CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TRỞ NÊN NHỮNG SỨ GIẢ (*)- Chú giải của Noel Quession 6
NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ- Chú giải của Fiches Dominicales 14
ĐỨC GIÊU THI HÀNH SỨ VỤ TẠI GALILÊA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 25
HÃY SIÊNG NĂNG LÀM VIỆC THEO GƯƠNG CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 38
TỪ CẢM PHỤC ĐẾN LÒNG TIN- Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 58
ĐI GIEO TIN MỪNG- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt. 79
TÔI CÒN RAO GIẢNG TIN MỪNG Ở NHỮNG NƠI KHÁC– Lm. Phêrô Lê Văn Chính 83
GIẢI PHÓNG ĐAU KHỔ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 89
SỐNG HẾT MÌNH VÌ MỌI NGƯỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà.. 93
GIÊSU, CON NGƯỜI VÀ HÀNH ĐỘNG- Lm Giuse Phạm Thanh Liêm 98
RAO GIẢNG VÀ CHỮA LÀNH- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty. 104
LAO ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 108
ĐỨC GIÊSU, THẦY THUỐC CỦA TÂM HỒN- Lm. Giuse Phạm Quốc Phong SBD 113
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”.
Trích sách Gióp.
Bấy giờ Gióp nói rằng: “Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi, có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại nói: “Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối”. Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 146, 1-2. 3-4. 5-6
Đáp: Hãy chúc tụng Chúa, Đấng cứu chữa những kẻ giập nát tâm can (c. 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Hãy ngợi khen Chúa, vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán. – Đáp.
2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một. – Đáp.
3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 9, 16-19. 22-23
“Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giả như nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm trọn nghĩa vụ đã giao phó cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Tin Mừng, tôi đem Tin Mừng biếu không, tôi không dùng quyền mà Tin Mừng dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau, để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Chiên của Ta nghe biết tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 1, 29-39
“Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm thấy Người, các ông nói cùng Người rằng: “Mọi người đều đi tìm Thầy”. Nhưng Người đáp: “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
TRỞ NÊN NHỮNG SỨ GIẢ (*)- Chú giải của Noel Quession
Hôm nay, chúng ta tiếp tục suy niệm về “Ngày hoạt động của Chúa tại Caphácnaum”. Đó là ngày đầu tiên trong đời sống công khai thi hành tác vụ của Đức Giêsu: ta thấy Người giảng dạy, giải thoát con người khỏi quỷ ám hại, chữa lành người bệnh và cầu nguyện. Đó cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt động của Kitô hữu.
Vừa ra khỏi Hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê, có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.
Sau khi đã giảng dạy và làm mọi người ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một người bị quỷ ám đáng thương, Đức Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung, để đi đến một tư gia, nhà hai anh em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu đang bước đi trên đường phố, cùng với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông Giacôbê và Gioan cũng có mặt ở đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa được thể hiện khắp nơi, trong mọi lãnh vực của cuộc sống: Tôn giáo cũng như trần thế, công cộng cũng như tư riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ, Chúa hiện diện cùng chúng con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay trong nhà chúng con.
Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, nằm trên giường.
Người ta lấy làm ngạc nhiên, vì trong Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành người bệnh. Ngày xưa, bệnh tật mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị thuộc lãnh vực y khoa. Tuy nhiên, dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và đau khổ vẫn đeo bám con người và tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất đáng sợ. Ngay giữa nền văn minh kỹ thuật của chúng ta, một “dấu hiệu” biểu lộ sự yếu đuối của thân phận con người vẫn còn luôn như trước: đó là con người có thể chịu những rủi ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà không sợ một số những chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên? Bệnh tật luôn mâu thuẫn với ý muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ cần một cơn sốt nặng cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng làm việc không còn trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng, một ngày nào đó ta sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh tật đều mang “dấu” của tử thần: đó là biểu tượng của thân phận con người mỏng dòn và ta không thể tránh được.
Họ liền nói cho Người biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy.
Thái độ cầu nguyện đầu tiên trước cảnh trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta đang hiện diện tại đó. Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu bước vào nhà . Tôi lắng nghe những gì người ta đang trình bày với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến gần tới người bệnh, cầm tay bà ta. Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa thiết và nhân ái. Thần học quả quyết với ta rằng, mỗi bí tích là một “cử chỉ của Đức Kitô”. Một bài thánh ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu đã “làm những việc kỳ diệu”. Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập thể đã đi đến mức độ đó. Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu đang nằm bàn tay nóng ran vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách biểu tượng, Chúa- cũng đang nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các “cơn sốt”. Khi rước lễ, con cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng đang nắm tay con .
Người đỡ bà dậy. Bà liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.
Khi đọc câu này trong bản văn Hí Lạp, cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô đá sử dụng ở đây, từ “ègeire”, có nghĩa là “làm cho sống lại” . Ong cũng dùng một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô sống lại: “Hãy chỗi dậy!” (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức Giêsu (Mc 12,26, 16,6). Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên là một “dấu chỉ” theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Khi sẽ chẳng còn “tang chế, kêu than, đau khổ, khi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết” (Kh 21,1-4) Ngay trong thời Người, tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân . Người chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm trước cho “Thời cánh chung”: chỉ khi đó con người mới được “cứu độ” thực sự, nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng qua, mà chính là sự sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống hiến, đó là đi từ tình trạng “không tin” đến tình trạng “tin”: kẻ nào đón nhận đức tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình sẽ được cứu thoát khỏi sự chết rồi. Lúc đó, họ sẽ “chỗi dậy” để “phục vụ”.
Sự dữ mà Đức Giêsu nhắm theo đuổi còn thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác. Đó là tâm hồn, đó là trung tâm” của người bị bệnh… khi họ không “phục vụ” anh em mình. Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu “tiếp đãi” Máccô muốn nói với ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ong nhớ đến từ “phục vụ” mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là “thí ban mạng sống mình”: “Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Lạy Chúa, xin Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay. Xin cứu giúp con để con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt “kẻ khác” lên hàng đầu, xin cứu giúp con để con biết “phục vụ’, “hiến dâng mạng sống” và yêu thương!
Chiều tối, khi mặt trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức Giêsu chữa đủ thứ bệnh và trừ rất nhiều quỷ.
Có thể nói, cùng một tác động, Đức Giêsu vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của Người trên Sa-tan, hiện thân của sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu là phải xa cách Thiên Chúa: do đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của chúng ta. Bệnh viện được trang bị đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất, cũng không bao giờ thay thế được tình yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn cả thuốc thang.
Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, trong tâm hồn con người luôn có một điều gì đó cần phải được chữa trị, và trong công cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực hiện một sự điều chỉnh đúng đắn.. Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc phát triển “đô thành trần thế” (bệnh viện cũng như mọi công trình khác) hơn là thứ “chất độc” do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận tiến bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh! Nhưng chỉ muốn nói lên, cần phải cho chúng một tâm hồn: Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện điều này tại đó! Lạy Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con người hôm nay.
Người trừ rất nhiều quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì chúng biết Người là ai.
Đề tài “Bí mật thiên sai” lại xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc 1,25 và 1,33). Đức Giêsu không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của Người.
Người buộc mọi người phải giữ im lặng, không được nói quá sớm Người là “Con Thiên Chúa”. Đã có quá nhiều ý kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa đang được phổ biến. Người ta quá để ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.
Người ta chỉ chạy đến với Chúa, như với một “người chữa bệnh” đến thuần. Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không biết chính Người sẽ phải chịu đau khổ và phải chết, thì kể như nói mà không biết điều mình phát biểu, và như thế có nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng kiến thực tế của thập giá. Thiên Chúa không phải là “toàn năng” theo nghĩa chúng ta thường hiểu . . Vì yêu thương, Chúa đã tự trở thành “hoàn toàn yếu đuối” đối với chúng ta . . . bởi vì Người là “tình yêu toàn năng”. Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy xuống khỏi thập giá đi. . . Chúng ta luôn nghĩ rằng, chắc hẳn Thiên Chúa phải chứng tỏ Người là “Ai” chứ! Đúng vậy Người đã minh chứng điều đó: Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng của thái độ “phục vụ” . . . Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống! Trong khi chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng tiếng.
Lạy Chúa, xin giúp con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, Chúa không muốn “quyền năng” theo nghĩa trần gian … “bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người, và cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (l Cr 1,25).
Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi vắng vẻ mà cầu nguyện.
Ngay đêm đầu tiên mà Simon Phêrô trải qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều “cốt yếu” sau đây: đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là “Gặp gỡ Chúa Cha”.
Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Người…
Vào sáng sớm; khi bóng đêm còn mù tối, trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi căn nhà mà Người đã nghỉ đêm. Người rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người bước đi trên cánh đồng, dưới bóng đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng người lánh mình, đi đến “một nơi hoang vắng”. Người dừng chân. Người phủ phục. Người cầu nguyện. Đức Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại đang ở “bên cạnh Chúa Cha”, chính là nhân loại đang ở “gặp gỡ Thiên Chúa”. Chính trong khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.
Câu Tin Mừng trên đây không phải là một chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết, một kết luận, một điểm nóng bỏng của “ngày sống đầu tiên trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Nhờ đó, Người đang “kêu gọi” ta, nhưng “trong yên lặng”: ý nghĩa của đời sống bạn là ở nơi Thiên Chúa… Căn bệnh trầm trọng nhất của bạn, là bệnh tật làm bạn xa rời Thiên Chúa.
Kẻ nào biết “ẩn mình trong Thiên Chúa” nơi hoang địa là một người được cứu độ.
Lúc đó, mọi cơn sốt và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.
Này bạn, người anh em đang mang bệnh của tôi…
Này bạn, người anh em đang gặp thử thách trong tâm hồn… bạn có biết nhận ra “tin vui” được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không?
Khi gặp Người, họ thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy”‘ Người bảo họ: “Thôi chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.
Vâng, lạy Chúa Giêsu, xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người Tin Mừng của Chúa. Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy làm cho chúng con, cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho công cuộc Phục sinh.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ- Chú giải của Fiches Dominicales
*1. Từ âm thầm trong “nhà”
Ba câu chuyện nhỏ xảy ra liên tiếp trong bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba tương phản nhau như được tượng trưng qua những địa điểm chúng xảy ra: bắt đầu từ một chỗ âm thầm trong “nhà của ông Simon” (Phêrô); rồi đến “ngoài cửa”, nơi “cả thành xúm lại”, sau cùng là “một nơi hoang vắng” ở đó, trong lúc Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh đồng truyền giáo.
Đức Giêsu, có các môn đệ đầu tiên cùng đi theo, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến “nhà hai ông Simon và Anrê “. Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt trong ngày Sabát như ngày hôm đó, người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những công trình đào xới khảo cổ học gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội đường đến “căn nhà mà Đức Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn nhà này hình như là địa điểm họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức Giêsu. Nó đóng một vị trí quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này.
Máccô thuật tiếp: “Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt”. Để hiểu được ý nghĩa câu chuyện, cần phải nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một trong những hình phạt mà Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất trung: “nếu các ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi ớn ghét các phán quyết của Ta, không làm theo rất cả các lệnh truyền của Ta, đến thủ tiêu giao ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi. Ta sẽ giáng xuống trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ, hơi kiệt” (Lv 26, 15-16a). J . Pótin chú thích thêm: “người bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội nào đó, khiên tuỳ mức nặng nhẹ của cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả hoặc một phần; vào sinh hoạt chung tôn giáo và xã hội” (“Jésus, lhistoire vraie”, Centurion, trang 162 ) .
Câu chuyện được tiếp tục kể, giọng điệu mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói nào.
Trước tiên là sự thỉnh cầu của các thân nhân người bệnh: “Lập tức họ nói cho Người biệt tình trạng của bà”.
Tiếp đó là cử chỉ chữa lành: “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy”.
Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này của Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Máccô và cộng đoàn Kitô hữu của ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta: “ Đó là điều được ám chỉ một cách kín đáo, qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Tro ng tiếng Hy Lạp, động từ “đỡ dậy” cũng là động từ Máccô dùng để nói về Đức Giêsu: “Người đã chỗi dậy rồi” (16,6). Chúng ta cần phải đặt mình trong khung cảnh những Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối với họ, Đức Giêsu không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc Phục sinh, Người được suy tôn là “Đức Chúa và Đấng Kitô” (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết” (“LEvangile de Marc”, Centurion, trang 33).
Người bệnh bỗng phút chốc được lành bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng chứng là sau đó bà bắt đầu phục vụ Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng là hình ảnh người Kitô hữu đã từng bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi Nhưng Đức ki tô đã đến “cầm lấy tay mà đỡ dậy”; nhờ đức tin và phép Rửa tội, để một khi đã được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh ern mình: “Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”. J. Hervieux tiếp tục: “Khi trình bày cho thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ các vị khách của mình, Máccô chắc chắn nghĩ đến việc “phục vụ ” Đức Kitô mà mỗi Kitô hữu được mời gọi phải làm Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu của người khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó ” (Sđd) .
*2. Rồi đến “trước cửa” có “cả thành xúm lại”:
Khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái, đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu một ngày mới.
Hết bị ràng buộc bởi những khoản cấm đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc này ai nấy trở lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Gtêsu “mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám”. Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô, “cả thành xúm lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra âm thầm giữa một nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao kẻ bên ngoài: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”.
– Người ra lệnh cho chúng không được nói gì cả lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong hội đường (c.25): “Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.
M.E.Boismard đặt câu hỏi: “Tại sao lại có bệnh cấm đoán đó ở đây cũng như chỗ khác, trong ch. 1 câu 5, khi Đức Giêsu bị thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn nhân?…Vào thời đó cũng chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ quyền, và rơi vào ách đô hộ của người La mã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm mong mỏi một vi anh hùng giải phóng đến để “khôi phục lại vương quốc Israel” (Cv 1, 6; Lc 1, 58-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến không phải thực hiện công cuộc khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức Kitô rồi đây sẽ giải thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáo huấn của Người bằng những dụ ngôn (Mc 4, 1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vi vua mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muôn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đă không cho phép quỷ xưng Người là ai, cũng như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là “bí mật Mêsia” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, trang 46-47).
Danh hiệu “Đấng Kitô” và “Con Thiên Chúa” chỉ được giải nghĩa chính xác sau ngày dưới ánh sáng của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu chết.
*3… Và “những nơi khác” phải đến để rao giảng:
Các câu từ 35 đến 39 đóng vai trò chuyển tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai trương ở Caphácnaum và mở rộng ra khắp miền Galilê.
Trái ngược hoàn toàn với công việc bề bộn của Người để phục vụ đám đông ở Caphácnaum, giờ đây Đức Giêsu chỉ có một mình trong một nơi thanh vắng”.
– Chúng ta đang ở vào lúc sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”, hôm sau ngày Sabát, ngày thứ nhất trong tuần, sau này sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu, “ngày của Chúa”. Đức Giêsu cầu nguyện, như Người từng làm như thế vào mỗi khoảng khắc quan trọng của sứ vụ (x. Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước sự ồn ào nô nức của đám đông vây quanh mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm chìm lại trong sự thân mật với Chúa Cha, cũng như xác định lại vị trí của mình trên con đường sứ vụ. P.E. Boismard chú giải, “Trong nơi hoang vắng, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có con người và Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa” (Sđd, trang 49).
