1,1-11 : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
– Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
– Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.
*Đáp ca (Tv 46)
Đây là một Tv ca tụng vương quyền của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, Ngài xứng đáng đón nhận vương quyền. Và vương quyền này đã mở rộng khắp nơi nhờ công tác loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.
*Tin Mừng (Mc 16,15-20)
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ :
– Sai các ông đi loan Tin Mừng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
– Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông : “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại ; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Những “dấu lạ” mà Đức Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa : a/ Nghĩa bóng : Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ ; b/ Nghĩa đen : các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
Các môn đệ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan Tin Mừng, và những lời Chúa hứa đã thành sự thật : “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”
*Bài đọc II (Êp 4,1-13)
“Thánh tông đồ gợi ý cho chúng ta một cách nhìn về sự kiện Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rực rỡ vinh quang Thiên Chúa, sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh từ nay sẽ mang những chiều kích vĩnh hằng và vũ trụ, vượt khỏi khuôn khổ không gian và thời gian, nghĩa là bây giờ và mãi mãi Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta” (CgvDt, số đặc biệt giáng sinh ’93)
*IV. Gợi ý giảng
* 1. Quê hương thiên đàng và cuộc hành trình dương thế
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
. Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
. Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe…”
. Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ “Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ ?” Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ “Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa”.
. Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ “Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy ?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói “Từ trời xuống”. 3 em liền xin “Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi”. Đức Mẹ mỉm cười đáp “Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây ; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào !
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế :
. Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ “Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó…”
. Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
. Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước ; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao ? Nghĩa là : Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ : Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật ; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như : chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.
“Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời…” Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời “Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời…” Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế : Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.
* 2. “Củng cố lời giảng bằng những dấu lạ kèm theo“
Việc loan Tin Mừng sẽ có sức thuyết phục hơn nếu có những dấu lạ kèm theo. Những dấu lạ này không hẳn là các phép lạ lớn lao, mà còn là cách sống có sức thu hút của chúng ta.
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói :
– Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi :
– Món quà quí giá của ngươi đâu ?
Người này điềm tĩnh trả lời :
– Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói :
– Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất : Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
*
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay : “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật” (Mc.16,15)
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.
– Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
– Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
– Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ : “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con” (Ga.17,24).
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
*
Lạy Chúa, con đường lên trời là con đường hẹp, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin cho tất cả mọi nẻo đường chúng con đi, đều dẫn chúng con về quê trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Trời đang tỏ hiện. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Những cách giảng đạo
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.
– Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời : “Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta”
– Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói : “Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng”.
– Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói : “Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con”.
– Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói : “Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo”.
– Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói : “Đây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi”.
– Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích : “Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Đang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia xẻ cuộc sống của họ. Đang khi chia xẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con”.
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng
“Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc”, đó là mệnh lệnh của Chúa khi Ngài từ biệt chúng ta.
Bây giờ Ngài không còn có ai trên thế gian ngoài chúng ta.
Ngài không còn tay để nâng người sa ngã ngoài tay của chúng ta.
Ngài không còn chân để đi tìm kẻ hư mất ngoài chân của chúng ta.
Ngài không còn mắt để nhìn những giọt lệ khổ đau âm thầm ngoài mắt của chúng ta.
Ngài không còn lưỡi để an ủi kẻ buồn sầu ngoài lưỡi của chúng ta.
Ngài không còn trái tim để yêu thương những người không được yêu thương ngoài trái tim của chúng ta.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con là những môn đệ nhút nhát và sợ sệt của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng can đảm để làm chứng cho Chúa giữa thế gian, hầu Tin Mừng được rao giảng và người ta tìm được đường vào Nước của Chúa. (Flor McCarthy)
* 6. Loan Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo
Trong bài Tin Mừng này, có một câu mà nếu đọc kỹ từng lời thì ý nghĩa rất lạ. Đức Giêsu bảo “Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo“.
– “Thọ tạo” nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú… Tóm lại là tất cả.
– Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được ? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
– Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, mầu nhiệm Đức Giêsu về trời được tôn vinh bên Chúa Cha, luôn luôn là điều khích lệ và nâng đỡ cho mọi Kitô hữu còn đang tại thế. Chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :
- Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người Kitô hữu / biết luôn làm vinh danh Đức Giêsu Phục sinh / trong khi thì hành những trách nhiệm trần thế nơi gia đình và xã hội.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều người trên thế giới / đang mất dần ý thức về Thiên Chúa hoặc cố tình dửng dưng với Thiên Chúa / được nhận biết Thiên Chúa là Cha và là nguồn hạnh phúc của họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quan chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quanh chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Đức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho cộng đồng xứ đạo chúng ta đã tin Đức Giêsu Phục sinh về trời / thì cũng luôn sống theo niềm tin đó / để cũng được sống lại và lên trời như Chúa.
Chủ tế : Lạy Chúa là Cha toàn năng, Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh và về trời, xin giúp chúng con biết sống theo lối sống của Người, để mai sau cũng được hưởng vinh quang với Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
*VI. Trong Thánh lễ
– Kinh Tiền Tụng riêng cho lễ Thăng Thiên
– Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
– Trước lúc rước lễ : Chúng ta sắp rước Đức Giêsu vào lòng. Hãy xin Ngài thêm sức giúp chúng ta chu toàn sứ mạng Ngài trối lại cho chúng ta tiếp nối. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
*VII. Giải tán
Hôm nay Đức Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa : “Anh em hãy đi đến với muôn dân…”, “Anh em hãy làm chứng cho Thầy”. Chúc anh chị em bình an.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN -B
RAO GIẢNG TIN MỪNG CHÚA CHO THẾ GIAN- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt
Các Tin mừng để lại cho chúng ta 5 trình thuật hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh cho các sứ đồ: Mt 28,16-20; Mc 16,14-20; Lc 24,36-39; Ga 20,19-29; Ga 21,1-23. Thay vì phối hợp các chi tiết theo một thời biểu giả tạo, thiết tưởng nên theo sự gợi ý của Descamps mà xếp đặt chúng (ít nhất trong tâm tưởng) “thành 5 cột song song… như bấy nhiêu cách diễn tả văn chương về cùng một loại thị kiến Đấng Phục sinh ban cho các sứ đồ” (Albert Descamps, La structure des récits évangeliques de la Résurrection, trong Biblica 40 (1959) tr.741, chú thích 1). Một truyền thống lịch sử vững chắc đã cống hiến cho các tường thuật gia một sơ đồ chung, theo đó các sứ đồ sau khi tỏ vẻ ngờ vực, rốt cùng đã nhận ra Chúa Giêsu đang sống qua nhiều kinh nghiệm khách quan, và đã hiểu rằng Đấng Phục sinh truyền lệnh cho họ tiếp tục chương trình thiên sai khởi từ Giêrusalem. Trên sơ đồ chung này, mỗi tác giả hình ứng đã ghép thêm nhiều khai triển riêng, tùy theo các truyền thống đặc biệt và các ý hướng thần học riêng tư của mình.
Đoạn văn Mc 16,15-20 của chúng ta là một trong năm trình thuật lịch sử-thần học đó. Nó tập trung như các trình thuật khác trên sứ mệnh phổ cập của các sứ đồ, và chia sẻ với Lc 24,36-53 – mà nó lấy cảm hứng – cái đặc điểm là kết thúc với việc Thăng thiên-hữu hình. Ngoài ra, chỉ duy mình nó là chẳng cho một xác định nơi chốn nào cả: không có gì hỗ trợ sự ưu tiên (có lẽ có) của những cuộc hiện ra tại Galilê trên những cuộc hiện ra tại Giêrusalem hay ngược lại. Cố ý hay không, tác giả chỉ tập trung tất cả chú ý của chúng ta vào điểm cốt tùy: sứ mệnh được trao cho các môn đồ.
*1) SỨ VỤ LỆNH PHỔ QUÁT
c15: “Và Người (Chúa Giêsu) nói với họ (nhóm Mười một): “Hãy đi khắp cả thiên hạ, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.
c16: Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bất luận tội.
c17: Và này những dấu lạ sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng.
c18: Chúng sẽ cầm rắn thẳng tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng đặt tay cho kẻ liệt nào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”.
a- Sai phái các kẻ rao giảng Tin mừng (c. 15)
Người ta thình lình đi từ lời trách moc nghiêm khắc về sự cứng lòng (c.14) sang sứ mệnh phổ cập. Tác giả giản lược hóa: chắc chắn ông giả thiết rằng nhóm Mười một, như Tôma trong trình thuật Gioan, đã chậm tin khi Chúa Giêsu tỏ mình cho họ; nhưng ông không quan tâm đến việc các môn đồ “nhận ra” Chúa Giêsu, cũng chẳng tìm cách thể chất hóa sự “tỏ hiện” của Người: ông đi thẳng vào sứ vụ lệnh.
