CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CĂN TÍNH ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA GIÊSU (*)-Noel Quession 6
ĐỨC GIÊSU HIỂN DUNG TRÊN NÚI- Chú giải của Fiches Dominicales 14
CON MỘT THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 23
CHỈ VÌ THƯƠNG NÊN THIÊN CHÚA BAN ĐỨC GIÊSU CHO LOÀI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 40
SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT- Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt. 56
BIẾN HÌNH- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt. 62
TIN TƯỞNG ĐÓN NHẬN THẬP GIÁ HÀNG NGÀY– Lm. Phêrô Lê Văn Chính 67
MUỐN HẠNH PHÚC PHẢI VÂNG LỜI NGƯỜI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 73
ĐỪNG QUÊN MẢNG TỐT NƠI MỖI NGƯỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà 78
BIẾN HÌNH VỚI CHÚA- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 83
ĐỨC TIN VÀ ĐAU KHỔ- Lm Giuse Nguyễn Quốc Quang.. 88
ĐỨC TIN TRONG ĐAU KHỔ- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP 93
CHỮ TÌNH- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa.. 97
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ĐỌC I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
“Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta”.
Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: “Abraham, Abraham!” Ông đáp lại: “Dạ, con đây”. Chúa nói: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: “Abraham, Abraham!” Ông thưa lại: “Dạ, con đây”. Người nói: “Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”. Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: “Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta”.
ĐÁP CA: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19
Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).
1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: “Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!” Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài.
2) Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
3) Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi!
“Thiên Chúa không dung tha chính Con mình”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?”
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
CĂN TÍNH ĐÍCH THỰC CỦA CHÚA GIÊSU (*)-Noel Quession
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày” trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì “sáu ngày” trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: “Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê” (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: “sáu ngày”… “Môsê”… “đám mây”… “núi “… Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm” (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau “Lễ xá tội” (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba” môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao…
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để “gặp gỡ Thiên Chúa”. Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với “Thiên Chúa” (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
Một quan niệm “bi quan”: Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
– Một quan niệm “lạc quan”: Chính “thế gian này” là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
– Nhưng cũng có một “quan niệm thứ ba biến dạng” Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là “hình ảnh”, là “họa ảnh” tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị “tiêu diệt”, nhưng cần được “biến dạng”. Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ”, Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một “kỹ thuật”, người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh – của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã “dìm” ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được “tham dự vào bản tính của Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí” (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó – nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: “Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã “xảy đến” cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là “giặt sạch nhất”, “trắng nhất”. Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. “Anh em được mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27). “Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (l Cr 15,53). “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới” (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong “lề luật” và các “ngôn sứ”. Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì”. Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một “cửa ngõ” dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho “trên núi”. Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm ‘tuyên xứng đức tin” (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng” không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là “Sự hiện diện của Thiên Chúa” (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng “những suy luận” cá nhân, cũng không nhờ vào “những nghiên cứu Kinh Thánh”, nhưng qua cách cầu nguyện “riêng một mình trên núi”; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
ĐỨC GIÊSU HIỂN DUNG TRÊN NÚI- Chú giải của Fiches Dominicales
*1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn
Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành sứ mạng của Người. Maccô viết: “Rồi Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”. Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược với tư tưởng Người thời đó. Về Đấng Cứu thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng phải trải qua đau khổ và sự chết là điều không ai dám nghĩ, cả những người Do Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức Giêsu: Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng, ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: “Satan, lui ra đàng sau thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Con đường mà Con Người đi cũng là con đường bắt buộc đối với các môn đệ Người.
*2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi.
Maccô đã đặt tường thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với việc công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn, việc này đã
vấp phải sự không hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng. Giống như Matthêu và Luca, tác giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn tượng trưng, mượn những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ mình) ở núi Sinai (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 330).
Ngày xưa, trong cuộc xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố cho con cái Israel rằng: “Đức Chúa, Thiên Chúa của người, sẽ cho nổi lên giữa các người một vị ngôn sứ giống như Ta, các người hãy nghe lời Người”. Hôm nay Maccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi, đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên mới đã khai sinh.
Maccô viết: “Sáu ngày sau” mà lại không chỉ rõ sau cái gì, nhưng rất có thể là ông muốn nói về biến cố Xuất Hành.
+ Hoặc là nói về sáu ngày mà sau đó, theo Xh 24,1 6, “Thiên Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây lên núi Sinai”. Nếu thế, theo Maccô, đó là một cách giới thiệu biến cố hiển dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu Đức Giêsu như một Môsê mới.
+ Hoặc là nói về sáu ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó người ta dựng lều bằng cành cây (như người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng nhớ cuộc xuất hành, với hy vọng vào thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế, theo Maccô đó là một cách côgn bố thời đại mới đã khởi đầu.
Cũng như ngày xưa Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các bạn hữu của Người lên một ngọn núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là địa lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc tuyển cho việc mặc phải thần linh. Ở đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc khải quyết định của Thiên Chúa.
– Cũng như Môsê, lúc lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giousê, Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo Người có “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng ba người đó, những người bạn thân nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà được Người làm cho sống (5,37-43); ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã liên kết họ với Người trong những thời điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên những trụ cột của Hội Thánh Người.
– Cũng như da mặt của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35), Đức Giêsu “hiển dung” trước các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm chiếm bao phủ Người.
Vào lúc đó ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là hai vị có thần thế trong Cựu ước. Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho toàn bộ Cựu ước: Lề Luật và các Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại cứu thế đã khởi đầu.
Phêrô đề nghị “Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh hoàng, Maccô giải thích. Phêrô đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân Người và họ có thể ở đó miên trường.
Sau cùng, cũng giống như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở đây một đám mây che phủ các ông. Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát ra tử đám mây. Những lời này gần giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu: “Con là Con Ta yê u dấu, Cha hài lòng về Con” (1,11), còn ngày nay tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn – phục sinh của Con Người: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
J.Hervieux quảng giải: “Giờ đây dường như qua tia chớp loè sáng, họ đã thoáng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”, và vượt qua khỏi sự chết, Người được Thiên Chúa dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không giữ niềm hy vọng và không tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?” (L’evangile de Marc”, Centurion p.125).
