CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
THẬP GIÁ ĐỨC KITÔ(*)– Chú giải của Noel Quession. 5
CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales. 13
ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ ĐỨC KITÔ(*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 22
THEO CHÚA LÀ TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 34
LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 45
MẤT TRƯỚC ĐƯỢC SAU– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 51
THẬP GIÁ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 55
ĐẦU TƯ CHO CUỘC SỐNG MAI SAU– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 58
TỪ BỎ VÌ YÊU CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang. 63
TỪ BỎ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 68
CON ĐƯỜNG KHỔ GIÁ- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 74
Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI ĐƯỢC ĐỌC THẤY NƠI ĐỨC KITÔ– Lm. Antôn Hà Văn Minh 79
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã khuyến dụ được tôi. Chúa đã hùng mạnh hơn tôi và thắng được tôi: suốt ngày tôi đã trở nên trò cười, và mọi người đều chế nhạo tôi. Mỗi lần tôi nói, tôi phải la lớn và loan báo sự hung bạo và điêu tàn, cho nên lời Chúa làm cớ cho tôi bị nhục nhã và bị chế nhạo suốt ngày. Tôi đã nói rằng: “Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa”.Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9
Đáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).
1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước!- Đáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. – Đáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con; con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. – Đáp.
4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 12, 1-2
“Anh em hãy tiến thân làm của lễ sống động”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nài xin anh em vì lượng từ bi Thiên Chúa, hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động và thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là việc phụng thờ hợp lý anh em phải làm. Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 16, 21-27
“Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”.
Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm”.Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN-A
THẬP GIÁ ĐỨC KITÔ(*)– Chú giải của Noel Quession
Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được “mạc khải” ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!
Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?
Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.
Từ lúc đó…
Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc “tuyên xưng đức tin” tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? “Từ lúc đó”, Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.
Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.
Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã “chạy trốn” ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem “thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.
Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!
Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!
Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.
Từ ngữ “Người phải” luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng “mình phải”, chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.
Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem “các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư…”, mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.
Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy…”
Phêrô bị kết án là “kẻ cám dỗ” đối với Đức Giêsu “Xatan hư hại!”
Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: “Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.
“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội… Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết… Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.
Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.
Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua “quan điểm con người” để chấp nhận “quan điểm của Thiên Chúa”.
Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ “giản lược” cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.
Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.
Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…”
Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.
Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: “Tôi muốn sống đời sống của tôi! “.
Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: “phải từ bỏ chính mình”. Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.
Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ “phải nộp thân mình và đổ máu mình”. Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?
Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải “mất” để “được”.
Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.
Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: “Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa”.
Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.
Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales
- Con đường của Con Người…
Đáp lại câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ “trong miền Xêrarê Philip” trước khi lên đường đi lên Giêrusalem: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tiếp liền theo Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tượng trưng cho sứ vụ mà Chúa trao cho: “Con là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.
Đến đây Matthêu lấy lại công thức mà ông đã giới thiệu mục vụ ở Galilê, đã thuật tiếp: “Từ thời gian này …” đó là một cách nói báo trước một bước ngoặt quyết định trong hành trình của Đức Giêsu Kitô.
- Thông báo lần đầu về khổ nạn
Những kẻ theo Chúa cho đến lúc đó, và đã tuyên xưng qua miệng lưỡi của Phêrô căn tính đích thực của Người, còn cần phải khám phá xem Người phải thực thi sứ vụ của Người bằng con đường bất ngờ và khó đoán nào. Đức Giêsu từ nay bắt đầu vào việc: “Bắt đầu từ lúc này, Matthêu viết, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.”
Thông báo lần đầu trong ba lần về cuộc khổ nạn phân chia cuộc hành trình lên Giêrusalem (xem 17,22-23 và 20,17-19). Mỗi lần đó đều gặp phải sự không hiểu từ phía các môn đệ. Mỗi lần đó đều quả quyết rằng không có con đường nào khác cho các môn đệ ngoài con đường mà sư phụ đã đi. Lời can ngăn hăng hái mạnh mẽ của Phêrô. Phêrô không thể giữ thinh lặng mà không nói lên lời phiền trách trước cái viễn tượng đen tối, mà ông và các bạn ông đã không thể tin được, nên ông “kéo Đức Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Dù ông đã tuyên xưng sứ vụ cứu thế của Thầy mình, nhưng quan niệm về một Đấng Kitô phải chịu nhục mạ, chịu khổ hình và chịu chết là điều ông không thể chịu nổi. Ông lấy danh Đức Kitô vinh thắng để chối bỏ Đấng Cứu Thế đau khổ. Lời khiển trách nghiêm ngặt của Đức Giêsu vào lúc đương đầu với cuộc khổ nạn và cái chết, Đức Giêsu trải qua cơn thử thách cô đơn. Không những đám đông dân chúng từ bỏ Người, mà cả đến các bạn hữu cũng không hiểu Người. Kẻ mà Người vừa chọn làm ‘đá tảng, đá nền để xây Hội Thánh của Người trên đó’, giờ đây bỗng biến thành viên đá cản đường, hòng làm Người té nhào trên đường. Ông gợi ý cho Người một con đường “cứu thế” theo ý loài người, chứ không theo con đường của Thiên Chúa. Việc Phêrô không muốn chấp nhận, theo J.Potid giải thích, làm sống lại cơn thử thách vĩ đại mà Chúa đã phải trải qua vào lúc đầu thi hành sứ vụ. Con đường của Người không phải là đường vinh quang mà những người Do Thái mơ ước cho Đấng Cứu Thế của họ, con đường trải đầy những việc phi thường, những chiến thắng, những cuộc biểu dương vinh hiển. Đức Giêsu đã phải loại bỏ những điều đó, bởi vì Thiên Chúa không thể thiết lập vương quốc bằng vũ lực. Và giờ đây Phêrô làm sống lại trước mắt Người sự hiện diện của Satan, mà Người đã thắng (trong “Jesus, l’histore vraie” Centurion 1994, trang 334-335)
“Satan, lùi lại đàng sau Thầy”. Đức Giêsu đã đáp lại ông cách hết sức gay gắt. Nghĩa là: anh hãy giữ địa vị môn đệ, đàng sau Thầy. Lời quở trách này, Cl. Tasin quảng giải, vẽ nên nét tương phản với lời chúc phúc mà Chúa đã nói với Phêrô ở câu 16,7. Ông đã biết tuyên xưng đức tin, nhưng ông lại không biết từ bỏ ý mình mà chấp nhận ý Thiên Chúa. Sự phản kháng của ông không những phát xuất từ tính ích kỷ của “ý tưởng loài người”, mà còn phục vụ Satan. Cả một thế giới thù nghịch với sứ mạng của Đức Kitô (“L’evangile de Matthieu” (Centurion 1991, trang 181).