Lời phát biểu mệnh lệnh này, “biểu lộ cách tuyệt diệu tinh thần Kitô giáo” (V.Taylor, The Gospel according to Saint Mark, London, 1957, tr.612), không thể bắt nguồn y nguyên như thể từ Chúa Giêsu, cũng như lời phát biểu tương tự trong: Mt 28,19-20. Nếu Chúa Giêsu đã ban cho nhóm Mười Một một mệnh lệnh rõ ràng và cấp thiết như thế, thì ta không cắt nghĩa được tại sao đã phải cần một sự can thiệp rất đặc biệt của Thánh Thần để thúc đẩy Phêrô rửa tội cho lương dân (Cv 10; 11,1-18; 15,7-11). Dĩ nhiên, trước khi tử nạn, Chúa Giêsu cho biết rằng những lương dân ngay chính sẽ được đón nhận vào Vương quốc Thiên Chúa trong thời cánh chung (Mt 8,11-12; 25,32; x.11,20-24; 12,41…). Nhưng khi đặt cơ cấu cho cộng đoàn thiên sai bằng lời hứa ban quyền năng tông đồ, Người đã không nói rõ khoảng cách kéo dài giữa cuộc sống lại và cuộc Quang lâm của Người, cũng chẳng loan báo việc lương dân lần hồi đi vào Giáo hội trước ngày Chung thẩm (xem J.Jeremias, Jésus et les paiens, Neuchâtel. Delachaux et Niestlé, l956; J. Dupont, Jésus et les paiens, trong Rythmes du monde, 1957, tr.76-88). Thành thử dưới ánh sáng của các sấm ngôn Cựu ước và thái độ chỉ rao giảng cho người Do thái của Chúa Giêsu, các sứ đồ có thể đã tin rằng sau cuộc Phục sinh đặt Người làm Chúa của toàn thể vũ trụ, là tiếp liền cuộc Quang lâm của Người, và rằng chính Thiên Chúa gây nên lập tức sự trở lại thình lình của toàn thể thế giới bằng những điều kỳ diệu.
Dần dần họ hiểu rằng việc trở lại này không chờ đợi sự hoàn thành tối hậu của thời cánh chung mà cuộc phục sinh của Chúa Giêsu chỉ mới mở đầu, và rằng Chúa Giêsu vinh hiển đã trao cho chính họ nhiệm vụ khai mạc, ngay từ dưới thế, Chúa Quyền (eigneurie) của Người trên mọi dân tộc. Sự ý thức này đã được Thánh Thần hướng dẫn (Lc 24,49: Cv 1,8). Đặc biệt ý thức đó đã được hối thúc nhờ việc kêu gọi Phaolô và nhờ những cuộc tranh luận mà ông này đã tự động khởi xướng (x. Cv 15; Cl 2).
Trong đoạn kết của Maccô đây, tư tưởng trên đã tiến tới đích điểm. Sứ mệnh của Giáo hội bên cạnh lương dân đã trở nên rõ ràng, không chối cãi. Người ta chẳng còn gặp thấy ở đây lời đề cập đến quyền ưu tiên được rao giảng Tin Mừng của dân Do thái, vốn đã được thánh Phaolô không ngừng tôn trọng và đã được thánh Lc gợi lên (Lc 2-1,4; 7,1 “khởi từ Giêrusalem”; Cv 1,8: “Giêrusalem” trong toan cõi Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 13-6t)
Thật vậy, lời phát biểu của c.15 xuất hiện khá trễ và tùy thuộc nhiều nguồn ảnh hưởng rất khác nhau (vốn không nhất thiết là những vay mượn trực tiếp). Tiếng đầu tiên ‘hãy đi’ cũng là tiếng dùng trong câu nói (logion) song song của Mt 28,19: các sứ đồ phải rời Giêrusalem để đi đến với mọi người “khắp muôn dân”. Sứ mệnh đòi hỏi một việc khởi hành, ra đi khỏi xứ sở, khỏi moi trường xã hội hay khỏi vũ trụ tinh thần của mình. Đối với các sứ đồ, vấn đề là phải đi ra khỏi môi trường Do thái để đến “tận cùng trái đất” (Is 49,6), nghĩa là để quay về với lương dân, mặc dầu họ gần hay xa trên phương diện địa lý (x. Cv 13,46t).
Các chữ “hãy loan báo Tin mừng” thuộc ngôn ngữ truyền giáo chung của Giáo hội sơ khai; nhưng Maccô đã thích chúng cách đặc biệt, và chỉ mình ông trong bốn thánh sử viết “Tin Mừng” là không thêm một xác định nào khác, có lẽ do ảnh hưởng của Phaolô. Hai tiếng “loan báo” và “Tin mừng” được nối kết trong Mc 1,14; 13,10 (Mt 24,14); 14,9 (Mt 26,13), cũng như trong bản văn chúng ta đây. Bản văn này đặc biệt rất gần với phan Maccô thêm vào trong diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu: trước lúc Con Người đến trong vinh quang, các môn đồ đã phải làm chứng trước quyền bính dân ngoại, “vì trước hết Tin mừng phải được loan báo cho mọi dân tộc” (13,10).
Do động từ kerussein (loan báo), thông dụng trong sách Cv, phát xuất kerugma, “lời rao giảng” hay Sứ điệp, mà trong thực tế tương đương với Tin mừng. Các sứ đồ của những kẻ truyền bá Tin mừng, là những truyền lệnh sứ của Sứ điệp cứu rỗi vui tươi. Trong các diễn từ của Công vụ, “lời rao giảng” sơ yếu và “đánh động” thường nói về cuộc sống, nhưng nhất là về cái chết, sự sống lại và sự tôn vinh Chúa Giêsu, rồi loan báo việc Người trở lai như thẩm phán và Cứu Chúa. Đoạn kết giản lược của Maccô chẳng nói gì về đối tượng này của Sứ điệp hay của lòng tin tương ứng cả. Nhưng không thể hồ nghi rằng: đối với tác giả cũng như đối với tất cả lời rao giảng sơ khai, trung tâm của Tin mừng là cuộc tử nạn và sự tôn vinh Chúa Giêsu, được quan niệm như là một hành vi cứu chuộc cao cả duy nhất của Thiên Chúa: tác giả mặc nhiên ám chỉ điều này qua việc đặt sứ vụ lệnh nằm giữa cuoc phục sinh và Thăng thiên hữu hình. Vì đã thấy Chúa Giêsu lại sống và biến dạng, các sứ đồ sẽ phải loan báo khắp nơi biến cố trung tâm của lịch sử nhân loại ấy và ý nghĩa của nó cho thế gian; vì đã thấy được nâng len trời “Đấng mà hiện trời cao phải đón lấy cho đến thời buổi phục hồi vạn vật” (Cv 3,21), họ sẽ phải loan truyền rằng “chính Chúa Giêsu ấy sẽ đến cùng một thể như các ông đã thấy Người đi về trời”.
Chính cho “mọi loài thụ tạo” mà Tin mừng được gọi đến. Thành ngữ tương đương với thành ngữ của Mc 13,10 và Mt 28,19: “mọi dân tộc”. Vẫn biết chỉ con người mới có thể nghe lời rao giảng và đáp lại bằng đức tin. Nhưng chắc rằng tác giả, trong đường hướng của Phaolô (Rm 8, 19-22; Cl 1,1-23), cũng nghĩ tới âm hưởng mầu nhiệm của công trình cứu độ trên toàn thể vũ trụ.
b- Đức tin, lời đáp trả sứ điệp (c. 16)
Các lời rao giảng của Cv đều kết thúc bằng một lời kêu gọi hãy thống hối và đón nhận ơn tha tội bằng cách tin vào Chúa Giêsu và nhận lãnh phép rửa. Thành thử đức tin là sự đáp trả lời rao giảng (Cv 2,41; 8,12t; 11,20t; 14,1; 15,7; 17, 11-12.34; Rm 10, 14) và được liên kết với phep rửa một cách minh nhiên trong các bản văn (Cv 2,41; 8,12; 8,36tt; 16;33t). Ở đây cũng vậy, đức tin và việc chịu phép rửa là hậu quả tự nhiên của thái độ đón nghe Sứ điệp, được phát sinh bởi lời rao giảng, hành vi gắn bo đầu tiên với Chúa Kitô bằng đức tin (thì aoriste hy lạp chỉ một hành vi xác định, như trong Cv 2,44; 4,32) là điều kiện của ơn cứu rỗi; và ơn cứu rỗi này, được đặt tương phản với án phạt (trong ngày chung thẩm), xuất hiện như ơn cứu rỗi cánh chung, công trình của Chúa Kitô thẩm phán trong cuộc Quang lâm sau cùng của Người (x. Cv 3,20; 10,42t; 17,3ot; Rm 5, 10; 8,24; 13, 11; Pl 3,24 v.v…). Niềm vui này được tuyên xưng cách công khai trong việc lãnh nhan phép rửa, phép rửa này trở nên như dấu ấn của niềm tin và đem lại cho tín hữu, cùng với ơn tha tội, chính ơn huệ của Thánh Thần, là hoa trái đầu mùa hay là bảo chứng của ơn cứu rỗi (x Rm 8,23; 2Cr 1,22; 5,5; Ep 1,14).
Việc nhắc đến sự luận tội các kẻ không tin, mặc dù được đưa vào theo lối đối chiếu phản đề, vẫn không phải là giả tạo. Đối với Gioan, từ chối không tin chẳng phải là trọng tội và gần như là trọng tội duy nhất đó sao? Nhưng không có vấn đề kết án hỏa ngục cho bao nhiêu người vì ngay tình mà ở ngoài giáo hội (P.Benoit, Passion ét Résurrection du Seigneur. Paris, Cerr, 1966, tr.383-384, nhấn mạnh điều này); các thần học gia giải thích rằng: họ se có thể được cứu thoát nhờ đức tin và nhờ phép rửa bằng ước muốn.
*Các dấu lạ (cc. 17- l8)
Trước khi chết, Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều phép lạ và trừ quỷ dựa trên sức mạnh của lời Người; nhưng các Tin mừng Nhất lãm, vì phản ánh sự dè dặt của Người, nên khi nói về các việc quyền năng đó, đã tránh dùng chữ “dấu chỉ” vốn vẫn được sử dụng bởi đối phương, những kẻ ao ước chuyện ngoạn mục kỳ lạ. Nhưng sự dè dặt này biến mất trong phần còn lại của Tân ước, kể cả đoạn kết của Maccô đây, nơi hai lần đề cập tới việc “tháp tùng” của các dấu chỉ.
