CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NẾU THẦY MUỐN, THẦY CÓ THỂ CHỮA TÔI (*)- Chú giải của Noel Quession 6
TỘI LỖI CÒN HƠN PHONG CÙI NỮA- Suy niệm của Yvon Daigneau 14
SỰ THANH SẠCH VÀ SỰ Ô UẾ (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 18
SẠCH VÀ DƠ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 27
NGƯỜI ANH EM PHONG HỦI- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 41
BỆNH PHONG TÂM HỒN- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt. 53
TÔI MUỐN ANH HÃY LÀNH BỆNH– Lm. Phêrô Lê Văn Chính.. 57
CHỨNG PHONG HỦI BIẾN KHỎI ANH- Lm. Trầm Phúc.. 63
HẬU QUẢ ĐÁNG SỢ CỦA TỘI LỖI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 67
NGƯỜI CÙI- Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 72
PHONG CÙI- Lm Giuse Trần Việt Hùng.. 75
HÃY SỐNG ĐẸP CHO NHAU- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.. 80
ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CHỮA LÀNH MỌI BỆNH TẬT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 84
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Người phong cùi phải ở riêng ngoài trại”.
Bài trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: “Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.
“Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại”.
Đó là lời Chúa.
Đáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 11
Đáp: Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ con khỏi điều nguy khổ (c. 7).
Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian! – Đáp.
2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: “Con thú thực cùng Chúa điều gian ác của con, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con”. – Đáp.
3) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng. – Đáp.
Bài Đọc II: 1 Cr 10, 31 – 11, 1
“Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, dầu anh em ăn, dầu anh em uống, dầu anh em làm việc gì khác, anh em hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Anh em đừng nên cớ cho người Do-thái, dân ngoại hay Hội thánh của Thiên Chúa phải vấp phạm. Như tôi đây, tôi cố làm hài lòng mọi người trong mọi sự, không tìm điều gì lợi ích cho tôi, nhưng tìm điều lợi ích cho nhiều người, để họ được cứu rỗi. Anh em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi gương Đức Kitô.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia
Phúc Âm: Mc 1, 40-45
“Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: “Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh”. Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
NẾU THẦY MUỐN, THẦY CÓ THỂ CHỮA TÔI (*)- Chú giải của Noel Quession
Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu… và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết” lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi.
Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.
Anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.
Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những “dấu chỉ” của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là “kêu xin” Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: “Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.
Động lòng thương trước người đó.
Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: “splagknisteis” có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và “orgisteis” có nghĩa là “nổi giận”. Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ “nổi giận” nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai “câu dịch” đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một “phản ứng rất nhân bản”! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là “hiện thực”, đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận… “Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người”. Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính “Thiên Chúa hiện hình cụ thể”. Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước “vấn đề sự dữ”, họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.
“Động lòng thương”. Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng “làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể “hoàn hảo” được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là “Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian “không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn “hữu hạn”, rõ ràng “không phải là Chúa”. Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào “thế gian này”. Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.
Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người “nổi giận”, đã khơi dậy “lòng thương xót” của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một “dấu chỉ” báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự “sẽ được hoàn tất” (Rm 8,18).
Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta
Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến “bàn tay”. Ở đây, đối với một người phong hủi, một người “không ai được sờ động đến”, thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: “Nhơ! Nhơ!”: Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.
Người bảo: “Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh”.
Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một “cử chỉ” và “bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô”.
Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: “Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: “Nếu Ngài muốn điều đó”, nhưng là nếu Ngài muốn”. Và Đức Giêsu cũng không đáp lại: “Tôi muốn điều đó”, mà là “Tôi muốn”. Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ “điều đó”, những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.
Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh
Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một “hình phạt của Thiên Chúa”, Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).
Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là “biểu tượng” của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận” và “lời” của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.
Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động “chữa lành” của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.
Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.
Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: “Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng”). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người “nhu mì”, mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.
Coi chừng, không được nói gì với ai cả.
Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: “không gì hết”, “không với một ai cả”.
Đó là “bí mật Thiên Sai” nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc “giải phóng” con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại.
Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.
Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22).
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Đối với Maccô. “Lời” được công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên “kẻ cứu độ” người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những “nơi hoang vắng”. Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một “Thiên Chúa ẩn giấu”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
TỘI LỖI CÒN HƠN PHONG CÙI NỮA- Suy niệm của Yvon Daigneau
Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài người đã được khẳng định trong các trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi người đều hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài người khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về sứ vụ của Ngài đối với chúng ta.
Bệnh tật.
Chúng ta thất vọng và chua xót khi thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu, người ta hầu như không có cách nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta thường mặc nhiên gán cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại Israel, bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành được nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn bệnh tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi.
Người phong cùi đến với Chúa Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là được hồi phục trong thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ được tái sinh.
Thái độ của Chúa Giêsu.
Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải giữ thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều nhận thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc phiền toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá hiển nhiên như thế.
Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và sinh tội nữa.
Còn việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý Chúa nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ này.
Người phong cùi.
Theo Tin Mừng, người phong cùi không có vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng được, anh nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối xóm.
Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành và anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống mới, cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó, Ngài vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những kẻ đã được thương xót.
Kết luận.
Trong lòng mỗi người chúng ta có một nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự gắn bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý thức. Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
SỰ THANH SẠCH VÀ SỰ Ô UẾ (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên năm B có chung một chủ đề: sự thanh sạch và sự ô uế.
Lv 13: 1-2, 44-46
Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy nỗi đau khổ mà người bị bệnh phong hủi phải gánh chịu như thế nào. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi.
1Cr 10: 31-11: 1
Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô cho thấy sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề thanh sạch và ô uế như những lệnh cấm thức ăn. Bởi lẽ Chúa Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ.
Mc 1: 40-45
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su không ngại chạm đến người phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử những tội nhân như vậy. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi.
BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 44-46).
Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư hay sách Luật (To-ra). Theo truyền thống, Ngũ Thư nhận được nguồn gợi hứng lên đến tận ông Mô-sê.
Sách Lê-vi là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì những tư tế đều thuộc chi tộc Lê-vi. Xưa kia, chi tộc Lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy Lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân lành (Lc 10: 31-32).
1-.Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội:
Bộ luật tư tế nầy dành chương 13 cho “luật thanh sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố, làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai.
Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới, đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!” để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh.
2-Nỗi khốn cùng về phương diện tinh thần:
Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn giáo cổ xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẻ với ý tưởng thánh thiêng. Dân Ít-ra-en cốt yếu là một cộng đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng vụ.
Bệnh phong hủi gợi ra không những sự ghê tởm về mặt thể lý, nhưng còn một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy định đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy đến với thầy tư tế”.
Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, “đồ bỏ đi”, “kẻ bị khai trừ”, những người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, “Người Tôi Trung của Đức Chúa” được mô tả như một người phong hủi, vì Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người (x. Is 53: 3).
Đó là thân phận bi thương cùng cực của những người phong hủi được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da thịt mình; nhưng cả về mặt xã hội: vì là chứng bệnh truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; lẫn về mặt tinh thần: vì được coi là những người tội lỗi, bị khai trừ khỏi đời sống phụng vụ và không được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1)
Đoạn trích thư thánh Phao-lô nầy làm chứng cho một cuộc cách mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn Thiên Chúa, vì mọi thức ăn đều do Thiên Chúa ban để con người hưởng dùng. Thêm nữa, không có hành động nào là vô tình. Tất cả những gì chúng ta làm là để tôn vinh Thiên Chúa.
1-Vấn đề ăn thịt cúng:
Sách Lê-vi đưa ra nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân Ít-ra-en phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không còn bận lòng về vấn đề này nữa. Tuy nhiên có một vấn đề khác được đặt ra cho họ, nhưng cũng cho những người Ki-tô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt mà lương dân dâng cúng cho các thần linh của họ không?
2-Giải pháp của thánh Phao-lô:
Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi sáng.
“Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật, người Ki-tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn nào, vì thế họ có thể gây nên gương xấu. Thế nên cần phải thận trọng khi ăn khi uống.
Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này, chúng ta biết rằng thánh nhân thường đẩy cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những mối quan tâm. Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4).
Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh nhân triển khai lời dạy của mình một cách tế nhị như sau: nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em: “Đây là của cúng”, thì anh em đừng ăn, không phải anh em không được phép ăn, nhưng để tránh gây gương xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng đừng gây gương xấu cho người ấy. Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với mối quan tâm duy nhất, đó là “cứu độ người khác”. Đây là luật vàng của Đức Ái.
TIN MỪNG (Mc 1: 40-45)
Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su khắp miền Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” kèm theo, đặc biệt việc chữa lành bệnh hoạn tật nguyền. Trong đoạn văn nầy, Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi.
Bài Đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương cùng cực mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người phong hủi bày tỏ sự đồng cảm sâu xa của Ngài, đồng thời cũng cho thấy quyền năng siêu việt ở nơi Ngài.
1-Vượt qua Lề Luật:
Trước hoàn cảnh đáng thương của một người phong hủi bị xem là đồ ô uế và bị cách ly khỏi xã hội và tôn giáo, không ai dám đến gần, Đức Giê-su “chạnh lòng thương”. Đây là diễn ngữ mà Tân Ước thường dành riêng cho Đức Giê-su để diễn tả sự đồng cảm tận đáy lòng đến mức Ngài phải ra tay hành động, không thể khoanh tay đứng nhìn, như Đức Giê-su “chạnh lòng thương” một bà góa có người con trai một qua đời (Lc 7: 13) hay Đức Giê-su “chạnh lòng thương” hai người mù tại Giê-ri-cô (Mt 20: 34).