- Đường của các môn đệ
Và để cất đi mọi ngộ nhận, Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ không có con đường nào khác con đường mà sư phụ đã đi trước: đó là đường thập giá. “Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ba câu tiếp theo đều xây dựng trên từ “mạng sống” sẽ soi sáng tư tưởng lựa chọn này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ai tự đặt mình làm trung tâm lẽ sống, người ấy đi vào cõi diệt vong; nhưng ai xem bề ngoài thất bại để uổng mất mạng sống mình vì Đức Kitô; thực tế tiến tới thành công. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Mạng sống con người không đồng hoá với của cải họ có, cho dầu họ chiếm được cả thế giới. “Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?: nào ai trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa, thánh vịnh 49,8 đã nói. Chỉ cần môn đệ – đầy tớ giống như sư phụ – đã là đủ rồi (10,24-25), Jean Rachemakers kết luận, từ bỏ chính mình, mang thập giá lên vai và theo Chúa, là những thành phần làm nên cuộc sống người môn đệ. Điều mà Thầy đòi hỏi nơi Phêrô thì Người cũng đòi hỏi nơi mọi môn đệ là: chấp nhận ý định cứu thế của Thiên Chúa theo cách thế được tỏ ra nơi đời sống Đức Kitô, bởi đó, chấp nhận rằng Chúa Cha khác hẳn với điều mà “xác thịt và máu huyết” có thể nghĩ ra, hình dung được.
BÀI ĐỌC THÊM
1- Theo Đức Giêsu(Mgr. Daloz trong cuốn “Le Règlle des cieux s’est approehé” desclée de Brouwer, trang 242-243). Nếu ta chăm chú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ hãy sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì, nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của “sở hữu” nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính “người được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. “Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”. Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người, trái tim con người được tạo nên để mở ra, để yêu thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. “Yêu là cho tất cả là trao ban chính bản thân mình”, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự về bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân: mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người. Thật là một nghịch lý cho con người, anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc đầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình; những người thành tựu cuộc sống đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực lòng tận tụy để phục vụ tha nhân… cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp cho con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, người còn mạc khải ý nghĩa đầy đủ. Người đã đi con đường mà Người muốn cho những ai theo Người phải đi: Ai muốn theo tôi… Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao? Còn đường thập giá, người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ xuống đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ: đó là sự phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe doạ đâu, mà là một lời hứa. “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng: “Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban.
2-Biểu trưng của thập giá(D.Ponnau, Giám đốc trường Louvre, trong tạp chí “Le Monde de la Bibbe” số 97, trang 5)
Biểu tượng của Thập giá đi trước và vượt quá biên giới của thế giới Kitô giáo. Tuy vậy nó là dấu chỉ quen dùng nhất có tính đặc trưng và tính phổ quát của Kitô giáo. Từ thời trước Đức Kitô và từ thời Đức Kitô, thập giá là một biểu tượng có tính toàn cầu phổ biến nhất và được nói đến nhiều nhất, ở ngoài những miền đã tin theo Phúc Âm. Nó liên kết hết mọi người “phương Đông” ở mặt đất, ở trên trời và trong không gian. Lâu đời trước thời Đức Kitô, thập giá đã là dụng cụ khổ hình ghê sợ và ô nhục, chỉ dành cho những cặn bã của xã hội, những tên nô lệ phản động. Nhưng Đức Kitô đã làm nó trở nên biểu tượng của Đức Kitô và của các môn đệ của Đức Kitô. “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do Thái, là điên dại đối với dân ngoại, còn đối với những kẻ được gọi, cả Do Thái và Hy Lạp, Người là Đấng Kitô, quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô đã nói như thế và chính Đức Giêsu cùng đã nói: “Ai không vác lấy thập giá và không theo Ta, thì không xứng đáng với Ta”. Đấng là Ngôi Lời hằng hữu, nói theo các môn đệ tự trao ban ngay từ khởi thuỷ, như Đấng bị đóng đinh và Đấng kêu gọi người ta chết đi đóng đinh vào thập giá. Người trao ban bản thân với tư cách đó trong lời Người và trong lời của những kẻ mà Người linh hứng. Không phải trong ảnh tượng của Người. Phải chờ đến thế kỷ IV thì ảnh tượng thập giá của Chúa mới được trưng bày cho người ta chiêm ngường. Thánh nữ Helena đã phát minh ra ở Giêrusalem và rồi sau đó xuất hiện vinh quang ở thành thánh. Từ đó thập giá được làm bằng kim loại quý và được cẩn đá quí. Rồi nhiều thế kỷ sau đó mới thấy xuất hiện tượng thánh giá có mang Đấng chịu khổ hình. Nghịch lý thay một biểu tượng có tính toàn cầu lại là một biểu tượng ô nhục. Nghịch lý thay sự vinh quang được tung hô bằng lời nói, lại không thể chịu được bằng mắt nhìn. Người ta đã có thể gây vấp phạm là trương lên tên gọi của thập giá và của Đức Giêsu bị đóng đinh. Nhưng phải đợi rất lâu sau người ta mới có thể trưng bày thập giá cho mắt thấy, và đợi một thời gian nữa, mới thấy trưng bày Đấng mà họ đã đóng đinh vào thập giá. Dấu ấn của thập giá đã trở nên dấu ấn tối ưu của Kitô hữu trên thế giới. Trên đó người Kitô hữu chiêm ngắm vị Thiên Chúa đã chọn vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Đức Kitô và Kitô hữu đã không sáng chế ra biểu tượng có dạng thập giá được tôn vinh từ Đông sang Tây và khổ hình độc ác nhất. Họ chỉ tạo cho nó thành địa điểm để Thiên Chúa siêu vời thấm nhập vào mầu nhiệm cô đơn của con người. Đức Giêsu bị đóng đinh trên đó đã mời gọi một cách độc đáo những kẻ từ nay có thể nhìn ngắm Người – Người từ đỉnh núi thánh gọi những kẻ đang ở đáy vực cuộc sống – nhìn ngắm Người, hoặc như gương mẫu tuyệt hảo của tận hiến và yêu thương, hoặc như dấu chỉ của tận hiến và yêu thương.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A
ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ DỨC KITÔ(*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay có chung một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người; vì thế, những người Ki-tô hữu phải có thái độ dứt khoát không chạy theo thời, không rập khuôn theo thói đời.
Gr 20: 7-9
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trung thành loan báo sứ điệp Thiên Chúa, dù phải đi ngược lại với bản tính của ông và những ước muốn của những người đương thời với ông.
Rm 12: 1-2
Thánh Phao-lô cảnh giác cộng đoàn tín hữu Rô-ma, sống giữa môi trường dân ngoại, “đừng có rập theo đời nầy”.
Mt 16: 21-27
Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô phản ứng như một phàm nhân, phẩn nộ trước ý định Thiên Chúa dẫn Đấng Mê-si-a bước đi trên con đường đau khổ.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)
Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất. Vốn hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy, ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với bản tính của mình và những kỳ vọng của những người đương thời với ông, vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị chống đối.
*1.Bối cảnh lịch sử:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa những năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị phá hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai chú ý đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe: trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam, thật sự là một bi kịch diễn ra trong tận đáy lòng của vị ngôn sứ.
*2.Bi kịch nội tâm:
Đoạn văn được trích dẫn hôm nay là một trong những đoạn văn thống thiết nhất mà vị Ngôn Sứ đã viết. Qua lối nói phóng dụ và những hình ảnh mạnh mẽ, đoạn trích nầy nói lên tất cả bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: đón nhận ơn đặc sủng mà không thể nào cưỡng kháng lại được, ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với tất cả những ước muốn của phàm nhân, đấu tranh không hề mỏi mệt với sự dữ và dối trá mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thân thưa với Thiên Chúa về sức mạnh của Ngài trên sứ mạng ngôn sứ của ông:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng”.
Ông phàn nàn với Chúa về những thử thách nặng nề mà ông phải chịu khi trung thành thi hành sứ vụ Thiên Chúa đã giao phó. Người đương thời chẳng những không đón nhận, mà còn lăng nhục ông, vì sứ điệp của Thiên Chúa trái với những kỳ vọng của con người.
“Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.
Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’.
Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt này” (20: 7c-8).
Vì thế, ông mong muốn được thoái thác sứ vụ của mình:
“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’” (20: 9a).
Dù đã ra sức cố dồn nén lại trong lòng, không công bố lời Chúa nữa, nhưng ông không thể:
“Nhưng lời Ngài như một ngọn lửa cháy bừng trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nín chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (20: 9b)
Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc siêu nhiên của nó, và đồng thời, quyền năng của nó ở tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.
BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)
Với chương 12, khởi sự phần luân lý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu: Do thái hay dân ngoại). Thánh nhân vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế ngài khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên của thánh nhân: phụng thờ đích thật và đổi mới con người.
*1.Phụng thờ đích thật (12: 1):
“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”: “Của lễ sống động” là trọn một cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa, đối nghịch với tế vật của những súc vật chết được hiến dâng trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một cuộc đời phụng tự. Đó mới thật là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, khi ám chỉ đến việc mình bị kết án tử, có lẽ sắp đến gần, thánh nhân thấy “máu của mình phải đổ ra hợp làm một với hy lễ” (Pl 2: 17).
Hiến dâng chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Ở đây, thánh nhân phân biệt sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình. Tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình là cách thức phụng sự Thiên Chúa xứng hợp nhất.
*2.Đổi mới con người (12: 2):
Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới con người. Việc đổi mới nầy đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: “Đừng rập theo đời nầy”, nhưng “hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”.
Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến, tức vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách rập khuôn theo thói đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Ki-tô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma.
Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.
TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)
Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước.
*1.Loan báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó và Phục Sinh:
Sau khi đã nghe thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào trong mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Ngài loan báo cho họ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài liên kết những viễn cảnh của cuộc Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.
“Người phải…”: Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây không là tất yếu của một định mệnh; nhưng là tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh đến để đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về ơn cứu độ).
*2.Phản ứng của thánh Phê-rô:
Chúng ta hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Ông quan niệm Đấng Mê-si-a vinh quang và chiến thắng. Trong tư tưởng của ông, những viễn tượng về Đấng Mê-si-a trần thế chắc chắn vẫn còn hiện diện.
Rất tế nhị, thánh Phao-lô kéo riêng Ngài ra khỏi tầm nhìn của các môn đệ và trách cứ Ngài: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”: Chắc chắn thánh nhân lầm khi lôi kéo Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của ông không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ.
Đức Giê-su phản ứng dữ dội. Vào lúc nầy, những cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa hiện ra trong tâm trí Ngài giữa “Đấng Mê-si-a quyền năng” mà dân Ít-ra-en mong đợi và “Người Tôi Tớ đau khổ” mà Kinh Thánh loan báo. Trước đây, Đức Giê-su đã xua đuổi chước cám dỗ của Xa-tan bởi lời quyền năng: “Xa-tan kia, xéo đi!” (4: 10), nay Ngài phản kháng thánh Phê-rô cũng một cách tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy!”. “Xa-tan” có nghĩa “kẻ cản lối” làm người ta vấp ngã.
Khi truyền lệnh cho Phê-rô: “Lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi ông, nhưng mời gọi ông “hãy đi theo sau Ngài” để khỏi cản lối đi của Ngài. Ngài muốn Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, việc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân vào trong cùng một vận mệnh của Ngài vì đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: “Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
*3.Những điều kiện để trở nên môn đệ của Đức Giê-su:
Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Đức Giê-su cũng nói với các ông một cách như thế khi liên kết các môn đệ vào với vận mệnh của Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”: Hình ảnh “thập giá” vào thời đó không xa lạ gì với những người đương thời của Đức Giê-su. Chính quyền Rô-ma đã áp dụng hình phạt thập giá cho những ai dám chống lại quyền cai trị của họ. Đã có những cuộc hành hình tập thể như thế xảy ra rồi ở Giê-ru-sa-lem. Ở nơi hình ảnh “thập giá” Đức Giê-su chất chứa những gian khổ mà những ai muốn trở nên môn đệ của Ngài phải trải qua. Trước đây, trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su đã gợi lên hình phạt thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Thánh Lu-ca, trong một đoạn văn song song (Lc 9: 23), đã thêm chữ “hằng ngày” làm cho “vác thập giá” mang nghĩa biểu tượng: “vác thập giá hằng ngày” nghĩa là chấp nhận mọi khốn khó của cuộc đời.
“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”: Lời nầy của Đức Giê-su được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ý nghĩa của chúng và ghi khắc chúng vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Trong viễn cảnh của những lần tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10: 18). Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những ngày bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là bảo đảm cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Thiên Chúa.
“Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”: Ở đây, Đức Giê-su đối lập giữa sở hữu của cải vật chất được gói trọn ở nơi “người ta được cả thế gian” và “thiệt mất mạng sống” được hiểu theo nghĩa mạnh: “tổn hại sự sống đời đời”, “đánh mất ơn cứu độ”.
Để kết thúc tư tưởng của mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ biết chọn lựa cách khôn ngoan giữa cuộc sống đời này với cuộc sống vĩnh cửu mai sau khi đặt cho các ông một câu hỏi: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”. Cuối cùng, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày quang lâm của Ngài: “Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Vì thế, để được sở hữu “sự sống đích thật”, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ và sau họ, cho tất cả các Ki-tô hữu: noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời nghiêm trang, không hoa mỹ, nhưng trào dâng một niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
THEO CHÚA LÀ TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay sẽ không êm ái dễ nghe chút nào, mà trái lại rất đáng sợ : “Ai muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức rõ về con đường thập giá và xin Ngài ban cho chúng ta đủ can đảm để theo Ngài trên con đường ấy.
– Chúng ta tôn kính Thánh Giá Chúa, nhưng không chấp nhận vác những thập giá của mình trong cuộc sống thường ngày.
– Chúng ta quá tôn trọng cái tôi của mình.
– Chúng ta không quen từ bỏ.
Đoạn này được các nhà nghiên cứu Thánh Kinh gọi là “Lời tự thú của Giêrêmia”, trong đó vị ngôn sứ than thở về biết bao đau khổ ông phải chịu do sứ mạng làm ngôn sứ cho Chúa.
Thực vậy, sứ mạng của Giêrêmia không được trơn tru và thành công, nhưng gặp phải rất nhiều chống đối : lời ông giảng không được người ta đón nghe, trái lại còn chế nhạo, phản đối, thậm chí lên án nữa (vì ông công kích cuộc sống tội lỗi của họ, loan báo án phạt của Chúa…). Nhiều lần người ta âm mưu sát hại ông khiến ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc…
Nhưng dù than thở như thế, Giêrêmia cũng thú nhận là ông không thể nào từ bò sứ mạng đau khổ đó, bởi lẽ “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con và đã thắng con”.
Thánh vịnh này được xếp vào loại các Thánh vịnh cầu nguyện trong cơn khốn khó.
Tác giả là người thiết tha yêu mến Chúa. Yêu mến ai thì khát khao gặp được người đó. Tác giả cũng thế, nhất là trong lúc khốn khó, tác giả khao khát được gặp Chúa, như đất khô cằn mong gặp được nước.
Sau khi Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết, Phêrô kéo Ngài lại và ngăn cản. Đức Giêsu trách mắng ông rất nặng lời, Ngài gọi ông là Satan.
Sau đó, Đức Giêsu còn nói về điều kiện của những ai muốn làm môn đệ Ngài (“đi theo” trong cách nói do thái có nghĩa là làm môn đệ) :
– Điều kiện thứ nhất là từ bỏ mình.
– Điều kiện thứ hai là vác thập giá mình.
Nên chú ý một số chi tiết có ý nghĩa sâu sắc :
. “Từ bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
. “Vác thập giá mình” : Kiểu nói này có nhiều nghĩa : a/ Đón nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài ; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử ; c/ câu 25 giải thích câu 24 : “Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”, hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa.
Những lời Thánh Phaolô viết trong đoạn thư này cũng có ý nghĩa tương đương với lời Đức Giêsu kêu gọi môn đệ hãy từ bỏ và vác thập giá mình : tín hữu hãy coi mình như một của lễ, cho nên hãy dâng bản thân mình cho Chúa, giống như chủ tế dâng của lễ lên Thiên Chúa trong một Thánh lễ.
Thánh Phaolô khuyến khích : đó là một việc rất đẹp lòng Chúa, và đó chính là việc phụng thờ hợp lý đáng làm nhất.
Đa số chúng ta nghĩ rằng từ bỏ là một điều gì đó bất thường, vì thế chúng ta không muốn từ bỏ.
Thực ra, từ bỏ là điều rất bình thường, rất cần thiết nữa là đàng khác, cho nên có thể nói từ bỏ là một quy luật.
– Quy luật của sinh tồn : có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.
– Quy luật của phát triển : cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó cơ thể lớn dần lên. trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.
– Quy luật của cải thiện : cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.
– Quy luật của tiếp nhận : có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.
Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục xài thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác.
Làm môn đệ Đức Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Ngài bảo chúng ta phải “từ bỏ mình”. Cái phần “mình” được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần “Chúa” được gia tăng bấy nhiêu. “Từ bỏ mình” hoàn toàn thì sẽ trở thành “Kitô khác” hoàn toàn.
Như thế tuy bỏ nhưng không mất, mà lại được ; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn. Thánh Phanxicô Assisi nói : “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
*2. Từ “từ bỏ” đến “hiến dâng“
Nói “từ bỏ” thì ta cảm thấy tiếc. Nhưng nếu nói “hiến dâng” như Thánh Phaolô (bài đọc II) thì ta thấy hăng hái hơn. Vì thế, xem ra câu của Thánh Phaolô “Anh em hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động cho Thiên Chúa” tuy cũng cùng ý nghĩa với câu Đức Giêsu nói “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình”, nhưng tích cực hơn.
– “Hiến thân” hàm chứa tình yêu : yêu là cho, yêu trọn vẹn thì không chỉ cho món này món nọ, mà cho cả con người của mình. Hiến thân.
– “Hiến thân” là một hành vi tự do : không ai ép buộc, chỉ vì yêu nên tự nguyện hiến thân.
– “Hiến thân” còn có giá trị tôn thờ : dùng thân mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa để thờ phượng Ngài. Cuộc sống trở thành phụng tự. Cuộc đời trở thành Thánh lễ.
*3. Ai đành mất mạng sống mình thì sẽ được sống
Nếu ta chăm chú nghe Lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không thể được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của “sở hữu”, nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính “người” được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. “Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người. Trái tim con người được tạo nên để mở ra, để thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. “Yêu là cho tất cả và trao ban chính bản thân mình“, thánh Têrêxa Hài Đồng đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn quy chiếu mọi sự vào bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân : mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người.
Thật là một nghịch lý cho con người. Anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc dầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình : những người thành tựu, cuộc sống tốt đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực, lòng tận tuỵ để phục vụ tha nhân… cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp chỉ con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, Người còn mặc khải ý nghĩa đầy đủ : Ai muốn theo tôi… Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao ? Con đường thập giá, Người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ quãng đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ : đó là phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe dọa đâu, mà là một lời hứa. “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng. “Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó“. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban. (Mgr Daloz, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 275-276)
a/ Từ bỏ
Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu. (Trích “Phúc”)
b/ Dấu nhận ra Chúa
Có lần một nhà truyền giáo hỏi lớp giáo lí Thánh Kinh : nếu các bạn thấy một nhóm gồm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài ? Nhiều người bảo không biết. Nhưng một em bé nói : “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài”.
CT : Anh chị em thân mến
Đường lối của Thiên Chúa thường khác xa với những suy nghĩ tầm thường của loài người. Luôn xác tín Thiên Chúa là Đấng thượng trí vô song, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Hội Thánh không ngừng rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thập giá / và sống lại khải hoàn để cứu chuộc nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh / được nhiều người thành tâm đón nhận.
2- Ngày nay nhiều người thích đời sống dễ dãi / hơn là chấp nhận những hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều kitô hữu / dám vì Chúa mà hy sinh phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.
3- Phải qua thập giá rồi mới bước vào vinh quang / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu rằng / nếu muốn được chia xẻ vinh quang với Chúa / họ phải đi qua con đường hẹp / đầy dẫy những thử thách gian nan / nhưng là con đường dẫn tới sự sống muôn đời.
4- “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng vì bạn hữu mình” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT : Lạy Chúa Giêsu, bản tính con người chúng con rất sợ phải gặp đau khổ trong cuộc sống thường ngày. Do đó, nếu Chúa không ban ơn giúp sức, chúng con không thể nào vác thập giá theo chân Chúa đến cùng được. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp cho chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN-A
LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Chúa sẽ có đâu như thế!”: Đó luôn luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: “Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu, nhưng sẽ trở nên như các thần” (Mt 3,4-5), chính nó lại đối diện với Chúa Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: “Nếu Ngài là Con Thiên Chúa…”, “các thiên thần sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ” (Mt 4, 5). Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa “Nếu Ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô – điều đó không thể nào xảy ra được”. Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.
“Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta”: Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu dùng để trả lời Phêrô; dĩ nhiên Matthêu không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ sài, chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc cho nó một sự nặng nề đặc biệt. Vừa mới được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan; lúc ấy ‘Ngươi là đá’, bây giờ ‘Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta’ (cách dịch của BJ: ‘Ngươi cản ngăn Ta’ rõ ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn: Từ địa vị Tảng đá nền móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18, 6-9), ta mới lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc: “Xéo đi, Satan” (4, 10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.
“Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa”: Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa Giêsu đã nói ở câu l7: “Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời “. Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông không thể phù hợp với mặc khải của Chúa Cha. “Quả thế, ý nghĩa của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Is 55, 8).
“Nếu ai muốn đi sau Ta”: Dù trực tiếp ngỏ với các môn đồ chỉ thị này vẫn không coi như một lời khuyên sống trọn lành dành cho một nhóm Kitô hữu ưu tú: ‘bất cứ ai’ (Hy ngữ tis) muốn theo Chúa Giêsu, thì phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc sống Kitô hữu cơ bản. Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng là một sự dấn thân tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.
“Vì kẻ muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được “: Câu này là câu kế tiếp dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước tiên chỉ con người cụ thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng thời cũng chỉ sự sống vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải ra như sau: kẻ nào muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống vĩnh cửu, còn kẻ nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ tìm được sự sống vĩnh cửu.
Câu 26 cũng phải được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước, nghĩa là phải mặc cho chữ sự sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý Chúa Giêsu nói lên sẽ thành một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế gian, con người cũng không thể hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong thời gian của mình, tức là chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có ích gì cho con người khi được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt mất sự sống vĩnh cửu.
“Hay người ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?”: Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con người quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự sống vĩnh cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh cửu? Câu trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.
Câu 27 đưa ra lý do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ: đó là Con người một ngày kia sẽ đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét này sẽ định đoạt số phận tương lai của họ.
KẾT LUẬN
Cuộc Khổ nạn là một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất “cần thiết”. Đó là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới mẻ” nhất của tâm hồn và sứ mệnh Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là lý do trường cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy, Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự “công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được làm đối tượng của tình yêu Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa Giêsu, điều mà trong sách Gióp xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người công chính) thì nay thành luật chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài học cho Giáo Hội và cho mọi kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu bình thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn. Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình, tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ ra chẳng được xảy đến. Nhưng Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha: Người biết hòn đá bị loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên đá đỉnh góc.
2) Chúng ta luôn có phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm, bấp bênh tương lai mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người.
Vì thiếu đức tin nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, ta không thực sự tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Người, lúc mà quân canh rình chực Người để bắt lấy. “Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại”. Mầu nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Vâng, nếu được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Nhưng khốn nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui, với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình yêu.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A
MẤT TRƯỚC ĐƯỢC SAU– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn lớn thì lời mới lớn.
Muốn được phải chịu mất trước. Đời sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.
Đi theo Chúa là đi vào con đường của Chúa.
Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả.
Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ, nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người. Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ. Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.
Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.
Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Như thế từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong đời sống đạo thế nào?
2) Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá khắt khe không?
3) Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A
THẬP GIÁ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Rôma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc. Nhưng đối người Hy Lạp, Thập giá trở thành hoa văn xinh đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai Cập thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây Ban Nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ơn phúc. Các nước tiểu Á và Đông Á vẽ Thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.
Nhìn chung nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ: một thứ Thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ Thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau, nhưng khác nhau: một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là khổ giá, một đàng thương đau để được sự sống trường sinh nên được gọi là Thánh giá
Thánh giá này tiên tri Giêrênia như muốn từ chối vì nó nặng quá, sức ông đã kiệt quệ, không thể vác nổi, sức loài người quá yếu. Nhưng Thiên Chúa đã chiêu mộ ông, thiêu đốt ông bằng ngọn lửa cháy bừng trong lòng ông, âm ỉ trong xương cốt ông, làm ông vùng dậy la to, kêu lớn: “Bạo lực và tàn phá” cho những kẻ suốt ngày nhạo cười, phỉ báng ông. Họ muốn sống vinh quang, họ phải dẹp cái thói hung tàn, đàn áp đi, chớ liên minh với ngoại bang gây chiến, giết hại lẫn nhau: đó là thứ thập ác. Giêrênia đã vác Thánh giá để cứu dân thoát khỏi thập ác, nhưng dân vẫn lao đầu vào thập ác: chúng đã đốt con chúng làm lễ tế thần Baal (Cr. 19, 5) và hùa nhau: “Tố cáo ông, báo thù ông” (Ger. 20, 10).
Thánh giá này, Giêrênia vác không nổi thì Đức Giêsu đã đến vác trọn vẹn. Người long trọng tiên báo cho các môn đệ biết: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Phêrô nghe kinh khủng quá, kéo Thầy ra nói nhỏ, sao Thầy dại thế? “Xin Thiên Chúa thương cứu Thầy khỏi sự khốn đó”.
Thành thực muốn cứu Thầy, lại bị Thầy sửa lưng thẳng mặt: “Satan, xéo đi cho khuất, ngươi cản lối Ta, tư tưởng của ngươi không phải của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt. 16, 23).
Đúng thế, Phêrô đã bị tính ích kỷ loài người, tính vụ lợi muốn được cả thế gian của satan làm hoen ố tinh thần hy sinh vác thánh giá theo Thầy. Muốn thoát khỏi vác thánh giá thì lại lao đầu vòng tròng thập ác của satan, của sự xấu, của tiêu diệt: “Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được sự sống”. Vì chỉ có Thầy “bị người ta giết chết, nhưng ba ngày Thầy sẽ sống lại”, chỉ có “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” “là sự sống lại và là sự sống muôn đời”. Chỉ có “Thầy sẽ ngự đến trong ánh sáng vinh quang”.
Phêrô đã quên niềm tin chân chính mà ông vừa mạnh mẽ tuyên xưng. Con người chóng quên quá! Con người yếu đuối quá! Con người phũ phàng quá! Chúa ơi!
Lạy Chúa Giêsu, chỉ mình Người vác khổ giá hay sao? Giêrênia đã từ chối, nhưng đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, Phêrô đã từ chối và đã trở lại vác khổ giá theo Chúa, nhiều lần con đã từ chối vác khổ giá, xin cho con biết trở lại vác khổ giá theo Chúa, để khổ giá của con trở thành thánh giá cứu con và nhiều người.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A
ĐẦU TƯ CHO CUỘC SỐNG MAI SAU– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đầu tư tất cả cho cuộc sống đời nầy
Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi của mình.
Bản thân tôi như một quả bong bóng mà tôi cố thổi cho phồng lên tối đa.
24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác: giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân xác…
168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho thân xác.
8.766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như quả bong bóng đầy hơi.
Châm ngôn của người ta là : Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc sống đời nầy.
Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.
Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực… đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi kết cuộc đời người, theo như thi hào Nguyễn Du, chỉ còn là một nấm đất:
“Trăm năm còn có gì đâu?
“Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!”
Tiếc thay, ngày nay đất đai khan hiếm, kết cục đời người không còn được một nấm cỏ khâu như xưa, nhưng chỉ là một lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau khi thiêu xác!
Thế là đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình (ai đầu tư tất cả cho cuộc sống mình) thì sẽ mất”; và cho dù người ta có thu tóm “được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là “một nấm cỏ khâu” hay đơn giản hơn, là “một lọ tro tàn” thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai rồ dại đến nỗi dốc toàn bộ vốn liếng mình có vào một cuộc kinh doanh mà biết trước rằng kết cục chỉ là tay trắng không?
Đầu tư cho đời sống mai sau
Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề nghị một giải pháp tốt nhất. Ngài dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư cho đời sống mai sau, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác thập giá.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?”
Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian.
May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô Xavie: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
Ánh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Phan-xi-cô giã từ việc theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình) để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.
“Từ bỏ chính mình” tức là đừng đầu tư tất cả mọi vốn liếng ta có để vun đắp cho cuộc sống đời nầy; cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
“Vác thập giá mình” là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác – sự khước từ nào cũng là một thập giá, đều để lại đau thương – để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN-A
TỪ BỎ VÌ YÊU CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Ngày 04/09/2016, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức giáo Hoàng Phanxicô long trọng tuyên phong Chân Phước Teresa Calcutta lên bậc hiển Thánh, vì chưng, trong tâm hồn Thánh Teresa Calcutta luôn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bừng cháy tình yêu thương xót thôi thúc Thánh Nữ một điều duy nhất là bỏ tất cả theo Chúa và “Đem tình yêu thương xót của Thầy đến cho người khốn khổ nhất trong xã hội”. Vâng, đúng thế, Mẹ Teresa sinh ngày 26/8/1910 tại Nước Albanie (An-ba-ni). Ðủ 18 tuổi, Mẹ Teresa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto (Lo-rê-tô) ở Ái Nhỉ Lan. Năm 1928, Sơ Teresa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ. Không lâu sau đó, Sơ Teresa đến Calcutta, thủ đô Bengal (Ben-ga), Ấn Ðộ, để dạy học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Teresa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối, các trẻ em bơ vơ và người khuyết tật trên đường phố, Sơ Teresa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người bệnh tật, nghèo đói khốn khổ. Và năm 1948, Mẹ Teresa, với chiếc áo dòng cũ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Năm 1952 Mẹ Teresa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Teresa đã biến nó trở thành Hội Quán cho những người nghèo đói đau khổ, bệnh tật. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ.
Mẹ Thánh Teresa Calculta đã nên thánh được là nhờ thi hành Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay một cách triệt để nhất, hùng hồn nhất: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi”. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn, chọn lựa giữa tốt xấu, trắng đen của thiện ác. Nhà đạo thường nhắc đến 3 thù là Ma quỷ, thế gian và xác thịt. Ma quỷ có thể thắng lướt, thế gian có thể rời xa, nhưng thân xác thì luôn gắn bó đến hơi thở cuối đời, cùng với nhu cầu và những đòi hỏi không ngừng của nó. Nhà Phật đã chỉ ra tam độc của Tham, Sân Si. Còn các đạo vẫn thường nói về Danh, Lợi. Danh vọng, quyền lực, sắc dục luôn là những vấn nạn của muôn thuở nhân sinh. Nhưng chúng ta phải vượt qua được những cám dỗ bằng sự từ bỏ mình vì hạnh phúc cho chính mình và tha nhân theo mẫu gương tuyệt hảo là Đức Giêsu.
Cụ thể, chúng ta nhớ những lần Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa: cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn (xác thịt): “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá này trở thành bánh đi!” (Lc 4, 3). Satan muốn xúi giục Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Sứ mạng của Ngài đến để phục vụ và làm theo Đấng đã sai Ngài. Satan muốn xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa. Rồi, cám dỗ thứ hai là Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian này, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy hắn là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu phán: “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài thôi” (Đnl 6, 13). Cám dỗ thứ ba là Satan xúi giục Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoàn thành sứ mạng, nếu Đức Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Ngài không theo đường tắt Satan đề nghị nhưng “Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Nên hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi là vậy.
Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế. Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta vì như lời Ngài đã nói được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì. Anh chị em thân mến, não trạng của con người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái, tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết từ bỏ tội lỗi từ bên trong ra bên ngoài hầu “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để chúng ta thờ phượng Người. Chúng ta đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người chúng ta bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo để chỉ vì yêu Chúa và mang lại hạnh phúc cho mình và tha nhân. Amen.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A
TỪ BỎ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Thầy (Mt 16, 24). Từ bỏ mình có nghĩa là từ bỏ ý muốn riêng của mình. Từ bỏ thì không luôn dễ. Sự từ bỏ nào cũng cần có ý thức quyết định mãnh liệt. Chúng ta biết rằng trăm người thì trăm ý. Đôi khi, ai cũng nghĩ rằng ý của mình là hay và là tốt nhất. Bỏ mình thì phải hy sinh ý riêng của mình để chấp nhận ý của người khác. Vả nữa, mỗi người có cá tính riêng biệt, nên rất khó để nhường nhau. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy ghét tội, không ưa những sự gian dối và thói tục xấu xa, nhưng vẫn cứ muốn bám víu cầm chân. Khi chúng ta chìm sâu trong đường lầm, thì tội lỗi lại là những món hấp dẫn và cảm khoái. Miệng của chúng ta thì chê bai ghét tội đó, nhưng lòng lại cứ muốn chiều theo những đòi hỏi bản năng thấp hèn. Nói thật, chúng ta không muốn đi xưng tội thường, tại vì tiếc nuối từ bỏ thói hư tật xấu và tội lỗi. Người ta thường nói rằng bỏ thì thương, vương thì tội. Cho nên cứ lẩn quẩn dùng dằng trong chốn mê lầm.
Truyện kể: Cha Jean Weslay là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Một hôm, có một bác nông phu người Anh đến nghe cha giảng. Hôm đó cha giảng về đề tài ‘cách dùng của cải’. Ông rất chăm chú nghe. Trong bài giảng có bốn phần: 1. Hãy tìm kiếm cho được nhiều của cải. Bác nông phu rất hài lòng và nói: Hay quá, tuyệt quá. 2. Hãy tiết kiệm. Ông sung sướng ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn cha. Ông nghĩ thật đúng quá, chính ông cũng chủ trương như thế mà. 3. Đừng xài hoang phí. Ông gật gù vui trong lòng. Ông nghĩ mình phải thầm cám ơn Chúa vì ông luôn hành động như thế. 4. Hãy rộng rãi làm phúc và làm việc bác ái. Ông nhăn mặt khó chịu. Ông thở dài đứng lên bỏ về. Ở đời, nhiều người hành động giống như bác nhà quê này: Lý thuyết nhiều và thực hành ít. Chỉ mong tìm lời và thu quén cho mình.
Sự từ bỏ gồm về cả lãnh vực tinh thần lẫn vật chất. Khi chúng ta không có sở hữu tiền bạc của cải nhiều, thì nói đến việc từ bỏ xem ra dễ dàng. Nhưng khi chúng ta giầu có, thì thái độ lại khác vì đồng tiền nối liền khúc ruột, không dễ mà từ bỏ và chia sẻ đâu. Lý tưởng của cuộc sống là vươn lên mãi. Có, rồi muốn có thêm. Vì sống là sự phát triển không ngừng. Ai ai cũng cố gắng gia tăng thủ đắc cho mình nhiều thứ mới lạ mỗi ngày. Đúng thế, sống ở đời, ai cũng phải cố gắng trau dồi thêm tri thức, tập tành nhân đức, học hỏi thêm chuyên môn, lao động thêm giờ, đầu tư sinh lợi nhiều hơn, thu góp tiền của và vui hưởng cuộc sống hơn. Có nghĩa là ai cũng phải luôn phát triển và sinh lợi càng nhiều càng tốt. Đời sống là cuộc phấn đấu không ngừng để tiến thân. Nhưng muốn tiến lên, chúng ta lại phải bỏ bớt, thon gọn và thảnh thơi. Muốn vươn cao, chúng ta cần cắt bỏ những rườm rà níu kéo, giống như cây măng tre càng vươn cao càng nhỏ gọn.
Tiên tri Giêrêmia được Thiên Chúa chọn gọi từ trong bụng mẹ để thi hành sứ mệnh của Chúa. Ngay khi còn trẻ tuổi, ông đã được Chúa trao sứ vụ mời gọi canh tân khi lòng dân đang bị xa lạc đường lối Chúa. Ông sợ hãi và từ chối thi hành sứ vụ. Ông không muốn chuốc lấy sự khốn khó khi phải đối diện với nhóm dân bất tuân phục. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu thiêu đốt trái tim nhiệt thành, ông không thể trốn lánh và chối từ. Ông đã tâm sự: Tôi nói rằng: Tôi sẽ không nhớ đến Người nữa, sẽ không nhân danh Người mà nói nữa, thì lúc đó trong lòng tôi như lửa đốt nóng, âm ỉ trong xương cốt tôi, tôi kiệt sức, không chịu nổi nữa (Giêr 20, 9). Ơn Chúa đã thúc bách ông vượt qua mọi gian khó. Tiên tri Giêrêmia đã phục vụ trong sứ vụ gần 40 năm tại Giêrusalem (627-587 AD).
Ai cũng có kinh nghiệm, muốn từ bỏ một thói xấu, thật là không dễ chút nào. Những cám dỗ hướng về điều xấu trong tư tưởng, lời nói và việc làm luôn khêu gợi, thí dụ: Ước muốn nhục dục, tham lam tiền bạc, ghen tị, nóng giận, mê bài bạc, nghiện ngập hút sách, trộm cướp, chời bời trác táng, ăn nói tục tĩu và ngồi lê mách lẻo… Những thói hư tật xấu này đã nhiễm sâu trong lòng rất khó từ bỏ. Nó cần sự giác ngộ cao và có ý chí kiên cường tự thắng mình. Đôi khi có người đã không ngại thổ lộ rằng những thù hằn và ghen ghét trong lòng sẽ không bao giờ bỏ qua, nhưng sẽ ghi nhớ suốt đời để đem xuống nấm mồ. Những cách hành xử như thế là thiếu sự khôn ngoan, vì tự mình đã đeo thêm hòn đá nặng vào cuộc lữ hành trần thế. Không may, họ đang bị vuột mất sự tự do để vươn tới trên con đường trọn lành. Cũng có những người hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự nghiện ngập và mất đi tự chủ. Họ không thể vượt qua được sự yếu đuối của chính mình. Thật thế, sự từ bỏ về vật chất đã khó, từ bỏ về đời sống tinh thần còn khó hơn nhiều. Từ bỏ mình cần có sự khiêm hạ trong lòng. Từ bỏ là trút bớt những bận vướng cuộc đời. Càng từ bỏ, chúng ta càng được tự do và thanh thản hơn.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Anh em đừng theo thói đời này, nhưng hãy canh tân lòng trí anh em, để anh em biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo (Rm 12, 2). Phaolô mời gọi chúng ta hãy canh tân lòng trí để tìm biết thánh ý Chúa. Ý Chúa cao vượt trên ý muốn của phàm nhân. Con người muốn hướng thiện cần thiết phải từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Biết rằng vâng theo thánh ý Chúa, chúng ta phải từ bỏ rất nhiều. Từ bỏ những sự mê lầm của tội lỗi, những thói đời xấu xa và dục vọng thấp hèn. Chúa Giêsu mời gọi rằng ai muốn theo Chúa, không những chỉ từ bỏ mình, mà còn vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Vừa từ bỏ, vừa lãnh nhận. Đã có rất nhiều người lắng nghe lời Chúa và thực hành trong đời sống. Trải qua lịch sử của Giáo Hội, chúng ta biết có rất nhiều người đã dám từ bỏ của cải và danh vọng thú vui trần đời để bước theo Chúa.
Trong môi trường huấn luyện, đặc biệt trong các Dòng Tu, đòi hỏi sự vâng lời trong việc từ bỏ ý riêng. Vâng Lời là một nhân đức. Vâng nhận ý của bề trên như là ý Chúa trong sứ mệnh phục vụ tha nhân. Vâng lời bề trên cũng là một thách thức trưởng thành. Dĩ nhiên trong cuộc sống chung, vâng lời không luôn dễ dàng, vì đôi khi có những cách hành xử quá ích kỷ, thiên vị và nhỏ nhen. Ngày nay, có nhiều trường hợp đôi bên đối thoại và thông cảm với nhau, hơn là kiểu vâng lời tối mặt. Trong Dòng Tu, đức Vâng Lời là một trong ba lời khấn trọng của các tu sĩ. Điều này nói lên sự từ bỏ ý riêng một cách cao thượng. Người khiêm nhượng là người biết vâng lời. Vâng lời là chấp nhận ý của người khác trọng hơn ý riêng mình. Đòi hỏi sự hy sinh hãm mình cao độ. Các tu sĩ đã tự thánh hóa cuộc đời tu trì của mình bằng các nhân đức tốt lành. Họ đã bước cao hơn một bậc trên đường trọn lành.
Ông Phêrô rất nhiệt tình trong sứ mệnh truyền rao Tin mừng. Đôi khi ông đã phạm lỗi lầm và suy tưởng theo sự khôn ngoan của người đời. Phêrô cũng muốn có những vinh quang trần thế. Chúa Giêsu từng bước mạc khải cho các môn đệ con đường mà Chúa sẽ đi qua. Con đường tình yêu của chông gai và đau khổ. Phải qua đau khổ thập giá mới có thể bước vào vinh quang chân thật. Chúa Giêsu đã quở trách ông Phêrô: Chúa Giêsu quay lại bảo Phêrô rằng: Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người (Mt 16, 23). Thánh ý và đường lối của Chúa khác hẳn ý muốn của con người. Chúa Giêsu chọn con đường khiêm hạ và vâng theo thánh ý Chúa Cha. Chúa đã từ bỏ mọi vinh quang để chấp nhận thân phận của người tôi tớ. Chúa Giêsu đã hoàn tất hy tế thập giá bằng con đường hy sinh từ bỏ và vâng phục.
Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi qua là con đường tình yêu, con đường thánh giá và con đường vâng phục tự hiến. Muốn vào qua cửa hẹp, chúng con phải buông bỏ những thứ lỉnh kỉnh bận vướng cuộc đời. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN-A
CON ĐƯỜNG KHỔ GIÁ- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Văn sĩ Công giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều bị xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Một ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình ảnh của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống. Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã làm ông điên loạn.
Rồi một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt, ông cầm gậy đập phá tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, ông ta đành phải dùng lửa để tiêu hủy.
Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu rụi toàn bộ căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác ông trôi lềnh bềnh trên sông”.
Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, và Ngài mời gọi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Thầy” là những yếu tố làm nên cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Thập giá mình đó là thập giá của một kiếp người,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị chống đối và hiểu lầm,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị sự bỏ rơi và phản bội,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị thất bại và oan ức,
Thập giá mình tức là thập giá khi chúng ta bị nhục nhã và cô đơn.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta ước mong mà không đạt được.
Thập giá là tất cả những gì chúng ta không mong muốn mà nó cứ lù lù xông vào cuộc đời chúng ta.
Tóm lại, thập giá là tất cả những gì xảy đến với chúng ta mà chúng ta không muốn chấp nhận.
Cũng như nhân vật trong câu chuyện trên, nếu chúng ta không chấp nhận thập giá, thì chúng ta sẽ tiêu diệt chính cuộc đời chúng ta, vì chính những thập giá làm nên cuộc đời chúng ta. Chúng ta từ chối chúng, tức là chúng ta từ chối chính cuộc sống của chúng ta.
Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, nên cách tốt nhất là chúng ta chấp nhận nó như có câu chuyện kể rằng:
Một hôm, đạo sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành một căn phòng riêng.
Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ đạo sĩ giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng khác.
Rồi đến vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu: Đây là nữ thần Jupia giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác.
Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên thập tự và đạo sĩ chậm rãi trả lời: “Đây là Đức Giêsu Kitô “. Với chút xúc động lộ trên gương mặt, Intyra xin đạo sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên thập tự. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi: “Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc đầu, một vị thì cất đi sự đau khổ, còn một vị thì giúp tránh khỏi đau khổ, nhưng anh lại không thích vị nào cả. Thế thì tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên thập tự như vậy?”
Intyra giải thích: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là lời hứa không tưởng, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này, và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống kiếp người hèn nhát. Dù tránh né, thì người ta cũng chẳng thể nào tránh né hết đau khổ, vì tránh được đau khổ này thì lại gặp một đau khổ khác. Chính vì vậy Chúa nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Theo Chúa là phải vác thập giá. Chúa không miễn trừ cho chúng ta và chúng ta cũng không thể tránh né, cho nên tốt nhất là đón nhận nó. Amen.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A
Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI ĐƯỢC ĐỌC THẤY NƠI ĐỨC KITÔ– Lm. Antôn Hà Văn Minh
Tôi sống trên trần thế này để làm gì và đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Đó là những băn khoăn của bao người về cuộc sống của mình. Và quả thật là không đơn giản khi đi tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó, bởi cuộc sống không do con người tạo ra, và sự hiện hữu của con người mang đậm sự huyền nhiệm mà trí khôn con ngừoi cảm thấy như bất lực khi đi tìm một giải đáp nhằm thoả mãn cho vấn nạn: đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc sống?
Trên con đường tìm kiếm có người đã vội cho rằng ý nghĩa của cuộc sống chính là tìm kiếm những thực tại trần thế. Vì thế hạnh phúc nằm ở những thành công đạt được, nhiều tiền nhiều bạc. Thế nhưng, như một bạn trẻ có nick name Vietyouth đã chia sẻ: cứ tưởng khi đạt được những thành công nếm được trái ngọt của bản thân là đạt được ý nghĩa của cuộc đời, thế nhưng sao những thành công qua đi nhanh chóng thế, huy chương không thể ở lại mãi với người chiến thắng, nó sẽ liên tiếp đi tìm những người giỏi, giỏi hơn, và giỏi hơn nữa. Không lẽ cuộc sống chỉ có ý nghĩa ngắn ngủi như thế?.
Có người thất vọng về những sự phù du và tỏ ra ngán ngẫm như Cao Bá Quát: Ba vạn Sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”, để rồi đua ra chủ trương thực dụng như Nguyễn Công Trứ Chơi xuân kẻo hết xuân đi, cái già xồng xộc nó thì tới nơi”. Cuộc sống như thế càng xô đẩy con người đến chỗ trống rỗng, và càng ngày càng cảm thấy sự vố lý của cuộc đời. Viktor Frankl, nhà tâm lý của người Áo đã nói: Cuộc sống sẽ làm ta đau đớn nếu con người cảm thấy trống rỗng trong sự tồn tại. Để ra khỏi sự trống rỗng, và để tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, Nick Vujicic, một ngừoi đàn ông tật nguyền, đã mnói: Ý nghĩa cuộc sống không phải là khi đạt được sự hoàn thiện mà chính trên hành trình đi tìm sự hoàn thiện”.
Và đâu là sự hoàn thiện để con người đi tìm? Lời Chúa hôm nay đã chỉ cho chúng ta sự hoàn thiện và con đường đi tìm sự hoàn thiện đó. Vâng, chính Đức Kitô là sự hoàn thiện mà con người cần phải gặp được để thấy được ý nghiã của cuộc đời, bởi sự hoàn thiện chỉ có nơi Thiên Chúa, và Đức Kitô là hiện thân của sự hoàn thiện này. Ngài, vốn dĩ là Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, vì yêu thương thế gian, nên đã từ bỏ ngai trời nhập thể làm người để đến trần gian mạc khải cho con người biết sự toàn thiện và chỉ cho con đường đạt tới sự toàn thiện.
Sự toàn thiện mà Đức Kitô mạc khải không gì hơn chính là nhận biết Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, và nhận biết mọi người là anh em để yêu thương. Đức Kitô là khuôn mẫu cho sự toàn thiện này khi vì vâng phục Thánh ý Cha Ngài đã chấp nhận hiến thân, và vì yêu thương nhân loại Ngài đã sẵn lòng hiến tế chính mình làm giá cứu chuộc cho muôn người. Sứ điệp của Người tỏ bày trong lời nói cũng như trong hành động là phục vụ mọi người trong yêu thương, là tỏ bày lòng nhân ái và quảng đại tha thứ, và như thế, ý nghĩa cuộc đời được tìm thấy khi hiến thân phục vụ cho tha nhân, khi mỗi người không sống kích kỷ, vun quén cho chính mình, nhưng biết mở rộng con tim và biến cuộc đời mình thành quà tặng cho tha nhân. Chính Đức Kitô đã tỏ cho chúng ta thấy sự toàn thiện nơi Ngươiì khi bị treo trên Thập Giá một cách bất công, Người cũng nguyền rủa kẻ hành hạ và kết án Người, trái lại Người còn mở rộng lòng bao dung khi van xin ơn tha thứ cho họ: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.
Để đạt tới sự toàn thiện, Đức Kitô đã chỉ cho chúng ta phương thế: Từ bỏ chính mình, vác thập giá và bước theo Chúa Kitô. Sự hoàn thiện được dệt lên bởi một tình yêu hướng tha, một tình yêu quên mình, không vị kỷ. Vì không có sự hiến thân cho tha nhân, tình yêu sẽ trở thành giả dối và không thể nào làm nảy sinh sự sống, thì làm sao gọi là toàn thiện được. Vì thế, để đạt tới toàn thiện đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi ích kỷ, từ bỏ tham sân si, để có thể tìm thấy ý nghiã đích thực cuộc đời qua những hy sinh vì thiện ích của tha nhân, Viktor Frankl đã khẳng định: “ý nghĩa cuộc sống không phải là thứ hàng có thể mua, đặt, hoặc trực tiếp hướng tới. Ý nghĩa là kết quả của việc thực hiện các giá trị tồn tại ngoài con người, vượt quá các mục đích và nhu cầu đơn lẻ của anh ta. Những hành động mà anh ta thực hiện, những tác phẩm mà anh ta sáng tạo, tình yêu mà anh ta trải qua và sự đau khổ mà anh ta chịu đựng với lòng can đảm và phẩm giá – tất cả tạo thành giá trị của con người, vượt ra ngoài lợi ích và sự hữu hạn của loài người”. Đó là lý do Chúa Giêsu mời gọi: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Và chỉ có như thế, chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa đích thực của sự hiện hữu chúng ta nơi thế trần.
Lay Chúa, Chúng con tạ ơn Chúa đã trao ban đức tin cho chúng con, để nhờ đó chúng con nhận ra rằng chỉ có Chúa mới là câu trả lời xác đáng cho những trăn trở thắc mắc của chúng con. Xin cho chúng con mau mắn đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để chúng con có thể đạt tới sự toàn thiện. Amen.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #chuanhatxxiithuongniena