Ở câu 17, Chúa Giêsu hứa rằng các dấu chỉ sẽ tháp tùng “những kẻ tin” mà câu trước vừa đề cập tới. Thành thử thoạt nhìn, người ta tưởng đấy không phải là những phép lạ của các sứ đồ, song là những phép lạ được thực hiện bởi các thính giả đã tin; vì thế, Chúa Giêsu chẳng nói ‘các ngươi sẽ trừ quỷ’ nhưng ‘họ sẽ trừ’. Đàng khác, các dấu chỉ lại xuất hiện ở câu 20, với cùng việc sử dụng lạ lùng động từ “kèm theo”, và chúng đóng vai trò củng cố lời của nhóm Mười Một, nhưng tác giả không nói rõ bởi tay ai mà chúng được làm.
Những điểm mơ hồ này có thể được biện minh bằng nhiều cách khác nhau. Không chối bỏ ơn làm phép lạ của nhóm Mười một, tác giả biết rằng họ là những tín hữu đầu tiên đã được hứa ban ơn đó, như Chúa Kitô trong Gioan hàm ý khi tuyên bố với nhóm sứ đồ: “Kẻ nào tin vào Ta, thì các việc làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Ga 14,12). Nhưng tác giả cũng cho hay rằng đặc sủng làm phép lạ, trừ quỷ, nói các thứ tiếng cũng đã được ban cho các tín hữu (x. 1Cr 12,28t), đôi lúc còn cho nhiều môn đồ không công khai nữa (x. Mc 9,38-40). Ông biết ngoài nhóm Mười Một, có nhiều “sứ đồ” khác được hưởng cùng đặc ân, nhất là Phaolô, Barnabe (Cv 14,3…). Sau hết ông cũng cho hay rằng những dấu lạ kèm theo và củng cố lời rao giảng của các sứ đồ không luôn luôn được thực hiện bởi tay họ, nhưng lắm lần Thần Khí xem ra đã hành động trực tiếp trong và qua các thính giả, như trường hợp “nói các thứ tiếng” của Cornêliô (Cv 10 44-46; x. Gl 3,4t…). Chắc hẳn đó là những lý đo giải thích cho thấy: vì vừa muốn vắn gọn vừa muốn chính xác, tác giả đã sử dụng nhiều kiểu nói hơi tối nghĩa và vụng về.
Các dấu chỉ hứa ban và vốn có giá trị như những thí dụ thích hợp với cái thời mà Kitô giáo phát sinh giữa lòng một ngoại giáo mê tín, được soi sáng nhờ sách Công vụ. Phaolô đuổi quỷ (Cv 10, 18) cùng thản nhiên giũ con rắn độc quấn vào tay ông (28,3-5; x. Lc 10, 19). Trong lễ Ngũ Tuần, nhóm Mười Một được xem như nói nhiều thứ tiếng ngoại quốc (2,3-11); trong lúc ở nhiều trường hợp khác, Cornêliô và thân thuộc (10,44-46), nhóm môn đồ của Gioan ở Êphêsô (19,6), những người Côrintô (1Cr 14) và chính Phaolô (14,18) nói một ngoại ngữ xuất thần. Nhờ việc đặt tay, Anania chữa lành Phaolô (Cv 9,12-l7) và Phaolô chữa lành cha của Publius (28,8). Theo lời Papias thì ông Giustô, kẻ từng tranh cử với Matthias để thay chân Giuđa trong Cv 1,23, “đã uống phải thuốc độc nhưng không bị khó chịu chút nào nhờ ơn của Chúa” (Eusèbe, Hiist. Eccl. III,39).
Chúa Giêsu đã tập cho các môn đồ thân tín nhất của Người sử dụng quyền trong chữa bệnh và trừ quỷ (Mt 10,8; Mc 3,15; 6,13; Lc 9,1; 10,9). Bây giờ họ sắp biểu dương, qua các dấu chỉ ấy, quyền lực cứu độ của Đấng phục sinh (chính “nhân danh Người” mà họ sẽ trừ quỷ) và như thế cho thính giả biết rằng lời của họ đáng tin tưởng. Sau họ, và bây giờ cũng thế, Chúa của Giáo hội và của thế giới đã tiếp tục và đôi khi đang tiếp tục “tỏ dấu chỉ” cho con người qua nhiều phép lạ vật ly. Tuy nhiên những phép lạ này đã trở thành một vũ khí rất đặc biệt của các tay thợ Tin mừng để hỗ trợ cho những dấu chỉ thiêng liêng hơn. Đức kiên nhẫn (2 Cr 12, l2) lòng vững tin và tính vô vị lợi (1Tx 2,2-12) Của các nha truyền giáo, phẩm chất nội tại của Sứ điệp, sự hợp nhất và thánh thiện của một cộng đoàn (Ga 13,35; 17,21) làm nên những dấu chỉ thông thường giúp Lời tác động trong các con tim, một khi sự tự do của đức tin và hành động nội tại của Thánh Thần dã được bảo đảm.
*LÊN TRỜI.
c19: “Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Giêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.
Sau khi “đá quả giao banh” cho sứ mệnh các sứ đồ Chúa Giêsu được trình bày như được nhắc về trời để nhận lấy Chúa quyền trên tất cả nhân loại (x. Cv 10,36; Rm 14,9), quyền là các sứ đồ phải loan báo và đề ra cho đức tin của người Hy lạp cũng như người Do thái (Rm 10,9-13), trong lúc chờ đợi quyền đó thi thố hoàn toàn vào ngày Quang lâm của Thẩm phán tối cao. Thật ra, trong câu tóm tắt của mình, tác giả đã gan dạ nối kết, theo một sự liên tục thời gian giả tạo, hai thực tại không cùng một bình diện: mot bên là cuộc tỏ mình hữu hình kết thúc chuỗi Kitô hiện để mô tả cuộc tỏ mình này, tác giả đã mượn công thức “nhắc về trời” từ trình thuật của Cv 1,1-11 bên kia là việc siêu tôn trên trời đi liền với việc Phục sinh (x. Ep 4,10; 1Tm 3,16; Dt 4,14; 6,19t; 9,24 v.v.) (Xem P.Benoit, L’ascension, trong Revue Biblique LVI (1949), tr.161-203 (= Exégèse ét théologie I, Cerf xb, 1961, tr.363-411); và mục Ascension của cùng tác giả trong Vocabulaire de théologie biblique). Dù việc “nhắc lên” này mà Cv 1,3 đã đặt 40 ngày sau Phục sinh và được mô tả cũng bằng những danh từ như cuộc nhắc lên của Elia (2V 2,11) có tính cách đặt chắc trên phương diện lịch sử đến đâu, thì vẫn là một biến co tự bản chất thuộc về chứng từ nhân loại; trái lại cuộc siêu tôn trên trời là một mầu nhiệm chỉ hiểu được bằng lòng tin mà thôi.
Mầu nhiệm tôn vinh Chúa Giêsu trong nhân tính thánh thiện của Người như thế được diễn tả ở đây, cũng như nhiều nơi khác (x. Rm 8,34; Ep 1,20; Cl 3,1; Cv 7,55; Dt 1,3. 13; 8,1; 10, 12; 12,2; 1 Pr 3,2 xem J.Dupont, Etudes sur les Actes des Apôtres (Lectio divina 45), Paris, Cerr, 1967, tl’. 267, 291-294; 385-390) dưới hình ảnh việc ngự bên hữu Thiên Chúa, mượn thánh vịnh 110 (109), Chính khi trích dẫn câu thánh vịnh này phối hợp với đoạn văn Đanien (7,13) gợi lên việc xuất hiện của Con Người trên mây trời, mà Chúa Giêsu đã loan báo trước Công nghị cuoc tỏ hiện sắp tới của thiên sai tính thần linh của Người (Mt 26,64-65), và chính cùng dựa trên bản văn này mà Phêrô, theo Cv 2,34-36, sẽ công bố trong ngày Ngũ Tuần: “Thiên Chúa dã đặt Người làm Chúa và làm Kitô”. Khi phuc sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã siêu tôn và phong Người làm Chúa: Ngài đã ban cho người “Danh hiệu vượt trên mọi đanh hiệu” (Pl 2,9) nghĩa là đã làm rạng rỡ thần tính trên nhân tính được tôn vinh của Người, và như thế thiết lập vương quyền phổ quát cho Người.
*LÊN ĐƯỜNG THỰC THI SỨ MỆNH
c20: “Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bằng những phép lạ kèm theo”. Không nhắc tới việc Thần khí đến cũng chẳng xác định họ ra đi từ đâu, nhưng “trình bày việc rao giảng Tin mừng theo gương chim bay” (Lagrange), tác giả cho ta thấy nhóm Mười Một trao ban Sứ điệp đến khắp mọi nơi mọi chốn. Mối bận tâm của ông là quả quyết rằng: trong mọi hoạt động truyền giáo của họ, các sứ đồ và sau họ là Giáo hội mọi thời, có thể tin tưởng vào sự hiện diện vô hình nhưng hữu hiệu của Chúa Kitô đang sống trên trời với tất cả quyền lực Kyrios. Không những Chúa Giêsu củng cố, bằng những dấu lạ, lời của các sứ giả Tin mừng (so sánh với Dt 2,3 1) như Người đã loan báo trong các 17-18, mà còn kết hợp “năng lực” của Đấng Phục sinh với nỗ lực của các sứ giả khiêm cung của Ngươi. Dưới một hình thức khác, nó cũng là ý tưởng của Mt 20,28: “Hãy đi… và này Ta ở với các ngươi mọi ngày cho tới tận thế”.
