CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG PHỤC SINH (*)- Chú giải của Noel Quession 7
CHÚA GIÊSU HOÀN TẤT LỜI KINH THÁNH- Chú giải của Fiches Dominicales 15
NHỮNG LỜI CHỨNG MỚI VỀ BIẾN CỐ PHỤC SINH (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 23
NHẬN BIẾT ĐỨC GIÊSU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 39
CHÚA HIỆN RA VỚI CÁC SỨ ĐỒ- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt 57
NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 62
CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống 66
LÀM CHỨNG VỀ THẦY– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 72
DANH CHÚA GIÊSU- Lm. Giuse Trần Việt Hùng.. 77
NIỀM TIN THẮNG VƯỢT SỢ HÃI- Lm. Fx. Lê Văn Nhạc.. 83
GẶP CHÚA GIỮA LÒNG ĐỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 89
LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SBD.. 94
CHỨNG TỪ PHỤC SINH- Lm. Phêrô Hồng Phúc.. 97
NIỀM TIN VÀO SỰ CHẾT VÀ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy 100
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, Phêrô nói với dân chúng rằng: “Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Đấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.
“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ”.
Đó là lời Chúa.
Đáp Ca: Tv 4, 2. 7. 9
Đáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con! (c. 7a)
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu! – Đáp.
2) Nhiều người nói: “Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?” Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con! – Đáp.
3) Được an bình, con vừa nằm xuống, thoắt ngủ ngon, vì lạy Chúa, duy có Chúa cho con yên hàn. – Đáp.
Bài Đọc II: 1 Ga 2, 1-5a
“Chính Người là của lễ đền tội, không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế gian”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai đã phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: x. Lc 24, 32
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 24, 35-48
“Họ nhận ra được Người khi họ nhận bánh do Người bẻ trao cho”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ”. Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: “Ở đây các con có gì ăn không?” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Đoạn Người phán: “Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh”. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT IiI PHỤC SINH- B
LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG PHỤC SINH (*)- Chú giải của Noel Quession
Hôm nay chúng ta đọc một phần bản văn Luca về “Trình thuật Phục sinh”.
Theo Tin Mừng của ông, năm biến cố đã xảy ra trong ngày Phục sinh:
– Các phụ nữ đến viếng mộ vào buoi sáng và việc báo tin Chúa Phục sinh (24, 1-10).
– Phêrô cũng đến thăm mộ và thái độ bối rối của ông (24, 11-12).
– Chúa hiện ra với hai môn đệ làng Emmau (24, 13-35).
– Chúa hiện ra với mười một môn đệ, cùng buổi chiều hôm đó (24, 36-49).
– Đức Giêsu thăng thiên và việc Người được tôn dương trên trời (24, 50-53).
Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và chuyện mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói thì Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông.
Từ ba ngày qua, biết bao là biến cố bi thảm đã xảy ra cho con người đáng thương này? Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu vào tối thứ năm, cuộc vây bắt tại vườn Ghétsemani, mọi người đều bỏ trốn, Phêrô chối Chúa, việc xét xử bêu nhục Chúa như kẻ phản đạo và phạm thượng, cái chết của Chúa trên thập giá ngoài cửa thành, việc treo cổ tự sát của Giuđa, một bạn hữu của họ. Nhóm Mươi Hai trở thành nhóm Mười Một, do một người trong họ bỏ cuộc và đã chết!
Chính trong bối cảnh này mà cuộc “Phục sinh” xảy đến một cách bất ngờ và làm cho mọi người bàng hoàng sửng sốt.
Người nói với các ông: “Chúc anh em được bình an”
Đó là lời chào hỏi thông thường của Người Do Thái: “Shalom!” có nghĩa là “Bình an”.
Nhưng ta có thể nghĩ rằng, chiều hôm đó, lời chào chúc cổ truyền đó hẳn phải mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt: chính vào lúc vô cùng tuyệt vọng thì Chúa hiện đến trấn an các ông: “Anh em đừng sợ”, “Hãy an tâm”. Theo Thánh Gioan, trước khi bước vào cõi chết, hôm thứ năm vừa qua, Đức Giêsu đã hứa các tông đồ sẽ được bình an sau một ‘thời gian khủng hoảng đớn đau’: “Thầy để lại sự bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy” (Ga 14,27). “Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô đơn”. “Thầy nói với anh em những điều ấy để nhơ kết hợp với Thầy, anh em được bình an” “Anh em can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi” (Ga 16,32-33). Hôm nay vào chiều tối Phục sinh, lời hứa đã được thực hiện.
Các ông sợ hết hồn hết vía, tưởng là thấy ma.
Rõ ràng, như các trình thuật khác đều đã nói cho ta. Nhóm “Mười Một” bắt đầu run sợ và nghi ngờ. Một lát nữa, Luca sẽ nhấn mạnh giúp ta lưu ý tới sự kiện Đức Giêsu phải “mở trí lòng” họ: họ còn không hiểu gì cả. Chỉ ngắm nhìn thì chưa đủ còn phải “mở trí lòng” tới mầu nhiệm.
Nhưng Người nói: “Việc gì mà hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như Thầy đây?”
Trong trình thuật tương song của Gioan, Đức Giêsu đã cho các tông đồ xem “tay và cạnh sườn” Người (Ga 20,20). Còn ở đây Luca lại ghi, Người cho họ xem “chân tay” Người? Ta biết rằng, đối với Thánh Gioan “cạnh sườn” rộng mở tượng trưng cho nguon nước vọt ra từ đền thờ mới, theo lời tiên báo của ngôn sứ Êdêkien.
Những điểm cốt yếu của trình thuật vẫn là chung, đó nhằm minh chứng rằng chính Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, nay đã sống lại. Đối với những người Sêmít, này, là những người không có ý niệm phân biệt linh hồn và thể xác theo triết thuyết của Platon và Descartes, thì nếu Đức Giêsu đang sống động, chỉ có thể hiểu Người sống động với toàn diện con người mình. Đức Giêsu muốn quả quyết, Người không phải là một bóng ma như thế, Người phải có một thân xác, sự sống lại không thể giản lược vào nguyên một tình trạng “linh hồn bất tử”. Do đó, mọi chi tiết trên đây đều diễn tả cách cụ thể: “Cứ rờ vào Thầy. Hãy xem chân tay Thầy. Hãy cho Thầy ăn”.
Tuy nhiên, chúng ta không nên ảo tưởng. Cần phải vượt qua vẻ vật chất của ngôn từ diễn tả, để hiểu ý nghĩa sâu xa của công cuộc Phục sinh. Nhằm đề cao chân lý đó, chính Thánh Phaolô sau này sẽ xác quyết: “Chúa là thần khí”(2Cr 3,17-18). Ngài cũng nói về thân xác Phục sinh như một “thân-thể-thuộc-linh” (1Cr 15,44).
Các ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Ngươi hỏi: “Ở đây anh em có ăn gì không” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Việc ám chỉ tới một bữa ăn như trên, gợi lại cử chỉ của Chúa tại làng Emmau, sau này Phêrô cũng tuyên bố: chính chúng tôi đã được cùng ăn, “cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10,41). Trong trình thuật của Luca trên đây, không có gì ám chỉ cách công khai tới Thánh Thể nhưng bầu không khí vẫn la khung cảnh của những “bữa tiệc thánh”, mà ở đó các môn đệ sẽ nhận ra một sự hiện diện mới của Đấng Phục sinh.
Rồi Người bảo: “Anh em hãy nhớ lại những lời Thầy đã nói, khi Thầy còn ở với anh em”
Công cuộc Phục sinh không thể dược hiểu như một thứ hiện tượng cách biệt, một thứ hành động ma thuật. Đức Giêsu cố gắng giúp cho người ta “hiểu” và dồn “tâm trí” vào sự kiện đó. Và bước đường đầu tiên mà Người gợi lên cho các tông đồ đi tới hiểu biết, đó là vận dụng “ký ức” Người đã báo trước cái chết và sự phục sinh của Người. Người mong muốn chúng ta khám phá ra sự liên tục giữa Đức Giêsu trước Phục sinh ‘và’ Đức Giêsu sau Phục sinh, Đức Giêsu lịch sử và Đức Giêsu vượt qua lịch sử, Đức Giêsu cụ thể và Đức Giêsu của lòng tin.
Về vấn đề này, chúng ta nên ghi nhận kiểu nói kỳ lạ của Đức Giêsu: khi Thầy còn ở với anh em ‘thuộc về quá khứ’ Nhưng, lạy Chúa Giêsu, lúc này Chúa đang hiện diện với chúng con mà! Các môn đệ đã có thể đáp lại với Chúa như thế. Đúng vậy, nhưng Người đâu có hiện diện cũng một cách thức như trước nữa: Vẫn chính là Người, nhưng không phải y như trước. Đay luôn là mầu nhiệm đức tin.
Tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh.
Các Sách Thánh loại nào? Đó là toàn bộ Cựu ước: Luật, Ngôn sứ và Thánh Vịnh. Đúng ra, Đức Giêsu là một người rất quen thuộc với Kinh thánh. Người đã đọc đi đọc lại cho riêng mình một số đoạn để ứng dụng vào số phận đời Người. “Kinh thánh đã nói về đời tôi!”. Các bạn hãy đọc lại và sẽ thấy. Và chúng ta hình dung ra như Đức Giêsu, đang dạy một lớp giáo lý Kinh thánh, chú giải Kinh thánh. Công cuộc Canh tân Phụng vụ theo ý Công đồng Vatican II lại tạo điều kien cho chúng ta đọc nhiều đoạn Kinh thánh hơn: mỗi Chúa nhật sẽ đọc ba bài đọc thay hai như cũ và được phân bổ trong ba năm để cung cấp cho ta một toàn bộ các văn bản đầy đủ hơn. Ta cũng có thể nhận thấy, công việc đó đa đi đúng hướng biết bao, như ý Đức Giêsu mong muốn. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, các Kitô hữu, biết đói khát Kinh thánh. Xin giúp chúng con đừng tới dâng lễ “trễ muộn”, bỏ qua phần phụng vụ Lời Chúa, luôn vắng mặt trong phần đầu thánh lễ, thời gian mà “Chúa mở trí cho chúng con hiểu Kinh Thánh”.
Người bảo có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ bỏ cõi chết chỗi dậy”.
Ôi! nếu như chúng ta có mặt ở đó thì thích biết bao, lúc mà Đức Giêsu bình luận lời ngôn sứ Isaia, sách Khôn ngoan và các Thánh Vịnh! Nhờ sách Công vụ Tông đồ, ta biết được những bản văn đặc biệt mà trong đó, Đức Giêsu “tự nhận ra mình” và nhơ đó Người mới quả quyết người ta đã nói về mình là những bản văn nào. Đó là những bản văn được trích dẫn Đệ Nhị Luật 18, 16-19 và 21,23; Hôsê 6,1, Isaia 52,13, Thánh Vịnh 2,22. Cựu ước hướng về Đức Giêsu. Mọi chương trình của Thiên Chúa, mọi công cuộc chuẩn bị đều nhằm đến “việc hoàn tất” này: đó là sự hy sinh vinh quang của Đức Giêsu vì tình yêu cứu độ. Những bài thơ về Người Tôi Tớ và nhiều Thánh vịnh đặc biệt đã minh chứng rằng, “đau khổ của người công chính, không phải là uổng công vô ích, nhưng luôn đạt tới một sự phong phú phi thường”. Thực vậy người ta phải vượt qua giai đoạn đau khổ mới tới giây phút tạ ơn và thời gian loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa cho mọi dân tộc, “sứ vụ” truyền giáo cho khắp hoàn vũ như đã hiện diện trong các bản văn đó (Is 49,50).
Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Vâng, mối quan tâm truyền giáo đã tràn ngập tâm hồn Đức Giêsu. Người nhìn thấy trước hàng tỉ người nam nữ sẽ theo Người, sẽ yêu mến Người. Người nhìn thấy hàng tỉ tội nhân sẽ được tắm trong “nước tha thứ tội lỗi”, sẽ được ghìm ngập trong tình yêu xót thương của Thiên Chúa, sẽ được thanh tẩy trong Thánh Thần, Đấng tha thứ và “ban sự sống”. Thiên Chúa là tình yêu! ở đây chúng ta gặp lại điều mà Thánh Gioan đã nói trong Chúa nhật vừa qua: “Đức Giêsu thổi hơi để tha thứ tội lỗi!”.
Và chúng ta đón nhận sứ điệp “Phục sinh” đó. Chúng ta có thể nói, Phục sinh làm gì? Để loan báo sự thay đổi, cuộc hoán cải, một “métanoia”: Hãy đổi đời. Hãy phục sinh. Hãy sống động và cứ tiếp tục như thế. Phục sinh là một động lực sống! Nó luôn vận hành.
Phải rao giảng cho muôn dân, bắt đâu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối. Chính anh em làm chứng ve những điều này.
“Sứ vụ của Giáo Hội” khởi sự từ công cuộc Phục sinh. Trong sức sống sinh động Phục sinh, cùng với “Đức Giêsu hằng sống” giữa các nhân chứng của Người, từ một điểm trung tâm của hành tinh chúng ta: đó là Giêrusalem! Thực vậy, đó là nơi có một không hai, mà người ta đã đào lỗ dưới đất để dựng cây thập giá lên, và từ đó đã trở nên trục của thế giới. Thành phố duy nhất này, nơi mà nhờ đó hành tinh đáng thương của chúng ta, thay vì là nghĩa địa mênh mông chứa chôn kẻ chết, đã trở thành nơi có “ngôi mộ trống”, nơi của sự sống hiển thắng.
Lạy Chúa, xin ban cho con “sức mạnh” từ trời ban xuống đó (Lc 24,49) để con trở nên nhân chứng cho Chúa: Veni Creator Spiritus. Lạy Thần khí Tác sinh, xin hãy ngự đến.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- B
CHÚA GIÊSU HOÀN TẤT LỜI KINH THÁNH- Chú giải của Fiches Dominicales
*1.Từ kinh ngạc, sợ hãi đến niềm vui.
Cũng như Chúa nhật I và II Phục sinh, theo thông lệ hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ III này tường thuật Đấng Phục sinh hiện ra.
Câu chuyện bắt đầu từ sau chuyến hai môn đệ Emmau trở về Họ vừa kể cho 11 tông đồ và cho các môn đệ những gì đã xảy ra trên đường và họ đã nhặn ra Người thế nào khi Người bẻ bánh thì Đức Giêsu lại một lần nữa hiện đến với các môn đệ.
Ở đây ta gặp lại 3 phần tiêu biểu của các cuộc hiện ra sau Phục sinh: 1- Đức Giêsu có sáng kiến; 2- Người tự tỏ mình ra; 3- Người uỷ thác cho họ một sứ mệnh.
Tin Mừng kể: “Khi ông còn đang nói thì Người đã đến giữa họ”. Người ban cho họ ơn bình an, một ơn của triều đại Cứu Thế. “Bình an cho các con”.
Cuộc hiện ra bất ngờ và lời chào của Người khiến họ “kinh ngạc và sợ hãi, vì họ tưởng là thây ma hiện hình”. Họ đã phải sống giây phút khó khăn của cuộc quá độ từ bất tín đến chân nhận.
*2. Từ khổ đau đến cuộc sống mới của Đức Messia.
Thoạt tiên Đức Giêsu mở lời. Kèm theo lại là một cử chỉ. Rồi Người ăn trước mặt họ. Sau đó Người khai lòng mở trí để họ am hiểu Thánh Kinh.
Trước hết, Người cho họ xem “tay”, “chân” và nói: “Tại sao các con sợ hãi? Hãy chạm vào Thầy: ma đâu có xương thịt như Thầy”.
Họ hoàn toàn không phải là nạn nhân của một ảo tưởng tập thể. Cũng vẫn là người ấy, Đấng chịu đóng đinh, nhưng đến gặp họ trong một điều kiện khác, điều kiện của Đấng Phục sinh “chính là Thầy đây!”.
Roland Meynet chú giải: “Đấng hiện ra với các môn đệ không phải là một cái chết hiện hình, cũng không phải là hồn ma bóng quế. Đó chính là Đức Giêsu, Người đã từng ăn uống với họ, tay Ngài đa từng đụng chạm đến họ trước khi chịu khổ hình. Hoàn toàn không phải là một ảo ảnh. Họ có thể thấy Người, đụng chạm đến Người cơ mà, đúng là Người.
Nhưng cơ thể Đức Giêsu không còn là cơ thể trước ngày vào cuộc khổ nạn. Người có cho họ xem tay, chân cũng chỉ vì tay chân còn hằn dấu đinh. Dấu hiệu ấy cốt để họ xác minh mà vững lòng tin tưởng; Phục sinh không xoá hết dấu vết khổ nạn. Đức Kitô mãi mãi vẫn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh (‘Tin Mừng thánh Luca’, Phân tích từ ngữ, chú giải, Cerf, trang 238).
– Vì các môn đệ “trong niềm vui tột đỉnh, vẫn chưa dám tin, vẫn còn sững người kinh ngạc”, Đức Giêsu bèn hỏi xin họ “cho ăn”. Người ăn “một miếng cá nướng”. Người không ăn với họ, nhưng trước mặt họ. Theo phong tục Đông phương, người khách được trọng vọng sẽ ăn một mình trước mặt những kẻ cung nghinh hầu cận.
Khi đưa ra chi tiết Đức Giêsu ăn trước mặt môn đệ, tác giả Tin Mừng muốn minh họa thực tại của biến cố phục sinh. Tuy nhiên, sáng kiến này của Đức Giêsu dường như không “ép phê” bằng lần trước: các môn đệ chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Sau cùng, Đức Gtêsu giúp các môn đệ đang hội hop ở đó đọc lại cuộc Khổ Nạn-Phục Sinh của Người dưới ánh sáng Thánh Kinh, như Người đã làm với hai môn đệ trên đường đi Emmau: “Cần phải ứng nghiệm tất cả những gì đã chép về Thầy trong sách Lề Luật của Môsê; các sach Ngôn Sứ và Thánh vịnh. Và Người soi lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh”.
R.Meynet bình giải: “Kinh Thánh, trọn bộ Kinh Thánh, đều nói về Đức Giêsu. Kinh Thánh loan báo những việc Người sẽ làm và những việc các môn đệ sẽ làm nhân danh Người. Đức Giêsu chẳng nói gì ngoài những điều Kinh Thánh đã nói, nhưng Người không chỉ lặp lại và chú giải Kinh Thánh như các luật sĩ thường làm. Người hành xử Kinh Thánh, người thực hiện Kinh Thánh, Ngươi hoàn tất Kinh Thánh. Chính vì Người hoàn tất Kinh Thánh mà Người có thể giải thích Kinh Thánh cho người ta hiểu. Rồi đến phiên các môn đệ, họ sẽ phải công bố rằng Đức Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh Thánh. Các môn đệ công bố điều này khi chính bản thân các ông hoàn tất lời Kinh Thánh và khi các ông làm cho Kinh Thánh được hoàn tất nơi những người mà các ông được sai đến, cho đến tận cùng trái đất” (Sđd, trang 238).
*3. Từ chân nhận đến sứ mệnh phổ quát
Một lần nữa, cuộc gỡ không kết thúc ở thái độ chân nhận, nhưng vươn tới một sứ mệnh.
Sứ mệnh mà Đức Giêsu ký thác cho các môn đệ, trước khi chuẩn bị họ (câu 51), sứ mệnh mà nhờ đó họ được ban một “sức mạnh từ trên cao” (câu 49), tóm kết trong câu nói sẽ trở thành cốt lõi cho lời rao giảng của Giáo Hội sơ khai (xem bài giảng của Phêrô trong Công Vụ các tông đồ: đặc biệt bài đọc I ngày lễ Phục sinh và Chúa nhat III (Phục sinh):
Đúng như lời Kinh Thánh đã loan báo về:
+ Những đau khổ của Đức Mêsia, việc Người phục sinh từ trong cõi chết vào ngày thứ 3.
+ Công bố sự hoán cải nhân danh Người để được tha thứ tội lỗi cho mọi dân toc, khởi đi từ Giêrusalem.
+ Chính các con là chứng nhân cho những điều đó”.
Như thế việc Đức Giêsu phục sinh đã kết thúc bằng mặc khải mầu nhiệm của Người: Người là Đức Kitô được các ngôn sứ loan báo, được tôn vinh trên cái chết, từ nay hiện diện trong Giáo Hội, nơi Người hứa ban ơn tha tội cho mọi người. Lời rao giảng ơn hoán cải và sự tha thứ tội khiên đã được Gioan Tẩy Giả bắt đầu cho nhà Israel, từ nay lan toả đến “mọi dân tộc”. Sư mệnh phổ quát ấy, sự hoàn thành ý định cứu độ của Thiên Chúa ấy, nay được ký thác cho cộng đoàn các môn đệ.
BÀI ĐỌC THÊM
*1) “Những kinh nghiệm đầu tiên giúp các Kitô hữu hiểu những kinh nghiệm họ phải sống hôm nay”. (L.Monloubou, trong “Tin Mừng theo thánh Luca, Salvator, trang 286-287).
Câu đầu tiên (35) nhắc ra nhớ chính vào lúc “bẻ bánh” mà các lữ khách làng Emmau ‘nhận ra Đức Giêsu’, chắc hẳn trong tâm tưởng thánh Luca muốn qui chiếu viec bẻ bánh về bí tích Thánh Thể, nơi các Kitô hữu “nhận ra” Đức Giêsu phục sinh và hằng sống. Xa hơn nữa, bản văn nói về việc “khai mở lòng trí” mà Đức Giêsu thông truyền cho các môn đệ. Người cũng trình bày cho họ một lối “hiểu Kinh Thánh” mới.
Ta thấy rất rõ cuộc khám phá mà cộng đoàn thực hiện tỷ lệ thuận với việc đào sâu niềm tin phục sinh: cộng đoàn đạt tới một mức độ thấu hiểu sự vật, khiến sự vật hiện ra trong một chuỗi những liên kết rất mạch lạc, hiển nhiên; thoạt tiên Kinh Thánh hiện ra dưới một nhãn quan khác: Lề Luật của Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh xem ra chứa đựng một ý nghĩa mà từ trước đến giờ chưa được hiểu cho thấu đáo. Ý nghĩa ấy nối kết Kinh Thánh thành một chuỗi mạch lạc khiến đức tin tìm được điểm tựa. Sau cùng bản văn kết thúc bằng cách đề ra một kinh nghiệm truyền giáo: nhân danh Đức Giêsu phục sinh, hằng sống, phải rao giảng cho ‘mọi dân tộc’, ‘bắt đầu từ Giêrusalem’, sự ăn năn thống hối để được thứ tha tội lỗi”. Ba điểm: kinh nghiệm Thánh Thể, giải thích Kinh Thánh mang mầu sắc Kitô học và sự rao giảng phổ quát, được trình bày ở đây như những nối tiếp khẩn thiết của cảm nghiệm phục sinh. Đối với các bạn đồng hành của Luca, đó là những thực tại đã được ghi nhận cách sâu sắc, đã được sống và đã cảm nghiệm.
Sự kiện này quan trọng; nó cho biết nơi chốn các Kitô hữu nói về cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Không phải trong một khoá học về lịch sử Đức Giêsu, dù lịch sử là nền tảng của suy tư; nhưng là trong lúc suy niệm về đời sống hiện tại của Giáo Hội. Giáo Hội ấy quây quần đọc Kinh Thánh: Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh, để tưởng nhớ những lời nói của Đức Giêsu: đó là những lời mà Thầy đã nói với anh em để cử hành việc bẻ bánh; và để đảm nhận những nhiệm vụ truyền giáo, Giáo Hội ấy đã ý thức về việc sống một kinh nghiệm: Đức Giêsu đích thân đứng giữa họ, Người đang sống. Cộng đoàn ấy vẫn còn có nghi ngờ, nhưng đức tin của cộng đoàn là sâu sắc.