Thật ra, nhiều lần Ngài để lộ mối quan tâm của Ngài đối với những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với những môn đệ được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9).
Đức Giê-su không ngại vượt lên trên các tập tục và các quy định của Lề Luật khi giơ tay chạm đến người phong hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra: điều làm cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài, nhưng từ bên trong, tức là những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20).
2-Tuân thủ Lề Luật:
Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống cộng đoàn sau khi chứng thực anh khỏi bệnh và chu toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định.
Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo anh cách nghiêm khắc: “Coi chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta lại gặp thấy ở nơi Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự cuồng nhiệt của đám đông làm phương hại đến sứ mạng của Ngài. Tuy nhiên, vì người phong hủi đã không tuân giữ lệnh im lặng nầy, nên “Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế niềm vui được tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ?
3-Bệnh phong hủi của tâm hồn:
Thật ra, Đức Giê-su đối xử người phong hủi như thế nào, thì Ngài cũng đối xử những người tội lỗi cũng như vậy. Ngài không ngần ngại giao tiếp với họ. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ tai tiếng đụng chạm đến mình (Lc 7: 38), và thậm chí Ngài còn đồng bàn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi (Lc 15: 1-3). Như vậy, Ngài bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội lỗi của chúng ta, Ngài không muốn khai trừ chúng ta, ngược lại Ngài công bố: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9: 12; Mc 2: 17).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
SẠCH VÀ DƠ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Trong cuộc sống chung với mọi người, chúng ta nhận thấy có một số người bị người khác khinh bỉ lánh xa ; có khi chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao ? Lời Chúa hôm nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và xin Chúa giúp chúng ta sống theo lời Ngài dạy.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành tâm sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.
– Nhiều lần chúng ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu chuyện khiếm nhã.
– Chúng ta cũng làm nhơ uế trái tim mình do cách sống ích kỷ và giận hờn ganh ghét.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I(Lv 13,1-2.45-46)
Đoạn này là một phần của sách Lêvi được các chuyên viên gọi là “Luật về sự tinh sạch”. Đoạn này đề cập riêng về bệnh cùi. Nhưng quan niệm về “bệnh cùi” không giống với quan niệm ngày nay :
– Tất cả những hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu hoặc bóng láng) đều bị gọi là “cùi”. Người ta còn nghĩ rằng bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc những người mắc bệnh ấy phải ở riêng.
– Hơn nữa, người ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn giáo : trong quan niệm chung rằng bệnh tật là hình phạt của tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó cho kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu bị cùi phải đến trình diện với tư tế, và sau này “nếu” khỏi bệnh thì cũng phải được tư tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là một chữ “nếu” to tướng, vì người ta đều coi cùi là một chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa ra tay cứu chữa.
Vì vậy, người nào cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và Đức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền đặc biệt do Thiên Chúa ban.
- Đáp ca(Tv 31)
Ca tụng sự tha thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của người được tha thứ.
- Tin Mừng(Mc 1,40-45)
Như đã nói trong phần giải thích bài đọc I, người do thái coi bệnh cùi là a/ chứng nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi ; b/ chứng bệnh rất hay lây ; c/ có liên hệ đến tội lỗi.
Người cùi trong bài Tin Mừng này nói với Đức Giêsu “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Điều này chứng tỏ anh tin rằng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đưa tay đặt trên người ấy : chứng tỏ Ngài không sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê tởm kẻ mắc bệnh cùi.
Ngài chữa bệnh một cách rất nhanh chóng và dễ dàng : chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của Thiên Chúa.
- Bài đọc II(1 Cr 10,31–11,1)
Đoạn thư này tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng chung một vấn đề, đó là “sạch và dơ”. Người do thái thời thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn “sạch” và thức ăn “dơ”. Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó. Điều quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay dơ, mà là dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Thứ bệnh “cùi” nguy hiểm hơn
Những kiến thức y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.
Nhưng chúng ta phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả : Đó là một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế, lại có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi người xa lánh.
Tội “cùi” ấy là gì ? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan truyền những ý nghĩ xấu ấy.
Ebba de Pauli trong quyển “Vị ẩn sĩ” đã mô tả một người cùi như thế : Đó là một bà trung lưu và có thể nói là “đạo đức”. Bà không phải bận bịu với việc sinh nhai, bà có nhiều giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa xa thì đã lẫn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ. Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ kết luận :
– Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn độc !
– Nhưng sao họ coi tôi là rắn độc ?
– Vì trong đầu óc bà đầy những ý tưởng độc hại, như nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan… Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn xuống, cuộc sống mình buồn thảm hơn.
– Vậy xin ngài chỉ cho tôi phải làm sao.
Vị Ẩn Sĩ khuyên bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao tiếp : từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành ; khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn.
Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.
* 2. Những “con hủi”
Hoàn cảnh đáng thương của người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay không phải vì anh mắc một chứng bệnh ô uế và hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh không đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ anh như thế nên ghê tởm và xa lánh anh.
Có nhiều người tuy không “cùi” nhưng vẫn bị coi là “con hủi” do bị mọi người khinh tởm tránh xa.
Nhưng Đức Giêsu thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi với những “con hủi” ấy, chẳng hạn những người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp v.v.
* 3. Nỗi khổ bị xua đuổi
Bệnh cùi là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi. Có thể nói, đau khổ lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn phẩm giá gì nữa, thậm chí nó còn khiến người ta nổi loạn.
Trẻ con mà bị cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu tất cả mọi đau khổ khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất không phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó đang mắc phải, mà là bị người khác xa lánh.
Người cùi đến với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng này là một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được sống chung với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho người khác chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên anh còn thêm mặc cảm mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.
Điểm hay trong chuyện này không phải là việc Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách Ngài đối xử với anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh.
Khi ta xua đuổi ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta có thể xua đuổi người khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v.v. Đó là những mũi kim đâm rất nhỏ nhưng gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor Mc Carthy)
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu : “Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy”.
Thế mà hai năm sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.
Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.
Thi đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.
*
Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.
Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên “ô uế” để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin : “Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch” (Mc.1,40).
Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói : “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh” (Mc.1,41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.
M.Carré có nói : “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông“. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa ; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.
Vì thế Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G.Bossis viết : “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ”.
Bí quyết trở nên hùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu : “In God we trust” (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salêsiô nói :“Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
*
Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người ; tất cả nơi Người.
Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Chạm vào
Nhiều người chúng ta sợ chạm vào người khác.
Thà cho người ăn mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm tới mình.
Đức Giêsu thì khác. Ngài không đứng xa, không ngại chạm vào.
Ngài chạm vào những người cùi, những người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người chết.
Những cái chạm thân ái làm cho lòng người đang lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu được vui mừng sung sướng.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu dàng. (Flor Mc Carthy)
* 6. Chúa chạm vào
Người phong cùi nói với Đức Giêsu : “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Đức Giêsu chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo “Tôi muốn, anh hãy được sạch”
Mẫu đối thoại ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng :
– Xét về mặt thiêng liêng thì ai cũng đều “cùi” vì ai cũng có tội.
– “Nếu Ngài muốn” : Đức Giêsu có muốn cho chúng ta hết “cùi” thiêng liêng không ? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì Đức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi cho loài người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi : “Tôi muốn”
– Người cùi trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Đức Giêsu đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay không chỉ được Đức Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ thể chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.
- Ý nghĩa việc làm của Đức Giêsu
Các sách Tin Mừng trình bày Đức Giêsu luôn làm hai việc : chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc này không riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói cách khác, Đức Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ trợ cho việc rao giảng. Ta cũng có thể nói : chữa bệnh là một cách rao giảng Tin Mừng.
Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng. Chẳng những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ loan báo Tin Mừng : “Đi khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó… và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người”.
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã không ngại đụng chạm đến người cùi để chữa lành và tỏ lòng yêu thương họ. Chúng ta xin Đức Giêsu thương chữa lành cho mọi bệnh tật phần hồn và phần xác cho chúng ta :
- Trong Hội thánh có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng là sống trong tình trạng tội nặng / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ sớm chạy đến tòa cáo giải để được lành sạch.
- Trên thế giới có đủ các thứ bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền biết quan tâm để mọi người dân được chữa bệnh cả phần xác lẫn phần hồn.
- Ngày nay ở khắp nơi có nhiều người mắc những bệnh hiểm nghèo không thể chữa được như ung thư, sida / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ luôn được nhiều người yêu thương và ủi an.
- Trong xứ đạo chúng ta có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng mà không ý thức và không muốn chữa lành / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ gặp dịp để ăn năn sám hối và chạy đến với Chúa để được chữa lành.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa luôn luôn muốn chữa lành mọi bệnh tật phần hồn phần xác cho chúng con, Xin cho chúng con biết tin tưởng và tìm đến với Chúa, để Chúa chữa lành cho chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Như những đứa con bệnh hoạn tật nguyền vì những chứng bệnh phần hồn, phần xác, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh sau đây : “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ làm cho tâm hồn chúng con ra nhơ uế, và sự dữ tách chúng con ra khỏi nếp sống cộng đoàn yêu thương, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. GIẢI TÁN
Nhờ linh dược của Thánh Thể, mọi bệnh tật nhơ uế trong tâm hồn chúng ta đã được sạch. Chúng ta hãy ra về và giúp cho anh chị em chúng ta cũng được lành sạch như vậy.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN -B
NGƯỜI ANH EM PHONG HỦI- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Bệnh phung hủi là một chứng bệnh ghê sợ nhất và cũng khó chữa. Hiện nay trên thế giới có chừng 15 triệu nạn nhân. Ở Việt nam chúng ta cũng chẳng thiếu gì người bị phung hủi. Hiện nay có 21 trại phong cùi. Một trong những trại phung nổi tiếng mà thi sĩ Hàn mạc Tử đã phải ở đó và ngôi mộ của thi sĩ cũng còn ở gần đó : trại phung Qui hòa thuộc tỉnh Bình định.