KẾT LUẬN
Khi hiện ra với mười một môn đồ vốn chậm tin vào sự phục sinh của Người như thế, Chua Giêsu đã biến cải họ đến độ thành những nhà rao giảng gan dạ của Tin mừng, thành nền móng của Giáo hội Người lập. Nhờ họ, nhờ Phaolô và nhờ biết bao kẻ khác, Giáo hội đã lan rộng khắp hoàn vũ; nhưng còn lâu Giáo hội mới tin mừng hóa được thế giới và nhiệm vụ vẫn luôn tiếp tục. Vì thế, Chúa không ngừng nhắc nhở rằng Người hằng ở bên cạnh Giáo hội, hay đúng hơn trong Giáo hội với quyền năng soi sáng và thánh hóa mà cuộc siêu tôn trên trời đã mang lại cho Người, để khắp nơi và mọi thời, Tin mừng được cống hiến cho nhân loại và để những bảo chứng của ơn cứu rỗi được đổ tràn trên họ nhờ đức tin “thi thố bằng đức mến” (Gl 5,6). Cho các Kitô hưu nguội lạnh hay xao xuyến, cho tất cả chúng ta mà lòng dấn thân truyền giáo cần được khêu gợi, phấn kích, tăng cường. Mầu nhiệm Lên Trời nhắc nhớ rằng Chúa Kitô vinh quang luôn luôn hiện diện chủ động với Giáo hội va rằng Người cần đến chúng ta để tỏ tình ra cùng thế giới, “cho tới khi người đến lại” (1Cr 11,26). Maranatha!
Paul Ternant, Assemblées du Seigneur 28. tr.38-48
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*1) Việc Chúa Giêsu Kitô lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha là cao điểm của cuộc Tử nạn phục sinh vinh hiển của Người. Từ đây, một khi đã sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô không bao giờ chết nữa, cái chết chẳng còn quyền hành chi trên người (x. Rm 6,9). Người đã tiêu diệt sự chết để chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời; Người lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền Người (x. 1Pr 3,22).
*2) Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, ta hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: “Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng” (Đường Hy vọng 679).
*3) Đối với các môn đồ, việc Chúa Giêsu Kitô lên trời muốn dạy một bài học cụ thể: “Thành Đô chúng ta là ở trên trời” (Pl 3,20); “Anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Chúa Kitô đang ngự” (Cl 3,1). Điều đó không có nghĩa là phải xuất thế, xa lánh trần gian. Trái lại phải nỗ lực nhập cuộc, dấn thân: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho tất cả thụ tạo” (Mc 16, 15).
*4) “Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và bảo đảm lời giảng bằng những phép lạ đi kèm”. Khi thành công, người tông đồ không tự mãn vì ý thức rằng kết quả có được là bởi Chúa: “Không có Ta, các con không làm đươc việc gì” (Ga 15,5).
Lúc thất bại, người tông đồ không nản chí, tuyệt vọng: “Hãy nhìn lên Thánh giá, ôm choàng lấy Thánh giá và con sẽ thinh lặng đứng vững như Mẹ Maria” (x. Đường Hy vọng số 694).
*5) Chúa Giêsu không còn hiện diện trên trái đất này như xưa, nhưng vẫn còn hiện diện cách hữu hình trong Hội Thánh hữu hình, trong lời Tin Mừng, trong các bí tích, trong những kẻ thay mặt Người. Chúa Giêsu còn hiện diện để kiện toàn Nước Thiên Chúa với chúng ta, là những kẻ phải làm chứng cho Người, phải làm cho trần gian thấy Người. Tại sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời? Phải dùng ơn Chúa ban mà xây dựng nước Trời ngày này sang ngày khác, trong bác ái, hy sinh, khiem tốn, để làm cho con người sống xứng đáng nhân phẩm, để loại trừ khổ đau và tội lỗi, để mọi người biết sống công bình, hòa thuận, yêu thương.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
- Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI- ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong Mùa Phục sinh, lời cầu nguyện của Giáo Hội trong Phụng vụ luôn diễn tả niềm vui. Đó là niềm vui tái sinh, làm cho người tín hữu trở nên con người mới trong Chúa Giêsu Phục sinh. Đó cũng là niềm vui vì có Chúa Phục sinh đang hiện diện, là nguồn mạch sức sống, ân sủng và bình an. Niềm vui của cộng đoàn Giáo Hội và của mỗi người tín hữu không dừng lại khi Mùa Phục sinh kết thúc, nhưng còn được tiếp tục và dàn trải trong suốt cuộc đời. Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy trở nên những nhân chứng của niềm vui thiêng liêng thánh thiện ấy.
Trình thuật về việc Chúa Giêsu lên trời trong sách Công vụ Tông đồ được đề nghị cho cả ba năm A,B,C. Bởi lẽ đây là biến cố để lại nơi các môn đệ dấu ấn quan trọng. Đó là lần cuối cùng các ông được gặp gỡ Chúa ở trần gian. Cuộc tiễn đưa này, vừa lưu luyến bịn rịn, vừa vui mừng và hy vọng. Các ông đã được chuẩn bị trước cho cuộc chia tay này bằng các lời giáo huấn của Chúa. Các ông cũng được Chúa hứa sẽ ban Thần Chân lý, Đấng bảo trợ để soi sáng và hướng dẫn các ông. Về phần các ông, Chúa trao phó sứ mạng quan trọng và rõ ràng: “Anh em hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Khởi đi từ Giêrusalem, là thành thánh và là thủ đô của Do Thái giáo, lời chứng về Đấng Phục sinh đi đến với Samari là một dân tộc có nhiều thù nghịch với người Do Thái, rồi từ đó đến với mọi mọi nơi trên thế giới. Hai mươi thế kỷ đã qua, khởi đi từ nhóm mười một người dân chài người Galilêa, ánh sáng Tin Mừng đã được tỏa lan đến mọi nền văn hóa trên khắp địa cầu, đến với mọi quốc gia, mặc dù còn những thù nghịch, nghi kỵ hay mặc cảm thành kiến.
Tác giả sách Công vụ Tông đồ còn kể lại, sau khi dặn dò các môn đệ, Chúa Giêsu “được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người”. “Đám mây” mà tác giả nói tới ở đây là biểu tượng vinh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là hình ảnh nói lên sức mạnh và quyền năng của Đấng Tối cao. Đức Giêsu lên trời là tiến vào vinh quang vĩnh cửu của Chúa Cha. Người kết thúc cuộc đời trần thế khi hoàn thành sứ mạng cứu thế. Chúa Giêsu về trời mang theo nhân tính của Người, và cùng với nhân tính ấy, cả nhân loại hy vọng cũng sẽ được về trời với Người. Nói cách khác, qua biến cố Đức Giêsu về trời, chúng ta là những con người cũng hy vọng sẽ được về trời vinh quang với Chúa, vì Chúa mang trong mình bản tính nhân loại giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Bài Tin Mừng Thánh Mátthêu tiếp tục diễn tả lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ: “Anh Em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây cũng là một cách diễn tả khác của lệnh truyền hãy trở nên chứng nhân của Chúa giữa trần gian. Việc phát triển cộng đoàn tín hữu khởi đi từ những chứng nhân khả tín của mỗi cá nhân, nhờ đó nhiều người nhận ra giáo huấn của Chúa và gia nhập Giáo Hội của Người.
“Hỡi các người Galilê, sao còn đứng đó nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Chúng ta không cử hành lễ Thăng Thiên như sự ly biệt buồn bã u sầu. Trái lại, chúng ta mừng lễ này với niềm vui vì tin rằng Đấng Phục sinh đang tiếp tục hiện diện thiêng liêng và vô hình giữa cuộc sống của chúng ta. Giáo Hội diễn tả niềm vui ấy qua Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên: “Người lên trời, không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước”.
Như các tông đồ đã xuống núi sau khi chứng kiến Chúa Giêsu lên trời, mỗi tín hữu chúng ta cũng đi vào lòng cuộc đời để làm chứng cho Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không còn hiện diện thể lý như trước đây, thì nay Người hiện diện nơi cuộc sống thấm đượm niềm vui của người tín hữu. Vì thế, họ được mang danh Kitô hữu. Nhờ được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu có can đảm và nghị lực để trở thành những chứng nhân cho Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương con người và để cứu chuộc trần gian. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy xác tín điều đó. Vị Tông đồ dân ngoại đã cầu xin cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng chúng ta đã nhận được, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú chúng ta được chia sẻ và đâu là quyền lực vô biên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy (Bài đọc II). Khi xác tín những điều trên, cuộc sống của chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui mừng hân hoan.
Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là kết thúc, nhưng là khởi đầu một chặng đường mới, chặng đường của chứng nhân. Mỗi chúng ta hãy lên đường, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa, như Người đang mời gọi chúng ta.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
ĐƯỜNG VỀ TRỜI– Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Trong Mùa Phục sinh, lời cầu nguyện của Giáo Hội trong Phụng vụ luôn diễn tả niềm vui. Đó là niềm vui tái sinh, làm cho người tín hữu trở nên con người mới trong Chúa Giêsu Phục sinh. Đó cũng là niềm vui vì có Chúa Phục sinh đang hiện diện, là nguồn mạch sức sống, ân sủng và bình an. Niềm vui của cộng đoàn Giáo Hội và của mỗi người tín hữu không dừng lại khi Mùa Phục sinh kết thúc, nhưng còn được tiếp tục và dàn trải trong suốt cuộc đời. Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy trở nên những nhân chứng của niềm vui thiêng liêng thánh thiện ấy.