Cảm nghiệm đó là gì mà đem đến cho mọi người niềm vui khôn tả như thế? Đó là cảm nghiệm về Đấng Phục sinh mà các môn đệ là những người đầu tiên đã cảm. Bản thân các ngài đã tham dự vào lời bữa ăn của Đức Giêsu, đã thiết lập được mối liên hệ giữa Kinh Thánh với những gì đã xảy ra tại Giêrusalem, những gì đã xảy đến với Đức Giêsu, người Nagiarét, và các ngài đã khám phá ra tầm mức phổ quát của sự Phục Sinh mà các ngài phải loan báo cho thế giới. Chính các ngài, đoàn Mười Một đã trải qua những kinh nghiệm đầu tiên, nhờ đó các Kitô hữu thấu hiểu kinh nghiệm mà họ phải sống hôm nay”.
*2) Người khai mở lòng trí cho họ am hiểu Kinh Thánh (H.Vulliez, trong “Thiên Chúa đã gần đến”. Năm B, DDB trang 57-58).
Bạn có chú ý không? Trong cả 3 trình thuật của thánh Luca về việc Đức Kitô Phục sinh hiện ra, thì hai bài, bài các môn đệ Emmau và bài hôm nay đều kết thúc bằng việc đọc Kinh Thánh mà Đức Giêsu chú giải. Dường như, trong cả hai trường hợp, cuộc hiện hình không đủ đưa đến đức tin. Dường như tác giả muốn tránh nguy cơ chỉ dừng lại và chỉ gắn bó vào những gì lạ thường.
Dường như chỉ có thể tin vào Đức Giêsu vẫn đang sống sau khi chết nhờ đặt Người ra ngoài vòng lịch sử nhân loại. Ta có tin rằng sự hiểu biết Kinh Thánh cách nghiêm túc là rất cần thiết để tin, không phải vào một Đức Giêsu ta tưởng tượng ra, nhưng vào Đấng mà Tin Mừng mặc khải cho ta, Đấng mà Chúa Cha đã sai đến với con người để trở thành Người-Chúa với họ vĩnh viễn không?”.
CHÚA NHẬT IIIPHỤC SINH- B
NHỮNG LỜI CHỨNG MỚI VỀ BIẾN CỐ PHỤC SINH (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh năm B dâng hiến cho chúng ta những lời chứng mới về biến cố Phục Sinh; nhưng mầu nhiệm vinh quang này được bày tỏ ở đây trong mối liên hệ với mầu nhiệm Thương Khó của Đức Ki-tô.
Cv 3: 13-15, 17-19
Trong diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Ki-tô. Lời công bố này vang dội trực tiếp trong đoạn trích Tin Mừng Lu-ca hôm nay.
1Ga 2: 1-5a
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan suy gẫm về những đau khổ mà Đức Ki-tô phải chịu vì tội lỗi của chúng ta, nhờ đó chúng ta đạt được ơn tha thứ.
Lc 24: 35-48
Thánh Lu-ca thuật lại cho chúng ta chuyện Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Phục Sinh. Trong câu chuyện này, Chúa Giê-su giải thích cuộc sống và cái chết của Ngài bằng cách chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo rồi cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài, cũng như ơn tha thứ tội lỗi.
BÀI ĐỌC I (Cv 3: 13-15, 17-19)
Đây là bài diễn từ thứ hai trong số các bài diễn từ mà thánh Phê-rô ngỏ lời với dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, được sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại. Bài diễn từ thứ nhất được công bố vào ngày lễ Ngũ Tuần (2: 14-36).
Bối cảnh của câu chuyện thật ngoạn mục. Thánh Phê-rô và thánh Gioan lên Đền Thờ để tham dự “buổi cầu nguyện giờ thứ chín” (tức ba giờ chiều: Cv 3: 1). Niềm tin của các ngài tháp nhập rất tự nhiên vào khuôn mẫu phụng vụ Do thái giáo. Hai Tông Đồ chú ý đến một người ăn xin ngồi bên cửa Đền Thờ. Thánh Phê-rô nhìn thẳng vào anh, nắm chặc lấy tay anh và kéo anh đứng lên. Anh đứng dậy được, vừa đi vừa nhảy nhót theo chân hai Tông Đồ. Mọi người nhận ra anh, kinh ngạc và chạy ùa đến. Khi thấy đám đông, thánh Phê-rô ngỏ lời với họ.
Trong bài diễn từ thứ hai này, đối tượng thánh Phê-rô hướng đến vẫn là người Do thái. Điều khó khăn nhất là làm thế nào để người ta có thể chấp nhận rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là Đấng Ki-tô.
*1.Anh em là Dân Giao Ước:
Trước tiên, thánh Tông Đồ gây nên niềm hứng phấn nơi thính giả của mình khi nhắc cho họ nhớ rằng họ là Dân Giao Ước, Giao Ước này Thiên Chúa đã ký kết với các tổ phụ: Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ấy vậy, chính “Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su”. Thánh Phê-rô gọi Đức Giê-su bằng tước hiệu “Tôi Trung” để hướng lòng trí của người nghe đến hình ảnh người tôi trung chịu đau khổ của I-sai-a. Vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị này đã tiên báo rằng Người Tôi Trung của Đức Chúa bị khinh bỉ và chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho muôn người. Tước hiệu “Tôi Trung” dành cho Đức Giê-su sẽ được lập lại một lần nữa trong các bài diễn từ Tông Đồ, tước hiệu này đem đến một lập luận quan trọng khi đối mặt với thái độ ngập ngừng của những người chờ đợi một Đấng Ki-tô vinh quang và quyền năng.
*2.Anh em đã nộp Người:
Tiếp đó, thánh Phê-rô đưa ra lời buộc tội trực tiếp khi dẫn chứng những tương phản:
-Quan Phi-la-tô, người ngoại giáo, đã nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su và muốn thả Ngài; nhưng trái lại, chính anh em, dân Chúa chọn, đã chối bỏ Ngài.
-Chính Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính, nhưng anh em lại chuộng một tên sát nhân hơn là Ngài.
-Chính Ngài là Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng anh em đã ra tay giết Ngài.
Ở đoạn văn này, chúng ta gặp lại một dấu ấn mà thánh Lu-ca đã nhấn rất mạnh trong bài trình thuật của mình về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô: trách nhiệm của quan Phi-la-tô về cái chết của Đức Giê-su thì ít hơn dân chúng, những kẻ, bị các thượng tế khích động, kêu gào đóng đinh Ngài. Thật thế, quan tổng trấn Rô-ma đã công bố đến ba lần: “Ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả” (23: 4, 15, 22).
Còn đối với hai phẩm tính “Đấng Thánh và Đấng Công Chính”, đây là hai tước hiệu Kinh Thánh thường đi kèm theo tên của những tôi trung vĩ đại, chẳng hạn như ông Mô-sê (thánh Phê-rô sẽ nêu đích danh Mô-sê trong bài diễn từ này). Hai tước hiệu này vẫn là những tước hiệu Ki-tô học rất cổ xưa, nhưng căn cứ trên lời minh chứng của thánh Phê-rô: Đức Giê-su đã thực hiện ở nơi bản thân Ngài những lời Kinh Thánh: Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính mà các ngôn sứ đã tiên báo.
*3.Thiên Chúa đã phục sinh Ngài:
Đây là Mặc Khải cốt yếu, lời quả quyết không thể tin được. Vị Tông Đồ còn nhấn mạnh: “Về điều này, chúng tôi xin làm chứng”. Đoạn, bằng một lý lẽ rất thấm thía, thánh Phê-rô làm yên lòng những người mà thánh Tông Đồ buộc tội: tội ác mà họ đã phạm vì không hiểu biết, thì Thiên Chúa đã sử dụng để thực hiện kế hoạch của Ngài; họ có thể được hưởng ơn cứu độ và đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nếu họ sám hối mà trở lại cùng Thiên Chúa.
Chắc chắn lời kêu gọi sám hối này sẽ được lập đi lập lại như một điệp khúc trong các bài diễn từ các Tông Đồ, nhưng lời kêu gọi này được đặt ngay sau việc nêu lên những đau khổ tất yếu mà Đấng Ki-tô phải chịu, mặc lấy một sức mạnh đặc biệt.
BÀI ĐỌC II (1Ga 2: 1-5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan gởi cho các cộng đồng Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh Tông Đồ ngỏ lời với các tín hữu này với cung giọng trìu mến của người cha; thánh nhân biết những khó khăn và cuộc chiến đấu của họ chống lại những lạc thuyết đang dấy lên trong cộng đoàn. Thánh nhân muốn soi sáng cho họ và củng cố niềm tin của họ.
“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi”, lối xưng hô này được lập đi lập lại thường hằng trong thư tạo nên nét đặc trưng của bức thư này. Đây là cách nói biểu lộ tấm lòng trìu mến. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Tông Đồ đưa ra hai lời khuyên bảo: một liên quan đến cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi và một khác về hiểu biết Thiên Chúa.
*1.Cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi (2: 1-2):
Để chiến đấu chống lại tội lỗi, phải nhận ra mình là tội nhân và Đức Giê-su là Đấng Bảo Trợ chúng ta.
A.Nhận ra mình là tội nhân:
Chính vì sự công chính mà Thiên Chúa cứu độ chúng ta và sự công chính cứu độ này có tên gọi là “Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Người Ki-tô hữu đích thật biết nhận ra rằng mình là tội nhân, trái với những kẻ tự cho mình là hoàn hảo. Hậu cảnh của những lời kêu gọi đạo lý này mang sắc thái của cuộc bút chiến: những người phổ biến lạc thuyết Ki-tô giáo tự cho mình là tinh tuyền. Họ xuất thân từ những cộng đoàn này và đã gây xáo trộn ở giữa lòng các cộng đoàn. Thánh Gioan đồng hoá họ với những kẻ dối trá khi nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1: 8). Khi phát biểu bằng đại từ: “chúng ta”, thánh Tông Đồ khiêm tốn tự đặt mình vào hàng các người Ki-tô hữu có thể phạm tội.
B.Đức Giê-su là Đấng Bảo Trợ của chúng ta:
“Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Danh xưng “Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý xuất phát từ động từ Hy-lạp có nghĩa “gọi đến bên cạnh để cứu giúp”. Chúng ta không gặp thấy danh xưng này trong các bản văn Tin Mừng Nhất Lãm cũng như trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng chỉ trong các bản văn thuộc truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Gioan, danh xưng “Đấng Bảo Trợ” được dùng để chỉ vai trò của Chúa Thánh Thần (x. Ga 14: 16-20); tuy nhiên, trong thư thứ nhất này, danh xưng này được dùng để chỉ Đức Giê-su Ki-tô, Ngài là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, mà thánh Gioan xác định phẩm tính là “Đấng Công Chính”. Phẩm tính này ám chỉ đến sự vô tội của Đức Giê-su, vì thế, không nhắm đến tính chất Công Chính hoàn hảo của Ngài cho bằng đến chức năng thẩm phán của Ngài. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính hóa chúng ta, bởi vì Ngài trở nên một người như chúng ta và hiến dâng mạng sống mình làm “của lễ đền bù tội lỗi chúng ta”.
Thánh Gioan dùng kiểu nói: “của lễ đền bù tội lỗi”, gợi lên tức thời hy lễ đền tội của dân Ít-ra-en, nhưng hy lễ này chỉ có hiệu lực xoá tội của vị thượng tế và cộng đoàn Ít-ra-en, còn của lễ đền tội của Đức Giê-su Ki-tô có tầm mức hoàn vũ.
