CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
KÉO MỌI NGƯỜI LÊN VỚI TÔI (*)-Noel Quession.. 6
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP- Chú giải của Fiches Dominicales 15
GIỜ CỦA ĐỨC GIÊSU (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 26
Ý THỨC VỀ Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ VIỆC ĐỨC GIÊSU CHỊU NẠN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 41
GIỜ CỦA CHÚA GIÊSU- Chú giải mục vụ của Alain Marchabour 55
HẠT LÚA MỤC NÁT- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt. 61
CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI– Lm. Phêrô Lê Văn Chính 66
GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB 72
TRAO BAN LÀ NHẬN LÃNH- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 77
HẠT LÚA GIÊSU- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 82
VƯỢT QUA SỰ CHẾT ĐỂ VÀO CÕI SỐNG- Lm. Đan Vinh HHTM.. 87
ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 104
HÀNH TRÌNH TỰ HỦY- Lm. GB. Trần Văn hào SDB.. 109
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: “Ðây tới ngày Ta ký kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như giao ước Ta đã ký kết với tổ phụ của chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập; giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng”. Chúa phán: “Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”. Chúa phán: “Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: “Ngươi hãy nhìn biết Chúa”, vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 14-15
Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
Xướng: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
Xướng: Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
BÀI ÐỌC II: Dt 5, 7-9
“Người đã học vâng phục và đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời”.
Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 12, 26
Chúa phán: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó”.
PHÚC ÂM: Ga 12, 20-33
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: “Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu”. Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáp: “Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: “Một thiên thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
KÉO MỌI NGƯỜI LÊN VỚI TÔI (*)-Noel Quession
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” .
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. “Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết . Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!”. Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người “Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin “gặp” Đức Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người “Hy Lạp” này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! “nó mang lại nhiều hoa trái”; “Nó lôi cuốn mọi người”. Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: “Này đây, giờ đã đến” (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ “ưu việt” đó chính là giờ thập giá: Giờ “tôn vinh” Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ “xét xử và cứu độ” thế gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp” đến xin “gặp” Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: “Đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh”; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: “Và đây xuất hiện thập giá”. Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, “hình tướng” về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ “chết” của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài .
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói nữa.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP- Chú giải của Fiches Dominicales
*1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề “những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề “Giờ của Chúa” (tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, “có mấy người Hy lạp” muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên Chúa dịp lễ Vượt Qua? Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô sau này, là dấu chỉ loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm.
Họ tìm “gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ “lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể giúp làm môi giới cho họ được.
“Ông Philipphê đi nói với ông Anrê” cùng sinh trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
”Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1, 35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
*2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức Giêsu sẽ mở ra cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo thật anh em” cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau “trơ trọi một mình” và “sinh được nhiều hạt”. Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra, nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
- Léon-Dufour quảng giải thêm: “Cuộc sống có thể được coi như là “của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại, thì này đây sự “chết” ấy không có gì khác là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời đời”. Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy” (Lecture de l’evangile selon Jean”, quyển II, Seuil, trang 464).
*3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ choán hết. Thế nên lời “Thầy xao xuyến” cũng như lời nguyện cùng Cha “Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này” được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: “Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: vùng lên như một bản tóm lược “kinh Lạy Cha” vậy (kinh này không có trong Tin Mừng Gioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha” (O.C. trang 169) .
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở đây ngài nhắc đến “có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng “đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: “Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha Người long trọng xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy” (idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người rằng: “Giờ Con chưa đến”, thế mà Người cũng “đã tỏ vinh quang” Người cho các môn đệ. Giờ đây, “Giờ đã đến” lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. “Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ “đã tin vào Người? Từ nay khi được “giương cao lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật, Người sẽ phải chết cách nào và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ “kéo mọi người lên theo với Người” và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
- Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi của những người Hy lạp muốn “gặp” Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống”. Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).
BÀI ĐỌC THÊM.
*1) “Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản”
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội hiện nay. Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
“Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà: chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những “người đề nghị” đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mủng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 16).
*2) Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, người Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người, không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo và người bị loại trừ được coi như “bí tích của Đức Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên nếp sống của con người.
– Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo dục và từ thiện nữa.
*3) Sức năng động của lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm.
Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người. Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người, ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số 3).
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
GIỜ CỦA ĐỨC GIÊSU (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B được cấu trúc theo cùng một nét chung: ở giữa những nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy hy vọng.
Gr 31: 31-34
Khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và Đền Thờ bị thiêu hủy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: “Này sẽ đến ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại diễn ngữ nầy khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).
Dt 5: 7-9
Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cái chết của Ngài, “Đức Giê-su trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu” cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
Ga 12: 20-33
Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tỉnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)
Chúng ta thường nghĩ rằng thuật ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn: “Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn ngữ nầy vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, thuật ngữ nầy được gặp thấy rồi trong Cựu Ước. Thuật ngữ nầy xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một “Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn.
Kinh nghiệm nầy được hình thành qua hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời kỳ hưng phấn: cuộc cải cách của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách nầy, là triều đại của vua Mơ-na-se, vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.
*1.Thời kỳ hạnh phúc:
Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta tìm thấy “sách Luật”. Có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn cốt yếu của sách này. Sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).
Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo triệt để: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ hội bộc phát trở lại. Chính vào thời điểm nầy mà những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự, nghi lễ, nhưng đã không thể biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không quên bài học nầy.
*2.Thời kỳ bi thương:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa, không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề. Vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm nầy đã được ứng nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu sang Ba-by-lon; Đền Thờ bị thiêu hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ hai.
Qua tấn thảm kịch này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định của Thiên Chúa: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, thành thánh hoang tàn đổ nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá. Đây không phải là những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao? Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị thiêu hủy, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả khi diễn tả niềm hy vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Nầy sẽ đến những ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới”. Đây không còn là Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trong cuốn sách luật như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng “Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta”.
Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau nầy được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta nữa” (32: 39-40).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ người nhỏ đến người lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo nhau.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày tại Ba-by-lon cũng thoáng thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36: 26-27).
Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một cuộc sống trong Thần Khí rồi. Với tư cách là một người đạo hạnh thường hằng đối thoại với Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a xứng đáng được gọi là “cha của kinh nguyện”. Chính từ môi miệng của ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được loan báo.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)
“Thư gởi tín hữu Do thái” thật ra không là một “bức thư”, vì tác giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan đề: “thư gởi tín hữu Do thái”, xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).
Bức thư nầy được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt vời, vị Thượng Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu thượng tế.
Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu những cuộc bách hại và mang nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên biểu, bức thư nầy chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng tự Đền Thờ như đang hiện hành cách sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố nầy, vì biến cố này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.
Đoạn trích ngắn nầy diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch tính.
*1.Kiếp sống phàm nhân (5: 7):
Qua những lời này: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (5: 7), chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện thống thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu của Ngài lên cùng Cha Ngài trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27: 46). Dù thế nào, tác giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận cùng những yếu đuối của chúng ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời Ngài” (5: 7), nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước. Để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.
*2.Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9):
Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.
“Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (5: 8). Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư tưởng này vào Đức Ki-tô: “khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ” (5: 9). Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà Ngài tự nguyện chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tuyệt mức đem lại ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người anh em của nhân loại vừa Con Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái” nầy.
TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).
Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc lễ Vượt Qua sắp đến gần.
Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốn được gặp” Đức Giê-su (12: 21). Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp của niềm tin rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người Hy lạp nầy đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ.
Câu chuyện nầy thật cảm động. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm cho Ngài xao xuyến. Dù thánh Gioan không ghi lại nỗi xao xuyến của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi xao xuyến nầy.
*1.Niềm tin của những người Hy-lạp:
Những người Hy-lạp nầy lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.
Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài. Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu độ phổ quát đã điểm.
*2.Giờ của Đức Giê-su:
Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương dân, nay Ngài biết rằng giờ của họ đã đến, Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn nầy” (Ga 10: 15-16). Những chiên khác không thuộc ràn nầy, chính là những lương dân này, họ cầu xin được gặp Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (12: 23).
Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước hiệu nầy quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn nầy cho phép Đức Giê-su diễn tả tính siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm con người Ngài.
Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Sọ. Thật ra, việc tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và cuộc Thăng Thiên ngự bên hữu Chúa Cha, mà bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa được hiện thực. Chúa Giê-su diễn tả chân lý nầy bằng một sự so sánh rất giản dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12: 24).
*3.Lời mời gọi theo Ngài:
Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9: 22-23). Chính đó là câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Hy-lạp mong ước được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12: 26). Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con đường với Ngài.
Viễn cảnh con đường đau khổ nầy làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút nầy, Đức Giê-su không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại ngay: “Chính giờ này mà con đã đến!” (12: 27). Thêm nữa, một tiếng phán từ trời đem lại nguồn an ủi cho Ngài.
*4.Tiếng phán từ trời:
Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời (x. Ga 1: 31-34). Đoạn văn nầy là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (12: 28). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã tôn vinh Ngài qua bảy dấu lạ mà Đức Giê-su đã thực hiện, nay Chúa Cha sẽ còn tôn vinh Ngài hơn nữa qua dấu lạ cuối cùng vĩ đại nhất, đó là Thập Giá. Điều đó nói lên sự hiệp nhất vinh quang giữa Chúa Cha và Chúa Con trong công trình cứu độ loài người.
Đây là dấu lạ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là dấu lạ mà người Biệt Phái đã đòi hỏi nhưng bị từ chối (x. Mt 16: 1-4)? Đức Giê-su chỉ ban dấu lạ nầy vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định rồi.
*5.Cuộc chiến thắng trên Xa-tan:
Ngay khi tâm hồn xao xuyến, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc ban đầu. Quả thật, ơn cứu độ mà Ngài đạt đến cho thế gian ở nơi Thập Giá sẽ đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ thoát khỏi quyền thống trị của sự Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng nầy: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Động từ “giương cao lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được nâng lên cao” vừa “được tôn vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được siêu thăng bên cạnh Chúa Cha. Theo cùng một cách thức như vậy, Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14-15) và với những lãnh đạo Do thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8: 28).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
Ý THỨC VỀ Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ VIỆC ĐỨC GIÊSU CHỊU NẠN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay, tuần sau sẽ là Tuần Thánh. Để giúp chúng ta vào Tuần Thánh một cách sốt sắng, hôm nay Phụng vụ Lời Chúa giúp chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị việc chịu nạn sắp tới của Đức Giêsu.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Chính vì tội lỗi chúng ta mà Đức Giêsu đã phải chịu chết cách đau đớn và nhục nhã trên Thánh Giá.
– Đức Giêsu đã lấy chính máu mình để thiết lập Giao ước mới giữa Thiên Chúa với loài người. Thế mà chúng ta thường xuyên vi phạm Giao ước ấy.
– Đức Giêsu đã dùng Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thế mà chúng ta không yêu mến những thánh giá hằng ngày của chúng ta.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I: Gr 31,31-34
Ngày xưa ở Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel, theo đó Ngài hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu quả là họ phải bị mất nước và bị lưu đày.
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới : Giao ước mới này không ghi trên đá mà ghi tận đáy lòng con người ; tinh thần của Giao ước này là tình thương và tha thứ : “Mọi người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta” và “Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”.
Đức Giêsu là Đấng thực hiện lời tiên báo đó.
- Đáp ca: Tv 50
Trong tâm tình chân thành sám hối, tác giả Tv 50 nài xin Chúa một mặt tẩy sạch các tội lỗi của mình, và mặt khác tạo cho mình một quả tim mới.
Một quả tim mới để khắc ghi Giao ước mới. Đó cũng là tâm tình hợp với lời tiên báo của Giêrêmia.
- Tin Mừng: Ga 12,20-33
Đức Giêsu đang nghĩ tới việc Ngài sẽ chịu nạn chịu chết để cứu độ loài người. Việc một số người hy lạp – tức là người ngoại – xin gặp Ngài khiến Ngài ý thức rằng giờ cứu độ ấy đã điểm. vì thế mặc dù tâm hồn Ngài xao xuyến nhưng Ngài cũng hân hoan tuyên bố “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh… Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Nghĩa là Đức Giêsu coi cái chết của Ngài là vinh quang cho Ngài và nguồn cứu độ cho mọi người.