Trình thuật về việc Chúa Giêsu lên trời trong sách Công vụ Tông đồ được đề nghị cho cả ba năm A,B,C. Bởi lẽ đây là biến cố để lại nơi các môn đệ dấu ấn quan trọng. Đó là lần cuối cùng các ông được gặp gỡ Chúa ở trần gian. Cuộc tiễn đưa này, vừa lưu luyến bịn rịn, vừa vui mừng và hy vọng. Các ông đã được chuẩn bị trước cho cuộc chia tay này bằng các lời giáo huấn của Chúa. Các ông cũng được Chúa hứa sẽ ban Thần Chân lý, Đấng bảo trợ để soi sáng và hướng dẫn các ông. Về phần các ông, Chúa trao phó sứ mạng quan trọng và rõ ràng: “Anh em hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, Samari và cho đến tận cùng trái đất”. Khởi đi từ Giêrusalem, là thành thánh và là thủ đô của Do Thái giáo, lời chứng về Đấng Phục sinh đi đến với Samari là một dân tộc có nhiều thù nghịch với người Do Thái, rồi từ đó đến với mọi mọi nơi trên thế giới. Hai mươi thế kỷ đã qua, khởi đi từ nhóm mười một người dân chài người Galilêa, ánh sáng Tin Mừng đã được tỏa lan đến mọi nền văn hóa trên khắp địa cầu, đến với mọi quốc gia, mặc dù còn những thù nghịch, nghi kỵ hay mặc cảm thành kiến.
Tác giả sách Công vụ Tông đồ còn kể lại, sau khi dặn dò các môn đệ, Chúa Giêsu “được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người”. “Đám mây” mà tác giả nói tới ở đây là biểu tượng vinh quang của Thiên Chúa. Đây cũng là hình ảnh nói lên sức mạnh và quyền năng của Đấng Tối cao. Đức Giêsu lên trời là tiến vào vinh quang vĩnh cửu của Chúa Cha. Người kết thúc cuộc đời trần thế khi hoàn thành sứ mạng cứu thế. Chúa Giêsu về trời mang theo nhân tính của Người, và cùng với nhân tính ấy, cả nhân loại hy vọng cũng sẽ được về trời với Người. Nói cách khác, qua biến cố Đức Giêsu về trời, chúng ta là những con người cũng hy vọng sẽ được về trời vinh quang với Chúa, vì Chúa mang trong mình bản tính nhân loại giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Bài Tin Mừng Thánh Mátthêu tiếp tục diễn tả lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ: “Anh Em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đây cũng là một cách diễn tả khác của lệnh truyền hãy trở nên chứng nhân của Chúa giữa trần gian. Việc phát triển cộng đoàn tín hữu khởi đi từ những chứng nhân khả tín của mỗi cá nhân, nhờ đó nhiều người nhận ra giáo huấn của Chúa và gia nhập Giáo Hội của Người.
“Hỡi các người Galilê, sao còn đứng đó nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Chúng ta không cử hành lễ Thăng Thiên như sự ly biệt buồn bã u sầu. Trái lại, chúng ta mừng lễ này với niềm vui vì tin rằng Đấng Phục sinh đang tiếp tục hiện diện thiêng liêng và vô hình giữa cuộc sống của chúng ta. Giáo Hội diễn tả niềm vui ấy qua Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên: “Người lên trời, không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước”.
Như các tông đồ đã xuống núi sau khi chứng kiến Chúa Giêsu lên trời, mỗi tín hữu chúng ta cũng đi vào lòng cuộc đời để làm chứng cho Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không còn hiện diện thể lý như trước đây, thì nay Người hiện diện nơi cuộc sống thấm đượm niềm vui của người tín hữu. Vì thế, họ được mang danh Kitô hữu. Nhờ được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu có can đảm và nghị lực để trở thành những chứng nhân cho Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương con người và để cứu chuộc trần gian. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy xác tín điều đó. Vị Tông đồ dân ngoại đã cầu xin cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng chúng ta đã nhận được, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú chúng ta được chia sẻ và đâu là quyền lực vô biên Chúa đã tỏ cho chúng ta thấy (Bài đọc II). Khi xác tín những điều trên, cuộc sống của chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui mừng hân hoan.
Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là kết thúc, nhưng là khởi đầu một chặng đường mới, chặng đường của chứng nhân. Mỗi chúng ta hãy lên đường, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa, như Người đang mời gọi chúng ta.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN-B
GÓP PHẦN KIẾN TẠO THIÊN ĐƯỜNG ĐỜI SAU NGAY TỪ HÔM NAY- Lm. Đan Vinh HHTM
*TIN MỪNG: Mc 16,15-20.
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
*Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi loài thụ tạo, để ai tin và chịu phép rửa thì được tái sinh làm con Thiên Chúa và được sống đời đời. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án. Chúa còn hứa ban quyền làm những dấu lạ cho các Tông đồ. Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.
*CHÚ THÍCH:
– C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng cho sứ mạng tông đồ. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người đã trao sứ mạng “loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” cho các Tông đồ. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin hạnh phúc”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là “Tin Mừng được Đức Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ tạo: Mọi loài thọ tạo mang ý nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi trần gian nên Trời Mới Đất Mới vào ngày Tận Thế (x. Kh 21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người mới và nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời. + Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Còn kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa nên đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên sẽ khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời ở đời sau (x. Ga 15,5-6). +Còn những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được hưởng ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì “Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn”. Chỉ những kẻ cố tình theo ma quỷ làm điều gian ác và cố chấp không hồi tâm sám hối, thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục, nơi dành cho các đầy tớ bất trung, “những kẻ đạo đức giả. Ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (x. Mt 24,51a), cũng là nơi “dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
– C 17-18: +Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Chúa Giê-su Phục Sinh đã trao lại cho các ông quyền làm các dấu lạ ấy. +Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), các Tông đồ đã làm nhiều dấu lạ. Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, sau khi nhận được đầy ơn Thánh Thần, các Tông đồ đã nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân qua các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv 14,8-10) ; Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
– C 19-20: +Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Các Vua đã “lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su Phục Sinh cũng được rước lên trời trên các tầng mây. Từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa. +Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14; Cv 2,34), được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18), ngang hàng với Thiên Chúa (x. Ep 1,21). Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giê-su vì cho Người chỉ là phàm nhân mà dám phạm thượng khi nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa (x. Mc 14,62-64). Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa không có nghĩa là lìa xa con người, nhưng có nghĩa: Người được tôn vinh lên ngang hàng với Thiên Chúa. Là Thiên Chúa nhập thể làm người, là “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. + Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi khắp nơi loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). +Có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Chúa Phục Sinh đã hiện ra thổi hơi ban Thần Khí cho các Tông đồ để ban quyền tha tội (x Ga 20,21-22), và vào lễ Ngũ Tuần, Thần Khí hay Thánh Thần đã được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai để giúp Hội Thánh chu toàn sứ vụ ngôn sứ là loan báo Tin Mừng khắp thế gian (x. Cv 2,18).
*CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mạng được sai đi? Các Tông đồ được Chúa Phục Sinh sai đến với những người nào?
2) Tin Mừng của Đức Giê-su có những ý nghĩa thế nào?
3) Để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su, đòi ta phải có những điều kiện nào?
4) Những ai chắc chắn sẽ bị kết án sa hỏa ngục? Những người tuy chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được Chúa ban ơn cứu độ không?
5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền nào?
6) Trườc khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao sứ vụ loan Tin Mừng cho các Tông đồ kèm theo những gì?
7) Lời Chúa tiên báo về các dấu lạ đi kèm với lời rao giảng của các Tông đồ đã được ứng nghiệm thế nào trong thời Giáo Hội Sơ Khai?
8) Trong thời Cựu Ước, ngôn sứ nào đã được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Mầu nhiệm thăng thiên của Chúa Giê-su khác với mầu nhiệm mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao?
9) So sánh hai lệnh truyền của Chúa Giê-su trước khi lên trời trong Tin Mừng Mat-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x Mt 28,19), và trong Công vụ Tông đồ “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?
10) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su có còn hiện diện trong Hội thánh nữa không?
11) Chúa Phục Sinh thổi ban Thần Khí cho các Tông đồ nhằm mục đích gì?
*II.SỐNG LỜI CHÚA
*LỜI CHÚA: Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng (Mc 16,19-20).
*CÂU CHUYỆN:
*1) Phải chăng không có Thiên Đàng ?
Do hiểu Thiên đàng chỉ là một nơi cực lạc về vật chất nên vào ngày 5.9.1961 Thủ tướng Liên xô cũ là ông KÚT-XẾP (Kroutchev) đã nói với ký giả SUN-BÉC-GƠ (Sulberger) rằng : ”Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung: anh GIU-RI GA-GA-RIN (Youri Gagarine). Anh này đã đi vòng quanh trái đất mà cũng chỉ quan sát thấy những bóng đen dầy đặc, chứ không có gì như thiên đàng cả. Sau đó, chúng tôi đã suy nghĩ và gửi thêm một thám tử khác nữa lên là GIƠ-MEN TI-TỐP (German Titov). Chúng tôi đã bảo anh ta rằng : ”Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Ga-ga-rin chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng ta chỉ mới bay có một tiếng rưỡi đồng hồ thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”. Ti-tốp đã ra đi rồi sau khi trở về, anh đã xác nhận lời tuyên bố của Ga-ga-rin: ”Hư vô ! Chỉ có hư vô!” là đúng. Rồi cuối cùng Kút-xếp xoa tay kết luận: ”Cho nên chúng tôi không tin có đời sau”. (Information catholique ngày 1.10.1961, tr 14).
Tuy nhiên đối với những người không có đức tin vào Thiên Chúa và vào thế giới siêu nhiên, thì làm sao có thể nhìn thấy Thiên Chúa hay thấy Thiên đàng bằng cặp mắt thường được?
