CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CÁC ÔNG NGHĨ SAO(*)– Chú giải của Noel Quession. 6
PHỤC VỤ THIÊN CHÚA KHIẾN CON NGƯỜI TỰ DO- Chú giải của Fiches Dominicalaes 14
KHẢ NĂNG HOÁN CẢI VẪN LUÔN ĐƯỢC CHỜ ĐỢI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 30
DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 39
SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 46
CÔNG CHÍNH HÓA- Lm. Vũ Đình Tường. 50
HOÀN THIỆN BẢN THÂN– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 53
VÂNG LỜI- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty. 58
NÓI VÀ LÀM- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng. 63
NÓ HỐI HẬN VÀ ĐI LÀM- Lm. Nguyễn Tiến Huân. 74
NGUY CƠ TỰ MÃN- Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng. 77
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, nó sẽ được sống”.
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Đây Chúa phán: “Các ngươi đã nói rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 24, 4bc-5. 6-7. 8-9
Đáp: Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Chúa (c. 6a).
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm khi con còn trẻ và tội ác, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho con nhận biết đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
BÀI ĐỌC II: Pl 2, 1-5 hoặc 1-11
“Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Đức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau, chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô.
Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong hoả ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 21, 28-32
“Nó hối hận và đi làm. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!’ Nó thưa lại rằng: ‘Con không đi’. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: ‘Thưa cha, vâng, con đi’. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” Họ đáp: “Người con thứ nhất”. Chúa Giêsu bảo họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-A
CÁC ÔNG NGHĨ SAO(*)– Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu nói với các thượng tế vằ kỳ mục: ”Các ông nghĩ sao?..”
Dụ ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi đến các từng lớp lãnh đạo của thời đại Người, “các thượng tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17), rồi một cách tượng trưng Người đã làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22). Những “kẻ cầm quyền” ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có quyền gì để làm những hành động khiêu khích ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu, Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai người con, những tá điền sát nhân, những khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28 – 22,14). Cuộc khổ nạn đến rất gần. Đức Giêsu thật sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người sẽ bị loại trừ bởi chính những người lẽ ra phải tiếp đón Người.
Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách giải thích lịch sử” về cuộc khổ nạn.
Nếu chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng ‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày nay, các dụ ngôn được nói với mỗi người chúng ta.
Lời kêu gọi tối hậu của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta: “Bạn, X, Y,…., bạn nghĩ gì về điều đó?”
Một người kia có hai con trai. ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Nó đáp: “Con không muốn đâu!”. Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi
Bạn nghĩ gì về điều này?.
Phản ứng đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.
Đức Giêsu, khi đưa ra câu chuyện đơn sơ này đã không cho một lời giải thích nào về mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con người ‘thay đổi’, “hoán cải “. Và đó là một mạc khải củng cố chúng ta. Thế giới hiện đại với những dòng tư tưởng hiện nay, các phương tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng rằng con người bị điều kiện hóa và như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất định, lấy đi của chúng ta mọi trách nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách nhiệm của xã hội của tính khí người khác quả là có lợi! Trái lại, Đức Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ được chọn trước. Dù quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta từ chối điều gì một sự thay đổi là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là Đấng không bao giờ giam hãm một người nào trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi người cơ hội của mình, dù đó là người tội lỗi nhất.
Như thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên Chúa không nhìn chúng ta “đông cứng” nhưng “đang trở thành”.
Trong những khó khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy con người mới có lẽ sắp được sinh ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp chúng con không làm đông cứng người khác, đừng dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí óc Người. Tại sao Người đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói’ tiếng không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.
Ông đến gặp người thứ hai và cũng bảo như vậy nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?
Rõ ràng người con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý muốn. Và trong văn cảnh bút chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng đặt ra cho chính chúng ta. Bạn nghĩ gì về vấn đề đó? Người nào trong hai người con đã làm theo ý muốn của người cha?
Họ trả lời: “Người thứ nhất”
Thật vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới đáng kể chớ không phải ý định của chúng ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu rất hợp với thời đại: Thế giới ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi ngờ những người nói hay -những kẻ đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng ý thức hệ lý thuyết đều mất hết tốc độ. Người ta phán đoán những lời hứa dựa vào những kết quả có thực.
Nhưng chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất. Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là những ‘tín hữu’ nhưng ‘không hành đạo’. Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không theo bằng hành động.
Hoặc giả, chúng ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện…” mà thái độ của chúng ta có tương ứng với những lời tuyên bố cao đẹp ấy không? Nhưng chúng ta đã được cảnh báo: “nói” không quan trọng bằng “làm”. Người ta không đánh lừa được Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn tả: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Gioan 3,18).
Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.
Đức Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức long trọng. “Tôi bảo thật các ông!”. Khi Đức Giêsu sử dụng công thức này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều gì rất quan trọng. Vả lại ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh ngạc và gần như gây vấp ngã.
Bằng cách nào? Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về ‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’, những người tội lỗi bởi tình trạng đời sống, những người tội lỗi công khai chăng? những người thu thuế là những người thỏa hiệp với tiền bạc? Những cô gái điếm là những người thỏa hiệp về xác thịt?
Tuy nhiên, thật tệ hại khi tưởng tượng rằng Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự hoán cải.
Tội lỗi tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần đến Thiên Chúa! bất chấp đến Người. Và chúng ta biết rằng vào thời của Đức Giêsu những người tin rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho họ. Nhưng những người tội lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.
Nhà văn Péguy đã diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của tội lỗi, vốn là một điều xấu tự bản chất trở thành một điểm hút thấm đối với ân sủng. “Người ta đã thấy ân sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những gì đã bị hư mất’. Nhưng người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không “thấm nước”. Những con người tử tế lương thiện hoặc sau cùng những con người mang danh như thế mà tấm áo giáp của họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại cho họ điều gì”.
Phải chăng như những người tội lỗi mà Đức Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm để mong ước ân sủng cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?
Phải chăng tôi hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ hội chưa từng có, theo đường lối của Tin Mừng. “Những kẻ tội lỗi công khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Đức Giêsu nói về hạng người nào? Người nói với ai bằng “các ông”? Những hạng người tin rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào hạng người đó không?
Lạy Chúa, xin hãy thương xót chúng con!
Vì ông Gioan Tẩy Giả đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin.
Trong lúc dụ ngôn “hai người con” nhấn mạnh đến sự tương phản giữa “nói” và ‘làm’ ‘giữa nói “có” trên môi miệng và nói “không” trong hành động’; kết luận này nhấn mạnh sự tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác (Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi chút ít để đặt câu ấy ở đây để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra ở trước bài Tin Mừng này: “Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do trời hay do người ta?” (Mt 21,25).
Một lần nữa, qua những người đồng thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’ bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin thường là một ‘sự hoán cải, một sự đổi mới cuộc đời’.
Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.
Đức tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: “Hôm nay con hãy vào làm việc trong vườn nho của Thầy!”. Hoặc là người ta đáp ứng với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là qua những sự kiện cụ thể, người ta không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một từ không được dịch ra bất cứ ngôn ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu, đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các hành động” mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa: “Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi”. Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu lần?
Vì Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên Chúa (lCr 1,19).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
PHỤC VỤ THIÊN CHÚA KHIẾN CON NGƯỜI TỰ DO- Chú giải của Fiches Dominicalaes
1-Ai trong hai…
Trước sự phẫn nộ của các đối thủ, Đức Giêsu, được một đám đông cuồng nhiệt chào đón bằng những tiếng: “Hosana”, đã long trọng tiến vào Giêrusalem. Trong Đền Thờ, nơi Ngài giảng dạy, Ngài thường xuyên chịu đựng sự quấy nhiễu của “các thượng tế, và kỳ lão trong dân”. Hiển nhiên họ đến chất vấn Ngài về uy quyền nào cho phép Ngài nói và làm như vậy: “Do quyền nào ông đã làm điều đó, và ai đã ban cho ông uy quyền đó” (21,33). Nhưng Đức Giêsu từ chối trả lời bao lâu họ còn né tránh câu hỏi Ngài đặt ra: “Phép rửa của Gioan từ đâu đến, từ trời hay từ con người (21,44). Chính trong bối cảnh tranh cãi này, trong đó có 3 dụ ngôn về ngày phán xét, Đức Giêsu đã cho họ 1 lời cảnh báo mạnh mẽ sau cùng: Dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho (Pâ CN 26). Dụ ngôn thợ làm vườn nho sát nhân (Pâ CN tới). Dụ ngôn khách được mời dự tiệc cưới (Pâ CN 28). Dụ ngôn đầu là của riêng Matthêu, dụ ngôn 2 đứa con trai được sai đi làm vườn nho có một vẻ đạm bạc đặc biệt, bỏ đi tất cả những chi tiết phụ thuộc để làm nổi bật sự tương phải giữa hai chàng trai. Tương phản trong thái độ ban đầu.
Đối lập thái độ vụng về của đứa con thứ nhất, nó phản đối thẳng thừng: “Tôi không muốn đi!”. Với thái độ kính cẩn thái quá của đứa con thứ hai: “Vâng, thưa cha”. Nhất là tương phản trong thái độ sau cùng.
Trong khi đứa thứ nhất, sau khi đã chối từ, nghĩ lại và ra vườn làm việc.
Đứa thứ hai, sau khi đã kính cẩn vâng phục và chấp nhận, lại chẳng làm gì hết.
2- … đã thi hành ý Cha?
Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: hai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha?”. Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: “đứa thứ nhất”. Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ. Sự ngỡ ngàng ập đến khi Đức Giêsu chuyển sang phần áp dụng dụ ngôn, đã làm họ thấy rằng họ vừa tự phán xử và tự kết án chính mình: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Vì Gioan Tẩy giả đã đến với các ngươi sống công chính và các ngươi không tin vào lời Ngài, trong khi những người thu thuế và đĩ điếm đã tin. Còn các ngươi, cả sau khi đã chứng kiến điều ấy, các người vẫn không hối chi, không tin lời Ngài. “Các thượng tế và các kỳ lão trong dân” tuyên xưng để trả lời “vâng” với Thiên Chúa bứng cách lo âu gắn bó với lề luật và mọi ghi chú từ lề luật. Thực ra, họ ẩn núp sau Lề Luật để từ chối tin sứ mệnh của Đức Giêsu, cũng như họ đã từ chối tin vào sứ mệnh của Gioan Tẩy giả. Họ né tránh ý Chúa: đón tiếp lời và con người Đức Giêsu; trở về với Chúa để tiến vào Nước Trời. Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những người “thu thuế” và “đĩ điếm”, những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường công chính”, lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã “hối cải và tin vào lời Ngài”. Cl. Tassin bình luận: “Vì trước hết đức tin không phải là một vài tư tưởng công chính, nhưng là một hành động công chính, những người tội lỗi tồi tệ đã hiểu điều này nên đã bằng mọi giá cố gắng “thi hành ý Cha”. Còn các ngươi, Đức Giêsu nói, các thượng tế, chứng nhân của các cuộc hoán cải này mà các ngươi chẳng nhúc nhích các ngươi đã lỡ cơ hội đầu tiên, thậm chí các ngươi còn để vuột mất tất cả mọi cơ hội: dụ ngôn kế tiếp sẽ minh chứng điều đó.
Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết biết lãi nhãi: “Lạy Chúa, lạy Chúa” nhưng không bao giờ thi hành ý Cha”.
BÀI ĐỌC THÊM:
*1 Một ví dụ khích đối với những người đối thoại với Đức Giêsu (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB).
Đức Giêsu đã nói: Không phải những kẻ kêu rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa! mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha. Hôm nay Ngài còn đi xa hơn: Ngài nói con người có khả năng thay đổi ý kiến, thái độ, từ vâng lời có thể trở thành bất tuân, ngược lại từ chống đối có thể hoán cải. Ví dụ Ngài đưa ra quả là khiêu khích những người đối thoại: Thật, Ta bảo các ngươi, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi. Ngài chỉ cho thấy chìa khoá mở cửa Nước Trời: đó không phải là vị trí người ta chiếm giữ, cũng không phải địa vị đắc thủ, càng không phải là một lần đồng ý với Lời Thiên Chúa. Đó là tình trạng của các thầy thượng tế, các kỳ lão, các luật sĩ và các tiến sĩ luật. Họ có một nhiệm vụ chính thức trong dân; đó cũng là sự tự hào của bọn biệt phái, họ khoe khoang sự trung tín không hề lơi lỏng đối với Lề Luật và truyền thống. Khốn nỗi lối vào Nước Trời đâu mở ra cho giá trị, công phúc, trọn lành. Đó là món quà Thiên Chúa tặng không cho những ai tiếp nhận lời Ngài và hoán cải. Chìa khoá lối vào Nước Trời là sự hoán cải: hãy hoán cải, vì Nước Trời đã gần” (3,2) Gioan Tẩy Giả đã la lên như thế. Hoán cải là nhận biết những giới hạn của bản thân, là phó mình cho Thiên Chúa và ý định của Ngài. Đức Giêsu phân biệt những người khẳng định sự trung tín nhưng không hề nhúc nhích, với những người không sống “theo luật tắc”, nhưng nhận biết Người và thay đổi theo tiếng gọi của Thiên Chúa: Hoán cải là đi đến nơi. Để giải thích rõ, Đức Giêsu đưa ra một ví dụ cực kỳ, gây phẫn nộ nhất: những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ngươi. Chứng cớ mà Ngài trưng dẫn là sự rao giảng của Gioan Tẩy Giả: “Thật vậy, Gioan đã đến vớt các ngươi trong đường công chính và các ngươi đã không tin, trái lại những người thu thuế và đĩ điếm đã tin ông. Sau đó, đã nhìn thấy như vậy, các ngươi vẫn không hoán cải mà tin ông”. Đâu có những người tin, đón nhận lời của Gioan và dấn thân thay đổi đời sống. Đức Giêsu nhận thấy đó là những người không tự hào, chẳng có đặc quyền đặc lợi gì, nhưng bị khinh miệt, coi thường. Họ chẳng có gì để bảo vệ, họ không sợ bị mất mặt hay bị nghi ngờ. Ai có “danh dự ” cần bảo vệ, ai tự tin mình công chính, người ấy khó mà nhận mình tội lỗi, khó mà ăn năn hối cải, khó mà nhận mình cần thay đổi, khó chấp nhận rằng mình sẽ vào nước Trời không do công phúc của mình… Ta không ngừng cầu xin Chúa ban cho ta một trái tim nghèo, xin Ngài tẩy sạch thói tự mãn, cho ta ý thức sự yếu hèn, tội lỗi của mình. Khi giảng dạy, Đức Giêsu đã ban một chìa khoá “chung” để vào Nước Trời: đó là sự hoán cải, thống hối, ai cũng làm được cho dù họ có những phẩm chất nào, khuyết điểm nào, thuộc dòng chủng tộc nào, dân tộc nào đi nữa. Ơn cứu độ ban cho tất cả những ai chấp nhận mở lòng ra và tin tưởng.
*2. Chúng tôi chấp nhận bị Phúc Âm làm phiền (M. Hubaut, Prier les paraboles, DDB).
Lạy Chúa
Mỗi buổi sáng, Chúa nhắc lại lời mời:
“Hãy đi làm vườn nho cho Ta!”
Nhưng lời Chúa
Con đã nghe hằng trăm lần
Giờ thì còn là một âm thanh quen thuộc
Mỗi Chúa nhật ru ngủ cộng đoàn
Tuy vậy chúng con vẫn máy móc trả lời
“Vâng, vâng lạy Chúa
Rồi chúng con lặng lẽ trở lại
với những công việc thường lệ.
Chúng con đã thuần hoá sự mãnh liệt của Phúc Âm Chúa để chỉ còn nghe những lời lẽ dịu êm những công thức rất tế nhị. Chúng con đã làm giảm cường độ ánh sáng Phúc Âm qua lăng kính của quan niệm về trật tự, của Giáo Hội và xã hội. Và Phúc Âm của Chúa sẽ chẳng còn phiền nhiễu chúng con nữa.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- A
KHẢ NĂNG HOÁN CẢI VẪN LUÔN ĐƯỢC CHỜ ĐỢI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm A nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người trước tội lỗi và khả năng hoán cải vẫn luôn được chờ đợi.
Ed 18: 25-28
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói rằng thái độ của con người không mãi bất di bất dịch trong sự công chính cũng như sự gian ác. Thiên Chúa không muốn kẻ bất lương phải chết nhưng hồi tâm hoán cải để được sống.
Pl 2: 1-11
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu đồng tâm nhất trí với nhau và thực thi đức khiêm nhường theo mẫu gương của Đức Ki-tô.
Mt 21: 28-32
Tin Mừng Mát-thêu là dụ ngôn hai người con, trong đó Đức Giê-su nhấn mạnh: Điều quan trọng không phải là ngày hôm qua bạn đã trả lời với Thiên Chúa như thế nào, nhưng là ngày hôm nay bạn có thực sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa hay không.
BÀI ĐỌC I (Ed 18: 25-28)
Khi đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm vương quốc Giu-đa, ngôn sứ Ê-dê-ki-en cùng với một số người Do thái ưu tú bị dẫn đi lưu đày lần thứ nhất. Trong hoàn cảnh bi thảm đó, ông gẫm suy ý nghĩa của các biến cố xảy đến trên dân tộc mình. Vừa là tư tế vừa là ngôn sứ, ông quan tâm đến tội lỗi. Việc dân Ít-ra-en đang phải chịu thử thách lớn lao đã khiến ông suy nghĩ về án phạt tập thể và trách nhiệm cá nhân.
*1.Án phạt tập thể:
Dân Chúa chọn phải trả lẽ về tội bất trung dài lâu đối với Thiên Chúa của mình. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo án phạt. Trong số những người lưu đày, không ai không nghĩ đến bản văn của sách Lê-vi: “Các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. Những kẻ còn lại trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với lỗi lầm của chúng” (Lv 26: 38-39).
Tuy nhiên, ngôn sứ Ê-dê-ki-en phá vỡ quan niệm truyền thống nầy khi lật đổ “án phạt tập thể” đang đè nặng trên những người lưu đày biệt xứ trong hoàn cảnh khốn cùng của họ, theo đó con cháu phải còng lưng gánh tội cho cha ông như câu ngạn ngữ phổ biến: “Đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng”. Để họ lấy lại niềm tin vào tương lai, vị ngôn sứ gởi đến họ sứ điệp với những dấu nhấn mới: Mỗi người chỉ chịu trách nhiệm về chính mình, vì thế con người có thể trút bỏ gánh nặng của quá khứ để khởi sự xây dựng lại hiện tại và hướng tầm nhìn đến tương lai.
*2.Trách nhiệm cá nhân:
Trước đoạn trích dẫn hôm nay, ngôn sứ Ê-dê-ki-en công bố: “Sự công chính của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với kẻ gian ác” (18: 20). Tuy nhiên, không có gì là bất di bất dịch cả. Người công chính có thể sa ngã và kẻ gian ác cũng có thể hồi tâm hoán cải. Những người lưu đày quen với sự liên đới, gia đình hay dân tộc, không sẵn sàng lắng nghe sứ điệp nầy, khi than trách rằng “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng!” (18: 25). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa bác bỏ khi nêu lên câu hỏi: “Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?”, và trình bày cho họ biết đường lối của Thiên Chúa có ngay thẳng hay không: “Khi người công chính bỏ đường công chính mà làm điều gian phi, rồi vì thế mà nó phải chết, thì chính là vì điều gian phi nó đã làm, mà nó phải chết. Còn khi kẻ bất lương bỏ việc bất lương nó đã làm, mà thi hành điều công minh chính trực, thì nó sẽ được sống” (18: 26-27).
Trước Ê-dê-ki-en, sách Đệ Nhị Luật đã đưa ra quan niệm về án phạt cá nhân: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử vì tội của mình” (Đnl 24: 16). Tuy nhiên, ngôn sứ Ê-dê-ki-en còn đi xa hơn khi cắt đứt mọi liên đới của thế hệ hiện nay khỏi các thế hệ trước đó và mỗi cá nhân khỏi quá khứ của mình, cốt là đổi mới và hình thành lại một dân tộc mới. Chủ yếu là lấy lại niềm tin tưởng vào sự công chính của Thiên Chúa: “Đấng không muốn người tội lỗi phải chết, nhưng hối cải để được sống”.
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 1-11)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đã bắt đầu vào Chúa Nhật trước. Thánh Phao-lô đang phải chịu cảnh “gông cùm xiềng xích” có thể ở Ê-phê-xô, từ đó thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê một búc thư chan chứa cảm xúc bộc phát.
*1.Đồng tâm nhất trí:
Những lời khích lệ của thánh Phao-lô để lộ vài bất đồng giữa lòng cộng đoàn tín hữu Phi-líp-phê. Chúng ta không biết họ bất đồng về chuyện gì. Bức thư ám chỉ cách kín đáo. Trong phần cuối thư nầy, sự bất đồng giữa hai người Ki-tô hữu được gợi lên, nhưng trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân thiết tha mời gọi cộng đoàn hãy đồng tâm nhất trí và thực thi đức khiêm nhường.
Cung giọng thân quen của thư không ngăn cản vài tư tưởng đẹp và những tâm tình sâu xa. Những lời nhắn gởi của thánh Phao-lô được trình bày theo thể thức điều kiện đem lại cho lời mời gọi của thánh nhân một sự trang trọng nào đó. Lời mở đầu: “Nếu quả thật, sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau”, gợi nhớ lời cầu chúc cuối thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Cầu chúc toàn thể anh em, được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn thông hiệp của Thánh Thần. A-men” (2Cr 13: 13). Rõ ràng, thánh Phao-lô muốn đặt lời mời gọi đồng tâm nhất trí của cộng đoàn dưới dấu hiệu hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phao-lô không chỉ nói đến lòng mộ đạo của các tín hữu Phi-líp-phê, nhưng ngài còn nói đến tấm lòng của họ, đến tình nghĩa keo sơn bền chặt của họ đối với ngài. Thánh nhân xin họ cho ngài niềm vui lớn lao nầy là họ đồng tâm nhất trí với nhau.
*2.Đức khiêm nhường:
Đối với đức khiêm nhường, thánh nhân khuyên bảo: “Đừng làm vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Phương thuốc tốt nhất để chữa lành thói kêu căng và vị kỷ là quan tâm đến người khác. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô, Đấng đã tự hạ mặc lấy thân phận phàm nhân của chúng ta cho đến bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá.
Lúc đó, thánh nhân trích dẫn một bài thánh thi, đây là bằng chứng cổ xưa nhất và rõ ràng nhất về niềm tin Ki-tô giáo vào thần tính và cuộc sống tiền hữu của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 21:28-32)
Sau khi đã long trọng vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su thực hiện sứ vụ cuối cùng. Ngài đặt thính giả của Ngài trước một sự chọn lựa dứt khoát: hoặc nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, hay loại bỏ Ngài. Vào thời điểm nầy, thánh Mát-thêu ghi lại ba dụ ngôn: dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới, qua đó Đức Giê-su loan báo Nước Trời sẽ được lấy đi khỏi những kẻ được hứa ban mà trao cho những người khác. Chúng ta sẽ đọc ba dụ ngôn nầy trong suốt ba Chúa Nhật liên tiếp. Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta đọc dụ ngôn: “Hai người con” (21: 28-32).
*1.Đối tượng mà dụ ngôn nhắm đến:
Đối tượng mà Đức Giê-su ngỏ lời là các thượng tế và kỳ mục. “Các thượng tế” là giai cấp lãnh đạo cao nhất của người Do thái vào thời Đức Giê-su. “Các kỳ mục” là những bậc vị vọng, những thành phần quý tộc và những điền chủ giàu có. Cả hai giai cấp nầy chống đối Đức Giê-su cách quyết liệt. Thánh Mát-thêu quy trách nhiệm trên những giai cấp lãnh đạo có quyền có thế nhất trong dân Ít-ra-en về cái chết của Đức Giê-su.
*2.Lời lời mời gọi tối hậu của Đức Giê-su.
Ngay từ đầu, Đức Giê-su đề nghị các vị lãnh đạo Do thái suy nghĩ điều quan trọng mà Ngài sắp công bố theo hình thức dụ ngôn: “Các ông nghĩ sao về chuyện sau đây?…”. Quả thật, đây là một lời cảnh báo tối hậu, một lời kêu gọi sau cùng thực thi ý muốn của người cha, sau khi đã khước từ lời mời gọi của người cha.
Nét đáng chú ý của dụ ngôn là chọn lựa “hai người con”, nghĩa là người cha đều dành cho cả hai đứa con của mình tấm lòng thương yêu như nhau. Đứa con thứ nhất từ chối lời mời gọi của người cha: “Không, con không đi đâu”, nhưng rồi lại thi hành ý muốn của cha, trong khi đưa con thứ hai đã ngoan ngoãn đáp lại lời mời gọi của cha: “Thưa cha, vâng!”, nhưng rồi lại không thi hành ý muốn của cha. Ở đây, xin được nhắc lại bản văn Ê-dê-ki-en theo đó vì con người có tự do, nên không có gì bất di bất dịch, người công chính có thể sa ngã và kẻ tội lỗi có thể hoán cải. Đây là ý nghĩa phi thời gian của dụ ngôn về hai người con.
Dụ ngôn giải thích sự thay đổi thái độ của người con thứ nhất: “Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi”, nhưng lại không cho biết lý do tại sao người con thứ hai sau đó lại thay đổi thái độ như thế. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến một lời công bố khác của Đức Ki-tô: “Không phải những ai nói: ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời đâu, nhưng chính là thi hành ý muốn của Cha tôi”.
*3.Ý nghĩa của dụ ngôn.
Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giê-su không ngần ngại nói thẳng ra với giai cấp lãnh đạo Do thái: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy”. Đức Giê-su chủ ý đưa ra hai mẫu người tội lỗi công khai bị khinh bỉ đặc biệt nhằm phá vở tính tự cao tự đại của giai cấp lãnh đạo Do thái như một thành trì kiên cố. Quả thật, các thượng tế và kỳ mục đều đã biết sứ điệp của ông Gioan, nhưng họ không chịu tin, vẫn nhất mực từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa qua ông Gioan. Trái lại, phường thu thuế và bọn gái điếm đã lắng nghe ông Gioan và hoán cải.
Thiên Chúa chỉ xét đoán con người dựa trên thái độ hiện tại của họ, dù quá khứ như thế nào đi nữa. Chính giây phút hiện tại mới là quan trọng. Đối với Thiên Chúa, ngày hôm nay mới là đáng kể. Đó là lý do tại sao các sứ điệp của sách Đệ Nhị luật luôn luôn bắt đầu với lời mời gọi tha thiết: “Ngày hôm nay, phải chi các ngươi nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Chúng ta sống ở trần gian này như những lữ khách đang đi trên một con đường dài đằng đẳng. Nếu không có Chúa dẫn đường, không biết chúng ta sẽ đi về đâu. Nhưng dù có Chúa dẫn đường mà nếu chúng ta không theo Ngài thì chúng ta cũng vẫn lạc hướng.
Bởi vậy trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết đường lối của Chúa để chúng ta đi theo, ngõ hầu mọi người chúng ta đều đến được cùng đích hạnh phúc vĩnh viễn của đời mình.
– Chúng ta mãi mê lo cho cuộc sống trần gian hiện tại mà không nghĩ đến cuộc sống đời đời mai sau.
– Nhiều lần chúng ta không đi đường công chính mà lại đi theo đường tội lỗi.
– Chúng ta thường nói mình mến Chúa nhưng lại không làm theo thánh ý Ngài.
Trong đoạn này, ngôn sứ Êdêkien cố gắng bài bác hai quan niệm sống “tự mãn” và “tự ti” :
– Tự mãn : có những người nghĩ rằng mình đã “công chính” rồi nên tự mãn không cố gắng sống tốt hơn. Êdêkiên cảnh cáo : “Khi người công chính từ bỏ đường công chính và phạm tội ác, nó sẽ phải chết”.
– Tự ti : có những người khác thấy mình lỡ tội lỗi nên nản lòng ở lì mãi trong tội lỗi. Êdêkiên khuyến khích : “Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác nó đã đi và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống”.
Như vậy, đường lối của Thiên Chúa là một con đường mở rộng cho tương lai, khuyến khích cả người tốt lẫn kẻ xấu ngày càng hướng về điều tốt hơn.
Đây là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi. Người này quyết chí bỏ đường tội lỗi, nài xin Chúa mở lòng thương xót mà tha thứ tội lỗi xưa, và chỉ cho họ con đường mới hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Bài đọc I cho biết một nét của đường lối Chúa là không chấp nhất quá khứ mà khuyến khích người ta hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
Bài Tin Mừng cho biết nét thứ hai của đường lối Chúa : không chú trọng tới lời nói mà chú ý tới việc làm. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người con và đề cao người con thứ nhất :
– Người con thứ nhất (đại biểu cho lương dân) tuy ban đầu nói “không” nhưng sau đó hối hận và đi “làm” theo ý Thiên Chúa.
– Người con thứ hai (đại biểu cho dân do thái) ngoài miệng luôn nói “vâng” nhưng thực tế thì không “làm” theo ý Thiên Chúa.
Thánh Phaolô dạy cho tín hữu Philipphê một phương hướng sống :
– Đừng lấy nghĩ bản thân mình làm chuẩn để mà tự mãn
– Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng so sánh để mà kiêu căng hoặc phân bì.
– Hãy nghĩ đến Đức Giêsu Kitô như một tấm gương để chỉ lo bắt chước Ngài : Đức Giêsu Kitô chỉ biết vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống tới mức tận cùng, nhưng nhờ đó Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.
Những bài đọc hôm nay trình bày đường lối hành xử của Thiên Chúa, rất khác với suy nghĩ của loài người :
– Cảnh cáo phạt người công chính và khuyến khích thưởng người gian ác (bài đọc I)
– Phê phán những người “đạo đức” như biệt phái, luật sĩ, tư tế, và đề cao những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm (bài Tin Mừng).
Không phải vì Thiên Chúa muốn làm ngược với loài người mà vì Ngài quan tâm tới những giá trị thực :
– Giá trị thực của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ tại hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không.
– Giá trị thực của con người không do những lời tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó.
Vì Thiên Chúa theo một đường lối như thế cho nên Ngài đã ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalêna, tên trộm lành…
Phần chúng ta, đã biết đường lối của Chúa là như thế thì chúng ta phải làm sao ?
– Đừng nghĩ rằng mình đang thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
– Cũng đừng cho rằng mình thuộc hạng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa hành xử rất sáng suốt và hợp lý khi Ngài không có thành kiến đối với quá khứ của con người : người có quá khứ tội lỗi nhưng biết sửa đổi thì Ngài khen ngợi, kẻ có quá khứ đạo đức nhưng đang hướng theo con đường tội lỗi thì Ngài vẫn trách mắng.
Thực ra, con người không phải là một món đồ một khi đã được đúc khuôn thế nào thì mãi mãi vẫn là thế ấy. Con người là một tác phẩm đang được thực hiện : hôm qua khác hôm nay, và ngày mai sẽ còn khác nữa.
Thiên Chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi và hoàn chỉnh. Tại sao chúng ta không cho chính mình những cơ hội ấy ? Tại sao chúng ta không cho người khác những cơ hội ấy ?
– Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “Vâng” và “Không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.
– Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người ; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
– Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta : nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng” ; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”.
– Trong lịch sử Giáo Hội, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
a/ Cha sở bảo ông chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ tìm cho đủ 10 người đến cầu nguyện bên giường một người hấp hối.
Khi mọi người đã tụ họp đông đủ bên giường bệnh. Có người rỉ vào tai Cha Sở :
– Thưa Cha, trong đám này có mấy thằng chuyên môn trộm cắp.
– Càng tốt chứ sao, bởi vì trong trường hợp Thánh Phêrô không chịu mở cửa thiên đàng thì mình nhờ họ mở khóa dùm.
b/ Một người suốt đời hết sức tránh tội. Hôm anh chết và lên trình diện với Thánh Phêrô thì trùng hợp cũng có một đám các cô đĩ điếm ở đó.
Thánh Phêrô hỏi các cô một cách ân cần, rồi mời các cô vào thiên đàng. Người nầy khó chịu quá, hỏi tại sao, thì thánh nhân đáp :
– Nếu ngươi không chấp nhận lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi, thì hãy đi đi. Chỗ của ngươi không phải ở đây !
CT : Anh chị em thân mến
Sám hối, canh tân đời sống và đón nhận Tin Mừng là những việc làm thường xuyên trong đời sống đức tin của người kitô hữu. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1- Đức Kitô đã thiết lập Hội Thánh để đam lại ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban nhiều ân sủng / cho Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / để Hội Thánh được mãi mãi là bạn tinh tuyền của Người.
2- Trong cuộc sống thường ngày / tệ nạn xã hội làm điên đầu những kẻ có trách nhiệm / Không ít người đã bán rẻ nhân phẩm / và danh dự của mình / vì nghèo đói cũng có / mà vì đua đòi ăn chơi cũng có / Chúng ta hiệp lời cầu xin cách riêng cho giới trẻ / biết tránh xa những cạm bẫy tinh vi của những kẻ buôn người / để khỏi phải chôn vùi cuộc đời trong hố sâu tội lỗi.
3- Không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa / Vì thế thái độ đúng đắn nhất là ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình / và đừng xét đoán cũng như kết án người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn cố gắng sống những gì Chúa Giêsu đã dạy.
4- Đức Giêsu nói / “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy / Lạy Chúa / lạy Chúa / là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thực hành ý muốn của Cha Thầy Đấng ngự trên trời / mới được vào mà thôi” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết nỗ lực thực thi ý Chúa / tức là làm trọn mọi bổn phận trong giây phút hiện tại.
CT : Lạy Chúa Giêsu, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu không đủ để bảo đảm phần rỗi cho chúng con, mà phải sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng và thi hành ý Chúa mới giúp chúng con được sống muôn đời. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị…
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-A
DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON- Chú giải Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Các ông nghĩ sao? Một người có: hai con… “. Như ở 18, 12 và 22,42, Chúa Giêsu xin ý kiến không phải của môn đồ Người, mà là của các đối thoại viên hay địch thủ. Người này tượng trưng cho Thiên Chúa, như ta có thể diễn dịch dựa trên lời áp dụng Chúa Giêsu sẽ nói sau; hai đứa con của ông tượng trưng hai hạng làm nên dân Do thái thời đó: những “người tội lỗi” hay dửng dưng, không mấy giữ Lề luật và các qui định của giáo sĩ, và những “người công chính” hằng trung thành với tôn giáo chính thức, tức ở đây là các thủ lãnh của Israel. Hãy lưu ý là: hai hạng đều là con Thiên Chúa. Đối với cả hai, bản văn hẳn nhấn mạnh về tính chất (đạo đức, có chân lý tốt hay không), cũng như lời ăn tiếng nói của họ, mà về điều họ sắp làm hay không làm. Trên điểm này, Chúa Giêsu và đối phương người đều nhất trí với nhau (c.31b; xem thêm 23,3: các Biệt phái ngự tòa Môisen và dạy người ta làm, y như Chúa Giêsu). Ở đây cũng như mọi chỗ khác trong một, động từ làm (poiein) là căn bản.
“Hôm nay”: Chữ này quan trọng chứ chẳng phải chơi; ông cha trong dụ ngôn không muốn mất giờ giả định về tâm tính, dữ kiện khác biệt của hai con mình; ông đặt cả hai đứa trước cùng các lệnh sẽ quyết định vận mệnh của chúng.
“Về sau”: Không nên xem thành ngữ này là một ám chỉ đến lương dân, những kẻ vào Nước Trời sau người Do thái như một số nhà chú giải đã nghĩ. Lối giải thích gượng ép đó không ăn khớp với các hoàn cảnh mô tả trong dụ ngôn. Quả thế, người con thứ nhất trước tiên đã từ chối vâng lời, đó không phải là trường hợp của lương dân: sở dĩ họ vào muộn hơn trong Nước Trời, chỉ vì Nước Trời đã chưa được trình bày cho họ. Đàng khác, câu giải thích rõ ràng Chúa Giêsu thêm vào đã loại bỏ lối chú giải trên.
“Nó hối hận”: Nơi đây Matthêu không dùng động từ “thống hối” (melanoiein) nhưng dùng một động từ khác (metamelesthai); động từ này chỉ xuất hiện thêm trong Mt 27, 3, nhưng lại được dùng nhiều trong bản ‘Bảy Mươi’ theo nghĩa hoán cải, trở về với Thiên Chúa (Ed 14, 22; Tv 105, 45; Xh 13,17…). Người ta không giải thích tại sao người con ấy lúc đầu bướng bỉnh, sau cùng lại hối hận, mà chỉ khẳng định sự kiện thôi. Nhưng gương của nó đáng ra phải làm đứa thứ hai suy nghĩ: chắc hẳn đấy là lý do tại sao nó được đưa vào sân khấu đầu tiên (dù có một số thủ sao đã đảo ngược vai trò, có lẽ để gợi lên sự đối chiếu Israel dân ngoại).
“Vâng, thưa Ngài”: Tiếng “Ngài” đây, lạ lùng trên môi đứa con, có thể giải thích được dễ dàng nếu cho người cha là Thiên Chúa. Đây là một tiếng vụt qua bóng bẩy nhằm chuẩn bị cho lời áp dụng sắp tới.
“Qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa”: Động từ được dùng chỗ này là proagein; ở đây, chữ pro (trước) không có một nghĩa thời gian nhưng có một nghĩa khai trừ. Các người tội lỗi chẳng đi trước Biệt phái song sẽ chiếm chính chỗ của họ trong Nước Trời. Đây là một ngữ điệu Aram, như có một bản văn giáo sĩ đặt vào miệng Thiên Chúa những lời này: “Ai đã đi trước Ta trong việc sáng tạo?”, nghĩa là: “Ta đã sáng tạo thế gian, chứ chẳng phải một ai nào khác” (Targ. Hi 41, 3).
“Theo đàng công chính”: Thành ngữ (Cn 8, 20; 12, 28, Pr 2, 21) diễn tả việc chấp nhận không những hạnh kiểm luân lý của Gioan Tẩy giả, mà còn toàn thể sứ vụ của vị Tiền hô. Thực vậy khi công bố nước Thiên Chúa đang tới gần, Gioan Tẩy giả đã cho thấy dấu hiệu về sự công chính đích thực sắp đến, sự công chính mà Chúa Giêsu mang lại một cách sung mãn tràn đầy. Gioan và Chúa Giêsu đã không giảng dạy hai đường khác nhau, nhưng đã chỉ cùng một con đường duy nhất, con đường thống hối và quay về với Thiên Chúa: trong 3,2 và 4, 17, Matthêu đã cố công làm nổi bật sự tương đồng sứ điệp này khi đặt vào miệng hai Đấng những lời nói như nhau. Thành thử kẻ không tin Gioan (nghĩa là chẳng xem ông như người đại diện hữu quyền của Thiên Chúa) cũng sẽ không tin Chúa Giêsu, Đấng mà Gioan loan báo vậy.
KẾT LUẬN
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn đứa con phung phá, ta thấy được mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với hàng thủ lãnh Israel đã đổi thay sắc thái đến độ nào. Đứa con nói không và về sau hối hận chắc hắn ít bị khiển trách hơn anh chàng phung phá, song đứa nói vâng rồi chẳng làm một tí mảy may thì bị lên án nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tương. Trong trường hợp sau này, thính giả dụ ngôn có cảm tưởng người cha vẫn còn trông mong lấy tình yêu bao phủ lòng ghen tương đê tiện của đứa con cả. Nhưng khi nghe dụ ngôn hai người con, người ta đoán chắc Chúa Giêsu chẳng còn hy vọng hoán cải các người Biệt phái. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy giả, lòng thống hối của những người thu thuế và tội lỗi mà rồi chẳng chút động tâm. Xem ra lòng chai đá của họ không thể biến cải được nữa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*1. Chúa Kitô dạy ta đừng dự đoán giá trị đạo đức của người ta theo các phạm trù chính thức cũng như theo các cam kết lý thuyết hay trên nguyên tắc. Vì cuối cùng, chính cách sống sẽ biểu lộ nhân tâm con người.
*2. Tiếng Chúa Cha mời gọi ta đi làm vườn nho hãy còn được tiếp tục gởi đến cho ta. Nó sẽ gợi lên tiếng ta câu trả lời nào? Phải chăng ta sẽ là những kẻ khéo nói cố tránh đưa vào hành động những câu trả lời đẹp đẽ dựng lên? phải chăng ta sẽ coi những ước vọng cao quí, những quyết định hay ho là những hành vi đã thực hiện.
*3. Sự thống hối cần có để vào Nước Trời chẳng bao giờ chỉ làm một lần là đủ. Phải luôn luôn làm lại, hôm nay cũng như ngày mai. Nếu không, những người thu thuế và đàng điếm (mà ngày nay vẫn còn) sẽ chiếm mất chỗ của ta trong Nước Trời, vì đức tin của họ chân thật hơn đức tin của ta, và cuối cùng sẽ mang nhiều hoa trái.
*4. Nơi người con thứ nhất, rõ ràng là cái ý thức về việc nó từ chối đã gây nên lòng hối hận và thúc đẩy nó vâng lời. Thành thử thật là lạ lùng, chính một lời từ chối thẳng thừng với Thiên Chúa, một tội lỗi quá hiển nhiên đã giúp người con kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Ngài và đã sửa đổi. Cũng vậy những người thu thuế, đàng điếm, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, đã không thể bị ảo tưởng về tình trạng của họ trước mặt Chúa, nên vì thế dễ thấy, dễ ao ước và dễ thực hiện sự công chính mà Chúa đề nghị với họ hơn. Ở đây họ trở nên chân dung của tất cả chúng ta, theo một cấp độ rõ ràng nhiều hay ít. Được Chúa yêu cầu mãi, ta khám phá ra mình đã nhiều lần thản nhiên từ chối thánh ý Ngài, ta đo lường được khoảng cách giữa cái ta đang là với cái đúng ra ta phải trở nên, và đó là một điều kiện đầu tiên để vào Nước Chúa. Không phải là cần phạm tội thêm để làm như một con đường đến cùng Chúa: từ bản chất; tội chỉ làm ta xa Ngài. Nhưng một khi đã phạm, chính tội cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. So sánh với một nhân đức giả hình, tội ít ra vẫn có cái “lợi” (nếu có thể nói được như thế) là tạo nên một ảnh trạng rõ rệt: người ta bị dồn vào chỗ phải thống hối hay tiếp tục ngoan cố trong điều dữ, trong lúc nhân đức giả tạo bên ngoài của người Biệt phái, vì bịt mắt không cho ông thấy mình xa Thiên Chúa, đã ngăn chận ông thực lòng hoán cải ăn năn.
*5. Thành thử cái quan trọng chẳng phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng dâng. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- A
SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.
Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.
Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.
Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.
Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?
2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?
3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- A
CÔNG CHÍNH HÓA- Lm. Vũ Đình Tường
Bản tính con người thích chọn con đường bất chính, gian tà bởi con đường bất chính là con đường dễ bước vào. Con đường bất chính dễ bước vào khó ra. Nó là con đường khó khăn, gian khổ, khó nhai, khó nuốt nhưng nhiều người ham muốn, tự nguyện bước vào. Vì sao? Vì con đường đó thuộc về trần gian, phần thưởng của nó là vật chất, thấy được, sờ được, thưởng thức được ngay tại thế. Chính vì những cảm xúc mãnh liệt đó mà nó có nhiều đệ tử ngày đêm mong tìm cảm giác lung linh. Hút thuốc vào cảm thấy tê tái tức thì. Uống rượu vào tức khắc nhận ra chất say tê tê mạch máu, kích thích làn da, thớ thịt. Thắng bài bạc thấy tiền ngay, mắt sáng rỡ trông thấy. Rình rập biết rõ đường đi nước bước nhà người tạo cảm xúc lo sợ, hy vọng lẫn lộn, lòng tự nhủ, của ngươi trong tủ sắp là của ta trong túi. Cảm xúc mãnh liệt đó làm xáo trộn luân lí, làm lú lẫn tâm hồn, làm lờ mờ lí trí nên dễ buông thả cuộc đời, lăn xả vào cuộc chơi. Chính vì lăn xả vào nên không gì kiềm chế, ngăn cản, thắng cho chậm lại. Bất kể lời ca thán, khuyên bảo, van lơn của thân nhân và coi thường an toàn cho bản thân cũng vì lí đo đang lăn xả vào.
Đường ăn chơi dễ vào khó ra bởi bước chân vào cuộc là đánh ván bài xả láng. Ván bài xả láng cướp mất cuộc đời, làm nhụt ý chí tiến thân, phá tan quyết tâm và lấp lối tương lai. Thứ đến xã hội loài người rất khắt khe với người đánh ván bài xả láng. Họ không chấp nhận và thiếu thứ tha nên người muốn bước chân ra khỏi dòng thác lôi cuốn luôn có những mắt xích trói chặt đời họ, ngăn cản đường tiến trong tương lai. Hơn nữa người lăn xả vào cuộc chơi thí mạng, bán sức khoẻ và tuổi xuân cho cuộc chơi nên tinh thần mất minh mẫn, nhụt chí, cơ hội trẻ trung không còn để tiến thân. Vì những lí do đó mà một khi đã bước vào, khó giật lùi, khó bước ngược lại. Muốn thoát ra đời kéo lùi, giật ngược lại vì nó đâu muốn mất thành viên trung thành của chúng. Nó chỉ sa thải khi thành phế thải, khi không còn gì cống hiến cho cuộc chơi. Thành phần phế thải, chỗ chứa sẽ là đầu đường xó chợ, nơi ẩn thân, sống dật dờ, lây lất, chờ ngày về lòng đất mẹ.
Nói đến công chính hoá là nói đến điều gì đó chưa công chính nhưng đang trên đường tiến đến công chính. Như vậy công chính là bước cuối cùng của con đường giúp ta nên thánh. Ngoài Chúa ra không còn con đường công chính nào bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Vì Chúa là Đấng công chính nên phải bước đi trên con đường công chính để đến với Chúa. Ngoài con đường đó ra không còn lối tắt, ngã rẽ nào khác. Chỉ có một lối đi duy nhất mà Đức Kitô vạch ra cho những ai ước ao bước đi trên con đường đó. Vì thông cảm yếu đuối của thân phận làm người. Vì tình yêu Chúa cao vời. Vì Ngài là Đấng giầu từ bi nhân hậu, Ngài không loại bỏ, không kết án ai nhưng tạo cho con người cơ hội trở về.
Tiên tri Êdêkiel nói rõ con đường đó là từ bỏ đường gian tà, lối xảo trá,
Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết Ed18,28
Giáo huấn của tiên tri Êdêkiel được thánh Mathêu 21,28-32 nhắc lại trong dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất từ chối lời cha kêu gọi sau đó hối hận đi làm. Người thứ hai vâng dạ nhưng không làm. Dụ ngôn kết luận người con thứ nhất đã làm theo ý cha mình. Anh hối hận vì đã cãi lại lời cha, hối hận vì đặt ý riêng mình trên ý cha.
Con đường giúp trở nên công chính hoá là con đường thống hối, ăn năn. Thống hối, ăn năn trên lí thuyết chỉ là thống hối bằng môi mép. Thống hối thực sự phải đến từ tấm lòng, chính tấm lòng giúp con người thành tâm trở về với Chúa.
Để từ bỏ con đường bá đạo, lối sống bất chính. Người ta cần phải có gì để lấp vào khoảng trống vừa từ bỏ trong đời. Nếu không có gì lấp vào sẽ không thể từ bỏ được vì con đường cũ sẽ tìm cách trở lại. Chỉ có cách duy nhất tránh ngựa tìm đường cũ là tìm cho nó một con đường mới. Con đường mới phải khác con đường cũ, ngược với lối sống, cách sinh hoạt cũ. Con đường khác, trái nghịch với bá đạo là chính đạo. Nghịch với con đường bất chính là công chính. Đường chính đạo, lối công chính ngoài Chúa ra còn ai có. Cách duy nhất trở về đường lành là sống thực thi đường lối Chúa. Con đường công chính giúp con người sống thánh thiện, trở nên tốt lành hơn, trọn hảo hơn.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- A
HOÀN THIỆN BẢN THÂN– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng hôm nay thuật lại rằng: Khi người cha kêu mời đứa con thứ nhất đi làm vườn nho, ban đầu nó ương ngạnh từ chối, nhưng rồi nhìn lại thái độ và cách cư xử lầm lạc của mình, nó đâm ra hối hận và quyết định đi làm.
Trong khi đó, đứa con thứ hai thì mau mắn trả lời với cha là nó sẽ đi làm, nhưng mà chẳng đi. Thật đáng trách.
Như thế, những ai biết nhìn lại mình, thấy được những lầm lỗi của mình để hoán cải như người con thứ nhất trong dụ ngôn Tin mừng hôm nay là người đáng được tuyên dương.
Khi phạm phải sai lầm, bạn cũng như tôi, chúng ta xử sự thế nào?
– Một là không chấp nhận mình sai.
Có người làm nhiều điều sai trái, nhưng không thấy mình sai mà cứ khăng khăng cho rằng mình đúng. Những người như thế không thể sửa lỗi và phục thiện được.
– Hai là dù biết mình sai nhưng không muốn sửa.
Chẳng hạn nhiều người thừa biết rượu chè be bét là thói xấu tai hại nhưng không muốn bỏ, chẳng muốn chừa. Họ chủ trương rằng:
“Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say” (Tản Đà).
Thế là hạng người này không thể nào sửa lỗi, phục thiện được.
– Ba là muốn sửa chữa những sai phạm của mình nhưng không đủ nghị lực nên không sửa được.
– Bốn là quyết tâm sửa mình và có đủ nghị lực để hoàn thiện bản thân. Đây là lối xử sự tốt lành, đáng khâm phục.
Vào ngày Mồng Một tết, khi đến thăm một giáo dân trong xứ đạo đã ghiền thuốc lá lâu năm, anh ta khoe với tôi “chiến công” oanh liệt của mình. Anh cầm bao thuốc lá trên tay và nói:
“Con ghiền thuốc lá đã lâu. Con muốn bỏ nhưng không bỏ được. Con hút nó nhưng nó cũng “hút” con. Sức hút của nó mạnh đến nỗi con tưởng mình không thể nào thoát khỏi nó được. Thế rồi, cách đây một năm, con mua gói thuốc lá này và “thách thức” nó rằng: “Để xem mầy thắng tao hay tao thắng mầy? Không lẽ tao lại thua mầy ư?”
Và như cha thấy đây, bao thuốc đó vẫn còn nguyên vẹn không hao một điếu cho đến hôm nay. Con đã thắng!”
Có quyết tâm và nghị lực phi thường để chiến thắng như người đàn ông này không phải là chuyện dễ.
Về phần mình, chúng ta cần xét lại xem mình thuộc hạng nào trong bốn hạng người trên đây?
Cải thiện nội tâm là điều rất cần thiết
Khi biết mặt mày lem luốc, dơ bẩn, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa sạch sẽ ngay.
Khi thấy áo quần bẩn thỉu hôi hám, chúng ta thay đổi y phục liền.
Khi biết thân thể mình dơ bẩn, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa tức khắc.
Khi diện mạo hay vóc dáng của mình không được hài hoà xinh đẹp, nhiều người sẵn sàng bỏ ra tiền tỷ, đến các thẩm mỹ viện, để cải thiện vóc dáng, để làm tăng vẻ đẹp của bản thân.
Vậy mà khi tâm hồn trở nên xấu xa vì tội lỗi, thói hư và tật xấu, nhiều người vẫn cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác cho đến lúc xuống mồ!
Tại sao người ta hành xử như thế?
Vì nhiều người nghĩ rằng những dơ bẩn, những xấu xa trong tâm hồn không quan trọng, chỉ cần chăm sóc cái vỏ bên ngoài cho dễ coi là được.
Thực ra, những vết dơ trên thân thể không làm giảm sút giá trị con người bao nhiêu, chỉ có những xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế và có sức tàn phá phẩm giá của của ta, làm mất danh thơm tiếng tốt của ta… Đó là những thứ đáng sợ, đáng ghét và đáng diệt trừ.
Chính vì thế, ăn năn, phục thiện để xoá sạch những xấu xa đê tiện trong tâm hồn, để làm cho tâm hồn nên đạo đức, thanh khiết, cao cả… là việc làm hết sức quan trọng.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con hiểu rằng nét đẹp của tâm hồn quan trọng hơn vẻ đẹp thể xác và chỉ có những điều xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế. Nhờ đó, chúng con sẽ quyết tâm rửa sạch tâm hồn, cải thiện nếp sống, để ngày càng trở nên người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-A
VÂNG LỜI- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho!”
Nghe câu chuyện dụ ngôn này, tôi vẫn hay thắc mắc về ý nghĩa của việc ‘đi làm vườn nho’ vì đôi khi nó không rõ ràng lắm. Từ lâu tôi đã nghĩ thật đơn giản: sống lành thánh, làm các việc lành phước đức, thi hành các việc tồng đồ, truyền giáo… tức là ‘làm trong vườn nho’ của Chúa rồi còn gì! Sau này tôi mới phát hiện ra khái niệm này xem ra không ổn khi áp dụng vào trường hợp cụ thể của hai người con trong dụ ngôn: đứa vâng ngoan trước lời kêu mời của người cha nhưng đã không đi, còn đứa ngang bướng rốt cuộc rồi lại ‘đi làm vườn nho’. Qua câu chuyện này tôi thấy hình như Đức Giê-su đã suy nghĩ rất khác: Người không phân thính giả thành hai loại ‘người vâng’ hay ‘người không vâng’, nhưng ngay trong mỗi thính giả vốn đã sẵn biện chứng ‘vâng và không vâng’, rốt cuộc họ vẫn được đánh giá qua việc ‘đi làm vườn nho’ mà thôi. Nhưng làm vườn nho hệ tại ở điều gì, theo tâm tưởng của Đức Giê-su?
Thói thường thì ai cũng hiểu là lời nói không trọng hơn việc làm. Khi sử dụng cùng một khái niệm này Đức Giê-su đã cho thấy: đối với Nước Thiên Chúa, sống tội lỗi như ‘những người thu thuế và những cô gái điếm…’, hoặc sống lương thiện công chính như các thượng tế và kỳ mục trong dân (đối tượng chính của dụ ngôn) vẫn chỉ là những lời nói ngang bướng hay vâng ngoan. Người còn cho thấy rõ, điều quan trọng hơn chính là ‘thi hành ý muốn của người cha‘, đó là ‘đi làm vườn nho’, tức là tin và tiếp nhận sứ điệp kêu gọi sám hối mà Gio-an Tiền Hô đã khởi sự và Đức Giê-su tiếp tục kêu mời. Như thế Người chỉ cho thấy một điều làm đảo lộn tất cả: ‘đường công chính’ hệ tại ở việc thi hành sám hối hơn là ở việc có sống ngay lành hay không; “Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy”. Sám hối đây chưa hẳn là đã sửa đổi được mình, cho dầu nỗ lực vươn tới là dấu chỉ cần thiết của chân thành sám hối, nhưng chính yếu hệ tại ở việc đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho. Sứ điệp của Gio-an “Hãy sám hối!”, tức là hãy cải tà qui chính trong nội dung luân lý, đã được chính Đức Giê-su cập nhật: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ!” tức là tin vào Đức Ki-tô Giê-su mạc khải tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp này quả chất chứa một nội dung rất Tin Mừng! Trong số những người thu thuế và gái điếm tin vào Gio-an không phải tất cả đều đã đổi đời hoàn lương, nhưng tất cả họ đều đã khám phá ra và đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Tin Mừng. Chính ở điểm này mà họ trở nên hơn hẳn các thượng tế và kỳ mục, tức các đấng bậc được coi là vị vọng trong dân, vì họ đã trở nên ‘công chính’ theo Tin Mừng; “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Như thế rõ ràng là để vào được Nước Trời, điều kiện quan trọng hơn cả là, thông qua sám hối những lỗi lầm đã phạm, mỗi người nhận ra tình yêu cứu độ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên mình, và khiêm tốn mở lòng đón nhận. Các Pha-ri-sêu đã không thể đạt tới được sự công chính ấy; “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”
Nếu quả là như thế thì cuộc sống mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều chất chứa cả hai phần: nói và làm. Riêng phần ‘nói’ nhiều lúc có thể là vâng ngoan, vì đã giữ đạo tử tế, đã làm các việc lành phước đức, đã có không ít các nỗ lực tu thân tích đức, sống bác ái, tông đồ phục vụ v.v…, nhưng đồng thời cũng có những hồi ngang ngược vì các yếu đuối lỗi lầm đã phạm. Nhưng cho dầu đã ‘nói’ thế nào đi nữa, thì lúc này đây, điều quan trọng hơn hết đối với mọi người vẫn phải là ‘đi làm vườn nho’, tức là khiêm tốn nghe lời kêu gọi sám hối của Gio-an để thật lòng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô Giê-su đã mang lại. Có thể tôi ‘đi làm vườn nho’ vì tôi vốn ngoan hiền, và như thế là tuyệt vời vì tôi nói và tôi đi làm, nhưng cũng có lúc (và có lẽ trường hợp này còn nhiều hơn!) tôi đã từng nói ‘không đi’ nhưng rồi trong tác động của ân sủng tôi đã ‘… hối hận, nên lại đi’.
Đối với Tin Mừng trường hợp sau này có vẻ lại càng ý nghĩa hơn, vì sự ngang bướng rõ ràng dẫn tới hối hận, và trở thành động lực thúc đẩy ‘đi làm vườn nho’. Chính các yếu đuối lầm lỡ đã phạm có thể giúp ta dễ dàng hơn khám phá ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, để rồi… ‘sám hối và tin vào Tin Mừng’. Và như thế vô hình chung đã biến ‘Con không đi!’ ngang bướng trở thành cho ta ‘tội hồng phúc’, như thánh Âu-tinh đã từng diễn đạt cảm nghiệm của riêng ngài. Đáng lý ra toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải trọn vẹn là ‘vâng con đi’ và ‘đi làm vườn nho’, bởi vì qua Bí Tích Thánh Tẩy lãnh nhận họ đã công khai nói lên điều đó. Tuy nhiên thực tế cuộc sống cho thấy ngay cả nơi các Ki-tô hữu vẫn luôn tồn tại một ‘biện chứng’ giữa ‘vâng và không’, đúng như nội dung của dụ ngôn ‘hai người con’. Và vì không một ai nằm ngoài qui luật biện chứng này nên sám hối và lãnh nhận Bí Tích Cáo Giải vẫn luôn phải chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của tất cả mọi Ki-tô hữu trải qua các thời đại. Phải chăng thái độ ‘sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ’ mà cao điểm được diễn đạt nơi tòa giải tội, mới chính là việc ‘đi làm vườn nho’ của mỗi người chúng ta, và qua đó chúng ta được trở nên công chính?
Hơn ai hết, vì là Linh Mục nên tôi đã phải luôn nói ‘vâng’ với lời kêu mời sám hối và đón nhận lòng Chúa xót thương, thế nhưng hơn bất cứ ai khác, tôi phải biến lời ‘vâng’ này thành hành động: mau mắn lên đường ‘đi làm vườn nho’ Tin Mừng của Chúa. Chính tôi cũng cần sám hối không ngừng!
Lạy Cha từ nhân, cha không ngừng mời gọi con, cũng như mời gọi hết thảy mọi người, ‘đi làm vườn nho’ của Cha, vườn nho của đón nhận lòng từ ái và xót thương bao la. Rất có thể con đã tự cho mình là đứa con vâng ngoan vì ơn gọi tu sĩ và linh mục mà Cha đã ban cho con suốt trong những năm tháng dài đời con, nên đôi lúc con thấy không cần phải đi thêm nữa. Con đã từng đáp lại tiếng Cha mời gọi bằng câu thưa: “lạy Chúa, con đây”, thế nhưng vẫn luôn có nguy cơ ‘nhưng rồi lại không đi’. Xin cho con ít quan tâm hơn tới ‘nói’ và tập trung hơn vào ‘đi làm’ trong vườn nho của sám hối và đón nhận trọn vẹn lòng thương xót cứu độ của Cha. Amen.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- A
NÓI VÀ LÀM- Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm”.
Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo”.
“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
Vậy mà cho đến nay, căn bệnh khoa trương thích Nói nhiều Làm ít vẫn còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Có lẽ căn bệnh này cũng là anh em chí cốt của căn bệnh thành tích và háo danh ở không ít các cấp, các ngành trong xã hội chúng ta. Điều này làm hạn chế tầm nhìn, không dám nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật. Chỉ muốn đề cao thành tích mà không dám nhìn tới cội nguồn của khuyết điểm, càng không dám nhận trách nhiệm đúng mức về khuyết điểm, nhất là trách nhiệm cá nhân. Chính điều đó làm cho xã hội trì trệ, không bứt phá lên được trước những cơ hội mới cũng như thách thức mới. (Dân Trí).
Đối với xã hội trần gian còn như thế, huống cho là đối với Tôn Giáo. Không ai có thể là bậc chân tu tháng ngày miệt mài kinh kệ nhưng lại lạnh lùng trước những nỗi thống khổ của bá tánh.
Để “nói đúng” và ‘làm đúng”.
Để “Nói và làm” cho đúng, điều trước tiên, là cần phải nhận biết đâu là “đường công chính”. Không nhận biết đâu là “đường công chính”, thì không thể suy nghĩ và hành động đúng được.
Trong Tin Mừng hôm nay, những thượng tế và kỳ mục Do Thái chính là những người “sai lầm” từ cơ bản, họ không nhận ra đâu là “đường công chính”. Không có nền tảng sự thật thì dựa vào đâu để nói và làm hợp với lẽ phải được?
“Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt.21,32).
Những thượng tế và kỳ mục không tin vào Gio-an, và từ đó, cũng không tin vào Chúa Giêsu, vì Gio-an làm chứng về Chúa Giêsu.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. (Ga.1,29).
Và như vậy, tiếng kêu gọi sám hối của Gio-an không được những thượng tế và kỳ mục đón nhận, đơn giãn, vì họ không thấy họ sai lầm. Họ đang lầm đường lạc lối mà họ vẫn nhất quyết mình đang đi trên đường công chính.
“Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”(Ga.21,32).
Họ là những người mù mà vẫn tự cho mình là sáng mắt.
“Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tôi các ông vẫn còn!”. (Ga.9,41).
“Sáng mắt”, đối với Tin Mừng, là “nhận biết” Chúa Giêsu, nhận ra “đường công chính”, và nhận ra Thiên Chúa đích thật.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Chính nhờ Chúa Giêsu, con người mới nhận ra trọn vẹn Tình Yêu Thiên Chúa. Nhận ra ý muốn Thiên Chúa.
Nhưng các thượng tế và kỳ mục đã “mù” đến mức loại trừ Chúa Giêsu. Họ giảng dạy cho dân về Giới Luật Thiên Chúa, nhưng lại loại trừ Thiên Chúa, vì đường lối Thiên Chúa không như lòng họ mong muốn!
Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng:
Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật của phàm nhân. (Mt.15,7-9).
Đúng theo “Thánh ý Chúa”.
Người Ki-tô chân chính luôn luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. – “Ý muốn Thiên Chúa” chính là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các nghe hãy vâng nghe lời Người!” (Mt.17,5).
Vâng nghe Lời Chúa, là thực hành theo thánh ý Chúa, làm theo Lời Chúa dạy. Là thực thi Giới Luật Yêu Thương của Chúa Giêsu – Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: “Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”.
Người trả lời rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. (Mc.3,31-35).
“Bản án” dành cho những người chỉ biết “nói mà không làm”.
Đại diện điển hình cho những người “nói mà không làm” trong Tin Mừng, đó là những người Pha-ri-sêu và cả những nhà thông luật. Điệp ngữ “khốn cho các ngươi… Khốn cho các ngươi…” được lập đi lập lại nhiều lần cho thấy mức độ quan trọng của lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với những hạng người này.
Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà…
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa…
Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào…
Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản… (Lc.11,37-52).
Đừng noi theo những hành vi của họ!
Trong cuộc sống, Xưa và Nay, Đạo và Đời, ta luôn gặp những người “Nói mà không làm”, nổi bật nhứt, là những người có chức việc cao, có quyền lực lớn!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. (Mt.23,1-12).
Năm 2000, có mùa lũ lớn, một thầy tu cấp cao đã lớn tiếng hô hào tín đồ của mình hãy chia sẻ cơm áo cho những người đang gặp bất hạnh. Khi mùa lũ qua đi, trong một bữa tiệc, có người hỏi: – “Thưa ngài, ngài có đi đến nơi nào trong vùng lũ lụt vừa qua không?”. Vị thầy tu khả kính cười đáp: – “Tôi không biết lội!”. Có thể đây chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng… rất có ý nghĩa!
Thật ra, trong cuộc đời có biết bao người “thành đạt” mà không cần làm những gì mình nói, nhờ biết ứng xử “khôn ngoan”, thí dụ mấy quan nịnh thần, khéo uốn ba tấc lưỡi thôi, thì được thăng quan tiến chức, ngồi không hưởng bát vàng, xoa tay nhìn đời lòng ung dung tự tại: – “Âu cũng là số phận!”.
Thế nên, núp ẩn đằng sau những ngôn ngữ từ thiện, bác ái, yêu thương, rất nhiều khi có những việc làm hoàn toàn có mục đích ngược lại!
Trong Cổ Học Tinh Hoa, có câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được “. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.
Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.
Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ.”
“Nói và làm” vì Đạo Hiếu.
Đạo hiếu dạy ta phải biết vâng lời cha mẹ. Một đứa con hiếu thảo luôn là đứa con biết vâng lời cha mẹ, luôn muốn làm cha mẹ vui lòng.
Thiên Chúa là Cha, và mọi người là con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Đức Tin của chúng ta gói trọn trong Giới Luật Yêu Thương “Kính Chúa yêu người”. Tất cả những gì chúng ta nói và tất cả những gì chúng ta làm đều nhắm đến mục đích làm “sáng danh Chúa và phục vụ anh em”.
Đạt được điều đó, chúng ta sẽ là những đứa con ngoan trong Gia Đình Thiên Chúa.
Một đứa con ngoan luôn tuân theo “Giới Luật Thiên Chúa”, “Nói và Làm” những gì Thiên Chúa đã dạy.
“Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).
Lạy Chúa,
Lời Chúa dạy quá cao siêu,
Con nói thì nhiều, làm được bao nhiêu!
Xin tha thứ những điều con thiếu,
Đỡ nâng con, lạy Chúa Tình Yêu. Amen.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-A
NÓ HỐI HẬN VÀ ĐI LÀM- Lm. Nguyễn Tiến Huân
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lấy ví dụ người cha có hai con. Ông đến nhờ đứa thứ nhất đi làm vườn cho ông. Nó trả lời rằng nó không đi, nhưng rồi sau đó nghĩ lại hối hận, nó lại đi. Ông nhờ đứa thứ hai, nó trả lời nó sẽ đi làm nhưng rồi lại không đi. Sau đó, Chúa Giêsu hỏi các Thượng tế và Kỳ lão Do thái: “Ai trong hai người con đó đã làm theo ý cha mình” và họ đáp “người con thứ nhất” (Mt 21,31).
Chúa Giêsu dùng chính câu trả lời của họ mà kết luận về chính họ: “Tôi bảo thật các ông, người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Tại sao vậy? Tại vì họ cũng giống như người thứ hai, biết ý cha mình muốn và ngoài miệng thì trả lời là làm theo, nhưng thực sự thì không. Họ là “những kẻ chỉ mến Chúa bằng môi, bằng miệng, còn lòng thì ở xa Người” (Mt 15,8). Mà những kẻ chỉ mến Người bằng môi bằng miệng mà không thực hiện ý Người thì không thể vào Nước Trời: “Không phải chỉ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Cha” (Mt 7,21)
Họ như cây vả xum xuê cành lá bên ngoài, nhưng không có trái là việc làm tốt, nên bị nguyền rủa (Mt 21, 18-19). Họ là những kẻ mà Chúa Giêsu đã ca thán: “Tại sao các ngươi kêu với Ta “Lạy Chúa, Lạy Chúa” mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?” (Lc 6,46).
Gioan đến với họ trong đường công chính và bề ngoài thì họ kính nể Gioan bởi nếu không, thì sẽ bị dân chúng ném đá (Lc 20,5-6), nhưng trong lòng thì không tin ngài (Mt 21,32). Trái lại những người thu thuế và gái điếm vẫn bị coi là kẻ tội lỗi, thì như người con thứ nhất, biêt “hối hận và đi làm” (Mt 21,29)
Thực vậy, khi Gioan rao giảng thì những người thu thuế đã thống hối xin chịu thanh tẩy và còn hỏi cho biết việc phải làm: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,12) “Họ đã chấp nhận Thiên Chúa công minh, còn Biệt phái và Luật sĩ đã khinh màng ý Chúa” (Lc 7,29). Khi cầu nguyện với Chúa, thì ngược hẳn với thái độ kiêu ngạo khoe khoang của Biệt phái, họ “Đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ đấm ngực mà rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là kẻ có tội”. (Lc 18,9-14). Họ biết thực hiện lời Chúa phán mà “bố thí nửa phần gia tài cho kẻ khó và nếu có gian lận ai thì đền gấp bốn”.
Còn những nguời gái điếm như người phụ nữ trong Luca 7,37-49 hay Maria Madalena trong Luca 8,2, và bọn Biệt phái khinh khi kẻ tội lỗi (Lc7,39), đã biết thống hối cải thiện đời sống theo ý Chúa muốn: “Họ đã tin Người. Còn các ông (Biệt phái), sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin Người”. (Mt 21,32).
“Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác thì nó phải chết: chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi và thực thi công chính thì nó sẽ được sống” (Ezekiel 18,26-27- Bài đọc I) Đó là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và đem ra thực hành trong đời sống Công Giáo của chúng ta.
Lạy Chúa, tuần này con quyết vừa vâng nghe vừa làm theo thánh ý Chúa để đáng là đức con hiếu thảo tận tình của Chúa.
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- A
NGUY CƠ TỰ MÃN- Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
“Các ông nghĩ sao?”. Ngay từ đầu câu chuyện, Chúa Giêsu đã đưa ra lời hỏi đột ngột như một lời thẩm vấn buộc người nghe phải động não, phải tự đặt vấn đề cho mình. Có thể nói lời hỏi đột ngột của Chúa Giêsu như muốn gây giật mình, cùng lúc lôi cuốn sự chú ý của người nghe vào trong câu chuyện mà Người sắp nói nhằm giúp họ tra xét chính bản thân họ.
“Các ông nghĩ sao? Người kia có hai con trai”. Cả hai con trai đều được ông sai đi làm vườn nho. Nhưng các con của ông sao mà tính khí bất định, để rồi tiếng vâng mà thực là không, tiếng không lại là vâng. Đứa thứ nhất trả lời không, cuối cùng đi làm. Đứa thứ hai trả lời có, cuối cùng bất tuân. Dù tính cách và những câu trả lời của những người con bất định đến thế, nhưng theo mạch văn của Tin Mừng, đối với Chúa Giêsu, hình như cái làm cho chúng trở nên đúng hay sai, tốt hay xấu, không thuộc về tính cách và càng không phải là lời những người con ấy nói, nhưng là rốt cuộc chúng làm hay không làm theo ý của cha mình.
“Các ông nghĩ sao?”. Nếu ngày xưa Chúa hỏi những người đương thời như thế, thì hôm nay lời ấy cũng sẽ là lời tra vấn chúng ta. Hay nói cách khác, Chúa cũng sẽ hỏi bạn và tôi: “Các con là loại người nào trong hai người con trai kia?”. Dù trong ta, có thể có cả hai thái độ của hai người con, nhưng hôm nay, chúng ta nói đến người con thứ hai, qua đó xét lại thái độ sống đức tin của mình.
Chắc chắn không ai là không ủng hộ, đồng tình với việc giữ đạo từ nhỏ đến lớn, ủng hộ việc thường xuyên lãnh bí tích, thường xuyên dự lễ, đọc kinh… Nếu ai sống đạo được như thế, thực sự họ đã là những người ngoan đạo. Nhưng cái được coi là ngoan đạo của những người ngoan đạo ấy, nếu không để ý, có khi đẩy ta rơi vào một thái cực khác khá nguy hiểm: chỉ sống đạo theo thói quen. Việc giữ đạo lâu ngày trở thành một cái khuôn, chỉ cần rập khuôn theo là đủ, hoặc sự sáo mòn từ ngày nay qua ngày khác làm ta cảm thấy mình không sai luật, không lỗi bổn phận, và cuối cùng, không thấy cần phải sám hối ăn năn, vì không biết mình có phạm tội gì để ăn năn hay không? Từ đó sinh ra một thái độ khác càng tệ hại hơn nữa: thái độ tự mãn, tự kiêu, tự đắc thắng. Đó cũng chính là thái độ tự phong mình làm “thánh”, dù không nói ra thành lời. Nếu điều này có thật thì thật nguy hiểm cho ta. Bởi vì có ai hoàn hảo đâu, chỉ vì chưa nhận ra mình bất toàn nên không hoán cải mà thôi.
Đấy chính là thái độ của người con thứ hai. Anh ta thưa với cha mình: “Vâng, thưa cha con sẽ đi làm vườn nho”, nhưng lại không đi. Còn chúng ta, ai cũng đang sống trong Giáo Hội, ai cũng có thể thưa với Chúa rằng: con yêu mến Chúa, con tin Chúa, con muốn theo Chúa, nhưng trong thực tế, đời sống đạo của mình cứ ì ạch, không có gì khá hơn, không đổi mới gì và cũng không thấy mình cần phải ăn năn hối cải.
Nếu đúng là ta có một cung cách, một thái độ sống đạo tự mãn đó, chỉ biết rập khuôn theo luật, mà không có một tâm tình, một ý thức nào để cải thiện đời sống, điều đó có nghĩa là mình đang tự lừa dối chính bản thân. Nếu có lúc nào bạn và tôi thật khiêm tốn, tự kiểm điểm mình thật thành tâm, tôi nghĩ, chắc là lúc ấy chúng ta không còn dám tự mãn nữa.
Chắc bạn còn nhớ lời khen của Chúa Giêsu đối với thái độ của người thu thuế khi cầu nguyện. Anh ta đứng xa xa ở cuối nhà thờ, không dám ngước mắt lên, đấm ngực mà cầu nguyện: “Lạy Chúa tôi là kẻ có tội”. Sau lời cầu nguyện ấy, anh ra về và tội của anh được tha. Thế nhưng cùng lúc ấy, cũng có một người biệt phái cầu nguyện trong nhà thờ ấy. Rất tiếc và rất đáng thương cho anh ta. Anh ta quá tự mãn, chỉ thấy nơi mình toàn điều tốt. Thái độ tự mãn ấy đã biến lời cầu nguyện thành lời khoe khoang. Làm sao một người không từng thấy mình yếu đuối, thấy mình tội lỗi lại có thể được thứ tha! Bạn và tôi cần lắm thái độ của người thu thuế nơi chính bản thân mình. Và cũng cần lắm thái độ của người con thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay: trả lời “không” với cha. Nhưng tiếng “không” lại biến thành tiếng “có” ngay sau đó. Tiếng “không” như thế vẫn đẹp rực rỡ, đẹp hơn nhiều so với tiếng “có” của người con thứ hai, rốt cuộc chỉ là một tiếng “không” vô tận. Bởi lời đáp trả dẫu có quan trọng, nhưng hành động đi liền với lời đáp trả ấy quan trọng hơn nhiều. Biết tránh thái độ tự mãn, biết nhận ra bản thân để thánh y Cha được thể hiện mới là điều quí giá vô cùng.
“Các ông nghĩ sao?”. Ngày xưa Chúa hỏi những người biệt phái, thượng tế, kỳ lão như vậy. Ngày hôm nay Chúa cũng hỏi mỗi người hiện diện ở đây, từng người một rằng: “Các con nghĩ sao? Nghĩ sao về cách sống đạo của mình? Nghĩ sao về cách thể hiện đức tin? Nghĩ sao về lòng yêu Chúa mà mình phải có? Nghĩ sao về thánh ý Chúa mà mình phải thực hiện?”.
“Các ông nghĩ sao?”, lời đó xin gởi lại cho bạn và cho những ai thành tâm thiện ý để tất cả chúng ta cùng suy gẫm và xét đạo cách sống đạo của mình. Trên hết mọi sự, bạn và tôi hãy để Lời Chúa tra vấn mình: “Các con nghĩ sao?”.