Đối với xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, người phung hủi bị coi như là người có tội bị Thiên Chúa phạt, nên họ bị kỳ thị triệt để, bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, phải sống riêng rẽ ở nơi hẻo lánh, xa mọi người, sống cô đơn, không được tham dự các lễ nghi. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa khỏi, mới cứu sống được.
Ngoài bệnh phung cùi thể xác, còn một thứ bệnh khác là bệnh phung cùi thiêng liêng. Khi phạm tội trọng là người ta đã trở nên phung cùi trước mặt Chúa. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho linh hồn họ khỏi bệnh cùi. Hãy đến với toà cáo giải.
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Lv 13,1-2.45-46.
Sách Lêvi trong Kinh thánh dùng hai chương nói về căn bệnh này, không phải về phương diện thể lý cho bằng cách đối xử với nạn nhân trong cộng đoàn. Sách Luật không đề cập đến cách điều trị, vì đó không phải là mục tiêu mà trước tiên nhắm đến phương thếù khám phá những triệu chứng, để trục xuất người mắc bệnh ra khỏi cộng đoàn.
Luật Maisen đòi buộc người mắc bệnh phung cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi gặp người nào lành sạch thì phải hô lên :”Ô uế, ô uế”. Vì là người bị cho là ô uế, tội lỗi nên phải sống riêng rẽ, sống bên ngoài trại.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 10,31-11,1.
Đây là phần kết luận của đoạn kết về vấn đề ăn thịt cúng. Tuy thánh Phaolô không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cùng chung một vấn đề là “sạch và dơ”. Người Do thái luôn chú trọng đến đồ ăn sạch và dơ, họ nhất quyết phải lánh xa những đồ ăn dơ. Nhưng thánh Phaolô đã đả phá quan niệm ấy, ngài cho rằng những gì Thiên Chúa đã dựng nên cho con người thì đều sạch cả, nó chỉ trở nên dơ do lòng người mà ra. Vì thế Ngài kết luận : đừng chú trọng phân biệt đồ ăn sạch hay dơ mà điều cần nhất là khi ăn khi uống, dù khi bất cứ làm việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.
+ Bài Tin mừng : Mc 1, 40-45.
Cả ba sách Phúc âm nhất lãm đều nhắc đến việc Đức Giêsu chữa lành người phung hủi, ở đây có lẽ là một trong những phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu. Đó là một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất cho thấy thời Thiên sai đã đến. Đối với người Do thái, bệnh phung cùi là bệnh nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi. Chứng bệnh này rất hay lây và có liên hệ đến tội lỗi. Người phung hủi là người bị loại ra khỏi đời sống xã hội Do thái: khi chữa lành, Đức Giêsu đã phục hồi phẩm giá cho anh và cáo giác việc cấm đoán anh ta cho đến lúc đó.
Việc chữa bệnh này còn nói lên lòng thương xót của Chúa đối với nạn nhân ; đồng thời đả phá những luật lệ cấm kỵ làm thương tổn đến phẩm giá con người. Phép lạ này cũng nói lên sứ mạng cứu thế của Ngài.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đừng trở thành người phung cùi.
*I. BỆNH PHUNG HỦI THỜI ĐỨC GIÊSU.
*1. Luật Do thái về bệnh phung cùi.
Theo luật Do thái, những ai mắc bệnh cùi không được sống trà trộn trong dân chúng vì bệnh này là bệnh nan y và hay lây. Vì vậy số phận của họ đã khổ vì bệnh hoạn lại còn khốn nạn hơn vì tình trạng cô đơn.
Căn bệnh đáng sợ nhất đối với người Do thái ngày xưa chính là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi đó không có hy vọng cứu chữa. Số phận của người bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh,êvi, người phung cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình và bạn hữu, bị coi như đã chết. Và sách còn cho biết thêm:”Người mắc bệnh phung hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên:”Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế, nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là là một nơi bên ngoài trại
(Lv 13, 45-46). Nếu gặp người mạnh khỏe ngoài đường, họ phải hô hoán lên cho người ta biết là mình mắc bệnh, như là dấu hiệu đề phòng cho người khác. Ngoài ra, người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì phong cùi bị coi là nhơ bẩn và còn bị coi là bị Chúa phạt.
Thời trung cổ, người nào mắc bệnh phung cùi thì thầy cả mặc áo lễ, cầm thánh giá đưa người bệnh vào nhà thờ và cử hành lễ an táng.
Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu ở trại cùi Qui hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.
Đọc chuyện cha Đa-miêng, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức giám mục ở đảo Hawai giới thiệu cha Đa-miêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đa-miêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Đa-miêng là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau:”Không”. Dần dần cha Đa-miêng hoà đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.
*II. ĐỨC GIÊSU CHỮA BỆNH PHUNG CÙI.
Người Do thái rất sợ người phung cùi vì họ là người ô uế phải tránh xa. Không ai được phép chào hỏi một người phung ở ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phung hủi đứng đầu gió thì người ở cuối gió phải cách xa 45 mét. Ngay cả một quả trứng, các rabbi Do thái cũng không ăn nếu bán ở đường phố có người phung hủi đi qua.
Vì có những sự kỳ thị và cấm kỵ quá mức như vậy, chúng ta cần xem thái độ của người phung và của Đức Giêsu trong phép lạ chữa bệnh này.
*1. Thái độ của người phung cùi.
Theo nguyên tắc, người mắc mệnh phung không được đến gần người lành. Đây là một cấm kỵ. Nhưng người phung hủi đây bỏ mọi mặc cảm đến với một lòng tin tưởng : anh chắc chắn nếu Chúa muốn Ngài có thể chữa lành. Nếu không tin, anh đã không dám làm thế vì không một người phung hủi nào dám đến gần một vị bác sĩ vì biết sẽ bị ném đá đuổi đi. Nhưng nguời này đã đến với Đức Giêsu. Anh hoàn toàn tin tưởng Ngài sẵn sàng tiếp đón một người bị mọi người xua đuổi. Lòng tin tưởng đã khiến anh liều mình bị ném đá khi đến gần Đức Giêsu vì đã vi phạm luật.
Anh còn đến với Chúa với tấm lòng khiêm cung khi anh ta nói:”Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được lành”. Nói như thế, anh ta dường như muốn nói với Đức Giêsu rằng:”Tôi biết mình chẳng ra gì, mọi người xa lánh, khinh dể tôi, tôi biết tôi không có quyền gì kêu cầu Ngài, chỉ mong Ngài đoái thương đến cảnh cùng khốn của tôi”. Chính lòng khiêm nhường nhận biết sự bất xứng và nhu cầu của mình, người bệnh tìm đến với Đức Giêsu.
*2. Thái độ của Đức Giêsu.
Tin mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu rất xúc động cảm thông khi gặp thấy người cùi. Thấy người phung cùi tiến đến, Chúa bầy tỏ lòng thương xót ngay. Dầu luật pháp không cho phép đụng đến người phung hủi, chỉ đến gần 2 mét đã bị ô uế rồi, thế mà Đức Giêsu giơ tay ra đụng đến anh ta. Đối với Đức Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một bó buộc duy nhất là luật yêu thương. Đây là lần duy nhất trong số những người tiếp xúc giữa Chúa và người bệnh mà Ngài tỏ ra động lòng trắc ẩn rõ ràng nhất. Điều này nói lên một điều gì đó sâu xa nơi Con Người đang-ra-tay-chữa-lành kia, như là dấu chỉ của lòng thương xót, đồng thời giúp chúng ta nhìn sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn quan tâm săn sóc mọi thứ bệnh tật phần xác cũng như phần hồn.
*III. BỆNH PHUNG HỦI THIÊNG LIÊNG.
Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thế xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.
Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phung cùi đã tìm đến Chúa để xin được chữa lành. Người cùi đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu Chúa. Cái điều mà tội nhân cần có là đức tin và lòng trông cậy của người cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến quyền năng và lòng thương xót của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh và có tội. Người không nhận mình là có bệnh và có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.
Khi phạm tội trọng, đó là lúc linh hồn bị bệnh phong cùi, linh hôn còn sống mà đã như chết trước mặt Chúa, chỉ có phép giải tội mới làm cho linh hồn được khỏi bệnh phong, mới làm cho linh hồn được trong sạch và được sống lại. Thiên Chúa không trực tiếp chữa bệnh phong linh hồn nhưng Ngài nhờ tay Linh mục để sửa chữa và làm cho sống lại.
Truyện: Pho tượng biết hát.