Các môn đệ thì chạy đi tìm Chúa, mong mời cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó “mọi người đang tìm Thầy”. Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ biết cái cốt lõi trong sứ vụ của Người là: loan báo Tin Mừng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xă chung quang, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Từ đó, “Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”. Đoạn Tin Mừng chấm dứt ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy.
Vài câu Tin Mừng ở trên có những nét đặc trưng của Máccô: Đức Giêsu ra đi trước, một mình, cầu nguyện. Lúc đó là đêm thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng thời gian của sáng sớm ngày Phục Sinh (x. 16, 1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm Chúa để cố lôi kéo người lại. Thế nhưng trong Tin Mừng Máccô, không bao giờ có điểm dừng, người ta luôn luôn được gởi đi đến một nơi khác: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quang, vì Thầy ra đi cối để làm việc đó”. Các phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau này cũng được gởi đi lên một “nơi khác như thế (“Người không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng người sẽ đến Galilê trước các ông). Bài tường thuật ngắn ngủi này có thể được dùng làm tấm gương soi cho cộng đoàn Kitô hữu đang họp nhau trong đêm thử bảy vọng sáng Chúa nhật, để cầu nguyện và tìm Chúa. Họ cũng sẽ được gởi đi đến một nơi các: “Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc” (13,10) (“L’evangile se lon saint Marc”, Cerf, trang 37).
BÀI ĐỌC THÊM
*1. “ Cầu nguyện và truyền giáo” (Mgl. L.Daloz, trong “Qui dong est-il?”, Desclée de Brouwer, trang 17).
“Cuộc đời của Đức Giêsu luôn xáo động. Người thường không được ở yên. Thế nên Người phải ra đi để cầu nguyện, giữa đêm tối, ở một nơi hoang vắng. Simon và các bạn chạy đi tìm Chúa và quấy rầy Người: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Trong cuộc sống luôn bị xáo trộn như thế, Đức Giêsu tận dụng thời gian để cầu nguyện. Người cầu nguyện cách kín đáo, thường là một mình. Người lắng nghe Chúa Cha, trong thinh lặng, và nói với Chúa Cha. “ Thầy phải lo việc của Cha Thầy”. Người là Người Con Chí ái, hằng yêu mến Cha, và luôn sống thân mật với Cha. Khi đi rao giảng cũng là lúc Người lo việc của Cha. Mọi người tìm Người, đợi Người. Nhưng Người đi nơi khác, “đến các làng xã chung quanh, theo tiếng gọi của sứ vụ truyền giáo của Người: “Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Mối tương quan thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha ảnh hưởng trực tiếp đến sứ vụ, lời rao giảng của Người. Người làm điều Cha muốn và tìm kiếm thời gian để ở với Cha. Đó cũng là điều kiện phải có của mọi sứ vụ . Nó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện, và lắng nghe ý Người”.
*2. “Một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa nhật” (F. Deleclos, trong: “Prends ét mang La Parole, “Centurion – Duculot, trang 137-138).
“Đoạn Tin Mừng kể về phép lạ chữa lành bà mẹ vợ của ông Phêrô không chỉ đơn giản là “chuyện nhỏ”, nó xứng đáng được xem như (một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa- nhật”. Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được qui tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực. Chúng ta bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và chăm chú thực hành những điều răn của Người (Tl 28,15 và 22). Đức Giêsu đến làm cho chúng ta được bình phục, đủ sức khoẻ để phục vụ bàn tiệc thánh Thể và dấn thân vào cuộc chiến chống lại mọi hình thức của đau khổ”.
*3. “Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại” (H. Denis, trong “100 mots pour dire Jésus”, Desclée de Brouwer, trang 183).
“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
Câu kinh đọc trước Rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin Mừng. Đằng khác, nếu không chữa bệnh, làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêsia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không, đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ Người không bảo: “Đức Tin đã chữa lành con”, nhưng: “Đức Tin đã cứu con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khoẻ mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sụ sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài Tin Mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú!), nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa”.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
ĐỨC GIÊU THI HÀNH SỨ VỤ TẠI GALILÊA (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên Năm B, Bài Đọc I và Bài Đọc II đều gặp thấy âm vang trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
G 7: 1-4, 6-7
Ông Gióp là một người công chính phải chịu muôn vàn đau khổ. Trong đoạn trích hôm nay, ông than vãn với Thiên Chúa về những đau khổ mà mình phải chịu mà không hiểu tại sao.
1Cr 9: 16-19, 22-23
Theo thánh Phao-lô, lòng nhiệt thành hăng say truyền giáo là một bổn phận và trách nhiệm mà thánh nhân phải chu toàn.
Mc 1: 29-39
Đoạn Tin Mừng hôm nay như lời đáp trả cho Bài Đọc I và Bài Đọc II, trước hết, Đức Giê-su là Đấng đem lại ý nghĩa cho những đau khổ của con người; đồng thời Ngài cũng là mẫu gương đầu tiên về sứ mạng truyền giáo: “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó”.
BÀI ĐỌC I (G 7: 1-4, 6-7)
Ông Gióp là nhân vật chính của sách chứ không là tác giả (giống như sách Giô-na, sách Tô-bi-a, sách Giu-đi-tha). Ông là người tôi trung “đức độ vẹn toàn” của Thiên Chúa, vui hưởng một cuộc sống hạnh phúc giàu sang phú quý. Nhưng rồi những tai họa bất ngờ ập xuống, ông mất tất cả: tài sản, con cái; đoạn, bị ung nhọt lở loét khắp người. Trong cơn cùng khốn, ông than thân trách phận nhưng không nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
Tại sao người công chính phải chịu đau khổ trăm chiều? Vấn đề này được đề cập đến dưới nhiều khía cạnh khác nhau, được lý giải dưới nhiều gốc độ khác nhau trong cuộc tranh luận dài giữa ông và các bạn của ông. Văn thể chính yếu là đối thoại.
Bài học cốt yếu mà sách đưa ra, đó là nếu người công chính vẫn nhất mực trung thành với Thiên Chúa trong mọi gian nan thử thách, thì cuối cùng nhận được phần thưởng của mình: ông Gióp được tăng gấp bội những gì ông đã có trước kia: tài sản, con cái, cháu chắt.
*1.Nguồn gốc của sách Gióp:
Đề tài được khai triển trong sách không mới. Vấn đề người công chính phải chịu đau khổ được nêu lên rất xa xưa trong những chuyện cổ tích dân gian của các dân tộc chung quanh dân Do thái, được truyền khẩu hay bằng văn bản thuộc thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Trong những câu chuyện đó, văn thể đã là đối thoại rồi. Một bản văn Ba-by-lon thuộc thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên chứng nhận rằng miền Lưỡng Hà Địa cũng có một vị anh hùng công chính chịu đau khổ. Ai-cập cũng đã gẫm suy vấn đề nầy trong một bài thơ trữ tình: “Một nhân vật bất hạnh chán sống đối thoại với tâm hồn của mình”. Ở Hy lạp, đề tài nầy được gặp thấy ở nơi thi phẩm “Odyssée” nổi tiếng của thi hào Homère, trong đó nhân vật chính, Ulysse, là người công chính phải lang thang phiêu bạt. Ông đã mất tất cả: tổ quốc, gia đình, của cải, các bạn đồng hành cùng với con thuyền, một mình cô quạnh trong một hoang đảo. Cuối cùng, ông lấy lại tất cả những gì ông đã mất trước đó.
Những chuyện tích dân gian đều kết thúc có hậu: “ở hiền gặp lành”. Tác giả sách Gióp đã không ngại duy trì “đoạn kết có hậu” nầy, cho dù có nguy cơ làm yếu đi những viễn cảnh tinh thần trong thi phẩm của ông. Quả thật, trong sách Gióp, “lời mở” (ch. 1-2) và “lời kết” (42: 7-17) được viết bằng văn xuôi và rất có thể là chứng tích của một chuyện tích dân gian. Chắc chắn trên nền chuyện tích dân gian nầy, văn sĩ thánh đã xây dựng thành một ngụ ngôn mang chiều kích thần học và luân lý rất cao.
Tác giả đã viết ra những gẫm suy về những đau khổ này nhằm gởi đến cho ai? Những suy đoán về lịch sử và tâm lý khiến người ta nghĩ rằng sách Gióp được biên soạn trong thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Vì thế, ai đã mất tất cả, ai đã sống trong cảnh đời vô vọng, ai đã nêu lên cho Thiên Chúa những nghi vấn và không hiểu tại sao mình phải chịu một sự thử thách dài lâu đến như thế, nếu không phải là những người bị lưu đày ở Ba-by-lon? Ngoài ra, tác giả không phải là không biết sách “Ai Ca”, từ sách này ông đã đón nhận nguồn cảm hứng sáng tác của mình.
*2.Người công chính phải chịu đau khổ.
Đoạn văn hôm nay được trích từ lời than vãn thứ hai trong số những lời than vãn dài của Gióp. Trong đoạn trích nầy, Gióp than vãn về những đau đớn đang hành hạ thân xác của ông. Bản văn được chọn để chuẩn bị cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng hôm nay. Suốt ngày ở Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su đối mặt với những bệnh nhân mà người ta đem đến với Ngài. Động lòng thương, Ngài chữa lành tất cả. Quyền năng của Ngài chữa lành những bệnh hoạn thể xác là dấu chỉ loan báo quyền năng của Ngài chữa lành những bệnh hoạn tâm hồn.
Gióp sánh ví cuộc sống con người với khổ dịch, tiếp đó với chuỗi ngày của kẻ làm thuê và của người nô lệ, cả hai đều nôn nóng chờ đợi ngày kết thúc: người làm thuê đợi tiền công, kẻ nô lệ mong được giờ phút nghỉ ngơi. Sau cùng, Gióp bất hạnh phải trằn trọc suốt đêm thâu không chợp mắt vì cơn đau hành hạ. Tuy nhiên, trong khi trằn trọc đau đớn trên giường, Gióp hướng mắt về Thiên Chúa và nói lên những lời than vãn đến xé lòng của mình với Thiên Chúa:
“Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho,
cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (7: 7).
Bất chấp tất cả, Gióp vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, dù ông không hiểu được.
Đây chỉ là một đoạn trích ngắn của một trong số những cuốn sách bi thương nhất đã từng viết về nỗi đau khổ của nhân loại. Sách Gióp không đề xuất bất kỳ giải pháp nào (vào thời kỳ nầy những niềm hy vọng bên kia nấm mồ chưa được biết đến ở Ít-ra-en): vấn đề người công chính phải chịu đau khổ vẫn là một mầu nhiệm mà chỉ một Thiên Chúa mới có thể biết được.
BÀI ĐỌC II (1Cr 9: 16-19, 22-23)
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô nầy có thể hiểu được chỉ khi đặt nó vào lại trong văn mạch, vì hai dữ kiện được đặt chồng lên nhau ở đây.
*1.Một nghĩa vụ buộc phải chu toàn.
Dữ kiện đầu tiên mặc nhiên nhắc nhớ cuộc trở lại của thánh Phao-lô trên đường Đa-mát và nhiệm vụ mà Đức Ki-tô trực tiếp giao phó cho thánh nhân, khi thánh nhân xuất thần trong Đền Thờ: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21). Thánh Phao-lô nghĩ rằng mình chẳng có gì phải tự hào về sứ vụ loan báo Tin Mừng, bởi vì đó là một nghĩa vụ và trách nhiệm mà thánh nhân không thể thoái thác nhưng buộc phải chu toàn.
*2.Tinh thần vô vị lợi.
Qua đó, thánh nhân bày tỏ không chỉ thái độ khiêm hạ trong việc phụng sự Chúa, nhưng còn tinh thần vô vị lợi trong việc loan báo Tin Mừng. Quả thật, đây là dữ kiện thứ hai tất yếu để hiểu đoạn trích nầy. Trong vài hàng trước đó, thánh nhân phát biểu: “Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (9: 13-14). Dù thế, thánh nhân không muốn mình trở thành gánh nặng cho bất cứ ai: “Vậy đâu là công sá của tôi? Đó là đem Tin Mừng mà rao giảng không công, chẳng sử dụng quyền lợi Tin Mừng ban cho tôi”.
*3.Nhà truyền giáo mẫu mực.
Thánh Phao-lô tự nguyện khước từ đặc quyền đặc lợi của mình, chia sẻ mọi hoàn cảnh của mọi người, làm đầy tớ mọi người để chinh phục được nhiều người “bằng bất cứ giá nào”. Phần thưởng mà thánh nhân mong ước đó là “cứu độ được một số người”. Như vậy, thánh Phao-lô chẳng những thiết lập mà còn chứng thực đức tính truyền giáo của Giáo Hội.
TIN MỪNG (Mc 1: 29-39)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nối tiếp Tin Mừng Chúa Nhật trước đó thuật lại cho chúng ta một ngày hoạt động của Đức Giê-su tại thành Ca-phác-na-um: Sáng sớm, trong hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su giảng dạy cho dân chúng và trục xuất thần ô uế ra khỏi một người bị quỷ ám (Chúa Nhật trước: 1: 21-28); ban trưa, tại nhà ông Si-môn, Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ ông Si-môn, và chiều tối, trước cửa nhà ông Si-môn, Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ (Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: 1: 29-39).
*1.Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ ông Si-môn (1: 29-31):
Ngay khi vừa rời hội đường, Đức Giê-su đến nhà của hai anh em Si-môn và An-rê. Khi người ta nói cho Ngài biết bệnh tình của bà mẹ vợ ông Si-môn, Đức Giê-su tiến đến bên giường bệnh nhân và theo đúng nguyên văn: “cơn sốt rời bỏ bà”. Đây là diễn ngữ rất mạnh. Cơn sốt vào thời đó không là một trong những chứng bệnh thông thường như chúng ta nghĩ hiện nay. Cơn sốt gây tác động rất mạnh trên những người xưa. Thiên Chúa ngăm đe những ai không thi hành các huấn lệnh của Ngài, là Ngài sẽ trút xuống những người ấy nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt họ mờ đi và phải kiệt sức (Lv 26: 14-16). Cơn sốt là một trong những tai ương ngang bằng với sự chết mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ được nó (Kb 3: 5).
Đức Giê-su “cầm lấy tay bà mà đỡ bà dậy”. Đó cũng là cử chỉ của Đức Giê-su khi Ngài cho con gái ông Gia-ia sống lại: “Người cầm lấy tay cô bé…và lập tức, cô bé chỗi dậy” (Mc 5: 41-42). Trong cả hai trường hợp, chúng ta lưu ý đến cử chỉ của Đức Giê-su: “Cầm lấy tay” nói lên mối quan tâm của Ngài đối với bệnh nhân và động từ “đỡ dậy” theo đúng nguyên ngữ là “chỗi dậy”, động từ này được Tân Ước dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của chính Đức Giê-su. Như vậy, Đức Giê-su chuẩn bị cho các môn đệ cuộc Phục sinh sau này của Ngài.
Để đáp lại ân tình cứu chữa của Đức Giê-su, “bà phục vụ các ngài”. Chức năng chính yếu của chi tiết nầy chính là nhằm minh chứng rằng bà hoàn toàn bình phục ngay tức khắc; đó là bằng chứng cho thấy bản chất kỳ diệu của hành động chữa lành mà Đức Giê-su vừa mới thực hiện. Trong Lc 8: 1-3, khi đề cập đến nhóm phụ nữ cùng với nhóm Mười Hai cùng đi với Đức Giê-su trên mọi nẻo đường truyền giáo, thánh Lu-ca kể ra việc các bà được Đức Giê-su “trừ quỷ và chữa bệnh”. Để đáp lại ân tình của Ngài, “các bà đã lấy của cải mình mà phục vụ Đức Giê-su và các môn đệ”. Chúa Giê-su cứu giúp chúng ta để chúng ta cứu giúp người khác.
*2.Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ (1: 32-34):
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn”, tức là ngày sa-bát chính thức chấm dứt (người Do thái tính một ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn như biểu thức được lập đi lập lại ở trang đầu của sách Sáng Thế: “vào một buổi chiều và một buổi sáng, ấy là ngày thứ…”), người ta có thể tự do đem các bệnh nhân đến trước cửa nhà ông Si-môn mà không vi phạm lệnh truyền giữ ngày sa-bát. Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ.
Nhiều lần thánh Mác-cô kết hợp bệnh tật với trừ quỷ, vì theo quan niệm thời đó bệnh tật là do ma quỷ gây nên (1: 34; 3: 10-11; 6: 13). Trong Tân Ước, quỷ thường được nói đến dưới khía cạnh tác hại của chúng trên thế gian, nhưng công việc của Đức Giê-su chấm dứt ảnh hưởng tác hại ấy. Trong những lần Đức Giê-su chữa lành bệnh tật và trừ quỷ, chúng ta nên để ý đến hai điều: một là lời của Đức Giê-su rất giản dị, nhưng hiệu nghiệm, khác hoàn toàn với những câu thần chú và những điệu bộ ma thuật phức tạp của các thầy trừ quỷ thời ấy. Hai là phép lạ của Đức Giê-su là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa can thiệp một cách dứt khoát, con người không chỉ được khỏi bệnh tật, nhưng còn được cứu độ. Vì thế, việc chữa lành bệnh tật thể lý nhằm chuẩn bị một dấu chỉ khác mà Đức Giê-su không bao lâu sau sẽ thực hiện cũng trong chính thành Ca-phác-na-um này, khi Ngài nói với người bại liệt: “Nầy con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2: 5). Đức Giê-su biết rằng dân chúng tin có một mối dây liên kết giữa bệnh tật và tội lỗi. Khi chữa lành đám đông khỏi mọi bệnh tật, Ngài loan báo ơn tha thứ tội lỗi.
Việc Đức Giê-su “không cho quỷ nói” thông thường được hiểu như “bí mật Thiên Sai” theo thần học Tin Mừng Mác-cô. Trong khi những đối thủ siêu phàm của Đức Giê-su biết Ngài là ai, thì phàm nhân (như các môn đệ) cần thời gian để có được một bức chân dung đầy đủ hơn về Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a chịu chết và sống lại. Vì thế, quỷ muốn công bố Ngài là Đấng Thiên Sai không nhằm mục đích tốt lành, nhưng cố ý để con người hiểu sai lạc chân tính Thiên Sai của Ngài. Người Do thái mong chờ một Đấng Thiên Sai toàn thắng về phương diện chính trị và quân sự, trong khi Đức Giê-su đến để thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha theo hình ảnh của “người tôi trung chịu đau khổ”, tức là “dâng hiến mạng sống để đem lại ơn cứu độ cho muôn người”.
*3.Đời sống nội tâm của Đức Giê-su (1: 35):
Điều đáng chú ý nhất của bản văn này là vén mở đời sống nội tâm của Đức Giê-su: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Đức Giê-su đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện”. Thánh Mác-cô nhấn mạnh “nơi hoang vắng”. Diễn ngữ “nơi hoang vắng” rất giàu ý nghĩa. Chính là nơi mà các nhà chiêm niệm vĩ đại gặp gỡ Thiên Chúa như ông Mô-sê, ngôn sứ Ê-li-a, vân vân. Đó cũng là nơi mà Đức Giê-su cầu nguyện với Cha Ngài trong suốt bốn mươi đêm ngày trước khi khởi sự sứ vụ công khai của Ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, đây cũng là nơi Ngài cầu nguyện trong khi các môn đệ ngủ… và điều nầy sẽ được tái diễn vào một đêm khác bi thảm hơn, đêm trước cuộc Tử Nạn của Ngài trong vườn Cây Dầu.
Thánh Mác-cô cho chúng ta biết ngay từ rất sớm “Người ra đi cầu nguyện”, mà không nói rõ ra Người cầu nguyện với ai và về vấn đề gì, nhưng mẫu đối thoại sau đó sẽ hé mở cho chúng ta thấy Đức Giê-su đối thoại với Chúa Cha về sứ mạng Ngài đang thực hiện. Cầu nguyện vào lúc sáng tinh mơ và vào lúc chiều hôm buông xuống trong những nơi thanh vắng sẽ là một nếp gấp trong cuộc đời thi hành sứ mạng của Đức Giê-su. Dù rất bận rộn, Chúa Giê-su vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giê-su vẫn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện.
*4.Đức Giê-su thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê (1: 36-39):
Việc “ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Đức Giê-su” cho thấy một ngày hoạt động của Ngài ở Ca-phác-na-um rất thành công ngoài mong đợi; vì thế, ông Si-môn, một trong bốn môn đệ đầu tiên, nghĩ rằng Đức Giê-su nên nắm lấy cơ hội lớn lao này (x. 1: 37). Đức Giê-su biết rằng nhiệm vụ của Ngài là loan báo Triều Đại Thiên Chúa đã và đang hiện diện ở đây rồi qua sự hiện diện của Ngài không chỉ ở Ca-phác-na-um nhưng còn ở khắp nơi. Chính Đức Giê-su xác định mục đích sứ mạng của Ngài: “Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Do đó, Đức Giê-su không để cho bất kỳ ai hay một nơi nào cố định giữ chân Ngài lại.
Cuối cùng, bằng hai động từ: “rao giảng” và “trừ quỷ”, thánh Mác-cô tóm lược sứ mạng cứu độ của Đức Giê-su khắp miền Ga-li-lê: “Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.
Đoạn Tin Mừng hôm nay âm vang những gẫm suy về đau khổ của sách Gióp (Đức Giê-su là Đấng chữa lành đích thật, Ngài sẽ đem lại ý nghĩa cho những đau khổ mà con người phải chịu), đồng thời ca ngợi tinh thần truyền giáo mà thánh Phao-lô nêu gương (Đức Giê-su là mẫu gương đầu tiên).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HÃY SIÊNG NĂNG LÀM VIỆC THEO GƯƠNG CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên các nguyên tổ rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ “canh tác và giữ vườn”. Chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn từ sáng tới tối.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ý thức giá trị của việc làm, đồng thời giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương Chúa.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Xin Chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng ta không biết thánh hóa những công việc mình làm.
– Xin Chúa tha thứ cho những việc làm sai trái của chúng ta.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (G 7,1-4.6-7)
Đoạn sách Gióp này đưa ra một cái nhìn bi quan về công việc con người phải làm trong cuộc sống :
– Làm việc là cực nhọc như “nô dịch”
– Con người giống như một người làm công.
– Và cuộc đời với những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.
Cái nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng.
*2. Đáp ca (Tv 146)
Thánh vịnh này đặc biệt ca tụng một loại “công việc” đặc biệt của Thiên Chúa, đó là việc “cứu chữa” : Ngài là Đấng “cứu chữa những kẻ dập nát tâm can”.
*3. Tin Mừng (Mc 1,29-39)
Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu :
– Giảng dạy ở hội đường
– Giảng vừa xong thì đến nhà nhạc mẫu của Simon để chữa cho bà này khỏi bệnh sốt.
– Tiếp tục chữa bệnh và trừ quỷ từ chiều cho đến tối.
– Sáng tinh sương hôm sau, Ngài cầu nguyện ở một nơi thanh vắng.
– Người ta lại tìm đến với Ngài để được chữa bệnh. Nhưng Ngài đành phải ra đi, bởi vì còn phải rao giảng Tin Mừng ở những nơi khác nữa.
Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Việc làm của Ngài là rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
*4. Bài đọc II (1 Cr 9,16-19.22-23) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô trình bày quan niệm của ngài về việc rao giảng Tin Mừng :
– Đó là một nhu cầu : “Nếu tôi rao giảng Tin Mừng thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi”
– Đó là nguồn hạnh phúc : “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”
– Vì thế phải làm việc rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện chứ không phải do bị bó buộc.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lao động là vinh quang
Ông Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này : có một tiều phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi : “Mi gọi ta đến để làm gì ?” Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ : “Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ tôi”. Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả : ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười biếng thì than thở như trong sách Gióp được trích đọc trong bài đọc thứ nhất : “Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc”. Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn của Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Chính để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị của lao động nhọc nhằn mà Đức Giêsu Kitô đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người lao động vất vả. Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa : Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa. Nhưng Đức Giêsu đành phải từ chối và nói “Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để rao giảng Tin Mừng nữa”.
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động nhọc nhằn : lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn.
Vì hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolô đã hăng hái chu toàn những công việc nặng nhọc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài trích thư gởi tín hữu Côrintô. Là một tông đồ, công việc chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Ngài đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Ngài còn nói “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài còn nói thêm : “Giả như tôi tự ý đảm nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì bị ép buộc thì tôi còn mang phần thưởng ở đâu nữa ! Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolô đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.
Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay thật ích lợi vì vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
. Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc ấy.
. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
. Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả tốt đẹp.
. Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
. Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian.
* 2. Vấn đề đau khổ
Bài Tin mừng cho thấy một ngày bận rộn của Đức Giêsu.
– Giảng xong trong hội đường thì đến chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô.
– Đến chiều còn cả đám đông bệnh nhân đủ loại.
– Đêm đến đi cầu nguyện còn được môn đệ mời về chữa bệnh.
– Và còn phải đi đến nhiều thành nhiều vùng khác nữa.
Đức Giêsu như một chiếc phao giữa biển khổ cuộc đời mà vô số người bám.
20 thế kỷ qua rồi, nhưng ngày nay đau khổ nhân loại vẫn còn chồng chất : cả thể xác lẫn tinh thần. “Đời là bể khổ” câu giáo lý nhà Phật vẫn còn là một nhận xét thật đúng.
Nhưng từ nhận xét đó ta chớ vội kết luận.
– Hoặc theo kiểu bi quan như những người chán đời tự tử.
– Hoặc theo kiểu thả trôi ăn chơi kẻo hết đời “chơi xuân kẻo hết xuân đi”. Mà hãy bình tỉnh nhận định về vấn đề đau khổ.
. Có những cái khổ tự mình gây ra : tham ăn đau bụng.
. Có những cái khổ do người khác xấu bụng gây ra cho mình : thằng ăn cắp làm cho người ta mất của.
. Có những cái khổ là do quy luật thiên nhiên như thế : trước khi sinh con thì phải mang nặng đẻ đau. Muốn được mùa thì phải cực nhọc cầy cấy.
– Trước cái khổ cũng có nhiều thái độ :
. Có thứ khổ sinh buồn chán : nhậu nhẹt, tự tử.
. Có thứ khổ làm cho con người trưởng thành : người lao động biết quý trọng đồng tiền, người lính chiến trở nên anh dũng.
. Có thứ khổ người ta sung sướng chịu đựng : khổ vì yêu mà lo cho người yêu.
Sau khi phân tích như thế, ta thấy cái khổ mặc khải 3 vấn đề :
– Trần thế không phải là nơi hoàn hảo.
– Tội lỗi là một nguyên nhân lớn của khổ đau.
– Khổ đau chứng minh cho tình yêu.
Lạy Chúa, xin cho con có một nhận định sáng suốt trước đau khổ.
– Cho con đừng tự gây đau khổ cho con hay cho người khác do tính ích kỷ của con.
– Cho con kiên trì đấu tranh làm giảm những đau khổ cho con và cho người khác.
– Cho đau khổ đừng làm con gục ngã nhưng giúp con vươn lên cao hơn cõi đời này hướng về quê hương không đau khổ trên cao.
– Cho con biết chịu khổ vì yêu.
* 3. Nan đề đau khổ
Vấn đề đau khổ của loài người, đặc biệt của người lành, là một nan đề. Gióp đã vật lộn với nan đề này mà không tìm được lời giải đáp thỏa đáng.
Ngày nay đau khổ cũng vẫn là một nan đề. Ngày nay có rất nhiều người cùng cảnh ngộ với ông Gióp ngày xưa. Đó là những người đau khổ vì nghèo, đói, bệnh, bất công, áp bức v.v. Thời Cựu Ước, người ta nghĩ rằng đau khổ là hình phạt của Chúa.
Phần Đức Giêsu, Ngài không chấp nhận quan niệm coi đau khổ là hình phạt của Chúa, bởi Chúa không làm điều xấu, mà đau khổ là điều xấu. Đức Giêsu không trả lời cho câu hỏi “Tại sao đau khổ” nhưng Ngài dạy phải làm gì trước đau khổ.
Trong bài Tin Mừng này, chúng ta thấy những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu. Ngài không tránh xa, nhưng hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ.
Gặp người đau khổ, Đức Giêsu không chỉ khuyên họ hãy nhẫn nhục chịu đựng như chúng ta quen khuyên. Ngài ra tay hành động, cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ.
Vần đề đau khổ còn là cơ hội để Đức Giêsu tỏ cho người ta biết Thiên Chúa. Qua cách Ngài tận tuỵ cứu giúp người đau khổ, Đức Giêsu cho người ta thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ đau khổ.
Sự đau khổ của người khác cũng là cơ hội cho chúng ta. Tuy chúng ta không có khả năng cứu chữa nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc. Mà chăm sóc cũng là một cách cứu chữa. Chỉ cần ở bên người đau khổ thôi cũng là một điều gì đáng quý rồi. Nhưng ở bên người đau khổ mà với hai bàn tay không thì có thể làm gì được ? Được chứ, vì với hai bàn tay, chúng ta có thể an ủi họ. Điều họ cần nơi chúng ta nhất là chúng ta đừng bỏ rơi họ. Khi chúng ta ở bên họ thì cũng giống như ngày xưa Đức Maria ở bên Thập giá Đức Giêsu.
Còn đối với những đau khổ của bản thân chúng ta, đó cũng là điều không thể tránh của thân phận làm người. Tuy nhiên thật là an ủi cho chúng ta vì chính Đức Giêsu cũng đi con đường đau khổ như chúng ta, và Ngài đi tới cùng. Và cũng thật vui mừng khi chúng ta biết rằng sau khi đi đến tận cùng đau khổ thì Đức Giêsu đã tới vinh quang. Như thế, đối với kitô hữu, đau khổ là cơ hội cho chúng ta chia xẻ cuộc chịu nạn của Đức Giêsu, trong hy vọng cũng sẽ được chia xẻ vinh quang phục sinh của Ngài (Viết theo Flor McCarthy)
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh : Bệnh bò điên (Mad-Cow disease). Người những mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc đầu người ta phát hiện có mười người mắc bệnh này ở Anh Quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên bố : “Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi con người”
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm theo Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỷ đôla.
*
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng, Người ta xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở về với con người.
Hôm nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.
Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x.Ds.5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang đến cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E.Lamy khẳng định : “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
Sau khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật, linh hồn, và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền. V.Ghika có viết : “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết gánh lấy niềm đau kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và biến nó thành của Người”.
Dường như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
*
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh : thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm ; vẫn còn các bệnh tật lan tràn : bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Cực nhọc
Ba bài đọc hôm nay đều nói về làm việc. Nhưng bài đọc Cựu Ước (trích sách Gióp) thì than rằng làm việc là một gánh nặng quá cực nhọc. Còn 2 bài đọc Tân Ước thì nêu gương Đức Giêsu và thánh Phaolô làm việc cách hăng say và vui vẻ.
Cũng là làm việc, nhưng người thì thấy nặng nhọc, kẻ thì thấy vui vẻ. Tại sao ?
– Thánh Phaolô cho biết lý do thứ nhất : làm việc vì bó buộc hay làm vì tự nguyện : “Tôi mà tự ý làm việc thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công”
– Thánh Augustinô đưa ra lý do thứ hai : Ubi amatur, non laboratur (Khi nào người ta yêu thì người ta không cảm thấy nhọc mệt)
- Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại.
“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
Câu kinh đọc trước rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin mừng. Đàng khác, nếu không chữa bệnh làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêssia được ? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không ! Người không đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ. Người không bảo : “Đức tin đã chữa lành con” nhưng : “Đức tin đã cứu con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khỏe mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định, mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài tin mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú) nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa”.(H.Denis, trong “100 mots pour dire”, Desclée de Brouwer, trang 183. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B).
- “Ngài đi ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện“
Người kia có thói quen một mình đi vào một khu rừng hẻo lánh. Một hôm, người bạn của người đó tò mò đi theo. Khi thấy người này ngồi im trong rừng thì ngạc nhiên hỏi :
– Anh làm gì ở đây thế ?
– Tôi cầu nguyện.
– Nhưng cần gì phải đến một nơi xa xôi hẻo lánh như thế này để cầu nguyện chứ ?
– Vì ở đây tôi thấy mình gần Chúa hơn.
– Nhưng Chúa ở khắp mọi nơi kia mà. Ở đâu mà Chúa chẳng gần ta.
– Chúa thì như thế thật, nhưng tôi thì không như thế.
Đành rằng Chúa ở khắp mọi nơi nên ở đâu ta cũng có thể gặp Chúa, tuy nhiên nếu thỉnh thoảng ta lui vào một nơi yên tĩnh nào đó thì ta sẽ cảm thấy Chúa gần gũi hơn và thân thiết hơn. Ở những nơi yên tĩnh như thế, một mặt tất cả mọi sự đều nhắc chúng ta nhớ đến sự hiện diện của Chúa, từ một làm gió, một cánh hoa, một dòng nước, một tiếng chim hót cho đến cả sự im lặng ; và mặt khác con người chúng ta thư thái hơn, bình lặng hơn nên dễ cởi mở tấm lòng ra với Ngài hơn. (Viết theo Flor Mc Carthy)
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Lao động là nhọc nhằn, nhưng lao động cũng là nguồn vui, là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo dịp cho chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :
- Ngày xưa Đức Giêsu đã bảo các môn đệ rằng “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành thị lân cận để Ta cũng rao giảng ở đó nữa”. Ngày nay Hội Thánh tiếp tục làm theo lời dạy ấy của Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh được nhiều thuận lợi và nhiều kết quả.
- Đất nước chúng ta còn nghèo. Rất nhiều người chưa có công ăn việc làm xứng đáng và đủ nuôi sống gia đình mình. Chúng ta hãy cầu xin cho các vị lãnh đạo đất nước có những đường lối chính sách đem lại công ăn việc làm cho mọi công dân, để cuộc sống mọi người đều ấm no hạnh phúc.
- Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến những người thất nghiệp và những người vì hoàn cảnh bó buộc phải làm những công việc không xứng với nhân phẩm và đạo đức. Xin Chúa giúp cho những anh chị em ấy sớm thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện tại.
- Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho mọi người trong cộng đồng giáo xứ chúng ta biết siêng năng làm việc, để vừa nuôi sống bản thân mình, vừa góp phần xây dựng xã hội và Giáo Hội.
CT : Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng đến tối ; Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà còn để cứu giúp mọi người. Chúng con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng con. Xin Chúa thánh hóa những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt lành. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.
*VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta hãy cầu xin với Thiên Chúa là Cha chúng ta, xin Ngài thêm sức cho chúng ta có thể chu toàn mọi công việc chúng ta phải làm trong cuộc sống, đồng thời cũng xin Ngài cứu chúng ta khỏi mọi bệnh tật và mọi sự dữ.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin thêm sức cho chúng con gánh vác những lao nhọc hằng ngày, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
*VII. GIẢI TÁN
Với ý thức rằng làm việc là cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và với sự trợ giúp của Ngài, chúng ta hãy hăng hái trở về với cuộc sống và tích cực chu toàn những công việc của chúng ta
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN -B
TỪ CẢM PHỤC ĐẾN LÒNG TIN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay liên kết ba bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô (Mc 1,29-31), một bảng tóm tắt các phép lạ chữa lành (cc.32-34) và một bước tiến trong việc hoàn thành sứ mệnh (cc.35-39). Muốn phân tích ba bản văn, phải lưu tâm đến văn thể khác biệt của chúng.
Bài đọc thứ nhất (G 7,1-4.6.7) là phần nhập đề cho các cuộc chữa lành của Chúa Giêsu: ta đọc thấy trong ấy hình ảnh con người bị đau khổ vì thân phận trần thế, hay đúng hơn vì bệnh tật. Bà mẹ vợ Phêrô một cách nào đó hiện thân cho thân phận này, và những đám đông đi tìm Chúa Giêsu (cc.32.33.37) cụ thể hóa cái phản ứng đầu tiên của con người đứng trước kẻ có thể chữa lành họ. Con người thời đại hôm nay phải chăng đã được giải phóng khỏi thân phận nói trên nhờ và các khoa học và tiềm lực kinh tế? phải chăng họ đã vượt qua phản ứng của những người đồng thời với Chúa Kitô?
*I).TỪ HỘI ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ SIMON (c.29)
Trình thuật chữa lành một kẻ bị quỷ ám đã đặt chúng ta tại hội đường Capharnaum (1,23-28), vì thế Mc viết tiếp: “Và lập tức ra khỏi hội đường…”. Thật vậy thánh sử hình như vẫn giả thiết một khoảng thời gian khá dài giữa lai phép lạ, bởi vì danh tiếng Chúa Giêsu đã có thời giờ lan xa khắp xứ Galilê. Hiển nhiên Mc đã giản lược. Ta biết ông thường dùng trạng từ “lập tức” nhưng chẳng gán ý nghĩa gì đích xác (11 lần nguyên trong chương một: Cc. 10, 12, 18, 20, 21,23,28, 29, 30, 42, 43). Vì ông không mấy quan tâm đểu tính cách liên tục hợp lý, mà chỉ muốn trình bày ở đây (cc.21-39) một ngày mới về sứ vụ Chúa Giêsu: “Ngày Capharnaum” theo thành ngữ cổ điển. [như Luca, nơi ch.24 đã cô đọng trong một ngày tất cả các sự kiện từ Sống lại đến Thăng thiên: “Vừa tang tảng bình minh (c.1):.. Đi thăm mộ về (c.9)… Cũng ngày hôm ấy (c.12)… Ngay giờ đó (c.33)… Họ còn đang trò chuyện (c.36)… Đoạn (c 44)..: Rồi (c.50)…”]. Mátthêô và Luca đã bỏ khung cảnh nói trên và để qua một bên tiếng “lập tức” giả tạo vừa nói. Chúng ta không biết thời biểu thật sự của các sự kiện ra làm sao. Tuy nhiên có thể quả quyết rằng cặp trình thuật chữa lành mẹ vợ Phêrô – chữa lành khi chiều đến” bắt nguồn từ một truyền thống có trước các Tin mừng Nhất lãm vì chi tiết “chiều đến” nằm trong Mc lẫn Mt. Nếu Lc đã bỏ qua trạng từ “lập tức” thì trái lại ông đã lưu giữ chi tiết “hội đường”. Ông sẽ khai triển ý nghĩa chi tiết này đến độ làm thành một chủ đề thần học, sẽ nhắc tới nhắc lui trong sách Công vụ của ông: khi rao giảng trong một thành hay một thị trấn, thì Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như vậy.
Chúa Giêsu “ra khỏi hội đường” không chỉ vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng vì các thính giả chưa hiểu được Người. Như các môn đồ khi chương kiến cơn bão dẹp yên, họ cũng đặt câu hỏi về bản thân Chúa Giêsu: “Cái gì vậy? (1,27), “ông này là ai thế? (4,41). Nhưng họ chưa trả lời được. Chắc hẳn phải coi đó là một hình ảnh biểu trưng: bao lâu còn ở trong hội đường, ta chưa thể trở nên môn đồ Chúa Giêsu; cần phải ra khỏi đó như một cuộc xuất hành mới. Nơi c.39, Mc sẽ viết với một đại danh từ độc hữu: “hội đường của họ”. Xa hơn ông kể rằng sau một phép lạ làm trong hội đường do Chúa Giêsu các biệt phái mới họp với phe Hêrôdê để chống Người. Chính vì thế mà người rút lui về bờ “biển”: Người đi ra và có nhiều kẻ đi theo (3,7). Chúa Giêsu cũng sẽ đi xa khi làm phép lạ hóa bánh và nhiều đám đông sẽ đến với Người (6,32-33). Người sẽ còn ra khỏi Đền thờ (11,11) và khỏi Giêrusalem nữa (11,19; 13,1). Về đề tài này, Luca lược đồ hóa rõ ràng hơn Mc: theo Lc Chúa Giêsu rao giảng lần đầu tiên tại hội đường Nadarét. Và ngay từ hội đương này, không những người đã chẳng được hiểu và bị bó buộc phải rời khỏi đó mà còn phải lẩn trốn để khỏi bị giết đi (Lc 4, 16-30).
Chắc Mc đã nghĩ đến chủ đề bất biến này trong Tân ước. Nhưng ta có nên đi xa hơn và xác quyết rằng ông đã muốn đối nghịch hội đường với nhà của Simon-Phêrô, hình ảnh Hội Thánh không? Chưa nên. Vì vẫn biết ngôi nhà này chiếm một chỗ quan trọng trong Tin mừng thứ hai (x. Assemtlées du Seigneur 38, tr.81 và 41, tr.40), nhưng ở đây Lc chưa nói đến Phêrô cách đặc biệt; ông chỉ bảo: “Người đến nhà của Simon và Anrê, cùng với Giacôbê và Gioan.
Bốn môn đồ đã được gọi đầu tiên (1,16-22) và vẫn luôn là những kẻ thân tín nhất này, là chứng nhân của phép lạ. Việc thiết lập nhóm Mười hai chỉ xảy đến về sau.
*II).CHỮA LÀNH MẸ VỢ SIMON (cc.30-31)
*1. Sự kiện:
Người ta đã đề nghị phân biệt các phép lạ của Chúa Giêsu thành hai: các phép lạ thương xót và các phép lạ chiến đấu (E.Trocmé, La formation đe Levangile de Marc, Paris, 1963, tr.123). Dù không tuyệt đối hoàn toàn, cách phân chia này vẫn giúp làm nổi bật hơn chiều hướng của các trình thuật. Những lần trừ quỷ có thể gọi là các phép lạ chiến đấu: Mc muốn nhân mạnh như vậy (1,23-28.29). Việc chữa lành mẹ vợ Phêrô có thể xem như một “phép lạ thương xót”: người ta đã nài xin Chúa Giêsu chữa cho bà (c.30). Tuy nhiên trong tư tưởng Mc, mọi việc chữa lành đều cũng tượng trưng một cuộc chiến thắng ma quỷ; ở giữa việc trừ quỷ và chữa lành tật bệnh, chẳng có phân biệt rõ rệt nào (x. 1,39; 3,15; 6,7 và 13). Còn Lc thì rõ ràng trình bày chuyện chữa lành mẹ vợ Phêrô như một việc trừ quỷ: Chúa Giêsu “hăm dọa cơn sốt” (Lc 4,39)
Theo Mc thì bệnh nhân cảm sốt. Nhưng ta không thể xác định đó là bệnh gì và nặng nhẹ ra sao.
Trong trình thuật của Mc, người ta thường nhận ra được chứng từ của chính Phêrô, là chẳng nhân trực tiếp của quang cảnh. Hình như thánh sử chỉ lấy chữ “chúng tôi” của Phêrô bằng chữ “họ”. Một vài lỗi ngữ pháp hoặc chi tiết văn thể chỉ giải thích được nếu cho rằng chính Phêrô đã kể lại các biến cố: chẳng hạn như chi tiết về Giacôbê và Gioan, vốn có vẻ như một câu ngoài đề.
Việc so sánh với bản văn song song của Mt giúp ta thấy được cách diễn tả phong phú của Mc: Mt không nói đến các môn đồ, họ có vẻ- như vắng mặt: Chúa Giêsu vào, thấy bệnh nhân, cầm tay và và bà cảm thấy “điều đó” (Mt 8,15). Sự đối diện này có lẽ làm cho bài giáo lý của Mt ra rõ ràng và sâu xa hơn, nhưng lại giảm đi tính cách có vẻ thực của trình thuật. Bản văn của Mc thì lại rất đơn giản. Người ta có thể viện dẫn tính cách đơn giản này để biện hộ cho xác thực tính của phép lạ, bởi vì các trình thuật chữa lành bệnh của lương dân thường rất phóng đại chi tiết.
*2. Ý nghĩa của phép lạ theo Mc.
Các trình thuật Tin mừng về việc chữa lành. mẹ vợ Phêrô không giúp ta xác định đúng chủ ý của Chúa Giêsu. Khi Người làm hành vi đó, cũng như ý nghĩa đích thực mà các chứng nhân đầu tiên gán cho việc này. Tuy nhiên ta biết người Do thái đã thường xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28,22; 32,24; Lv 26,16) hay với bệnh dịch (Hb 3, 5). Về sau, người ta năng gán cảm sốt cho một con quỷ. Trong nhãn giới đó, phép lạ ở Capharnaum, đối với mọi người, hẳn muốn bảo rằng Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai mà Isaia đã loan báo là sẽ đến cứu con người khỏi đau khổ, hậu quả của sự ác luân lý (Is 26,19; 29,18t; 33 3; 35,5…). Mc đã lấy việc chữa lành mẹ vợ Phêrô làm một trong các yếu tố của “ngày Capharnaum” ngày mẫu của giai đoạn đầu sứ vụ Cứu Chúa; phép lạ minh giải, bằng một ví dụ, các bảng “toát yếu” về bao cuộc chữa lành mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Như thế phép lạ này là một dấu chỉ cho thấy thời đại cánh chung hay thiên sai đã đến trong bản thân Chúa Giêsu: Người hành động với chính quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng đây vẫn còn là một đấu chỉ. Cần phải mất nhiều thời gian con người mới khám phá và chấp nhận ý nghĩa của dấu chỉ đó (x. Mt 11,4-6). Dẫu sao dự định riêng của Mc sẽ hiện ra rõ ràng hơn khi ta khảo sát kỹ lưỡng câu 31 và câu song song với nó trong Mt 8,15.
*3. Chúa Giêsu nâng dậy con người.
Cách đặt câu 31 có một điểm dị thường, ta hãy thử giải thích. Theo nguyên tự, ta có: “Tiến lại, Chúa Giêsu cho bà chỗi dậy bằng cách nắm lấy tay bà, và cơn sốt đã biến khỏi bà”. Bình thường lẽ ra phải viết: Chúa Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến khỏi bà; bà chỗi dậy…”. Dĩ nhiên Mc trước tiên không lưu tâm đến tính cách thuận lý, nhưng một chi tiết khác tăng cường chú ý của ta: động từ ogeirô Mc sử dụng ở đây đã trở thành một hạn từ chuyên môn chỉ việc sống lại. Mấy chữ “Người cho bà chỗi dậy”, hình như đã được thánh sử chèn vào trong một câu đơn giản hơn của Phêrô khi kể lại biến cố, vì là chỉ có nơi ông (Mt và Lc chỉ nói: bà chỗi dậy) Thành thử có lẽ Mc đã đưa những chữ này vào với mục đích giáo lý, và việc chọn động từ ogeirô nói lên ý hướng biểu tượng của ông. Như đã làm cho mẹ vợ Phêrô chỗi dậy khi cơn sốt đã biến bà bất động như chết trên giường, thì Chúa Kitô cũng đến cho ta chỗi dậy, cho ta phục sinh, để ta có thể phục vụ người. Chữ ogeirô cũng còn gặp trong trình thuật chữa lành em bé kinh phong (Mc 9,26-27), nơi lối biểu trưng còn rõ ràng hơn nữa. Thành thử chẳng lạ gì khi Mátcô đã muốn ám chỉ biểu tượng đó ở đây (x. P.Lamrarche, La guérison de la bolle-mère de Pirre ét le gent’e littéraire des Evangiles, trong NRT (1965) tr.518-520).
*4.Chỗi dậy dể phục vụ
Trong bối cảnh phép lạ, hay đúng hơn trong khung cảnh tiếp đón Chúa Giêsu tại nhà Phêrô, phục vụ trước tiên là cho ăn uống. Trong cùng ý nghĩa đó, sau những cuộc thử thách ở hoang địa, các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu (Mc 1, 13), như Người cũng đã truyền cho con gái của Giairô ăn uống sau khi cho nó sống lại (Mc 5,43). Chúa Giêsu không bỏ qua thực tại trần thế giản đơn này, Người còn đi xa hơn nữa. Có lẽ ở đây Mc đã liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: “Con người chẳng đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ (diakonesai)” (Mc 10,45). Phục vụ không chỉ có nghĩa là hầu bàn, nhưng nếu cần, là “thí mạng làm giá chuộc nhiều người” (c45). Đó là lý tưởng mà Chúa Kitô đã đề ra cho những ai Người phục sinh từ cái chết của tội lỗi.
Trong bản văn ngắn gọn và đặc thù hơn của Mt, ta đã thấy Chúa Giêsu xuất hiện một mình. Số ít của phần cuối câu 15 (bà phục vụ Người) đã làm cho ý nghĩa của động từ được mở rộng. Không còn là vấn đề dọn bữa ăn cho Thầy và cho môn đồ đói mệt vì miệt mài với sứ vụ nữa, song là một chuyện tổng quát hơn. Tình trạng trước của bệnh nhân tượng trưng thân phận con người tội lỗi bao lâu chưa được Chúa Kitô cứu vớt và việc chữa lành thân xác biểu hiệu công trình thiêng liêng Chúa Giêsu hoàn thành. Tin mừng thứ 4 sẽ khai triển cùng lối biểu tượng này trong trình thuật người bất toại ở hồ tắm Bêthesđa (5, 1-18).
*III). BẢNG “TOÁT YẾU” (cc.32-34)
*1.Các đặc tính của văn thể “toát yếu”: ý nghĩa và việc tổng quát hóa.
Hiển nhiên là ta không nên hiểu theo mặt chữ những lời xác quyết tuyệt đối như: “Người ta đã đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám” (c.32), nhất là câu của Mt: Mọi kẻ ốm đau, Người đều chữa lành” (Mt 8,16; x. Lc 4,40). Ta biết rằng Chúa Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân; Người đòi hỏi đức tin của họ. Vì thế Mc đã viết: “Chúa Giêsu đã chữa nhiều kẻ ốm đau” (c.34). Cũng có thể có một thái quá trong kiểu nói: Tất cả thành đều tụ tập trước cửa” (c.33): hình như đây là một sự tổng quát hóa, nhưng chắc chắn cũng là kỷ niệm về một sự kiện có thật đã hơn một lần xảy ra và đã đánh vào trí tưởng tượng của lắm người: truyền thống nhiều lần kể lại rằng người ta đã không thể qua cửa mà vào nhà được vì dân chúng quá đông: nên phải chuyền miệng vô lời nhắn gởi (3,32), hoặc đưa bệnh nhân lên mái nhà thòng xuống (2,1-4).
*2. Lũ quỷ
Danh từ hay tĩnh từ quỷ được dùng ba lần trong Mc 1,32-34 và một lần nữa ở c.39. Ta thấy rõ đó là một trong những ưu tư lớn của Mc. Chúa Giêsu đến chiến đấu với ma quỷ và giải phóng con người khỏi quyền lực của nó. Ngay từ đầu, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô như là kẻ mạnh hơn” (1,7); Người khai mạc sứ vụ bằng một cuộc tấn công trực tiếp Satan và hắn bị bại trận (1,12-13). Ngay khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng thì một kẻ ma ám thử cản trở Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27); và trong đoạn kết của Mc”, dấu chỉ đặc trưng đầu tiên của người môn đồ là “xua trừ ma quỷ” (16,17) (x. G. Gaide, Les deux maisons, trong Assemblées du Seigneur 41, tr.41-45). Trong nhãn giới này, mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ ma quỷ và mọi cuộc chữa lành nhờ trục xuất- ma quỷ đều là một chiến thắng trên quỷ ma.
*3. “Bí mật thiên sai (c.34b).
Kết luận của bản toát yếu này thường được xem như là do Mc biên soạn. Mc không để mất một cơ hội trở lại với lời căn dặn giữ bí mật thiên sai như với một chủ đề ưa thích (G. Minettè. de Tillesse, le secret messianique danh l’evangile de Marc, paris, 1968). Câu này sẽ dễ hiểu hơn nếu đặt sau việc trừ quỷ ở hội đường, vì lúc đó người bị quỷ ám kêu lên: “Chúng tôi với Ngài nào có việc gì?… Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa” (1,24). Để nhắc lại những lời này, Mc hẳn đã thêm một giải thích vào câu 34: “Bởi vì chúng (lũ quỷ) biết Người là ai”. Lc muốn rõ hơn nên đã lặp lại những lời của quỷ (4,34-41).
Lũ quỷ này sáng suốt hơn con người đã tức khắc nhận ra được địch thủ của chúng và gào to lên (1,24; 5,7…). Dĩ nhiên tiếng la hét của chúng chẳng phải là những hành vi đức tin, nhưng là những dấu hiệu sợ hãi và thảm bại trước kẻ mà chúng nhận ra là người được Thiên Chúa sai đến, đầy quyền lực thần hình mà chúng không thể đương cự nổi (x. 3,22-27). Đối với con người, Chúa Giêsu tự mặc khải một cách tiên tiến bằng những dấu chỉ về quyền lực của Người trên các bệnh tật nổi tiếng là nan y.(1,40-45), trên tội lỗi mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ (2,5-12), trên ngày của Chúa là ngày hưu lễ (2,28), và cuối cùng là trên sự sống (ch. 15-16).
Tự hỏi “Giêsu là ai?” tức là đã làm một bước đầu trên con đường đưa đến sự hiểu biết hoàn hảo về bản nhân Người, đưa đến đức tin. Vậy mà Mc muốn từng bước dẫn đưa độc giả (hay thính giả) đến chỗ khám phá Chúa Giêsu Kitô như thế.
Khi nhìn thấy những kỳ công đầu tiên Chúa Giêsu đã làm, trong đó có việc chữa lành mẹ vợ Phêrô, con người chỉ nghĩ đến những hồng ân vật chất tức thời mà họ có thể chờ đợi cho chính họ hay cho thân thuộc họ. Ví dụ như dân làng Nadarét theo Lc (4,23). Khi đó Chúa Giêsu liền lánh mặt.
Ta không cần nhắc lại ở đây những gì đã nói về bí mật thiên sai, chỉ cần nhấn mạnh đến một khía cạnh giáo dục của chủ đề nầy: một hành vi đức tin vào Chúa Giêsu sẽ chỉ thực sự có giá trị khi gói ghém một sự hiểu biết đầy đủ về sứ mệnh và công việc Người, đặc biệt về sự cần thiết phải chết và sống lại để hoàn thành công việc đó. Người thứ 4 diễn tả điều này như sau: “Có lắm kẻ đã tin vào danh Người bởi được chứng kiến các dấu lạ Người làm, nhưng Chúa Giêsu không tín nhiệm vào họ” (Ga 2,23-24).
Tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng Messia mà chẳng tin rằng Người phải chết và sống lại, đó là nói mà không biết mình nói gì, và có thể liều mình chối Chúa Kitô một khi khám phá được thực tế.
*IV). HƯỚNG CẢ VỀ XỨ GALILÊ (cc. 35-39).
Trình thuật nơi cc. 35-39 là một bản lề (trình thuật chuyển tiếp): cho đến bây giờ Chúa Giêsu xem ra giới hạn chân trời và hồng ân Người cho dân vùng Capharnaum; từ đây sứ vụ của Người sẽ lan rộng khắp miền Galilê hết thảy (c.39).
Trước lúc hừng đông, khi các môn đồ còn ngủ vì mỏi miệt sau một ngày truyền giáo, Chúa Giêsu đã thức dậy. Sự giao tiếp với con người và niềm vui chữa lành vài bệnh nhân chưa làm Người thỏa mãn. Người lui ra nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa là để đặc biệt tìm gặp sự thân mật với Cha Người. Lc sẽ nhấn mạnh điểm này xa hơn.
Simon còn chưa hiểu ý nghĩa sứ mệnh Chúa Giêsu: tựa như ông muốn khai thác thành công của Thầy. Ông chỉ thấy những phép lạ đã được thực hiện và tưởng rằng sẽ còn nhiều phép lạ khác, có lợi cho dân Capharnaum. Ông hy vọng đưa Chúa Giêsu lui về nhà. Đám dân đã tản mác đêm qua bây giờ trở lại, cũng với kỳ vọng thấy nhiều phép lạ mới: họ mong chờ những cuộc chữa bệnh, trong khi đối với Chúa Giêsu, loài ân huệ này chỉ là bước chuẩn bị cho việc đón nhận Tin mừng và mặc khải về mầu nhiệm bản thân Người thôi.
Mc không ghi lại đối tượng lẫn nội dung của lời Chúa Giêsu cầu nguyện nhưng mẩu đối thoại tiếp theo cho ta thoáng thấy được ý nghĩa của lời cầu nguyện đó. Đối với Chúa Giêsu, đấy không hẳn là xin ơn cho bằng là nói về sứ mệnh của người với Đấng đã sai Người đến. Trước đây lúc chịu phép rửa Chúa Giêsu đã nghe tiếng nói Cha Người (Mc 1,11; x Lc 3,21), đã nhận Thánh Thần là đã được Thánh Thần thúc dẩy tấn công ma quỷ (1,12-13).
Thành ngữ chính vì thế mà “Ta đã ra đi” có nghĩa là gì? Phải chăng là đi ra khỏi Capharnaum (nghĩa tự nhiên) hai đi ra khỏi Chúa Cha để đến trong trần thế (nghĩa của Gioan 16,28)? (x. A. Feuillet, Le Logion suy la rancon, trong Rev. Sc. Phil. Théo. (1967), tr.372). Luca đã hiểu câu nói Chúa Giêsu theo nghĩa thứ hai, vì ông đã viết lại: “chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (4,43 hiểu là từ nơi Chúa Cha). Tuy vậy ta có thể nghĩ rằng đây là kết quả việc Lc suy ngắm về sứ mệnh Chúa Giêsu, và có chủ đích soi sáng sứ mệnh của Giáo Hội cùng của các môn đồ: qua từng giai đoạn, các môn đồ phải vượt ra khỏi mọi biên giới và đem Tin mừng đến tận cùng thế gian (Cv 1,8). Mc đã chẳng đẩy suy tư về sứ mệnh Giáo Hội xa như thế, ông gần với những sự kiện như đã xảy ra hơn: Chúa Giêsu không muốn bị kéo lôi bởi thành quả của Người. Về sau cũng vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh, Người lui ra nơi cô tịch để tránh sự cuồng nhiệt của đám đông và để đặt mình trong ý định của Thiên Chúa (Mc 6.46; Mt 14,23; Ga 6, 15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghetsêmani có thể đem đối chiếu với hai giai thoại này. Trong cả ba trường hợp, Chúa Giêsu lui ra để cầu nguyện ban đêm; các môn đồ, đặc biệt là Phêrô, đều tỏ vẻ kinh ngạc, vì họ chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
NHỮNG KẾT LUẬN CHO THỜI NAY
Cuối bài khảo cứu này, ta thấy bản văn Chúa Nhật hôm nay, có một tính cách thời sự đặc biệt, dĩ nhiên không phải ở điểm gán cho ma quỷ các chứng bệnh, nhưng vì giải tỏa được nhiều ưu tư của ta về phương pháp giáo dục đức tin và về nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội.
*1. Sự dấn thân của đức tin.
Người ta đã có lý khi bảo Tin Mừng thứ hai là một lời rao giảng hơn là một bài giáo lý. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là để theo Mc, chỉ cần một đức tin tối thiểu mà rồi sau đó sẽ đào sâu với giáo lý của Mátthêô, đoạn với thần học của Phaolô hay của Tin mừng thứ tư. Không! Mátcô rất đòi hỏi. Ông chẳng muốn một sự dấn thân khơi khơi bên ngoài. Chính vì thế mà ông không đặt ngay vấn đề dứt khoát. Ý nghĩa của mệnh lệnh giữ bí mật thiên sai là vậy, và đó là một phương pháp giáo dục tuyệt hảo: kẻ rao giảng Tin mừng luôn luôn nói về Chúa Kitô, nhưng cẩn thận mặc khải, bản thân và mầu nhiệm Người cách tiệm tiến, bằng nhiều “dấu chỉ nhiều lời ẩn bí (mashal). Thỉnh thoảng ông cũng kín đáo để lộ cái cốt yếu của mầu nhiệm nhưng lại che dấu ngay lệnh giữ bí mật), nhưng chính Chúa Giêsu khi Người trốn khỏi quần chúng hoặc khi chỉ tỏ lộ vinh quang trong chốc lát lúc biến hình. Vị thánh sử cũng là giáo lý viên có trách nhiệm về các tân tòng. Đã biết nhận ra thính giả của mình chưa sẵn sàng mấy còn cần phải tiến bước lâu dài và thong thả. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu quá vĩ đại, khó mà khám phá trong một ngày, trừ phi được ơn đặc biệt như Phaolô.
Chính nhóm Mười hai cũng đã trải qua nhiều thời gian dài mới tin vào Chúa Giêsu thực sự, mới biết Người đúng như bản chất Người. Chắc hẳn họ đã gắn bó với Người rất sớm, nhưng chỉ đạt được đức tin sung mãn sau tiến cố Tử nạn, Phục sinh và Ngũ tuần thôi. Cho tới lúc đó, đức tin của họ vẫn còn bất toàn và mỏng manh, như ta thấy rõ vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị xử án.
Tại sao có sự đòi hỏi, sự tiệm tiến nơi Mc như vậy. Chắc chắn là vì ông ctã hiểu đức tin lôi kéo sâu xa con người đến mức nào. Có lẽ Phêrô, được soi sáng bởi kinh nghiệm riêng của mình (những lần chối Chúa) đã nhấn mạnh đặc biệt về điểm này chăng? Rồi chắc cũng là vì lúc Tin Mừng Mc được biên soạn dứt khoát thì Giáo Hội Rôma đang sống trong những hoàn cảnh đòi buộc thái độ trên: trong trường hợp bị bách hại, người ta chỉ có thể nhận vào Giáo Hội những tân tòng đã được chuẩn bị kỹ càng và đã quyết tâm theo Chúa Kitô, dù phải mất mạng sống.
Ngày nay đòi hỏi này vẫn còn có giá trị, chứ không chỉ dành riêng cho thời hoặc miền đã bị bách hại mà thôi. Người ta đã không luôn luôn chú ý cho đủ giáo huấn của Mc về điểm này. May thay, thời nay, nhờ nhiều đường lối khác nhau, người ta đã khám phá nó lại.
*2. Lời mời gọi truyền giáo.
Như mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã yêu quê hương làng nước của Người (Nadarét, Capharnaum). Người đã khởi đầu sứ vụ tại đó, nhưng Chúa Cha đã gọi Người đi xa hơn. Trong một đoạn ngắn ngủi, Lc cho thấy làm sao Chúa Giêsu đã bỏ Nadarét. Mc kể lại làm sao Người đã rời Capharnaum. Ngày hôm nay, người ta nhấn mạnh nhiều và không phải không có lý do đến nghĩa vụ truyền giáo ngay bên trong những vùng đất được gọi là Kitô giáo từ lâu đời, và cũng nói đến rất nhiều khó khăn mà những người đem Tin mừng đi xa gặp phải, khiến có nguy cơ làm giảm số lượng những nhà truyền giáo phương xa này. Nhưng như vậy là đã bỏ quên một khía cạnh quan yếu của sứ mệnh Hội Thánh. Bài Tin mừng hôm nay nhắc cho ta nhớ khía cạnh đó lại.
*3. Đứng trước bệnh tật và những đau khổ trần gian khác.
Phản ứng của người dân Capharnaum vẫn tiếp tục bày tỏ. Biết bao nhiêu người, hôm nay vẫn còn, chỉ đến xin Chúa Kitô và Giáo Hội giúp đỡ vật chất và họ phê phán Chúa Kitô cùng Giáo Hội chỉ qua thái độ đáp ứng nỗi chờ mong đó. đây là phản ứng một phần bị thúc đẩy bởi khuynh hướng đã có từ lâu trong Giáo Hội là chỉ giới hạn trong sứ vụ thiêng liêng. Nhưng đàng khác cũng là phản ứng muôn thuở có thể khiến người ta đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Trước một sự chờ đợt như vậy, Chúa Giêsu lánh mình đi. Dĩ nhiên Người đã ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ áp bức khống chế (Cv 10,38). Và Người cũng muốn các môn đồ làm như Người, một cách thích nghi hơn cho thời của họ. Nhưng Người không hề để nình bị giam hãm trong cái vòng đó Môn đồ và Giáo Hội Người cũng phải như vậy.
Gilles Gaide, Assemblées du Seigneur 36, tr.39-48.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Bài đọc1: Gióp hay là “đau khổ trong đức tin”. Gióp sống trong đức tin. Có hai điểm ông cho là cốt yếu và phải giữ vững: đó là có một sự đau khổ bất công và Thiên Chúa thì luôn luôn nhân ái và công bình. Ông không hiểu được làm sao có thể dung hòa hai xác quyết tương phản ấy nhưng vẫn giữ vững cả hai. Trước một đau khổ, mọi lối an ủi như: “Chúa nhân từ yêu bạn! Đời sau sẽ đẹp hơn! Bạn chuẩn bị Thiên đàng! Bạn đền thay cho tội nhân!” đôi khi có vẻ thừa thãi. Sự đau khổ không thể thỏa mãn với một lời giải thích giản đơn. Sự đau khổ, nhất là khi xảy đến cho những kẻ vô tội hoặc khi quá sức lớn lao, là một trong những mầu nhiệm lớn của con người. Trước đau khổ, thái độ đích thực chỉ có thể là một đức tin sâu xa. Thiên Chúa đã phán: tư tưởng các ngươi không phải là tư tương của Ta và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Chúa Giêsu không đến trần gian để tiêu diệt hết mọi khổ đau, bệnh tật. Ngay lúc sinh tiền, Người chẳng chữa lành hết mọi bệnh nhân Người gặp, giải quyết hết mọi vấn đề sinh tồn của con người. Người chỉ ra tay cứu giúp một số ít, đặc biệt những ai có lòng tin để cho họ tin vào sứ điệp Người, thấy lòng nhân ái của Thiên Chúa và hy vọng một tương lai trong đó quyền năng của người sẽ dẹp tan mọi đau khổ. Đúng ra Người đến để mang lại cho đau khổ một ý nghĩa đích thực, một công dụng siêu nhiên. “Sự cao cả tuyệt vời của Kitô giáo là ở chỗ nó không tìm một phương dược siêu nhiên để chống lại đau khổ, nhưng là tìm ra một công dụng siêu nhiên cho đau khổ” (Simone Weii). “Từ khi Chúa Kitô đến, chúng ta được giải phóng không phải khỏi việc đau khổ, nhưng là khỏi việc chịu đau khổ cách vô ích” (P.Charles SJ).
Thiên Chúa không dẹp tan đau khổ cho con người đang sống trong thời gian bởi vì đau khổ cần cho con người. Đau khổ là giá của tự do, là trường rèn luyện nhân cách, là động lực tiến bộ xã hội, là dấu chứng minh tình yêu, là phương tiện để giúp ta từ bỏ hầu chọn lựa được Thiên Chúa. Xét một cách tiêu cực, còn đau khổ trong trần gian là vì con ngươi còn thiếu tình yêu đối với anh em, còn đau khổ trong bản thân là vì con người còn bám chặt lấy hay chưa dứt bỏ nổi cái không phải là hạnh phúc đích thực. “Ngàn lần chúc tụng sự đau khổ đã đưa tôi về với Thiên Chúa” (Francois Coppée). “phương pháp làm nhẹ đau khổ của mình là giảm bớt đau khổ của tha nhân” (P.Charles SJ).
Chúa Giêsu không chỉ loan báo Tin mừng, Người còn cụ thể hóa Tin mừng đó bằng các hành vi cho thấy Vương triều Thiên Chúa (mà Người là nhân chứng và là Messia) đang đến. Trong thế giới này, Kitô hữu chúng ta cũng phải là những người kế tục sứ mệnh Chúa Giêsu Kitô. Làm chứng cho Vương triều Thiên Chúa. Sứ mệnh đó sẽ không chỉ nằm trong lời nói, mà còn trong hành động: đức tin chúng ta phải thúc giục chúng ta cụ thể hóa lời rao giảng bằng một hành động tấn công mọi quyền lực của sự ác như Chúa Giêsu. Kitô hữu là người muốn minh chứng Nước Trời đang đến bằng việc tích cực chống lại những gì là xấu xa, bệnh tật, đàn áp, bóc lột, bất công, đau khổ, tội lỗi. Đó là cách duy nhất để làm cho Nước Trời mau đến. Đó cũng là cách duy nhất mà Giáo Hội – dấu chỉ bí tích của Nước Trời gây niềm tin cho thế gian. Phải làm những hành vi có ý nghĩa như Chúa Giêsu đã làm.
Thính giả của Chúa Giêsu rất khó chấp nhận giáo lý phổ quát, đại đồng của Người. Họ vấp phạm, họ thắc mắc khó chịu về tính cách phổ quát ấy. Luôn luôn họ vẫn nghĩ họ là dân riêng duy nhất được ưu đãi, chứ không còn nơi nào khác. Đồng ý là Thiên Chúa tự chọn: Giáo Hội Ngài, nhưng việc chọn lựa đó chỉ là điểm khởi hành để đi đến “nơi khác”. Với Giáo Hội ngày nay, cả với tôi nữa, Chúa Giêsu vẫn còn nhắc: Chúng ta lên đường đi nơi khác”. Lời đó có nghĩa gì cho tôi? Thưa nghĩa là tôi không được bo bo giữ kín Tin mừng để thỏa mãn cho tôi thôi, song phải làm sáng tỏa cho mọi người”.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- A
ĐI GIEO TIN MỪNG- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Đoạn Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi gieo Tin Mừng.
Chỉ dẫn thứ nhất: Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt được Sự Sống.
Chỉ dẫn thứ hai: Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ dẫn thứ ba: Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ dẫn thứ tư: Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
Người môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể lam những việc tốt đẹp, góp phần vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1- Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2- Bạn tha thiết với việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt đẹp?
3- Lời nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống đạo của bạn.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
TÔI CÒN RAO GIẢNG TIN MỪNG Ở NHỮNG NƠI KHÁC– Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Phải chăng đời là bể khổ như nhiều người vẫn than thở. Kinh nghiệm về cuộc đời đã làm nhiều người trở nên bi quan thất vọng. Kinh nghiệm của ông Gióp là kinh nghiệm tiêu biểu của nhiều người trong nhân loại: cuộc đời trôi qua như chiếu thoi đưa, đồng thời có rất nhiều đau khổ và những vất vả khiến cho con người không nhìn thấy ý nghĩa ở đâu, sự đều đặn vô nghĩa cứ lặp đi lặp lại trong những cực nhọc của công việc hằng ngày làm cho ông chán nản thất vọng và chua chát: “Ngày của tôi qua nhanh như chiếc thoi đưa, nó tàn lụi đi mà không mang lại tia hy vọng nào”. Nhưng trong bài đọc thứ hai, chúng ta lại gặp thấy một kinh nghiệm khác của một con người đầy hy vọng và xác tín bởi vì ông là người tin tưởng vào Chúa Giêsu và dùng cuộc đời của mình để rao giảng Tin mừng về Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô là một con người say mê Chúa Kitô. Ông nói về việc rao giảng Tin mừng với tất cả lòng say mê yêu mến: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng. Vì thế, Tin mừng là lý tưởng và công việc của ông. Ông chia sẻ điều thâm tín của mình là vì Tin mừng mà ông tự nguyện trở thành nô lệ cho mọi người để mọi người được nhận lãnh Tin mừng vì chính khi rao giảng Tin mừng thì ông được thông phần vào lợi ích của Tin mừng.
Quả thật, Đức Giêsu Kitô và Tin mừng của người là niềm hy vọng và ý nghĩa của đời sống chúng ta. Đời sống chúng ta trở nên thực sự có ý nghĩa nhờ Chúa Giêsu Kitô và Tin mừng của người. Bài Tin mừng hôm nay mô tả những hoạt động của Đức Giêsu khởi đầu công việc rao giảng. Chính Chúa Giêsu đem lại hy vọng và sức sống cho con người qua những công việc và lời rao giảng của người. Chúng ta được mời gọi, cùng với các thế hệ Kitô hữu nhìn ngắm Chúa Giêsu và những công việc người làm, chúng ta sẽ tìm gặp được hy vọng và ý nghĩa cho đời sống của mình. Những công việc của Chúa Giêsu cứu chữa chúng ta khỏi quyền lực của ma quỉ và tội lỗi đang vây bọc con người trong sự chết. Thánh Máccô tường thuật câu chuyện diễn ra ở nhà của Phêrô trong bầu khí gia đình thân mật, người ta báo cho Chúa Giêsu biết mẹ vợ của Simon đang bị cảm sốt nằm trong giường, người đến cầm tay nâng bà dậy, và bà liền khỏi cảm sốt và đi lại phục vụ tiếp đãi các ngài. Câu chuyện được thuật lại hết sức đơn giản khiến chúng ta dường như không đọc thấy ý nghĩa cứu độ gì trong công việc Chúa Giêsu vừa làm cho bà: bà đang nằm trong giường vì bị cảm sốt, người cầm tay đỡ bà dậy, và bà đứng dậy đi lại phục vụ các ngài. Không có khía cạnh kỳ diệu nào cả. Thực ra, để hiểu tầm vóc của phép lạ này, chúng ta cần hiểu rằng đối với người xưa, bệnh tật được xem là dấu chỉ của tội lỗi. Hơn nữa, vào thời Chúa Giêsu, người ta còn qui cho ma quỉ là nguyện nhân của cơn bệnh cảm sốt này. Vì thế, khi tác giả Máccô tường thuật lại câu chuyện này, ông muốn nói rằng Chúa Giêsu có quyền năng chiến thắng những sức mạnh của sự dữ và sự chết và người là Đấng Cứu thế hiện diện và thực hiện những dấu chỉ biểu lộ Nước Thiên Chúa đang đến.
Câu chuyện còn tường thuật sau đó dân chúng kéo đến với người tại nhà của Phêrô vào lúc mặt trời lặn với nhiều người bệnh tật và bị quỉ ám, ngay cả nói đến cả thành Capharnaum và người chữa mọi thứ bệnh tật và xua trừ ma quỉ. Dân chúng nhận thấy người đã làm được những điều lạ lùng và người ta tuôn đến với người. Phần Chúa Giêsu, người chữa lành mọi bệnh tật trong dân chúng và xua trừ ma quỉ. Thế nhưng, người ngăn cấm không cho ma quỉ nói người là ai. Thái độ của Chúa Giêsu có phần khó hiểu. Tại sao người không muốn ma quỉ nói người là ai. Điều chúng ta tạm có thể nhận thấy là Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chữa lành mọi người bệnh, đồng thời người cũng quan tâm rao giảng Tin mừng cho mọi người, người không chỉ là một thầy thuốc chữa bệnh cao tay và dân chúng chỉ đến để được chữa lành bệnh tật rồi thôi. Các việc chữa lành của người làm là những dấu chỉ của Tin mừng nước Trời mà người rao giảng. Vì thế, Người muốn rằng khi mọi người đón nhận được việc chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ, người ta hãy đón nhận Tin mừng Nước Trời. Đón nhận được việc chữa lành bệnh tật chỉ là bước đầu, còn phải tiến đến bước quyết định thứ hai là tin vào Người và đón nhận Tin mừng với sức mạnh chữa lành của Nước Trời đang hiện diện.
Bài Tin mừng còn tường thuật ngày hôm sau, từ tờ mờ sáng, người đã trỗi dậy và đi đến nơi hoang địa để cầu nguyện. Simon và các môn đệ đi tìm người và báo cho người biết dân chúng lại đi tìm người như ngày hôm trước, nhưng Chúa Giêsu nói với các ông: “chúng ta hãy đi nơi khác, đến những làng lân cận để ta còn rao giảng Tin mừng ở những nơi đó”. Có lẽ Simon và các môn đệ chưa cảm thấy tính chất hàm hồ của thái độ tìm kiếm Chúa Giêsu của dân chúng. Dân chúng say mê tìm kiếm người không phải vì lời Tin mừng người rao giảng mà là vì được chữa lành. Thái độ xôn xao vì phép lạ của dân chúng có thể dẫn đến những hệ lụy nguy hiểm về an ninh chính trị. Chúa Giêsu đã nhạy bén cảm nghiệm điều này và nhắc nhở các môn đệ tránh mọi giải thích sai lầm về vai trò của người. Vì thế người nhắc các ông phải đi nơi khác. Chúa Giêsu đã chọn thái độ của một người rao giảng lưu động rày đây mai đó. Người không muốn dừng lại cố định ở một nơi nào và nhất là không phải chỉ là người chữa lành các bệnh tật mà người còn phải rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người để cho những ai tin thì đón nhận được Nước Trời người ban tặng. Thái độ của Chúa Giêsu rất dứt khoát và rõ ràng. Vì thế mà bài Tin mừng viết rằng sau đó người đi khắp miền Galilê để rao giảng. Thành Capharnaum là nơi rao giảng ban đầu hay là điểm tựa của việc rao giảng, người còn đi những nơi khác nữa để rao giảng Tin mừng, thực hiện một sứ vụ lưu hành không cố định ở một nơi nào nhưng là đến khắp nơi trong miền Galilê là tỉnh phía bắc của xứ Palestine là nơi biên giới không xác định rõ, tiếp giáp với những xứ dân ngoại chung quanh. Đây là một nơi thực lý tưởng cho công việc rao giảng Nước Thiên Chúa khai mở tới mọi người.
Trái với những tâm tình bi lụy của Gióp, Chúa Giêsu không bao giờ đánh mất định hướng quan trọng của cuộc đời và sứ vụ của mình. Người xác định là đến để rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Sứ vụ của người nhằm giúp cho mọi người biết vượt lên trên những lo lắng tức thời của đời sống hằng ngày để đón nhận Sự Sống sung mãn hơn là Nước Trời mà người đến để ban tặng. Phép lạ chữa lành chỉ là dấu chỉ để kêu gọi dân chúng biết khởi đầu tương quan mới mẻ với Thiên Chúa. Như dân chúng trong những tường thuật Tin mừng đến với Chúa Giêsu để được chữa lành, chúng ta cũng đến với người để được chữa lành khỏi mọi bệnh tật. Nhưng quan trọng hơn nữa, chúng ta còn được mời gọi vượt lên trên những nhu cầu thông thường để đón nhận những gì mà Chúa Giêsu thực sự ban tặng là Nước Trời và ơn cứu độ. Lời chữa lành và cứu độ của Chúa Giêsu vẫn vang lên mời gọi, nhưng lời này không nhứt thiết làm cho chúng ta ngay tức khắc hết mọi thứ đau khổ hay buồn phiền. Cuộc đời con người, như cảm nghiệm của Gióp, vẫn đầy những đau khổ và chán nản thất vọng, dầu vậy, đời sống mới và hy vọng của Tin mừng Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang tới cho chúng ta bảo đảm ban tặng cho chúng ta sức mạnh để đón nhận những đau khổ của đời người cách vững vàng xác tín. Chúa Giêsu vẫn luôn xác định với chúng ta là thập giá là phần mà mỗi người sẽ phải vác trong cuộc đời của mình, thế nhưng từ nay, thập giá sẽ được biến đổi cách diệu kỳ để trở nên con đường dẫn tới sự sống mới vô tận cùng với Thiên Chúa trong hạnh phúc Nước Trời.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN-B
GIẢI PHÓNG ĐAU KHỔ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ dịch… Là chuỗi ngày làm thuê… Số phận tôi là những đêm đau khổ… ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”.
Lời than thở đó diễn tả đủ loại đau khổ chồng chất trên đời người: Đau khổ thể chất thì ít, đau khổ tinh thần thì quá nhiều.
Cuộc sống thể chất là “một khổ dịch”. Khổ dịch vì bao nhiêu công việc nặng nhọc. Con người sống như nô lệ, không còn thời giờ hóng mát. Mệt mỏi về làm lụng, mệt mỏi về ăn uống, mệt mỏi về chơi bời giải trí! Còn biết bao nhiêu khổ dịch của bệnh tật, già cỗi, nghèo đói, loạn lạc, chiến tranh, thiên tai luôn vùi dập con người.
Đau khổ thể chất còn đổ lỗi cho trời đất. Những đau khổ tinh thần ghê sợ gấp bội, lại do chính con người gây ra. Đó là những đau khổ tâm lý, đau khổ đạo đức, đau khổ siêu hình (siêu nhiên).
Đau khổ tâm lý là những mặc cảm về “cuộc sống chỉ là chuỗi ngày làm thuê”, mặc cảm về thân phận hèn hạ tôi đòi, ở đậu. Không đâu là nhà, luôn luôn bị trôi dạt, bị chao đảo, bị o ép, nên dễ bất mãn, chống đối người khác, chống đối xã hội, chống đối Thiên Chúa, cuộc sống đầy những tâm trạng nổi loạn, ghen ghét, hận thù, phản bội, chứng tỏ một tâm lý ấu trĩ, tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, tự chủ, cái đau khổ của Ađam Evà thân phận bùn đất nhưng lại muốn bằng Thiên Chúa, thân phận là con ếch dưới đáy giếng lại đòi bằng con bò để căng da phình bụng nổ tan bành mà chết, như trong ngụ ngôn của Lafontaine. Chừng nào ta thấy được vinh phúc Thiên Chúa đã ban cho mình từ bùn đất nên con người và từ con người nên con Thiên Chúa, ta mới được hạnh phúc thật.
Đau khổ đạo đức: “Ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”. Con người bối rối âu lo, bị ray rứt về những dục vọng đen tối. Những đam mê sai trái, những dằn vặt ấy đã làm thánh Phaolô phải kêu lên: “Điều tôi không muốn, tôi lại làm!”. Bao nhiêu thiếu sót, bê trễ bổn phận cũng là những tác nhân gây ra đau khổ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. “Nỗi ray rứt hàng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2Cr. 11, 28). Sau cùng, thứ đau khổ cùng cực nhất của con người là thấy “số phận của tôi là những đêm tối đau khổ”, đêm tối là số phận tôi, không ánh sáng, không tương lai, không hy vọng. Tất cả gia tài, sự nghiệp ky cóp, bon chen, giành giựt, chèn ép, chạy chọt như con thoi, đều tan ra như mây khói: “Đời con chỉ là một hơi thở”, một cái thở hắt ra là chấm dứt cuộc đời, con người câm lặng nhắm mắt lìa đời. Thật ghê sợ, rợn rùng “Mắt con sẽ không được thấy hạnh phúc bao giờ”. Đó là thứ đau khổ siêu hình, thứ đau khổ về hư vô. Thứ đau khổ mất niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống, mất hy vọng vào Đấng Cứu Độ đời đời.
Ai ai có thể cứu chữa tôi thoát khỏi những thứ đau khổ này? Tất cả nhân loại đều bó tay, chỉ còn có Đức Giêsu thôi. Chính vì để giải phóng đau khổ này, Đức Giêsu đã đến trần gian. Người đến để chữa lành đau khổ thể xác và tinh thần. Cụ thể, hôm nay, Đức Giêsu đến nhà hai ông Simon và Anrê. Họ liền nói cho Người biết bà nhạc mẫu của ông Simon đang đau liệt. Đức Giêsu đến gần, cầm tay nâng bà dậy. Bà liền hết sốt. Một cử chỉ thân tình xoa dịu mọi lo âu thống khổ của gia đình. Người đến làm cho cảnh gia đình sầu khổ được sống lại hân hoan.
Cơm chiều đã dọn sẵn, chỉ vài món ăn thanh đạm, nhưng vị thượng khách chẳng kể chi. Cùng ngồi quây quần với mọi người, Người thanh thoát niềm nở kể chuyện. Câu chuyện trong sáng, giản dị. Mọi người đón nghe Tin mừng chan chứa niềm vui và hy vọng vào tương lai vinh phúc bất diệt của con người. Mọi xao xuyến, sầu khổ biến tan. Những nụ cười tươi nở, những ánh mắt sáng lên. Họ nhìn Người xiết bao trìu mến và đầy tin tưởng. Hoàng hôn buông xuống, chấm dứt ngày nghỉ lễ Sabbat, cả thành ùn ùn kéo đến nhà ông Simon. Ông mở rộng cửa, dọn dẹp sân vườn đón tiếp bà con xa gần. Simon mở cửa nhà càng rộng, Đức Giêsu càng giang rộng đôi cánh tay âu yếm, thương mến đón tiếp mọi hạng người: nghèo hèn, sang giàu, đau khổ, bệnh tật, đủ loại quỷ ám và tội lỗi. Nhà Simon thành đại gia đình tình thương của Chúa. Suốt tối hôm đó, Người chữa lành mọi vết thương tâm hồn và thể xác. Người luôn tay chúc phúc cho tất cả toàn dân. Trời về đêm cũng không cản nổi giòng thác người sầu khổ tuôn đến với Người. Người không biết mệt, tay vẫn giơ lên chạm đến từng người, miệng luôn đọc lời chúc lành bình an. Trái tim Người rung động cảm thương dân chúng vô biên, không gì có thể làm tê liệt được, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Người coi bệnh hoạn của chúng ta như của riêng Người. Người mang hết mọi tai ương của chúng ta” (53, 4).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gánh lấy mọi khổ dịch của loài người và đưa Tin mừng nước Trời cho khắp mọi nơi, từ thánh đường đến gia đình, từ thành phố đến mọi nẻo đường xã ấp. Xin cho muôn dân mau mau đến xum họp chung quanh Chúa đoàn tụ thành đại gia đình tình thương vinh phúc của Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
SỐNG HẾT MÌNH VÌ MỌI NGƯỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân loại, Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
“Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.” (Dt 10, 4-7)
Sở thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
“Ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta” (Ga 6, 38)
Người coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người. Người nói với các môn đệ: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Người” (Ga 4, 34)
Người quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ hôi máu:
“Abba, lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.” (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình vì nhân loại là anh em của Người.
Tin Mừng Máccô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những lầm than khốn khổ của kiếp người:
“Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.”
Và khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế nên “Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
* * *
Người đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
* * *
Là một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân, không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử#cũng không sống cho mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể con người đều như thế cả.
Nếu một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi# không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN-B
GIÊSU, CON NGƯỜI VÀ HÀNH ĐỘNG- Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Với Kitô hữu, Đức Giêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là trung gian giữa con người và Thiên Chúa, Ngài là đường dẫn con người tới với Thiên Chúa, và Ngài cũng chính là sự sống. Trong cuộc sống bình thường của Ngài, hàm chứa sự sống vĩnh cửu mà mỗi Kitô hữu được mời gọi để nhận ra mầm sống vĩnh cửu nơi cuộc đời mình.
1) Đức Giêsu giảng dạy nơi hội đường Do Thái
Đức Giêsu giảng dạy ở bất cứ đâu: ở hội đường (Mc. 1, 21), tại tư gia (Mc. 2, 2), ngoài bờ biển (Mc.2, 13). Đức Giêsu rao giảng ở bất cứ chỗ nào Ngài có thể rao giảng được. Có thể nói, nghề của Đức Giêsu là rao giảng (Mc. 1, 38).
Đức Giêsu giảng gì? Đâu là nội dung điều Đức Giêsu rao giảng? Đức Giêsu rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa là ai. Ngài là Đấng yêu thương mọi người, và mời gọi người ta tin tưởng phó thác cuộc đời họ cho Thiên Chúa tình yêu (Mt. 6, 25tt). Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên mọi người hãy yêu thương nhau (Mt. 5, 43-48). Hãy trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng trọn lành (Mt. 5, 48).
Nếu chỉ căn cứ vào Tin Mừng, chúng ta thấy những điều Đức Giêsu rao giảng không nhiều lắm. Có thể vì các tông đồ không có tài nhớ, nên không kể lại được nhiều; nhưng cũng có thể chỉ vì nội dung Đức Giêsu rao giảng cũng đơn sơ, vì điều quan trọng thì không nhiều. Biết là điều rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn lại là sống điều mình biết. Một khi người ta biết Thiên Chúa là ai một cách chân thực, người ta sẽ sống trong an bình và hạnh phúc hơn.
2) Người ta tuôn tới với Đức Giêsu để được chữa lành
Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng tuốn tới với Đức Giêsu để được Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật. Có lẽ với dân chúng, nghe rao giảng cũng là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là những gì thật cụ thể và liên hệ đến chính bản thân con người. Đức Giêsu cũng hành xử một cách rất “người”. Làm được gì, Ngài làm cho con người. Một cách cụ thể, Ngài thương cảm và chữa lành tật bệnh của những người tin vào Ngài, đến với Ngài.
Bệnh tật, là cái gì rất tự nhiên và tuân theo luật lệ thiên nhiên. Những gì thuộc vật chất hữu hình đều biến đổi với thời gian, có trẻ có già, có sinh có tử. Đây là ý định của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu chữa lành bệnh tật, là Ngài diễn tả lòng thương cảm của Ngài đối với con người. Hơn nữa, khi chữa lành bệnh tật, Ngài mặc khải cho con người chân tướng của Ngài. Một thầy thuốc chữa lành người khác, là người biết vận dụng những dược chất nơi những cây cỏ để chữa trị bệnh tật; còn Đức Giêsu Ngài chỉ dùng lời, nghĩa là, Ngài dùng quyền năng được ban cho Ngài hoặc chính Ngài có.
Bệnh tật cũng là yếu tố giúp con người tới gần Thiên Chúa hơn; bệnh tật cũng là cơ hội để giúp con người nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm và săn sóc con người. Trong nhãn quan của những người thuộc về Thiên Chúa, bệnh tật hay sức khỏe không có giá trị tuyệt đối, nên mỗi người hãy bình tâm với bệnh tật. Điều quan trọng là, qua sức khỏe hay bệnh tật, con người vẫn nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người.
3) Đức Giêsu cầu nguyện
Cuộc sống của Đức Giêsu dường như bị chi phối đặc biệt bởi tình yêu đối với con người. Vì lợi ích của con người, Ngài rao giảng về Thiên Chúa cho dân chúng. Đứng trước nỗi khổ của dân, Ngài chữa lành bệnh tật cho họ, như một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương dân Người. Nhưng chỉ như vậy thôi chưa đủ, Ngài đi tới nơi hoang vắng cầu nguyện từ sáng sớm (Mc.1, 35).
Hội Thánh dạy Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa; thế nhưng, chúng ta phải hiểu đúng giáo huấn của Hội Thánh. Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu là một Đấng khác với Thiên Chúa qua việc Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa. Đức Giêsu là một với Thiên Chúa, nhưng lại là Đấng khác với Thiên Chúa. Cái khác ở đây các nhà thần học dùng từ ngữ “ngôi vị” để diễn tả. Đức Giêsu không bao giờ LÀ Chúa Cha. Đức Giêsu là Ngôi Hai, hay Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng ở đây chữ ngôi vị khác với chữ “ngôi vị, bản vị” (person) được dùng cho con người. Tôi và bạn, chúng ta là hai ngôi vị độc lập và tách biệt tuy dù chúng ta cùng một bản tính con người; nhưng điều này không đúng khi nói về Đức Giêsu- “ngôi hai” Thiên Chúa và Thiên Chúa Ngôi Cha. Nếu chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai ngôi vị, tương tự như tôi và bạn là hai ngôi vị độc lập nhưng cùng một bản tính (một đàng là bản tính người, và một đàng là bản tính Thiên Chúa) thì lúc đó chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai chúa khác nhau; điều này không đúng giáo huấn của Giáo Hội. Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là hai ngôi vị, nhưng cả hai không chỉ là cùng bản tính Thiên Chúa mà Đức Giêsu còn tùy thuộc Thiên Chúa đến độ không thể nói là hai Chúa, mà phải nói là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, chỉ có một hiện hữu Thiên Chúa duy nhất. Điều này Giáo Hội diễn tả bằng từ ngữ “không có ngôi nào có trước ngôi nào tuy dù Chúa Cha sinh Chúa Con, không có ngôi nào hơn kém ngôi nào.” Đây là những từ ngữ để diễn tả về mầu nhiệm Giêsu, con người vô cùng đặc biệt mà dường như không từ ngữ nào diễn tả hoàn toàn được. Hội Thánh cũng cố gắng diễn tả hết sức mình, để các tín hữu hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô thôi.
Đức Giêsu cần cầu nguyện, vì dường như cầu nguyện làm Ngài là Ngài hơn, giúp Ngài kết hợp với Thiên Chúa hơn, làm Ngài triển nở và trọn vẹn hơn. Cầu nguyện diễn tả Ngài là một với Thiên Chúa tuy dù lúc nào Ngài cũng kết hợp với Thiên Chúa. Cầu nguyện diễn tả Ngài tùy thuộc hoàn toàn Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa muốn gì Ngài sẽ thực hiện như vậy. Qua cầu nguyện, Ngài là Ngài, Ngài triển nở và hạnh phúc. Chính khi Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa hoàn toàn, cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta được được nên giống Đức Giêsu hơn, làm một với Thiên Chúa hơn, trở nên con của Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1)- Theo bạn, cầu nguyện có được lợi ích gì không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa hoặc những lợi ích bạn được qua việc cầu nguyện.
2)-Có điểm nào cuộc sống của bạn giống cuộc sống của Đức Giêsu? Đức Giêsu và bạn, giống nhau và khác nhau ở những điểm nào?
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
RAO GIẢNG VÀ CHỮA LÀNH- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng Đức Giêsu coi việc chữa lành các người bệnh tật ốm đau chỉ là công tác phụ, trong khi sứ mệnh chính của Người là rao giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Lý thuyết là như thế, nhưng đứng về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần đa họ tìm đến với Người trước hết để được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền. “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa lành mà dân chúng tin vào lời Người giảng dạy; ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ (c.22).
Hình như hơn ai hết chính Đức Giêsu đã ý thức rất rõ điều này: không lời giảng dạy nào về một Thiên Chúa nhân ái từ bi đối với một nhân loại đau khổ lại hữu hiệu và hùng hồn cho bằng khi nhân danh Người mà rộng tay chữa lành các thương đau phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn. Ngay cả đối với các môn đệ mới chiêu mộ, Đức Giêsu cũng đã hoàn toàn chủ động trong việc này; do đó Người đã chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù không ai yêu cầu. Phải chăng đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo cách nói của Gio-an sau phép lạ nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 1:8)? Khi dài dòng thuật lại rất nhiều phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, chắc hẳn tác giả Mác-cô muốn tô đậm nơi Người nét ông thầy thuốc tốt lành tới chữa lành bệnh nhân tật nguyền; Người ‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; và hình như đó cũng chính là hình ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu mình: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2:17).
Như vậy đối với Đức Giêsu, rao giảng và chữa bệnh không phải là hai công việc tách rời nhau. Bởi nếu nội dung cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng chính là ‘Thiên Chúa nhân ái quan tâm đến số phận của con người yếu hèn trong cả lãnh vực thể lý lẫn tinh thần’ thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và sắc bén nhất sẽ phải là ‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘sua trừ ma quỉ’. Đức Giêsu hẳn có ý nói điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn ghi nhận thêm: ‘Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ’ (nên lưu ý là người Do Thái thời Đức Giêsu cho rằng mọi bệnh tật đều do ma quỉ mà ra). Qua các việc chữa lành này Người chỉ muốn cho mọi người được biết: Thiên Chúa từ nhân đã đến với họ, đang thật sự ở giữa họ, đang đồng hành với họ, cảm thông nỗi thống khổ yếu đuối của họ, và tích cực can thiệp theo cách thức của riêng Người.
Suy niệm trên xem ra chẳng có gì là quan trọng cho lắm, tuy nhiên nó sẽ giúp ta tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải khi cho rằng Tin Mừng hệ tại ở việc lãnh hội các tín điều cao siêu (điển hình các công thức tuyên tín phức tạp chứa đựng trong Kinh Tin Kính Ni-cê chẳng hạn…); và cho rằng làm bác ái chỉ là việc phụ, tiểu tiết tùy nghi theo khả năng mỗi người, có mục đích duy nhất làm gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo phần rỗi linh hồn; rồi khi đọc Phúc Âm sẽ cho rằng việc Đức Giêsu làm các phép lạ chẳng qua là để chứng tỏ quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời Người giảng dạy…; rằng những học thuyết cao siêu gồm các qui định luân lý và giới luật tân kỳ mới thật là điều Người xuống thế để dạy dỗ. Suy niệm trên hơn bao giờ hết giúp tôi nhận ra Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy thuyết phục: ‘Đức Giêsu – Lời’ đến trần gian để tuyên bố sứ điệp tình yêu của ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…’ và tình yêu đó cũng thật cụ thể: ‘Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ’ (Ga 3:16.17). Thế đấy, toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu chỉ là một ‘Lời tình yêu cứu độ’, Lời trong sứ điệp, Lời trong hành động, Lời trong các phép lạ, thậm chí Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá và Lời trong sự Phục Sinh chứa chan niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ nội dung duy nhất của sứ vụ Đức Giêsu trên trần gian chính là để quảng bá và thể hiện mọi nơi mọi chốn một ‘Thiên Chúa yêu mến thế gian’ bằng trọn cả con người Ngài.
Vì là một tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi nhiều lần đã áp dụng cho Đức Giêsu câu nói mà chúng tôi vẫn thường dùng để nói về Don Bosco: “Người không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà không phải vì…phần rỗi giới trẻ!” Ở đây phải là, trong Tin Mừng ‘Đức Giêsu đã không hề đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì mà không phải vì… muốn chứng tỏ và thể hiện rằng Thiên Chúa yêu mến trần gian cách tuyệt đối tới độ…!’
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho Tin Mừng tình yêu nhân ái được thể hiện và nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng xã chung quanh nữa’. Con, một linh mục của Chúa, ước mong rằng: mình sẽ không chỉ giảng dạy sứ điệp Tin Mừng này bằng lời nói suông, nhưng phải bằng cả thái độ sống và hành động. Xin cho con biết rao giảng Lời Chúa qua các dấn thận phục vụ quảng đại, mọi nơi và cho hết thảy mọi người. Amen.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
LAO ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Trong mùa Thường niên, Giáo hội không cử hành bất cứ mầu nhiệm nào của Chúa Giêsu, nhưng mỗi Chúa nhật Giáo hội trình bày cho chúng ta một lý tưởng sống và một bài giáo lý mà Chúa muốn dạy chúng ta.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay, kể lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu tại Capharnaum. Có thể nói đây là một ngày sống lý tưởng. Chúng ta thấy mặc dù Chúa Giêsu bận rộn với bao công việc, thế nhưng Ngài vẫn dành giờ ưu tiên sống liên kết với Thiên Chúa Cha.
Khi sống giữa nhân loại, một trong những gương sáng mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta đó là đời sống cầu nguyện. Ngài cầu nguyện với thánh Giuse và Đức Mẹ trong thời gian âm thầm tại Nazareth.
Bước vào đời sống công khai, Ngài cầu nguyện nơi bờ sông Giođan khi lãnh nhận phép rửa. Ngài ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày trong hoang địa. Ngài cầu nguyện suốt đêm trước khi tuyển chọn các môn đệ. Ngài cầu nguyện sáng sớm tinh sương hay chiều tối trên núi một mình.
Ngài cầu nguyện trong đêm Tiệc Ly trước khi bước vào cuộc thương khó. Ngài cầu nguyện trong vườn Giếtsêmani, và khi sắp tắt thở trên Thánh giá Ngài vẫn cầu nguyện. Chính nhờ đời sống cầu nguyện gắn bó mật thiết với Thiên Chúa Cha, Ngài mới chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa Cha trao phó. Sự khác biệt giữa Chúa Giêsu với một người làm công tác xã hội chính là đời sống cầu nguyện. Chúa Giêsu cầu nguyện để biết điều Chúa Cha muốn và làm theo ý Chúa Cha soi dẫn.
Tin mừng hôm nay ghi lại ngay từ sáng sớm tinh sương, Chúa Giêsu đi đến nơi thanh vắng để cầu nguyện. Cầu nguyện là việc làm đầu tiên cho một ngày mới của Chúa, rồi sau đó mới đi rao giảng Tin mừng và chữa lành bệnh nhân.
Khi đến với nhân loại, chẳng những Chúa Giêsu là hiện thân của khuôn mặt Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót, nhưng còn dạy cho chúng ta biết rằng: sự sống đích thực của con người chính là sống gắn bó với Thiên Chúa và lao động là để góp phần xây dựng thế giới này nên tốt đẹp hơn.
Ở đây, chúng ta thấy tấm lòng mục tử Giêsu làm việc không biết mệt mỏi. Ra khỏi Hội đường, công việc tiếp theo là đi thăm viếng và chữa lành cho nhiều bệnh nhân khác nhau. Bình thường Chúa chỉ phán một lời thì bệnh nhân được khỏi, nhưng ở đây Chúa đi đến tận nơi gặp gỡ và còn cúi xuống nắm tay nâng đỡ bệnh nhân nữa.
Nhìn vào thái độ sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy: Thiên Chúa gần gủi với con người. Ngài đến chẳng những làm gương sáng cho chúng ta sống sao cho có tình người, nhưng còn thể hiện Thiên Chúa yêu thương con người nữa. Qua đó, Chúa dạy chúng ta bài học ngoài việc cầu nguyện cho nhau, chúng ta còn phải hi sinh thời giờ đi thăm viếng và nâng đỡ nhau bằng những hành động khi có thể.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa dạy: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”. Có nghĩa là sáng sớm khởi đầu cho một ngày mới, chúng ta noi gương Chúa lo việc phần hồn trước đã, đó là đọc kinh cầu nguyện, đi tham dự Thánh lễ…..
Bởi vì Chúa khẳng định: ” Không có ơn Ta, các con không thể làm gì được”. Đành rằng, chúng ta làm được nhiều việc chứ! nhưng làm để có giá trị vĩnh cửu đời sau, thì nhất thiết phải có ơn Chúa giúp, mà để có ơn Chúa thì phải có đời sống cầu nguyện sống gắn bó với Chúa, như cành nho liên kết với thân nho.
Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta đời sống lao động và cầu nguyện. Lao động mà không cầu nguyện đời sống sẽ vô nghĩa, chẳng khác nào như cái máy vô hồn; Ngược lại, cầu nguyện mà không lao động sẽ làm cho con người thiếu quân bình trong đời sống.
Cuộc sống ngày nay, có khi vì cơm áo gạo tiền, thị trường cạnh tranh mà nhiều người tham công tiếc việc, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa nhật.
Chính vì không biết dung hòa giữa lao động và cầu nguyện, cho nên có những người khi đến tham dự Thánh Lễ xem ra rất ư là mệt mỏi, chưa kể đến lo ra chia trí khi ít khi nhiều khi nào cũng có. Thân xác thì ngồi trong nhà thờ, nhưng lòng trí thì còn bận tâm lo lắng ở việc gì đâu đó.
Xin Chúa thêm ơn giúp sức cho chúng ta biết sống hài hoà giữa lao động và cầu nguyện. Nhờ cầu nguyện chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa và thi hành điều Chúa dạy. Đồng thời, nhờ lao động chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Chúa, làm cho thế giới này nên tốt đẹp hơn. Amen.
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN- B
ĐỨC GIÊSU, THẦY THUỐC CỦA TÂM HỒN- Lm. Giuse Phạm Quốc Phong SBD
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung một vị Thầy thuốc tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những người bệnh đến với Ngài. Chúng ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái, bệnh tật được gắn liền với tội lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin rằng bệnh tật là một hình phạt từ Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi. Những người bệnh tật bị cộng đồng loại trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ, miệt thị. Chính vì vậy, mỗi khi Chúa Giêsu chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng “Tội của con đã được tha” hay “Đức tin của con đã cứu con”. Chúa Giêsu không chỉ là bác sĩ thể lý, mà quan trọng hơn, Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa hết những vết thương tâm hồn, đưa họ trở lại với nhân phẩm của con người, đưa họ trở lại với vai trò làm con của Thiên Chúa, và ban cho họ niềm vui – bình an – hi vọng để họ sống và sống dồi dào. Người được Chúa Giêsu chữa lành, có khả năng hoán cải, và trở thành nhân chứng cho Ngài.
Những ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa bệnh với những cách thức và phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa lành là rất lớn, vì y học hiện nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời đại ngày nay, có những căn bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức, bệnh về ý thức hệ, … là hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống thiên về hưởng thụ, ích kỷ, cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa tới chúng ta, nhất là giới trẻ.
Ở đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là tình trạng tự tử của giới trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO), trên toàn thế giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này là 1 triệu người, số người có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại Trung Quốc có tới 250.000 người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật mỗi năm có khoảng trên 30.000 người tự tử, …
Một căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý tưởng” hay lý tưởng sống quá thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo hàng loạt các căn bệnh khác, gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường đạo lý của người việt, làm sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và ích kỷ, lấy vật chất làm nền tảng cho suy nghĩ và hành động.
Đây là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì để tìm ra thuốc ngừa và thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của thế giới, Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra phương cách chữa chị và phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều kiện, với cung cách của một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất cả chúng ta, là những người ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những người tội lỗi […] chỉ người bệnh mới cần thầy thuốc”. Mỗi người chúng ta cũng nên tự hỏi rằng: “Chúa Giêsu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay “Tôi là một giáo lý viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành, hay tôi là một linh mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng “Tôi rất là ok, cuộc sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có bệnh gì!!!
Chúa Giêsu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý thức mình tội lỗi, bị bệnh và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy chúng ta đến “gặp gỡ” Ngài. Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”, thì cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trở nên rất khó khăn: “Lạy Chúa con cảm ơn Chúa vì con là người công chính … không như cái thằng thu thuế bên kia”.
Chúng ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì chúng ta là những người thánh thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng của Thiên Chúa, nhưng chúng ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội nhân được tha thứ” một cách vô điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách “miễn phí” kho tàng Bình An – Hi Vọng, kho tàng Sự Sống – Ơn Cứu Độ từ Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng phải ra đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách “miễn phí”, như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7), con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong các Bí Tích và trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).