– Bỗng chốc, Maccô kết luận: “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi ở trên núi xuống Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một lần nữa “bí mật thiên sai”, mà Maccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa thấy vượt quá sức tưởng tượng quá đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này, dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có thể làm chứng.
BÀI ĐỌC THÊM
*1. “Mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới”.
(Célébrer, tạp chí C.N.P.L. số 266, trang 26).
Cuộc hành trình này kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên Chúa. Ông Apraham đã khám phá dung mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu của tế vật và không đòi hy lễ nào khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người. Người Kitô hữu còn có thể khám phá một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh “vượt sức người” (siêu phàm), mà chỉ đòi tin tưởng và phó thác.
Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô. Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng đã không dung tha con ruột mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy sẽ lôi kéo họ đi theo Người.
Và còn hơn nữa, Người còn đề nghị ta khám phá rằng nhân loại là con đường tới Thiên Chúa. Mà không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng một Thiên Chúa trong xác thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi hình dạng. Đó là con đường do Đức Giêsu vạch ra.
Người Do Thái trông đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Khi trình bày điều đó đã thực hiện nơi Đức Giêsu, Maccô muốn tuyên báo rằng ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy, mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy vọng đáng nể cho tất cả những gì đang rên xiết “chuyển dạ sinh ra”.
*2. “Điều kinh ngạc trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm nhân”. (Thư gởi các người Công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50).
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc sinh ra cho tới ngày chịu. chết và sống lại, luôn tỏ ra quy hướng về Chúa Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và dấn thân hoàn toàn vào công trình cửu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha.
Nhưng điều kinh ngạc không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta để bày tỏ tình thương của Chúa Cha.
Điều kinh ngạc còn là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân. Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn chính người trần: Chúa đi đến với những người lạc mất trong số người trần, kẻ bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người chia sẻ hết mọi sự của bản tính nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết chóc, chết trên cây thập tự. Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được thông công sự sống của Người. “Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con ” (Ga 17, 24).
Lòng tin vào Đức Giêsu, Chúa con bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình bày Lời Chúa và các Bí tích cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để chúng ta biết được niềm vui sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo bước chân của Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
CON MỘT THIÊN CHÚA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B nhấn mạnh một chủ đề duy nhất: “Con Một”.
St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18
Bài Đọc I kể cho chúng ta tổ phụ Áp-ra-ham đã sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa, I-xa-ác, “đứa con một” mà ông hết lòng yêu mến.
Rm 8: 31b-34
Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Mc 9: 2-10
Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta.
BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)
Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương, lại có thể thử thách một người công chính đến tận mức như vậy. Cho dù ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là sự việc không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.
*1.Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay:
Tuy nhiên, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau trong việc hình thành chuyện tích nầy:
-Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của dân Do thái và tôn giáo của dân Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.
-Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong tập truyện của vị tổ phụ Áp-ra-ham để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-xa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Ít-ra-en miền Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó, sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” (Xh 4: 22-23) phải bị họa diệt vong.
*2.Tôn giáo của dân Ca-na-an:
Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me, nhưng là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.
Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, hay vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).
Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?
*3.Tôn giáo của dân Ít-ra-en:
Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi man rợ như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).
Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-xa-ác minh chứng quyết định của luật Mô-sê: I-xa-ác được chuộc lại bởi hy tế của “con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây” (St 22: 13). Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.
*A.Một con người có tấm lòng quảng đại:
Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom, nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.
*B.Một con người có niềm tin kiên vững:
Việc hiến tế I-xa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt nay đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.
Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trái lại, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn thế hệ.
Đáp lại niềm tin và sự vâng phục đến mức anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.
*4.Thần học về sự thử thách:
Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).
Để soi sáng cho những biến cố mà tác giả đã trải qua, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-xa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-xa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.
Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-xa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.
*5.Khía cạnh ngôn sứ:
Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài để cứu độ nhân loại.
Khi ám chỉ đến hy tế của I-xa-ác, thánh Gioan áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16), và thánh Phao-lô đã phải thốt lên: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người được bày tỏ cách rực rỡ ở nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, Con Một của Ngài.
*BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)
Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi các Ki-tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.
*1.Bối cảnh:
Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.
*2.Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả:
Chương 8 nầy kết thúc với một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (8: 32). Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!
Thánh Phao-lô hình dung một phiên tòa ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.
TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)
Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.
Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.
Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?
*1.Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:
Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su đang hướng đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.
“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, Chúa Cha đã công bố: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Nay vào lúc Đức Giê-su biến hình, Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”, lời tuyên bố nầy một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Ngài, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
*2.Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:
Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Đức Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài (Mc 14: 33). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Đức Giê-su an ủi họ trước.
Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.
Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sựu thật” (Ga 1: 14). Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.
Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin tưởng vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.
“Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.
“Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.
Vào lúc nầy, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.
Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, diễn tả rõ ràng điều nầy: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHỈ VÌ THƯƠNG NÊN THIÊN CHÚA BAN ĐỨC GIÊSU CHO LOÀI NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (St 22,1-2.9a.10-13.15-18) : Ngày xưa, Abraham đã tế sát đứa con duy nhất là Isaac. Câu chuyện này chỉ là hình bóng của việc sau này Thiên Chúa ban Con Một Ngài là Đức Giêsu cho loài người.
– Bài Tin Mừng (Mc 9,2-10) : Đức Giêsu chính là Isaac. Trong cuộc biến hình Ngài được Thiên Chúa gọi là “Con yêu dấu” như Abraham đã gọi Isaac.
– Bài đọc II (Rm 8,31-34) : Đức Giêsu là ơn ban cho loài người. Ngài chịu nạn chịu chết là để cứu loài người ; Ngài sống lại ngự bên hữu Chúa Cha là để biện hộ cho loài người.
- Dẫn vào Thánh lễ
Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Giáo Hội nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Giáo Hội nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.
Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta để Đức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.
- Gợi ý sám hối
– Chúa nhật vừa qua, Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa ?
– Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa ?
– Đã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa ?
III. Lời Chúa
- Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18
Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.
Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì : a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già ; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc ; b/ bởi thế, Isaac là “đứa con một yêu dấu” của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.
Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn : a/ Chúa vừa gọi “Abraham” thì ông đáp lại ngay “Dạ, tôi đây” ; b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.
Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.
