CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
Y PHỤC TIỆC CƯỚI(*)– Chú giải của Noel Quession. 6
DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI VÀ ÁO CƯỚI- Chú giải của Fiches Dominicalaes 14
BỮA TIỆC THỜI CÁNH CHUNG VÀ BỮA TIỆC THIÊN SAI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 23
CHÚA MỜI GỌI TA DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 45
MẶC ÁO CƯỚI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 53
TIỆC CƯỚI HOÀNG TỬ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 57
MẶC LẤY CHÚA KITÔ– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 62
HÃY NGHIÊM CHỈNH THAM DỰ TIỆC CƯỚI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính 66
BÀN TIỆC NƯỚC TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 72
MẶC CHIẾC ÁO CƯỚI TRONG NGÀY RỬA TỘI- Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang 76
TIỆC MỪNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 81
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chúa mời đến dự tiệc của Người và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta. Đây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay của Người trên núi này. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Đáp: Trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài (c. 6cd).
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. – Đáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. – (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. – Đáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. – Đáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo con hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, con sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Pl 4, 12-14. 19-20
“Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn. Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi. Nhưng anh em đã hành động chí lý khi san sẻ nỗi quẫn bách của tôi. Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô. Vinh danh Thiên Chúa là Cha chúng ta muôn đời. Amen! Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con lắng nghe lời Con của Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 22, 1-10 hoặc 1-14
“Các ngươi gặp bất cứ ai, thì hãy mời vào dự tiệc cưới”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-A
Y PHỤC TIỆC CƯỚI(*)– Chú giải của Noel Quession
Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình…
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới… dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.
Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng” xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hôsê 1 đến 3; I-sai-a 54,4-8 – 61,10 – 62,4-5; Giê-rê-mi-a 2,2 – 31,3; ê-đê-ki-en 16; Thánh vịnh 45,7-8,Diễm Ca, toàn bộ; Mác-cô 2, 19; Gioan 3;29; Mát-thêu 2 5, 1 -1 3 – 9, 1 5; Ê-phê-sô 5,25; 2 Cô-rin-tô 19,29 – 21,2-9′ – 22,17; Khải Huyền 20,9 – 21,2-9 v.v…). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một “Giao ước” một “Lễ cưới”. Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là “một câu chuyện tình yêu?
Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới…
Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự “vương giả”… một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. “Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà? “. Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biể u tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ… Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?
Nhưng họ không chịu đến.
Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.
Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!”.
Như trong dụ ngôn “những tá điền sát nhân”, nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gợi cho tôi một “thẻ” vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ đành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.
Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.
Nhu trong “mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người… trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi… chính thế giới hiện nay…đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1. những người “thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi… 2. và đến những người.”phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.
Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa… “Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật… Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi…”. Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những ‘lời’ kêu gọi của Người. “Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?”. Và chúng ta không hề nghe thấy!
Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.
Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Mát-thêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc ít-ra-en như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiễu cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa” (I-sai-a 5,26-29; Giê-rê-mi-a 5,15-17).
Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mới đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.
Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp “vâng” với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?
Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các “ông lớn” không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: “Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Luca 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái.điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”
Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời… “.
Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của “tôn giáo bình dân sao?”.
Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”. Người ấy câm miệng không nói được gì.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải “đáp ứng” lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải “mặc lấy con người mới” (Ga-‘lét 3,27; E-phê-sô 4,24; Cô-lô-xê 3,10).
Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?”
Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của “Y phục lễ cưới”, của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.
Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném “ra ngoài”. Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục “mời gọi” đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa”. Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng “vâng” nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI VÀ ÁO CƯỚI- Chú giải của Fiches Dominicalaes
1). Từ những khách mời “không xứng đáng… đến gặp ai cũng mời”:
Trước sự phẫn nộ của đối phương, còn dân chúng lại hồ hở chào mừng Người bằng những lời tung hô “vạn tuế, Đức Giêsu đã tiến vào thành Giêrusalem trong tư cách Messia. Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Người thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch sách. Rõ ràng là họ tới có ý chất vấn Người đã lấy quyền nào mà nói và hành động như vậy: “ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Ai đã cho ông quyền ấy” (21,23). Nhưng Đức Giêsu đã từ chối trả lời họ, bao lâu mà chính họ vẫn lẩn tránh câu Người hỏi họ: “Phép Rửa của Gioan do đâu mà có. Do Trời hay do người ta (21,24). Trong bối cảnh gay cấn như vậy, mà ba dụ ngôn về xét xử Chúa dùng để nói với họ như một lời cảnh giác mạnh mẽ và cuối cùng, được đặt vào:
Dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho (Phúc âm Chúa nhật 26).
Dụ ngôn những ta điền sát nhân ( Phúc Am Chúa nhật tuần rồi ).
Dụ ngôn tiệc cưới (Phúc âm Chúa nhật 28 này).
Đọc bản văn dụ ngôn những khách mời dự tiệc như được viết trong Phúc âm Matthêu, chúng ta có thể nhận thấy ngay những lời giáo huấn của Chúa được các cộng đồng tín hữu gìn giừ và nghiền gẫm, đã phải trải qua quá trình truyền đạt và thích nghi cho tới khi được các thánh sử soạn thảo thành văn nhất định. Chắc hẳn trong nội dung lời giáo huấn của Chúa, thì dụ ngôn này, theo như diễn ý của J.Jérémias, có nghĩa như “một sự bênh vực và biện minh” cho Phúc âm.
Th. Matura giải thích: “Những người đạo đức (các Pharisiêu), những nhà “thần học (các kinh sư), những người lãnh đạo tôn giáo của dân (các tư tế) dù không đón nhận Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu loan báo, mà theo nguyên tắc là có ý dành cho họ trước tiên. Trái lời dân chúng và nhiều người sống bên lề (các người thu thuế, “tội lỗi), những người bị những kẻ thông trị loại bỏ thì lại tỏ ra sốt sắng lắng nghe lời Chúa kêu gọi và vui lòng đi theo Người (Lc 15,1-2), khiến cho giới có đầu óc khó chịu và buông lời chỉ trích. Dụ ngôn những khách mời dự tiệc cưới là câu trả lời cho thái độ giả hình này. “Chính các ông cũng giống như những người khách được mời này mà lại chối từ. Các ông cho đó chướng mắt, vì tôi được các người vốn bị cáo ông khinh bỉ, quây quần bên tôi: chính các ông mới là những người đã không thèn đếm xỉa tới, đã từ chối và các ông còn điểu này: không phải những người công chính mà là những người tội lỗi mới cần cứu độ!”
Điểm hóc búa của dụ ngôn Chúa kể, quả là gay cấn phải chứng tỏ và đúng, cách người cư xử với những người tội lỗi và lên án thói giả hình của giới lãnh đạo. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với những người bé nhỏ, đồng thời người cũng tố cáo những kẻ từ chối lời mời gọi của Phúc Âm, và như thế bị loại khỏi bàn tiệc Nước Trời mà Người đến khai trương” (Assemblées du Seigneur” số 59, trang 18-19).
Khi đem nội dung trên vào Phúc âm của mình để trình bày cho cộng đồng tín hữu của ngài là những người gốc Do Thái giáo, thánh sử Matthêu khác với tác giả Luca, có sửa đổi nhiều chi tiết làm thay đổi ý nghĩa ban đầu của dụ ngôn này để hướng tới một ý nghĩa ẩn dụ (mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa).
2). “Người kia” trong dụ ngôn ban đầu, trở thành “một ông vua kia mở tiệc cưới cho con mình”.
Cl. Tassin gợi nhớ lại: Cựu ước đã hứa hẹn sự hiệp nhất phu thê giữa Thiên Chúa và dân Người và Phúc âm đã trình bày Chúa Giêsu như vị Tân lang của những đám cưới được trông đợi này (x. Mt 9,15). Thế nên thánh Matthêu cung cấp ngay cho ta những chìa khoá cần thiết giúp cho việc đọc “(“Phúc âm thánh Matthêu ”, NXB Centurion, trang 230).
+ Cũng vậy, người đầy tớ duy nhất trong Phúc âm Luca được tăng lên thành nhiều loại: các câu 3.4.8.13.
+ Và không những, các người đầy tớ này bị người ta hắt hủi, mà còn bị xỉ nhục và giết chết các (câu 6 và 7) như trong dụ ngôn những tá điền sát nhân. Và cũng như trong dụ ngôn này, sự trừng hạt không muộn màng. Th. Matutura chú giải: Đức Giêsu khiển trách những người lãnh đạo tôn giáo, thì họ hăng hăng chối từ sứ mệnh của người… Việc đưa xen vào dụ ngôn, hai câu 6 và 7 càng làm rõ nét phương diện này, bởi thì rõ ràng là đối với thánh Matthêu, những khách mời thoái thác kia, chính là những người Do thái không tin. Cách họ đối xử với các người được sai đến (các ngôn sứ bị chúng giết 3,32-36) lôi kéo sự trừng phạt đến cho họ: ám chỉ qúa rõ ràng việc thành Giêrusalem bị tàn phá” (O.C. trang 20-21).
+ Không trì hoãn, vua liền sai những sứ giả khác “đi ra các ngã đường”, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.
+ Các đầy tớ thi hành lệnh ngay, gặp ai”bất luận tốt xấu cũng tập hợp lại. Th. Matura nhận định: “Cách diễn tả này chứng tỏ rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, Người lựa chọn mà không đòi hỏi, nhưng chỉ vì lòng thương xót (Mt 6, 45). Giống như những dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới, nó cũng mô tả tình trạng của cộng đồng tín hữu thời thánh Matthêu, lúc đó không phải mọi người đều thánh thiện cả. Sau cùng lời diễn tả ấy chuẩn bị cho câu chuyện về người xâm nhập phòng tiệc bị loại ra” (O.C. trang 23).
3).. Từ việc được mời… đến việc tham dự tiệc cưới:
“Phòng tiệc cưới lúc này đã đầy thực khách”. Theo tập tục Đông phương cổ, người chủ tiệc không ngồi bàn ăn với các thực khách, nhưng ông đi lại chuyện trò, thăm hỏi họ. Chi tiết hơi lạ là gia nhân ra các nẻo đường, gặp ai bất luận tốt xâu, cũng tập hợp cả lại vào phòng tiệc, thì những người ấy đâu có thời giờ mà thay đồ. Thế nên mới có câu chuyện về áo cưới. Đang khi tất cả phần thứ nhất của dụ ngôn này nói cho những người chống đối Phúc âm, thì phần kết của dụ ngôn lại nhắm nhóm người vốn cho mình vẫn sống theo Phúc âm đó là cộng đồng các môn đệ Đức Giêsu. Th. Matura giải thích: “Họ phải cảnh giác đối với ý nghĩ cho rằng chỉ cần được gọi và đáp lại Tin Mừng là bảo đảm được rỗi linh hồn. Không cần phải tuyên xưng danh Đức Kitô, tham gia vào cộng đồng của người (tức là chịu phép Rửa dể được vào phòng tiệc), còn phải chu toàn các công việc mà đức công chính mới đòi hỏi (Mt 7,21). Nếu không dù là đã được nhận vào phòng tiệc rồi, người ta vẫn có nguy cơ bị nén ra ngoài bị loại trừ vĩnh viễn khỏi Nước Trời” (O.C. trang 25).
Bởi vậy Giáo Hội không thay thế Israel, vì lịch sử dân tộc này vẫn trước sau như một. Phần các tín hữu, nên biết lượng sức mình yếu đuối giòn mỏng và vẫn chưa đáp trả đủ tình yêu Thiên Chúa của Đức G’iêsu Kitô dành cho mình, chứ đừng vội thấy người khác bị Chúa trừng phạt mà vui mừng.
BÀI ĐỌC THÊM:
“Một Giáo Hội mời gọi hết mọi người” (Giám mục L. Daloz trong “Le Règne des cieux s’est approché”, Desclée de Brouwer, trang 301-302).
“Thế chỗ cho dân tộc được kêu gọi trước nhất, những kẻ được mời gọi ở đây, chính là những lớp người của mọi dân tộc, họ ở trên các công trường, tại những ngã ba, ngã tư đường. Không còn nữa những chiếc ghế được dành riêng cho ai: “Gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới!”. Vấn đề được xét đến không phải là dân Do thái là một dân như thế, mà là thái độ tự mãn, và chối từ, sự không chú ý lắng nghe lời mời gọi của Chúa: “Họ không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn”. Thái độ đó vẫn xảy ra hôm nay, bất cứ lúc nào. Người ta cố gắng và cho là điều quá tự nhiên khi xếp đặt các giờ phút gặp gỡ với Chúa, các việc đạo đức của đời sống Kitô hữu, việc cầu nguyện… vào những giờ phút thừa thải, những ngày giờ chẳng còn công chuyện gì để làm, sau giờ lao động, sau những công việc thường ngày, cả sau khi đã vui chơi nữa, sớm muộn, còn đâu thì giờ rảnh rỗi nữa. Người ta bắt đầu trở nên bê bối, rồi tìm cớ chữa lỗi cho mình rằng: “Làm việc cũng là cầu nguyện rồi…”. Dần dần mỗi ngày một chút, người ta không còn cầu nguyện, tham dự các bí tích, các buổi hội họp và việc huấn luyện nữa, viện cớ rằng: “Tôi không còn thì giờ để cầu nguyện nữa…”. Đôi khi thái độ từ chối tiếp nhận Đức Giêsu, từ chối đáp lại tiếng gọi của Chúa là do không biết hoặc thù địch với Người. Đức Giêsu gây phiền hà, là chướng ngại. Thế là chống đối, là bách hại. Không cứ gì một dân tộc mới làm thế, mà mọi người đều có khả năng làm như vậy, và chúng ta đều là thành phần của nhân loại này! Nhưng tiệc cưới không thể bị ế. Thiên Chua vẫn mời gọi không ngừng: “Các đầy tớ ấy liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại”. Tiếng Chúa kêu gọi dành cho hết mọi người; Người ngỏ lời với những người lương thiện cũng như kẻ bất lương, với người công chính cũng như kẻ tội lỗi đặc biệt là những người tội lỗi? Điều đó giúp ta nhìn rõ Giáo Hội vốn quy tụ mọi người.
Giáo Hội nhất định không phải là nơi tập hợp những “người thập toàn”, là tổ chức gồm những người không có gì đáng chê trách cả. đôi khi chúng ta quan niệm Giáo Hội là thành phần ưu tuyển, có cảm giác rằng Giáo Hội phải loại trừ ra khỏi lòng mình tất cả nhưng ai không sống theo Phúc âm. Phải chăng đã đến lúc tôi sẽ là người đầu tiên phải bỏ đi ý nghĩ lầm lạc ấy?… Đúng là Giáo Hội đón nhận khá rộng rãi và điều đó không làm thoả mãn những ai muốn Giáo hội tạo cho mình một hình ảnh không tì vết! Liệu Giáo giội đưa ra một hình ảnh như thế có tốt không? Đó chẳng phải là con đường mở ra cho lối sống giả hình như đối với những người Pharisiêu sao? Phần cuối dụ ngôn nói đến một sự lựa lọc phải diễn ra, nhưng là vào giờ phút chót khi “vua tiến vào quan sát khách dự tiệc”. Đấy cũng là điều mà hai dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới đều nói lên: “Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính… ” (13,49). Ai muốn vào dự tiệc Nước Trời, phải mặc y phục lễ cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới”. Rồi vua truyền quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng”. Vào dự tiệc Nước Trời không tuỳ thuộc nòi giống, hay là người của một dân tộc, nhưng căn cứ vào sự trở lại, thay đổi đời sống, những việc lành phúc đức… Khi nhận chiếc áo trắng trong lễ nghi Rửa tội, chúng ta đã được mời gọi “giữ cho tinh tuyền phẩm giá người con Chúa”. Y phục của dân mới, y phục lễ cưới, chính là Đức Kitô mà chúng ta đã “mặc lấy”, là phẩm cách người Kitô hữu, là ân sủng Chúa trao ban. Sống sao cho xứng đáng với những gì ta đã lãnh nhận, đó chính là một lời mời gọi.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
BỮA TIỆC THỜI CÁNH CHUNG VÀ BỮA TIỆC THIÊN SAI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Với hình ảnh bữa tiệc, các ngôn sứ mô tả niềm vui tương lai mà những người công chính được hưởng trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc vào thời cánh chung, đồng thời ơn cứu độ được thực hiện cho muôn dân nước vào thời thiên sai. Bàn tiệc cánh chung và bàn tiệc thiên sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.
Is 25: 6-9
Trong đoạn trích “khải huyền của I-sai-a”, bàn tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân là bàn tiệc cánh chung. Đây là niềm vui của những người được tuyển chọn, theo đó mọi đau khổ và sự chết hoàn toàn biến mất trong Thiên Quốc.
Pl 4: 12-14, 19-20
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tâm tình tri ân đối với cộng đoàn Ki-tô hữu nầy. Trái với thông lệ của mình, ngài đã chấp nhận sự trợ giúp vật chất của họ khi ngài gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.
Mt 22: 1-14
Tin Mừng là dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử mà Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách của mình. Những quan khách được mời lại từ chối. Lời mời được gởi đến cho tất cả mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)
Bản văn nầy bao gồm các chương 24-27, đây là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại “sấm ngôn khải huyền”. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy.
Viễn cảnh là thời cánh chung hòa lẫn với viễn cảnh thời thiên sai. Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân, diễn tả ơn cứu độ phổ quát cũng như niềm vui chan chứa của những người được tuyển chọn.
1).Viễn cảnh thời cánh chung:
“Ngày ấy, trên núi nầy,
Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc”.
“Trên núi nầy”, đó là núi Xi-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Xi-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:
“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi” (Is 2: 1-5).
Cũng được chính vị ngôn sứ nầy nhắc lại:
“Vầng ô thẹn mặt, bóng nguyệt hổ mày,
vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem” (24: 23).
Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một viễn cảnh như thế (Dcr 8: 20-23). Thời cánh chung sẽ là thời điểm Đức Chúa ngự trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc hoàng gia. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn “tiệc cưới hoàng gia” (Mt 22: 1-14).
Trong bữa tiệc này, thức ăn và thức uống đều hảo hạng:
“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế”.
Phẩm chất hảo hạng của bữa tiệc thắp sáng tấm lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với khách mời. Cho đến lúc đó, trong các hy lễ “thịt béo” luôn luôn được dành riêng dâng lên Thiên Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, “rượu ngon” là niềm vui vĩnh viễn:
“Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân,
và tấm màn liệm bao trùm muôn nước.
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần”
Sách Khải Huyền của thánh Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chan chứa hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).
2).Viễn cảnh thời thiên sai:
Sấm ngôn hoàn tất với bài ca cảm tạ tri ân về những thiên ân chưa từng được ban cho và một niềm tin tưởng vô bờ:
“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ.
Chính Người là Đức Chúa, chúng ta từng đợi trông.
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ’”.
Niềm vui tròn đầy, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu thời thiên sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ của bữa tiệc thiên sai đích thật: bữa tiệc thánh thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).
Đoạn trích thư hôm nay là phần kết thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê.
1).Chấp nhận sự trợ giúp của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê:
Xin nhắc lại, thánh nhân viết bức thư nầy khi ngài đang sống trong cảnh giam cầm hoặc ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ thánh nhân trong hoàn cảnh bị giam cầm, vả lại đây không là lần đầu tiên (x. Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn duy nhất mà thánh nhân đã không từ chối giúp đỡ vật chất. Thánh nhân luôn bận lòng là không bao giờ trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không, như “đầy tớ” của Đức Ki-tô, Đấng không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính đôi tay của mình để cung cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12).
Tuy nhiên, do mối thân tình và niềm tin tưởng của thánh nhân đối với các tín hữu Phi-líp-phê, ngài chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành của họ đối với ngài.
2).Hài lòng trong mọi hoàn cảnh:
Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Épictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết này múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Ki-tô, Đấng sống trong thánh nhân.
Vị sứ đồ muốn các tín hữu hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai, ngài quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô” (1Cr 9: 12).
3).Cám ơn tấm lòng của cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê:
Thánh Phao-lô bày tỏ lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ (các tín hữu Phi-líp-phê) vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3).
Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ từ bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói về các tín hữu Phi-líp-phê như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa.
Trong phần cuối thư, thánh nhân ngỏ lời trước hết với “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó với “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).
Dụ ngôn nầy cùng với hai dụ ngôn đi trước: dụ ngôn hai người con và dụ ngôn những tá điền gian ác, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: lương dân thay thế dân tuyển chọn, dân bất trung với sứ mạng của mình. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: trong dụ ngôn tiệc cưới, dấu nhấn được đặt trên ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung, cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).
1).Bàn tiệc thời thiên sai (22: 1-7):
Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, “Đức Vua” đại diện Thiên Chúa, “Người Con” đại diện Đấng Cứu Thế, và “tiệc cưới hoàng gia” là giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Các quan khách được đức vua ưu ái gởi thiệp mời trước, sau đó sai đầy tớ đến nhắc lại, không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Vài quan khách còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và giết chết các gia nhân của vua.
Họ chẳng những không đáp trả lời mời dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội, nhưng còn bách hại các gia nhân mà vua sai đến với họ, vì thế “nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”. Trong bối cảnh Kinh Thánh, cách hành xử của nhà vua như thế là những án phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ gian ác này, nhưng ở đây dường như là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về cuộc tàn phá thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 Công Nguyên bởi đạo quân Rô-ma.
Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc màu da, tốt xấu, được mời gọi thay thế dân Ít-ra-en bất trung: “Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Sự chọn lựa giữa người tốt kẻ xấu sẽ xảy ra sau nầy vào thời cánh chung như trong dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng hay trong dụ ngôn chiếc lưới.
Trong cùng một câu chuyện của mình, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Đức Giê-su ưu ái đặc biệt, họ đã hoan hỷ tiếp đón Tin Mừng và đã dự phần vào niềm vui thiên sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.
2).Bàn tiệc thời cánh chung (22: 8-14):
Từ bàn tiệc thời thiên sai, dụ ngôn chuyển sang bàn tiệc thời cánh chung. Có sự khác biệt đáng kể giữa bàn tiệc thời thiên sai và bàn tiệc thời cánh chung. Trong bàn tiệc thời thiên sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi (không phải lời mời gọi của Đức Giê-su đặc biệt ngỏ lời với những người tội lỗi sao?). Trái lại, trong bàn tiệc thời cánh chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép tham dự khi mặc y phục của những người công chính.
Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn của đức vua: “Này bạn”, luôn hàm chứa sắc thái khiển trách như chủ vườn nho nói với tá điền của giờ thứ nhất: “Nầy bạn”, hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa đến bắt Ngài: “Nầy bạn”.
Làm thế nào có thể trách cứ người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi mà anh được mời vào dự tiệc cưới bất ngờ từ ngoài đường? Tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Một tập tục như vậy không được chứng nhận ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thật sự rõ ràng: không ai được phép dự phần vào bàn tiệc Nước Trời, nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi Tin Mừng như lời dạy của thánh Phao-lô: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3: 27). Mặc lấy Đức Ki-tô, chính là: “Phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4: 22-24).
Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, rõ ràng không ăn khớp với phần thứ hai của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời cánh chung, trong đó một số lượng lớn khách được mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn câu cuối nầy liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn mô tả bàn tiệc thời thiên sai, trong đó một ít người dân Ít-ra-en, dân tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thiên sai, khi so sánh với muôn dân nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng, tham dự bàn tiệc thiên sai, gia nhập Giáo Hội.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
CHÚA MỜI GỌI TA DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ : Trong Thánh Kinh, hình ảnh “bữa tiệc” ám chỉ hạnh phúc Nước Trời, và hình ảnh “dự tiệc” ám chỉ việc được hưởng hạnh phúc ấy. Bài đọc I, đáp ca, và bài Tin Mừng đều nói tới việc Thiên Chúa mời mọi người dự tiệc của Ngài :
– Bài đọc I : “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc”
– Đáp ca : “Chúa dọn bàn tiệc đãi tôi, trước mắt quân thù của tôi”
– Tin Mừng : “Nước Trời giống như ông vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử… Các ngươi hãy ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại. Và phòng cưới chật ních khách dự tiệc”
Anh chị em thân mến
Có nhiều niềm hạnh phúc chúng ta đang hưởng mà không ý thức, chẳng hạn hạnh phúc được làm con Chúa, hạnh phúc được ở trong Giáo Hội, hạnh phúc mỗi tuần được dự tiệc của Chúa.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta ý thức những hạnh phúc ấy ; và chúng ta cũng xin Ngài dạy chúng ta biết sống thế nào để xứng đáng với tấm lòng của Chúa.
– Tuy vẫn biết hạnh phúc Nước Trời là quý báu nhất, nhưng rất nhiều khi chúng ta coi trọng những giá trị vật chất hơn.
– Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa.
– Dù đang ở trong Nước Chúa và làm công dân Nước Chúa, nhưng cách sống của chúng ta chưa xứng đáng.
Bữa tiệc mà ngôn sứ Isaia mô tả có những nét đáng chú ý sau đây :
– Người thết đãi là “Chúa các đạo binh”
– Khách được mời dự là tất cả các dân
– Nơi dọn tiệc là “trên núi này”, tức là núi Sion.
– Trong bữa tiệc đó, người dự không chỉ được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu, tủi hổ, tang chế.
à Đó chính là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.
Tv 22 này rất quen thuộc đối với mọi tín hữu : Thiên Chúa là một mục tử chăm sóc đoàn chiên hết sức chu đáo : lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi, và còn bảo vệ để chiên có thể “ăn tiệc” thoải mái ngay trước mặt quân thù.
Ý nghĩa của dụ ngôn bữa tiệc : Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân do thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn ; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.
4). Bài đọc II (Pl 4,12-14.19-20) (Chủ đề phụ)
Trong thời gian Phaolô bị cầm tù, tín hữu Philipphê đã rộng rãi giúp đỡ ông. Trong lá thư cám ơn gởi cho họ, Phaolô nói 2 ý :
– Thực ra ông cũng không cần những giúp đỡ vật chất ấy, vì một mặt ông đã quen thích nghi với mọi hoàn cảnh, và mặt khác ông còn được Chúa trợ giúp, cho nên “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.
– Tuy nhiên việc tín hữu Philipphê trợ giúp vật chất cho ông là một điều rất quý. Phaolô xin Thiên Chúa đền đáp lại xứng đáng cho họ.
1). Điều trước mắt che khuất điều ở xa
Hạnh phúc Nước Trời, hay – nói cho dễ hiểu – hạnh phúc thiên đàng là thứ hạnh phúc trọn vẹn nhất, vững bền nhất, hơn tất cả mọi thứ hạnh phúc ở trần gian. Ai cũng biết thế.
Tuy nhiên, loài người chúng ta có một cái tật, là bị những cái trước mắt che khuất nên không nhìn thấy cái ở xa, giống như tật cận thị.
Cái trước mắt mà chúng ta thấy hằng ngày là hạnh phúc mà trần gian mang lại qua việc làm ăn, buôn bán. Nói cách khác, trước mắt phải lo làm ăn để có một cuộc sống bảo đảm về vật chất ; thiên đàng thì còn xa, sau này từ từ lo.
Suy nghĩ như thế có phần đúng, vì ta phải sống thực tế với hiện tại. Nhưng cũng có phần sai khi chỉ biết hiện tại mà không hề nghĩ tới tương lai.
Điều sai lớn nhất mà bài Tin Mừng này vạch ra là chẳng những ưu tiên lo cho hiện tại, mà còn “không đếm xỉa gì” đến bữa tiệc Nước Trời, thậm chí còn nhục mạ và hành hạ những sứ giả mà Thiên Chúa sai đến mời ta dự tiệc của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta một số điều để suy nghĩ :
– Chúa không hề trách vì chúng ta lo cho cuộc sống vật chất. Nhưng lo đến nỗi quên hẳn cuộc sống mai sau thì sẽ đáng trách. “Tiên vàn chúng con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, mọi sự khác Ngài sẽ lo cho chúng con”.
– Vì chúng ta dễ quên hạnh phúc mai sau, nên nhiều lần và nhiều cách Thiên Chúa sai người này người nọ đến nhắc nhở chúng ta. Chúng ta có khó chịu với những người ấy, xua đuổi họ, nhục mạ họ và ngược đãi họ không ?
Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Mát thêu ghi lại hai lý do : “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán”. Thánh Luca thì ghi rõ hơn, tới 3 lý do : “Người thứ nhất nói : tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm ; người khác nói : Tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây ; người khác nói : Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được” (Lc 14,18-19)
3 lý do trong Luca có thể gom thành 2 loại là làm ăn (thăm đất và thử bò) và thụ hưởng (cưới vợ). Thực ra hai điều ấy không cấp bách đến nỗi phải lập tức làm ngay để đành từ chối lời mời ưu ái của nhà vua. Tuy nhiên, đó là hai nguyên do khiến nhiều người chối từ lời mời của Thiên Chúa. Ta có thể rút ra hai khuyến cáo :
à Quá mê làm ăn có thể kéo ta xa Chúa.
à Quá lo thụ hưởng cũng có thể kéo ta xa Chúa.
3). Những ông chủ trại, những thương gia và những kẻ ngoài đường
Chúng ta hãy lưu ý rằng hai hạng người từ chối dự tiệc cưới là những ông chủ trại và những thương gia. Họ không đến vì còn phải lo đi thăm trại và đi buôn bán. Còn những người mau mắn đến dự tiệc là những kẻ ở các ngã đường. Họ nghèo, họ đang đói cho nên được mời ăn tiệc là đến ngay.
Người no đủ không thích ăn tiệc bằng người đói khát.
Bởi thế, Đức Giêsu đã nói rất chí lý : “Khốn cho các ngươi là những kẻ no đủ…. Phúc cho chúng con là những người đói khát”.
Phần cuối dụ ngôn này làm người đọc thắc mắc và khó chịu : những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc. Thế mà ông vua lại bắt một người không có áo lễ tống giam vào ngục.
Nên nhớ đây là một dụ ngôn, nghĩa là các chi tiết ám chỉ đến một ý nghĩa nào đó. Nếu bữa tiệc cưới là hình ảnh của Nước Trời, thì chiếc áo cưới tượng trưng cho nếp sống phù hợp với Nước Trời. Tự nhiên được mời vào Nước Trời đã là một hồng phúc, cho nên để đáp lại thì phải có một nếp sống phù hợp với Nước Trời.
Chiếc áo tượng trưng cho cách sống. Chúng ta hãy suy nghĩ về chiếc áo / cách sống hiện tại của chúng ta : Nó có tốt hơn, đẹp hơn chiếc áo / cách sống của những người không được ở trong phòng tiệc không ?
Chiếc áo tốt đẹp nhất của người dự tiệc Thiên Chúa chính là sống như Đức Kitô, như lời Thánh Phaolô nói : “Anh em hãy mặc lấy con người mới” (Ep 4,24), “Hãy mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27)
Chúng ta có rất nhiều cớ để không làm điều mình phải làm, và nhiều cớ để làm điều lẽ ra không nên làm.
Ngày xưa có một anh thợ may rất khéo. Bao nhiêu áo đẹp của mọi người trong thành đều do anh may. Tuy nhiên bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc áo rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của thành phố. Có người thấy thế hỏi anh :
– Sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho anh được một chiếc áo lành lặn.
– Vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may áo cho mình.
– Vậy anh hãy cầm lấy 20 đồng tiền này và may cho anh một chiếc áo, kể như tôi mướn anh may cho tôi vậy.
Anh thợ may cầm tiền về nhà. Đến buổi tiệc tiếp theo, anh lại đến với chiếc áo rách cũ. Người bạn hỏi :
– Sao anh không may áo cho anh ?
– Chiếc áo cho chính bản thân tôi mà giá chỉ có 20 đồng thì quá rẻ, nên tôi không may !
Người bạn chẳng nói gì nữa, bởi vì có nói gì nữa thì anh thợ may cũng sẽ tìm được một cớ khác thôi.
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa mời gọi, ban phát tình thương và ân sủng một cách vô giới hạn cho tất cả mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Chúa Giêsu đã dùng bí tích Thánh tẩy mà quy tụ chúng ta vào trong Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần hiệp nhất đến trong Hội Thánh / để Người loại trừ mọi bất hòa / ghen ghét và chia rẽ giữa những người có cùng một niềm tin.
2- Chúa Giêsu là vua đem lại hòa bình / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm móng chiến tranh / và cho muôn dân được an cư lạc nghiệp.
3- Đời sống thường ngày đem lại cho con người hạnh phúc thì ít / mà phiền muộn đau khổ lại nhiều / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần / là nguồn an ủi kỳ diệu đến trần gian / đề Người lau sạch nước mắt cho những ai đang khổ sầu.
4- Ngày phán xét chung / Chúa chỉ căn cứ vào một tiêu chuẩn duy nhất / để thưởng công hay luận tội người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận / đặc biệt là biết chân thành yêu thương hết thảy mọi người.
CT : Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp chúng con sống trọn vẹn ơn gọi kitô hữu, nhờ đó chúng con có thể mạnh dạn nói như Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galát : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Chúng con cầu xin…
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-A
DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Về nước Trời cũng giống như vua kia”. Nước Trời không giống như một ông vua; nhưng trong Nước Trời được Chúa Kitô khai mào, sẽ xảy ra điều mà dụ ngôn sắp kể lại (x. 13, 24; 18, 23; 25, 1). Cựu ước và Do thái giáo năng chỉ Thiên Chúa dưới những nét của một vì vua (Tl 8, 23; 1 Sm 8, 7; Xh 19, 6; Tv 11, 4; 47, 3; 93, 1- 2; 95, 3- 5; 103, 19; Gr 10, 7…).
“Làm tiệc cưới cho hoàng tử”. Hình ảnh bữa tiệc thiên sai chắc chắn được vay mượn từ Cựu ước (Is 25, 6; 55, 1 -3). Nó diễn tả tính cách nhưng không của ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho dân Ngài và được tiên trông qua bữa ăn của Môisen với 70 kỳ lão, trước sự hiện diện của Đấng Vmh cửu trên núi Sinai, sau hy tế đền tội (Xh 24, 11 ). Sách Khải huyền cũng trình bày ngày quang lâm của Nước Thiên Chúa như là việc cử hành lễ cưới của Con Chiên (Kh 19).
“Nhưng họ không muốn đến”: Sự từ chối được diễn tả một cách rành rẽ qua động từ muốn động từ rất được Mt ưa thích (x. 11, 14; 16, 24; 18, 30; 19, 17; 23, 27b). Việc đáp lại lời mời không phải là chuyện khuynh hướng bẩm sinh hay chuyện tình cảm, nhưng là chuyện quyết định tự ý hoàn toàn. Xa hơn chút nữa (c. 5), Mt cho thấy các thực khách không nhèm đếm xỉa, đến lời mời không quan tâm rằng đó chính là thái độ hờ hững đáng tội, là sự thờ ơ hiểu theo nghĩa mạnh nhất.
“Khách mời đã không đáng dự”. Sự bất xứng của các kẻ được mời không do tự nhưng khiếm khuyết hay vô tri tự nhiên, vì sau đó đủ mọi hạng người sẽ được triệu mời, lành cũng như dữ ” (c. 10); họ bất xứng vì đã từ chối.
“Vậy các người hãy ra các ngã đường, hễ gặp ai thì mời vào tiệc cưới”. Kiểu nói “vậy hãy đi” (poreuesthe oun) nhắc cho ta nhớ những tiếng mà Chúa Giêsu sẽ dùng để sai các môn đồ đến với dân ngoại: vậy các ngươi hãy đi thâu nạp các môn đồ khắp muôn dân ” (28, 19). Ơn cứu độ nhưng không của Chúa Kitô, dù bị người Do thái khinh chê, vẫn được cống hiến cho bất cứ ai nghe lời mời gọi của các kẻ phục vụ Tin Mừng trong khắp nẻo đường thế giới: “Nhiều kẻ sẽ từ phương Đông, phương Tây mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước Trời ” (8, 11). Sự cứng lòng và từ chối của Israel chỉ khai mào thời gian của Giáo Hội, thời gian mà một khi Tin Mừng được rao giảng cho mọi dân tộc (24, 14), phòng tiệc sẽ tràn ngập đủ hạng người. Thành t!lử việc sai các gia nhân lần thứ ba tương ứng với việc sai các sứ đồ đến với dân ngoại sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Ở đây, chúng ta gặp lại chiều hướng phổ quát và truyền giáo rất được Mt chú trọng (2, 1- 2; 3, 9; 8, 5-10; 8, 28- 34; 15, 21- 28; 13, 47; 21, 43…).
“Bất luận dữ hay lành”. Chi tiết này làm ta liên tưởng tới dụ ngôn lưới cá (13, 47- 50); “kẻ dữ ” đây là những người có tội được mời cách nhưng không, sẽ cải thiện đời sống một khi đã vào trong Nước Trời hay Giáo Hội, hoặc là các kẻ dữ theo nghĩa tuyệt đối mà một ngày kia sẽ bị loại ra khỏi Nước Trời (hay khỏi Giáo Hội). Các câu 11- 14 tiếp theo sau xét đến hạng kẻ dữ này.
“Nhà vua đi vào coi khách dự tiệc”. Đây là cuộc phán xét sau cùng; hãy so sánh với các dụ ngôn của ch. 13 (vd: cỏ lùng, lưới cá) và của ch. 25 (mười trinh nữ nén vàng, chiên và dê): trong các dụ ngôn ấy nói tới sự lựa chọn, phân tách kẻ dữ người lành. Những câu này, của riêng Mt, chắc chắn là để sửa lại một lối giải thích tự do quá trớn về các câu 1-10. Dĩ nhiên, việc gia nhập vào Giáo Hội là nhưng không thật đấy, song chớ quên rằng đó là Giáo Hội của Vua. Thiên Chúa “khám xét”: Dân mới của Ngài kỹ lưỡng vô cùng vì ân sủng Ngài luôn luôn đòi hỏi.
“Sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới?”: Y phục lễ cưới này là cái gì vậy? Đó chỉ có thể là thực tại và được biểu hiệu trong dụ ngôn thợ vườn nho qua hình ảnh hoa quả Nước Trời. Đó là sự công chính luôn được Tin Mừng Mt đòi hỏi nơi tín hữu, sự công chính hay là sự trung thành mới mà các chương 5-7 đã cho một vài ví dụ (5, 20; 6, 33…). Để đi vào Nước Trời, cần phải mặc áo cứu độ” (Is 61, 10), “mặc lấy Chúa Kitô ” (Ep 4, 24; Gl 3, 27). Vì thế, chỉ những ai đã “giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7, 9-17) mới có thể đứng vững trước ngai Con Chiên trong ngày lễ cưới (x. Kh 19, 6- 8).
“Người ấy câm miệng”: Người Do thái quan niệm rằng các việc lành phúc đức sẽ bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa. “Ai thực thi huấn lệnh thì người ấy sắm cho mình một kẻ chuyển cầu” (Châm ngôn tiên tổ 4, 13). Một ý tường tương tự cũng được tìm thấy trong Cv 10, 4. Người khách đã không thực thi việc phúc đức thành ra câm miệng lại: chẳng một ai chuyển cầu biện hộ cho y.
KẾT LUẬN
Dân Do thái, kẻ thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa, là những người đầu tiên được đón nghe Tin Mừng, do từ chính Chúa Giêsu (Người chỉ giảng dạy cho họ) cũng như do các sứ đồ (các vị luôn luôn bắt đầu từ nơi họ, ngay cả Phaolô, trong các thành ngài rao giảng), nhưng họ đã không sẵn sàng tiếp đón. Tuy nhiên, sự cứng lòng của họ, dầu bí nhiệm đến đâu (Ga12, 37- 43), cũng không thể làm cho ý định quan phòng của Thiên Chúa thất bại. Các dân ngoại, được rao giảng Tin Mừng muộn hơn, sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội của Chúa Kitô. Và chính thánh Phaolô (Rm 11, 26) có hé mở cho thấy trong tương lai, Israel sẽ trở lại với Người cách ồ ạt, khiến sau cùng Do thái và dân ngoại, hiệp nhất trong một Giáo Hội, có thể cùng nhau tạo thành Israel của Thiên Chúa. trong lúc chờ đợi, mỗi người phải cố gắng mặc lấy Chúa Kitô bằng cách thực thi việc làm.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bàn tiệc cưới của Giáo Hội là bàn tiệc Thánh Thể, được Chúa Ki-tô khai mạc với các sứ đồ trong bữa tiệc ly (Mt 26, 26- 29) và luôn được tái diễn từ ngày Hiện Xuống trong Giáo Hội sơ khai (Cv 2, 42) cũng như trong các cộng đoàn Kitô hữu mới (1Cr 11, 23- 29). Để xứng đáng tham dự bàn tiệc Thánh Thể này, phải mặc áo cưới, nghĩa là sống một đời phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Và từ bàn tiệc Thánh Thể này đến bàn tiệc Thánh Thể khác, chúng ta sẽ càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc thiên quốc trong tình thân mật với Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa sẽ là tất cả niềm vui của chúng ta.
2) Khi lãnh nhận phép Thánh tẩy, chúng ta đã được mặc một chiếc áo trắng và linh mục đã chúc chúng ta gìn giữ nó tinh tuyền cho đến ngày phán xét trước tòa án của Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã làm bẩn chiếc áo rửa tội này, chúng ta luôn có thể trình diện nơi tòa án của lòng thương xót là Bí tích Giải tội. Ở đó Chúa Kitô, qua lời Bí tích của vị đại diện Người, sẽ tẩy sạch áo cưới của chúng ta và lại kêu mời chúng ta dự tiệc cưới của Vua, trong niềm vui của tình thân được tái lập. Đừng có làm như những người được mời đầu tiên của dụ ngôn mà từ chối hồng ân lớn như thế.
3) Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta vào trong tình thân mật của Ngài, mời ta hưởng niềm vui được phục vụ Ngài (phục vụ là thống trị vì Chúa). Người ta có thể phản đối lời mời ấy bằng một thái độ thù nghịch công khai, điều này rất may là họa hiếm. Thường thường người ta phản đối bằng thái độ lãnh đạm tôn giáo, được che dấu dưới nhiều cớ dễ dãi: không có thì giờ, nhiều việc khác cấp bách hơn..v.v… Như những kẻ đầu tiên được mời của dụ ngôn, ta không thèm đếm xỉa đến lời mời đã nhận được. Trong phương diện này, trách nhiệm Kitô hữu nặng nề hơn trách nhiệm của người ngoại, vì Kitô hữu biết rằng mình được mời đự tiệc, trong khi lương dân chỉ có thể trực giác cách mơ hồ thôi, trong đáy sâu thẳm của lòng họ.
4) Chúa nói dụ ngôn cho chúng ta, là Người đang sống trong Giáo Hội. Người cảnh giác chúng ta: đừng tưởng rằng các ngươi đã đến đích, đã an vị; giữa các ngươi có đủ loại, kẻ dữ người lành, cỏ lùng lúa tốt. Các gia nhân của Ta dã quy tụ các ngươi, họ đã lấy tất cả những gì họ gặt: tốt cũng như xấu. Chẳng phải vì các ngươi ở trong mà các ngươi được xét đoán kẻ ở ngoài, những kẻ đã từ chối không chịu đến. Vì có một cách khác làm sỉ nhục cho Đấng mời gọi chúng ta là định cư trong nhà Người như thể trong nhà của chúng ta, quên rằng Người đã mời gọi chúng ta, quên rằng chúng ta ở trong Giáo Hội là nhờ ân sủng thuần túy, quên rằng chỉ c.ó cách sống đạo của chúng ta mời định đoạt về số phận được tuyển chọn cuối cùng.
5) Mặc lấy Chúa Kitô là mặc lấy các tâm tình: lân tuất, nhân hậu, khiêm nhu, nhẫn nại, hiền từ (Cl 3, 9- 13), là tha thứ như Người đã tha thứ cho ta, là yêu mến như Người đã mến yêu ta, là trở nên một Kitô khác, là được biến đổi trong Người, là chân thật trong các cuộc giao tiếp với anh em, là đừng để cho cơn giận có thời giờ ra chai cứng lại thành hiểu lầm nhau, là nỗ lực làm việc để có thể chia sẻ cho những người túng thiếu.
6) Thiên Chúa mời chúng ta dự tiệc của Ngài không những là qua tiếng nói của Giáo Hội hay các linh mục, nhưng còn qua bất cứ một người vô danh nào mà chúng ta biết lắng nghe, qua một biến cố lay động cuộc sống, qua một thử thách mà chúng ta trải vượt, qua một niềm vui mà chúng ta thường thức. Trong mức độ mà các con người và các biến cố ấy kêu gọi chúng ta, thúc bách chúng ta phản ứng, buộc chúng ta chọn lựa sống đạo, vì đó chính là các gia nhân đến nài xin tự do của ta, đến thông ban cho ta một Tin Mừng: “Tiệc cưới đã sẵn”.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
MẶC ÁO CƯỚI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.
Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.
Đó là một tình yêu nhưng không.
Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.
Đó là tình yêu chia sẻ.
Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.
Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.
Tôi phải mặc áo cưới tới dự.
Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.
Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.
Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).
Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?
2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?
3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”?
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
TIỆC CƯỚI HOÀNG TỬ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Tiệc cưới nào cũng được gia đình tổ chức hết sức trang trọng theo khả năng của mình. Tiệc cưới hoàng tử càng biểu lộ vinh quang trang trọng của cả nước. Ngày 03/04/1985 (?). Hoàng hậu Elizabeth Anh quốc, đã mở tiệc cưới hoàng tử Charles đẹp duyên cùng công nương Diana. Khách mời là những vua chúa, Hoàng hậu, Tổng thống, Thủ tướng của hơn hai chục nước trong Liên hiệp Anh. Những hoàng tử của các nước xa xôi ngoài Liên hiệp cũng được mời dự tiệc cưới, như hoàng tử Nhật. Ai được mời đều lấy làm hết sức vinh dự. Cho nên, không ai từ chối, mà còn mong ước chóng được tới dự.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới hoàng tử để nói về vinh quang, vui mừng và hạnh phúc vô cùng của nước Trời. Nhưng những khách được mời ưu tiên thì lại từ chối, không đếm xỉa tới những ân huệ vinh quang Thiên Chúa ban. Họ còn có những thái độ khinh bỉ ngạo mạn coi tiệc cưới hoàng tử không bằng đi thăm trại súc vật, không bằng đi buôn bán lặt vặt; kinh khủng hơn nữa, dám bắt các đại diện của vua đi mời xỉ nhục và giết chết.
Khi so sánh khách dự tiệc cưới của con vua dưới đất với khách được mời dự tiệc con vua nước Trời như vậy, Chúa Giêsu thấy một cảnh trái ngược, thật chua xót biết bao!
Những hạng người từ chối dự tiệc nước Trời vì những lối sống sau đây:
Lối sống thứ nhất là đi thăm trại: Một công việc quá tầm thường. Họ không phải chăn nuôi, chăm sóc, cầy cấy như các đầy tớ. Họ là những ông chủ, nhàn rỗi, lúc nào đến xem xét, thăm nom tùy ý thôi. Thế mà họ dám coi thường tiệc cưới hoàng tử trọng đại của nhà vua. Mấy khi trong đời ai có dịp vinh phúc như thế! Phải chăng khi nói đến hạng người này, Đức Giêsu buồn lòng về những ông chủ đứng đầu đạo đời dân Do thái. Họ những thành phần địa vị cao cấp ưu tuyển, lại đi làm những việc sai trái, bỏ bổn phận cao trọng đối với Thiên Chúa và những nhiệm vụ quan trọng đối với dân nước. Họ chỉ lo tìm tư lợi cá nhân để vinh thân phì gia. Họ coi trời bằng vung, không còn biết Đấng trên đầu mình nữa.
Lối sống thứ hai là đi buôn: Một công việc kiếm lời nhặt lãi. Họ mê man kiếm tiền của, tham lam vơ vét, cạnh tranh, giành giựt nhau từng đồng bạc, từng tấc đất, từng bát gạo, từng bó rau, từng ly rượu, từng điếu thuốc, từng số đề, số đuôi. Thật bần tiện, bủn xỉn, họ chẳng cần tình nghĩa cao đẹp, dầu là tình nghĩa với nhà vua, với Thiên Chúa. Phải chăng đó là lối sống của dân Do thái, của ích kỷ, hà tiện, không có lòng bác ái, chỉ biết bo bo lấy mình, họ kỳ thị loại trừ những ai không phải là đồng đạo, đồng bào. Hạng người đó không thể được ngồi chung với muôn dân trong nước Trời.
Lối sống thứ ba là bắt bớ, xỉ nhục và giết người vô tội. Những đầy tớ của vua sai đi mời thật tử tế, là những kẻ vô tội, chỉ lo làm bổn phận mình đem ân huệ đến cho họ, thế mà bị họ bắt bớ, xỉ nhục, giết đi. Họ chẳng biết thương yêu, tử tế là gì! Họ không còn biết ai là người lành. Họ quá chai đá với những cảnh căm thù, phá hoại, sát nhân. Bao nhiêu trẻ thơ vô tội, dân lành bị họ bắt làm bia đỡ đạn cho những tham vọng cướp ngôi, cướp quyền. Bao nhiêu những tiên tri, những thánh nhân tử đạo do những hạng đầu óc hẹp hòi, mù quáng, độc tài. Họ là những Hêrôđê bố, Hêrôđê con đã giết hài nhi vô tội, giết Gioan tẩy giả. Họ là những thượng tế Anna và Caipha, những luật sĩ và biệt phái. Những Philatô, Giuda và quân dữ đã cả gan nhúng tay vào giết Con Một Thiên Chúa.
Lối sống thứ bốn là không mặc áo cưới: Thuần phong mỹ tục coi lễ cưới là ngày lễ trọng đại của gia đình, tất nhiên có nghi thức long trọng với những trang phục đẹp đẽ chỉnh tề. Những hạng người bê bối thô lỗ tục tằn, vô lễ, vô kỷ luật đều bị loại bỏ vì nó bôi nhọ nếp sống văn hóa trong sáng và đạo đức thanh nhã. Nêu ra hạng người này, chắc hẳn thánh Matthêu đã thấy cảnh những Kitô hữu bất chính, theo đạo kiếm gạo mà ăn chứ không sống theo thánh ý Chúa. Thánh Phaolô đã thấy cái cảnh đó trong giáo đoàn Côrintô: Những phụ nữ đến cầu nguyện hoặc nói tiên tri ăn mặc bất xứng không theo truyền thống (1Cr. 11,15). Những tín hữu đến dự tiệc Chúa ăn uống say sưa, khinh dể, vô phép với cộng đoàn Hội thánh của Chúa, làm nhục kẻ nghèo. “Vì thế bất cứ ai ăn bánh hay uống chén của Chúa cách bất xứng, thì phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình… để khỏi bị án phạt” (1Cr. 11, 21-22 và 27-29, 34)
Tất cả những hạng người có những lối sống như trên đều bị “Nhà vua sai quân đến tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng. Rồi nhà vua bảo gia nhân ra các ngã đường, gặp ai mời tất cả vào tiệc cưới” (Mt. 22, 7-9).
Theo phong tục của nhiều dân tộc xưa, tiệc cưới hoàng tử chẳng những các đại thần được ưu tiên mời, mà còn tất cả thần dân đều được hưởng lộc của nhà vua. Tiệc cưới hoàng tử nước Trời chẳng những ưu tiên cho dân tộc Do thái, mà còn cho toàn thể muôn dân, vì toàn thể nhân loại đều là thần dân của Ngài. Như tiên tri Isaia đã loan báo: “Chúa tể trời đất sẽ thiết tiệc đãi muôn dân” (Is. 25, 6).
Vua trời đất đã mời mọi người chúng ta vào nước Trời, không phải bốn năm lần mà trăm ngàn lần, từ xưa đến nay. Không phải chỉ có đầy tớ như tiên tri, tông đồ, Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục mà còn chính Con Một Thiên Chúa giáng trần chịu chết tế lễ lấy Thịt Máu châu báu mình đến mời chúng ta vào dự tiệc nước Trời. Chúng ta đáp lại lời mời diễm phúc đó bằng lối sống nào? Chúng ta lấy làm vinh phúc, khao khát, vui mừng, siêng năng đón nhận; hay như hạng khinh nhờn, thờ ơ, nguội lạnh khô khan, nổi loạn, vô kỷ luật, thì khốn cho chúng ta, sẽ có ngày bị tru diệt.
Lạy Chúa, xin cho con nhận biết rằng: Tiệc thánh nước Trời, không phải là thịt béo bò tơ, thú quý, rượu ngon nuôi thân xác tro tàn, mà là lời Chúa, Mình Máu Chúa, ơn cứu độ và tình thương vô bờ của Chúa nuôi tâm hồn con muôn đời. Nhờ đó, thánh Phaolô, dù sống trong tù ngục thiếu thốn vẫn thấy Chúa thỏa mãn mọi nhu cầu một cách tuyệt vời theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu. Xin cho con biết sống mạnh mẽ như thánh Phaolô để tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng con đến muôn thuở muôn đời. Amen. (Phil. 4, 12. 14. 19-20)
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
MẶC LẤY CHÚA KITÔ– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có hai người được diễm phúc gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có bảy người có cơ may gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây quả là một hồng phúc lớn lao.
Qua dụ ngôn “Tiệc cưới” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta, với tư cách là những vị khách được mời dự tiệc, phải bận y phục lễ cưới.
Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng nặng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà còn mặc nguyên bộ đồ ngủ thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào đời quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.
Hội Thánh của Chúa luôn mở rộng cửa để tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp muôn phương bất kể sang hèn tốt xấu. Nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin Mừng.
Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo Hội trở nên khó thương trước mặt người khác.
Vì thế, một khi đã gia nhập Hội Thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì chúng ta sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin Mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó.
“Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô
Trong cuốn “Tự thú”, Augustino thuật lại kinh nghiệm lý thú sau đây: Hôm đó, Anh bị giằng co xâu xé mãnh liệt trong nội tâm giữa một bên là cải thiện đời sống để trở về với Chúa ngay và một bên là đừng vội trở về với Chúa để được hưởng thêm lạc thú trần gian. Sự xung đột nội tâm nầy gay gắt đến độ khiến Augustino gào khóc cách cay đắng và nài xin Chúa ban ơn giải thoát.
Ngay lúc bấy giờ, Augustino nghe có tiếng hát trẻ con từ nhà bên kia vọng lại: “Hãy cầm lấy mà đọc, hãy cầm lấy mà đọc…”
Nhận ra đó chính là tiếng Chúa nói với mình, Augustino vào phòng, chộp lấy Thánh Thư của Thánh Phao-lô và đọc ngay đoạn đang mở ra trước mắt: “Anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt.” (Rm 13, 13-14)
Augustino bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy đây quả là những lời Chúa nói riêng với mình. Thế là từ đây, Anh từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô. Anh được lãnh bí tích Thánh Tẩy vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa để trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên giám mục và trở thành vị thánh chói ngời, đồng thời cũng là tiến sĩ Hội Thánh.
Trong ngày chúng ta lãnh bí tích Thánh Tẩy, ngày chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Ki-tô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời”.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Xin ban thêm sức mạnh để chúng con dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Ki-tô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa… Nhờ đó, chúng con sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-A
HÃY NGHIÊM CHỈNH THAM DỰ TIỆC CƯỚI- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra là lời mời gọi tham dự tiệc cưới của nhà vua cho hoàng tử của mình. Đây là một đại tiệc, và lời mời được gửi đi nhiều lần. Ai lại từ chối một bữa tiệc lớn lao như thế? Ấy vậy mà cũng có người đang tâm từ chối và chuốc lấy những hậu quả nặng nề. Lời mời gọi tham dự được gửi đến mỗi người chúng ta là những khách mời bất ngờ thế nhưng lại là những người được đi vào phòng tiệc cưới. Thế nhưng chúng ta có mặc y phục lễ cưới theo qui định không? Đó là câu hỏi mà bài dụ ngôn hôm nay muốn đặt ra cho chúng ta.
Bữa tiệc của Hoàng tử thường được so sánh với bữa tiệc của Đấng Cứu thế Messia bởi vì Đấng Messia này chính là chàng rễ của thời cánh chung (Mt 9,15; Ga 3,29; Ep 5,25-32; Kh 21,2-9). Khai triển rộng biểu tượng hình ảnh này, tiệc cưới của chàng rễ trở nên hình ảnh của bữa tiệc thời Đấng thiên sai như trong câu chuyện dụ ngôn chúa nhật này. Việc nối liền hai ý nghĩa này có thể hiểu được bởi vì chàng rễ xuất hiện cũng chính là Đấng cứu thế được tiền báo cách long trọng; cả hai bữa tiệc đều là cử hành với đặc trưng tiêu biểu là rượu thịt đầy bàn, nhạc đàn múa hát vui vẻ của một bữa tiệc long trọng được chuẩn bị hết sức chu đáo.
Trong cả hai bài đọc thứ nhất và bài thánh vịnh đáp ca, Thiên Chúa là Đấng cung cấp dư dật “thịt béo rượu ngon”, và là Đấng “bày bàn ăn”. Trong Phúc âm, chính nhà vua chuẩn bị bữa tiệc cho tiệc cưới của hoàng tử. Nói rõ hơn, đây không phải là những sự kiện thông thường mà có một tầm vóc quan trọng khác thường. Ngoài việc trình bày sự sang trọng của bữa tiệc, câu chuyện còn nhấn mạnh sự tử tế mời mọc của nhà vua khi mời các thực khách và cung cấp mọi nhu cầu cho họ, cũng như nhấn mạnh đến chiều kích cánh chung của bữa tiệc này vốn là bữa tiệc quyết định, bữa tiệc mong đợi sau bao thời gian chờ đợi lâu dài và sẽ là một bữa tiệc đầy tràn niềm vui và hạnh phúc của một tình yêu chờ đợi đã rất lâu dài. Hơn nữa câu chuyện còn có chi tiết mọi người sẽ phải trầm trồ khen ngợi hạnh phúc của bữa tiệc này vì khi đó mọi người sẽ nói lý do của niềm vui và hạnh phúc lớn lao là vì Chúa là Đấng cứu độ và Người thực hiện ơn cứu độ cho dân người.
Câu chuyện của bài dụ ngôn Tin mừng thuật lại hai lần các đầy tớ được sai đi mời khách dự tiệc. Có thể là lần mời thứ nhất được phát đi trước tiệc cưới, và lần mời thứ hai, chính thức hơn, được gửi đi để nhắc nhở các khách mời dự tiệc cưới cách khẩn khoản với những lời lẽ rất niềm nở: bò bê và súc vật béo tốt đã sẵn, kính mời mọi người đến dự. Dù sao, phúc âm chúa nhật này cũng giống phúc âm chúa nhật tuần trước, là trong cả hai dụ ngôn này, hai nhóm đầy tớ đã được gửi đi lần lượt và đều bị từ chối. Không những thế, các đầy tớ này còn bị bắt, bị đánh đập nhục mạ và bị giết chết. Vì thái độ kiêu căng và tàn ác của họ, những thủ phạm trong hai dụ ngôn này đều bị tước quyền làm việc vườn nho hay tham dự tiệc cưới. Câu chuyện dụ ngôn tuần này còn gợi lên việc thành Giêrusalem bị phú hủy năm 70 sau công nguyên khi nói nhà vua sai quân lính tiêu diệt bọn sát nhân cùng với thành phố của họ. Sau đó, nhà vua sai đầy tớ ra các ngả đường bất luận và mời mọi người vào cho đầy phòng tiệc cưới. Để rồi khi nhà vua đi vào quan sát các khách mời, nhà vua bỗng trở nên giận dữ vì có một khách mời tham dự tiệc cưới mà không có y phục lễ cưới. Nhà vua đã truyền lệnh trao người này cho lý hình tống vào nơi tối tăm.
Tham dự những buổi lễ như cưới hỏi, sinh nhật, tân gia vốn là những chuyện rất thường trong đời sống xã hội của chúng ta. Những lần đi dự những cuộc lễ như thế, chúng ta sống và muốn chứng tỏ tình cảm, tình bạn, mối hiệp thông liên đới của chúng ta với mọi người. Có như thế, khi gia đình chúng ta hữu sự, người khác mới đến với chúng ta. Và dĩ nhiên, chúng ta sẽ thất vọng biết bao khi vất vả chuẩn bị tiệc tùng cổ bàn, hy vọng bạn bè sẽ đến mà không ai đến cả.
Đọc câu chuyện dụ ngôn chúa nhật này, chúng ta cũng mường tượng sự thất vọng và tức giận của nhà vua vì thái độ của các khách mời. Thực ra ở đây tình tiết câu chuyện cho chúng ta thấy các khách mời dự tiệc không phải chỉ vì là tình bạn, hay chỉ vì là những thần dân trung thành của nhà vua mà họ phải đến dự. Cùng với bài đọc thứ nhất của sách tiên tri Isaia, câu chuyện dụ ngôn này thực sự cho chúng ta thấy một lý do thực quan trọng khác. Đây chính là bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc thời cứu độ của Thiên Chúa mà mọi người không được coi thường. Trong câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu, lời mời được đưa ra hai lần và nhấn mạnh lý do : chính nhà vua tổ chức tiệc cưới, thật long trọng để mừng tiệc cưới của hoàng tử, và lời mời được đưa ra và nhắc lại nhiều lần. Những khách mời đã dại dột và kiêu căng từ chối và phải lãnh hậu quả nặng nề vì sự khinh suất của họ, họ bị tiêu diệt cùng với thành phố của họ. Bài đọc thứ nhất đã cho thấy là tiệc cưới chính là bữa tiệc Đấng thiên sai của đời sống vĩnh cửu. Đây là lời mời được gửi đến chúng ta: nhận lời hay không có nghĩa chúng ta sẽ nhận hay từ chối hạnh phúc của đời vĩnh cửu khi mà Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ.
Tuy nhiên việc chúng ta nhận lời dự tiệc cưới không phải chỉ là đến dự tiệc cưới. Trong phần cuối của dụ ngôn còn có một lời phán xét: sao anh vào đây mà không mặc y phục lễ cưới. Cũng như nhà vua phải chuẩn bị để tổ chức tiệc cưới, thì khách mời cũng phải chuẩn bị để tham dự tiệc cưới (“mặc trang phục lễ cưới”). Mọi người đều được mời vào dự tiệc Thiên Chúa, thế nhưng cũng đòi hỏi những trách nhiệm đi kèm theo lơi mời này. Những tội nhân cũng được mời, thế nhưng họ phải hối cải và sửa đổi đời sống tội lỗi của mình để sống đời sống mới tốt đẹp. Để tham dự bữa tiệc của Thiên Chúa, khách được mời phải chu toàn phần việc của mình, tức là sống thánh ý Thiên Chúa trong đời sống của mình.
Thật không thể ngờ được những khách mời lại khinh suất đến thế đứng trước lời mời quan trọng của chủ tiệc vào một thời điểm quyết định như thế! Thế nhưng chính chúng ta là những khách mời tham dự một bữa tiệc trọng đại này, và chính chúng ta cũng có thể không nhận thức được tầm quan trọng của bữa tiệc này cũng như có thể không chuẩn bị chính mình xứng đáng với bữa tiệc này. Đời sống hằng ngày của chúng ta không phải là không hệ trọng, bởi vì ngay cả những việc nhỏ mọn chúng ta làm cũng đang góp phần giúp chúng ta mặc chiếc áo cưới của mình. Việc hoán cải liên tục của chúng ta sẽ chuẩn bị chúng ta để tham dự lễ cưới này. Trong khi bữa tiệc thời thiên sai là một sự kiện tương lai, thì đồng thời chúng ta đã được chia sẻ bữa tiệc đó ngay từ bây giờ mỗi khi chúng ta đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc Thánh Thể cũng là một bữa tiệc trọng đại và cũng đòi hỏi phải chuẩn bị sẵn sàng. Câu chuyện dụ ngôn của Phúc âm mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị chính mình để tham dự bữa tiệc trọng đại mà chúng ta là những khách mời đồng thời chiếc áo cưới là việc chuẩn bị trong chính đời sống của chúng ta. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở một phần nào việc chuẩn bị này khi chia sẻ than tình với chúng ta đời sống của ngài. Thánh Phaolô nói trong mọi hoàn cảnh, ngài đã biết chịu cảnh thiếu thốn hay biết hưởng sung túc, trong mọi trường hợp, ngài đã học biết no biết đói, biết dư dật và thiếu thốn bởi vì ngài đã biết làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho ngài. Bàn tiệc thời Đấng thiên sai là hình ảnh ẩn dụ của đời sống thần linh vĩnh cửu mà chúng ta được mời gọi tham dự ngay từ cuộc đời hiện tại với y phục lễ cưới là chính cách sống của chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy có thái độ hiểu biết nghiêm chỉnh về tầm mức thực quan trọng và cần thiết đối với chúng ta bởi vì chúng ta được mời gọi tham dự vào đời sống hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa rất yêu thương và chờ đợi chúng ta.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
BÀN TIỆC NƯỚC TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về một bữa tiệc. Trong bài đọc I, Tiên tri Isaia diễn tả: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc, thịt thì béo rượu thì ngon… Lúc bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt trên mọi khuôn mặt, Ngài sẽ cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân và sự chết chóc đau khổ sẽ không còn nữa…”.
Thế thì, ngày ấy là ngày nào, và núi này ở đâu vậy? Thưa, vị tiên tri diễn tả đó là ngày mai sau Chúa sẽ thiết đãi mọi dân tộc một bữa tiệc trên Nước Trời. Đây là hình ảnh tiên trưng mà Đức Giêsu sẽ nói trong Tin mừng hôm nay.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để diễn tả cho chúng hiểu về chân lý Nước trời. Ngài nói: “Nước trời giống như nhà vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Bữa tiệc đã dọn sẵn, nhưng những người được mời đã khước từ viện lẽ này lấy cớ kia không đến tham dự. Thậm chí, có những người lại hành hung và giết cả những gia nhân của nhà vua nữa”.
Thật vậy, dân Do thái là những người được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn làm dân riêng. Vậy mà chẳng những họ chối từ trước lời mời gọi của Thiên Chúa, mà còn sát hại các gia nhân là những ngôn sứ của Chúa.
Khi nghe dụ ngôn này, những người lãnh đạo Do Thái rất bực tức, vì họ biết Chúa Giêsu đã ám chỉ về họ. Bởi họ không tiếp nhận Đức Kitô, nghĩa là không đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa. Vì thế, Nước trời bây giờ không còn dành cho họ nữa mà dành cho những dân tộc khác.
Trong dụ ngôn này, dường như chúng ta cảm thương cho số phận những người được mời từ các ngã ba đường vào dự tiệc cưới, để rồi bị loại ra vì không mặc y phục lễ cưới. Làm sao họ biết trước mình được mời đi dự tiệc, để mà mặc y phục sẵn sàng cho xứng hợp. Họ đang đi ở ngoài đường, bỗng dưng mời họ vào, rồi lại bắt lỗi đuổi họ ra?
Chúa Giêsu không có ý nói đến y phục lễ cưới những người đi dự tiệc cưới trần thế. Ngài dùng hình ảnh tiệc cưới của Hoàng Tử, để nói lên tình thương của Thiên Chúa Cha, Chúa Cha mời gọi hết tất cả mọi người vào tham dự bàn tiệc Nước trời. Đây là bàn tiệc giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa với nhân loại. Thiên Chúa muốn phòng tiệc cưới được đầy kín, nghĩa là ơn cứu độ mang tính phổ quát. Chúa muốn mọi người được ơn cứu độ, nhưng để được tham dự, đòi buộc phải mặc áo cưới, nghĩa là mặc lấy tinh thần Tin mừng, hay nói cách khác là mặc lấy tâm tình của Đức Kitô.
Chiếc áo cưới mà Chúa Giêsu nói đây, đó là tấm áo trắng trong ngày chúng ta lãnh Bí tích Rửa Tội, được trang điểm bởi những ân sủng của Chúa Thánh Thần, và được tái sinh trong ơn làm con Chúa.
Thế thì lúc này đây, tấm áo Rửa Tội của chúng ta như thế nào rồi, có còn tinh tuyền hay đã bị lem luốc, nhàu nát bởi những tính hư tật xấu? Chúng ta còn mặc trên mình hay đã thay bằng những tấm áo của tiền bạc, của danh vọng, của đam mê thấp hèn, hay những thú vui chóng q1ua ở đời này rồi? Rồi đây, sẽ có một ngày Thiên Chúa đến mời từng người chúng ta đó là giờ sau hết, thế nhưng mà không biết lúc đó chúng ta có được Chúa đoái thương mời vào tham dự hay bị loại ra ngoài, vì không mặc y phục lễ cưới.
Anh chị em thân mến,
Hằng ngày, cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta đến nhà thờ để đọc kinh cầu nguyện và tham dự Thánh lễ, là hình ảnh diễn tả bữa tiệc Nước Trời mai sau. Thế nhưng, chúng ta đi tham dự Thánh lễ với tâm tình nào? Có ý thức tôi đi lễ là tôi đi gặp gỡ Chúa không? Tôi có vì quá tham công tiếc việc, quá ham mê của cải để rồi bị chi phối không dành trọn vẹn cho Chúa một giờ khi đi tham dự thánh lễ không? Hay là tôi đi vì bổn phận, đi cho qua lần chiếu lệ vì nếu không đi thì sợ Chúa phạt.
Thật ra, đi lễ là đi tham dự một bữa tiệc, và Chúa chúc phúc cho những ai đến tham dự bàn tiệc thánh này. Nơi đây Chúa không đãi chúng ta bằng những món sơn hào hải vị, nhưng Chúa đãi chúng ta bằng chính Thịt Máu của Ngài. Về phía chúng ta có mặc y phục xứng đáng đó là tấm lòng trong sạch và với ý ngay lành để tham dự tiệc Thánh Thể không? Nếu ngay ở này, chúng ta không ý thức đáp lại lời mời gọi của Chúa, không ham ước đến nhà thờ tham dự bàn tiệc Thánh Thể là rước Mình Máu Thánh Ngài, thì hi vọng gì ngày mai sau chúng ta được Chúa mời vào tiệc cưới trên Nước Trời. Amen
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-A
MẶC CHIẾC ÁO CƯỚI TRONG NGÀY RỬA TỘI- Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay có nhiều chi tiết mới nghe chúng ta thấy không hợp lý cho lắm? Thứ nhất, giả như bây giờ chúng ta được ông chủ tịch quận hay huyện mời dự đám cưới con của ông, mình có đi không? Phải đi chứ, vinh hạnh lắm! Đàng này trong Tin Mừng kể ông vua mời, tại sao những khách mời không thèm đếm xỉa tới lời mời, rồi còn đồng loạt từ chối không đi, tại sao? Thứ hai, lý do họ từ chối không đi: kẻ thì đi thăm trại, đi buôn, kẻ khác đi cày đi cấy… đó là những lý do chính đáng mà vì họ là những người nông dân lao động kiếm miếng cơm manh áo thường ngày, bỏ cày bỏ cấy lấy gì ma nuôi gia đình. Chi tiết thứ ba là vua mời mà không đi thì thôi tại sao họ bắt bớ các giết sứ giả của vua đem thiệp mời đến, phi lý quá? Chi tiết cuối cùng, khi những khách được mời không tới, nhà vua bảo đầy tớ ra ngoài đường mời hết mọi người bất luận giàu nghèo, tốt xấu, người lang thang và cả kẻ ăn xin vào tiệc cưới. Đương nhiên, những người này làm gì có áo đẹp, mà hơn nữa bất thình lình thì lấy gì có y phục lễ cưới mặc kịp, thế thì tại sao vua phạt anh không mặc y phục lễ cưới, nghịch lý nhỉ?
Chúa Giêsu kể dụ ngôn này nghe thì nghịch lý đó nhưng quy chiếu về lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người đúng y như vậy. Cụ thể, ông vua trong dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn nói đến dung mạo Thiên Chúa yêu thương con người tha thiết đến cỡ nào, 5 lần 7 lượt mời con người hiệp thông với Ngài, vào Nước của Ngài mà hưởng hạnh phúc vui vẻ đời đời, ấy vậy, con người một mực chối từ.
Vâng, Thiên Chúa mở tiệc cưới cho Con của Ngài là Chúa Giêsu, nhưng cưới ai? Cưới cả nhân loại. Sách Sáng Thế kể “Người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mình mà luyến ái với vợ mình và cả hai nên một thân xác” (St 2,24). Còn Chúa Giêsu đã lìa bỏ Cha của mình trên trời cao để kết hợp với nhân loại nên một thân xác. Với đám cưới này, Thiên Chúa mời cả dân Do thái trước hết đến dự tiệc cưới, nhưng họ chối từ. Thiên Chúa sai ngôn sứ đến, họ cũng chối từ, rồi giết chết. Cuối cùng vị vua đó nổi cơn thịnh nộ chu triệt thành phố của họ. Matthêu có ý nói đên biến cố năm 70 năm khi đế quốc Rôma đem quân sang xâm chiếm thành Giêrusalem đã phá huỷ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Từ đó, Dân Do thái trở thành một dân tộc không có quê hương suốt 19 thế kỷ.
Sau đó, Thiên Chúa sai các ngôn sứ đi ra mọi ngã đường của thế giới không còn trong nước Palestina nữa mà đến với các nước Ai Cập, Nước Iran, Iraq… trong đó có Việt nam để mời tất cả nhân loại vào dự tiệc cưới. Giờ đây, Bàn tiệc cưới của Giáo Hội là bàn tiệc Thánh Thể, được Chúa Ki-tô khai mạc với các Tông Đồ trong bữa tiệc ly (Mt 26, 26- 29) và luôn được tái diễn từ ngày Hiện Xuống trong Giáo Hội sơ khai (Cv 2, 42) cũng như trong các cộng đoàn Kitô hữu mới (1Cr 11, 23- 29) cho tới hôm nay, cụ thể giờ này chúng ta đang cử hành tiệc cưới Con Chiên đây. Như vậy, để xứng đáng tham dự bàn tiệc Thánh Thể này, phải mặc áo cưới, áo cưới đó là chiếc áo trắng chúng ta mặc ngày chịu phép rửa tội, khi linh mục trao chiếc áo trắng và nói: Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Chiếc áo này là dấu chỉ tước vị của con, con hãy mang và giữ nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh. Như vậy, chiếc áo cưới đây chính là tước vị của chúng ta, tước vị đó là gì? Là chức tước và danh vị. Chức tước của chúng ta là vương đế, tư tế và ngôn sứ, còn danh vị của chúng ta là danh Kitô, cho nên người rửa tội trong đạo Công giáo gọi là Kitô hữu. Vì vậy, Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết để tôn vinh Danh Chúa đến muôn đời.
Vì thế để cho tước vị của chúng ta được tinh tuyền và giữ mãi, Chúa Giêsu hôm nay đòi hỏi tất cả chúng ta mặc y phục lễ cưới mãi trong đời mọi nơi mọi lúc. Mặc áo cưới đây chính là bỏ con người củ mặc lấy Chúa Kitô, có nghĩa là lấy Lời Chúa làm lẽ sống, tức phải sống Phúc Âm hóa chính bản thân trong mọi hoàn cảnh. Cởi bỏ con người cũ thật khó lắm, vì chưng tính xác thịt đã ăn sâu vào trong con người bây giờ tháo bỏ thì thiệt thòi lắm, uổn lắm… Chẳng hạn, ngày Chúa Nhật, ngày ăn nên làm ra, giờ bỏ buôn bỏ bán một giờ đi lễ là không được, mất khách, thất thu không được. Hay là thời buổi này xã hội ai cũng gian xảo mánh lới, lọc lừa là chuyện bình thường, còn Chúa bảo chúng ta phải thật thà và trong sạch, sao khó quá vì người đời lọc lọc, lương lẹo lại lên lương, còn mình thật thật thì thua thiệt! Rồi, thời buổi này ngoài đời ngươi ta cho trai gái yêu nhau thoả mái, muốn cưới nhau thì phải sống chung trước, để con rồi mới cưới vì cưới về vô sinh thì toi đời trai sao, cho nên người Công giáo bắt phải giữ mình đồng trinh khó quá, không theo nỗi! Như vậy, nếu chúng ta không cỡi bỏ áo cũ, không sống theo Tin Mừng của Chúa cho dẫu chúng ta có ở giữa lòng Giáo hội, thì chúng ta vẫn chưa xứng đáng tiệc cưới của Chúa Giêsu vì không mặc áo cưới, không sống Lời Chúa và Hội Thánh dạy. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu kể anh chàng không mặc y phục vụ cưới sao? “Nhà vua liền bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!”
Thánh Phaolô nói: “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3,27). Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy tư tưởng, lời nói và hành động của Kitô có nghĩa rằng chúng ta phải hoán cải đời sống và sống Phúc Âm từ chính bản thân đến gia đình, Giáo xứ… để mỗi người trở nên thánh và thiện trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Như thế, chúng ta mới được Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng tiệc cưới hạnh phúc trên đời này và Nước Trời mai sau. Vì thế, trong Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, Linh mục cầm chén Máu Thánh và Mình Thánh Chúa giơ cao và đọc: Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Vậy, mỗi lần chúng ta đến tham dự Thánh lễ là người có phúc vì được Chúa mời. Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay và mọi Thánh lễ, xin cho mỗi người chúng ta biết giữ niềm hạnh phúc vô biên ấy từ bây giờ và cho đến khi vào dự tiệc cưới Nước Trời bằng việc sống Lời Chúa và Hội Thánh dạy một cách chân tình và triệt để hằng ngày qua từng lời nói, hành động, công ăn việc làm hay cách đối nhân xử thế của chúng ta trong gia đình và cuộc sống. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- A
TIỆC MỪNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sống trên đời, ai cũng muốn được ăn ngon mặc đẹp. Trừ một số những vị chân tu tự nguyện ăn uống kham khổ để tu thân luyện tính hoặc kiêng khem để chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe. Đa số dân lao động chỉ mong muốn được hằng ngày dùng đủ. Việc ăn uống đáp ứng nhu cầu thể xác và cũng mang lại niềm vui tinh thần. Nghe tiên tri Isaia loan báo về bữa tiệc, ai nấy đều vui mừng phấn khởi: Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc, đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon (Is 25, 6). Bữa tiệc thịnh soạn là dấu chỉ của sự sung túc và vui hưởng phước lộc. Tiệc đã dọn sẵn sàng, ai cũng có thiệp mời đến tham dự bữa tiệc vui này, nhưng cuối cùng đã có một số người tìm lý do riêng tư để từ chối. Vì họ có nhiều lý do và nghĩ rằng những công việc khác quan trọng hơn.
Isaia đã phấn khích dân chúng mong chờ một tương lai sáng rạng hơn. Ngày đó sẽ mang lại nhiều niềm vui hoan lạc. Niềm vui không chỉ là sự an cư lạc nghiệp, xây dựng đền thờ và cuộc sống sung túc, nhưng là Đấng Cứu Thế sẽ viếng thăm dân Người: Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta, chúng ta đã chờ đợi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ (Is 25, 9). Dân Do-thái có một sứ mệnh cao cả hơn các dân tộc khác. Họ được Thiên Chúa chọn lựa, hướng dẫn, dậy dỗ và chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn cứu rỗi. Có biết bao các nhóm dân tộc chung quanh tự do bước đi trong đường lối của họ. Họ dựng nước, xây đồn, đắp lũy, tường thành và lập đàn miếu thờ cúng các thần phật. Thiên Chúa đã không lập giao ước với họ. Họ đã phải dầy công học hỏi, suy tư và kiếm tìm về nguồn chân thiện, giống như các nhà đạo sĩ Đông Phương dõi theo ánh sao tìm đến tôn thờ vua Hài Nhi.
Trong thế giới chúng ta đang sống đây, con số giầu nghèo rất chênh lệch. Có rất nhiều người chỉ mong được ăn no mặc ấm, nhưng cũng chưa được toại nguyện. Tại nhà xứ nơi tôi đang ở, có cha Richard Nahmann, dòng Augustinô, đã ngoài 76 tuổi rồi, quanh năm suốt tháng, cuối tuần nào cũng đi giảng cho chương trình ‘Food for the Poor’. Mỗi cuối tuần cha đều có bài sai đi các xứ đạo khác nhau trong vùng, cha Nahmann phải lái xe vừa đi vừa về mỗi lần trên dưới khoảng 500 cây số. Ngài đi giảng để xin tiền gây quỹ cho tổ chức Cứu Trợ Quốc Tế. Có nhiều cơ quan và tổ chức tôn giáo cộng tác với nhau, có các mục sư, linh mục và thiện nguyện đang hoạt động tại 17 quốc gia vùng Địa Trung Hải, Châu Mỹ La Tinh và cả ở Hoa Kỳ. Thực phẩm cung cấp cho những người nghèo đói nhất trong những trường hợp khẩn cấp: Cứu trợ thức ăn, nước uống, thuốc thang, giáo dục, huấn nghệ, giúp trẻ mồ côi và người cao niên. Tổ chức dành 95% tiền dâng cúng gởi trực tiếp đến cho chương trình cứu trợ này. Chúng ta biết những người nghèo nhất chiếm 40% tổng số dân trên thế giới.
Nghĩ đến những người sống trong các trại cấm, trại tỵ nạn, lớp cùng đinh, hàng tiện dân ở Ấn Độ và những người nghèo khổ sống ở những miền đất khô cằn tại Phi Châu. Biết bao người đói khổ, tấm thân gầy guộc, thiếu thốn đồ ăn nước uống và mọi nhu cầu cần thiết. Nhiều người trong họ đã phải chết dần chết mòn vì đói khát, thiếu dinh dưỡng và bệnh hoạn. Niềm hy vọng nhỏ nhoi của họ là có được bữa ăn no để sống còn. Nghèo thì khổ. Niềm hy vọng của họ là gì? Người ta thường nói: Có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn. Nhu cầu cụ thể trong đời sống cần được giải quyết trước. Chúa Giêsu cũng đã chia sẻ kiếp sống nghèo, đi tị nạn xứ người, lao động kiếm sống và làm bạn với những người nghèo khổ. Chúa cảm thông nỗi đắng cay khổ sở của họ. Chúa mở rộng cửa Nước Trời đón nhận mọi thành viên vào dự tiệc. Nguồn an ủi cậy dựa vào tình thương của Chúa: Xin Thiên Chúa cung cấp dư dật những nhu cầu của anh em, theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô (Phil 4, 19).
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như vị vua làm tiệc cưới cho hoàng tử. Đây là một bữa tiệc vui quan trọng vì là con của vua. Bao nhiêu ngày tháng hoàng gia mong chờ và chuẩn bị để thết đãi các khách mời: Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến (Mt 22, 3). Thật lạ, tiệc cưới sang trọng và cao quí, nhưng những khách được mời lại không muốn tham dự. Khách mời đây trước hết chính là dân tộc Do-thái. Nhiều người đã không màng tới, vì họ còn phải bon chen lo lắng nhiều sự ở đời. Họ đang cố công tìm kiếm những niềm vui và lợi ích riêng cho đời sống: Nhưng những người ấy đã không thèm đếm xỉa gì và bỏ đi: Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi (Mt 22, 5-6). Ai cũng có lý do biện minh rằng cuộc sống bận bịu quá không có thời gian. Nên cuối cùng, tiệc cưới của hoàng tử được mở ra đón mời mọi thành phần, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc và nòi giống, họ đến từ bốn phương trời. Sự kiện này diễn tả hình ảnh tiệc vui Nước Trời phổ quát cho mọi dân nước.
Tiệc cưới có thịt béo rượu ngon dọn sẵn sàng, nhưng niềm vui không trọn. Khách mời đã không đến dự tiệc. Có lẽ những người này đang đi tìm một bữa tiệc hợp khẩu vị hơn hoặc là khung cảnh vui nhộn hơn. Họ đã bỏ qua một cơ hội quí báu. Giáo Hội chọn đoạn thơ của thánh Phaolô để lồng vào phần phụng vụ lời Chúa hôm nay nói lên một thực tế cuộc sống: Anh em thân mến, tôi biết chịu thiếu thốn và biết hưởng sung túc. Trong mọi trường hợp và hết mọi cách, tôi đã học cho biết no, biết đói, biết dư dật và thiếu thốn (Phil 4, 12). Phaolô chia sẻ cuộc sống một cách khôn ngoan. Biết sống thích thời trong mọi hoàn cảnh. Vì danh Chúa Kitô, Ngài đã chấp nhận trải qua mọi sự gian khó trong đời sống. Cho dù trong hoàn cảnh nào, Ngài vẫn trung thành và đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô phục vụ anh chị em.
Chúa các đạo binh sẽ khoản đãi anh em một bữa tiệc giống như tiệc cưới của hoàng tử. Đây là bữa tiệc Nước Trời. Không chỉ là một bữa mà là một cuộc sống an bình viên mãn. Trên đường dương thế, chúng ta phải chuẩn bị kỹ lưỡng để cùng được chung hưởng ngày vinh quang đó. Nhiều người trong chúng ta cũng đã trải nghiệm sự đói khổ ở đời. Những ngày tháng tại quê nhà vào những năm mất mùa, thiên tai nạn lụt, vào thời bao cấp bị thiếu ăn thiếu mặc, chúng ta chịu thương chịu khó. Đối diện với những khó khăn cuộc sống, chúng ta không bỏ cuộc. Niềm tin của chúng ta vẫn khăng khít gắn bó với Chúa Kitô. Hình như trong những lúc gian truân cùng quẫn, lòng tin yêu sống đạo của chúng ta càng sắt son.
Những người được mời đã không đáng được tham dự tiệc cưới, vì họ đã coi thường đức vua của họ. Chúng ta biết lời mời cao hơn mâm cỗ. Vua đã đích thân gởi thiệp mời đến dự tiệc cưới. Thiên Chúa yêu thương mời gọi mỗi người chúng ta đến dự tiệc cưới Nước Trời. Tiệc cưới này được chuẩn bị ngay trên trần thế. Đây là bữa tiệc Thánh Thể được cử hành mỗi ngày nơi các giáo xứ. Nơi đây chúng ta sẽ được nuôi dưỡng bằng Lời và Mình Máu Thánh Chúa. Bánh trường sinh nuôi dưỡng linh hồn và dẫn bước chúng ta vào tiệc vui Nước Trời mai sau. Chúng ta hãy mau mắn đáp lời mời gọi của Chúa. Hãy ăn mặc tươm tất, chuẩn bị chu đáo và dành thời gian quí để cùng chia sẻ niềm vui chung với cộng đoàn dân Chúa.
Lạy Chúa, Chúa mở cửa đón nhận mọi người vào dự tiệc cưới Nước Trời. Xin cho chúng con biết sắp xếp công việc và chuẩn bị chu đáo để tham dự ngày vui hồng phúc này. Chúng con hoàn toàn đặt niềm tin yêu nơi Chúa, xin cho chúng con được vào số những người Chúa chọn: Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít. (Mt 22, 14).