Ở đây cũng thế, ngoài nỗi bận lòng mục vụ của mình, thánh Gioan nhắm đến việc lên án những kẻ lạc giáo, họ phân biệt một Đức Giê-su phàm nhân với một Đức Ki-tô thiên giới. Đức Ki-tô thiên giới trở nên một với Đức Giê-su phàm nhân vào lúc chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, nhưng rồi sẽ rời bỏ Đức Giê-su phàm nhân này vào lúc Khổ Nạn. Vì thế, chính Đức Giê-su phàm nhân, chứ không phải Con Thiên Chúa, chịu chết trên thập giá. Theo thánh Gioan, những ai phủ nhận mầu nhiệm Nhập Thể, hệ luận tất yếu cũng phủ nhận luôn mầu nhiệm Cứu Chuộc.
*2.Hiểu biết Thiên Chúa:
Một vấn đề có tính thời sự đặt ra cho các cộng đoàn miền Tiểu Á đang bị các nhà rao giảng ngộ đạo làm chao đảo đức tin của mình là làm thế nào nhận biết Thiên Chúa đích thật. Mục đích cốt yếu của thánh Gioan là làm yên lòng các tín hữu, đem lại cho họ niềm xác tín rằng họ đang ở trên chính lộ. Tiêu chuẩn để nhận biết Thiên Chúa đích thật không cốt ở nơi những suy luận trừu tượng, hay ở nơi thần khải nội tâm, nhưng ở nơi sự hiểu biết thực nghiệm, tức là tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài.
A.Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa:
Các điều răn của Thiên Chúa là những điều răn nào? Ở đây, thánh Gioan xem ra vẫn ở trong tính tổng quát các giáo huấn Tin Mừng; tuy nhiên, xuống dưới một chút, thánh nhân xác định: “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta” (3: 23). Những đòi hỏi này được nhắc đi nhắc lại xuyên suốt bức thư này, đó là những đòi hỏi mà các nhà ngụy rao giảng không tuân giữ. Ví dụ, các nhà rao giảng ngộ đạo thuyết tự cho mình đạt được một tình trạng hiểu biết về những mầu nhiệm thiên giới, điều này khiến họ khinh thường những người dốt nát không thể đạt đến những phạm vi cao siêu này.
Chính vì thế thánh Gioan nhấn mạnh rằng người Ki-tô hữu phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô và tuân giữ điều răn yêu thương, có như thế họ mới có thể vào trong cõi tâm giao với Thiên Chúa, trong mối liên hệ cá nhân với Chúa Cha và Chúa Con. Chúng ta gặp lại ở đây đề tài hiệp thông với Thiên Chúa, đây là đề tài trung tâm của bức thư và là nền tảng của sự hiểu biết chân thật về Thiên Chúa.
B.Hiệp thông với Thiên Chúa:
“Còn hể ai giữ lời Người truyền dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (2: 5). Trong lời phát biểu này “Tình yêu Thiên Chúa” muốn nói lên điều gì? Phải chăng “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” thực sự nên hoàn hảo nơi người Ki-tô hữu trung tín; hay là “tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa” trở nên hoàn hảo qua việc tuân giữ điều răn yêu thương?
Chúng ta gặp thấy câu trả lời nhờ một đoạn văn song đối lập lại cùng một kiểu nói: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (4: 12). Như vậy, chính “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” mới làm cho chúng ta nên hoàn hảo. Tuy nhiên, xuyên suốt bức thư này, thánh Gioan xem việc tuân giữ các điều răn là bản trắc nghiệm tình yêu của người Ki-tô hữu đối với Thiên Chúa. Lời nhắc nhở này được thánh Tông Đồ lập đi lập lại nhiều lần trong diễn từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).
Quả thật, hai viễn cảnh được đan quyện mật thiết với nhau. Vả lại, hai mệnh để phụ: “Còn hể ai…” và “Nếu chúng ta…” đều dẫn đến cùng một câu kết luận: “Tình yêu Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo”. Mục đích thật sự ở đây là làm cho người Ki-tô hữu thông phần vào cuộc sống thần linh. Đây là ý nghĩa của động từ “ở lại” mà thánh Gioan thường hằng lập đi lập lại.
TIN MỪNG (Lc 24: 35-48)
Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm những lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ Ngài. Vào Chúa Nhật trước, chúng ta đã đọc bài trình thuật của thánh Gioan, vào Chúa Nhật này, chính là bài trình thuật của thánh Lu-ca.
Trước đoạn trích Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca thuật lại cho chúng ta sự kiện Chúa Giê-su Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau. Như vậy, ngày Phục Sinh này là ngày dài nhất: khởi đầu với việc các thánh nữ đến viếng mộ lúc trời vẫn còn tối cho đến tận đêm khuya khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ. Quả thật, Chúa Giê-su chấp nhận đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau suốt ngày hôm ấy. Vào lúc trời đã xế chiều, Ngài đồng bàn với hai ông. Khi cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ thì họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài biến mất (x. Lc 24: 29-31). Ngay lúc đó, hai môn đệ này vội vả quay trở lại Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ đang tụ họp tại đó.
*1.Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau:
Xem ra thánh Lu-ca đã cô động những biến cố Phục Sinh vào cùng một ngày. Điều đáng chú ý chính là thánh ký luôn luôn nêu bật chiều kích Giáo Hội ở nơi cử chỉ của hai môn đệ trên đường Em-mau. Chính ở nơi các Tông Đồ mà hai người môn đệ quy chiếu về. Nhóm Mười Một vẫn là những chứng nhân cốt yếu của sự kiện Phục Sinh. Tuy vậy, kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau không bị giảm thiểu, nhưng đã được củng cố và được thu tóm một cách nào đó vào trong kinh nghiệm cộng đoàn. Vả lại, hai môn đệ này chắc chắn rất thân cận với các Tông Đồ, vì họ biết nơi các Tông Đồ bí mật tụ họp cùng nhau.
Như trong các bài trình thuật biến cố Phục Sinh của Tin Mừng Gioan, ở đây Đức Giê-su cũng bất ngờ xuất hiện giữa các môn đệ Ngài. Thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài, như Ngài sắp chứng tỏ điều đó, vẫn như trước kia khi Ngài còn sống giữa họ, nhưng cũng hoàn toàn khác. Đức Giê-su trở về bên cạnh Chúa Cha trong vinh quang đã không rũ bỏ nhân tính của Ngài. Sau khi sống lại, Đức Giê-su vẫn mãi mãi là Thiên Chúa và con người.
*2.Bình an cho anh em:
Lời cầu chúc này, chúng ta đã thấy rồi, còn hơn cả lời chào hỏi thông thường theo phong tục của người Do thái. Đây là bình an thời Thiên Sai, bình an mà Chúa Giê-su đã hứa ban khi Ngài tham dự Tiệc Ly với các môn đệ vào chiều thứ năm trước đó: “Thầy để lại cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14: 27). Bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban cho các môn đệ là bình an của Nước Trời, bình an của một đời sống trong Thần Khí sự thật (Ga 16: 13), nhiều lần được gợi lên trong Tin Mừng Lu-ca (Lc 2: 14; 2: 29; 7: 50; 8: 48; 10: 5-6; 11: 21; 19: 38; 19: 42; 24: 36).
*3.Tầm quan trọng của bằng chứng thể lý:
Thánh Lu-ca nhấn mạnh hơn thánh Gioan về nỗi khiếp sợ của các môn đệ, về sự cứng tin của các ông và về những vết thương khổ nạn mà Chúa Giê-su đưa ra để làm bằng chứng cho thấy Ngài thực sự đã sống lại. Thánh ký ngỏ lời với những người Hy-lạp và những người Rô-ma, những người này đã không biết đến Kinh Thánh. Chính vì thế thánh ký không trích dẫn Kinh Thánh, nhưng kể ra việc Chúa Giê-su “ăn một khúc cá nướng” trước mặt các ông.
Xem ra cử chỉ này không là một bằng chứng riêng lẽ. Để nhận ra Đức Giê-su thật sự đã sống lại, đây chỉ là một trong những bằng chứng như thánh Phê-rô sẽ công bố: “Chúng tôi đã cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10: 41). Trong chương 21 Tin Mừng Gioan, vì các môn đệ chưa nhận ra Ngài, Chúa Giê-su đã dọn sẵn một bữa ăn cho các môn đệ Ngài, sau khi các ông đã vất vả đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cả. Sau mẻ lưới cá lạ lùng, Ngài nói với họ: “Anh em đến mà ăn!”. Xem ra Chúa cùng ăn với họ bánh và cá mà Ngài đã nướng sẵn trên than hồng.
*4.Tầm quan trọng của bằng chứng Kinh Thánh:
Bằng chứng Kinh Thánh cũng quan trọng không kém gì bằng chứng thể lý. Chúa Giê-su đã nhấn rất mạnh bằng chứng Kinh Thánh khi Ngài giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (24: 44).
Cũng như hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa Giê-su cũng soi lòng mở trí cho các Tông Đồ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem để các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài cũng như những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước.
Việc “ôn cố tri tân” này (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày này (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các Tông Đồ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng các Tông Đồ quy tụ chung quanh Đấng Phục Sinh đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” (Cv 1: 6). Với những tâm trí chậm hiểu này phải nhắc đi nhắc lại mới mong các ông ngộ ra rằng vương quốc mà Kinh Thánh loan báo không là vương quốc Ít-ra-en trần thế, nhưng là vương quốc Thiên Chúa hoàn vũ. Biến cố Phục Sinh không là kết thúc một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là bắt đầu một công trình bao la mà giờ đây được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi.
*5.Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem:
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca nhấn mạnh nhiều nhất về tầm quan trọng của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Thánh ký đã bắt đầu sách Tin Mừng của mình với cuộc truyền tin cho ông Da-ca-ri-a về cuộc sinh hạ của Gioan Tẩy Giả trong đền thờ Giê-ru-sa-lem và kết thúc sách Tin Mừng của mình với cuộc hội ngộ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ cũng tại thành thánh Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, thánh Lu-ca đánh dấu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem với những móc điểm rõ nét nhất (“trên đường lên Giê-ru-sa-lem”: 9: 51; 13: 22; 17: 12). Theo thánh Lu-ca, thành thánh Giê-ru-sa-lem là nơi Chúa Giê-su hoàn tất sứ mạng của mình và cũng là nơi Giáo Hội khởi sự thi hành sứ mạng của mình.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NHẬN BIẾT ĐỨC GIÊSU- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Cv 3,13-15.17-19) : Bài giảng của Phêrô cho người do thái sau khi chữa lành một người què à “Anh em đã hành động (giết Đức Giêsu) mà không biết”.
– Bài Tin Mừng (Lc 24,35-38) : Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ Emmau à Hai ông đã nhận ra Đức Giêsu khi Ngài giải thích Sách Thánh và khi Ngài bẻ bánh.
– Bài đọc II (1 Ga 2,1-6a) : Dấu chỉ mình thực sự “biết” Chúa là tuân giữ giới răn Ngài.
Như thế bài giáo lý II này nhấn mạnh đến việc “nhận biết” Đức Giêsu.
*I. Dẫn vào Thánh lễ
Trên cuộc lữ hành dương thế, chúng ta không phải là người độc hành cô đơn phải tự mình giải quyết mọi vấn đề. Nhưng có Chúa cùng đi với chúng ta. Tuy vô hình nhưng Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Lời Ngài soi sáng tâm trí và sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe câu nói mà phụng vụ thường nhắc đi nhắc lại : “Chúa ở cùng anh chị em”.
*II. Gợi ý sám hối
– Đức Giêsu đã nói “Bình an cho chúng con”. Nhưng bình an có đang thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng ta và trong môi trường chúng ta sống không ?
– Đức Giêsu đã nói “Hãy ở trong Thầy”. Nhưng chúng ta có thực sự ở trong Chúa khi cầu nguyện, khi lãnh nhận các bí tích và khi sống trong cộng đoàn Giáo Hội không ?
– Đức Giêsu đã nói “Chúng con là nhân chứng của Thầy”. Nhưng chúng ta có thực sự làm chứng cho Chúa qua lời nói, việc làm và cách sống không ?