- Đáp ca: Tv 115
Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát “Tấm thân tôi trăm phần khổ cực”, hơn nữa đang chứng kiến “cái chết của những bậc thánh nhân”, thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.
Đáp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã “bẻ gãy xiềng xích” và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.
Những tâm tình này rất đúng với Abraham.
- Tin Mừng: Mc 9,2-10
Bài tường thuật Đức Giêsu biến hình. Điểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời “Đây là con yêu dấu của Ta”. Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac “Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi… dâng nó làm lễ toàn thiêu” (Bài đọc I)
Như thế, Isaac là hình bóng của Đức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.
- Bài đọc II: Rm 8,31-34
Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta : Khi Đức Giêsu chịu chết là chịu chết “vì tất cả chúng ta” ; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để “biện hộ cho chúng ta”.
Đức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.
- Gợi ý giảng
* 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng
Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.
Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).
Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đó là ban Đức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).
* 2. “Hãy vâng nghe lời Người“
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi :
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?
– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
– Ông hãy đẫp vỡ nó ra !
– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi :
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu ?
– Bằng nửa vương quốc.
– Hãy đập vỡ nó ra !
– Đập vỡ viên ngọc này ư ? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul :
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không ?
– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
– Hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi :
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ ?
Abdul bình tỉnh đáp :
– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán : “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài”.
* 3. Con yêu dấu
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi “Con yêu dấu”.
Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.
Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết ? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật ! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào !
Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là “Hãy vâng nghe Lời Đức Giêsu” thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào !
- Thử thách và biến hình
Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.
– Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông : Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông : đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi : Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.
– Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.
– Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn…
- Biến đổi là Quy luật
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi : có những chiếc lá tháng trước nay không còn ; nhiều chiếc lá mới mọc ra ; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy : bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói “Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.
Và nhìn vào bản thân : các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.
Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.
Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau :
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”. Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận :
– Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh !
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt :
– Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa ?
Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
*
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng : “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia” (Mc.9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua : Đường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieux : “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện : “Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
- Trung thành với Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.
- Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.
- Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến… là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.
- Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng : nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
– Lúc chúc bình an : Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự ; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. Giải tán
Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói : “Đây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người”.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY -B
SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT- Giáo Hoàng Học viện Đà Lạt
Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con người hiện đại, nhất là Maccô.
Biết bao ý thức hệ triết học, tôn giáo, chính trị, khoa học v.v. chất chứa trong những khát vọng của chúng nỗi chờ mong một lúc mà nhân loại sẽ vượt lên chính mình và đạt tới một tình trạng trong đó nó sẽ được siêu thăng hóa. Khi la lớn rằng chúng không được thỏa mãn, phải chăng một vài ý thức hệ đã không tuyên bố cùng những khát vọng trên?
Trên bình diện đức tin Kitô giáo, cuộc Biến hình là câu trả lời của Chúa Giêsu cho các khát vọng ấy: con người được tạo dựng để hưởng vinh quang, nghĩa là để được tỏ hiện trong chính mình, bên kia cái mình đã làm, một cuộc sống siêu phàm của hữu thể mình mà không là gì khác ngoài sự sống được chia sẻ với Thiên Chúa khì đảm nhận thân phận hay chết của mình. Định mệnh này có một tính cách khiến lý trí chưng hửng ngạc nhiên. Có thể kinh nghiệm về nó và không hẳn là biết phát biểu ra nó. Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu được nghe và được đi theo khi Người chỉ cho thấy mặc khải sau cùng về con người, mới cho phép phát biểu và tin vào định mệnh như thế.
Mặc dầu cuộc Phục sinh đã xảy ra và mặc dầu bức màn che đã hoàn toàn bị cất khỏi bản tính và con người. Chúa Giêsu khai mở nhân loại mới ấy, Kitô hữu vẫn không thể sống trong ảo tưởng: các thực tại bi thương của cuộc sống không bị tiêu trừ; chúng vẫn còn phần lớn trong một hoàn cảnh gần như hoàn cảnh các sứ đồ lúc cuộc Biến hình xảy ra. Cuộc Phục sinh đã chẳng hủy tiêu các giáo huấn đưa ra trước đó, song chỉ củng cố chúng mà thôi. Các là thánh sử làm tỏ rõ hơn hết các hoàn cảnh mà trong đó người ta tưởng đã hiểu và tuy vậy, vẫn chẳng bao giờ thôi thấy rằng người ta đã chưa hoàn toàn hiểu thấu. Ông trình bày Kitô hữu như những người đã khám phá trong Chúa Giêsu một con người duy nhất đã cho họ một kinh nghiệm quyết định nhưng chẳng chấm dứt bao giờ.
Đời sống môn đồ của Chúa Giêsu được trình bày như thỉnh thoảng có một nhịp mạnh. Núi là biểu tượng của nơi mà, nhờ phép rửa, đã xảy ra cho người ấy cuộc gặp gỡ với hữu thể vinh quang là Chúa Giêsu. Một khi trèo lên trên nó, người ấy đi vào trong một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ. Nhưng tiếp đó họ phải trở về cuộc sống bình thường: phải tiếp tục trong cùng viễn tượng hấp dẫn của một sự sống vinh quang, nhưng không cùng trong một bầu khí, hoàn cảnh. Thành thử cuộc sống thường nhật này được đánh dấu bằng nhtĩng giai đoạn đưa kẻ ấy đến chỗ nghe con người Chúa Giêsu, những giai đoạn trở thành cho kẻ ấy những lúc “tách riêng” thật sự, vì chúng giúp họ đào sâu, một cách nội tâm hơn và thân tình hơn, lai lịch của Đấng là họ đang song hành với.
Hai yếu tố có tính cách quyết định đối với hiệu quả này. Một là sự rút lui thật sự khỏi cuộc sống thường ngày, dù có ý hay ngẫu nhiên. Bấy giờ là như thể một khung cảnh làm vỡ tung cái bình thường và chuẩn bị cho một cuộc bùng vỡ nội tâm. Đó chẳng phải là một sự rút lui kiểu ngoài giáo nhắm cắt đứt khỏi đời sống hoặc làm cho người ta trở về đó như về lại một cái gì không chịu nổi, nhưng là một kinh nghiệm thiêng liêng đích thực đưa người ta vào lại đời sống và giúp người ta trải qua cuộc sống bằng cách biến đổi cái thường nhật gần gũi. Hai là, trong đời riêng tư, phải kinh nghiệm sự đau khổ và ngay cả sự chết dưới bất cứ mọi hình thức, để đi vào sự hiểu biết mới mẻ ấy hơn.