- Bài đọc II: Dt 5,7-9
Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là “căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài”.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Biện chứng giữa chết và sống
Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau : sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Vài thí dụ :
– Nơi thực vật : những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ dưỡng cho cây.
– Nơi sinh vật : các thức ăn phải “tiêu” mới “hóa” thành lương thực.
– Trong cõi nhân sinh : những người già chết đi để nhường đất và hoa màu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
– Ngọn nến : sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
– Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói : hạt lúa có thối đi thì cây lúa mới nẩy mầm.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
* 2. “Đã đến Giờ Con Người được tôn vinh“
“Giờ” này không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ trong dòng thời gian, không đo bằng đồng hồ, không tính theo toán học gồm 60 phút, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng đánh dấu bắt đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Đó là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Chính vì thế, Đức Giêsu nói “Đã đến giờ con người được tôn vinh”. “Con người” đây vừa là Đức Giêsu mà cũng vừa là loài người, vì mọi người đều là “con người”. Chẳng những Đức Giêsu được tôn vinh mà mọi người cũng được tôn vinh nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
* 3. Các vai trong vỡ tuồng thập giá
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta thấy rõ những người có liên hệ trong cái chết của Đức Giêsu.
– Hai vai chính là Chúa Cha và Đức Giêsu : Đức Giêsu thưa “Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha” ; và tiếng từ trời vọng xuống “Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Cuộc đối thoại bằng những lời lẽ cao siêu này vượt quá tầm hiểu biết của những người có mặt ở đấy hôm đó. Vì thế có người cho là tiếng sấm và có người cho là tiếng thiên thần à Cái chết của Đức Giêsu là kết quả của một sự đối thoại và thỏa thuận giữa Chúa Cha và Đức Giêsu để thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người.
– Nhưng loài người cũng có liên quan : Đức Giêsu nói “Tiếng đó phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi” à Cuộc đối thoại trên là một mặc khải cho loài người : Tuy họ không hiểu tại sao Đức Giêsu chết, cũng chẳng hiểu tại sao chết mà là tôn vinh, nhưng họ được nói cho biết cái chết ấy là vì họ và cho họ.
– Do đó, đương nhiên mỗi người cũng có liên hệ : “Hãy theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó” à Thập giá là con đường dẫn đến tôn vinh. Mỗi người chúng ta có đi theo Đức Giêsu trên con đường thập giá thì mới đến được chỗ Đức Giêsu ở và mới được tôn vinh như Ngài.
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại :
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái ; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố : “Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ”. Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói : “Mười trong số những người này phải trả nợ”. Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên : “Tôi xin chết thay cho người này”. Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ : “Tại sao muốn chết ?” Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời : “Tôi là linh mục Công giáo”.
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
*
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt’ (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống ? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã ? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em ? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại ? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức : “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người : “Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này” (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết : “Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết”.
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người : “Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đàng.
*
Lạy chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Chết đang khi sống
Nhiều người coi sống và chết là hai sự việc nối tiếp nhau : khi không còn sống nữa thì chết. Nghĩ như thế là vì người ta chỉ biết có mỗi một sự sống, là sự sống của thể xác, và cũng chỉ biết có mỗi một sự chết, cũng là sự chết của thể xác.
Thực ra, sống và chết là hai việc đi song song với nhau trong cùng một đời người. Bởi vì có tới hai sự sống và hai sự chết : sự sống chết của con người thể xác và sự sống chết của con người đích thực. Câu nói của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này hàm chứa hai sự sống chết đó : “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn : ai cố bám víu vào sự sống của con người thể xác thì sẽ đánh mất sự sống của con người đích thực ; còn ai dám để cho sự sống của con người thể xác chết đi thì đồng thời bồi dưỡng cho sự sống của con người đích thực.
Bởi đó, có người dám nói : “Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
– mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
– mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
– mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung bạo chết đi.
– mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh. (Viết theo Flor McCarthy)
* 6. Tâm sự của Đức Giêsu
Tôi cảm động vì lời Đức Giêsu thổ lộ tâm sự : “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến”.
Đức Giêsu đã tâm sự rất thật thà. Ngài nói thật với các môn đệ rằng Ngài xao xuyến trước cái chết sắp tới. Không phải vì Ngài đã từng khuyến khích họ mạnh dạn hy sinh mà nay Ngài phải che dấu cảm xúc xao xuyến của mình. Ngài cũng không muốn làm bộ anh hùng bất khuất. Cảm thấy thế nào, Ngài nói thế đó.
Tôi cũng muốn tìm hiểu xem vì sao mà Ngài xao xuyến.
– Chắc hẳn Ngài xao xuyến vì không cam tâm chịu chết. Một con người mới 30 tuổi đang tràn đầy sức sống mà phải chết ư ?
– Ngài còn xao xuyến hơn vì phải chết cách đau đớn. Chết đóng đinh trên thập giá là khổ hình tàn bạo nhất trong các hình thức xử tử.
– Nhưng Ngài xao xuyến sâu xa hơn nữa là vì sự nhục nhã khi phải chịu xử tử như thế. Gần giống như một võ sĩ vô địch mà phải nhận chỉ thị phải thua một võ sĩ hạng thấp hơn mình, không chỉ phải thua bằng tính điểm mà còn phải thua bằng “knock out” nhục nhã. Ngài chết như thế thì những kẻ thù ghét Ngài sẽ hả hê như thế nào ? Và những môn đệ thân yêu của Ngài sẽ hoang mang như thế nào ?
Bởi vậy, Đức Giêsu đã thốt lên lời van xin : “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”. Tuy thế, Ngài mau mắn thưa tiếp : “Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
Đức Giêsu thật tội nghiệp ! mà cũng rất đáng phục !
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, trước ngưỡng cửa cuộc tử nạn và tôn vinh của Đức Giêsu, Hội thánh muốn giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã trở nên như hạt lúa mì bị chết đi để sinh nhiều hạt khác. Chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu sau đây :
- Đức Giêsu đã dạy : nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình / Chúng ta cầu xin Chúa cho Hội thánh trong lòng thế giới / không khép kín để tự vệ / nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người.
- Đức Giêsu đã dạy : “Khi Tôi được treo lên, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”. Chúng ta cầu xin Chúa cho các thủ lãnh trên thế giới đừng ai từ chối hoặc chống lại công trình cứu độ do tình thương của Chúa.
- Đức Giêsu đã dạy : “Hạt lúa có chết đi, thì mới sinh được nhiều hạt khác” / Chúng ta cầu xin Chúa cho những người tàn tật ốm đau, già yếu, bị tù đày / biết dùng đau khổ mình đang chịu để sinh ích lợi cho nhiều người khác.
- Đức Giêsu đã dạy : “Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ được ở đó” / Chúng ta cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta biết noi gương phục vụ của Chúa / để luôn quan tâm chu toàn mọi trách nhiệm của mình trong gia đình, trong họ đạo và trong xã hội.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống để chúng con được sống thật. Xin Chúa đánh tan thói ích kỷ, sợ khó, và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con, để chúng con trở thành môn đệ thực sự của Chúa, biết sẵn sàng hy sinh phục vụ mọi người chung quanh chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY -B
GIỜ CỦA CHÚA GIÊSU- Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
Đoạn này kéo dài điều đã được nói về Chúa Giêsu từ chương 11. Giờ tôn vinh của Chúa Con được loan báo trong 11, 4 đang trở thành hiện thực. Trong 11,51-52 Gioan tuyên bố rằng cái chết của Chúa Giêsu sẽ dẫn tới việc mở rộng sứ vụ của Chúa đến với mọi người. Đó là ý nghĩa sự kiện mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu.
Phần dẫn: Những Người Hy Lạp (12, 20-22)
Những người Hy Lạp ở đây không phải là những người Do Thái sinh sống ở Hy Lạp hay nói tiếng Hy Lạp. Từ ngữ này chỉ những người ngoại giáo mới theo đạo (những người thiện cảm với đạo Do Thái nhưng không muốn chịu phép rửa). Lần đầu tiên những người không phải Do Thái này tiếp cận Chúa Giêsu được khéo léo sắp xếp như là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Những người xuất thân từ đa thần giáo này trước hết đã chọn Thiên Chúa của Israel. Họ chuẩn bị cho một bước chuyển tiếp mà theo thánh sử là đi từ Do Thái giáo đến Chúa Giêsu là đích điểm. Họ muốn “gặp” Chúa Giêsu, chắc chắn theo nghĩa mạnh của việc “tin vào Người” (12,45; 14,9). Ông Philipphê, một môn đệ thường được Gioan nhắc đến (12 lần), làm người trung gian (như trong 1,45; 6,5). Sự môi giới của ông có liên quan gì đến tên Hy Lạp của ông không? Xuất thân từ một miền đất đa phần còn ngoại giáo, ông có khả năng nói tiếng Hy Lạp. Việc ông đi nói với ông Anrê (người cùng làng Betsaiđa với ông) càng tăng thêm tầm quan trọng của sự môi giới để đến gặp Chúa Giêsu.
Theo thói quen của mình, Gioan tăng nhiều chi tiết kể chuyện ở phần đầu bài trần thuật, như là để níu chân độc giả. Sau đó tất cả đều dừng lại: còn kết quả việc mấy người Hy Lạp gặp Chúa Giêsu như thế nào, chúng ta không biết gì hết. Từ nay thánh sử tập trung bài trần thuật của mình vào Chúa Giêsu.
Giờ (12, 23-26)
Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến. Việc anh Ladarô sống lại biểu hiện trước giờ này: việc mấy người Hy Lạp tìm đến tỏ rõ giờ được thực hiện. Các người Hy Lạp không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp. Người nói với các môn đệ và điều Người nói bao gồm trước hết các môn đệ được gọi sau này nên truyền đạt cho người ngoại giáo hiểu rằng trong cái chết của Chúa Giêsu, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người.
Sự mặc khải được long trọng nhấn mạnh bằng hai lần: “Thật, Thầy bảo thật anh em”. Giờ, vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả từ sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Chúa Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Sự tương phản mà Chúa Giêsu đưa ra, ở giữa chết hoặc sống ít hơn là ở giữa chết hay mang lại nhiều hoa trái. Cũng như hạt giống, Chúa Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái cho mọi người.
Cái chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội. Cái chết của Chúa Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12,26). Quả vậy các câu 25-26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Chúa Giêsu. Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, thế gian này, sự vinh quang riêng mình.
Ở đây nữa vẫn là vấn đề đức tin, dù nó không rõ ràng như trong Nhất Lãm, ở đó nhấn mạnh mối tương quan với Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Tương quan với Chúa Giêsu được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Chúa Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vinh quang. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã nói: “Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
*****
GIỜ
Từ “giờ” được sử dụng 26 lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, giờ này còn chưa đến. Thân mẫu của Chúa Giêsu, khi muốn cậy nhờ đến con mình, được nghe trả lời rằng “Giờ của con chưa đến” (2,4). Việc tìm bắt Chúa Giêsu không thực hiện được cũng vì lý do đó (7,30; 8,20). Nhiều lần Chúa Giêsu tiên báo tình trạng sắp xảy ra vào một giờ mà từ đó mọi sự sẽ trở nên rõ ràng hơn (16,25). Việc thờ phượng sẽ ở trong Thần Khí (4,21-23), sự sống sẽ chiến thắng sự chết (5,25).
Sự hồi hộp được khéo léo khơi dậy khi, đối diện với những người ngoại giáo muốn gặp Người. Chúa Giêsu loan báo rằng cuối cùng giờ đã đến (12,23). Bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cuối cùng giờ tôn vinh đã đến (13,1; 17,1). Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 14,35.41). chỉ có mình Gioan đã gieo vãi xuyên suốt Tin Mừng của mình những quy chiếu vào một biến cố của lịch sử. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá. Thời điểm này không thuộc vào niên đại kỷ. Một lần xảy ra, nó luôn luôn hiện thực và kéo dài hiệu quả nhằm lợi ích của tất cả những ai gắn bó với Lời.
*****
Tâm trạng xao xuyến, tiếng từ trời và lời mặc khải (12, 27-36)
Giờ đang xảy đến cùng với sự chôn vùi trong cái chết, tất phải có sự kinh qua đau thương mà nỗi xao xuyến và sầu não không thể không có. Trong khi trình thuật cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, Gioan loại bỏ những gì quá chú ý của Người, như cơn hấp hối. Thế nhưng ông lưu giữ lại một vài yếu tố và phân tán chúng đây đó trong Tin Mừng của mình. Ở đây ông trích dẫn những từ ngữ và những dụng ngữ như nhắc lại sự xao xuyến của Chúa Giêsu, hoặc lời Người nói về Giờ: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”, cần xuất phát từ đó (ta có thể so sánh đoạn này với Mc 14,33-36). Việc Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha được đặc biệt nhấn mạnh và lời Người: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” vang dội như lời tóm tắt “kinh Lạy Cha” (không có trong Gioan). Chúa Giêsu là người đầu tiên, từ bỏ mình để lắng nghe Chúa Cha.
“Có tiếng từ trời vang xuống” (c. 28). Lần đầu tiên trong Gioan (trái với hai lần trong Nhất Lãm, vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa và biến hình, x. Lc 9,28-36), Chúa Cha lên tiếng nói cùng Chúa Con. Hơn nữa đoạn của Gioan không có liên quan gì đến biến cố biến hình ở đó sự biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu đi kèm với cuộc đối thoại về cuộc Xuất hành của Chúa Giêsu (nghĩa là cái chết của Người). Luca cũng nghĩ đến sự tiếp gần cơn hấp hối khi “một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Trong cả hai trường hợp, có thể có những điểm giống nhau giữa hai truyền thống Tin Mừng. Thế nhưng Gioan hành xử cách sáng tạo, tuyển chọn và tái tạo các dữ kiện của truyền thống cho mục tiêu thần học của mình.
Do đặc tính duy nhất và vị trí ở vào cuối năm phần thứ nhất của Tin Mừng, sự can thiệp này của Chúa Cha xuất hiện như sự long trọng chứng thực của Chúa Cha về Chúa Giêsu như là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Đó là cách phê chuẩn đầy vinh quang, được ban cho một phần ngay từ lúc này đây còn một phần nữa được hứa trong tương lai. Cuộc Thương Khó đối với Người quả là một thử thách đầy vinh quang.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- A
HẠT LÚA MỤC NÁT- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI– Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Cái chết là định mệnh của con người. Ai rồi cũng phải chết, dù giàu nghèo sang hèn. Dầu vậy lời hứa của Thiên Chúa thúc đẩy chúng ta tin tưởng và can đảm để sống những thực tại mới mẻ của sự phục sinh. Bài đọc sách tiên tri Giêrêmia nhắc lại những lời hứa ban tặng sự sống mới của Thiên Chúa nhắc nhở mỗi người hướng đến sự sống mới đầy tràn mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Sự sống mới này bắt nguồn từ Thánh Thần Thiên Chúa, lôi kéo con người ra khỏi nấm mồ sự chết để đến với sức mạnh Phục sinh viên mãn của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ biểu lộ sức mạnh chiến thắng sự chết này của Thiên Chúa khi làm phép lạ cho Lazarô sống lại để mời gọi mọi người tin vào Người để được tham dự vào sự sống vĩnh cửu muôn đời. Chúa nhật thứ V mùa chay cũng là chúa nhật đi trước tuần thánh, chúng ta được mời gọi tin vào phép lạ Chúa Giêsu làm cho Lazarô sống lại để tin tưởng chính Người là sự sống và là sự sống lại. Đây là dấu chỉ thứ bảy trong tin mừng Gioan, dấu chỉ lớn nhất đến độ được xem là tiền báo cho sự thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu.
Hai chị em Marta và Maria là những người thân tín và tin tưởng vững mạnh vào quyền năng của Chúa Giêsu. Ngược lại, họ cũng là những người được Chúa Giêsu rất yêu mến. Khi Lazarô lâm trọng bệnh, hai chị em đã nhắn tin cho Chúa Giêsu, mong ước người sẽ đến để chữa cho Lazarô, người mà Chúa Giêsu yêu mến, được lành bệnh. Dầu vậy, Chúa Giêsu đã không đến như hai chị em mong đợi, người để cho đến khi Lazarô chết và được chôn cất bốn ngày mới đến thăm. Chúa Giêsu đã nhân dịp này chứng tỏ cho các môn đệ hiểu người có quyền năng làm cho người chết sống lại. Vì thế người nói với các ông : «Lazarô bạn của chúng ta đang ngủ, thầy đi để đánh thức anh ấy dậy ». Theo lời Chúa Giêsu nói, các môn đệ vẫn còn nghĩ rằng Lazarô chỉ ngủ một giấc bình thường, dầu vậy Chúa Giêsu đã ám chỉ đến cái chết của Lazarô và việc người sẽ làm cho anh được sống lại. Phản ứng của các môn đệ luôn đi sau những gì mà Chúa Giêsu muốn nói. Đứng trước những lời của Chúa Giêsu, các môn đệ chứng tỏ sự thiếu hiểu biết và vì thế cần được huấn luyện và dạy bảo bởi lời Chúa.
Khi Chúa Giêsu đến, hai chị em đã đón tiếp người, và Martha đã thưa với Chúa Giêsu là Lazarô đã chết được bốn ngày. Dầu vậy, bà vẫn biểu lộ một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Ngay cả khi Lazarô đã chết, Martha cũng tin rằng Chúa Giêsu có thể xin Cha để cho Lazarô được sống lại : «Con biết ngay cả bây giờ, thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho thầy ». Trong lời đối thoại với Chúa Giêsu, Martha đã diễn tả lòng tin mạnh mẽ của mình như một người do thái đạo đức. Chúa Giêsu nói với bà : « em con sẽ sống lại ». Martha đã thưa : «Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại thì em con sẽ sống lại ». Martha đã tuyên xưng đức tin của một người do thái đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một lời mạc khải quyết định về quyền năng ban sự sống của mình, Người chính là Đấng ban tặng sự sống, nên những ai tin vào người sẽ không phải chết và dù có chết cũng sẽ được sống. Chúa Giêsu còn muốn xác định rõ hơn nữa chính người là Đấng ban sự sống cho những ai sẵn sàng tin vào người: «Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin Ta thì sẽ không chết bao giờ ». Martha đã tuyên xưng rất mạnh mẽ xác tin vào Chúa Giêsu, «Thầy là Đấng Kitô, và cũng là Con Thiên Chúa ». Martha là hình ảnh báo trước người tín hữu là người sẽ đạt tới lòng tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đến trong thế gian để ban tặng sự sống vĩnh cửu. Người là Đấng ban tặng sự sống theo hình ảnh của Thiên Chúa là Đấng hằng sống: «Vâng con tin thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian ». Không những chỉ có Martha, hình ảnh mới mẻ của người tín hữu mà Phúc âm cũng trình bày hình ảnh rất dễ mến của Maria. Maria đến gặp Chúa Giêsu và bà cũng nói lời gần giống với lời của Martha : «Thưa thầy, nếu thầy ở đây thì em con không chết », diễn tả phần nào thái độ thiếu sót trong lòng tin, dầu vậy, Phúc âm cũng cho chúng ta thấy những phản ứng rất bình thường của con người đứng trước cái chết. Maria đã khóc nức nở, những người do thái cũng đã khóc nức nở, và Chúa Giêsu đã thổn thức và xúc động.
Tình yêu và lòng tin tưởng của các môn đệ cũng như của chị em Martha và Maria dù sao vẫn còn nhiều giới hạn so với lòng mong đợi của Chúa Giêsu. Sự xác tín của các ngài vào quyền năng của Chúa Giêsu vẫn còn bị ràng buộc vào cảm nghiệm của con người trước sức mạnh của cái chết và sự yếu đuối bất lực của con người đứng trước cái chết. Các ngài đã tin là Chúa Giêsu có thể làm phép lạ, nhưng vẫn chưa có được nhận thức rõ rệt là chính Chúa Giêsu có quyền lực chiến thắng sự chết và ban tặng quyền lực này cho những ai tin. Hành động của Chúa Giêsu vượt lên trên những kinh nghiệm của con người và mạc khải điều thực mới mẽ. Lòng tin vào Chúa Giêsu giải thoát con người chúng ta khỏi những giới hạn của kinh nghiệm hạn hẹp của con người để hướng tới đời sống phục sinh vĩnh cửu.
Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô được sống lại từ trong cõi chết muốn nói lên nhiều điều vượt quá việc ông được trở lại với đời sống bình thường và đem đến cho mọi người lòng tin tưởng mới. Việc Lazarô đã chết rồi được sống lại báo trước hành trình đi từ sự chết đến sự sống của Đức Giêsu và của mỗi người chúng ta. Việc Chúa Giêsu cho Lazarô chết được sống lại lớn lao như thế nào thì quyền năng Phục sinh của Người trên sự chết sẽ lớn lao hơn và sẽ được mạc khải nơi sự phục sinh của người. Lazarô được trở lại đời sống của con người, nhưng dù sao sau đó ông cũng sẽ lại chết, trái lại sự Phục sinh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện và ban tặng cho chúng ta là một Đời sống mới bất diệt, khi mà chúng ta sẽ không còn phải chết nữa. Đây là quà tặng của đời sống mới, của ơn cứu độ, do bởi Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong cõi chết. Câu chuyện Lazarô dẫn đưa chúng ta vào mầu nhiệm vượt qua mà chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống mới Phục sinh của Chúa Giêsu. Martha và Maria cũng như dân chúng đã tin vào Chúa Giêsu bởi vì họ đã chứng kiến dấu lạ Lazarô được sống lại. Thách đố của chúng ta là phải đạt đến chiều sâu của niềm tin sẽ giải thoát chúng ta khỏi những mong đợi giới hạn của con người, khỏi những kinh nghiệm tự nhiên để sống thực sự cảm nghiệm sức mạnh quyền năng Phục sinh của Chúa Giêsu trong những công việc bình thường hằng ngày. Kinh nghiệm mới mẻ này sẽ là tin tưởng mạnh mẽ mà không gặp thấy dấu chỉ nào trong những góc cạnh đen tối và mờ nhạt của đời sống hằng ngày. Chúa Giêsu đã xác định với Martha rằng người là sự sống và là sự sống lại cho những ai có lòng tin vào người. Điều ngạc nhiên khi chúng ta lắng nghe lại lời khẳng định này của Chúa Giêsu, đó là chúng ta đã bắt đầu chia sẻ sức mạnh phục sinh này trong cuộc đời hiện tại rồi. Hẳn nhiên là chúng ta chỉ có thể chia sẻ trọn vẹn mọi sức mạnh của quyền năng này sau khi chúng ta lìa đời, nhưng ân sủng của sự phục sinh đã bắt đầu được khai triển trong đời sống hiện tại của chúng ta bởi vì Thánh Thần của Thiên Chúa đã được ban tặng cho chúng ta. Vì thế, thánh Phaolô nhắc nhở rằng ngay từ cuộc đời hiện tại, quyền năng Phục sinh của Chúa Giêsu đã bắt đầu khai triển và người tín hữu được mời gọi sống theo Thánh Thần và biết xa tránh đời sống theo xác thịt. Khi sống theo Thánh Thần, người tín hữu đã bắt đầu cảm nghiệm đời sống mới phục sinh trong thân xác mình, như chính Thánh Thần đã tác động cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY-B
GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB
‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.
Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)
Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”
Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?
Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
TRAO BAN LÀ NHẬN LÃNH- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Người đời thường nghĩ rằng: hễ cho là mất, là thua thiệt; vì thế tốt nhất là đừng dại dột cho đi, mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.
Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giê-su dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.
Hy sinh nhiều thì được nhận nhiều; không hy sinh, thì không thu được gì cả
Hôm ấy, ông Phi-lip-phê và An-rê dẫn các người Hy-lạp đến gặp Chúa Giê-su. Bấy giờ, Ngài nói với họ: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Tiếp đó, Chúa Giê-su kêu mời mọi người áp dụng bí quyết sinh tồn và phát triển của hạt lúa vào đời sống mình: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25).
Khi nói như thế, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta rằng: Ai xả thân phục vụ Thiên Chúa và con người, thì sẽ nhận được nhiều thành quả tốt đẹp; Ai sống ích kỷ chỉ lo cho mình mà không hy sinh phục vụ, người ấy sẽ không thu được gì.
Ba minh hoạ sau đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn bài học của Chúa Giê-su.
Thân phận hạt lúa
Khi những hạt thóc giống được gieo xuống ruộng đồng, hạt nào chịu chôn vùi trong bùn đất, chịu phân huỷ đi thì vài hôm sau sẽ nảy mầm, rồi sẽ mọc thành cây, sẽ triển nở sum suê và sẽ đơm bông kết hạt dồi dào. Trong khi đó, những hạt rơi trên bờ ruộng, rơi trên đất cứng, tuy không phải chịu cảnh phân huỷ mục nát như những hạt lúa dưới bùn, nhưng chúng không thể mọc thành cây, không thể nảy chồi đâm nhánh, không thể đơm bông kết hạt, rốt cuộc chỉ trở thành lương thực cho chim, cho kiến hoặc bị chà nát dưới chân người qua lại.
Hình ảnh hai cánh tay
Tôi có hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.
Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi phải cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.
Thế là, tuy cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, nhưng vì tay trái theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hy sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.
Hạt lúa Giê-su tự huỷ mình và được tôn vinh
Chúa Giê-su như một “Hạt Lúa” chấp nhận tự huỷ đi. Dù Ngài là Thiên Chúa, đồng hàng với Chúa Cha nhưng Ngài đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Ngài đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Ngài được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).
Vì Chúa Giê-su chấp nhận tự huỷ như thế, nên “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”. (Phi-líp-phê 2, 9-11)
Lạy Chúa Giê-su,
Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một hoả tiển phải tiêu hao nhiều năng lượng mới có thể được phóng lên không gian…
Xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hy sinh mỗi ngày, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp và được vươn đến gần Chúa hơn.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY-B
HẠT LÚA GIÊSU- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Sống trên đời này, người vĩ đại không phải là người có nhiều tiền của, cũng không phải là người quyền cao chức cả, nhưng người vĩ đại nhất là người biết hy sinh hết mình vì người khác.
Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa để minh họa cho chân lý này: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi thì nó sẽ sinh ra nhiều bông hạt ” (Ga 12, 24).
Khi dùng hình ảnh hạt lúa mì rơi xuống đất chết đi để rồi sinh ra nhiều bông hạt, Đức Giêsu có ý nói về sứ mạng thiên sai của mình. Ngài sánh ví mình tựa như hạt lúa được Thiên Chúa Cha gieo vào lòng đất. Đây là hình ảnh minh họa khi nói về cuộc khổ nạn, cái chết đau thương và sự phục sinh của Đức Kitô.
Như hạt lúa gieo vào lòng đất nứt vỏ rồi nảy mầm, thân xác của Đức Giêsu sau khi chết được mai táng trong mồ rồi sống lại hiển vinh.
Như hạt lúa nảy mầm lớn lên và trổ sinh nhiều bông hạt, Đức Giêsu phục sinh, chiến thắng tử thần để rồi mang lại sự sống mới cho nhân loại.
Đức Giêsu tự hiến thân mình không phải để chết thê thảm trên thập giá, nhưng khởi đi từ cái chết và phục sinh của Ngài, nhân loại được đón nhận sự sống mới trong tư cách là con cái Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Trên hành trình đức tin, người Kitô hữu luôn được mời gọi sống hình ảnh hạt lúa mì, qua việc chết đi bản thân mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh chị em đồng loại.
Sự chết đi bản thân không phải chết đi về mặt thể lý, nhưng là chết đi những thói hư tật xấu, những đam mê bất chính, để sinh nhiều hoa trái nhân đức.
Như hạt giống Giêsu chôn vùi trong lòng đất, chúng ta cũng được mời gọi chôn vùi tội lỗi, chôn vùi những ích kỷ nhỏ nhen, chôn vùi đi những gì làm chúng ta xa lìa Thiên Chúa.
Như hạt giống Giêsu phó thác mọi sự trong tay Chúa Cha, chúng ta cũng được mời gọi hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa, để tùy Chúa định đoạt, chăm sóc theo thánh ý Ngài.
Đức Giêsu đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu mình. Ngài chấp nhận mục nát đi để trổ sinh hoa trái. Chúng ta cũng được mời gọi hiến thân mình, để hết tình phụng sự Chúa và hết mình phục vụ tha nhân.
Đọc lại lịch sử Hội thánh hơn 2.000 năm qua, có vô số những người đã bước theo con đường hạt lúa Giêsu, sẵn sàng hi sinh mạng sống, hi sinh công sức sự nghiệp, hiến thân cho anh em đồng loại, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác. Họ là các thánh tông đồ, các nhà truyền giáo, hay những tấm lòng vàng, chẳng hạn như: cha Đa-miêng tông đồ người hủi. Thánh Gioan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II. Thánh Têrêsa Calcutta…
Hay là có những người cha “tay bùn chân lấm” đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công sở, lo toan kinh tế cho gia đình.
Hay là có những người mẹ thức khuya dậy sớm nấu cho con từng bữa ăn ngon, phải ngược xuôi buôn gánh bán bưng kiếm từng đồng tiền cho con mình ăn học mà phải hao gầy theo năm tháng. Hoặc có những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền về phụ giúp gia đình. Đây là những người cao cả, là những hạt lúa mì chấp nhận nghiền nát đi, để trở thành tấm bánh cho người khác.
Như vậy, người vĩ đại không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay những người có chức quyền địa vị trong xã hội, mà chính là những người vì Chúa quên thân vì tha nhân phục vụ.
Thế nhưng, ngày nay ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong xã hội hôm nay. Bởi vì có những người chỉ biết vun đắp cho mình hơn là lo cho người khác. Người ta chạy theo tình tiền tài danh vọng để thoả mãn nhu cầu của mình hơn là chung ta góp sức xây dựng cộng đồng xã hội. Có mấy ai dám quên mình phục vụ cho tha nhân mà không mong đền đáp. Có mấy ai quảng đại hi sinh đời mình để đem lại niềm vui cho người khác mà không tính toán.
Thưa anh chị em,
Mỗi lần hiệp dâng Thánh lễ là mỗi lần nhắc nhở chúng ta con đường của hạt lúa. Bởi vì tấm bánh linh mục cầm trong tay sau lời truyền phép, chúng ta tuyên xưng đó chính là Mình Thánh Chúa Kitô. Tấm bánh đó được đan kết bằng cả ngàn hạt lúa mì, những hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để rồi trở thành tấm bánh nuôi sống linh hồn con người.
Tấm bánh đó được biến thể trở thành Mình Thánh Chúa Kitô để nói lên chính cuộc đời của Đức Giêsu, là một cuộc đời chấp nhận bị nghiền nát đi, để trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.
Mùa chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sống cao đẹp hơn, nghĩa là hy sinh những tư lợi riêng tư, để đem lại niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức khi mỗi rước lễ, không chỉ là một nghi thức, nhưng còn được nuôi dưỡng bởi Mình Máu thánh Chúa, để chúng ta lớn lên trong tình mến Chúa, và vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết sống hi sinh cho anh chị em mình. Amen.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
VƯỢT QUA SỰ CHẾT ĐỂ VÀO CÕI SỐNG- Lm. Đan Vinh HHTM
*I. HỌC LỜI CHÚA
*1. TIN MỪNG: Ga 12,20-33
(20) (Khi ấy) trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp, (21) họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su. (22) Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: “Đã đến Giờ Con Người được vôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy. Và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”. (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm!”. Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” (30) Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
*2. Ý CHÍNH:
Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giê-su được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là vào trong vinh quang qua khổ nạn thập giá, giống như hạt lúa phải chết đi thì mới phát sinh ra nhiều hạt khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giê-su sẽ phá hủy bức tường ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại để ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, và đến ngày tận thế thủ lãnh sự tối tăm là Xa-tan sẽ bị ném vào hỏa ngục đời đời.
*3) CHÚ THÍCH:
– C 20-22: + Mấy Người Hy lạp: Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giê-su điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
– C 23-25: + Đã đến Giờ: Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30 ; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giê-su bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giê-su phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giê-su đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giê-su cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này…: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35 ; Mt 16,25 ; Lc 9,24).
– C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giê-su cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46 ; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giê-su cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giê-su chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giê-su thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giê-su khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy tại Giê-ru-sa-lem.
– C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”… “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giê-su mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gi? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giê-su. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.
– C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất: Đức Giê-su sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13 ; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giê-su sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải bỏ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng như Người đã uống (x. Mt 20,23).
*CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và một số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giê-su được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giê-su nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giê-su xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giê-su đã cầu xin với Chúa Cha thế nào để nêu gương vâng phục ý Cha cho chúng ta? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa Giê-su cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?
*II. SỐNG LỜI CHÚA
*1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
*2. CÂU CHUYỆN:
*1) SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ BẠN TÙ ĐƯỢC SỐNG
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế… thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.
*2) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ VÔ CẢM:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình… Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: “Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!”. Người đàn ông ngạc nhiên nói: “Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?”
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: “Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy.” Ðiều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: “Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?” Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”: Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!
*3)SUY NIỆM:
*1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: “Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
*2) Con đường hạt lúa của Đức Giê–su.
Đức Giê-su đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra một con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Phải qua đau khổ để vào vinh quang”.
Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm hạt lúa Giê-su qua ba giai đoạn như sau:
+ Mầu nhiệm Nhập Thể giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
+ Mầu nhiệm Tử Nạn giống như hạt lúa phải trải qua giai đoạn bị mục nát: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8).
+ Mầu nhiệm Phục Sinh giống như hạt lúa đã được biến đổi gia tăng gấp bội: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,9-11).
Tin Mừng Mát-thêu cũng trình bày mầu nhiệm hạt lúa của Đức Giê-su như sau: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, các môn đệ không muốn chấp nhận. “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).
*3) Con đường hạt lúa của các môn đệ.
Đức Giê-su đã mời gọi mọi người đi con đường thập giá của Người: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận đi theo con đường hạt lúa của Đức Giê-su. Phao-lô Tông Đồ dân ngoại đã bày tỏ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (Cv 20,22-23).
Sau các Tông đồ, đến lượt các Ki-tô hữu cũng đã chọn đi con đường của hạt lúa là chấp nhận bị mục nát, chịu chết vì danh Chúa để từ đó Hội Thánh không ngừng được phát triển như lời ông Téc-tu-a-nô đã nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
*4) Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.
Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:
– Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi mình.
– Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.
– Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.
– Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.
– Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói năng hách dịch làm thất nhân tâm.
– Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn bớt thù”. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở mang Nước Chúa.
*4)THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giê-su, giống như Cha Kôn-bê xưa đã làm, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương?
*5). LỜI CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết trên thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh cũng noi gương Chúa để chấp nhận bị đế quốc Rô-ma bách hại suốt 300 năm, và cuối cùng đã được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả Đế quốc tin theo Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.
– Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con sẵn sàng đón nhận những đau khổ thập giá với thái độ tin yêu và hy vọng, noi gương Chúa xưa. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường duy nhất để nhờ đó chúng con xứng đáng nên hoàn thiện noi gương Chúa, và ngày sau còn được Chúa tôn vinh lên Quê Trời hưởng hạnh phúc đời đời.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
*D) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Đức Giêsu được tôn vinh như thế nào?
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).
Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh vọng, quyền thế vinh quang trần gian.
Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”. Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân ái cao cả đó thôi.
Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến”. Giờ này là gì? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).
Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong gấp rút dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến” như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).
Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy, thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26 tháng 02 năm 1991).
Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.
Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.
Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống? Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm lề luật Ngài.
Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch, đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái tôn vinh danh Cha.
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY- B
HÀNH TRÌNH TỰ HỦY- Lm. GB. Trần Văn hào SDB
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng. “Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định luật của hạt lúa được gieo vào đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản sinh nhiều bông hạt khác.
‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.
Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, ‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp: “Giờ đã đến”. Đó là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ: “Đã đến ‘Giờ’ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.
Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).
Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’. Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết trong hành trình tự hủy cách liên tục.
Cuộc chiến nội tâm.
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích, đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).
Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.
Kết luận
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhat5muachayb