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I: Cv 3,13-15.17-19
Sau khi Phêrô chữa lành một người què tại cửa Đền thờ, nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân cơ hội này, Phêrô giảng một bài :
– Trong phần đầu bài giảng, Phêrô xác nhận người què này được chữa lành không phải nhờ quyền năng hay đạo đức riêng của ông, mà chính là nhờ Danh Giêsu.
– Qua phần hai, Phêrô nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ông nói người do thái đã giết Đức Giêsu vì họ không “biết”. Nay Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Việc này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đấng Messia. Vậy họ hãy sám hối và tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
*2. Đáp ca: Tv 4
Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng trông cậy phó thác : mặc dù đang ở trong cơn khốn khó, tín hữu vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình cho nên người tín hữu cảm thấy “thư thái bình an, vừa nằm tôi đã ngủ”.
Đức Giêsu chính là người sống tâm tình này tuyệt hảo nhất : Ngài đã “nằm ngủ” bình an trong tay Thiên Chúa rồi được Thiên Chúa cho “thức dậy” qua cuộc phục sinh.
*3. Tin Mừng: Lc 24,35-38
Hai môn đệ Emmau đã theo Đức Giêsu bấy lâu nay, họ nghĩ rằng họ “biết” Ngài. Theo cái “biết” ấy thì Ngài chỉ là “một tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ” và họ “hy vọng Ngài sẽ cứu Israel”.
Nhưng khi Đức Giêsu bị giết, họ mới ý thức rằng cái “biết” đó chỉ là cái họ “tưởng” chứ không phải là “biết” thật.
Đức Giêsu giúp họ “biết” thực sự, nhờ việc Ngài giảng giải Lời Sách Thánh và nhờ việc Bẻ bánh.
Khi đã “biết” Đức Giêsu, hai ông vội vã trở lại Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác “biết” nữa.
*4. Bài đọc II: 1 Ga 2,1-6a
Chịu ảnh hưởng của thuyết Ngộ đạo, các tín hữu cũng coi trọng sự “biết” và họ tự hào rằng mình đã biết Đức Giêsu.
Thánh Gioan tông đồ giải thích thế nào là “biết” thật : “Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình “biết” Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình “biết” Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối”.
*IV. Gợi ý giảng
* 1. “Biết” và được cứu độ
Vào khoảng cuối thế kỷ I, có một lạc thuyết nổi lên trong Giáo Hội, đó là thuyết Ngộ đạo. Thuyết này đề cao sự hiểu biết (“ngộ”) : ai đã đạt đến trình độ hiểu biết cao sâu về Chúa thì sẽ bảo đảm được cứu độ. Ngày nay, có nhiều người cũng lầm tưởng rằng nếu “biết” giáo lý, “biết” lề luật, “biết” Thánh Kinh thì cũng bảo đảm được phần rỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay xóa tan ngộ nhận ấy, cái “biết” có thể mang đến ơn cứu độ là cái “biết” do suy gẫm sách Thánh và kết hợp với Đức Giêsu Thánh thể. Bài trích thư thứ nhất Thánh Gioan cho thấy thêm một điều kiện nữa : không chỉ biết Chúa mà còn phải tuân giữ các giới răn của Ngài nữa thì mới được cứu độ.
* 2. Những cảm nghiệm Emmau
Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đó là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Ch. Perrot đã đoán lý do khác ấy là : “Người bạn của Clêôpát không được nêu rõ tên nhưng lại mang tên của mọi tín hữu“. Nghĩa là, theo suy đoán của Ch. Perrot, Thánh Luca cố ý không nêu tên người môn đệ kia vì muốn coi người ấy là đại biểu của mọi tín hữu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể trải qua những cảm nghiệm của người môn đệ ấy.
Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.
“Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Ngài” : Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức Giêsu phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến một lúc nào đó, nếu Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ quán, “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài“.
Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức Giêsu phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài ? Cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau cho thấy nhờ hai điều :
a/ Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh : “Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh“. Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó : “Dọc đường khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao ?”.
b/ Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể : “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài“.
Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.
*
Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh Thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không “cháy bừng lên”, và khi tham dự Thánh Lễ mắt chúng ta không “mở ra” ? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc với Đức Giêsu như hai môn đệ Emmau ; và chúng ta dâng Thánh Lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài.
Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.
*3. Cuộc sống mới của các môn đệ
Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ cũng chết luôn, chết về mặt tinh thần và về luân lý : nhóm 12 đã rã rời, vì Giuđa đã tự vẫn, Tôma đã bỏ đi do khủng hoảng đức tin, những người còn lại thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng.
Nhưng ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu phục sinh cũng làm cho họ sống lại : Ngài chủ động đến với họ chứ không chờ họ đi tìm Ngài, Ngài không nói một lời trách móc nhưng lại chúc bình an, Ngài ăn uống với họ để họ tin chắc Ngài vẫn sống, Ngài mở trí cho các ông hiểu ý nghĩa Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng cho muôn dân. Tất cả những việc làm tế nhị và yêu thương ấy đã giúp cho các môn đệ
– không còn sợ hãi
– không còn nghi ngờ
– không còn mặc cảm tội lỗi
– không còn buồn phiền
– không còn thất vọng
Con người cũ của các ông không còn, các ông như được sống lại trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.
*4. “Hãy nhìn chân tay Thầy“
Một người con kia rất yêu thương cha mình. Người cha là một nông dân, suốt đời cần cù lao động để nuôi sống gia đình. Khi người cha chết đi, lòng người con rất buồn rầu. Anh cứ đứng gần thi thể của cha mà nhìn, nhất là nhìn đôi bàn tay của cha. Anh nói : “Nhìn đôi bàn tay sần sùi chai sạm ấy, tôi nhớ lại tất cả những cực nhọc khổ sở mà cha tôi đã chịu vì yêu thương tôi”
Khi hiện đến với các môn đệ, Đức Giêsu cũng bảo họ hãy nhìn chân tay Ngài, những chân tay không phải chai sạm mà đầy những thương tích. Nhìn không phải chỉ để xác nhận Đức Giêsu hôm nay cũng chính là Đức Giêsu hôm qua bị đóng đinh, mà còn để nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Ngài : “Không có tình thương nào lớn hơn tình của người thí mạng sống cho người mình thương”.
Khi hiện ra với Tôma, Đức Giêsu cũng bảo ông hãy chạm đến các vết thương của Ngài, rồi Ngài nói : “Đừng hồ nghi nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,28). Tin gì ? Không chỉ tin là Ngài đã sống lại, mà còn tin vào tình thương của Ngài.
Tình Chúa thương ta là một điều chắc chắn, đã được đóng dấu bằng những vết thương trên thân xác Ngài. Chúng ta hãy tin chắc như thế, không có gì lay chuyển được.
*5. Biến cố làm đảo lộn lịch sử thế giới
Trong những ngày ấy, có hai người bước trên đường về Emau, một làng cách Giêrusalem vài cây số. Về Emau, có nghĩa là trở về hư vô, về cõi của những niềm hy vọng đã tan vỡ. Họ kiệt lực rồi, họ hết còn mơ mộng, họ cũng đã hết nhiệt tình. Trước đây, họ đã đi theo phong trào Giêsu với tất cả nhiệt huyết, họ cứ chắc mẩm rằng họ sẽ giải phóng thế giới khỏi cái ác, giải phóng dân tộc họ khỏi giới quí tộc Đền thờ và khỏi ách đô hộ La Mã.. Nhưng nay thì hết rồi Thầy đã chết, chết quá dễ dàng không một biểu hiện tự vệ. Các thủ lãnh phong trào Giêsu, những bạn đồng hành thân cận nhất của Thầy, những người mà Thầy tín cẩn, cũng đã lánh mặt vì khiếp nhược, vì thất vọng. Có người thậm chí còn bảo, anh Phêrô nhiệt tình là thế, bao giờ cũng tranh ăn trên nói trước, thế mà người ta bảo anh đã thề độc, đã chứng minh anh không hề quen biết Giêsu.
Thế là hết. Hai anh tưởng đã được tham dự vào một cuộc phiêu lưu độc đáo, khiến cho đời các anh có một ý nghĩa rực sáng, mở ra cho hai anh, mở ra cho mọi người một tương lai chan chứa niềm vui và niềm hy vọng. Vậy mà giờ đây họ chỉ còn những nuối tiếc, hận đời và dằn vật.
Một người khách lạ nhập bọn với hai anh, bảo hai anh kể cho ông ta nghe về những nỗi buồn và niềm bất hạnh của họ. Cái ông khách này là một người hiếm hoi, biết nghe người khác nói. Rồi ông ta giải thích cho hai anh nghe về lịch sử thế giới, bắt đầu bằng kể về ông Môisê và các ngôn sứ. Hai anh thấy lòng ấm dần lên, cởi mở dần ra. Đầu óc của hai anh, chậm hiểu hơn trái tim, chỉ nhận ra Ngài sau khi cùng Ngài chia sẻ bữa tối và sau khi Ngài khuất dạng.
Thế là hai anh quay lại, bước ra khỏi tăm tối và hư vô, trở về Giêrusalem. Những người các anh gặp lại ở Giêrusalem cũng đã từng trải qua những thất vọng não nề… Vậy mà những con người thảm hại ấy bỗng đứng lên, mạnh dạn tuyên bố rằng Đức Kitô đang sống, và bằng chúng thuyết phục nhất là chính họ đã thấy Ngài, thậm chí đã cùng ăn uống với Ngài.
Những điều họ nói, thật ra không phải một bằng chứng bằng chứng thuyết phục nhất là chính họ, những người thấp hèn, nhát gan, ít chữ nghĩa, nay dám đương đầu với mọi hiểm nguy và làm phục sinh lại phong trào Giêsu. Đến đâu họ cũng nhắc lại những lời yêu thương và giải phóng, những lời không hẳn được tất cả mọi người nghe theo, nhưng là những lời đã thay đổi lịch sử thế giới.
Vậy thì, trong những ngày ấy, đã có một biến cố xảy ra, như một vụ bùng nổ, làm xuất hiện niềm tin và thay đổi cuộc đời những người này. Đối với họ, biến cố đã xảy ra đó là, Đức Giêsu đang sống. Đức Giêsu đã phục sinh, và họ đã loan truyền cái tin ấy đến nỗi dám hy sinh cả mạng sống. Chẳng ai có thể đưa ra những bằng chứng để chứng tỏ điều đó. Ai cũng có quyền nghi ngờ. Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã rao giảng thì tôn trọng tự do của con người đến độ đẻ họ nghi ngờ và phủ nhận Ngài… Tuy nhiên, trong những ngày ấy, một biến bố đã xảy ra làm đảo lộn những người đàn ông, những người phụ nữ ấy, và đã làm đảo lộn thế giới. Jacques Duquesne (Nhà văn Pháp)
Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.
Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
*
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.
Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.
Sự sống của Đấng Phục sinh : Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.
Đức Hồng Y Danielou có nói : “Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta”.
Cha Charles de Foucauld quả quyết : “Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động”.
Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói : “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr.9,16).
Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.
*
Lạy Chúa,
Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi. Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.
Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.
Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và phải làm chứng về Chúa Phục sinh cho muôn dân. Ý thức trách nhiệm đó, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện :
- Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / luôn nêu gương khiêm tốn ăn năn sám hối về các thiếu sót lỗi lầm / và luôn kêu gọi mọi người ăn năn sám hối / để loại trừ bớt tội lỗi trong thế giới.
- Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết cộng tác với nhau để ngăn chặn chiến tranh / diệt trừ tội ác, khủng bố, giết người / và xây dựng một thế giới hòa bình hạnh phúc hơn.
- Chúng ta cùng cầu xin cho những nạn nhân của bất công khủng bố / những người vô tội bị bách hại / những người nghèo đói bị khinh chê / những người yếu đuối bị áp bức / được Đức Giêsu Phục sinh nâng đỡ và ủi an.
- Chúng ta cùng cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / luôn nhớ đến trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh cho mọi người chung quanh chúng ta.
Chủ tế : Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhớ lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô là ăn năn sám hối và dùng tất cả đời sống làm chứng về Người, để chúng con thực sự là môn đệ của Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
*VI. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu là Đấng công chính nhưng đã hiến thân làm lễ vật đền tội cho loài người chúng ta. Chính vì công nghiệp của Ngài mà chúng ta dám thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta rằng : “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
– Chúc bình an : Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã “ở giữa các môn đệ và nói ‘Bình an cho anh em”. Hôm nay nguyện chúc bình an của Chúa cũng hằng ở cùng anh chị em.
– Trước rước lễ : Đức Giêsu phục sinh đã mời các môn đệ đụng chạm vào thân thể Ngài và hãy tin. Bây giờ Ngài cũng mời chúng ta kết hợp với Mình Máu Thánh Ngài. “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng…”
*VII. Giải tán
Anh chị em đã biết rằng Đức Giêsu đã chịu nạn, chịu chết và sống lại để sinh on cứu rỗi cho loài người. Anh chị em phải làm chứng điều đó trước mặt mọi người. Chúc anh chị em về bình an.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH -B
CHÚA HIỆN RA VỚI CÁC SỨ ĐỒ- Chú giải của Học Viện Giáo Hoàng Đà Lạt
Họ còn đang nói: phần cuối nay của Tin Mừng cho biết Chúa Giêsu làm thế nào để giúp nhóm Mười Một hiểu được hoàn toàn sứ điệp Phục sinh: Nơi cc. 36-43, Chúa Giêsu chiến thắng sự cứng lòng tin của nhóm Mười Một bằng cách ban cho họ nhiều dấu chỉ ve thực tại của việc Người Phục Sinh (x. Cv 1,3); nơi cc. 44-49, người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh (x. cc. 25-27) và xác định bổn phận của họ là làm chứng nhân về việc sống lại của Người; nơi cc. 50-53, Luca kết thúc cuốn sách của ông bằng cách trình bày việc Chúa Giêsu tỏ uy quyền Chúa và được các môn đồ nhìn nhận.
Bình an cho các ngươi: Những chữ này được rất nhiều thủ bản sao xác nhận là có, tuy nhiên lại thiếu nơi một vài chính bản giá trị. Nhiều nhà phê bình cho rằng chúng được mượn từ Ga 20, 19.
Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được: Luca tìm được một lời bào chữa cho sự cứng lòng tin của Nhóm mười một. “Họ dâng cho Người một miếng cá nướng”: ở đay cũng như trong Cv 10,40, Đấng Phục sinh ăn uống. Viết như vậy, Luca muốn cho thấy thực tại thể lý của sự Phục sinh, nhưng điều này lại gây khó khăn cho độc giả Hy lạp của ông (x Cv 17,32; 1Cr 15,12).
Môisen, các Ngôn sứ cung Thánh vịnh: Việc gọi tên Thánh Kinh như thế này thật là độc đáo vì dành một chỗ cho các Thánh Vịnh (so sánh 24,27). Truyền thống Tin mừng đã nhiều lần sử dụng các Thánh Vịnh như những lời loan báo về cuộc Khổ nạn, và trong Công Vụ, Luca sẽ thường xuyên trích dẫn Thánh Vịnh như những lời tiên tri về Mầu nhiệm Chúa Kitô.
Rồi Người nói với họ (c.46): Các câu 46-48 trình bày hết mọi chủ đề của lời rao giảng sứ đồ như thấy xuất hiện trong sách Cv: việc sử dụng Thánh Kinh (Cv 2,23-32; 4,10-11; 13,28.29.33.37; 26,22-23), rao giảng sự hối cải và ơn tha thứ (2, 38; 3,19; 5,31; 10,43; 15,38-39; 26,18); vai trò chứng nhân được trao cho nhóm Mười hai (1,8; 2,32; 3,15; 5,32; 10,41; 13,31).
KẾT LUẬN
Niềm tin vào Chúa Giêsu chính là công trình của Đấng Sống lại; việc hiểu Thánh Kinh cũng thế. Thánh Kinh Cựu ước chỉ dẫn đến chỗ nhận ra Chúa Giêsu, nhận ra Cứu Chúa của Israel và của thế giới, nếu được hiểu trong ánh sáng Phục sinh. Sau cuộc Phục sinh, không biết Thánh Kinh là có lỗi (Cv 3,17-26). Đối với người Do thái cứng tin, Kinh Thánh sẽ là một lời buộc tội; đối với Giáo hội, kẻ giải thích Thánh Kinh trong đức tin vao sự Phục sinh, thì Thánh Kinh là ơn cứu thoát.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Kitô chết trên thập giá đã sống lại thật, trong xương thịt đàng hoàng. Các sứ đồ đã tưởng là ma (điều này, một cách nào đó có lợi cho chúng ta): thành thử họ phải biết rõ thực hư về việc hiện ra này. Việc họ lúc đầu không tin là một bảo đảm cho sự vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin này không dựa trên chứng từ của những kẻ dễ tin, dễ bị ảnh hưởng bởi ngoại tại, nhưng dựa trên đức tin của những con người thực tế, tầm thường biết đòi hỏi các dấu chỉ và bằng chứng. Do đó, chứng từ của họ càng trở nên mạnh mẽ hơn, vì đây không phải là chứng từ của mê tín, mà của lòng cứng tin biết phê bình nhưng đã được thắng vượt.
2) Nhiều người thời nay phải chăng không giản lược Chúa Kitô phục sinh vào một loại ma quái, một vật nào đó hơn là một cứu người, một huyền thoại hơn là một Ngôi vị đang sống? Theo họ, cùng lắm thì Chúa Kitô là một kiểu mẫu cho cả cho nhân loại, cống hiến cho mọi người một học thuyết nữa những tấm gương đáng khen, nhưng Người không còn sống nữa, không “ngồi bên hữu Chúa Cha” trên trời, cung chẳng hiện diện trong bánh rượu thánh hiến.
3) Chung chung, ở đây không phải là vấn đề cảm giác hay kinh nghiệm chủ quan cá nhân, nhưng là vấn đề đức tin, tin hết mọi điều Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta, trên điểm nay cũng như trên các điểm khác, qua Thánh Kinh và truyền thống sứ đồ, tin điều Giáo hội đã, đang và sẽ dạy khắp nơi, trong niềm tin vào Đấng sống lại. Cũng không có vấn đề những gì các nhà thông thái suy tưởng và phát minh ra, vì đây không phải là những suy luận thuần túy tự nhiên, nhưng là một nhận thức, là một sự chắc chắn thuộc một trật tự cao siêu, quý giá hơn mọi cái trên đời hiện hữu. Tin vào Đấng Phục sinh, chinh là đón nhận chứng từ của một nhóm sứ đồ và môn đồ của Chúa Giêsu, những kẻ đã lấy máu mình quả quyết trước thế gian và cho rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá rồi Phục Sinh trong một thân xác vinh hiển, vượt thắng những điều kiện thông thường của thời gian và không gian.
4) Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều hiểu lầm, nhiều trở ngại và ngay cả nhiều khổ đau tinh thần nữa: như xét bên ngoài, nhiều Kitô hữu, vì hèn nhát, tỏ ra ích kỷ hơn, hà tiện hơn, kiêu căng hơn, dâm ô hơn hơn một số người ngoại giáo. Nhưng mọi Kitô hữu đều biết rằng Chúa Kitô phục sinh muốn họ hối cải: Người muốn tha thứ tất cả và làm cho họ trở nên những sứ đồ của người theo chân các sứ đồ tiên khởi: “Chính các con là những chứng nhân về những điều đó”. Đức tin bắt buộc chúng ta dấn thân cho Chúa Giêsu Kitô như chứng nhân của Người trước mặt thế gian.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- B
NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc ben. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bai cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.
Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau kho để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền cac ông tới bến bình an… Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gap thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những noi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thanh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- A
CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất cả. Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được. Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người. Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:
1) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC ĐỒNG HÀNH CHIA SẺ
Bối cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát. Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới. Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ mộng, that vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.
Mà đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.
Vâng, Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ. Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa. Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hanh chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.
2) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG CỐ TIN YÊU
Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng. Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.
Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phai. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cư đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.
Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.
3) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH BẺ RA CHO ĐỜI
Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phai là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đang Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hoi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin von đang chao đảo hoang mang của họ.
Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.
Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này. Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mau cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.
Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa. Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chu động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.
Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.
CHÚA NHẬT III PHU4C SINH– B
LÀM CHỨNG VỀ THẦY– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Muốn làm chứng đầy đủ về ai, người ta thường kể tiểu sử nhân vật đó từ khi sinh đến khi chết. Về các anh hùng, danh nhân, sử sách thường ghi những chiến công, những thành tích siêu quần bạt chúng: Hưng Đạo với chiến thắng oai hùng Bạch Đằng, Quang Trung với chiến thắng thần tốc Đống Đa.
Đức Giêsu làm chứng mình đã sống lại thật, bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các tông đồ tin, Người đã làm hết mọi cách, từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.
Về tâm lý: Người chúc lành cho các ông: “Chúc anh em được bình an”. Bình an là trạng thái hòa hợp lành mạnh trong tâm trí, trong cơ thể và trong tương giao với người khác. Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Cần thiết Chúa phải ổn định tinh thần các ông, làm cho tâm trí các ông bình tĩnh, lành mạnh, yên hàn, các ông mới sáng suốt nhận định rõ ràng. Khi các ông được bình an, Chúa mới chỉ cho các ông thấy về thể lý bên ngoài.
Về thể lý: Người bảo các ông phải phân biệt rõ ràng Thầy khác với bóng ma hiện về: Người chết hiện về, chỉ là bóng ma không rờ xem xương thịt được. Còn Thầy: Thầy đưa chân tay, xương thịt cho các ông rờ xem. Các ông đã nhìn tận mắt, xỏ tận lỗ đinh chân tay Thầy. Ma không ăn uống như người sống, còn Thầy, Thầy cầm lấy khúc cá nướng do chính các ông đưa và Thầy ăn trước mặt các ông.
Về lịch sử: Khi các ông đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi Thầy mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môisê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.
Đó là những sách người Do thái đọc mỗi ngày Sabbat trong các hội đường. Họ thấy rõ toàn bộ Kinh thánh diễn tả toàn bộ lịch sử dân tộc hướng về Đấng Cứu Thế. Mỗi một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc đều là một điển hình chỉ về Đấng Cứu Thế, như: Noe, Abraham, Giacóp, Giuse, Môisê, Giosuê, David, Salômon … Nhưng không một vĩ nhân nào hội đủ mọi tư cách của Đấng Cứu Thế. Đời sống mỗi vị đó chỉ diễn tả được vài tư cách đặc sắc của Đấng Cứu Thế. Chỉ có Đức Giêsu, Đấng độc nhất, hội đủ moi nhân cách và hoàn thành mọi ưu điểm của Đấng Cứu Thế, vì chính Người là Đấng Cứu Thế. Mỗi một tiên tri cũng chỉ loan báo một vài mầu nhiệm về Đấng Cứu Thế, dù vĩ đại như Êlia, Êlisê, Isaia, Giêrêmia hay Êzêkiel cũng không thực hiện được đầy đủ lời Thiên Chúa mặc khải cho họ. Các vị ấy đều thấy mình bất xứng như tiên tri Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi là người môi miệng nhơ bẩn, ô uế” (Is. 6, 5).
Chỉ mình Đức Giêsu là Đấng thực hiện mọi mầu nhiệm làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (Mc. 1, 11).
Đức Giêsu nói cho các tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Người. Nếu Kinh thánh không ứng nghiệm về Người, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Kinh thánh loan báo về Đấng Cứu Độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv. 4, 12). Để thấy rõ như thế Người đã “dẫn giải cho các ông những điều viết ve Ngài trong toàn bộ Kinh thánh” (Lc. 24, 27 theo Nguyễn thế Thuấn dịch). Để có thời gian giải thích, chắc Người phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là bốn mươi ngày được ghi rõ trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” (Cv. 1, 3).
Thời gian bốn mươi ngày đã quá đủ để các tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.
Đến lượt các tông đồ được Người trao cho sứ mạng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em làm chứng về những điều này”.
Trong bài đọc một, Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv. 2, 41).
Bài đọc hai, Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.
Đức Kitô đã làm chứng về Người đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Người.
Chúng ta không làm chứng về Đức Kitô, chúng ta là người không có lòng mến Thiên Chúa và biết được mình không ở trong Đức Kitô, thì chúng ta không thể được sống lại vinh quang với Người.
Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho chúng con biết làm chứng về Đức Giêsu Kitô bằng đưa bình an đến cho mọi người, bằng hy sinh chịu thương khó phục vụ mọi người, bằng học hỏi và loan truyền lời Chúa và nhất là thực hiện sống đúng với lời mình nói. Như Chúa Giêsu đã thực hiện đúng với lời Thánh Kinh và lời Người loan báo: “Con Người phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, sẽ từ cõi chết sống lại”.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH-B
DANH CHÚA GIÊSU- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã thường sai các sứ thần, sứ giả, các tiên tri và cac tổ phụ cha ông để truyền dạy về mầu nhiệm ơn cứu độ. Khi thời đã mãn, Thiên Chúa sai chính Con Một Ngài là Đức Giêsu xuống thế để mạc khải về Nước Trời. Đức Giêsu là Chúa, qua Ngài muôn loài được tạo thành. Danh thánh Chúa Giêsu là danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu: “Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2,10). Danh Chúa Giêsu có quyền lực biến đổi và chữa lành mọi vết đau thương cả hồn lẫn xác. Trong tất cả các lời cầu nguyện chính thức của Giáo Hội đều kết thúc bằng lời cầu: Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết, các Tông đồ đã chứng kiến, gặp gỡ và cùng ăn uống với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã minh chứng rằng Ngài không phải là ma hay bóng hình, mà là người sống thật. Chúa Giêsu đã chỉ cho các ông thấy dấu đinh nơi tay chân và cạnh sườn bị đâm thủng. Chúa đã cùng đồng hành trên đường, đối thoại với hai môn đệ và bẻ bánh phân chia. Niềm xác tín vững vàng, các tông đồ đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng, cho dù đối diện với muôn vàn trở ngại khó khăn. Các Tông đồ đã nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân. Ông Phêrô nói với dân chúng: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38).
Qua thánh giá, Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù là tội lỗi và ma quỷ. Thánh giá là chìa khoá mở cửa để vào Nước Trời. Triều thiên vinh quang phải đi qua thánh giá. Chúa Giêsu đã giải thích cho các Tông đồ con đường thánh giá phải đi qua để vào Nước Chúa. Ngài trao ban cho các ông quyền lực để thắng vượt tội lỗi và sợ hãi. Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ hãy làm nhân chứng về sự sống lại của Ngài cho mọi người. Chúng ta nghe và đọc nhiều bài tường thuật rất đơn sơ, chân thành về sự kiện Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các bà, các tông đồ, môn đệ và nhiều người khác. Chúa hiện ra với mỗi người qua mỗi hình thức trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Mỗi lần Chúa hiện ra đều có ý minh chứng và củng cố thêm lòng tin của các môn đệ vào sự sống lại.
Các môn đồ sống với tâm hồn rat đơn sơ chất phác. Những thắc mắc, ngờ vực và lo âu của các môn đồ là rất thật. Sau khi Thầy của mình đã bị giết chết và chôn trong mộ đá, các môn đồ sống trong tinh thần hoang mang lo sợ và bỏ đi tản mác. Có những mon đồ chán nản bỏ về quê nhà. Trên đường về làng Emmaus, Chúa Giêsu phục sinh đã xuất hiện như người khách lạ cùng đồng hành với các ông để giải thích Kinh Thánh và mở con đường mới dẫn vào Nước Trời. Thật là nhiệm mầu, Chúa đã sống lại rồi, đâu ai có thể gây hại gì cho Chúa nữa. Đôi khi tôi tự hỏi: Sao Chúa không ra mặt công khai công bố tin vui và quy tụ mọi người về một mối? Chúng ta cũng nhớ rằng sứ mệnh rao truyền Tin Mừng cua Đấng Messia thì âm thầm và ẩn giấu. Tư tưởng và đường lối của Chúa thì không phải của loài người.
Thiên Chúa rất kiên nhẫn đợi chờ. Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chúa muốn gặp gỡ với từng tâm hồn. Chúa mở lòng cho mỗi người có cơ hội để cảm nhận được tình Chúa. Nước Trời như hạt cải bé nhỏ được gieo trồng, đâm chồi nẩy lộc và phát triển. Lời giống Lời Chúa cứ tiếp tục tung gieo trên khắp cánh đồng. Những tâm hồn vui vẻ đón nhận và chăm nom vun tưới, hạt giống sẽ sinh hoa kết quả. Khởi đầu Giáo Hội, với con số rất khiêm nhường, chỉ có 12 tông đồ, trong đó một vị đã bỏ cuộc và cùng với 72 môn đệ, các bà đạo đức, một số người than thiện cảm tình theo Chúa. Họ là nhóm nòng cốt. Chúa Phục Sinh đã trao quyền cho các vị ra đi làm nhân chứng và rao giảng Tin Mừng thống hối. Hầu hết các môn đồ đã lấy mạng sống mình để minh chứng niềm tin vào Chúa Kito sống lại.
Thánh Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng sự thật: Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi. Và các tông đồ đã làm chứng rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Giờ đây các ông chỉ lấy danh Người mà làm các phép lạ chữa lành. Phêrô cũng thành thật chia sẻ rằng chúng tôi không dùng quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chính mình mà làm các sự lạ. Khi chữa lành cho anh què tàn tật, ông Phêrô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Tất cả năng quyền được trao ban cho các ông đều nhờ qua Danh Chúa Giêsu Kitô. Mọi sự đều phải quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Ngài là đầu của Nhiệm Thể.
Chúa Giêsu đã sai các Tông đồ ra đi làm nhân chứng và truyền rao ơn cứu độ. Các Tông đồ đã xả thân mình vì đức tin. Với một sức mạnh thúc đẩy nội tâm, các ông không còn rụt rè, sợ hãi nhưng kiên vững xác tín rao giảng về cuộc đời của Chúa. Chính Chúa là lẽ sống, là đá tảng và sức mạnh. Tất cả mọi quyền lực thế gian, áp đặt của kẻ thù, bắt bớ, tù tội, gươm giáo và chết chóc không làm lung lạc niềm tin. Các tông đồ vững mạnh tuyên bố rằng: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4,10).
Thánh Phaolô, vị Tông đồ sinh sau đẻ muộn trong Đức Kitô, cũng mạnh dạn tuyên xưng danh Chúa: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này! Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất” (Cv 16,18). Nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh, mọi quyền lực thế gian phải quỳ phục. Hãy tự vấn xem có khi nào chúng ta thực tình dùng Danh Thánh Chúa để chế ngự các nết xấu, xua trừ ma quỷ hay làm một việc gì tốt không? Nhiều lần chúng ta đã chối từ, lẩn tránh và ngại ngùng tuyên xưng danh Chúa. Rất thường chúng ta không dám tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô nơi công cộng. Đôi khi chúng ta không dám làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng mot Chúa Ba Ngôi nơi bàn ăn. Chúng ta giả vờ sống như những người không tin. Hoạ theo những thói tục hư đốn, truỵ lạc, đàm tiếu, gian dối và tỏ ra mình sành chơi, sành điệu không thua kém gì người không biết Chúa.
Nhìn vào cuộc sống của người Kitô hữu, chúng ta phải chân nhận rằng đã có quá nhiều lần chúng ta phân rẽ chi thể mầu nhiệm của Chúa. Chúng ta dựa vào niềm tin để đả phá, ghen ghét và xa tránh nhau. Lời của Thánh Phaolô nhắc nhơ: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1,10). Sống tinh thần của Chúa Kitô Phục Sinh là sống tinh thần yêu thương trong an bình. Nhân danh Chúa Kitô, chúng ta là sứ giả của hoà bình, là nhân chứng của tình yêu và là môn đệ của sự khiêm nhường phục vụ.
Lạy Chúa, xin đoái nhìn đến đoàn con của Chúa. Nhờ Mầu nhiệm Vượt qua, Chúa đã biến đổi tâm hồn và thân xác chúng con. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô sống lại, để mai sau cùng chung hưởng vinh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- B
NIỀM TIN THẮNG VƯỢT SỢ HÃI- Lm. Fx. Lê Văn Nhạc
Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người thiếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.
Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn, càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngựa. Cậu con thưa với vẻ do dự:
– Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.
Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:
– Với đèn sáng này, con thấy rõ đến đâu ?
Cậu trả lời: Con thấy rõ tới nữa đường ra cổng.
Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: Từ đó con nhìn tới đâu nữa ?
– Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.
Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
– Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
Thưa anh chị em,
Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối phục sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,47-50).
Chúng ta có thể đặt hai câu chuyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự phục sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác phục sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Chúa đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ ?” Lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạng thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì)?. Rồi Ngài đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy” rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã phục sinh và đang sống với anh em.
Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây ?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Anh chị em thân mến,
Chúa Phục sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác phục sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các ông luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.
Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này, thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gủi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin ?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai ?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế ? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin ?”…Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: Chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!
Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH-B
GẶP CHÚA GIỮA LÒNG ĐỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giêsu, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết trong đau thương và mang niềm hy vọng của họ xuống mồ.
Đang lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hanh với mình là Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa phục sinh lại bất thần có mặt giữa các môn đệ trong một căn phòng tại Giê-ru-sa-lem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giêsu hiện về!
Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người lại đe nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vậy.
Rồi tiếp đó, Chúa Giêsu dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
* * *
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giêsu mà không nhận ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của Người (ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17), Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngươi (Mt 25, 40)… [“Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận” (ICr 12, 27);
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15);
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (I Cr 10, 17).
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).]. Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello, có ngụ ngôn sau đây:
Một con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
– Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người đời thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá già nói:
– Đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
– Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi khác.
[Anthony de Mello trong tác phẩm: “Như tiếng chim hót”]
Con cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại dương.
Chúng ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa, chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt trong cùng một mái nhà, một xưởng máy… Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người. Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng chưng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Con cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ la một nên nó đã hoài công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em đang sống quanh mình. Amen.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- B
LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SBD
Phục sinh kêu gọi mọi người sám hối?
Cả ba Phúc âm nhất lãm đều đề cập tới lần Chúa hiện ra với nhóm mười một tông đồ. Về lần hiện ra quan trọng này, chi tiết bên ngoài của biến cố hình như không được các thánh sử quan tâm diễn tả cho lắm; chỉ có tường thuật của Lu-ca là đi vào một số chi tiết để chứng minh nhân vật hiện ra đích thực là Đức Giê-su mà các ông đã từng quen biết. Điều mà các tác giả quan tâm tới nhiều hơn là sứ điệp Chúa Phục Sinh muốn thông đạt cho cả nhóm. Chính Đấng Sống Lại đòi nhóm mười một và toàn thể những ai coi mình là môn đệ của Người phải trở thành ‘chứng nhân về những điều (sư điệp) này’. Không may ngày nay, người ta lại thích nói tới sự kiện phục sinh khải hoàn hơn là đề cập tới sứ điệp của nó, tới độ rất ít khi tín hữu được nhắc nhở hoặc quan tâm tìm hiểu sứ điệp phục sinh thực sự là gì!
Sứ điệp Phục Sinh gồm hai phần chính:
– ‘Kêu gọi sám hối để được ơn tha tội’
– ‘Nhân danh Người rao giảng (điều này) cho muôn dân’
Sám hối để được ơn tha tội: Mát-thêu và Mác-cô đã nói tới nội dung này khi đề cập tới lenh truyền: ‘làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28:19), hay lời giải thích: ‘ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ’ (Mc 16:16). Sứ điệp ‘hãy sám hối’ đã được Gio-an Tẩy Giả từng hô hao từ những ngày đầu, trước cà khi Đức Giê-su xuất hiện công khai, qua nghi thức dìm mình xuống giòng sông Gio-đan. Như vậy, sau ngày sống lại, khi Đức Giê-su Ki-tô long trọng công bố trở lại sứ điệp này thì chắc hẳn nó phai chứa đựng một điều gì hoàn toàn mới lạ và cấp bách. Để có thể hiểu được tầm quan trọng của sứ điệp mà Đức Giê-su đã dày công giảng giải cho các môn đệ hiểu, rằng đó chính là trọng tâm của các sách Ngôn Sứ và Thánh Vịnh… nói tóm lại, của toàn bộ Kinh Thánh, ta cần đi sâu vào nội dung của nó. Đương nhiên sám hối đây không thể được hiểu theo nghĩa ‘cải tà qui chính’ – thuần tính luân lý. Sau biến cố Phục sinh, sám hối càng lộ rõ sứ điệp Tin Mừng của một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, một khám phá và tín thác không ngừng vào Thiên Chúa đầy lòng xót thương “yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một…” Qua biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su mà mười một tông đồ chắc hẳn đã chứng kiến, các ông phải được giải thích cho hiểu ý nghĩa và nội dung của nó. Quả vậy các ông phải tin và trở thành ‘chứng nhân về những điều này’! Phục sinh chính là để hiểu và nắm bắt sâu sắc sứ điệp đã được công bố ngay từ đầu “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nói cách khác, sứ điệp chính yếu và long trọng nhất của Tin Mừng Phục Sinh lại chính là hãy “Sám hối để đươc ơn tha tội”.
Rao giảng cho muôn dân: Bằng các kiểu nói khác nhau (Mát-thêu: ‘Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ; Mác-cô: ‘Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng; Lu-ca: ‘Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đều từ Giê-ru-sa-lem…’), các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm đều cho thấy phần hai của sứ điệp Phục Sinh là một ‘lệnh lên đường’. Phúc âm Gio-an còn nêu rõ sứ điệp này là chính yếu và quyết liệt hơn hết: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em…” Và để chu toàn ‘lệnh lên đường’, đồng thời để có thể ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’, Thánh Thần đã được trao ban cho các môn đệ; ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’ (Ga 20:22), hay ‘Nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống’ (Lc 24:49) theo cách nói của Lu-ca. Nếu Đấng sống lại không còn bị chi phối bởi không gian và thời gian, thì sứ điệp cứu rỗi của Chua Phục Sinh lại càng không thể bị giới hạn, không những bởi không gian và thời gian, mà còn bởi văn hóa, sắc tộc, truyền thống, thậm chí luân lý, cho dầu có ‘bán khai’ hay ‘man rợ’ tới mấy. Phục Sinh chính là tình yêu cưu độ của Thiên Chúa từ nhân được minh chứng là vô giới hạn, không gì ngăn cản nổi. Lệnh lên đường hay truyền giáo phải dựa trên nhận thức ơn cứu độ phổ quát và tình yêu xót thương của Thiên Chúa vượt xa sự hạn hẹp cua loài người.
Tôi không chỉ ‘mừng’ Chúa Phục Sinh, mà còn phải ‘sống’ Chúa Phục Sinh. Và sống Chúa Phục Sinh trước hết phải là lắng nghe và loan truyền cho mọi người sứ điệp Phục Sinh thật cấp bách của Đức Ki-tô khải hoàn.
Lạy Chúa Kitô, Đấng Phục Sinh, xin dạy con biết tiếp nhận và sống sứ điệp phục sinh cách ý thức và mạnh mẽ. Trong tư cách là Ki-tô hữu hay linh mục, chính con phải là người đầu tiên sống ‘sám hối’ theo nội dung phục sinh, để có thể trở thành chứng nhân trung thực của sứ điệp cứu rỗi. Cũng xin cho con hiểu được tình yêu cứu độ của Chúa là không biên giới, để con hăng say lên đường gieo rắc tình yêu và lòng thương xót Chúa cho mọi dan nước. Amen.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- B
CHỨNG TỪ PHỤC SINH- Lm. Phêrô Hồng Phúc
Trong suốt những lần hiện ra cùng các tông đồ, luôn luôn, những lời chào chúc đầu tiên của Chúa Giêsu là: “Bình an cho các con”. Đây là những gì mà khi trao sứ vụ cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã từng dạy các ông: “Đừng mang bao bị, tiền túi dọc đường nhưng vào làng nào, thành nào, các con hãy chúc bình an cho người ta”.
Dường như, Chúa muốn dạy cho các tông đồ rằng: “Kho tàng của các con duy nhất là sự bình an, trao ban cho những nơi các con đến” và mùa Phục Sinh này, chúng ta được chứng kiến Chúa Giêsu đã trao ban kho tàng ấy cho các ông: “Bình an cho các con”. Bình an vượt trên những sợ hãi, đóng kín cửa trong nhà; bình an để các ông có thể yên tâm ra khơi, cho dẫu cả đêm không bắt được con cá nào; rồi bình an của Chúa đến, sự hiện diện của Chúa sẽ làm cho các ông được đầy thuyền cá lớn. Hơn nữa, sự bình an của Chúa hôm nay còn trao ban cho các ông một sứ mệnh rất lớn lao: “Các con sẽ là chứng nhân những sự kiện đó”. Từ đây, bài học không còn là lý thuyết nhưng là chứng từ của cuộc sống về Chúa Kitô Phục Sinh. Với chứng từ này, các tông đồ tiếp tục trao ban bình an cho thế giới. Sự bình an vượt trên mọi sợ hãi, âu lo, trao ban niềm hy vọng và kiến tạo hạnh phúc cho thế giới. Chứng từ về Chúa Kitô Phục sinh là một chứng từ mạnh mẽ nhất về sự chiến thắng thế gian, chiến thắng tử thần. Chứng từ Phục Sinh mở ra cho chúng ta viễn ảnh về sự sống đời đời mà chúng ta được mời gọi sống trong sự sống ấy. Hay nói một cách cụ thể hơn là sống trong sự sống của chính Thiên Chúa Ba Ngôi: Yêu thương, hiệp nhất và vĩnh cửu.
Các tông đồ là những người còn phân vân không phải nghi ngờ Chúa, nhưng nghi ngờ về giác quan của mình, về mắt mình có thể nhìn sai, về trí tưởng tưởng của mình có thể vẽ ra những gì là “tự kỷ ám thị”. Chúa Giêsu đã ăn trước mặt các ông để làm chứng cho các ông rằng: “ma đâu có xương thịt như các con thấy thầy có đây”. Chúa Giêsu ăn trước mặt các ông không phải vì nhu cầu đói, không phải vì nhu cầu phải ăn mới sống nhưng ăn để làm chứng sự hiện hữu của Chúa trong con người của Giêsu đã từng bị đóng đinh, đã từng bị giết chết.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các tông đồ rằng: Chúng ta ăn để sống và sống để làm chứng nhân Phục sinh của Chúa Kitô. Đừng coi ăn là mục đích để rồi chỉ sống mà ăn. Chúa Giêsu đã cho các ông thấy một nhãn giới cao hơn trong mục đích của đời sống con người. Như vậy, các ông đã hiểu ra rằng: Cuộc sống ở đời nay là phương tiện để đưa các ông đến với Thầy và làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, là làm chứng về một cuộc sống đời đời và trao ban bình an cho thế giới. Đó là sứ mệnh của các ông.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hieu ra rằng: tất cả mọi sinh hoạt, tất cả cuộc sống trần thế, chúng ta đang có đây là những phương tiện giúp chúng ta đến với một niềm hy vọng. Niềm hy vọng để biến chúng ta thành chứng nhân của Tin Mừng và chứng nhân ay được Giáo hội nhắc lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong thánh lễ mỗi ngày: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xứng Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Xin giúp chúng con ý thức sứ mệnh này để đến lượt chúng con lại tiếp tục ra đi làm chứng nhân Tin Mừng cho Chúa trong thời đại chúng con đang sống. Amen.
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH- B
NIỀM TIN VÀO SỰ CHẾT VÀ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các môn đệ khó chấp nhận việc Chúa sống lại, cũng như trước đây khi nói về việc lên Giêrusalem, các môn đệ cũng khó chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Chúng ta còn nhớ rõ lắm khi Chúa Giêsu nói Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô đã phản ứng quyết liệt: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
Chúa muốn Phêrô hãy trở lại vị trí của mình là môn đệ của Chúa. Là môn đệ thì phải theo sau sư phụ. Sư phụ đi trước, đệ tử theo sau. Nhưng ở đây Phêrô lại cả gan dẫn dắt Chúa, chứ không để Chúa dẫn dắt mình, nên Chúa đã phải nói: “Phêrô hãy lui về đàng sau Ta…
Phản ứng quyết liệt của Phêrô cho chúng ta thấy Phêrô không muốn chấp nhận cái chết của Chúa. Rồi chúng ta còn thấy gì nữa nơi hai môn đệ trên đường Emmau. Hai ông buồn lắm, bởi vì ba năm theo Chúa, bây giờ công toi. Chán nản thất vọng, trở về quê nhà. Tất cả đều muốn nói với chúng ta là các môn đệ không muốn chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết thê thảm, một cái chết ô nhục. Một cái cái chết làm tiêu tán tất cả mọi hy vọng trong ba năm theo Chúa.
Rồi trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy gì?
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người:
Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông Đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với những mức độ khác nhau.
Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng Chúa đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông Đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến thể lý, từ lịch sử đến việc chứng minh được thực hiện đúng lời đã hứa.
Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông Đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn ma hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ mó được. Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.
Rồi chúng ta còn thấy gì nữa? Tôma nhất định không tin việc Chúa sống lại và Tôma nói rằng “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng có tin. (Ga 20,25)
Tất cả những điều trên muốn nói với chúng ta rằng: thật khó mà chấp nhận sự kiện Chúa Giesu sống lại. Nhưng cuối cùng, các tông đồ đã chấp nhận cái chết và Phục Sinh của Chúa.
Nhìn lại đức tin của các tông đồ và đức tin của chúng ta có một sự khác biệt rất lớn.
Có thể nói chúng ta dễ chấp nhận cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng cái mà chúng ta gọi là đức tin đó chẳng ăn nhằm gì tới cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đã nghe, đã đọc rất nhiều lần về cái chết và phục sinh của Chúa, nhưng chúng ta cũng chỉ đọc như đọc một tiểu sử danh nhân nào đó. Chúng ta chỉ có một chút thán phục và sau đó chẳng còn một chút nào dính dáng đến cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta tin, nhưng chúng ta không cảm nhận thấy một cái gì liên hệ đến chúng ta. Ở đây chúng ta thấy rất rõ, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống của các ngài, nên không dễ gì cácngài chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Nếu đã không chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu thì làm sao tin được sự sống lại của Chúa.
Ấy thế mà cuối cùng các tông đồ đã chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, chính vì vậy các tông đồ đã được đi vào vinh quang phục sinh của Ngài.
Còn chúng ta như thế nào?
Nhà thần học Paul Tillich nói: “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin đích thực”.
Ở đây, có thể nói chúng ta chẳng nghi ngờ gì cả. Chính ở điểm này làm chúng ta phải suy nghĩ: một đức tin quá dễ dàng cũng đồng nhĩa với một đức tin hời hợt, một đức tin hời hợt chắc chắn sẽ chẳng có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của chúng ta và như vậy chẳng bao giờ chúng ta được chung hưởng vinh quang phục sinh với Chúa Giêsu. Một cảnh báo vô cùng quan trọng cho mỗi người chúng ta để nhìn lại đức tin của chúng ta.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #syniemloichuachuanhatiiiphucsinh