Tuy nhiên, có một cám dỗ rình chờ Kitô hữu trên con đường ấy, đó là dừng lại ở một trong các giai đoạn, thôi bước và tuyệt đối hóa kinh nghiệm mình như thể nó đã có tính cách dứt khoát, phong thánh cho các viễn quan riêng mà, dầu có hảo ý, vẫn còn có tính cách nhân loại. Trên bất cứ điểm nào, Kitô hữu cũng phải là một con người đang hành trình chứ chẳng phải là một con người đã đến đích. Chỉ có con người Chúa Giêsu mà họ đi theo mới là tuyệt đối.
Sau cùng, bản văn kêu mời Kitô hữu phải hành động với cùng phương pháp sư phạm như Chúa Giêsu. Chẳng có gì lạ khi loài người chỉ khám phá được dần dần mầu nhiệm Người, khi đầu tiên họ lưu ý đến con người trong chính nó, rồi ngạc nhiên về cái ý thức mà Người cho thấy về một sự sống siêu nhiên đang ở trong Người mà Người gọi là Thiên Chúa. Cũng chẳng có gì lạ khi chờ đợi cho loài người đặt những câu hỏi trước lúc trả lời họ, khi một vài kẻ, để sẵn sàng hiểu hơn, đã kinh nghiệm trong cuộc đời họ thế nào là chết cho chính mình và kinh nghiệm được ước vọng vượt quá những giới hạn của họ.
Gilles Becquet, lecture d’evangiles,… année B. (p.186-200)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*1. Việc Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết là một mầu nhiệm khó chấp nhận, “là cớ vấp phạm cho người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại” (Lc 1,23) Bởi đó Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế con trai duy nhất, dâng làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Việc đòi hỏi ấy thật là mâu thuẫn với lời Chúa hứa cho ông. Nhưng Abraham không thắc mắc, không phản đối mà hoàn toàn tin tưởng. Kết quả: ông được kể là công chính và Isaac con ông vẫn được sống, chứ chẳng bị sát tế (Bài đọc 1)
Sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với ta đã đòi hỏi Chúa làm một điều tương tự như Abraham là “không dung tha Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta” (Rm 8,32). Isaac không bị giết mà Abraham vẫn được kể là công chính (Gc 2,21), còn Chúa Kitô thì đã bị giết, đã chết thực sự, nhưng đã sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha và đã trở thành Đấng “công chính hóa” nhân loại (Bài đọc 2).
Chính là để cho các môn đồ thân tín giữ vững niềm tín thác khi thấy mình đau khổ và chết mà Chúa Kitô đã tỏ phần nào vinh quang của Người trên núi Taborê.
*2. Chúa Giêsu đã đem ba môn đồ thân yêu lên núi Biến hình và cũng sẽ đem họ vào vườn Cây Dầu trong cơn hấp hối của Người. Mọi cảnh ngộ dầu là dịp Chúa gởi đến để kêu mời ta tiến sâu trong tình thân ái với Người. Hãy biết đọc các “dấu chỉ thời đại” dưới ánh sáng đức tin, trong tình yêu Chúa nồng nàn.
*3. Các môn đồ không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của biến cố Biến hình. Trong đời sống thường nhật, đứng trước những khó khăn, gian truân, vui buồn, được an ủi hay bị bỏ rơi ta thật khó quán triệt ý nghĩa cuộc đời, khó khám phá ra Thiên Chúa tình yêu và công bình. Nhưng hãy kiên tâm, bền chí trong kinh nguyện, trong suy niệm lời Chúa. Trong đời hoạt động và ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim chúng ta.
*4. Ngày nay biến cố Biến hình vẫn còn tiếp diễn trong thế giới: Chúa Kitô biến hình trong người nghèo đói, bệnh tật, tù đày bơ vơ không nhà cửa, trong các sứ giả Tin Mừng… “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Ta, ai tiếp dón Ta là tiếp đón Đấng dã sai Ta”. Mùa Chay giúp ta thay đổi cái nhìn, kiện toàn cách cư xử của ta với tha nhân.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- A
BIẾN HÌNH- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người ‘biến hình’. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn ‘biến hình’ không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
TIN TƯỞNG ĐÓN NHẬN THẬP GIÁ HÀNG NGÀY– Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Dấn thân vào cuộc lữ hành với Chúa Giêsu, Đấng cứu thế, để vượt qua từ sự chết đến sự sống vinh quang, người tín hữu cần phải trang bị cho chính mình điều gì ? Phải chăng người tín hữu cần trang bị lòng tin tưởng vững mạnh vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Lòng tin tưởng này sẽ giúp cho họ đón nhận mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời của mình để bước theo thầy Giêsu. Đây chính là ý nghĩa của mùa chay, là giúp cho người tín hữu đón nhận mầu nhiệm thập giá của cuộc đời mình, mầu nhiệm của sự tự hủy và tự hạ cho đến chết trên thập giá mà họ sẽ cùng học với thầy của mình là Đức Giêsu, người con một rất yêu dấu của Thiên Chúa. Chỉ có đón nhận mầu nhiệm thập giá, với một lòng tin tưởng vững mạnh vào sức mạnh Phục sinh của Thiên Chúa mà người tín hữu mới có thể cùng với Đức Giêsu vượt qua sự chết để đến sự sống vinh quang muôn đời.
Ngay từ bài đọc thứ nhất từ sách Sáng thế ký, Giáo hội mời gọi chúng ta nghe lại câu chuyện Abraham sát tế Isaác. Abraham được Chúa ban tặng người con ruột là Isaác, người con này sẽ là người con mà ông hy vọng sẽ thấy lời hứa của Thiên Chúa được thành tựu, là sẽ thấy dòng dõi của mình đông đảo như sao trên trời và cát bãi biển. Thế nhưng, một điều rất đau đớn xảy ra mà Abraham không thể hiểu, đó là Thiên Chúa đòi hỏi ông sát tế Isaác để chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Dầu đau khổ, nhưng Abraham sẵn sàng thi hành theo lệnh Chúa truyền. Chính khi ông giơ tay để sát tế người con một của mình thì thiên thần Chúa xuất hiện và ngăn cản ông. Điều quan trọng mà Thiên Chúa đòi hỏi, không phải là việc sát tế người con của mình, bởi vì Thiên Chúa không vui gì khi thấy con người phải chết hay phải hy sinh người con của mình, nhưng điều Thiên Chúa đòi hỏi, đó là biết vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa. Bấy giờ Abraham thấy một con cừu đực đang mắc sừng trong bụi gai, ông bắt nó và tế lễ cho Thiên Chúa. Thiên Chúa chúc lành cho Abraham vì đã biết vâng nghe lời Chúa : mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã biết vâng nghe lời Ta.
Lắng nghe và vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, đó là lời mời gọi giúp người tín hữu trang bị trong hành trình của cuộc vượt qua mùa chay mà người tín hữu được mời gọi ra đi cùng với Chúa Giêsu. Bài Tin mừng tường thuật lại việc Chúa Giêsu biến hình trên núi theo thánh Marcô. Chúa Giêsu đem theo ba môn đệ thân tín của mình là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao và ở đó, người biến hình trước mắt các ông. Thuật lại câu chuyện này thánh Marcô tường thuật nhằm cắt đứt bầu khí u ám bao trùm lên các môn đệ từ khi Chúa Giêsu loan báo cái chết khổ nạn thập giá của người. Ba môn đệ này cũng chính là ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu, được tham dự vào những giây phút quan trọng của cuộc đời của người và họ sẽ là những cột trụ quan trọng của Giáo hội của người sau này và sẽ là chứng nhân của mầu nhiệm thập giá và vinh quang phục sinh của thầy. Ngọn núi cao mà Chúa Giêsu đưa các môn đệ đến được hiểu theo ý nghĩa thần học hơn là địa dư. Núi cao gợi lại núi Sinai trong câu chuyện xuất hành, nơi Thiên Chúa hiện ra rất thân mật cho Môisen. Bổng chốc Chúa Giêsu biến hình, áo người trở nên trắng tinh như tuyết mà không thợ giặt nào có thể giặt trắng như thế. Cách tường thuật này của thánh Marcô phải làm độc giả nghĩ tới những gì đã xảy ra cho Môisen khi ông được tiếp xúc với Thiên Chúa. Bấy giờ khuôn mặt của ông cũng được chiếu sáng vì đã nhận được vinh quang của Thiên Chúa. Ngoài ra, đối với những người do thái chiếc áo ám chỉ con người. Chiếc áo của Chúa Giêsu trở nên chói ngời, trắng tinh phản ảnh vinh quang thần linh của người. Sách Thánh cũng thường tường thuật chiếc áo trắng của các thiên thần cũng như những người được tuyển chọn mặc mà chúng ta thấy mô tả trong những tường thuật của sách Khải huyền. Ngoài ra còn có hai nhân vật của Cựu ước cùng hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu là Môisen và Êlia. Môisen là người cha của lề luật do thái. Chính ông là người đã nhận được lề luật từ Thiên Chúa ban trong cảnh tượng uy nghi trên núi Sinai (x. Xh 19 và 20). Và tiên tri Êlia, người cũng sẽ thực hiện một cuộc lữ hành 40 ngày đêm đi đến ngọn núi này để gặp Thiên Chúa (1V, 19). Truyền thống Do thái vẫn nhìn nhận các ngài vẫn luôn sống và được tham dự vào trong vinh quang của Thiên Chúa : Môisen là nhà lập pháp vĩ đại của Israel, còn Êlia như là một vị tiên tri cao cả của Israel. Cả hai vị, tượng trưng cho Lề luật và các tiên tri, cùng hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu và làm chứng cho Chúa Giêsu, như thế cũng là làm chứng rằng Đức Giêsu hoàn tất mọi lời hứa của lề luật và các tiên tri.
Bấy giờ thánh Phêrô mạnh dạn đề nghị dựng ba chiếc lều với Chúa Giêsu : « thưa thầy ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho thầy, một cho Êlia và một cho Môisen ». Lời đề nghị dựng ba chiếc lều có thể gợi ý đến lễ Lều của những người do thái. Vào mùa thu là mùa hái nho, người ta dựng trong những vườn nho những chiếc lều tạm bằng nhánh cây để chờ đón Đấng cứu thế. Lời đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông không hiểu ý nghĩa sâu xa của sự kiện xảy ra, và cả các môn đệ khác cũng không hiểu ý nghĩa của những hiện tượng phi thường này. Các ông chỉ muốn dừng lại để tận hưởng hạnh phúc vinh quang của giây phút thần hiển. Khi đó, một đám mây bao phủ và từ đám mây có tiếng phán : «Đây là Con ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời người ». Đám mây nhắc lại hành trình xuất hành trong sa mạc, dân Chúa đã được hướng dẫn bởi một đám mây sáng ngời, diễn tả sự gần gủi của Thiên Chúa và là hình ảnh nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với con người. Tiếng phán từ đám mây dành riêng cho các môn đệ. Chính Chúa Cha giới thiệu cho các môn đệ người con một của ngài, và các môn đệ được mời gọi đón nhận mầu nhiệm sâu xa của con người này. Người chính là Đấng cưú thế, Người Con một rất yêu dấu của Cha mà các môn đệ được mời gọi tin tưởng và bước đi theo con đường thập giá cứu độ của người cho đến khi họ hiểu được chân lý trọn vẹn của người. Đây là ý nghĩa sâu xa của biến cố các môn đệ vừa trải nghiệm. Họ cần phải lắng nghe lời người, lời mời gọi đón nhận mầu nhiệm thập giá mà Phêrô trước đó đã lên tiếng ngăn cản. Đứng trước viễn tượng thê thảm của mầu nhiệm thập giá vừa được thầy mạc khải, chắc hẳn các môn đệ cảm thấy khó có thể chấp nhận. Nhưng như các môn đệ thoáng thấy, Đức Giêsu là người Con một rất yêu dấu của Thiên Chúa tràn đầy vinh quang. Giờ đây người phải dấn thân vào con đường khổ nạn thập giá, và sau cái chết thập giá, người sẽ trở về với vinh quang Thiên Chúa mà người vốn chia sẻ với Chúa Cha.
Tin tưởng và bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là lời mời gọi của mùa chay. Các môn đệ thời Chúa Giêsu vẫn luôn hình dung một Đấng cứu thế tràn đầy vinh quang và một thời đại Đấng cứu thế đầy sức mạnh và vinh quang Thiên Chúa. Các ngài khó hình dung một Đấng cứu thế phải chịu đau khổ và bị giết chết trên thập giá. Cuộc biến hình trên núi là một bài học về mầu nhiệm thập giá và Phục sinh. Thập giá là điều kiện cần thiết để đạt đến vinh quang Phục sinh. Thập giá là dấu chứng cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Không có điều gì mà Thiên Chúa không dành cho con người, ngay chính người con một của Thiên Chúa, người cũng đã ban tặng cho con người. Vì thế họ được mời gọi tin tưởng và bước đi theo sự hướng dẫn của người con một này trong việc đón nhận thập giá của cuộc đời của mình, trong việc chu toàn những bổn phận hằng ngày mà nhiều khi họ cảm thấy nặng nề, ngay cả trong việc chấp nhận những thất bại và những hy sinh trong cuộc đời. Thế nhưng, qua mầu nhiệm tự hủy này, họ đạt đến vinh quang Phục sinh cùng với người con một của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY-B
MUỐN HẠNH PHÚC PHẢI VÂNG LỜI NGƯỜI- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”. Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh phúc thiên đàng vừa hé mở. Phêrô đã thuật lại rất sống động tâm sự này cho các tín hữu đang chịu thử thách cam go vì đạo, và được Marcô, con tinh thần của Phêrô viết lại.
Thánh Phêrô đã quả quyết có hạnh phúc đời đời để cho mọi người tin tưởng vững vàng sống theo lời Chúa, sẵn sàng hy sinh vì đức tin, họ sẽ được vinh quang nước trời. Một thứ hạnh phúc làm ngây ngất mãi mãi. Một thứ hạnh phúc sáng láng rực rỡ toát ra từ chính con người của Đức Giêsu, chứ không phải thứ ánh sáng bên ngoài bao phủ Người. Ánh sáng đó là chính ánh sáng Ngôi Lời Thiên Chúa. Gioan đã được cùng với Phêrô hưởng ánh sáng rực rỡ này nên khi mở đầu sách Tin mừng thứ bốn, Gioan đã viết: “Ngôi Lời là sự sáng đích thực, sáng soi cho mọi người” (Ga. 1, 9).
Trong lễ dâng Đức Giêsu vào đền thờ, tiên tri Simêon đã nhìn thấy “Người là ánh sáng muôn dân, là vinh quang của dân Chúa” (Lc. 2, 32). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai tin Tôi sẽ không ở trong tăm tối” (Ga. 12, 46). Nhất là khi “Người sống lại sáng chói rực rỡ khiến quân dữ ngã lăn bất tỉnh” (Mt. 28, 3-4). Do đó, trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng”. Và trong kinh cầu chúng ta tung hô: “Chúa Giêsu là mặt trời soi đường công chính”.
Ánh sáng đó làm cho những người công chính như Môisen, Êlia được vinh phúc tràn ngập đời đời, còn người phàm đã biết theo Chúa như Phêrô, Giacôbê, Gioan cũng được ngây ngất chút đỉnh rồi lịm đi vì chưa đủ sức chứa đựng ánh sáng huy hoàng của nước trời, còn kẻ dữ phải khiếp sợ chết xỉu đi.
Từ hạnh phúc biến hình núi Tabor, Đức Giêsu dẫn đưa các môn đệ vượt qua đau khổ núi Sọ để đến hạnh phúc vinh quang phục sinh muôn đời.
Hôm nay Giáo hội là mẹ nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cũng muốn dẫn đưa con cái mình là chúng ta từ hạnh phúc núi Tabor vượt qua biển khổ trần gian đến hạnh phúc vinh quang phục sinh bất diệt.
Không một thứ hạnh phúc thế gian nào sánh được. Hạnh phúc thế gian luôn luôn chất chứa đắng cay, đau khổ như ma túy, rượu chè, cờ bạc, trai gái. Khi chưa được thì thèm khát, khi mắc vào thì chán ngán, thất vọng, càng sa bẫy, càng bị kìm kẹp trong đau khổ tuyệt vọng.
Thí dụ: Tôi biết có anh chị đậu cao học (Master), quen nhau, yêu nhau nồng nàn suốt hai năm trời. Lễ cưới chi phí đến 20.000 đô. Họ hàng bạn bè, ai cũng mừng cho đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng chỉ được một tuần, giận nhau, bỏ nhau, đoạn tuyệt. Cha mẹ khuyên can cực lòng đến sinh bệnh, con cũng chẳng nghe.
Đấy là những hạnh phúc của thế gian.
Còn hạnh phúc của Thiên Chúa ban thì chưa thấy một đấng thánh nào chán cả. Phêrô được hưởng rồi, đã ra sức cố gắng nghe lời Con Yêu Dấu đến nỗi phải hy sinh chịu đóng đanh chết trên thập giá, vẫn luôn luôn “sướng quá”. Phaolô khi té ngựa được thấy ánh sáng rực rỡ của Đức Giêsu, dù mắt mù đi, ông đã bỏ đạo Biệt phái, đạo tổ tiên mà ông đã hăng say học hỏi từ nhỏ và cuồng nhiệt chống đối, bắt bớ kẻ phản đạo đó, để trở về với ánh sáng Đức Kitô, làm tông đồ của Đức Giêsu, một tông đồ vĩ đại nhất, nhiệt thành truyền đạo Ánh sáng nhất, chịu nhiều cực hình đau khổ nhất. Biết bao nhiêu các thánh tử đạo chỉ được thấy ánh sáng đức tin, đã coi cực hình thân xác nhẹ như lông hồng.
Muốn được hạnh phúc như các ngài, ta phải đến với ánh sáng Đức Kitô, nghe lời Con yêu dấu Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Abraham đã triệt để nghe lời Người, đến nỗi sẵn sàng sát tế con mình để tỏ lòng trung thành kính mến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hài lòng về tinh thần nghe lời Người của Abraham hơn là của lễ sát tế con ông. Vì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần tế lễ” (Mt. 9, 13). Và nhờ đó “mọi dân trên mặt đất sẽ được chúc phúc, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Môisen đã nghe lời Người, dù kinh hoàng run sợ nghĩ đến phải trở về đối diện với vua Pharaon đang lùng bắt ông. Dù phải cực khổ vào sinh ra tử suốt bốn mươi năm trong sa mạc để dẫn đưa dân về đất Hứa.
Êlia đã nghe lời Người dù biết mình phải lao vào lưỡi gươm trả thù của hoàng hậu Giêzabel, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tà thần. Và hàng triệu, hàng tỷ người đã nghe lời Con yêu dấu của Chúa Cha, vì biết rằng: “Thiên Chúa bênh đỡ ta, ban tất cả cho chúng ta, chí như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc cho Con mình phải chết vì hết thảy chúng ta”, để “Con Người từ cõi chết sống lại” “sẽ cho chúng ta được sống lại vinh phúc với Người” (Rm. 8, 31-34).
Lạy Chúa, xin cho con lắng nghe lời Con yêu dấu Ngài, dù phải nhục nhã ê chề. Xin cho con trung kiên giữ trọn lời Người, dù phải chịu sát tế với Người, con vẫn một lòng thưa như tổ phụ Abraham: “Dạ con đây”.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
ĐỪNG QUÊN MẶT TỐT NƠI MỖI NGƯỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn! (Mc 8,31)
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói sao! Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Ngài đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Củng cố tâm hồn ba môn đệ
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Ngài đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.” (Mc 9, 2-4)
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” (Mc 9,5-7)
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Ngài trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gio-an vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.
Hai mảng sáng- tối của đời người
Đời người thường có hai mảng sáng – tối đan xen nhau: có lúc thịnh thì cũng có lúc suy; có khi thành công cũng có khi thất bại, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mảng sáng, mảng tối. Mảng sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao; mảng tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm… Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mảng đen tối, u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính yếu đuối của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới, đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mảng sáng của Ngài trên núi cao, không thấy cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng và sẽ đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh? Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mảng sáng của Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của mình, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi suy sụp khi chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương sắp đến của Ngài.
Đừng quên mảng tốt
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền xinh đẹp của nó, người ta sẽ thất vọng về nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải phản ánh vinh dự của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì người ta sẽ xem thường nó.
Đối với người chung quanh cũng thế. Cuộc đời mỗi người đều có mảng sáng và mảng tối. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mảng đen tối của một con người, mà quên đi mảng sáng tươi tốt đẹp trong đời họ; nếu chỉ nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ thất vọng về người đó.
Lạy Chúa Giê-su,
Nhờ chứng kiến cuộc hiển dung vinh hiển của Chúa trên núi cao, các môn đệ cảm thấy vững tâm hơn khi đối diện với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa;
Nhờ nhìn ngắm vẻ đẹp của những đoá hoa hồng, người ta mới dễ dàng chấp nhận những gai nhọn đáng phàn nàn của nó;
Xin cho chúng con, trong tương quan với tha nhân, cũng biết nhìn vào mảng sáng, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những điều đen tối xấu xa nơi họ.
Nhờ đó, chúng con sẽ thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của chúng con với mọi người sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng con với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY-B
BIẾN HÌNH VỚI CHÚA- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Lịch sử cứu độ được tiếp nối bằng những cuộc ra đi. Dường như Thiên Chúa không muốn con người dậm chân tại chỗ.
Để thành lập một dân riêng, Thiên Chúa kêu gọi Abraham từ bỏ quê hương xứ sở đi đến một nơi mà ông không hề biết trước.
Ngài ra lệnh cho Môisen phải đưa dân Israel ra khỏi đất Aicập, để trở về miền đất Hứa đầy sữa và mật.
Ngài kêu gọi Êlia hãy đến ngọn núi cao để nhận ra sứ điệp của Ngài. Và chính Chúa Giêsu chỉ vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, cũng phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp để cứu độ con người.
Tin Mừng hôm nay kể lại, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín nhất, riêng biệt lên núi cao vắng vẻ, để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông.
Theo truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người, những mặc khải quan trọng trong Kinh Thánh thường được diễn ra trên núi cao.
Từ trên núi cao, Chúa hứa ban cho tổ phụ Abraham một dòng tộc đông như sao trời, như cát biển.
Từ trên núi Sinai, Chúa ban lề luật cho Môisen, để ông truyền lại cho dân Israel.
Tám mối phúc thật cũng được Chúa công bố trên núi.
Từ tren núi cao, Chúa Giêsu hé mở cho các môn đệ thấy trước vinh quang của Ngài trong ngày phục sinh vinh hiển; đồng thời Ngài cũng hé lộ cho các ông thấy cuộc khổ nạn và cái chết mà Ngài sắp trải qua.
Qua cuộc biến hình này, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ và báo trước cho các ông thấy con đường Ngài sẽ đi, từ sự sống đến sự chết, rồi mới tới phục sinh vinh thắng, và đó cũng là con đường tất yếu dành cho những ai muốn đi theo Ngài.
Anh chị em thân mến,
Từ trên núi Tabor, đang lúc Chúa Giêsu biến hình, có tiếng Thiên Chúa Cha từ trời phán xuống: “Đây là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Tiếng nói ấy không chỉ dành riêng cho ba môn đệ, nhưng còn là một thông điệp cho tất cả những người tin theo Chúa.
Thế thì, chúng ta lắng nghe lời Chúa rất nhiều lần trong đời. Đã nghe lời mời gọi của Chúa rất nhiều lần mỗi khi đến nhà thờ hay những cơ hội đạo đức khác. Thế nhưng, tại sao chúng ta vẫn chưa thực hiện được những gì gọi là đáng kể? Dường như chúng ta vẫn còn dẫm chân tại chỗ trên hành trình đức tin.
Từ trên núi cao, ba môn đệ đã ngất ngây trong niềm hạnh phúc, muốn cắm lều ở lại đó. Nhưng mà Chúa Giêsu không có ý đưa các ông lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường sẽ phải đi, con đường đó là cái chết đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đi xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua cuộc khổ nạn và cái chết đau thương trên thập giá.
Từ trên núi cao, Chúa Giêsu lại đưa các môn đệ thân tín của Ngài xuống núi, trở lại với đời thường, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt họ.
Thưa anh chị em,
Trong hành trình đức tin, có những giây phút chúng ta cũng được lên núi cao để gặp gỡ Chúa. Núi cao của giờ cầu nguyện hay khi tham dự Thánh lễ. Nơi đây, Chúa vẫn tiếp tục biến hình: từ tấm bánh, Chúa biến thành Mình Chúa; từ chén rượu, Chúa biến thành Máu Chúa. Nhưng chúng ta không lên núi cao để ở đó mãi, mà phải trở lại với cuộc sống đời thường, với những lo toan trong cuộc sống. Nếu chúng ta biết đón nhận với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thế, là chúng ta đang bước đi trên con đường theo Chúa.
Cuộc biến hình nào cũng là một cuộc trẩy đi, một cuộc biến đổi. Cuộc sống của người Kitô hữu là một chuỗi những ra đi. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nghiêm chỉnh tự đặt cho mình câu hỏi: tôi có thực sự muốn được biến hình không? Tôi có thực sự muốn sống sự sống Thần linh của Chúa không? Tôi có thực sự muốn làm môn đệ của Chúa không? Đức tin của tôi có đủ mạnh để biến đổi cuộc sống của tôi không?
Chúng ta không thể biến hình đổi dạng thành người con Chúa, nếu chúng ta không cùng lên núi cao với Chúa. Chỉ khi nào chúng ta lên núi cầu nguyện với Chúa và được biến đổi với Ngài, đồng cảm với sứ vụ của Ngài, thì lúc đó chúng ta mới có thể xuống núi, để tiếp tục đi theo con đường Chúa đã đi.
Xin Chúa thương củng cố đức tin hèn yếu của chúng ta. Để những vất vả khổ đau mà chúng ta đang gặp phải trên đường đời, cần phải được sống và được nhìn với niềm hy vọng vào cuộc biến hình vinh hiển, đang chờ đón chúng ta mai sau. Amen.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
ĐỨC TIN VÀ ĐAU KHỔ- Lm Giuse Nguyễn Quốc Quang
Giáo Lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mặc khải: Nhờ bao gồm cả hai điều trên, đức tin Kitô giáo khác với việc tin tưởng một người phàm. Thật là chính đáng và phải đạo khi phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa và tin tuyệt đối điều Người dạy” (số 150). Như vậy, đức tin không phải là một mớ giáo lý mà ta đã học, cũng không phải là một sự chinh phục, mà là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Nhờ ân ban ấy, con người có được một lối sống tin tưởng, phó thác và chủ động theo Chúa. Lối sống đó là soi mình dưới bóng Chúa, đặt hành vi luân thường đạo lý dưới Lời Chúa qua từng biến cố của cuộc đời. Nghĩa là biết đáp ứng bằng đức tin trong mọi tình huống bằng hành động cụ thể. Tóm lại, Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang.
Bài đọc 1, Sách Sáng Thế kể rằng khi gần trăm tuổi, ông Abraham được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau khổ, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Rõ ràng đức tin của ông Abraham mạnh mẻ đến nỗi giúp ông sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn là đẹp lòng Chúa.
Đến bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài đó là đón lấy đau khổ, chiến đấu với đau sổ. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Chúa Giêsu nói “ngày nào cũng có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Như vậy, đau khổ tự nó không phải là xấu, và tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ: biết chấp nhận và sống với đau khổ. Vì thế, khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng than thân trách phận, cũng đừng để mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Anh chị em có công nhận với tôi rằng bệnh hoạn không phải là do Chúa phạt, càng không phải là do tội mình hay ông bà cha mẹ anh chị em mình gây ra nhưng mình bệnh hoạn như thể là một trật thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu một trật để quyền năng Chúa được tỏ hiện nơi ta. Qủa thế, Phúc Âm kể: “Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? ” Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 1-7).
Cho nên, ngay lúc này, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ bên cạnh đó giúp chúng ta kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Vì vậy, sống Lời Ngài từng giây trong đời giúp đức tin kiên cường hơn và bền đỗ hơn đồng thời phát huy tính hiệu quả của lòng tin. Cho nên, Thánh Giacôbê xác tín: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy dâng những khó khăn, đau khổ lên cho Chúa trong các giờ kinh lễ của chúng ta hằng ngày. Vì khi cầu nguyện chúng ta chuyển những khó khăn đau khổ ấy cho Chúa. Lập tức ta có được sự trợ giúp của Chúa, có thêm những sức mạnh siêu nhiên giúp chúng ta chịu đựng đớn đau. Cầu nguyện với Chúa trong đau khổ sẽ tạo ra một sức mạnh làm thêm ơn thánh, giúp ta tin rằng khi biết chịu đựng đau khổ vì danh Thiên Chúa, nhất định Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn lành. Vì Lời Chúa xác quyết: “Đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, hãy đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Chúa. Và… Chúa sẽ ban cho bình an vượt lên trên hết mọi hiểu biết. Và bình an ấy sẽ điều khiển cách suy nghĩ và cảm nhận của bạn” (Pl 4,6-7). Vì vậy, dù bất cứ nguyên nhân hay bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta phải kiên trì và kiêm tốn cầu nguyện, chắc chắn Chúa làm mọi điều tốt đẹp cho cho chúng ta (Rm 8,28). Amen.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
ĐỨC TIN TRONG ĐAU KHỔ- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Áp-ra-ham trong bài đọc một. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Áp-ra-ham với vợ chính là Sa-ra, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Áp-ra-ham và Sa-ra, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin của Áp-ra-ham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Áp-ra-ham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Áp-ra-ham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Áp-ra-ham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa bệnh. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng Ngài mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ luỵ của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY- B
CHỮ TÌNH- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình, vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22, 2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng thật ra đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ. Một lẽ như nhiên, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng khả tín.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”(Mc 9,5). Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “ Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatiimuachayb