CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
PHÚC THAY ANH EM… (*)– Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 6
ĐỂ ĐƯỢC NÊN THÁNH VÀ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI SAU NÀY- Lm. Đan Vinh 28
GIẶT ÁO MÌNH TRONG MÁU CON CHIÊN (*)- ĐGM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm 34
HÃY NÊN THÁNH TRONG TẤT CẢ HẠNH KIỂN- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 46
NIOI GƯƠNG CÁC THÁNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 51
NIỀM HI VỌNG HẠNH PHÚC– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 58
CÁC THANH NAM NỮ LÀ NHỮNG CON NGƯỜI- Lm. Giuse Maria Nhân Tài,CSJP 62
PHÚC THAY AI HIỀN LÀNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 66
HƯỚNG LÊN TRỜI CAO- Lm. Nguyễn Lam Thy. 70
BÀI GIẢNG TRÊN NÚI: HẠNH PHÚC THẬT- Lm. Vũ Xuân Hạnh. 73
CÁC THÁNH TRÊN THIÊN ĐÀNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 75
PHÚC THAY…- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc. 86
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được,họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: “Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta”. Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”.
Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: “Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen”. Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: “Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?” Tôi đáp lại rằng: “Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ”. Và người bảo tôi rằng: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Đáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a) .
1). Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi.
2).Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện? Đó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá.
3). Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa, Đấng giải thoát họ. Đấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp.
BÀI ĐỌC II: 1 Ga 3, 1-3
“Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Đấng Thánh. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mc 11, 28
-Chúa phán: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 5, 1-12a
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. – Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp. – Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. – Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. – Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. – Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. – Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. – Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
“Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời”. Đó là lời Chúa.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
PHÚC THAY ANH EM… (*)– Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào ngày đại lễ Chư Thánh, Giáo Hội công bố đức tin của mình vào cuộc sống mai sau. Giáo Hội ca ngợi đoàn người đông đảo không tài nào đếm được, họ vui hưởng cuộc sống chan hòa bình an và ngập tràn ánh sáng bên cạnh Thiên Chúa. Đối với những ai đang lữ hành trên trần thế nầy, Giáo Hội đề nghị “các mối phúc thật” như chính lộ dẫn họ về cuộc sống đời đời. Ngày lễ Chư Thánh là ngày đại lễ của niềm hy vọng.
Kh 7: 2-4, 9-14:
Bài Đọc I, được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan, miêu tả một đoàn người không kể siết cử hành phụng vụ hùng vĩ tràn đầy niềm vui và tạ ơn trước ngai Thiên Chúa.
1Ga 3: 1-3:
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở vận mệnh của người Ki-tô hữu: trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, họ được mời gọi nên đồng hình đồng dạng với Con Một của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, và vì thế, được dự phần vào vinh quang của Ngài.
Mt 5: 1-12:
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su công bố “các mối phúc thật”, bản Hiến Chương Nước Trời.
BÀI ĐỌC I (Kh 7: 2-4, 9-14)
Bài Đọc I được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan miêu tả một đoàn người đông đúc khôn kể xiết vui hưởng nhan thánh Chúa và niềm hoan lạc thiên quốc. Lễ Các Thánh Nam Nữ được mừng trước Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời, cả hai hình thành nên bộ đôi diễn tả niềm hy vọng của mọi người tín hữu.
Nhà thị kiến sách Khải Huyền diễn tả những xuất thần của mình bằng thể loại văn chương khải huyền. Thể loại văn chương nầy đã được tác giả sách Đa-ni-en khai mạc vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Tác giả này nhận nguồn cảm hứng từ các vị tiền nhiệm của mình, đặc biệt từ các thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Tuy nhiên, các sách khải huyền của thế kỷ thứ hai và thứ nhất trước Công Nguyên (thể loại nầy nở rộ) và sách Khải Huyền của thánh Gioan sau Công Nguyên vừa giống nhưng vừa khác. Cái khác biệt cơ bản đó là, kỷ nguyên Mê-si-a đã được loan báo nay đã xảy ra. Thời Mê-si-a đã đi vào trong Lịch Sử; từ đây, kỷ nguyên Mê-si-a soi sáng kỷ nguyên cánh chung. Trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, một dung mạo nổi bật: dung mạo Con Chiên, hình ảnh của Đức Kitô. Con Chiên vẫn mang những vết thương hy tế của mình, nhưng là Con Chiên khải hoàn. Như vậy, những viễn cảnh khai mở niềm hy vọng không còn là những giả sử: mọi lời hứa đã được thực hiện.
Sách Đa-ni-en được viết vào thời kỳ bách hại của vua An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê, vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, để an ủi dân Do thái trong gian nan thử thách. Cũng vậy, sách Khải Huyền của thánh Gioan được biên soạn vào thời kỳ bách hại của hoàng đế Rô-ma, Domitien, cuối thế kỷ thứ nhất (91-96), vài phần có thể được đặt vào niên biểu của cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Nê-ron (64-68). Sách này cũng nhằm mục đích tương tự: gởi đến cho các Ki-tô hữu sứ điệp chứa chan hy vọng, để cho họ thoáng thấy niềm hoan lạc thiên quốc, vì niềm hy vọng nầy thật đáng phải chịu những đau khổ kể cả sự chết.
Sách Khải Huyền thánh Gioan là một cuốn sách được mã hóa, nhờ đó các tín hữu bị bách hại có thể đọc và chuyền tay nhau mà không sợ những kẻ bách hại mình đọc và hiểu được. Rô-ma không bao giờ được gọi đích danh, nhưng dưới biệt hiệu Ba-by-lon hay Con Thú, hay Con Điếm hoặc số 666 (con số 666 nầy muốn nói lên sự bất toàn tận căn, đối lập với con số 7). Nhưng cũng vì thế, chúng ta, những thế hệ cách xa sau này, không thể nào giải mã tất cả. Tác phẩm tiên báo cuộc sụp đổ đế quốc Rô-ma, cuộc khải hoàn của Giáo Hội và mô tả những viễn cảnh thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Bản văn mà chúng ta đọc hôm nay trình bày hai viễn cảnh liên tiếp nhau: viễn cảnh thứ nhất xảy ra ở dưới thế, gợi ra Giáo Hội đang chịu đau khổ và ơn cứu độ của những người công chính ở giữa lòng những gian truân nầy; viễn cảnh thứ hai là phụng vụ tạ ơn ở trên trời được cử hành bởi một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc đủ mọi dân, mọi nước.
Thị kiến thứ nhất: ở dưới thế (7: 2-4):
Để hiểu ý nghĩa thị kiến thứ nhất nầy, phải đặt nó trở lại vào trong bối cảnh lịch sử của nó.
A-Giáo Hội chịu đau khổ:
Những Kitô hữu bị bách hại tự hỏi những nỗi khốn khổ nầy sẽ kéo dài bao lâu? Khi nào những kẻ bách hại bị trừng trị? Nhà thị kiến rõ ràng nêu lên những vấn đề nầy và trả lời trong chương 6: 9-11, trước đoạn trích của chúng ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu: ‘Lạy Cha chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải nền nợ máu chúng con?’ Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữa, chờ cho đủ số những người cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ”.
Như vậy, những Kitô hữu được báo trước thời kỳ bách hại không chấm dứt. Nhưng giờ trừng phạt của những ác nhân sẽ đến. Những tai ương khủng khiếp được loan báo trong viễn cảnh khải huyền về cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vào thời cánh chung: chiến tranh, nạn đói, ôn dịch, động đất xảy đến trước khi Thiên Chúa xét xử.
B-Ấn tín:
Tuy nhiên, các Kitô hữu không phải lo lắng, vì Con Chiên cứu độ ngự trên ngai xét xử muôn dân. Những người công chính sẽ được đóng ấn của Người. “Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên”. Đây là biểu tượng kinh điển: chính từ phía mặt trời mọc nầy mà ánh sáng và sự sống đến, trong khi phía Tây là dấu chỉ của bóng tối và sự chết.
Hình tượng “dấu ấn” được mượn từ Ed 9: 4: “Hãy rảo khắp thành, khắp Giê-ru-sa-lem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành”. Xuất xứ của đề tài nầy còn lên xa hơn nữa đến tận sách Xuất Hành, trong đó sứ thần hủy diệt, lãnh sứ mạng gieo rắc các tai ương khắp xứ Ai-cập, trừ các nhà của dân Do thái, được bôi máu con chiên vượt qua trên khung cửa.
Ấn tín được ghi trên trán các Kitô hữu thì khác, thuộc thực tại tinh thần. Thánh Gioan dùng từ “ấn tín” theo tiếng Hy-lạp mà không xác định. Chắc chắn đọc giả của ông biết ấn tín cốt là gì: thuật ngữ nầy được dùng để chỉ phép Rửa ngay từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên. Ý nghĩa của nó xuất hiện rồi trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 1: 21-22) và trong mạch văn Ba Ngôi.
C-Ý nghĩa của những biểu tượng khác:
Như vậy, qua mật mã và các biểu tượng nầy, những Kitô hữu bị bách hại được mời gọi nhớ lại rằng họ được Thiên Chúa đóng ấn, vì thế họ thuộc về gia đình đông đúc được bảo đảm ơn cứu độ đời đời.
Con số những người được đóng ấn là 144.000 người. Rõ ràng 144.000 là con số biểu tượng. 144 là tổng số của 12 x 12, con số viên mãn, được nhân lên gấp ngàn lần: 144.000, con số khuếch trương vô tận. Đây là 12 chi tộc của dân Ít-ra-en mới, tức là Giáo Hội, được xây dựng trên nền tảng của 12 tông đồ tiếp tục sự nghiệp của 12 người con Gia-cóp / Ít-ra-en.
Trong viễn cảnh của mình, truyền thống khải huyền có thói quen lồng quá khứ, hiện tại và tương lai vào với nhau. Ở đây Giáo Hội, đương đầu với “quyền phá hoại đất trời”, đó là Giáo Hội muôn đời, đối mặt với biết bao gian nan thử thách, nhưng được Thiên Chúa bảo vệ và che chở.
2.Thị kiến thứ hai: ở trên trời (7: 9-14):
Thị kiến thứ hai là việc tham dự trước thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, được mô tả ở phần cuối sách. Sau khi đã loan báo những tai ương sắp xảy đến, ngay tự bây giờ cần phải mang đến một sứ điệp chứa chan hy vọng.
A-Đoàn người khải hoàn:
Một đoàn người thật đông khôn kể xiết của thị kiến thứ hai nầy phải chăng cũng là đoàn người được chỉ ra một cách biểu tượng bởi con số 144.000, hay nhà thị kiến đồng thời đã thoáng thấy một đoàn người công chính, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước mọi ngôn ngữ, đã thuộc về thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội, dù họ không biết? Dù thế nào, “chiều kích ơn cứu độ phổ quát” được hàm chứa trong việc mô tả nầy, như trước đây: “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân” (5: 9-10). Đây là lời hứa được ban cho tổ phụ Áp-ra-ham: hậu duệ của ông sẽ đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển (St 15: 5; 22: 17).
B-Phụng vụ thiên quốc:
Chỗ vinh dự được ban cho những ai đã được phúc tử đạo: “Họ đứng trước ngai Thiên Chúa và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. “Mình mặc chiếc áo trắng” của sự vô tội và vinh quang; “tay cầm nhành lá thiên tuế” của sự khải hoàn; “họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”, bởi vì “họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”.
Phụng vụ thiên quốc nầy rất trang trọng. Những người được tuyển chọn công bố rằng ơn cứu độ của họ phát xuất từ Thiên Chúa và Con Chiên. Các thiên thần và những nhân vật khác đều cung kính phủ phục và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô bằng bảy lời tán tụng: chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh (chúng ta gặp thấy bài Vinh Tụng Ca tương tự ở 5: 12).
Chúng ta ghi nhận rằng Thiên Chúa không được miêu tả gì cả; chỉ duy “ngai” chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, được bao quanh bởi triều thần gồm các thiên thần, hai mươi bốn Kỳ Mục và bốn Con Vật.
C-Các Kỳ Mục:
Ở chương 4, hai mươi bốn Kỳ Mục được trình bày đang ngồi trên các ngai, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên bằng vàng. Họ có vai trò vừa tư tế vừa vương đế. Họ ngồi bên cạnh ngai Thiên Chúa. Đây không là thiên thần mà là những con người. Ở Ít-ra-en, tước hiệu Kỳ Mục được ban cho các thủ lãnh của dân (70 Kỳ Mục bên cạnh ông Mô-sê), cho những vị hữu trách trước các hội đường và cho một phần thành viên của Thượng Hội Đồng. Trong Giáo Hội tiên khởi, đó cũng là tước hiệu dành cho những người chịu trách nhiệm trước các cộng đoàn Kitô hữu.
D-Bốn Con Vật:
Bốn Con Vật kỳ bí nầy cũng đã được miêu tả ở chương 4: “Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt” (4: 7-8). Những dung mạo nầy được gợi hứng từ thị kiến của Ed 1: 5-21. Chúng xuất xứ từ Ba-by-lon, đó là bốn bức tượng của bốn con vật thần thoại canh giữ cung điện Ba-by-lon. Chúng là các Karibu (ngữ căn của từ “chérubin”), các con vật đầu người, mình sư tử, chân bò rừng và cánh đại bàng, bốn biểu tượng của sức mạnh và quyền năng. Trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en, những con vật lai tạp nầy được thắng vào xe của Đức Chúa, diễn tả sự siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en.
Bốn Con Vật của sách Khải Huyền lấy lại bốn biểu tuợng, được phân phối trên bốn con vật tách biệt. Chúng cũng được gộp vào trong một thị kiến về Thiên Chúa ngự trên ngai trong vinh quang của Ngài, nhưng ý nghĩa của chúng thì hơi khác. Bốn con vật gợi lên bốn phương trời, nói chính xác hơn, số bốn là số của vũ trụ (biểu tượng của nghệ thuật và kiến trúc tôn giáo). Xem ra chúng biểu thị sự vĩ đại, sức mạnh, sự hoàn thiện của công trình sáng tạo và sự hiện diện khắp nơi của Thiên Chúa trong công trình của Ngài (mắt của chúng không kể xiết); chúng được đồng hóa với các thiên thần, ngày đêm không ngừng ca ngợi kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Thị kiến được hoàn tất với việc gợi lên niềm hoan lạc của những người được tuyển chọn: “Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ”.
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-3)
Đoạn văn nầy được trích từ Thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “nghĩa tử của Thiên Chúa”. Người Ki-tô là nghĩa tử của Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha, nhưng nghĩa tử nầy sẽ trở nên viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống với Đức Kitô vào ngày quang lâm của Người.
Nghĩa tử của Thiên Chúa:
Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi chúng ta được gọi là con cái của Ngài. Đây không là một tước hiệu mà Ngài ban thưởng cho chúng ta, nhưng một thực tại: “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Theo văn hóa Sê-mít, danh xưng diễn tả chân lý sâu xa của con người: như vậy Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi liên kết chúng ta với Con Một của Ngài khi Ngài gọi chúng ta là “con của Ngài”. Phẩm chất nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: đó là lý do tại sao “thế gian không nhận biết chúng ta”. Những lời nầy xem ra vang dội lời của Đức Giê-su nói với các môn đệ Người, được tường thuật chính xác trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 19).
Toàn bộ thư nầy được xây dựng theo phép đối ngẫu. Cuộc sống Kitô hữu đối lập với cuộc sống của những người không tin hay những người theo lạc giáo. Ở đây, phản đề bao phủ một phạm vi rộng lớn: thế gian, theo nghĩa tiêu cực, là thế giới tội lỗi “đã không nhận biết Thiên Chúa”.
Việc biến đổi trong tương lai:
Đoạn trích thư nầy có thể được đặt nhan đề: “từ phép rửa tội đến việc biến đổi”. Chúng ta được biến đổi rồi bởi sự sống làm con Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu tiên. Việc chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa chỉ được thành toàn khi mà chúng ta nên giống như Con Một của Ngài. Điều này sẽ xảy ra vào thời cánh chung. Bản văn như muốn nói rằng chiêm ngắm Con Một Thiên Chúa trong vinh quang sẽ biến đổi chúng ta. Đó không là ý tưởng vì việc chúng ta được thay hình đổi dạng được ươm mầm rồi ở nơi phẩm chất con cái Thiên Chúa của chúng ta.
Lời khẳng định của vị tông đồ là một lời khẳng định của đức tin, nhưng cũng dựa trên kinh nghiệm: thánh Gioan đã là chứng nhân của cuộc Biến Hình, xem ra được ám chỉ trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Chúng ta cũng gặp thấy sự thay hình đổi dạng trong tương lai nầy trong Thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Kitô từ trời xuống cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21).
Trong vinh quang của ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, bản văn này gợi lên sự biến đổi hình dạng của chúng ta trong tương lai: “Chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. Niềm hy vọng này làm cho chúng ta tinh tuyền vì nó thúc đẩy chúng ta mỗi ngày mỗi nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô hơn nữa.
TIN MỪNG (Mt 5: 1-12)
Tin Mừng hôm nay được trích từ bài diễn từ đầu tiên trong một loạt năm bài diễn từ hình thành nên cấu trúc của Tin Mừng Mát-thêu. Bài diễn từ đầu tiên nầy bao gồm các chương 5 đến 7 và được gọi là “Bài Giảng Trên Núi”, vì ngay từ đầu, diễn từ nầy được định vị trong bối cảnh “trên núi” (5: 1-2). Núi là nơi thuận lợi cho những mặc khải thần linh. Chính trên núi Xi-nai, Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân Ngài qua ông Mô-sê (x. Xh 24: 1-2, 9). Chính cũng trên núi Ga-li-lê, Chúa Giê-su ban “Các Mối Phúc” cho dân mới của Người mà không qua trung gian và bằng chính uy quyền của Người. Nhưng Các Mối Phúc này không là Lề luật, càng không phải là những huấn lệnh: Đức Giê-su đưa ra những cách sống mở lối vào Nước Trời, vì các Mối Phúc này cho phép chúng ta cư xử như con cái đích thật của Thiên Chúa.
Thính giả của Đức Giê-su bao gồm “đám đông” (5: 1), họ sẽ tái xuất hiện ở cuối bài diễn từ (Mt 7: 28) để tạo thành thể đóng khung cho toàn bộ bài diễn từ, và “các môn đệ của Người”, diễn ngữ mà thánh Mát-thêu dùng ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình. Vì thế, sứ điệp được gởi đến cho tất cả mọi người, đặc biệt hơn cho các môn đệ: “Thấy dân chúng từ khắp nơi kéo về đông đảo, Đức Giê-su lên một ngọn núi. Khi Người ngối xuống, thì các môn đệ đến gần bên. Người lên tiếng dạy họ”. Quả thật, con đường thì hẹp; tuy nhiên nó mở rộng cho tất cả mọi người, cho đám đông thân cận và cho đám đông mênh mông, vô danh, tản mác trong thời gian và không gian, đám đông của những ai, dù không biết Người, đều có thể thuộc về Nước Trời, nếu đức hạnh của họ phù hợp với sứ điệp nầy, phù hợp với khoản Giao Ước mới của Thiên Chúa với nhân loại. Qua Các Mối Phúc, Đức Giê-su đã mở rộng “Ki-tô giáo”.
Thật ra, danh sách của những hạng người được chúc phúc ở đây thì không hoàn toàn mới mẽ; nó đã được giáo huấn ngôn sứ và minh triết Cựu Ước chuẩn bị dài lâu. Những người nghèo, khiêm hạ, công chính, thanh sạch, … đã được các Thánh Vịnh tán dương. Đức Giê-su minh nhiên quy chiếu đến những bản văn Cựu Ước nầy. Nhưng những đức hạnh hoàn thiện được phác họa ở đây xem ra có thể chỉ được thực hiện vào thời đại Mê-si-a. Đức Giê-su kiện toàn những đức hạnh này ở nơi chính con người của Người. Khi công bố những mối phúc nầy, Chúa Giê-su mặc khải cho chúng ta rằng hạnh phúc đích thật hiện ở trong tầm tay của chúng ta, bởi vì Người là Thiên Chúa, cội nguồn của tất cả những gì có thể làm cho chúng ta mãn nguyện.
1- “Phúc thay ai có tấm lòng nghèo khó…” :
Thánh Lu-ca nói một cách giản dị: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khổ” (Lc 6: 20). Khi viết “Phúc thay ai có tấm lòng nghèo khó”, thánh Mát-thêu mở rộng viễn cảnh cho tất cả những ai có tấm lòng nghèo khó, phù hợp với chiều hướng nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su muốn. Sự nghèo khó không được ca ngợi ở nơi chính nó, bởi vì sự nghèo khó có thể do sự biếng nhác, ăn không ngồi rồi, nhưng ở nơi sự giải thoát khỏi mọi gắn bó với của cải trần thế và mở rộng lòng mình ra đón nhận sự giàu có tinh thần.
Cuối cùng, khía cạnh Mê-si-a của mối phúc nầy thật hiển nhiên: Đức Giê-su sinh ra trong cảnh nghèo hèn và chết trong sự trần trụi để là quà tặng của Thiên Chúa được trao ban trọn vẹn cho con người. Đối với những ai lắng nghe Người và từ bỏ mọi sự mà theo Người, Người sẽ sai họ ra đi trên mọi nẽo đường thế giới, không tiền bạc, không bao bị, hoàn toàn trơ trụi, nhưng giàu có tận mức sứ điệp tinh thần mà họ công bố.
2- “Phúc thay ai hiền lành…”:
Mối phúc nầy được gợi hứng từ Thánh Vịnh 37, Thánh Vịnh này gợi ra số phận khác nhau giữa những người công chính và quân gian ác: “Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng còn, đến chỗ xưa cũng không tìm thấy hắn. Còn kẻ nghèo hèn được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa” (Tv 37: 10-11). “Đất Hứa” là đất Ca-na-an. Chủ đề nầy vọng lên đến lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham (St 15: 7; 28: 4), được triển khai phong phú trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 1: 8, 39; 4: 1, 5, 14…), nhưng mang lấy sắc thái cánh chung trong sách I-sai-a (Is 57: 13; 60: 21; 65: 9), và sẽ vang dội trong sách Khải Huyền, ở đó cốt là thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời (Kh 21: 2). Trong Tin Mừng Mát-thêu, “Đất Hứa” không còn là đất Ca-na-an nữa, nhưng mang một ý nghĩa tinh thần như trong Các Mối Phúc khác. Chủ đề “thừa hưởng” thường trở đi trở lại trong Tân Ước: chung chung, người ta thích cách nói “thừa hưởng Nước Trời” (Mt 25: 34; 1Cr 6: 9-10…), “thừa hưởng sự sống đời đời” (Mt 19: 29; Mc 10: 27; Lc 10: 25…) hơn là “thừa hưởng đất làm gia nghiệp”.
Đức tính hiền lành được nêu lên ở đây là một sự hiền lành không nhu nhược: đó cũng là sự hiền lành của Đức Ki-tô, mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhiều lần: “Hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11: 29). Và trong chương 12 của mình, thánh Mát-thêu nhắc lại cung cách hiền lành của “Người Tôi Tớ”, dung mạo này được hiện thực nơi Đức Giê-su.
3- “Phúc thay ai sầu khổ…”:
Trong Tin Mừng Mát-thêu, mạch văn chung của Các Mối Phúc có khuynh hướng thấy ở nơi sự sầu khổ sắc thái tinh thần. Xem ra thật khó xác định đối tượng của nỗi sầu muộn khóc than nầy.
Đây là Mối Phúc mâu thuẫn nhất trong Các Mối Phúc, nhưng có thể cũng mang chiều kích Mê-si-a nhất. Trải qua tất cả những gian nan thử thách của mình, dân Ít-ra-en đã luôn luôn trông chờ được Thiên Chúa ủi an. Trong truyền thống Do thái, việc Đấng Mê-si-a đến được gọi là “niềm an ủi của Ít-ra-en”, trong Tin Mừng, cụ già Si-mê-on cũng mong chờ và gặp thấy “niềm an ủi của Ít-ra-en” ở nơi Hài Nhi Giê-su.
Không thể chối cải, Đức Giê-su là Đấng an ủi những người nghèo khó, đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền: Ngài chữa lành, nâng dậy, phục sinh họ. Ngài đã kêu mời “Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Cuối cùng, Ngài dâng hiến cho những ai sầu khổ một niềm ủi an tuyệt mức khi chính Ngài dự phần vào những cơn hấp hối khủng khiếp của cái chết.
Đức Giê-su không đề nghị hủy bỏ sự đau khổ, nhưng rút ra từ đó một giá trị vượt qua nó, nâng cao nó và có thể biến nó thành nguồn vui. Niềm vui hiện tại – khó đạt được – được bổ túc bởi viễn cảnh của niềm vui tương lai, trong Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 3).
Tuy nhiên, không nên ngộ nhận viễn cảnh của thánh Mát-thêu: tác giả Tin Mừng nầy rất quan tâm đến chiều kích tinh thần của Các Mối Phúc. Thánh ký chắc chắn chủ yếu nhắm đến nỗi sầu muộn của các tín hữu đối mặt với thực tại trong đó sự ác chiến thắng trên những ý định của Thiên Chúa. Trên hết, Đức Giê-su hoàn lại niềm hy vọng cho những người công chính và đảm bảo cho họ sự chiến thắng tối hậu trên sự ác và sự chết.
4- “Phúc thay ai đói khát sự công chính…”:
Thánh Lu-ca viết: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no thỏa” (Lc 6: 21), nghĩa là, sẽ xảy ra một sự đảo lộn những hoàn cảnh trong Nước Chúa. Thánh Mát-thêu, như trước đây, tinh thần hóa Mối Phúc nầy: “Phúc cho ai đói khát sự công chính”.
Chữ “công chính” mà Đức Giê-su công bố, chất nặng lịch sử Kinh Thánh nên không thể được hiểu thuần túy theo nét nghĩa thông thường hiện nay về sự công bình trần thế. Chắc chắn sự công bình trần thế hàm chứa ở đây, nhưng rất gián tiếp. Người công chính trong Cựu Ước và trong Tin Mừng (cụ già Si-mê-on, thánh Giu-se, vân vân) là một con người mà cách sống của họ luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Đó là lý tưởng hoàn thiện mà một người đạo hạnh nhắm đến. Đức “công chính” chính là lý tưởng nầy. Vì thế, chữ “thánh thiện” là từ thích hợp nhất để diễn tả đức công chính. Đức Giê-su định vị đức công chính nầy như tiếp nối nhưng vượt qua đức công chính của Lề Luật: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng vào Nước Trời” (Mt 5: 20).
Bởi vì sự thánh thiện của những “người công chính” đích thật theo hình ảnh sự công chính của Thiên Chúa, nên đây là một nhân đức siêu việt, nó vốn nội tại trong cõi thâm sâu của đời sống. Những ai hết lòng hết dạ khao khát nhân đức nầy, sẽ được mãn nguyện– trên bình diện tinh thần.
5- “Phúc thay ai xót thương người…”:
Trong Cựu Ước, lòng xót thương thường được liên kết với đức công chính (theo nghĩa pháp lý). Quả thật, chính nhờ lòng xót thương mà tình yêu và sự công chính gặp gỡ nhau; nó là một khía cạnh của tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa đặc biệt đối với tội nhân. Ít-ra-en đã thụ hưởng tấm lòng nhân hậu nầy nhiều lần trong suốt lịch sử của mình và đã ca ngợi Đức Chúa là “Thiên Chúa giàu lòng xót thương”.
Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su khai triển Mối Phúc nầy: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ…Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6: 36-38).
6- “Phúc thay ai có tấm lòng thanh sạch…”:
Cách diễn tả: “tấm lòng thanh sạch”, là thành ngữ Kinh Thánh. “Tấm lòng thanh sạch” đối lập với nghi thức thanh sạch, hoàn toàn bên ngoài, không thể mang lại sự thanh sạch bên trong. Các Thánh Vịnh ca ngợi “kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24); “Thiên Chúa nhân hậu biết là dường nào …với những kẻ có lòng trong sạch!” (Tv 73). Trong lời cầu nguyện của mình, các tín hữu kêu cầu Thiên Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51).
“Tấm lòng”, theo ngôn ngữ Híp-ri, chỉ chiều kích sâu thẳm của con người. Chúa Giê-su lấy lại cách diễn tả nầy vì nó nêu bật nét đặc trưng của chiều kích nội tâm hóa luật luân lý. Sau nầy, Ngài quở trách những người Pha-ri-sêu chỉ “rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những gian ác” (Mt 9: 6; 23: 25).
7- “Hạnh phúc thay những người kiến tạo hòa bình…”:
Mối Phúc nầy mang một chiều kích Mê-si-a. “Vị vua công chính” đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo là “Hoàng Tử Bình An” (Is 9: 6.). Thật vậy, hòa bình và công lý xã hội được gắn bó mật thiết với nhau trong Cựu Ước. Mối Phúc nầy đích thật là lời mời gọi gởi đến con người để mời gọi họ hãy làm cho công lý ngự trị giữa họ.
Theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a sẽ tái xuất hiện để chuẩn bị cho việc Đấng Mê-si-a ngự đến qua sứ mạng hòa giải: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi…Nó sẽ đưa tấm lòng cha ông trở lại với con cháu, và đưa tấm lòng con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3: 23-24). Ngay trước thời Đức Kitô, các kinh sư đã đề ra những cử chỉ giao hòa trong gia đình, giữa bà con láng giềng… Đức Giê-su đòi hỏi phải hòa giải ngay cả trước khi dâng của lễ lên Thiên Chúa: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5: 24).
Chúa Giê-su đã để lại cho các tông đồ của Người “Bình An của Người” (Ga 20: 19), vả lại, bình an nầy được định vị trong dòng chảy liên tục của tình yêu. Theo bước chân của Người, những người kiến tạo hòa bình sẽ được gọi “con Thiên Chúa” như Ngài.
8- “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính…”:
Mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám loan báo cho chúng ta rằng Nước Trời hiện diện rồi: “Vì Nước Trời là của họ” (5: 3 và 10), trong khi sáu mối phúc khác, nằm ở giữa thể loại đóng khung nầy, vẫn còn là lời hứa trong tương lai: “Vì họ sẽ được…”. Sự căng thẳng giữa hiện thực và lời hứa, giữa hiện tại và tương lai, xuất hiện ngay từ đầu, ở giữa lòng sự thành tựu. Nó bày tỏ vừa tính dứt khoát vừa tính lịch sử của Vương Quốc nầy, Vương Quốc đang trương rộng ra trên toàn thế giới. Sự căng thẳng nầy bày tỏ điều mà chúng ta gọi chiều kích “cánh chung” của Nước Trời.
9- “Phúc thay anh em khi vì Thầy….”:
Với Mối Phúc thứ chín này (5: 11), bài diễn từ đột nhiên chuyển từ ngôi thứ ba số ít: “Phúc thay ai…” như các mối phúc trước đó sang ngôi thứ hai số nhiều: “Phúc thay anh em…”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc thứ tám và Mối Phúc thứ chín đều ca ngợi những người bị bách hại. Trong khi Mối Phúc thứ tám mang chiều kích phổ quát, được gởi đến với toàn thể nhân loại: “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính”, thì Mối Phúc thứ chín được ngỏ lời trực tiếp với các môn đệ: “Phúc thay anh em khi ‘vì Thầy’ mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”.
Mối Phúc thứ chín đóng vai trò hiện tại hóa và cụ thể hóa Mối Phúc thứ tám vào trong hoàn cảnh của các môn đệ như một sự chuyển tiếp từ lý tưởng được đề nghị: “vì sự công chính” đến thực tại cụ thể được cảm thấy và được sống: “vì Thầy”. Ở vào giây phút các môn đệ bị bách hại và bị giết chết, nếu họ chấp nhận đặt mối liên hệ trực tiếp với Đấng công bố Các Mối Phúc nầy, họ có thể khám phá rằng Mối Phúc này được thành tựu ở nơi họ. Vào giây phút người môn đệ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử Nạn của Đức Kitô, người ấy nhận thức rằng Nước Trời thực sự đã đến. Cũng thế, phần thưởng lớn lao dành cho họ là “ở trên trời” (5: 12). Phần thưởng nầy, nói một cách chính xác, không là bất cứ cái gì khác ngoài hiện thực hóa sự thành tựu mà Đức Giê-su mang đến, Đấng đưa họ vào “trong Nước Trời”, nghĩa là vào trong thực tại của Chúa Cha ở trên trời.
Như vậy, Mối Phúc thứ chín thăng hoa Các Mối Phúc khác. Các nhà thần học nhấn mạnh tính chất Ki-tô học của Mối Phúc thứ chín nầy: ai dám hứa phần thưởng Nước Trời cho những người phải chịu đau khổ “vì mình” nếu không là Đấng có thể sánh ngang bằng với Thiên Chúa?
Chúa Giê-su đã nhiều lần báo trước cho các môn đệ mình về những bách hại mà họ sẽ phải chịu. Vào lúc thánh Mát-thêu soạn thảo Tin Mừng của mình, những lời báo trước nầy đã trở thành những thực tại khắc nghiệt. Giáo Hội Pa-lét-tin chịu những cuộc công kích liên tục từ phía những người Do thái nhiệt thành với luật cũ, họ xem những người cải đạo Ki-tô như những kẻ bội giáo. Rồi, thánh Tê-pha-nô bị một đám đông giận dữ ném đá cho đến chết, thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan Tin Mừng, bị xử trảm vào năm 44. Thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và những người bạn đồng hành của họ bị truy bắt, đánh đập, giam tù… Tiếp đó là những cuộc bách hại từ phía chính quyền dân sự Rô-ma. Nhưng sách Công Vụ nói với chúng ta rằng các tông đồ, dù bị bách hại như thế, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Kitô” (Cv 5: 41).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ĐỂ ĐƯỢC NÊN THÁNH VÀ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI SAU NÀY- Lm. Đan Vinh
Trong lịch cử Hội Thánh, từ thế kỷ thứ 4,các vị tử đạo đã được Hội Thánh tôn vinh. Đến thế kỷ thứ 7, sau khi một số kẻ xấu đột nhập các hang toại đạo tại Rôma trộm cắp hài cốt của các vị tử đạo, Đức giáo hoàng Bonifaciô IV đã cho thu lượm những hài cốt các thánh và chôn cất lại bên trong ngôi đền Pantheon, là đền thờ các thần của người Rôma. Từ ngày đó đền thờ này đã được thánh hiến trở thành đền thờ kính các Thánh Nam Nữ của đạo Công Giáo.
Sử gia Beda đáng kính đã viết: “Việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng là thờ ma quỷ”. Vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon đã cử hành lễ Các Thánh vào ngày 1 tháng 11, và bạn của ông là Arno, Giám mục của Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ thứ 9, Hội Thánh Rôma đã chấp thuận mừng lễ Các Thánh vào ngày 1 tháng 11 hằng năm.
Đầu tiên lễ này nhằm kính nhớ các vị tử đạo. Về sau, khi người Kitô hữu được tự do tín ngưỡng, Giáo hội đã kính chung những tín hữu đã chết trong sự thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, để được công nhận là Thánh, thì chỉ cần được nhiều người công nhận và vị giám mục chỉ làm việc cuối cùng đưa tên vị Thánh ấy vào niên lịch Giáo hội.
Việc Đức giáo hòang chính thức phong các tín hữu lên bậc ThánhNhân chỉ bắt đầu từ năm 973. Ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính và sự thánh thiện của các ngài. Khi phong thánh cho một người nào, Hội Thánh chính thức xác nhận người đó đã sống cuộc đời thánh thiện và đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng để các tín hữu noi gương. Hiện nay ngòai các vị được nêu tên trong lịch gọi là các vị Hiển Thánh, Hội Thánh còn mừng lễ Các Thánh để kính nhớ chung các tín hữu đã chết và đang được hưởng hạnh phúc với Chúa, trong đó nhiều người là thân nhân của chúng ta.
II). SUY NIỆM:
1) CÁC THÁNH LÀ NHỮNG AI ?
– Đức Khổng Phu Tử đã nói: “Làm thánh thì tôi không dám” (thánh ngã bất cảm); còn Đức Giê-su thì lại dạy môn đệ : “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Chúa Giê-su cũng được ma quỷ gọi là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34). Nhờ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã dạy con đường nên thánh cho loài người.
– Sách giáo lý Công giáo dạy: Các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh. Giáo Hội Công giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa.
2) MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG
Chúa Giêsu thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh Lữ Hành còn ở trần gian, hai là Hội Thánh Vinh Thắng trên Thiên Đàng và ba là Hội Thánh Đau Khổ trong chốn luyện hình:
– HỘI THÁNH LỮ HÀNH TRẦN GIAN: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giêsu. Như dân Ít-ra-en xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian về Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội Thánh lữ hành còn phải tiếp tục chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Họ được Chúa ban cho 2 của ăn thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để về đến miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.
– HỘI THÁNH KHẢI HOÀN TRÊN TRỜI: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Các ngài đã sống theo hiến chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật do Chúa Giêsu công bố và ngày nay các ngài đang được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
– HỘI THÁNH ĐAU KHỔ ĐANG THANH LUYỆN: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giêsu, nhưng đã qua đời trong tình trạng còn nhiều sai sót, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục được thanh luyện trong chốn luyện hình.
III).TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG
Ngọai trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt xa Chúa đời đời, như lời Chúa phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41), còn các tín hữu tin vào Chúa Giêsu dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều cầu nguyện cho nhau và được thông hiệp vào ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:
Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng Nhà thờ hay Đất thánh (kèm theo việc đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang sẽđược nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11), nhất là xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ để cầu nguyện cho các linh hồn. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được ơn tha thứ tội lỗi như Chúa đã dạy: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”(Lc 7,47). Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hòan tòan thì sẽ được vào Thiên Đàng và sẽ cầu bầu cùng Chúa ban các ơn lành hồn xác cho chúng ta còn sống ở trần gian.
IV). LỜI CẦU
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa làm gì cả! Con thật dại khờ khi nghĩ mình sẽ có thời gian chuẩn bị trước khi chết. Nhưng lời Chúa xưa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng việc chuẩn bị sẵn sàng. Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận biết con không, hay Chúa sẽ bảo con rằng: “Hãy đi cho khuất mắt Ta, hỡi kẻ làm điều gian ác!”
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con biết sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi được Chúa gọi, con sẽ trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng là hai người rất thân quen. Để khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên rất trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.-Amen.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
GIẶT ÁO MÌNH TRONG MÁU CON CHIÊN (*)- ĐGM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Việc dùng một ngày để kính nhớ chung mọi thánh đã khởi sự từ thế kỷ IV. Dĩ nhiên thời đó người ta mới chỉ nói đến các thánh tử đạo. Thoạt đầu người ta mừng vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, coi đó là kết quả của việc các Tông đồ được sai đi giảng đạo. Ở Rôma ngày lễ ấy lúc đầu được cử hành vào ngày 13/5 – ngày cung hiến điện Pantheon, tức là điện chư thần của dân ngoại, thành một vương cung thánh đường – Thay vào chỗ các tượng thần của các dân tộc mà đoàn quân chiến thắng Lamã đã đem về Rôma, người ta kiệu xương các Tử đạo về đó để tôn kính. Ðiện Pantheon, trở thành nhà thờ các Tử đạo và ngày thay đổi ấy trở thành ngày lễ các Tử đạo. Về sau vì lý do hành hương muốn tạo điều kiện dễ dàng cho các khách ở xa, Rôma đã dời lễ đó vào ngày 1 tháng 11. Và thay vì kính riêng các Tử đạo, người ta mừng chung tất cả các thánh nam nữ.
Dù sao, ngày nay mừng lễ này vào khoảng cuối năm Phụng vụ cũng là điều hợp lý: các thánh không phải là kết quả của Lịch sử ơn cứu độ sao? Kế hoạch của Thiên Chúa khởi sự từ mùa Vọng phải đưa chúng ta tới thiên cung đầy các thánh, để chúng ta tham dự Tiệc cưới của Chiên Con… Và như vậy, việc chọn sách Khải huyền làm bài đọc I hôm nay cũng là điều dễ hiểu.
Thế Giới Của Các Thánh
Yoan được thị kiến. Ông thấy trời mở ra. Và này ông thấy bốn thần sứ đang ở tứ phương giữa bốn luồng gió lại; chờ lệnh thả ra quét sạch mặt đất. Nhưng rồi lại có một thần sứ khác hiện ra ở phương Ðông, tay cầm ấn ngọc của Thiên Chúa, bảo bốn thần sứ kia rằng: không được thả gió ra cho tới khi người đóng ấn xong vào trán các kẻ được chọn.
Bằng những lời mạc khải trên, Yoan ngụ ý muốn nói rằng: mặt đất này có ngày sẽ bị quét sạch. Nhưng trước khi ngày ấy xảy đến, thần sứ của Chúa sẽ làm việc để chọn những người được cứu độ. Người sẽ ghi ấn tích của Thiên Chúa trên trán họ như ngày xưa người ta quen đóng ấn trên trán những người nô lệ. Và như thế, những người được chọn chính là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Còn ấn tín kia, chúng ta có thể hiểu là ấn tín của phép Rửa làm cho người ta thuộc về Thiên Chúa và trở nên Dân Thánh của Người. Thế nên, cho đến ngày chung thẩm, lịch sử loài người chỉ có một nhiệm vụ: đào tạo những tôi tớ Thiên Chúa, tập họp những kẻ được chọn hoàn thành số các thánh nam nữ ở trên trời.
Theo Yoan, con số này lớn lắm, nên phải là con số “tròn”, con số lý tưởng. Ông tựa vào số 12 chi tộc Israel ngày mới thành lập nơi sa mạc. Ông nhân con số đó với 1,000 để bảo mỗi chi tộc kia phải lớn thêm mãi hầu phủ đầy mặt đất. 12 chi tộc phát triển như vậy để làm thành Dân Chúa, đến nỗi vào ngày chung thẩm, ngày có Tiệc cưới Chiên Con, không ai còn có sức đếm được nữa. Khi ấy sẽ đủ mọi dân tộc, đủ mọi tiếng nói, đủ mọi nền văn minh. Thế giới các thánh thật đông đúc, thật phong phú, thật ngoạn mục! Tất cả đều mặc áo trắng dài, áo của thầy tư tế, chứng tỏ toàn Dân Thánh của Chúa là dân tư tế, dân linh mục. Tay họ cầm cành vạn tuế. Có lẽ không phải là cành lá chiến thắng và tử đạo đâu; nhưng là cành lá của dân Do Thái khi dự lễ “Trại”.
Chúng ta biết dân Israel vẫn cử hành lễ “Trại” vào mùa thu, khi gặt hái xong. Thoạt đầu đó là một lễ nông nghiệp. Người ta đóng trại bằng những cành cây ở ngoài đồng nho khi nho chín để canh giữ và làm việc. Ðời sống bất thường ấy, ở giữa một khung cảnh thiên nhiên và trong niềm hân hoan hái trái nho chính, làm cho người ta sung sướng như trong ngày lễ. Về sau, gán cho ngày ấy một ý nghĩa tôn giáo và cử hành trong đền thờ, người ta nhớ tới thời Dân Chúa đã “cắm trại” nơi sa mạc… Và thế là lễ ấy trở thành “lễ tập họp Dân”; Dân cầm lá đến, tung hô hát xướng khi kiệu nước từ suối Siloam lên đổ trên tế vật đặt trên bàn thờ. Chính Ðức Yêsu đã tham dự lễ này. Và Người tuyên bố mình có nước hằng sống của Thánh Thần để ban cho kẻ tin Người. Và câu chúc tụng trong bài Khải huyền hôm nay cũng lấy lại lời tung hô trong lễ Trại. Như vậy rõ ràng thánh Yoan muốn dùng hình ảnh lễ này để gợi lên cộng đoàn phụng vụ các thánh ở trên trời.
Các người là Dân đông đảo của Thiên Chúa. Là dân toàn thiện, phát xuất từ 12 chi tộc Israel nhưng sẽ bao trùm toàn thể mọi dân tộc. Ðó là Dân đã được đóng ấn bằng phép Rửa, và là Dân tư tế. Cộng đồng Dân thánh ấy được triệu tập đến trước tòa Chúa có Chiên Con đứng đàng trước, để cử hành phụng vụ tạ ơn, tung hô các công cuộc kỳ diệu của Thiên Chúa và của Chiên Con.
Lập tức các thiên thần, các trưởng lão và bốn con vật đã đứng sẵn ở chung quanh ngai tòa Thiên Chúa, liền sấp mình thờ lạy. Thánh Yoan không muốn nói dài về các chi tiết này. Người ta có thể đưa ra những ý kiến khác nhau về các nhân vật kia. Nhưng tất cả đều đồng ý rằng ở đây thánh Yoan chỉ muốn nói đến thụ tạo, tức là thế giới tạo vật có thiên thần, loài người và động vật. Và ý của người là: tuy tạo vật vẫn thờ phượng Chúa, nhưng phải chờ đến khi có phụng vụ của các thánh và của Dân thánh Chúa, thì những lời tung hô thờ lạy của tạo vật mới được hoàn toàn. Tạo vật đang chờ đợi ngày xuất hiện của con cái Thiên Chúa để niềm hân hoan của chúng được trọn vẹn. “Phụng vụ tự nhiên” phải chờ đợi phụng vụ của các thánh để được phong phú. Thế giới các thánh sẽ hoàn thành thế giới tạo vật vậy.
Nhưng làm thế nào để có thế giới các thánh đó? Các thánh đó được đào tạo từ đâu? Các người từ đâu đến? Thưa họ đều đến từ đau khổ lớn lao, từ mặt đất nhiều thử thách. Họ đã giặt áo cho trắng ở trong Máu Chiên, tức là đã phải đi qua mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô để có áo ân sủng và tư tế. Chính cuộc sống kết hợp với Ðức Kitô đã tôi luyện họ thành những tâm hồn trong trắng thánh thiện. Và như vậy họ thật là các Tử đạo và là các thánh mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Phụng vụ không thể dùng đoạn Thánh Kinh nào thích hợp hơn để giúp chúng ta hiểu về thế giới các thánh. Nhưng khi dừng lại ở điểm nói về nguồn gốc của các ngài, phụng vụ lại muốn đưa chúng ta trở về thế giới ở mặt đất này, để xem chúng ta phải làm gì hầu mai ngày đạt tới quê hương các thánh.
Tin Mừng Cho Những Người Muốn Vào Nước Trời
Chúng ta không gặp khó khăn nào khi muốn biết con đường dẫn đến thế giới các thánh. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Ðức Yêsu đang dạy dỗ những ai muốn vào Nước Trời. Người trèo lên núi để có thể đứng trên nơi cao nói với tất cả các dân tộc và các thời đại. Các môn đồ ngồi ở gần Người để cho mọi người thấy phải trở thành môn đệ. Người lên tiếng một cách trịnh trọng khi dùng lối văn khôn ngoan của thời bấy giờ, bắt đầu bằng hai chữ “phúc thay” hay “phúc cho”, để nói rằng ai muốn được hạnh phúc trường cửu phải nghe theo lời Người.
Rồi theo thánh Matthêô, Người kể ra tám hạng người hạnh phúc, vì câu hạnh phúc thứ chín cũng chỉ nói về hạng người bị bắt bớ như câu thứ tám, nhưng ở thể văn cụ thể và trực tiếp hơn. Ðứng đầu tám hạng người được phúc là những người nghèo khó, mà Matthêô gọi là những người có lòng nghèo khó hoặc nghèo khó thật ở trong lòng hoặc có tinh thần nghèo khó. Người muốn chúng ta hiểu rằng: đây không phải là vấn đề nghèo khó về của cải, nhưng là nghèo khó tại lòng mình và nơi tâm hồn, thấy mình cô thế cô phương, không biết cậy dựa vào đâu trong cuộc đời đầy những thiếu thốn bất lực và hiểm nguy về mọi mặt, đến nỗi chỉ còn biết trông cậy vào ơn Chúa cứu độ. Chính họ là những người khao khát Thiên Chúa hơn hết, vì họ thấy mình nghèo nàn, hèn mọn hoàn toàn. Họ không có gì để tựa hoặc không thấy gì đáng tựa trong cuộc đời đầy phấn đấu nên đặt tất cả tin tưởng vào Chúa. Họ là những người nghèo khó ở trước mặt Chúa. Họ là “dân nghèo của Yavê” như từ ngữ Kinh Thánh thường nói.
Tổ phụ của họ là Abraham, một người đã từ bỏ tất cả những sự đáng cậy dựa ở đời này để trở thành con người vô gia cư, vô địa táng, lang thang hết nơi này qua nơi khác, gặp rất nhiều khó khăn phấn đấu, nhưng đặt tất cả niềm tin vào Lời Chúa và sống từng ngày, từng phút tựa vào sự quan phòng của Chúa. Chính ông đã được hứa ban có đất làm gia nghiệp, có xứ sở làm quê hương, thì những người nghèo khó của Yavê cũng sẽ được Nước Trời làm sản nghiệp.
Chúng ta tưởng danh từ Nước Trời không cụ thể như hứa địa đã được dành cho Abraham. Nhưng nếu chúng ta biết rằng quan niệm Nước Trời đã bắt nguồn từ quan niệm Hứa địa và đã được các thế hệ tiên tri làm thêm phong phú, thì chúng ta phải hiểu rằng trong quan niệm Nước Trời có tất cả mọi lời hứa dành cho Abraham và cho tất cả Dân Chúa trải qua mọi thời đại. Nước Trời là danh từ tổng quát gồm hết thảy mọi sự lành mà Thiên Chúa có thể ban cho loài người và cuối cùng là chính sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Nếu thế thì phúc thật thứ I này đã bao hàm 7 mối phúc thật sau, khiến chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản như thế này:
* Con người hiền lành ở phúc thứ II là con người khó nghèo bình tĩnh trước lối sống phù vân của người khác vì vẫn tin tưởng vào Chúa. Họ nghèo nhưng vẫn êm ái đang khi kẻ giàu lại hay nổi nóng. Họ được hứa sẽ có đất làm cơ nghiệp. Như vậy họ thật là người nghèo khó.
* Con người ưu phiền khóc lóc cũng vậy. Họ được hứa sẽ được an ủi, khiến chúng ta phải khẳng định họ là thành phần những người đang chờ đợi sự “an ủi của Israel”. Ðó là những người nghèo bị bóc lột trong dân, những người thấp cổ bé họng bị oan ức, là toàn Dân Chúa trong cảnh lưu đày, là những người đang trông chờ ơn cứu độ. Nói tắt họ cũng là những người nghèo của Ðức Yavê.
* Con người đói khát mà Ðức Yêsu bảo sẽ được no đầy, thoạt tiên là con người thiếu ăn thiếu mặc. Họ sẽ được no đầy ở trong bàn tiệc Nước Trời. Và như vậy họ cũng là những con người nghèo khó. Nhưng khi thánh Matthêô viết bản Phúc Âm này, người thấy Chúa Yêsu đã mở tiệc trong Hội Thánh rồi. Kẻ muốn được no đầy trong bàn tiệc của Chúa phải có sự thánh thiện, công chính. Do đó thánh Matthêô đã thêm hai chữ “công chính” vào sau chữ “đói khát” để hàm ý rằng người nghèo của Ðức Yavê là người phải lấy việc đói khát sự công chính thánh thiện làm cơ sở. Nhưng dù đói khát thứ gì người ta cũng là thành phần nghèo khó.
* Và khi có kinh nghiệm về nếp sống khó nghèo, người ta mới dễ có lòng thương xót; và có xót thương kẻ khác người ta mới được Chúa xót thương. Phúc thật thứ V vì thế cũng chỉ dành cho người có căn bản nghèo khó.
* Chúng ta biết Do thái giáo ngày xưa chú trọng nhiều đến vấn đề sạch và không sạch. Nhưng ai chú trọng đến vấn đề ấy, nếu không phải là hạng giàu sang, trưởng giả; như tục ngữ viết: phú quý sinh lễ nghĩa. Các tiên tri cực lực phản đối thứ lễ nghĩa này và hô hào phải có sự trong sạch đạo đức trong lòng mới được xem thấy Chúa, tức là được vào Ðền thờ để xem thấy Người, tức là được vào Nước Chúa vậy. Do đó câu phúc thật thứ VI cũng phản đối kẻ giàu sang, và đề cao kẻ khó nghèo.
* Người nghèo khó lại là người hay bị bóc lội, bắt bớ; nên phúc thật thứ VIII cũng dành cho họ. Thánh Matthêô trong cả bài Tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh đến tính cách tinh thần đạo đức của người nghèo khó, nên ở đây người cũng nói đến kẻ bị bắt bớ vì sự công chính, tức là vì Chúa, vì Ðức Kitô và giáo lý của Người. Nhưng ai bị bóc lột một cách bất công mà không phải là nạn nhân của sức mạnh thù địch với Thiên Chúa là Ðấng công chính? Họ trở nên nghèo khó; và như vậy họ được hứa ban Nước Trời.
Nối Liền Ðất Với Trời
Chúng ta hết thảy đều là những thành phần nghèo khó. Chúa Yêsu đã rao giảng Tin Mừng của Người cho chúng ta. Người hứa ban các phúc thật cho chúng ta. Chúng ta cứ ngồi yên như thế này rồi sẽ được hạnh phúc sao?
Chắc chắn không thể như vậy! Thế nên thánh Matthêô đã muốn giúp đỡ các tín hữu là những thành phần khó nghèo biết sống thân phận của mình thế nào cho được phúc. Người thêm chữ “tinh thần” vào câu “phúc cho người nghèo khó” và viết: “phúc cho người có tinh thần (hay có lòng) nghèo khó” để nhấn mạnh rằng người ta phải có tinh thần những người nghèo của Ðức Yavê. Ðó là tinh thần của những người thiếu thốn, đau khổ, bị bắt bớ mà vẫn không mất niềm tin, không trở nên gây hấn, không bớt tình người. Ngược lại, vì tin tưởng ở Chúa và tuân giữ Lời Người, họ luôn hòa dịu, xót thương và gieo rắc bình an. Thái độ nhân đạo hoàn toàn của họ tựa vào niềm tin đạo đức sâu xa. Nó đòi hỏi một nhân cách mạnh mẽ. Và vì thế nó cũng chỉ có thể gặp được ở nơi những tâm hồn cương nghị, không bao giờ chịu khuất phục trước bất công bóc lột.
Cứ xem các tiên tri của Chúa thì rõ. Các ngài thuộc thành phần những người nghèo của Ðức Yavê hơn ai hết. Nhưng ai mạnh mẽ chống bất công bóc lột bằng các ngài. Ngay lúc chết, và chính cái chết của các ngài cũng còn nói lên tinh thần ấy. Và đó là tinh thần của những người nghèo của Ðức Yavê, tinh thần của những người đã thấm đầy Thần trí của Thiên Chúa. Cương quyết tiêu diệt sự dữ cho đến cùng, mặc dầu biết mình yếu đuối nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, đó là tinh thần nghèo khó Phúc Âm. Ði vào con đường ấy là giặt áo mình trong Máu Chiên Con, tức là phó sự sống mình trong mầu nhiệm phấn đấu của Chúa Kitô, và như vậy sẽ đạt tới thế giới các thánh mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Sống cuộc đời như chúng ta vừa nói có thể không xuất sắc. Nhưng lời thư Yoan hôm nay viết khi nào đến lúc tỏ hiện thì bấy giờ mới rõ được hết nếp sống của con cái Chúa. Bấy giờ mới thấy hàng ngũ những người nghèo của Ðức Yavê như là hàng ngũ những chiến sĩ vô danh. Hôm nay Hội Thánh tưởng niệm họ và kêu gọi chúng ta hãy nối liền đất với trời bằng nếp sống theo tinh thần nghèo khó Phúc Âm.
Chúng ta hãy tham dự thánh lễ này như được vây quanh bởi hàng ngũ đông đảo các thánh. Các ngài không những hiện diện với chúng ta hôm nay ở nơi bàn thờ này, nhưng còn muốn ở bên chúng ta hầu thôi thúc chúng ta hãy cùng với các ngài tham dự vào Tiệc của Chiên Con. Các ngài đã giặt áo mình trong Máu Chiên Con, tức là đã đi vào đường lối của Ðức Kitô tử nạn – phục sinh, thể hiện hình ảnh người tôi tớ khó nghèo của Thiên Chúa. Các ngài khuyến khích chúng ta luôn giữ tinh thần nghèo khó nhưng phải phấn đấu không ngừng chống sự dữ nơi đời sống của mình. Có như vậy áo của chúng ta mới được giặt trong Máu Chiên Con và trở nên trắng sạch hầu được nhập đoàn cùng các thánh nam nữ trong Nước Trời vinh phúc.
HÃY NÊN THÁNH TRONG TẤT CẢ HẠNH KIỂN- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :” Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh ” (1Pr 1, 16). Đọc đoạn Tin Mừng thánh Matthêu (Mt 5, 1-12), một loạt các từ “phúc” ở đầu mỗi câu, làm chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.
Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là “những người thánh“. Chẳng hạn như nơi thư Corintô, thánh Phaolô ngỏ lời với những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là “chư thánh đã được (Thiên Chúa) hiệu triệu“(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người kitô đã là “thánh” rồi, bởi Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra, việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng người kitô hữu, hay có thể nói là của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, “để trở nên thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái” (Eph 1, 3-4). Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta, dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân, và được mời gọi trở nên thánh : “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng ta lại không ước mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như là những con cái Thiên Chúa, trong việc “trở nên giống” Thiên Chúa, như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9).
Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta “cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm” (1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh Gioan nói xem “Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1 Ga 3, 1). Chính sự tin tưởng vào Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: ” Phúc cho những ai…” (x. Mt 5, 1-12)
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đạt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
NOI GƯƠNG CÁC THÁNH- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II có lòng tôn kính đặc biệt đối với các Thánh, nhất là các Thánh tử đạo. Ngài là vị Giáo hoàng đạt kỷ lục trong việc tôn phong các Thánh và Chân phước. Ngài tôn phong 1.322 Chân phước và 457 vị Hiển thánh, trong đó có 117 vị Thánh tử đạo Việt Nam và 120 vị thánh tử đạo Trung Hoa. Con số vị Thánh và Chân phước được Ngài tôn phong hơn tổng số các vị mà các Giáo hoàng tiền nhiệm của Ngài tôn phong trong vòng 400 năm trước đó.
Trong dọc dài lịch sử, Giáo hội đã tôn phong rất nhiều vị Thánh.Thế nhưng, so với vô vàn các thánh trên trời, thì những người được Giáo Hội tuyên phong Chân phước và hiển Thánh chỉ là con số rất nhỏ. Theo lời Sách Khải Huyền, các thánh trên trời là “một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi”, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ. Các Ngài đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa.
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Các Thánh. Đây là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô : “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”. Lời Kinh Tiền Tụng trong sách lễ Rôma cầu nguyện như sau:Vinh quang Cha rạng ngời nơi cộng đoàn các thánh. Và khi tuyên dương công trạng các ngài là Cha biểu dương chính hồng ân Cha ban. Cha dùng đời sống các ngài làm gương cho chúng con học đòi, bắt chước; Cha cho chúng con được chung phần gia nghiệp nhờ hiệp thông với các ngài; Cha phù trợ chúng con nhờ lời các ngài cầu thay nguyện giúp.
Như thế việc tuyên phong các thánh có mục đích:
– Tôn vinh Thiên Chúa: nếu các thánh là “thánh thiện”, “quyền năng” … thì Thiên Chúa càng quyền năng thánh thiện hơn biết chừng nào! Ðời sống các ngài phản ánh đời sống của chính Chúa, cho dù chỉ là một cách mờ nhạt.
– Nêu gương mẫu mực cho người Kitô hữu.
– Củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Nếu các thánh là những con người cũng đầu đen máu đỏ như ta và cũng yếu đuối như bất cứ ai, nhưng nhờ biết cộng tác với ơn Chúa mà đã được hưởng một gia nghiệp vinh quang như thế, thì tại sao ta lại không thể được?
– Ðể các thánh cầu bầu cho ta trước mặt Chúa,và chắc chắn lời cầu bầu đó là rất hiệu nghiệm.
Lễ Các Thánh hằng năm nhắc nhở chúng ta rằng, lý tưởng làm thánh không dành riêng cho thành phần nào trong dân Chúa, nhưng hết thảy mọi người Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh như nhau.Nhiều người quen nghĩ rằng làm thánh là việc dành riêng cho các nhà tu hành, còn giáo dân thì làm sao có thể mơ tới lý tưởng cao cả ấy được? Quả thực, có một thời người ta đã lấy các vị đan sĩ, tu sĩ làm mẫu mực cho lý tưởng Kitô giáo, và ai ai trong Giáo hội, từ các giáo sĩ đến giáo dân cũng phải gắng sức xích lại gần mẫu mực ấy được chừng nào hay chừng ấy.Công đồng Vatican II đã nhắc lại rằng tất cả mọi thành phần Giáo Hội đều được mời gọi nên thánh, nhưng mỗi người tùy theo đấng bậc, tùy theo khả năng và hoàn cảnh riêng mà mang một vẻ thánh thiện riêng, khiến cho Giáo Hội được trau dồi bằng những vẻ đẹp muôn màu muôn sắc. Mẫu mực thánh thiện chỉ có một nhưng cách “hoạ lại” mẫu mực ấy thì thiên hình vạn trạng.Thánh Phanxicô đệ Salê đã nói một câu rất đẹp theo ý ấy: “Bất kỳ Chúa trồng bạn ở đâu, bạn hãy trổ những bông hoa đẹp nhất cho Người ở đó”.
Mỗi nơi có những điều kiện riêng, nơi ẩm nơi khô, nơi phì nhiêu nơi sỏi đá, nơi thấp nơi cao… mỗi đấng bậc, mỗi hoàn cảnh, mỗi tính tình cũng tương tự như thế. Chúa chỉ đòi hỏi ta ở chỗ nào thì tuỳ theo điều kiện cụ thể chỗ ấy mà trổ bông đẹp tức là nên thánh (Cố Lm Nguyễn Hồng Giáo ofm).
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Lễ Các Thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những người thân yêu của chúng ta đã được hưởng nhan thánh Chúa. Lễ Các Thánh là lễ của niềm hy vọng. Các Thánh là những con người bình thường như chúng ta nhưng các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật. Có thể quy tất cả tám đức tính ấy vào một đức tính căn bản là “Tâm hồn nghèo”. Người có tâm hồn nghèo là người:không màng đến và không cậy dựa vào tiền bạc của cải, danh lợi lạc thú trần gian, không ăn thua hơn thiệt đời này; chỉ ước ao sống tốt theo ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành của Thiên Chúa. Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của người kitô hữu là từ bỏ hết những gì mình có để được lấp đầy bằng chính Chúa. Một cuộc sống khó nghèo đến tận cùng của Thánh Phanxicô Assisi đã làm cho thế giới hiểu được thế nào là phúc cho những người nghèo khó. Một cái chết thay cho người bạn tù mà Thánh Kolbe đã tự nguyện đón nhận đã trở thành một chứng từ hùng hồn về giới răn yêu thương của Đức Giêsu. Nhân loại mãi mãi trân trọng Mẹ Têrêxa Calcutta cũng như những ai sống nhiệt thành phục vụ, dấn thân sống Tin Mừng, bao dung hy sinh, xây dựng tình thương cho tha thân nhất là người cùng khổ.
Ngày Chúa nhật 18-10-2015, Giáo hội có thêm 4 vị hiển thánh mới. Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong đầu thánh lễ trọng thể tại Quảng trường thánh Phêrô, trong khuôn khổ Thượng HĐGM thế giới về gia đình.Đứng đầu danh sách là cha Vincenzo Grossi, người Italia, vị sáng lập dòng các nữ tử Oratorio, tiếp đến là Thánh Nữ Maria Đức Mẹ Vô Nhiễm, người Tây Ban Nha, mẫu gương bác ái; sau cùng là Ông Bà Louis Martin và Zélie Guérin, song thân của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (vi.radiovaticana.va). Trong bài giảng lễ, Đức Thánh Cha Phanxicô nêu lên mẫu gương của các vị tân hiển thánh: “Những người nam và người nữ được tuyên thánh hôm nay không ngừng phục vụ anh chị em mình với với lòng khiêm hạ và bác ái trỗi vượt khi theo gương Thầy Chí Thánh. Thánh Vincent Grossi là một linh mục chánh xứ nhiệt thành, luôn chú ý tới nhu cầu giáo dân của ngài, nhất là những người trẻ. Đối với tất cả mọi người, ngài quan tâm đến việc bẻ bánh Lời Chúa, và do đó đã trở thành một người Samaritano nhân lành cho những người túng thiết nhất.Thánh Maria Đức Mẹ Vô Nhiễm đã tận hiến cuộc đời mình, bằng sự khiêm hạ tuyệt vời, để phục vụ cho những người bé mọn nhất trong chúng ta, nhất là các trẻ em nghèo và các bệnh nhân.Đôi vợ chồng Louis Martin và Marie-Azélie Guérin đã thực hành việc phục vụ Kitô giáo trong gia đình, “ngày qua ngày tạo ra môi trường của đức tin và tình yêu vốn nuôi dưỡng ơn gọi của những người con gái họ, trong đó có Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu… Các chứng tá rạng ngời của các vị tân hiển thánh truyền cảm hứng cho chúng ta kiên trì phục vụ anh chị em mình trong vui tươi, tin tưởng vào sự nâng đỡ của Thiên Chúa và sự bảo vệ từ mẫu của Mẹ Maria. Từ Thiên Đàng, giờ đây xin các ngài đoái xem và nâng đỡ chúng ta bằng lời chuyển cầu mạnh mẽ của họ”.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng các Thánh hạnh phúc trên Thiên đàng và xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta nhận biết mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các ngài, và cố gắng vươn lên giống như các ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu : các con hãy nên thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh. Amen.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
NIỀM HI VỌNG HẠNH PHÚC– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
II). TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
CÁC THÁNH NAM NỮ LÀ NHỮNG CON NGƯỜI- Lm. Giuse Maria Nhân Tài,CSJP
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế : bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ.v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “hiến chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này :
Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
Các ngài mong muốn được trở nên người công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác nên được Thiên Chúa xót thương.
Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên họ đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giả cõi đời tạm này…
Anh chị em thân mến,
Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những người thánh thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta.
Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời, được noi gương của các ngài biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
PHÚC THAY AI HIỀN LÀNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Khát vọng lớn nhất, sâu xa nhất của con người là được hạnh phúc. Vì thế, người ta thường cầu chúc cho nhau được dồi dào phúc, lộc, thọ. Trong bộ ba đó, phúc đứng hàng đầu. Nhưng điều quan trọng là phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thật?
Qua bài Tin Mừng Lễ Các Thánh (Mat-thêu 5, 1-12), Chúa Giêsu nêu lên tám đối tượng được chúc phúc và một trong những đối tượng đó là người hiền lành: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Người có đầy đủ những phẩm tính cao đẹp nhất, thế nhưng Người lại chú trọng đến đức tính hiền lành hơn hết và kêu mời chúng ta: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29), “phúc cho những ai hiền lành”, “hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu” (Mt 10, 16).
Vậy giờ đây, xin cùng nhìn lại những phẩm chất của người hiền lành.
Người hiền lành mềm dẻo như tre.
Trong cơn bão tố cuồng phong, nhiều cây cổ thụ cao lớn bị xô ngã, trốc gốc, gãy cành; nhưng tre và trúc thì an bình vô sự nhờ tính mềm dẻo của mình. Tương tự như thế, người hiền lành luôn mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế, nên họ không hề bị ngã gục đau thương.
Người hiền lành mềm mại như nước.
Người ta có thể đập vỡ đá cứng, nhưng không bao giờ đập vỡ được nước. Khi ta giáng búa tạ vào đá, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình kháng cự lại búa và như thế đá sẽ bị vỡ tan; còn khi giáng búa tạ vào nước, nước dùng sự mềm mại của mình mà nuốt trửng búa và nhận chìm búa xuống bùn!
Nước tuy mềm mại nhưng có thể bào mòn đá cứng: “nước chảy đá mòn.” Người hiền lành tuy mềm mỏng nhưng có thể làm xiêu lòng những tâm hồn chai đá nhất.
Người hiền lành lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường.
Họ hiểu được chân lý Chúa Giêsu dạy: “Ai dùng gươm thì sẽ phải chết vì gươm” nên họ không dùng bạo lực với bất cứ ai. Họ không ăn miếng trả miếng như bao nhiêu người khác, không theo luật “mắt đổi mắt răng đền răng” nhưng biết chế ngự tính nóng nảy, hãm dẹp tính tự ái, biết lấy thiện báo ác, biết lấy tình thương xoá bỏ hận thù.
Vì thế, rốt cuộc, người hiền lành mới là người chiến thắng. Họ thu phục được nhân tâm và tình yêu của mọi người chung quanh.
Ngày nọ, thánh Vinh-sơn bước vào một tiệm cơm, ngả mũ xin thực khách bố thí cho những trẻ mồ côi mà ngài đang chăm sóc. Cũng trong tiệm ấy, có một anh thợ giày ngạo mạn và đang có hơi men hất hàm hỏi ngài: “Tiền cho trẻ em nghèo hả? Có đây!”
Thế rồi anh ta hớp một ngụm bia, phun thẳng vào mặt thánh Vinh-sơn trước những cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của các thực khách. Mọi người im lặng chờ đợi sự đáp trả cân xứng từ phía Vinh-sơn, một con người vạm vỡ vừa bị xúc phạm quá đáng trước mặt đám đông.
Vinh-sơn từ từ cho tay vào túi, không phải để tìm hung khí trừng trị anh thợ giày nhỏ thó kia, nhưng là để rút ra một chiếc khăn tay và từ tốn lau khuôn mặt dơ bẩn của mình. Sau đó, cho khăn vào túi, ngài ôn tồn nói với anh thợ giày: “Cám ơn anh. Phần anh cho tôi, tôi đã nhận. Thế còn phần của các trẻ mồ côi đâu?”
Mọi người trong quán hết sức ngạc nhiên vì thái độ điềm tĩnh và hiền lành tột bực của ngài. Cả anh thợ giày hỗn láo kia cũng cảm thấy rúng động trước tấm lòng bao dung hào hiệp và bản lãnh rất cao của ngài. Anh ta quỳ xuống tạ lỗi và sau đó, quay về quyên góp bà con bạn bè một số tiền khá lớn đem đặt dưới chân thánh Vinh-sơn để giúp cho những kẻ nghèo.
* * *
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng,
Chúa kêu mời “hãy học cùng Tôi vì Tôi dịu hiền”. Xin cho đoàn con biết học sống hiền lành như Chúa để đáng được hồng phúc Chúa hứa ban.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
HƯỚNG LÊN TRỜI CAO- Lm. Nguyễn Lam Thy
Khi bước vào nhà thờ, ta thường không chỉ nhìn thẳng lên phía trước cung thánh bàn thờ, nhưng còn ngước mắt lên trần nhà nữa.
Mỗi thánh đường có kiểu trang trí trình bày trần nhà theo nghệ thuật khác nhau. Trên trần những nhà thờ cổ ngày xưa, như đền thờ Thánh Phero, nhà nguyện Sixtina, nhà thờ Đức Bà cả ở Rôma … có những hình vẽ hay chạm khắc theo gợi hứng lấy từ Kinh Thánh rất nghệ thuật sống động, cùng tỏa ra vẻ đẹp huyền bí lộng lẫy.
Cũng ở Roma có một ngôi thánh thường rất cổ kính, trần nhà được trang trí xây dựng khác thường: khi nhìn lên trần nhà, ta nhìn thấy không trung nền trời ngay. Trên trần nhà có một lỗ hổng. Người ta có thể, qua lỗ hổng đó nhìn thấy mây bay trên nền trời, và khi trời mưa, nước mưa cũng rơi cả xuống nền nhà thờ.
Nhà thờ đó không có cửa sổ chung quanh. Nên ánh sáng mặt trời ban ngày chiếu sáng cả nhà thờ thông qua lỗ hổng đó. Ngoài ra nhà thờ chỉ được chiếu sáng bằng ánh cây nến và ánh sáng đèn điện thôi.
Ngôi nhà thờ cổ kính này, ngày xưa người Rôma xây dựng để thờ kính các Thần Thánh có tên gọi là đền thờ Pantheon. Lỗ hổng hình tròn trên trần đền thờ hướng lên trời cao muốn vẽ ra hình ảnh vòm trời trong ý nghĩa nói về sự hài hòa trong vụ trụ. Nơi đó là trung tâm điểm thu nhận ánh sáng mặt trời. Và qua lỗ hổng vòm trời đó ánh sáng mặt trời chiếu dọi tỏa vào trong đển thờ.
Sau này khi đức tin đạo Công giáo lan truyền ăn rễ sâu vào đời sống trong thành Roma, đền thờ Pantheon này đã được „rửa tội“ trở thành ngôi thánh đường dâng kính Đức Mẹ Maria và các Thánh, nhưng cũng vẫn giữ nguyên cấu trúc cùng ý tưởng, như các kỹ sư lúc khởi đầu xây dựng, nói về sự hài hòa trong vũ trụ.
Ý nghĩ về ánh sáng chiếu tỏa còn được mở rộng thêm theo nguồn Kinh Thánh, như lời Chúa Giêsu đã nói: „Thầy là ánh sáng trần gian“ ( Gioan 8,12).
Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng trần gian, là trung tâm cho toàn thể thế giới. Đức Mẹ Maria và các Thánh, qua đời sống nhân đức thánh thiện tốt lành, chỉ phản chiếu lại ánh sáng của Thiên Chúa. Họ ca ngợi chúc tụng quyền năng của Thiên Chúa và cầu nguyện cùng Người, cùng chung hợp với các Thiên Thần ở trên trời cao.
Khi bước vào ngôi đền thờ Pantheon này, con người cảm thấy mình là một phần, một tạo vật trong công trình sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa. Và mỗi người cũng được mời gọi cùng ca tụng quyền năng của Thiên Chúa, như Đức Mẹ Maria và các Thánh bây giờ ở trên trời hằng làm.
Không chỉ ngôi đền thờ „ Pantheon“ ở Roma với lối kiến trúc mở vòm hướng lên trời cao mới nói lên ý nghĩa sự hài hòa của vũ trụ.Nhưng ý nghĩa đó còn ở khắp mọi ngôi thánh đường khác. Cho dù trần nhà thờ xây kín, được vẽ hay chạm hình Đức Mẹ, các Thiên Thần, các Tiên Tri hay các Thánh đi chăng nữa.
Hơn thế nữa, chính chúng ta cũng là tạo vật trong công trình sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa. Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, qua làn nước Bí tích rửa tội, là thành phần trong Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô trên trần gian, và chính Giáo Hội đó cũng là một phần của trời cao.
Nên mỗi khi cử hành lễ nghi phụng vụ kính thờ Thiên Chúa trong thánh đường, ta cảm nhận ra được một phần nhỏ trời cao đang ở giữa ta, đang khi cùng với mọi người tín hữu Chúa Giêsu, cùng với các Thiên Thần, với các Thánh đọc kinh hát mừng chúc tụng Thiên Chúa.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
BÀI GIẢNG TRÊN NÚI: HẠNH PHÚC THẬT- Lm. Vũ Xuân Hạnh
Sống trên đời, ai cũng mong, cũng tìm hạnh hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc là gì, thì không phải ai cũng biết mà tìm. Vì thế, con người cứ mãi luẩn quẩn trong bất hạnh, vì đi tìm hạnh phúc, mà không “biết đâu là nguồn cội” hạnh phúc, làm sao mà tìm!
Nhìn vào thế giới, quan sát cuộc đời, chúng ta như những chiếc tàu mất phương hướng. Tưởng rằng giàu có là hạnh phúc, nhưng “người giàu cũng khóc”. Nghĩ rằng quyền cao chức trọng là hạnh phúc, nhưng “càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan”. Ai là người có quyền để nói với chúng ta: theo tôi là gặp được hạnh phúc? Không một ai cả.
Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đủ quyền năng và tình thương, Ngài giới thiệu cho chúng ta con đường và điều kiện để chiếm hữu hạnh phúc thật, hạnh phúc đời đời. Đó là Tám Mối Phúc. Các thánh mà hôm nay chúng ta mừng kính, là những đấng đã nghe và chọn lựa các mối phúc này, các ngài đã thành công. Các ngài là gương mẫu cho chúng ta để định hướng cuộc đời mình. Hạnh phúc không thể đến với ai xây dựng theo tiêu chuẩn thế gian, mà chỉ dành cho ai dám chọn lựa Phúc Thật theo Chúa Giêsu giới thiệu.
Có những vị thánh công nghiệp lẫy lừng cả nhân loại đều biết, nhưng có những vị lại nên thánh trong cách sống thanh thoát với của cải mau qua. “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”.
Có những vị mạnh mẽ để chịu chết vì bênh vực Đạo Chúa, nhưng cũng có vị sống giữa đời luôn nở nụ cười khả ái với mọi người chung quanh, không tranh chấp, đố kị. “Phúc cho ai hiền lành”. Chúng ta hãy suy niệm và chiêm ngắm các thánh đã theo những nẻo đường Phúc Thật mà Chúa Giêsu giới thiệu, dù rất âm thầm, nhưng các ngài đã thành công.
Lạy Chúa Giêsu, làm người, ai cũng khát khao được hạnh phúc, nhưng con người lại bị nhận chìm trong nỗi bất hạnh, vì không biết cội nguồn hạnh phúc ở đâu. Chúng con tìm hạnh phúc mau qua, bỏ đi hạnh phúc trường cửu. Chúng con tìm hạnh phúc thế trần, thay vì tìm hạnh phúc Nước Trời. Xin cho chúng con được khôn ngoan, biết chọn lựa hạnh phúc mà Chúa giới thiệu hôm nay. Amen.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
CÁC THÁNH TRÊN THIÊN ĐÀNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay Mẹ Hội thánh hân hoan mừng các người con của mình đã chiến thắng vẻ vang trong cuộc chiến ở trần gian nay đã được vinh hiển trên thiên đàng. Hội thánh mừng chung tất cả các người con của mình trong một ngày, vì trong lịch Phụng vụ, chúng ta mới mừng một số thánh được tôn phong trên bàn thờ, trong khi đó còn biết bao vị thánh âm thần khác không được nhắc tới mà sách Khải huyền mô tả :”Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi nước mọi dân, mọi chi tộc và ngôn ngữ” (Kh 7,9).
I). CÁC THÁNH TRÊN THIÊN ĐÀNG
Các thánh là ai ?
Đọc Thánh Kinh chúng ta thấy Thiên Chúa đã cao giọng hứa cùng ông Abraham và ông Mai sen rằng :”Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi đông đúc như sao trên trời” (St 22,17; Xh 27,13). Lời hứa ấy cũng trùng hợp với thị kiến của thánh Gioan tông đồ :”Tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá tiên tuế “(Kh 7.9)
Họ là những người đã được nghĩa cùng Chúa, gồm đủ mọi dân nước trên thế giới, đủ mọi hạng người già trẻ lớn bé, mầu da, sang hèn, trong đó có cả những người thân yêu trong gia đình, trong họ hàng chúng ta.
Họ đã làm gì ?
Họ không phải là những con người hoàn hảo, toàn thiện, không vướng mắc lầm lỗi, thiếu sót hay tật xấu nào. Họ không phải là những siêu nhân, họ chỉ là những con người bình thường như mọi người, nhưng nhờ ơn Chúa trợ lực, họ cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Đức Kitô, mỗi người theo những điều kiện riêng của mình.
Họ đã trải qua những cuộc chiến đấu nội tâm trường kỳ, những bước tiến đầy cam go thử thách. Có những thành công rực rỡ, mà cũng có những thất bại ê chề. Họ cố gắng sống tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Cuối cùng họ đã đạt tới đích là nhờ đã cố gắng liên lỉ và đã biết hợp tác với ơn Chúa một cách kiên cường. Họ đã trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng và họ đã được hưởng nhan thánh Chúa trên thiên đàng.
II). CHÚNG TA CÓ THỂ NÊN THÁNH KHÔNG ?
Nhiệm vụ phải nên thánh
Chúa kêu gọi mọi người nên thánh. Ngay từ Đạo Cũ, quen gọi là đạo ông Mai- sen, Thiên Chúa đã truyền cho họ phải nên thánh :”Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng thánh” (Lv 20,26). Thế rồi trong đạo mới, Chúa Giêsu cũng căn dặn chúng ta :”Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”(Mt 5,48). Còn thánh Phaolô tóm tắt tất cả trong câu :”Thánh ý Thiên Chúa là muốn cho anh em nên thánh” (Ep 1,4). Ngài con khuyên bảo thêm :”Anh em phải sống xứng đáng là các vị thánh”(Ep 5,3)
Nên thánh là điều có thể
Chúa đã kêu gọi chúng ta phải nên thánh, việc mời gọi đó chứng tỏ nên thánh là điều có thể. Trong phạm vi triết học, chúng ta có nguyên tắc bất hủ này :”Nemo ad impossibile tenetur” : không ai bị buộc làm điều không có thể làm.
Theo nguyên tắc này, nếu ta không nên thánh được, thời hoặc là Chúa không buộc, điều đó không đúng; hoặc là Chúa buộc vào cổ ta một ách không thể vác được, điều đó trái với lòng lân mẫn và nhân hậu của Chúa, Đấng đã phán :”Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Điều đó còn trái với luân lý và phá hủy trách nhiệm, vì ta chỉ có trách nhiệm khi nào điều ta có thể làm mà lại không làm.
Nói tới việc nên thánh, nhiều người có thái độ hoài nghi hoặc an phận, họ cho rằng nên thánh là chuyện của các Linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ, có nhiều điều kiện để nên thánh, còn giáo dân chúng tôi phải lo trăm công ngàn việc không có thời giờ để lo việc nên thánh.
Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ phát xuất từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa lánh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói : tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp gì tới cuộc đời. Không phải thế, kinh Tiền tụng Thánh lễ hôm nay đã trả lời cho họ : Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin Mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ân huệ của Chúa.
Vì thế, “nên thánh” là điều có thể đối với hết mọi người, không trừ ai. Chính vì vậy thánh Augustinô dám nói :”Sao ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi thì lại không”.
III). NÊN THÁNH BẰNG CÁCH NÀO ?
Phải biết ước muốn mãnh liệt.
Nên thánh là việc rất dễ nhưng cũng rất khó, vì nó đòi hỏi chúng ta phải cố gắng liên tục, giống như con thuyền lội ngược dòng nước, ngơi tay chèo thì con thuyền sẽ lui. Nên thánh là một cuộc chiến đấu trường kỳ, một ước muốn mãnh liệt, một ý chí cao. Tây phương có câu ngạn ngữ :”Vouloir c’est pouvoir” : muốn là được, thì trong việc nên thánh, với ơn Chúa giúp nếu chúng ta muốn là chúng ta có thể nên thánh.
Chúng ta phải ước muốn mãnh liệt chứ không phải chì là mơ ước. Muốn nghĩa là phải tiến tới hành động, phải thành công mới thôi. Thánh Phanxicô de Salê nghe tin phong thánh cho Phanxicô Xaviê, liền nói:”Đó là thánh Phanxicô thứ ba, tôi sẽ là Phanxicô thứ bốn”. Quả vậy, bây giờ trong danh sách các hiển thánh, ngài là thánh Phanxicô thứ bốn.
Phải thắng được chính mình
Muốn nên thánh thì phải thắng chính con người mình, phải làm chủ được nó, bắt nó phải theo một kỷ luật và hướng nó vào một mục đích cao đẹp. Nhưng muốn thắng được mình thì trước tiên phải biết mình, biết sở trường sở đoản của mình để tiến tới sự thánh thiện.
Như vậy, muốn nên thánh là phải làm chủ được mình. Muốn làm chủ được mình là phải thắng bản thân mình với tất cả những khuyết điểm, những thiếu sót của nó. Thắng được mình là một chuyện rất khó. Chính hoàng đế Napoléon đã có kinh nghiệm này khi ông nói :”Thắng được cả Âu châu còn dễ hơn thắng được chính bản thân mình”. Nên thánh thì phải biết những nết xấu để sửa, biết những cái hay, cái tốt để tập luyện hay dinh dưỡng.
Thánh Phaolô thúc giục tín hữu Êphêsô nên thánh bằng cách làm một cuộc cách mạng bản thân. Ngài nói :”Anh em hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới. Hãy để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em”(Ep 4,22-24).
Theo ý thánh Phaolô, chúng ta cần gột bỏ con người cũ tội lỗi mang đầy những tính hư nết xấu đang chi phối con người ta, làm cản bước tiến của ta, bắt ta làm nô lệ chúng, để chúng ta có thể tiến tới con người mới thánh thiện hơn.
Truyện : Thầy dòng dạy mãnh thú
Một buổi chiều, Bề trên nhà dòng kia hỏi một tu sĩ :
– Hôm nay con đã làm gì ?
Cũng như các ngày khác, tu sĩ trả lời :
– Thưa cha, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, kìm hãm hai con diều hâu đề rèn ý chí, thắng một con sấu, trị được con gấu và săn sóc cho một bệnh nhân.
Bề trên cười hỏi lại :
– Con nói gì thế ? Những việc như thế làm gì có trong nhà Dòng ?
– Thưa cha, thật đúng như thế ! Hai con chim ưng tức là hai mắt của con, mà con phải giữ gìn luôn để khỏi nhìn những vật cấm. Hai con nai tức là hai chân mà con phải trông coi từng bước đi để nó khỏi đi vào con đường xấu. Hai con diều hâu tức là hai bàn tay, con phải luôn luôn bắt nó làm điều phải. Con sấu tức là cái lưỡi, con phải kìm hãm hằng ngày để khỏi nói những lời vô ích và thô bỉ. Con gấu tức là trái tim con, con phải trừng trị, để khỏi phải ích kỷ và khoe khoang. Còn bệnh nhân chính là thân thể con, con phải canh phòng ráo riết để cho nhục dục khỏi phải xâm nhập vào (T. Toth, Chí khí người thanh niên, 1957, tr 53).
Nên thánh bằng cách nào ?
Nên thánh là một điều cần thiết và có thể, nhưng cách nên thánh thì không ai giống ai, mỗi người có một hoàn cảnh, mỗi người có một đường lối riêng. Nhưng dù sao, đường lối nên thánh của ta là đường lối thông thường của nhiều người, không cầu kỳ khó khăn.
Tránh kiểu nên thánh đặc biệt.
Thời trước đây có một số người nên thánh bằng những phương pháp đặc biệt mà có lẽ chúng ta không học đòi được vì nó vượt quá sức ta. Ví dụ :
– Có người tự giam mình trong một nơi kín hằng mấy chục năm, chỉ sống nhờ vào lòng hảo tâm của dân chúng cung cấp cho ăn qua một lỗ hổng.
– Có người ẩn tu trong một ngôi mả hoang đào trên sườn núi, cạnh con sông hoặc mạch suối.
– Có một kiểu tu đặc độc đáo : Simong Cột leo lên cột đá cao dựng trên đỉnh chót vót để chiêm nghiệm huyền nhiệm thần linh và giảng dạy cho dân chúng suốt 37 năm trường. Vì thế người ta mới gọi là thánh Simong Cột.
– Noài ra, có một số người sống một đời khắc khổ như mang trên mình xiềng xích nặng làm cho khó đi đứng, mặc áo nhặm thường xuyên, hoặc đứng yên một chỗ không xê dịch, hoặc chỉ ăn hoa quả, không hề động đến thịt, cá, trứng; hoặc đặc biệt hơn chuyên ăn thịt ươn, cá thối.
Nên thánh theo cách thông thường .
* Theo thuyết Chính danh.
Trong chương trình giáo dục thời xưa, chúng ta thấy Đức Khổng Tử có thuyết “Chính danh” và thuyết này có thể áp dụng vào đường lối nên thánh của chúng ta. Thuyết ấy là :”Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, nghĩa là vua phải sống cho ra vua, tôi phải xứng với bầy tôi, cha phải sống cho ra cha và con phải sống xứng phận làm con. Nếu ai cũng làm trọn trách nhiệm của mình trước mặt Chúa một cách trọn hảo thì có thể là thánh rồi..
Ngoài ra, thuyết chính danh cũng cần kèm theo với chương trinh giáo dục theo từng bậc : tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nhưng căn bản nhất vẫn là tu thân. Tu thân là sửa mình cho nên tốt, mà tu thân cần nhất phải được thực hiện ngay trong nhà mình, chứ không cần phải ở trong nhà Dòng, vào tu viện để tu thân :
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Phải chăng tu tại gia, làm thánh ở trong nhà, trong gia đình thì khó lắm ? Tại sao? Vì có những người đi ra khỏi nhà, ai cũng phải cảm phục về cách sống, về lối cư xử, về lời ăn tiếng nói của những người ấy. Thế nhưng khi về đến nhà thì những người trong nhà không sao chịu nổi lối sống của những người đó. Bởi ở trong gia đình mọi chân tướng đều được để lộ ra hết.
Nên thánh ở trong gia đình là một điều khó, nhưng đó là điều có thể và lại còn bắt buộc. Chúng ta có thể và còn phải trở thành một vị thánh, và trước hết là thánh nhân trong gia đình, không cần phải đi đâu.
Người giáo dân có thể nên thánh trong gia đình nếu vợ chồng biết thương yêu nhau, nhường nhịn nhau, chu toàn mọi nhiệm vụ của mình, cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho gia đình và con cái, biết dưỡng dục con cái cho nên tốt… Chúng ta đã có gương sáng của một vài gia đình, trong đó cả vợ chồng được Giáo hội phong thánh.
Truyện : Vợ chồng được phong thánh
Chúa nhật, ngày 28/10/2001, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho đôi vợ chồng đầu tiên là Luigi Maria Beltrane Quattrochi thành Rôma kết hôn được 50 năm và có 4 người con, một người con qua đời và 3 người còn sống. Hai con trai là linh mục Philipphê và Césare cùng đồng tế với Đức Giáo hoàng trong lễ phong chân phước cho cha mẹ họ, và một người con gái là Eurichetla. Đức Giáo hoàng đã ca tụng họ sống một đời thường rất phi thường. Ngài muốn nói rằng : sống trong đời đôi bạn gặp biết bao đau khổ, bao gian nan thử thách, họ cũng có thể làm thánh và giúp nhau làm thánh nữa.
Và vào ngày 19/10/2008, Giáo hội lại phong chân phước cho cha mẹ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Ông Louis Martin và bà Zélie Gúerin người Pháp. Cả hai đã từng có ý định đi tu, nhưng nhận thấy không có ơn gọi tu trì nên trở về và do sự quan phòng của Thiên Chúa họ đã kết hôn với nhau. Ông bà sống với nhau thật hạnh phúc và có 9 người con. Chết mất 4 và còn 5 người con gái đều dâng mình cho Chúa và cô con gái út đã làm thánh lớn, đó là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Phong thánh cho cả hai ông bà, Giáo hội muốn đề cao ơn gọi nên thánh trong đời sống hôn nhân và gia đình. Dù gặp nhiều đau khổ và thử thách, nhất là giáo dục con cái, nhưng họ vẫn có thể làm thánh, nếu họ trông cậy vào ơn Chúa và chu toàn bổn phận hôn nhân vì mến Chúa.
* Đường thơ ấu thiêng liêng.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội thánh, có lẽ vì thánh nữ đã khám phá ra một con đường nên thánh phù hợp với mọi người, nhất là trong thời đại chúng ta, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng”.
Theo con đường này, nên thánh không cần phải làm những việc đại sự, phi thường hay kỳ diệu mà chỉ cần làm những việc nhỏ với một lòng mến lớn lao “Communia non communiter”.
Con đường thơ ấu thiêng liêng này không cần những việc hãm mình khác thường, không đặc sủng siêu nhiên, không có phương pháp cầu nguyện riêng, không bận rộn nhiếu công việc… nhưng có những điểm tích cực là làm việc với lòng mến cao độ, tín thác hoàn toàn trong tay Chúa, sống đơn sơ khiêm nhường như trẻ thơ và trung thành với các việc nhỏ mọn.
Nhờ con đường thơ ấu thiêng liêng này mà Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trở nên vĩ đại và trở nên phi thường trong những cái tầm thường.
Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta mẫu gương sáng ngời của các thánh để khích lệ chúng ta trong việc nên thánh. Chúng ta quyết tâm phải nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
PHÚC THAY…- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, hôm nay chúng ta cử hành trọng thể Thánh Lễ tôn kính các Thánh Nam Nữ, các thánh đã được Giáo Hội tôn phong và tất cả những người đang được phúc chia sẻ sự sống viên mãn của Thiên Chúa, cùng với Đức Ki-tô, trong đó, chắc chắn có ông bà tổ tiên và những người thân yêu của chúng ta trong đức tin, trong gia đình và trong đời sống dâng hiến. Bởi vì sách Khải Huyền nói về các thánh là:
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. (Kh 7, 9)
Vì thế, chúng ta xác tín rằng, các ngài hằng ngày vẫn đang cầu bầu và đồng hành với chúng ta trên con đường hành hương tiến về nơi hằng phúc, để cùng xum họp với các ngài và những người thân yêu của chúng ta trong cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Và thật là ý nghĩa, khi trong Thánh Lễ mừng kính trọng thể các Thánh Nam Nữ hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại Lời Chúa công bố Các Mối Phúc. Bởi vì đó là con đường nên thánh, nghĩa là trở nên một với Đức Ki-tô, mà các thánh đã đi và chúng ta được mời gọi bước đi trên cùng một con đường hôm nay.
- Khung cảnh (c. 1-2)
“Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần. Người mở miệng dạy họ”. Chúng ta hãy hình dung ra khung cảnh đầy ý nghĩa này:
– Xưa kia trên núi Sinai, Thiên Chúa ban Lời của Ngài qua trung gian Mô-se; và nhờ Lời của Ngài, một đám đông ô hợp, vô danh và nhỏ bé, trở thành dân riêng của Chúa: Thiên Chúa trở thành Đức Chúa của dân, dân trở thành dân tộc được tuyển chọn của Đức Chúa.
– Còn ở đây, Thiên Chúa ban Lời của Ngài qua Đức Giê-su, hiện thân của Lời Chúa, bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể. Và Lời của Người được ban cho tất cả mọi người, để qui tụ thành Dân Mới của Thiên Chúa, được tuyển chọn nhờ, với và trong Người.
Chúng ta hãy so sánh, khám phá và cảm nếm sự khác biệt: Mô-sê ban lời đến từ Đức Chúa, còn Đức Giê-suban lời nhân danh chính ngôi vị của mình. Trong những lời này của Tám Mối Phúc và của cả Bài Giảng Trên Núi (Mt 5-7), Đức Giêsu đặt chủ thể của mình vào chủ thể của Đấng ban Lời ở núi Sinai, Người bảy tỏ căn tính thần linh của mình. Như thế, từ núi này đến núi kia, biến cố mà Đức Giêsu tạo ra thật là lớn lao. Vì thế, chúng ta được mời gọi chú ý cách đặc biệt đến hành vi nói của Chúa: “Người mở miệng dạy họ, Ngài nói”. Hãy để cho đôi mắt và đôi tai của chúng ta dừng lại chiêm ngắm và đi vào chiều sâu của biến cố trung tâm này: “Ngài mở miệng dạy họ, Ngài nói”.
Biến cố này hoàn toàn khớp với dụ ngôn Người Gieo Giống: Người gieo giống đi ra gieo giống. Xin được hiểu và kinh nghiệm được trong tôi biến cố: nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa ra khỏi mình để thông truyền chính Ngài cho tôi qua lời nói. Bằng Lời, Ngài đã sáng tạo nên con người chúng ta có khả năng thông truyền bằng lời, và bây giờ, Ngài khởi đi từ cái chúng là, một tạo vật biết nói biết nghe, để đến gặp gỡ chúng ta. Chúng ta cũng được mời gọi đi cùng con đường lời nói để đi đến với Ngài: trong cầu nguyện và nhất là trong thời gian tĩnh tâm, chúng ta được mời gọi dành nhiều thời gian để lắng nghe Lời Chúa và sau đó tâm sự với Ngài, như một ngôi vị sống động và gần gũi.
Nơi Đức Giê-su Ngôi Lời của Thiên Chúa, lời và hiện hữu là một: Ngài nói điều Ngài là và Chúa là điều Ngài nói trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Xin cho điều chúng ta nói với Chúa và với nhau là chính chúng ta.
- Tám mối phúc (c. 3-10)
- Thân phận con người
Trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, lời giảng dạy của Đức Giê-su được tổng hợp thành 5 bài giảng lớn, và bài giảng đầu tiên là Bài Giảng Trên Núi. Và lời đầu tiên của bài giảng đầu tiên, Đức Giê-su ngỏ với đám đông và các môn đệ là “Phúc thay…”, thay vì là lời cấm đoán , một mệnh lệnh, một lời lên án, hay một lời chúc dữ “khốn thay”. Trong cầu nguyện, chúng ta không cần suy niệm hết các mối phúc, chúng ta hãy dừng lại mối phúc nào chúng ta thích nhất, ấn tượng nhất, mời gọi nhất, chất vấn nhất, bởi vì đó chính là dấu chỉ của biến cố: hạt giống rơi vào chỗ đất tốt.
Chúng ta thường hiểu các mối phúc mà Đức Giê-su công bố là lý tưởng vừa cao vừa khó, mà mỗi người chúng ta phải đạt được để trở nên thánh, giống như các thánh nam nữ chúng ta mừng kính hôm nay. Tuy nhiên, các mối phúc không ở bên ngoài chúng ta và cũng ở cách xa chúng ta, nhưng các mối phúc mà Đức Giê-su công bố lại diễn tả chính căn tính đích thật của chúng ta, chính niềm khát khao sâu thẳm của chúng ta, chính niềm hạnh phúc bền vững của chúng ta.
– Thật vậy, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”. Trong thân phận của con người, không ai trong chúng ta cảm thấy tự đủ trong cõi lòng mình; con người đến một lúc nào đó, đều cảm thấy mình nhỏ bé, mỏng manh, chóng qua, nghèo nàn tận căn về mọi phương diện, nhất là lúc mới sinh ra và sắp sửa lìa đời, trả lại sự sống cho Chúa.
– Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai hiền lành”. Con người chúng ta vốn là hiền lành, chứ không phải là bạo lực hay thú tính; và sự hiền lành này đã được gieo nơi bản tính sâu xa của con người chúng ta; đó là điều mà chúng ta gọi là nhân tính. Bởi vì, con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa; mà Thiên Chúa thì hiền lành, vì Ngài là tình yêu.
– Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai sầu khổ”. Ai trong chúng ta đã không một lần khóc lóc sầu khổ: khóc lóc sầu khổ cho thân phận sinh lão bệnh tử của mình, khóc cho số phận đầy thử thách, tai ương và bất hạnh, khóc và sầu khổ cho người khác, nhất là cho những người thân yêu, cho những người chịu thiệt thòi, bệnh tật, kém may mắn.
– Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai khao khát nên người công chính”. Và ở trong sâu thẳm của tâm hồn, tất cả chúng ta đều khao khát nên công chính, thay vì ở trong sự bất chính, để có thể đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban. Nhưng rốt cuộc thì chính Thập Giá Đức Ki-tô làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, bởi vì chúng ta không thể tự mình làm cho mình trên nên công chính được.
Và cũng như thế đối với các mối phúc còn lại. Như vậy, chính thân phận con người của chúng ta, không thêm và cũng không bớt là một mối phúc, chứ không phải là mối họa, hay hình phạt, cho dù chúng ta có một thân phận như thế nào, bất hạnh như thế nào; thân phận của chúng ta là con đường dẫn chúng ta đến điều Chúa hứa ban trong các mối phúc, đó là: Nước Trời, Đất Hứa, ơn an ủi, ơn công chính, lòng thương xót và chính ngôi vị Thiên Chúa. Và để cho chúng ta tin tưởng và xác tín như thế, Đức Giê-su đã sống đến cùng thân phận con người, là chịu đóng đinh trên Thập Giá, để qua đó đi vào sự sống mới, sự sống Phục Sinh của Thiên Chúa Cha.
Và để hiểu thật đúng và thật sâu những lời này của Chúa, chúng ta được mời gọi nhìn ngắm chính cách hiện hữu của Chúa: Chúa nghèo thế nào trong tinh thần? Chúa hiền lành như thế nào? Chúa khóc lóc như thế nào: “Thiên Chúa của con, Thiên Chúa của con, Tại sao Ngài đã bỏ rơi con ? (Mt 27, 46); “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính” (Dt 5, 7). Và Đức Giê-su đói và khát sự công bình như thế nào? Vì Ngài đem sự công chính của Thiên Chúa đến cho con người, và Ngài mong mọi người đón nhận; và Ngài là sự công chính của Thiên Chúa.
Qua các mối phúc, Đức Giê-su qua lời nói và hành vi của Ngài, qua cách Ngài sống với Thiên Chúa và với con người, qua cách Ngài tương quan với thực tại, Ngài dẫn chúng ta về cái chúng ta là. Và cái chúng ta là, chính là một mối phúc. Ngược hẳn với điều loài người chúng ta vẫn nghĩ: điều chúng ta là, là một hình phạt. Và những gì Chúa hứa, chúng ta được mời gọi cảm nghiệm ngay hôm nay rồi.
- Niềm vui và hạnh phúc
Khi sống các mối phúc, chúng ta được hứa ban Nước Trời, Đất hứa, ơn an ủi, lòng thương xót, được thấy Thiên Chúa và làm con Thiên Chúa. Nhưng vì các mối phúc không phải là những điều xa vời, cao siêu mà chúng ta phải cố vươn tới, nhưng diễn tả bản chất đích thật của con người, Vì thế, khi sống các mối phúc, chúng ta đã có kinh nghiệm ngay bây giờ niềm vui và hạnh phúc rồi. Thật vậy:
– Hạnh phúc biết bao, người nghèo khó trong tim, thay vì đầy những quyến luyến.
– Hạnh phúc biết bao người hiền lành, thay vì dữ tợn.
– Hạnh phúc biết bao người khóc thương, vì đồng cảm với người khác, thay vì dửng dưng vô cảm.
– Hạnh phúc biết bao người xót thương và bao dung, thay vì không lên án và không khoan nhượng.
– Hạnh phúc biết bao người có lòng trong sạch, thay đầy những điều nhơ uế.
– Hạnh phúc thay người phục vụ cho công bình và hòa giải, thay vì chuyên làm những điều bất chính và gây hấn.
– Hạnh phúc thay người đi theo Đức Ki-tô vì lòng mến, bất chấp khó khăn và bách hại, thay vì coi mình là trung tâm và chỉ biết sống cho mình.
Như thế, các mối phúc không chỉ nói cho chúng ta về hạnh phúc và phần thưởng Thiên Chúa sẽ ban ở đời sau, nhưng còn trình bày cho chúng ta một cách cách sống mang lại cho chúng ta niềm vui và hạnh phúc ngay bây giờ, vì đó là lối sống phù hợp cách sâu xa với nhân tính của chúng ta.
- Mối phúc đặc biệt (c. 11-12)
Ngoài Tám Mối Phúc, còn có một mối phúc đặc biệt ; đặc biệt, vì là mối phúc cuối cùng và được nói ở ngôi thứ hai “anh em”, diễn tả tương quan trực tiếp giữa Đức Giê-su và những người nghe, hôm qua cũng như hôm nay. Nhưng đặc biệt nhất là nguyên nhân của mối phúc: đó là “vì Thầy”. Chúng ta cần tự hỏi, “vì Thầy” có nghĩa là gì? Tại sao lại « vì Thầy » ? “Vì Thầy”, chúng ta thường chỉ hiểu ở mức độ thi hành sứ mạng, hay thực hiện một công việc mà chúng ta được giao phó, hoặc thực hiện một lựa chọn mà chúng ta xác tín là của Đức Kitô, hay xác tín là phù hợp với Tin Mừng của Ngài. Tuy nhiên, tại sao chúng ta lại thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu, tại sao chúng ta lại tìm thi hành ý Chúa ? Kinh nghiệm của các thánh nam nữ sẽ giúp chúng ta tại sao lại « vì Thầy ».
Đó chính là kinh nghiệm hiểu biết, yêu mến, và không chỉ ước ao đi theo, nhưng còn muốn trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, là kinh nghiệm chiêm ngắm ngôi vị của Ngài, và khi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài như các Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chúng ta không thể không yêu mến Ngài và ước ao trở nên một với Ngài như các Thánh Nam Nữ. Như thế, đây chính là mối phúc được trở nên giống Đức Giêsu cách trọn vẹn, cả trong cách sống lẫn trong thân phận bị loại trừ, và cả ở trong niềm vui nữa: “anh em hãy vui mừng hớn hở”.
* * *
Đặt mối phúc đặc biệt này trong tương quan với tám mối phúc khác và trong tương quan với cả Bài Giảng Trên núi, chúng ta cũng nhận ra rằng Đức Giê-su công bố điều Ngài là: Ngài có tâm hồn nghèo khó, Ngài hiền lành, Ngài sầu khổ… Vì thế, để hiểu và sống lời của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài, và khi chiêm ngắm ngôi vị của Ngài như các Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chúng ta không thể không yêu mến Ngài và ước ao trở nên một với Ngài như các Thánh Nam Nữ.