*2) Thiên đàng hỏa ngục hai bên:
Cách đây ít lâu thập niên 50, ở miền Nam Việt Nam các trẻ em thường chơi trò mà nội dung có ý nghĩa giáo dục rất lớn về hạnh phúc Thiên Đàng và bất hạnh của Hỏa Ngục như sau:
Hai em được đề cử sẽ đứng đối diện với nhau và giơ hai cánh tay lên nắm vào nhau để làm thành cánh cửa Thiên Đàng. Các em khác thì xếp hàng một, người sau đặt hai bàn tay lên vai người trước và nối đuôi nhau đi qua cánh cửa Thiên Đàng, trong lúc mọi người chơi đều hát một bài ca đồng dao theo cung giọng chung như sau:
“Thiên Đàng địa ngục hai bên,
Ai khôn thì lại, ai dại thì qua.
Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha,
Đọc kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn.
Linh hồn phải giữ linh hồn,
Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”.
Cuộc chơi bắt đầu khi các em vừa hát bài đồng dao vừa di chuyển chầm chậm chui qua cửa Thiên Đàng. Nhưng khi bài hát gần hết, các em sẽ phải đi nhanh hơn. Khi hát tới câu “Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”, thì cánh cửa Thiên Đàng do hai em trấn giữ sẽ đóng sập xuống. Những em chưa qua được cửa Thiên Đàng đương nhiên sẽ bị kẹt lại trong hỏa ngục, và phải chịu hình phạt như hít đất, thụt dầu hay nhéo lỗ tai, v.v…
*3) So sánh Thiên đàng và hỏa ngục giống và khác nhau thế nào?
Ngày xưa có ông vua triệu vời một đạo sĩ vào triều để hỏi xem Thiên Đàng và Địa Ngục là có thật hay chỉ là sự hoang đường mê tín. Đạo sĩ mời vua nằm ngủ đầu dựa trên chiếc gối có phép mầu. Vua vừa nằm ngủ liền xuất hồn ra khỏi xác đi theo vị đạo sĩ, vào trong một căn phòng lớn. Giữa phòng có đặt một nồi cháo thật to đáng bốc khói, bốc ra mùi cháo thơm phức. Chung quanh nồi cháo có rất đông người ốm đói đang chen lấn nhau rất mất trật tự. Mỗi người cầm trên tay một cái muỗm có cán dài quá khổ. Ai nấy đều cố giành cho mình được quyền vào múc cháo trước. Nhưng vì cán muỗm quá dài, nên họ chỉ múc được cháo mà không thể đưa muỗm cháo tới gần miệng để ăn. Họ tranh cãi nhau ồn ào như một cái chợ. Có kẻ còn dùng muỗm đánh nhau làm cháo đổ văng tung tóe. Vua lắc đầu ngao ngán: “Đúng thật là hỏa ngục!”
Vua lại thấy hồn mình đi theo đạo sĩ bước vào căn phòng lớn thứ hai, cũng có nồi cháo thật to đang bốc mùi cháo thơm phức như vậy và có rất đông người đứng gần đó. Mỗi người đều cầm một cái muỗm có cán khá dài. Nhưng những người ở đây lại xếp hàng trật tự để lần lượt chờ tới phiên mình. Khi múc được cháo, họ không thể đưa vào miệng mình nên đã đưa muỗm cháo cho người ở bên cạnh ăn. Vị biết nhường nhịn và quảng đại chia sẻ cháo cho nhau nên mọi người đều được ăn no. Ai nấy đều cảm thấy vui và bầu khí trong phòng thật an bình hạnh phúc. Vua thấy vậy liền gật gù và nói: “Đây thật là một Thiên Đàng hạnh phúc!”
Câu chuyện trên cho thấy Thiên Đàng và Hỏa Ngục nói chung rất giống nhau. Chỉ khác nhau ở chỗ người ta có biết nghĩ đến nhau và biết cách ứng xử với nhau bằng tình thương hay không. Tình thương phải được thể hiện qua thái độ biết nghĩ đến nhau, nhẫn nhịn chịu đựng nhau và hay tha thứ cho nhau, biết tôn trọng lẫn nhau, tránh thói ích kỷ và biết khiêm tốn phục vụ và làm vui lòng nhau hay không thôi.
*THẢO LUẬN:
*1) Thiên Đàng là gì? 2) Thiên Đàng ở đâu? 3) Ta phải làm gì ngay từ bây giờ để sau này sẽ được sống an vui hạnh phúc với Chúa trên Thiên Đàng?
*SUY NIỆM:
*1) Thiên Đàng hay Địa Đàng là gì?:
– Thiên Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) nghĩa là Hoa viên hay khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ (x St 2,8). Theo Kinh Thánh, Địa đàng là một khu vườn hoan lạc, nơi con người được sống trong bình an hạnh phúc. Đầu tiên Thiên Chúa đã dựng nên một khu vườn có nhiều hoa trái tươi xinh, có suối nước trong và rất nhiều thú vật hiền hòa đều sinh sống bình an hòa thuận với nhau. Rồi đến lượt ông bà nguyên tổ Ađam Evà được Chúa dựng nên và nhận làm nghĩa tử. Chúa cho hai người ở trong Vườn Địa Đàng (Eđen), và trao cho họ nhiệm vụ coi sóc canh tác vườn (Stk 2). Nhưng Nguyên tổ Ađam Evà do tội kiêu ngạo, đã cãi lệnh truyên của Thiên Chúa, nghe lời cám dỗ của con rắn ma quỷ để ăn quả cây Chúa cầm, hầu được theo sở thích của mình và không bị lệ thuộc vào Chúa nữa. Do phạm tội Tổ Tông này nên hai ông bà đã bị truất quyền làm nghĩa tử, bị đuổi ra khỏi Địa đàng, phải vào sống trong thung lũng trần gian đầy gai góc, nước mắt đau khổ với nhiều tai ương hoạn nạn bệnh tật và cuối cùng còn phải chết (x. St 3,7.16-19).
– Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc loài người chết trong tội lỗi muôn đời, nên đã hứa ban một Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi người nữ đến, với nhiệm vụ chịu hình phạt chịu đóng đinh chân tay vào thập giá để chịu chết đền tội thay cho loài người, hầu khôi phục lại tình trạng hoan lạc và hạnh phúc đời đời cho loài người (x. St 3,15). Đức Giê-su đã mở ra một con đường mới để dẫn đưa loài người về giao hòa với Thiên Chúa. Người biến trần gian là nơi lưu đầy trở thành Nước Trời bình an hạnh phúc, trở lại tình trạng Thiên Đàng ban đầu khi mới được tao thành (x. Ed 36,35; Is 51,3), trở thành “Trời Mới Đất Mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3,13; Kh 21,1), trở thành Miền Đất Hứa cho dân It-ra-en Mới là Hội Thánh trở về quê hương đời sau.
*2) Thiên Đàng ở đâu?
– Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi đầy hoan lạc bình an và hạnh phúc. Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Phi-lip-phê đề cập đến quê hương Thiên Đàng như sau: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
– Thiên Đàng không phải ở đâu xa, mà ở đâu có tình yêu, có hòa bình, không chém giết hận thù nhau, mọi người sống chung hòa hợp và hạnh phúc thì nơi đó là Thiên Đàng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm về triều đại hòa bình của Đấng Thiên Sai:
“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,6-9).
Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng đời sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Tóm lại, Nước Trời hay Thiên Đàng có thể không ở đâu xa, mà ở trong lòng mỗi người, trong cộng đoàn ta đang sinh hoạt. Thiên Đàng hay Triều Đại của Thiên Chúa không phải thuộc vật chất nên chúng ta không trông thấy được như lời Đức Giê-su nói: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” Hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,20-21). Ai yêu thương thì người ấy đang sống trong Nước Trời hay đang hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Còn ai không yêu thương sẽ bị loại ra ngoài Nước Trời, “Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13,50).
*3) Kiến tạo Thiên đàng đời sau bằng việc gieo việc tốt yêu thương từ đời này:
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một cha Bề Trên có tiếng là đạo đức của một dòng tu trong vùng và hỏi cha rằng:
– Thưa cha, cha có tin có Thiên Chúa không ?
Cha Bề Trên trả lời:
– Có chứ. Tôi tin.
– Nhưng dựa vào đâu mà cha lại tin như thế ?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nghiệm được Ngài ở trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao mà cha cảm nhận được như thế ?
– Khi chúng ta yêu thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi trong ta sẽ tan biến như những giọt sương mai sẽ tự nhiên tan biến dưới ánh nắng mặt trời.
Chàng thanh niên suy nghĩ một lúc rồi hỏi tiếp :
– Xin cha chỉ rõ cho con phải làm gì để tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa?
– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn.
Cha bề trên chẳng nói gì khác hơn điều Tông Đồ Gio-an đã viết như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu”. Nhà danh họa Van Gogh cũng nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc nhận biết Chúa và yêu mến Chúa. Không yêu Chúa thì sẽ không nhận biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì vực thẳm này được lấp đầy ngay. Yêu Chúa là nhận biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa và là Thiên Đàng, cũng như nơi nào có Chúa thực sự thì nơi đó chắc chắn sẽ có tình yêu đang ngự trị và trở thành Thiên Đàng.
*4) Hiện nay công trình cứu chuộc của Chúa cần chúng ta góp phần hoàn tất:
Công trình cứu độ loài người của Thiên Chúa gồm hai phần: Đức Giê-su đã hoàn tất phần đầu thuộc về Thiên Chúa là nhập thể và mở ra con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” để cứu độ nhân loại. Nhưng việc cứu độ chỉ hoàn tất với sự cộng tác của các tín hữu với ơn Thánh Thần để nhận được ơn tha tội và tích cực cứu độ anh em.
Vì thế, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nhắc lại cho các môn đệ sứ vụ loan báo Tin Mừng để làm cho chương trình cứu độ được hoàn thành nơi mỗi người tín hữu, rồi mọi người cùng góp phần cải thiện môi trường mình đang sống ngày một sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, để khu phố, xí nghiệp, cơ quan… mình đang làm việc trở thành Thiên Đàng yêu thương, mang lại bình an hạnh phúc là dấu chỉ sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trên Thiên Đàng.
Chúa Phục Sinh đã trao trách nhiệm cho các Tông Đồ cũng là cho mỗi tín hữu hôm nay là phải làm chứng nhân cho tình thương của Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Vậy gieo yêu thương để làm chứng cho Chúa hôm nay, đòi mỗi người chúng ta phải tha thứ, nhịn nhục, thăm viếng, giúp đỡ những người khó ưa sống chung trong gia đình, trong các đoàn thể của giáo xứ, nơi trường học, chợ búa, xí nghiệp, cơ quan, và bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện…
*LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi Chúa về trời, sứ thần đã nhắc nhở các môn đệ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn cứ đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời (Cv 1,10-11). Lạy Chúa, bấy lâu nay chúng con đã lơ là với lệnh Chúa truyền loan báo Tin Mừng. Chúng con thường chữa lỗi mình rằng: Tôi lo cho mình chưa xong, làm sao dám lo cho người khác! Tôi phải tối ngày lo kiếm tiền nuôi gia đình nên không có giờ rảnh để tham gia sinh hoạt hội đoàn; Chúng con thường nhát đảm sợ hãi khi đối diện với những lời chống đối hay chối từ… nên đến hôm nay chúng con vẫn chưa làm được gì cho Chúa. Xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng một đời sống vị tha bác ái, luôn nghĩ đến tha nhân. Xin cho chúng con biết chiếu ánh sáng của Chúa ra trước mặt người đời và trở nên muối ướp thiên hạ khỏi hư hỏng. Xin cho chúng con luôn sống chan hoà, như nắm men được hòa lẫn vào ba đấu bột, để cả khối bột là học đường, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm, giáo xứ… được dậy lên men tình yêu mến Chúa.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
*Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
CHÚA VỀ TRỜI- Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Chúa Giêsu sống lại là một mầu nhiệm khó hiểu, khó tin. Chúa lên trời càng là mầu nhiệm khó khiểu, khó tin hơn. Vì xưa nay chưa ai tự mình có khả năng đưa thân xác nặng nề bay bổng lên trời cao được. Nhưng sự gì con người làm không được, thì Thiên Chúa làm được. Đúng thế, cách đây gần 2000 năm, Chúa Giêsu đã dùng quyền năng mình bay bổng về trời.
Thánh kinh tả cảnh Chúa về trời như sau: Sau khi sống lại 40 đêm ngày, Ngài dẫn 11 tông đồ và 1 số đông tín hữu khác lên núi cao, ở đó Ngài phán một câu chứng tỏ Ngài đầy uy quyền: “Ta đã được mọi quyền trên trời dưới đất”.
– Và trước khi Chúa về trời, Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ tiếp tục công việc của Ngài ở trần gian: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, và làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
– Ngài còn an ủi, khích lệ các tông đồ: “Thầy không để chúng con mồ côi. Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Nói đoạn, Ngài từ từ bay bổng lên trời, cho tới khi mây che không còn thấy Ngài nữa. Mắt họ dán lên trên trời cao, như nuối tiếc, như ước mong. Họ cứ đứng ngẩn người, cho tới khi hai Thiên Thần hiện ra bảo họ: “Hỡi người xứ Galilêa, các người còn đứng nhìn trời làm chi?”. Lúc đó, họ mới hoàn hồn. Họ trở về nhà tiệc ly để cầu nguyện và chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Nhưng tại sao Chúa về trời?
– Chúa về trời, hay về thiêng đàng là nơi Chúa ngự, là nơi vĩnh phúc, là nơi các Thiên Thần và các thánh hưởng nhan Chúa.
Người tín hữu sống đạo là theo Chúa. Nhưng làm sao theo Chúa về thiên đàng?
– Muốn được về thiên đàng với Chúa, chúng ta phải giữ giới răn Chúa: Một chàng thanh niên đến hỏi Chúa: “Làm sao để được sống đời đời?”. Chúa trả lời: “Hãy tuân giữ giới răn Chúa…giữ giới răn Chúa sẽ hạnh phúc thiên đàng”.
– Muốn được về thiên đàng, ta phải theo Chúa: “Chúa Giêsu đã phán: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Ai tin Thầy không đi trong tối tăm, không bước đi trong sai lầm, sẽ sống mãi ngàn năm”.
– Muốn được vào thiên đàng, ta phải trung thành với Chúa: Chúa Giêsu đã từng dạy: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu độ”.
Kẻ chạy đua trong vận động trường, muốn đoạt giải thưởng phải cố gắng từ đầu và “nước chót” càng phải cố gắng hơn. Thiên đàng cũng dành cho những kẻ cố gắng và cố gắng đến cùng.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài nói với các tông đồ: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho chúng con”. Nhưng muốn dành được một chỗ trên nước trời, chúng ta phải tuân giữ giới răn Chúa, chúng ta phải đi theo Chúa, và phải trung thành với Chúa đến cùng.
Lạy Con Một Chúa, Đấng cứu độ chúng con đã lên trời, xin cho chúng con sau này cũng được về trời với Chúa.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN-B
CÙNG LOAN TIN MỪNG VỚI CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?
Xin mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.
Nhưng nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều khôn ngoan y như nhau.
Thế đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món quà đó như nhau.
Tương tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.
Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?
Là để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin mừng như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20) Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua chúng ta.
Nhưng có người tự nghĩ rằng: Bản thân tôi yếu kém mọi bề, làm sao tôi có thể tham gia vào sứ mạng cứu độ của Chúa Giê-su được? Xin hãy tin rằng điều này có thể được nếu chúng ta biết tựa nương vào Chúa.
Lúc mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho tôi viết nên những con chữ đầu đời.
Hôm nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin mừng và cứu độ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Còn rất nhiều người chưa nhận biết Tin mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin mừng về Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng ta hay không.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin mừng được thấm nhập vào tâm hồn mọi người, và Chúa muốn thực hiện khát vọng đó qua những người phàm yếu đuối như chúng con.
Xin giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng, biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để Chúa viết nên những trang Tin mừng trong tâm hồn nhân loại.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SBD
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”
Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).
Đối với Ki-tô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Ki-tô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.
Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giê-su, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Ki-tô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).
Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ – chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ – chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ – sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ – sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Ki-tô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Ki-tô Giê-su, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’
Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.
Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để – vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. A-men.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
SAO CÒN ĐỨNG NHÌN?- Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong bài đọc I, một thiên thần nói với các môn đệ: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1, 11).
Đây là một dịp để chúng ta làm sáng tỏ một lần cho tất cả khái niệm “thiên đàng” hay “trời” mà chúng ta nói đến có ý nghĩa gì. Trong quan niệm của hầu hết mọi người, nói đến trời là nói đến nơi cư ngụ của Thần Linh. Ngay cả Kinh Thánh cũng sử dụng ngôn ngữ theo nghĩa không gian này: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14).
Nhưng với sự ra đời của kỷ nguyên khoa học, tất cả những ý nghĩa tôn giáo này được áp dụng cho từ “trời” hôm nay bị khủng hoảng. Các tầng trời là không gian mà trong đó hành tinh của chúng ta và toàn bộ thái dương hệ di chuyển, và không có gì khác. Có lẽ tất cả chúng ta đều nghe lời tuyên bố của phi hành gia Liên Xô, sau khi trở về từ chuyến đi của mình vào không trung: “Tôi đã bay vào không trung một thời gian dài và tôi không hề gặp thấy Thiên Chúa ở đâu cả!”
Do đó, thật là quan trọng để cố gắng làm sáng tỏ những gì mà chúng ta hiểu khi nói: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” hoặc khi nói rằng có ai đó “đã lên thiên đàng.” Trong những trường hợp này, Kinh Thánh tự thích nghi với cách nói thông thường. Đó cũng là điều mà ngay cả trong kỷ nguyên khoa học, chúng ta vẫn nói rằng mặt trời “lên” và mặt trời “lặn.” Nhưng Kinh Thánh biết rõ và dạy rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, trên thiên đàng, trên trái đất và trong tâm hồn mọi người. Như thế, khi nói “Chúa ở trên trời” có nghĩa là Người “ở trong ánh sáng không thể tới gần được; ” như “trời cao hơn đất thế nào” thì Người cách xa chúng ta như vậy.
Chúng ta, những Kitô hữu, cũng đồng ý rằng khi nói về trời như là nơi ở của Thiên Chúa, chúng ta hiểu nó như một trạng thái của sự hiện hữu hơn là một nơi chốn. Nếu chúng ta nói về Thiên Chúa, thật là vô lý khi nói rằng Người ở “trên” hay “dưới, ” “lên” hay “xuống” theo nghĩa đen. Do đó, chúng ta không nói trời không tồn tại mà chỉ vì chúng ta thiếu các phạm trù để có thể diễn tả nó một cách đầy đủ và tương xứng, nên mới nói như thế. Chẳng hạn, khi chúng ta yêu cầu một người mù bẩm sinh mô tả cho chúng ta các màu sắc khác nhau: màu đỏ, màu xanh, hay xanh lam… Anh ấy không thể nói với chúng ta bất cứ điều gì bởi vì anh không có nhận thức được màu sắc như chúng ta nhận thức qua cặp mắt của chúng ta. Điều này giống như những gì liên quan quan đến “trời” và cuộc sống vĩnh cửu đối với chúng ta, nó ở ngoài không gian và thời gian.
Trong ý nghĩa mà chúng ta vừa nói, việc chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là gì? Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong Kinh Tin Kính: “Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Và Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”
Như thế, Chúa Kitô đã lên trời có nghĩa là Người “ngồi bên hữu Chúa Cha, ” nghĩa là, như một con người, Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa; Người đã được đặt làm Đức Chúa và là đầu của mọi sự, như thánh Phaolô nói trong bài đọc II.
Đối với chúng ta, “lên thiên đàng” hay về “thiên đàng” có nghĩa là bước theo và “sống với Chúa Kitô” (x. Pl 1, 23). Thiên đàng của chúng ta là Đấng Kitô Phục Sinh cùng với những ai mà chúng ta sẽ “làm nên” một “thân thể” trong ngày phục sinh của chúng ta. Đôi lúc chúng ta ước ao có ai đó trở về từ thiên đàng để bảo đảm với chúng ta rằng thiên đàng thật sự tồn tại chứ không phải là một ảo tưởng đạo đức. Nhưng điều đó không xảy ra. Có một Người, nếu chúng ta biết nhận ra Người – đã từ trời đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể, để bảo đảm cho chúng ta và làm mới lại lời hứa của Người, đó là Đấng Phục Sinh.
Những lời của các thiên thần nói: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? ” cũng ẩn chứa một lời khiển trách: chúng ta không nên chỉ “đăm đăm nhìn trời” và suy đoán những điều xa xăm, nhưng tốt hơn chúng ta phải sống trong sự chờ đợi Người trở lại, bước theo Người, rao giảng Tin Mừng cho đến ngày tận thế, cải thiện cuộc sống hiện tại trong thế giới này.
Chúa Giêsu đã lên trời nhưng Người không xa rời trái đất. Người không còn hiện diện hữu hình với chúng ta nữa, nhưng Người hiện diện một cách vô hình với chúng ta. Như Người đã hứa với chúng ta trong Tin Mừng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Nên mừng lễ Chúa Giêsu lên trời mang lại niềm vui và hy vọng cho chúng ta cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Amen!
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN- B
CHÚA GIÊSU KITÔ TRỞ VỀ TRỜI- Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Hằng năm Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Chúa Giêsu Kitô trở về trời sau khi ngài sống lại từ cõi chết được 40 ngày tính từ ngày Chúa Nhật lễ Phục sinh. Vì thế lễ Chúa Giêsu về trời luôn luôn vào ngày thứ năm trong tuần.
Theo Kinh Thánh thuật lại nơi sách Công vụ các Tông đồ 1,1-11:
: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” 9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh11 và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.“( CV 1,7-11).
Trên ngọn núi Sinai Thiên Chúa hiện xuống ban truyền 10 điều răn làm căn bản cho đức tin vào Thiên Chúa, và sự tương quan liên kết giữa Thiên Chúa với con người và ngược lại. Trong ý nghĩa đó, núi Sinai là nơi chốn của lòng suy niệm về Thiên Chúa.
Từ trên ngọn núi vùng Galilea Chúa Giêsu phục sinh trở về trời bên Đức Chúa Cha sau quãng đời 33 năm sinh sống trên trần gian đã hoàn thành sứ mạng rao truyền tình yêu ơn cứu độ Thiên Chúa cho con người. Ngọn núi Chúa Giêsu về trời là nơi chốn phản tỉnh ôn nhớ lại đời sống, lời giảng dạy và công việc Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện trên trần gian.
Từ trên ngọn núi Chúa Giêsu trở về trời, các Tông đồ, Hội Thánh được chính Chúa Giêsu Kitô sai đi truyền giáo:“ Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế,“ (Mt 28, 18-20.)
Trên đỉnh núi cây dầu thuộc khu phố cổ Jerusalem, các tín hữu Chúa Giêsu Kitô thuở ban đầu đã dùng một hang động tụ họp mừng nhớ kỷ niệm Chúa Giêsu về trời. Vào năm 387 một người Roma đạo đức tên là Poimenia đã dâng cúng cho xây dựng một nhà nguyện trên đó. Ngôi nhà thờ này bị quân BaTư dưới thời Chosrau II. năm 614 xâm chiếm tàn phá.
Trong dòng thời gian thế kỷ 7. một ngôi nhà thờ khác được xây dựng mới lại trên nơi đó, trong đó có dấu vết bàn chân Chúa Giêsu còn in trên mặt đất. Có lẽ ngôi nhà thờ này dưới thời Kalifat Al-Hakim năm 1009 đã bị tàn phá.
Đạo binh Thập Tự đã xây dựng lại trên tầng trệt của ngôi nhà nguyện ngày nay vào năm 1150, có dấu vết chân Chúa Giêsu Kitô sâu lõm khắc bằng đá hình chữ nhật trên nền nhà nguyện.
Người Hồi giáo dưới sự lãnh đạo của Saladin sau khi chiếm Jerusalem đã biến ngôi nhà nguyện này thành Moschee Hồi giáo – thánh đường Hồi giáo vào năm 1187.
Vào thế kỷ 1. sau Chúa giáng sinh Giáo hội thời sơ khai mừng lễ Chúa Giêsu Kitô trở về trời chung với lễ mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lý do có sự liên hệ sát gần giữa hai biến cố trọng đại sống lại và sai gửi Chúa Thánh Thần xuống.
Tuy nhiên lễ mừng Chúa Giêsu trở về trời trong suốt dọc thế kỷ 4. được dần phát triển trở thành một ngày lễ riêng biệt như trong bản tường thuật của một người hành hương tên là Egiria năm 383-384 đã nói đến phụng vụ ngày lễ này ở Jerusalem.
Trong kinh Tin kính ngày nay chúng ta đọc tuyên xưng có câu tuyên tín: „ Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha“.
Lời tuyên xưng đức tin này đã có sớm từ thời xưa, như nơi các vị Giáo phụ Polykarpo thành Smynra, vịn tử đạo Justino và Giáo phụ Ireneus thành Lyon.
Lời Tuyên xưng Chúa Giêsu trở về trời bên Giáo Hội Roma có từ thời Công đồng Nicaea năm 325 và Công đồng Niceno-Konstantino năm 381:
„ Ngài sống lại ngày thứ ba như lời Thánh kinh.,và lên trời Ngài ngự bên hữu Đức Chúa Cha và sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng tận.“
Từ năm 379 lễ Đức Chúa Giesu trở về trời, hay còn gọi là lễ Chúa Giêsu thăng thiên được mừng kính trọng thể 40 ngày sau lễ Đức Chúa Giêsu sống lại, và 10 ngày trước lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Lễ Đức Chúa Giêsu Kitô về trời như những lễ mừng Chúa Giêsu sống lại và lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống là những ngày lễ thay đổi ngày tháng theo từng năm.
Lễ mừng kính Chúa Giêsu Kitô về trời theo phụng vụ Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Chính Thống giáo, và Giáo hội Anh giáo là ngày đại lễ.
Theo tập tục đạo đức xa xưa, ba ngày trước lễ Chúa Giesu về trời là ba ngày rước kiệu cầu nguyện cho mùa màng được mưa thuận gío hoà, được mùa hoa trái, cầu bình an cho mọi người. Tập tục này có từ thế kỷ 4. trong Giáo hội Công gíao. Đến thế kỷ 7. dưới thời Đức Giáo Hoàng Gregor cả tập tục này được lan truyền rộng rãi trong khắp cả Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu. Nhưng từ 1969 theo luật cải tổ Phụng vụ, tập tục rước kiệu cầu mùa bị bãi bỏ. Tuy nhiên một số nơi vùng thôn quê, hay trong khuôn viên nhà Dòng, tập tục đạo đức này vẫn còn được duy trì hằng năm vào ba ngày trước lễ Chúa Giêsu trở về trời.
Vào ngày mừng lễ Chúa Giesu lên trời trong dân gian theo văn hóa xã hội xưa nay bên các nước Âu Châu và Mỹ Châu có tục lệ mừng tưởng nhớ đến những người cha gia đình.
Tục lệ này có nguồn gốc từ bên xã hội Hoa Kỳ. Bà Louisa Dodd năm 1910 đã kêu gọi thành lập phong trào tưởng niệm tưởng nhớ đến những người cha đã hy sinh chiến đấu bỏ mình trong trận chiến nội chiến 1861-1865 bên Hoa Kỳ.
Năm 1924 Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã đưa ra lời công nhận và khuyên nên dành ngày lễ mừng tưởng nhớ đến những người cha gia đính ở nơi những tiểu bang đất nước Hoa Kỳ. Năm 1974 Tổng Thống Richard Nixon đã ấn định chính thức là ngày lễ nghỉ vào Chúa Nhật thứ ba trong tháng Sáu.
Mỗi xã hội đất nước tùy theo phong tục tập quán mừng ngày nhớ ơn các người cha cách khác nhau và vào thời điểm ngày tháng cũng khác nhau. Nhưng tựu trung để nhớ đến công ơn sinh thành hưỡng dục và lòng hy sinh của các người cha gia đình, như tập tục ngày hiền mẫu nhớ biết ơn các người mẹ.
Mừng lễ Chúa Giêsu về trời, như các Thánh Tông đồ xưa, con người chúng ta hướng lòng trí tâm hồn về trời, nơi Thiên Chúa ngự, nơi Chúa Giêsu Kitô về đó trước dọn chỗ cho chúng ta sau này cũng được về sống, khi con đường hành trình đời sống trên trần gian chấm dứt.
Trời là quê hương đích thật của con người chúng ta.
#cacbaisuyniemloichuachuanhatlethangthien #suyniemloichualethangthien #chuanhatlethangthien