Nơi đồng Memnon, chỗ thành Thèbes cũ, người ta đựng lên hai tượng đá mạnh mẽ, cao độ 20 thước, tượng hai ông vua, khắc trong một thứ đá bở, ngồi đó từ 20 thế kỷ trước Chúa giáng sinh. Chính vua Pharao Amenhotep III đã dựng hai tượng ấy. Một trong” hai cây cột Memnon này”(người đời xưa gọi hai tượng ấy là cột trụ) nứt ra hồi động đất năm 27 trước Chúa giáng sinh. Vừa khi mặt trời mới mọc soi bức tượng, tượng đã ra nóng và bắt đầu rên siết, bắt đầu kêu la cách lạ kỳ, đó là bức tượng Memnon “hát”.
Trong linh hồn ta cũng vậy, sự sống bắt đầu hát, bắt đầu rên siết, bắt đầu reo vui và khoái chí sau khi xưng tội cho tử tế, chính là lúc mức ánh sáng mặt trời đầu hết, lúc sự yêu mến hay thiêu đốt của Chúa Giêsu, đổ xuống chan chứa trong linh hồn ta khi Thầy Cả ban phép giải tội. Chúa Giêsu vào ở lại trong linh hồn ta tràn trề sự vui, và tiếp theo sau Chúa Giêsu một mãnh lực như đồng như sắt chỗi dậy : đó là ý muốn quyết định bắt đầu một cuộc đời mới mẻ, đẹp hơn và thanh sạch hơn. Phải làm thử đã thì mới nghiệm biết phép lạ Chúa làm trong linh hồn ở tòa giải tội. Bởi vì sự dựng nên thế giới là điều ít cao siêu hơn là sự linh hồn chết được sống lại (GM Toth – Phêrô Thông, Tôn giáo với thanh niên, 1949, tr 235).
*IV. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI NẠN NHÂN ĐAU KHỔ.
Đứng trước những nạn nhân phong cùi đau khổ này, chúng ta phải có một quyết tâm không bao giờ tự làm cho mình thành người cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình một pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử…chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi.
Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.
Thái độ tiếp theo của chúng ta là phải yêu thương và tôn trọng người đau khổ, nhất là những người phong cùi về thể xác cũng như linh hồn. Xử đối tốt với người đau khổ là món quà quí giá chúng ta tặng cho họ, không gì làm cho họ sung sướng hơn. Người ta thường nói :
– Của cho không qúi bằng cách cho.
– Lời chào cao hơn mâm cỗ.
– Vật khinh nhưng hình trọng. (Tục ngữ)
Chúa Giêsu luôn tiếp đón mọi người một cách lịch sự và yêu thương, không bao giờ Ngài có thái độ cứng rắn hay khinh miệt người đau khổ và tội lỗi. Có biết bao gương tốt đẹp của Chúa Giêsu đã được ghi trong sách Tin Mừng, tất cả đều nói lên tình thương và tôn trọng mọi người, không phân biệt sang hèn hay màu da ngôn ngữ, kẻ lành hay người dữ.
*Truyện :Léon Tolstoi và người hành khất.
Một hôm Tolstoi, một đại văn hào người Nga, đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá trong một công viên gần nhà, thì bỗng có người đàn ông lớn tuổi, áo quần nhếch nhác, đến gần và giơ chiếc mũ cũ rách ra trước mặt nhà văn để xin giúp đỡ. Nhà văn liền thò tay vào túi áo định lấy tiền cho người ăn xin, nhưng tìm hết túi áo này sang túi áo khác mà không kiếm thấy đồng nào. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói với sự hối tiếc như sau:”Này người anh em, xin thứ lỗi cho tôi. Vì hôm nay tôi rất tiếc đã để quên ví tiền ở nhà rồi”! Bấy giờ, người ăn xin thay vì buồn giận, thì đã mỉm cười và nói:”Tôi thật không biết phải cảm ơn ông thế nào cho xứng. Vì hôm nay ông đã cho tôi một món quà qúi báu hơn tiền bạc. Đó là ông đã không những không khinh dể tôi, mà còn tôn trọng tôi khi gọi tôi là “Người anh em”.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- A
BỆNH PHONG TÂM HỒN- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.
Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.
Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.
Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.
Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
TÔI MUỐN ANH HÃY LÀNH BỆNH– Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Khi chứng kiến bệnh tật nan y của những người thân và của chính mình, ai trong chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi bởi vì chúng ta cảm nghiệm cái chết lần hồi đến cất đi mạng sống của những người thân yêu của chúng ta mà những phương tiện y khoa và thuốc men của con người đều bất lực. Những cảm nghiệm này giúp chúng ta cảm thông tâm trạng của người bị bệnh phong cùi trong câu chuyện Tin mừng hôm nay cũng như biết nhìn lại chính thân phận tội lỗi và bệnh tật của chính mình. Vào thời Chúa Giêsu, đối với người bị bệnh phong cùi, cuộc đời của họ sẽ không còn có tương lai nữa, không còn hy vọng chữa trị.
Vào thời đó, những người bị bệnh phong cùi ở xứ do thái bị buộc sống tách rời khỏi dân chúng, xa cách cộng đoàn và không được tham dự vào đời sống tôn giáo cũng như xã hội với mọi người. Theo luật sách Lêvi, khi thấy có những dấu hiệu lạ trên thân thể, họ phải được vị tư tế khám và quyết định tình trạng sống biệt lập của họ. Họ phải sống cách ly với những người khác, phải mặc áo rách và la lớn tiếng « ô uế » để những người khác biết mà tránh. Vì thế, họ phải sống trong đau khổ và chỉ còn biết làm bạn với những người đồng cảnh ngộ. Đây chính là những biện pháp cẩn trọng từ thời xa xưa áp dụng để tránh những người khoẻ mạnh tiếp xúc với cơn bệnh đáng sợ này.
Tin mừng thuật lại một người phong cùi đến với Chúa Giêsu. Trong đau khổ, anh đã có sự sáng suốt và tìm đến Chúa Giêsu và với thái độ rất khiêm tốn quì gối xuống trước mặt người và ngỏ lời với người rất cung kính và tin tưởng : « nếu ngài muốn, ngài có thể khiến tôi được sạch. » Tin mừng thuật lại một cách rất tự nhiên : Chúa Giêsu động lòng thương cảm, đưa tay chạm đến anh và nói với anh : Tôi muốn, anh hãy khỏi bệnh. Tức khắc bệnh cùi biến mất và anh đã được sạch. Theo Thánh Kinh, bệnh cùi không chỉ là cơn bệnh thể lý đáng sợ gậm nhấm và làm biến dạng con người. Bệnh này còn bị xem như là hình phạt nặng nề của Thiên Chúa dành cho những tội nặng. Vì thế, khi mô tả những cử chỉ của Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của người cùi, chúng ta cũng hiểu được thái độ đầy yêu thương của Chúa Giêsu dành cho người này. Người đã yêu thương đưa tay ra chạm đến anh và nói lời chữa lành rất hiệu quả khiến cho bệnh cùi được chữa lành ngay lập tức. Câu chuyện được thuật lại khá đơn giản, nhưng tác giả của bài Tin mừng muốn giúp chúng ta hiểu rằng việc chữa lành những người cùi là một trong những dấu chỉ của thời đại Đấng cứu thế. Đấng cứu thế đến để cứu chữa con người, chữa lành bệnh tật, làm cho con người được mạnh khoẻ tinh thần và thể xác, chữa con người khỏi những nguyên nhân sâu xa của bệnh tật và sự chết là tội lỗi và tái lập tương quan của con người với Thiên Chúa và với những người khác. Mặt khác, cũng cần thấy rằng tội lỗi làm con người mất đi sự hiệp thông đời sống và hạnh phúc với Thiên Chúa và với người khác. Tội lỗi giam cầm con người trong cô đơn, tuyệt vọng và chỉ có lòng thương xót ân cần và tha thứ của Chúa Giêsu cứu thoát con người ra khỏi hố sâu tuyệt vọng này. Tin mừng còn cho thấy thái thái độ nghiêm nghị và cứng rắn của Chúa Giêsu, không cho phép anh cho những người khác biết việc chữa lành, chỉ cần anh trình diện với tư tế theo luật để hội nhập lại vào đời sống xã hội và tôn giáo với mọi người. Chúa Giêsu muốn anh kín đáo và không muốn mọi người hiểu lầm về sứ vụ của người. Ngược lại, người nhắc nhở anh hãy đi trình diện với tư tế để được hội nhập vào đời sống cộng đoàn đồng thời qua đó, một cách gián tiếp, cũng làm chứng cho mọi người hiểu được đây là dấu chỉ của thời đại Đấng cứu thế.
Nhưng điều ngạc nhiên đó là người được chữa lành không tuân theo lời nhắc nhở của Chúa Giêsu. Anh đi và loan báo tin mừng này cho mọi người khiến Chúa Giêsu không thể công khai vào trong thành, và người phải ở ngoài, nơi hoang địa và dân chúng kéo đến với người. Người được chữa lành này vừa gây khó khăn cho Chúa Giêsu, nhưng ngược lại cũng nhờ đó mà dân chúng lại kéo đến với người, dù người ở ngoài thành trong những nơi hoang địa. Chúng ta hình dung người bị bệnh được chữa lành này, ban đầu khi đến với Chúa Giêsu, anh là một người bị bệnh phong hủi cô đơn, xa cách với mọi người, nhưng đã dám can đảm đến với Chúa Giêsu với một thái độ tin tưởng và khiêm tốn, và sau cùng đã trở nên một con người hoàn toàn được biến đổi, anh đã vui tươi gặp gỡ mọi người, hoàn toàn bắt đầu một đời sống mới, loan báo và làm chứng về Chúa Giêsu cho mọi người để dân chúng đến với người.
Thánh Phaolô cũng là hình ảnh của một người được biến đổi, và người chia sẻ với chúng ta những xác tín hiện tại của mình và mời gọi mỗi người cũng hãy có một đời sống mới mẻ và phong phú vì đã có đời sống thân mật với Chúa Giêsu: « dù ăn dù uống, dù làm việc gì khác, anh em hãy làm vì danh Chúa. Anh em đừng làm bất cứ điều gì để nên cớ vấp phạm cho người khác. » Đời sống tương quan mới mẻ với Chúa Giêsu đã làm cho thánh Phaolô cảm nghiệm thực sự trong mọi việc làm của mình, dù đơn giản và thông thường nhất như việc ăn uống cũng là vì Danh Chúa, vì kết hợp mật thiết với Chúa. Đồng thời, ngay cả mặt tiêu cực của hành động, cũng cần phải cẩn trọng, tức là đừng làm gì để gây vấp phạm cho người khác. Thánh Phaolô chia sẻ cố gắng thiết thân của mình, đã không làm vì để tìm tư lợi cho mình, nhưng luôn cố gắng làm vì lợi ích của mọi người và người làm điều này vì đã học được nơi chính Chúa Giêsu.
Câu chuyện của bài Tin mừng là lời mời gọi mỗi người chúng ta gặp gỡ và được chữa lành bởi Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi, như người bị bệnh phong cùi, tin tưởng và khiêm tốn đến với Chúa Giêsu để xin người chữa lành bệnh tật nơi chính mình để rồi khởi đầu một đời sống mới trong người. Bệnh tật và sự chết có nguyên nhân sâu xa nơi tội lỗi của con người và chỉ có sức mạnh thần linh từ Chúa Giêsu mới có thể chữa chúng ta khỏi những nguyên nhân sâu xa của bệnh tật và sự chết. Phẩm giá nơi mỗi người chúng ta được chính Chúa Giêsu, với lòng thương xót tha thứ của người chăm sóc và chữa lành, để trả lại cho chúng ta phẩm giá này vì chúng ta cần sự chăm sóc hữu hiệu và quyền năng của người. Chúng ta sẽ cảm nghiệm lòng thương xót và sự chăm sóc của người mỗi khi trong những đau khổ và thiếu thốn của mình, chúng ta biết chạy đến với người và kêu xin lòng thương xót của người. Chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm sự chăm sóc đầy lòng thương xót của người khi chúng ta theo lời của thánh Phaolô, càng ngày càng đặt người là trung tâm của đời sống mình, để rồi dù làm bất cứ việc gì, dù ăn dù uống, chúng ta đều kết hợp mật thiết với người. Người chính là niềm vui và niềm hy vọng, niềm tự hào và lẽ sống của chúng ta và ơn cứu độ của chúng ta.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN-B
CHỨNG PHONG HỦI BIẾN KHỎI ANH- Lm. Trầm Phúc
Chúng ta nghe kể lại phép lạ Chúa Giêsu chữa một người cùi, xem như một phép lạ riêng cho một bệnh nhân mắc một thứ bệnh mà thời đó người ta xem như bệnh ô uế. Ô uế ở đây phải hiểu là cả thân xác và cả tâm hồn. Theo luật Môsê, ai mắc bệnh ngoài da lan tỏa khắp người, thì không được ở trong cộng đoàn, phải tìm một chỗ riêng biệt để khỏi lây cho người khác, và người khác cũng không bị nhiễm lây sự ô uế đó. Ai chạm vào người bệnh sẽ bị ô uế.
Trình thuật của Maccô không nói rõ phép lạ này xảy ra ở đâu, chỉ nói là ở cửa một thành phố. Người bệnh không được phép vào thành phố hay nơi có đông người. Thái độ của anh cùi là một sự liều lĩnh. Anh đến với Chúa Giêsu. Anh có thể bị đuổi và có thể bị ném đá vì người ta rất sợ bệnh này. Bệnh nhân phải đứng xa và la lên: “Ô uế, ô uế!” Anh này ngược lại đã đến với Chúa, quỳ gối xuống, van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Thái độ và lời khẩn xin của anh cùi cho chúng ta thấy lòng tin vững mạnh của anh. Anh không sợ bị xua đuổi. “Nếu Ngài muốn”. Anh tin tuyệt đối vào quyền năng của Ngài. Anh quỳ gối xuống, một cử chỉ vừa khiêm tốn vừa tha thiết. Thánh Maccô cho thấy thái độ nhân từ của Chúa Giêsu. Ngài đáp lại bằng một cử chỉ hết sức yêu thương. Ngài chạnh lòng thương, giơ tay động đến anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Chúa Giêsu cũng liều khi giơ tay chạm đến anh cùi. Ngài không sợ bị ô uế. Thay vì chỉ cần nói một lời, Ngài chạm đến anh. Một cử chỉ đầy tình thương. Ngài muốn cho anh thấy rằng Ngài thông cảm sâu xa hoàn cảnh khốn khổ của anh. Ngài chấp nhận bị liên lụy với anh trong sự khốn khổ của anh. Nhập thể là như thế. Ngài chấp nhận thân phận con người như chúng ta. Ngài không đứng ở xa, Ngài đến gần, thật gần để chia sẻ nỗi thống khổ của con người, của chúng ta. Chúng ta có nhìn thấy được tình thương của Ngài không? Chúng ta có tin không? Chúng ta có đến với Ngài để được chữa lành không?
Theo lời cầu xin của anh cùi, Chúa nói rõ: “Tôi muốn, anh hãy lành sạch”. Bệnh cùi biến ngay. Một lời nói vừa uy nghi và vừa hữu hiệu! Ngài chứng tỏ Ngài là một Đấng có uy quyền, là Đấng Thiên Sai. Chữa lành bệnh nhân có thể xem như một sự giải thoát. Mục tiêu của Ngài, quyền năng của Ngài chính là cứu vớt con người khỏi bệnh tật phần xác và cả những đau khổ phần hồn.
Chữa lành bệnh tật cũng là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đang bị đè nặng dưới đau khổ và tội lỗi. Chúng ta có cảm thấy mình là thân phận nhơ hèn tội lỗi không? Chúng ta thân phận cùi đày khốn khổ, chúng ta có cảm thấy cần một lời tha thứ hay chữa lành không? Thường chúng ta không tin vì chúng ta không biết mình bị phong cùi. Tâm hồn chúng ta có gì là tốt đẹp? Chúng ta có cảm thấy cần được lành sạch không? Hay chúng ta vẫn tự mãn như tên Pharisêu kia, cảm thấy mình thánh thiện và khinh chê những người khác? Hay chúng ta thích ở lì trong sự nhơ hèn của chúng ta? Hay chúng ta cảm thấy mình đủ thánh thiện rồi, không cần phải thanh tẩy?
Cha De Mello nói: “Những người tội nhân khét tiếng nhất là những người không biết mình phạm tội”.
Hãy thành thật và khiêm tốn nhìn lại tâm hồn mình, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta thật khốn cùng, đầy những vết nhơ tật xấu. Chúng ta chưa thánh thiện đâu. Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn không ngại nói rằng mình là người tội lỗi.
Thế giới hôm nay đang cần những người thánh, nhưng được mấy người? Nhiều người Công giáo đã mất đi tâm thức về tội lỗi, phạm tội mà vẫn thấy mình công chính. Đây chính là tai nạn kinh khủng nhất mà không ai hay. Trong một giáo xứ, một vài người thù oán cha sở, tìm hết mọi cách để hạ nhục và hãm hại cha sở của mình suốt hơn hai mươi năm, vẫn rước lễ mỗi ngày. Một giáo dân khác, mười năm không đi xưng tội vẫn rước Chúa mỗi tuần. Như thế là thế nào? Họ đã mất đi ý thức về tội. Họ giữ đạo như một thủ tục, như một thói quen. Ngược lại, thánh Gioan-Maria Vianney, Cha sở họ Ars, vẫn luôn cảm thấy mình quá tội lỗi không xứng đáng làm cha sở. Ngài đã tìm cách bỏ trốn họ đạo hai lần, nhưng không thành công. Ai là người thánh thiện? Trong quyển sách “Người hành hương nước Nga”, anh ấy chỉ có một lời nguyện trên môi suốt năm này đến năm khác: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là người tội lỗi”. Chúng ta có cảm thấy như thế không? Tinh thần thống hối là con đường đưa vào sự sống. Muốn được sống, chúng ta hãy làm như anh cùi kia: nhìn nhận sự khốn cùng của mình, tìm đến Chúa, quỳ gối xuống nài xin, tin tưởng: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho con được sạch”.
Chúa Giêsu không xa lắm đâu. Ngài ở nơi tòa giải tội. Ngài trông chờ chúng ta đến để chữa chúng ta lành sạch. Ngài không mõi mệt tha thứ. Chúng ta có muốn đến với Ngài thường xuyên để tâm hồn chúng ta được lành sạch và tươi sáng không?
Và phương thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa lành tâm hồn chúng ta chính là Mình Thánh Chúa. Đó là phương thuốc của tình yêu. Hãy ăn lấy tấm Bánh Tình Yêu để tình yêu của Ngài thấm nhập vào da thịt và tâm hồn phong cùi chúng ta, mang lại sức sống dồi dào và giúp chúng ta hòa nhập vào đoàn dân thánh, cao rao những kỳ công và tình yêu của Chúa. Giờ đây, Chúa không cấm chúng ta rao truyền quyền năng Chúa như đã cấm anh cùi. Giờ đây chúng ta có thể lớn tiếng ca ngợi lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Hãy đi ra, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói. Hãy rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, như anh cùi kia, vì Chúa đang đến, vì “tình yêu của Chúa bền vững muôn đời”.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
HẬU QUẢ ĐÁNG SỢ CỦA TỘI LỖI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Tội lỗi dưới mọi hình thức (như kiêu căng, tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, gian dối…) là những thứ bệnh tật của tâm hồn, làm cho con người ra nhơ uế, khả ố, đáng khinh…
Thông thường, khi mắc phải tội lỗi mà chưa bị phát hiện, chúng ta vẫn thanh thản như không có chuyện gì xảy ra và cũng không cảm thấy cần phải ăn năn hối cải.
Khi đó, việc cần phải làm là cố gắng che đậy những tội lỗi xấu xa của mình đi, không để cho ai nhìn thấy; mà vì che đậy kỹ quá, khéo quá nên dần hồi, ngay cả bản thân ta cũng không còn nhận ra những tội lỗi và thói xấu của mình.
Thế rồi, khi ai đó phát hiện được những thứ tội ta mắc phải và rêu rao với người chung quanh rằng ta là người kiêu căng, tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, gian dối … Bấy giờ, ta cảm thấy thanh danh của mình bị xúc phạm, phẩm giá bị tổn thương nặng nề. Ta giận điên lên; ta oán ghét thậm tệ người đã vạch áo ta cho người khác xem lưng.
Giả như chúng ta mắc bệnh phong cùi và cố tình che giấu không cho ai biết, lại có người tiết lộ chuyện này ra cho mọi người biết, có lẽ ta sẽ không buồn, không giận cho bằng kẻ đã phơi bày tội lỗi của chúng ta ra trước mặt người khác.
Thế là cho đến lúc này, ta mới thấy được những tội lỗi mà lâu nay mình ra sức che đậy, giấu giếm, gây hại cho ta hơn cả bệnh phong cùi, vì chúng hạ thấp phẩm giá của ta, làm tổn thương danh dự ta, làm mất mặt ta!
Tội lỗi tai hại và đáng ghê tởm hơn bệnh phong cùi
Tội lỗi tai hại hơn bệnh phong cùi vì ba lý do sau đây:
Thứ nhất: Bệnh phong chỉ làm hại thân xác người bệnh mà thôi, trong khi đó, có nhiều thứ tội không chỉ làm hỏng cuộc đời của người mang tội mà còn gây thiệt hại nặng nề cho bao người chung quanh.
Tội tham lam (tham của, tham tiền, tham chức, tham quyền…) đã gây ra biết bao thiệt hại về người và tài sản vì chúng gây ra chiến tranh, tham ô, cướp của, giết người, lừa đảo…
Tội ganh tỵ nơi Ca-in khiến anh đang tâm sát hại đứa em vô tội của mình là A-ben (Sáng Thế 4, 1-8); tội tà dâm trong lòng vua Đa-vít khiến nhà vua cướp vợ người khác, đồng thời giết hại tôi tớ trung thành của mình là U-ri-a (2 Samuen, 11,1-16).
Thứ hai: Bệnh phong có thể được chữa trị dứt điểm cách dễ dàng sau chừng 6 đến 12 tháng điều trị, trong khi nhiều thứ tội lỗi ăn sâu vào tâm khảm con người rất khó điều trị dứt điểm và nhiều người đành mang tội xuống mồ.
Thứ ba: Tội lỗi đáng ghê tởm hơn bệnh phong cùi, vì bệnh phong không làm mất thanh danh của ta, không làm cho ta nên khả ố trước mặt mọi người, không làm cho phẩm chất của ta bị sa sút trầm trọng, trong khi đó, tội lỗi gây nên tất cả những hậu quả đáng tiếc đó.
Chỉ khi nào ta thấy tội lỗi gây ra nhiều điều tai hại và còn tệ hại hơn cả bệnh phong cùi, làm cho ta trở nên khả ố, mất phẩm chất cao đẹp… thì ta mới cố sức chừa bỏ chúng.
Tin Mừng thánh Mác-cô trích đọc hôm nay thuật lại rằng: Hôm ấy “có người bị phong hủi đến gặp Chúa Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giê-su chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi! “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc 1, 40-45).
Chúa Giê-su là Đấng có quyền năng cứu chữa người phong hủi được sạch và Ngài cũng đủ quyền năng nhổ sạch cội rễ của mọi thứ tội lỗi ra khỏi tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
Như người phong hủi năm xưa đến gặp Chúa và xin Chúa chữa lành, chúng con cũng tha thiết nài xin Chúa cứu chữa chúng con khỏi tội lỗi và thói hư tật xấu đang thống trị đời mình.
Xin cho chúng con thấy rằng tội lỗi tai hại và đáng sợ hơn cả bệnh phong cùi để quyết tâm xa lánh.
Xin cho Lời Chúa thấm nhập vào tâm hồn chúng con và thanh tẩy chúng con khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, để tâm hồn được trở nên trong sáng, cho phẩm chất được nâng cao. Amen.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN-B
NGƯỜI CÙI- Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong chuyến đi từ Sàigòn đến Quy Nhơn năm 1960, tôi giữ mãi một kỷ niệm, không phải kỷ niệm thăm bến cảng, tháp chàm Chiêm Thành hay tường thành Đế đô Quang Trung, nhưng là một làng cùi. Đi đầu đoàn là Giám Mục, Linh mục rồi đến chủng sinh, phải vượt qua mấy ngọn đồi hoang vắng mới đến làng cùi. Bước tới cổng làng, mọi người đều xúm quanh một ngôi mộ của một người cùi nổi tiếng: thi sĩ thời danh Hàn Mặc Tử. Một người cùi đã biến những rung cảm trong sầu khổ thành những vần thơ tuyệt diệu, óng mượt như tơ vàng, nhẹ nhàng như hơi thở, run run như giây đàn. Từ cổng làng vào đến trại, ai nấy đều im lặng, một thứ im lặng rờn rợn sởn gai ốc, vì những ý nghĩ đen tối ghê tởm về bệnh cùi đang lởn vởn trong đầu óc.
Họ đó, người cùi đó. Đó là những dì phước mặc áo trắng đi đầu hàng những người cùi ra đón phái đoàn. Họ vui vẻ, tươi cười, không một chút lo ngại, không một chút mặc cảm tủi hổ về thân phận của mình.
Chúng tôi bỡ ngỡ, ngó qua ngó lại. Một đám trẻ cùi đang xích lại gần chúng tôi. Chúng tôi ái ngại nhìn chúng từ đầu đến chân. Con những người cùi đó. Họ ở trong những căn nhà xây nho nhỏ, sạch sẽ dưới những hàng dừa mát rợi. Nhưng tội nghiệp biết bao! Họ cụt tai, rụng mũi, đục mắt, mất răng, xún lợi, hở hàm, trông như những chiếc đầu lâu cải mả. Chân tay họ như không còn ngón nào. Họ bị sống xa xã hội như bị lưu đầy trong hoang địa rừng rú. Chỉ có mươi bà phước đang sống lăn lộn với họ. Đó là nguồn ủi an duy nhất của họ ngoài niềm tin ra.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ một mình Người đã thấu nỗi lòng sầu thảm của người cùi. Người đã đến với họ, thương yêu an ủi họ, tiếp đón họ và cứu chữa họ lành mạnh cả thể xác tâm hồn. Người đã quý mến họ hơn tất cả châu báu thế gian … vì họ là quý tử của nước Trời.
Thế gian xưa cũng như nay, Do thái cũng như Hy lạp, phương Đông cũng như phương Tây đều ghê tởm xua đuổi họ. Nhưng chỗ nào có tiền của, có bụi vàng, có địa vị, có thú vui, thế gian xô nhau đến luồn cúi, lăn lộn, đào bới, moi móc đến bỏ mạng. Thế gian quý vật chất hơn quý người.
May thay, Hội thánh Chúa luôn luôn theo chân Đấng Cứu Thế phục vụ con người, dù đó là ai, nghèo đói, bệnh tật, khốn cùng, da vàng hay da đen, tự do hay nô lệ đều được con cái Hội thánh Chúa, như cha Đamiêng, Đức Giám mục Catxe (Cassaigne) đã phục vụ người cùi cho đến hơi thở cuối cùng. Hàng trăm hàng ngàn tu sĩ đã săn sóc người cùi như anh em một nhà.
Còn chúng ta, chúng ta được phúc là những người lành mạnh, được sống chung với gia đình, sống chung với nhau, được tự do đi đây đó, sao không biết cảm tạ Thiên Chúa? Sao không biết sống hòa thuận ấm cúng thương yêu nhau? Sao không biết giúp đỡ nhau, đưa Tin mừng cho những người nghèo khổ, an ủi kẻ đau yếu, tật nguyền?
Xin cho chúng ta biết luôn tạ ơn Chúa trong việc thương giúp những người bé mọn khổ đau.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
PHONG CÙI- Lm Giuse Trần Việt Hùng
Cùi hủi là một con bệnh đáng ghê sợ nhất. Nhiều ngàn năm trước, bệnh phong cùi đã xuất hiện nơi thân xác của con người. Đây là một bệnh truyền nhiễm và ô uế. Theo luật của dân Do-thái, ngay từ thời Môisen đã có những hướng dẫn riêng dành cho những người bị bệnh phong cùi. Những người mắc chứng bệnh phong cùi phải ở riêng, mặc áo rách, để đầu trần, lấy tay che miệng và la cho mọi người biết để đừng ai đến gần. Thật là khổ sổ và đau lòng! Con vi trùng cùi hủi quái ác đã ăn cướp mất nhân phẩm của con người. Thân phận của những người phong cùi thật đáng thương, họ bị tách lìa khỏi gia đình, cộng đoàn và mọi sinh hoạt chung. Họ bị bỏ rơi và bị người đời khinh bỉ, xem họ như là những thân xác đáng ghê tởm mà mọi người cần xa tránh. Người xưa chưa có cách phòng bệnh và trị bệnh nên những ai bị mắc phong cùi thì như lãnh một bản án chung thân.
Nỗi đau thân xác khôn lường, mà nỗi đau của tâm hồn lại càng khốc liệt. Những người phong cùi phải xa tránh mọi người và tự lo cho cuộc sống mình. Họ bị tước mất tư cách làm người và mất cả nhân phẩm. Họ khổ đau quằn quại khi thân xác bị lở loét, cùi cụt và hôi thối. Mọi người không đến gần, ngay cả những người thân thiết trong gia đình cũng không được chung đụng. Chúng ta không thể tưởng tượng được nỗi sầu khổ và mặc cảm lấn chiếm tâm hồn họ. Họ bị rơi xuống đáy vực thẳm của kiếp nhân sinh. Lê lết sầu muộn từng ngày nơi hoang vắng cô quạnh. Đau khổ hơn nữa là khi đối diện với những ánh mắt khinh thị và kinh hãi. Chúng ta nhớ rằng khả năng khoa học y tế của con người thời đó đành bó tay với cùi hủi. Ngày nay vẫn còn nhiều người bị nhiễm chứng bệnh phong cùi nhưng nhờ có thuốc thang ngăn ngừa, họ cũng được giảm bớt đau khổ phần nào. Với cuộc sống xã hội đương thời, những người phong cùi cho dù được sự thăm viếng, chia sẻ, thông cảm và ủi an nhưng họ vẫn còn phải chịu nhiều sự tủi nhục và sầu khổ.
Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng giải thoát. Chúa có uy quyền chữa lành cả thân xác và tâm hồn. Hai ngàn năm trước, với khả năng của con người, sự chữa lành của cả hai nhu cầu vật chất và tâm linh đều rơi vào ngõ cụt. Cộng thêm sự phân chia giai cấp và cách đối xử bất công trong xã hội không có lối thoát. Chúa Giêsu đã xuất hiện trong bối cảnh xã hội mà nhiều người bị loại trừ. Sự thực hành đời sống tôn giáo và xã hội thiếu tình yêu thương bác ái. Những người bệnh hoạn tật nguyền, phong bại, phong cùi và qủy ám là những thứ bệnh quái ác hoành hành khắp nơi. Tất cả những ai chạy đến với Chúa đều được xót thương chữa lành. Cả những bệnh cùi hủi trong tâm hồn, Chúa Giêsu đã tẩy sạch và tha thứ.
Tâm trạng bị bỏ rơi và chối từ làm cho con người cảm thấy cô đơn sầu khổ. Không chỉ bệnh cùi mà cả những chứng bệnh thời đại. Những người già cả ốm đau bị con cái bỏ rơi. Những trẻ thành niên bị chối từ khỏi gia đình, không được yêu thương và chấp nhận. Những trẻ em sơ sinh bị bỏ rơi vì bị cha mẹ coi như một món nợ. Những người tàn tật và què quặt không được tiếp nhận vào những đại tiệc của xã hội. Những khách lạ hiền lương bị chối từ nơi ẩn trú. Những người vô gia cư và vô nghề nghiệp không có nơi nương tựa và bị coi như là những kẻ ăn bám xã hội. Những người mắc những chứng bệnh thời đại Si-đa cũng bị xô đẩy vào đường cùng phải sống trong cô đơn và loại bỏ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người sống cần có tình yêu, tình người và sự chấp nhận.
Còn biết bao những khinh miệt khác đối với những con người không sống theo kỷ luật bị coi như những tội phạm của xã hội. Những nhóm người gây khủng bố, gian tham, cướp của giết người, buôn bán nô lệ, thuốc phiện, buôn bán tình dục phụ nữ trẻ em, những bà tú, ma cô và nhà độc tài gian ác…Chúng ta cũng nên nhớ rằng không phải tất cả các tù nhân đều là tội phạm cả đâu. Có nhiều người bị nhốt tù vì công lý, vì bất đồng chính kiến, vì niềm tin, vì lương tâm và vì nhiều lý do khác tùy theo từng chế độ. Xã hội có muôn mặt và muôn cách sống. Chúng ta khó có thể phân biệt trắng đen, lành dữ, xấu tốt và phải trái, khi dựa vào những phán đoán của con người. Tất cả các tệ trạng của con người xã hội đều là những căn bệnh cần phải được chữa trị. Con người phải đi tìm đúng nguồn cội quyền lực để xin ơn chữa lành cả xác lẫn hồn. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi ân sủng chữa lành.
Bệnh nào cũng cần thuốc chữa. Con người có cả ngàn thứ bệnh khác nhau cả về thể xác lẫn tinh thần. Mỗi một thứ bệnh cần có những liều lượng thuốc chữa trị riêng. Chúa Giêsu có toàn quyền trên cả vũ trụ hữu hình và vô hình. Ngài có quyền sáng tạo, chữa trị, đổi mới và hoàn thành. Câu truyện phúc âm, người bệnh cùi đến van xin Chúa chữa lành, Chúa đã giơ tay đặt trên người đó và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Chúa chỉ cần muốn là mọi sự thực hiện theo ý của Ngài. Bệnh cùi được chữa lành ngay tức khắc. Chúng ta nhớ câu truyện của ông Saulô, đang khi đi bách hại người Kitô hữu, một luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và Chúa Giêsu đã biến đổi ông thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Chúa có thể biến đổi tất cả theo ý muốn của Chúa.
Thánh Phaolô sau khi đã trở lại với Chúa Kitô, ngài đã không ngừng loan báo tin mừng. Trong mọi sự như ăn, như uống hay làm bất cứ việc gì, Phaolô khuyên dậy chúng ta hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Phaolô đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao Chúa không đánh ngã thêm nhiều người nữa để họ tiếp tục mở rộng Nước Chúa? Biết rằng tư tưởng của Chúa vượt hẳn trên tư tưởng loài người và đường lối của Chúa cao siêu hơn đường lối của con người. Chúa muốn chính mỗi người chúng ta làm nhân chứng cho Chúa. Chúa muốn cứu độ mỗi người bằng chính sự sám hối và trở về của họ. Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa thái độ. Chúng ta hãy đến quỳ gối van xin: Nếu Chúa muốn, Chúa có thể khiến con nên sạch. Đặt niềm tin vào Chúa Kitô và qua Giáo Hội, Chúa đã ban các ân điển qua các Bí Tích, Á Bí Tích, các kinh nguyện và sự thực hành sống đạo sốt mến. Từng bước phát triển đời sống đạo qua các Bí Tích chúng ta lãnh nhận, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn ơn sủng của sự chữa lành.
Bệnh phong cùi cũng như tội lỗi của con người thật ghê gớm. Ai cũng sợ hãi những chứng bệnh cùi hủi, bệnh siđa, bệnh ung thư hay một số bệnh chết người. Khoa học y tế có phát triển vượt bực nhưng con người vẫn còn cảm thấy bất lực hoặc chào thua trước những con bệnh hiểm nghèo này. Một thực tại sống mà chúng ta không thể chối từ. Sinh, lão, bệnh và tử là lẽ thường ở đời. Điều quan trọng là chúng ta hãy đón nhận thân phận làm người với tất cả những biến chứng của nó. Hãy tôn trọng nhân phẩm, đối xử và đón nhận mọi người như là con người, cùng chung một Cha trên trời. Chúng ta đừng khinh khi loại trừ, ghét bỏ ruồng rẫy và đóng cửa gài then trước những mảnh đời cùng khổ.
Lạy Chúa, đã nhiều lần chúng con ngã bệnh và phạm tội làm nhơ nhuốc tấm linh hồn, xin Chúa giơ tay chữa lành và rửa sạch những vết nhơ bụi trần. Xin cho chúng con biết chia sẻ lòng nhân ái với những người bất hạnh, biết giơ tay đón tiếp những kẻ cùng khốn và biết chấp nhận mọi người như là anh chị em, để chúng con tìm được nguồn ủi an và chữa lành đích thực của Chúa cả trong tâm hồn lẫn thể xác. Chúng con chỉ biết dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân. Chúng con đã được lãnh nhận dư tràn ơn sủng của Chúa trong suốt đời sống. Chúng con cầu xin Chúa.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
HÃY SỐNG ĐẸP CHO NHAU- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống hôm nay rất cần cái đẹp. Cái đẹp cho bản thân như ăn ngon mặc đẹp. Cái đẹp cho tha nhân như một cử chỉ đẹp, một phong cách đẹp, một lời nói làm đẹp lòng người. Nhà văn Tolstoy đã kể lại một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời ông như sau: Một hôm, ông đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá công viên, từ xa có một người quần áo rách nát tả tơi đến gần và ngả mũ xin ông giúp đỡ. Thấy cảnh cơ cực, nhà văn liền thò tay vào túi định lấy tiền giúp cho người hành khất. Thế nhưng, ông đưa tay tìm hết túi này đến túi kia cũng không kiếm được một đồng nào trong túi. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói trong sự hối tiếc: “Này người anh em! Xin thứ lỗi cho tôi. Rất tiếc là hôm nay tôi không mang theo một đồng nào trong túi”. Nghe lời nói chân tình đó, người ăn xin không buồn mà còn nở nụ cười rạng rỡ trên môi và nói: “Không đâu thưa ông. Hôm nay ông đã cho tôi một món quà quý báu còn hơn cả tiền bạc. Đó là ông đã không khinh dể tôi mà còn coi tôi như người anh em của ông”.
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Marcô cũng tường thuật lại một cử chỉ đẹp mà Chúa Giêsu đã dành cho người bệnh phong hủi nan y. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.
Có ai đó đã từng nói rằng: “một lời nói hay không bằng một cử chỉ đẹp”. Cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết làm đẹp lòng nhau. Cuộc sống sẽ bớt đi những tủi hờn, những cô đơn và thất vọng nếu chúng ta biết sống đẹp với nhau. Đừng chơi xấu, đừng loại trừ nhau, nhưng hãy đón nhận nhau. Cuộc sống sẽ vơi đi những nỗi sầu khổ đắng cay nếu mỗi người chúng ta biết đối xử đẹp với nhau.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những lối sống tiểu nhân tầm thường, nên vẫn còn đó những oan ức, những giọt nước mắt đắng cay vì tình người phụ bạc, vì tình đời thay trắng đổi đen. Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những lối sống kém văn hoá, những cư xử thấp hèn nên vẫn còn đó những ứng xử thô lỗ, cộc cằn, những hành vi phi nhân và bất nghĩa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy can đảm loại bỏ những hành vi thô lỗ, cộc cằn, những hành xử thiếu văn hoá khởi đi từ chính gia đình chúng ta. Mỗi thành viên trong gia đình hãy biết dâng tặng cho nhau những cử chỉ đẹp như: sự quan tâm, sự khiêm tốn, ôn hoà và hiền hậu với nhau. Chúng ta không thể “khôn nhà dại chợ”, sống tốt với hàng xóm mà cư xử tệ với anh em. Chúng ta không thể sống trọn vẹn đức ái Kitô giáo nếu chúng ta không yêu mến gia đình chúng ta. Đức ái luôn mời gọi chúng ta phục vụ nhau một cách quảng đại, hy sinh và quên mình. Đức ái mời gọi chúng ta sống khiêm nhu, hiền lành và nhẫn nại với nhau. Đức ái bao hàm sự bao dung và đón nhận nhau trong yêu thương và tha thứ. Đức ái không cho phép chúng ta loại trừ hay tẩy chay nhau. Đức ái mời gọi chúng ta dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương làm đẹp lòng nhau.
Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì con người anh có thể lành lặn. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Phải chăng, Ngài cũng muốn chúng ta hãy tiếp tục trao ban cho nhau những nghĩa cử yêu thương nồng ấm tình người? Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì lối sống đẹp của chúng ta sẽ là dấu chỉ chứng nhân tin mừng cho thế giới hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- B
ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CHỮA LÀNH MỌI BỆNH TẬT- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Một khi đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời rao giảng, các tín hữu tiên khởi tiếp tục tìm hiểu về Đức Giêsu qua những gì các tông đồ kể lại, và phần lớn những điều này được ghi lại nơi các sách Tin Mừng. Niềm tin vào Đức Giêsu làm thay đổi cuộc đời tín hữu, khi họ nhận ra Thiên Chúa hằng yêu thương họ, một cách rất đặc biệt qua Đức Giêsu.
1) Tội còn khủng khiếp hơn bệnh phong cùi nhiều
Ngày nay với tiến bộ của y khoa, người ta đã chế ngự được bệnh phong. Bệnh phong ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao bệnh khác. Ngày nay người ta hay có thái độ xa cách đối với những người mắc bệnh hư miễn nhiễm (HIV, AIDS) như ngày xưa người ta đã có đối với những người mắc bệnh phong cùi. Kitô hữu tuy phải khôn ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng không được có thái độ thiếu bác ái trong cách cư xử đối với những người anh chị em bị mắc những bệnh này.
Ngày xưa khi chưa khắc phục được bệnh phong cùi, thì bệnh này là một nỗi kinh hoàng cho những người bị nhiễm và cho cả những thân nhân của người bệnh nữa. Vì là bệnh truyền nhiễm nên người ta đã phải có biện pháp để bảo vệ những người khác cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là, bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu diệt, vì thế thậm chí đôi khi người ta áp dụng những biện pháp rất khắc nghiệt. Người bệnh phải sống tách biệt với người khác, kể cả những người thân thuộc như vợ chồng con cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống xa cách, và không được phép lại gần nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai người nam nữ yêu nhau, nhưng cả đối với người mẹ và người con còn thơ dại.
Mọi tật bệnh và đặc biệt bệnh phong cùi, theo quan điểm của người Do Thái, là hậu quả của tội. Qua cái gì cụ thể hữu hình là bệnh, người ta thấy nơi tội một cái gì tương tự như bệnh phong cùi gây cho con người. Tội là thái độ hận thù ghen ghét anh chị em mình và không sống như con Thiên Chúa. Tội làm người ta xa nhau, làm người ta bị cô lập với cộng đoàn, làm người ta mất bình an mất vui và không được hạnh phúc.
2) Đức Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện
Nếu đặt mình vào trường hợp và tâm trạng của anh bị bệnh phong được Đức Giêsu chữa lành hôm nay, người ta sẽ thấy anh ta mong ước được khỏi bệnh “khủng khiếp” này đến độ nào. Ao ước này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta có vợ và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như niềm hy vọng của anh ta. Anh ta đã qùy xuống nài xin Đức Giêsu! “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi!”
Làm sao anh ta có thể tin Đức Giêsu như vậy? Qua cách sống, lời giảng dạy, và những dấu lạ Đức Giêsu làm, người ta tin vào Đức Giêsu hơn. Xưa tiên tri Elisa cũng đã chữa viên quan Naaman của Syria, một người bị bệnh cùi chỉ bằng lời truyền cho ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan (2V.5, 1-27); bây giờ, nếu Thiên Chúa muốn, nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì Ngài cũng có thể làm như tiên tri Elisa đã làm chứ. Đức tin của người bệnh phong cùi này phản ảnh đức tin của con người thời đó đối với Đức Giêsu; hơn nữa, qua anh ta người ta nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi anh ta, làm anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã xúc động và thương anh ta thật sự. Ngài đọc được nỗi khổ của người bị bệnh phong cùi này. Ngài thấy được khao khát của anh ta qua việc anh qùy gối trước Ngài để nài xin ân huệ được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã đưa tay ra, chạm vào anh và nói: “dĩ nhiên là tôi muốn, anh hãy lành đi.” Đức Giêsu thương anh ta, và qua anh ta, thương tất cả con người đang đau khổ bệnh tật. Đức Giêsu thương con người, Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa không muốn con người khổ não, Ngài muốn con người bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện để yêu thương, để chữa lành và nối kết con người lại với nhau và với Thiên Chúa.
3) Đức Giêsu không chỉ là một con người
Tại sao Đức Giêsu không chữa tất cả những người bị bệnh phong cùi thời đó? Tại sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả mọi bệnh tật của con người? Tại sao Đức Giêsu không biến đổi tất cả để làm con người đừng thù ghét nhau nữa nhưng luôn yêu thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu là một người như tất cả mọi người, nên Ngài không thể làm được điều đó. Nếu Ngài làm được điều đó, người ta sẽ nói Ngài không là người thật vì Ngài không chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ của con người. Ngài là người, Ngài bất lực và thậm chỉ không biết cả tương lai nữa. Những gì con người không biết và không làm được, mà Ngài biết và làm được, thì đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa ban để giúp con người nhận biết chân tướng của Ngài mà thôi.
Đức Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như tiên tri Elisa đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, nhưng bằng một lời: “tôi muốn chứ, anh khỏi đi.” Cách chữa bệnh bằng lời của Đức Giêsu, cho người ta biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy quyền, trổi vượt hơn cả các tiên tri trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người chống đối ông bị phạt mắc bệnh phong cùi; những người này đã hoảng sợ và xin ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã cho họ được khỏi. Đức Giêsu đã không chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm như thể Ngài có quyền chữa bệnh vậy, và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như thể quyền đó từ Ngài mà ra.
Qua cách trình bày của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu là người rất đặc biệt. Ngài thương yêu con người, rung động trước nỗi khổ của con người, Ngài yêu thương và chữa lành con người, giúp họ trở lại với cộng đoàn con người, trở lại với người thân yêu và nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương họ. Đức Giêsu còn là một người trổi vượt hơn những người khác, hơn các tiên tri nổi tiếng ngày xưa là Elisa và Môsê. Như thể tự Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh tật. Ngài là người, và hơn là một con người. Ngài là Đấng “từ trên.”
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1-Với cách hành xử của Đức Giêsu hôm nay, bạn được đánh động ở điểm nào? Xin chia sẻ?
2- Thánh Phaolô viết: “vậy dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm được điều này không? bằng cách nào?
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatvithuongnienb