CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI(*)– Chú giải của Noel Quession. 5
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN- Chú giải của Fiches Dominicales. 13
TRAO BAN QUYỀN LÃNH ĐẠO(*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 23
NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 37
PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 48
HỘI THÁNH CỦA CHÚA– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 59
ĐỨC TIN VỮNG NHƯ ĐÁ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 63
TRỞ NÊN “ĐÁ TẢNG” XÂY DỰNG HỘI THÁNH TẠI GIA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 66
ĐI SAU CHÚA- Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn. 71
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ…- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 75
TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện. 80
CHÚA GIÊSU LÀ AI TRONG CUỘC ĐỜI TÔI– Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang 88
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ta sẽ để chìa khoá nhà Đavít trên vai nó”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán cùng Sobna, quan cai đền thờ rằng: “Ta sẽ trục xuất ngươi ra khỏi địa vị ngươi, và Ta sẽ cách chức ngươi; trong ngày đó, Ta sẽ gọi đầy tớ Ta là Êliaqim, con trai Helcia. Ta sẽ lấy áo choàng của ngươi mà mặc cho nó, lấy đai lưng của ngươi mà thắt cho nó, sẽ trao quyền ngươi vào tay nó, nó sẽ nên như cha các người cư ngụ ở Giêrusalem và nhà Giuđa. Ta sẽ để chìa khoá nhà Đavít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được. Ta sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh, và nó sẽ trở nên ngai vinh quang nhà cha nó”.Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6 và 8bc
Đáp: Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa (8).
1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. – Đáp.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. – Đáp.
3) Quả thực Chúa cao cả và thường nhìn kẻ khiêm cung, còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 11, 33-36
“Mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 16, 13-20
“Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu”. Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN-A
CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI(*)– Chú giải của Noel Quession
Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê…
Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban… Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn toàn mới: Xêsarê!
Ngày nay, thành phố này không còn lạ gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ “tảng đá” dưới chân núi.
Người hỏi các món đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”
Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một câu hỏi về “căn tính” của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ.
Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì?
Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.
Dư luận của dân chúng khác nhau trong khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người bình thường?… ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ.
NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.
Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có một thái độ của bản thân.
Còn bạn, Huy Phương… Bạn, Duyên…. Bạn, Minh Hạnh… Bạn Hằng… Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu là ai?
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V Tuy nhiên, người ta không có quyền “làm giảm nhẹ” lời tuyên xưng đức tin” của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên Chúa”, “ben Elohim”. Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel (Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 – 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).
Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là “một ngôn sứ” nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến… nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con… và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ thuộc về một mình Đức Giêsu.
Đức Giêsu nói với ông: “Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”
“Phàm nhân”… từ ngữ rất lâu đời này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói… một công thức đẹp được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ nói: “Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều đó!”.
Để đạt đến những thực tại thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự “mạc khải”.
Trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: “Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa. Thần Khí sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra… Chúa là cùng đích của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào… Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?”
Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. “Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về “Thiên Chúa”: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên” (Gl 1,15-16).
“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh vừa nói!” Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố “thật có phúc” (đây là một mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”
Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô, đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.
Thật vậy từ “Tảng Đá” (tiếng Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời hứa này:
1/ Tảng đá: tượng trưng cho sự vững chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa…
2/ Giáo Hội: có nghĩa là “cộng đoàn”, được Thiên Chúa triệu tập.
3/ Những cánh cửa: tượng trưng cho sức mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại…
4/ Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền bính.
5/ ‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.
Những trích dẫn trong Kinh Thánh để khẳng định rằng Thiên Chúa là “Tảng Đá”. Chúng ta, chỉ cần trích dẫn: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 71,3). Chúng ta đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng một cách vững chắc như thế!
Từ “Giáo Hội” dịch chữ “Qahal” trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Cộng đoàn”, điều Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một “Cộng đoàn” những người đàn ông và đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu “lẻ loi”. Không thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.
Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…
Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình ảnh: “Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi”. Nếu chúng ta hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết… nhưng còn có khả năng tấn công vào “ngục tù của sự chết” để lôi con người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự tính điều đó: Một “cộng đoàn” những người sống lại với Người?
Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.
Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.
Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.
Ngày nay, người ta thấy có nhiều người sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không…”. Sau một thời kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những “cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành” mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan. Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN- Chú giải của Fiches Dominicales
*1) Phêrô tuyên xưng đức tin
Phải luôn lẩn tránh những địch thù quấy nhiễu Ngài, Đức Giêsu dẫn dắt môn đệ của Người đi vào một chỗ những cuộc tĩnh tâm liên tiếp. Nó đặt cột mốc -vừa về địa lý, vừa về tinh thần- trên chặng đường tìm hiểu căn tính thực của Ngài.
Vừa trải qua cuộc tranh luận với Biệt phái, những kẻ xin Người làm một dấu lạ, này đây Đức Giêsu và các môn đệ sang miền đất dân ngoại, phía nguồn sông Giođan. Césarée Philipphe là thành phố mới được xây dựng do kinh phí của hoàng tử Philipphe, con của vua Hêrôđê Cả, có ý tôn vinh hoàng đế Rôma, nên đã đặt tên là Césarée. C. Tassin chú giải: Dân ở đây là người Siri gốc Hy Lạp, họ thờ cúng thần Pan và thần Nymphe, tạo nên một khung cảnh gần giống với môi trường mà Matthêu đang sống (L’Evange le de Matthieu” (Centurion, trang 173).
Chính tại đây, trước khi khởi hành đi Giêrusalem trong cuộc hành trình cuối cùng mà Đức Giêsu đặt câu hỏi quan trọng mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay.
– Con Người- Đức Giêsu hỏi, người ta bảo Con Người là ai?
+ Chúa đã dùng hình ảnh “Con Người”, một hình ảnh mầu nhiệm (xem Danien 7,13) mà Matthêu nhắc lại tới 30 lần trong chính Tin Mừng của ông, để nói về chính mình và sứ mạng của Người: một con người thực thụ có tương quan với Thiên Chúa Đấng Cứu độ.
+ Để đáp lại câu hỏi, các môn đệ đã nêu ra một loạt các ý kiến về Người. Mọi ý kiến đều coi Người là một nhân vật đóng vai trò quan trọng, như là Gioan Tẩy Giả đã sống lại từ cõi kẻ chết, như ngôn sứ Êlia mà dân chúng trông đợi trở lại để loan báo Chúa Cứu thế đến, như ngôn sứ Giêrêmia, một vị ngôn sứ phản kháng vì bị phản kháng, như một ngôn sứ nào đó.
– Còn anh em, Đức Giêsu hỏi thẳng ý kiến các ông, anh em bảo Thầy là ai? – Simon Phêrô trả lời, tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lúc này ông không những là phát ngôn viên của nhóm môn đệ, nhưng còn là gương mẫu cho việc tuyên xưng đức tin Kitô hữu.
Lời đáp của Phêrô, theo C. Tassin, nhắc lại một mẩu tuyên tín phụng vụ của Hội Thánh thời Matthêu (sđd). Trong đó người Kitô hữu tuyên xưng đức tin cách toàn vẹn.
* “Thầy là Đấng Messia” (tiếng Hy Lạp Christos) nghĩa là Đấng được xức dầu mà các ngôn sứ đã tiên báo; Đấng đáp ứng lòng mong đợi bao thế kỷ của Israel, Đấng thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa nói với dân Người.
* “Con” nghĩa là Đấng liên kết với Thiên Chúa bằng một dây liên hệ có một không hai.
* “Của Thiên Chúa hằng sống” nghĩa là, theo truyền thống Kinh Thánh, là Thiên Chúa ban sự sống, còn theo quan niệm Kitô giáo, là Thiên Chúa, Đấng làm cho Đức Giêsu từ trong cõi kẻ chết sống lại.
– “Con có phúc”, Đức Giêsu đã thốt lên câu đó, cũng là dạng thức Kinh Thánh của “Bát phúc” để chào mừng “con của Giona”, là người vừa nhìn nhận Người như “con của Thiên Chúa hằng sống”. Bởi vì Simon Phêrô không có thể công bố lời tuyên xưng này phát xuất từ thịt và máu, nghĩa là phát xuất từ bản tính nhân loại yếu giòn, nhưng chỉ có thể phát xuất từ cuộc mạc khải thần thiêng. “Bản văn không đề xuất cho Phêrô công lao đặc biệt nào, cũng không đề cao ông như một anh hùng của đức tin. Tác giả chỉ nhấn mạnh tính chính xác của đức tin nơi Phêrô, bởi vì nó đến từ một mạc khải thần thiêng” (C. Tassin).
*2) Sứ mạng “đá” nền tảng của Phêrô.
Những lời long trọng mà Đức Giêsu phán chỉ về Simon Phêrô chỉ có trong Tin Mừng Matthêu.
“Anh là đá, trên đá này…”.
+ Trong Kinh Thánh sự thay tên đổi họ thường chỉ rằng sứ mạng Thiên Chúa trao làm cho người nhận thành một người mới. Cũng như Abram, khi được đổi thành Abraham thì thấy mình được giao sứ mạng trở nên “tảng đá duy nhất”, từ đó phát xuất cả một dân tộc (Is 51,1-2).
+ Trong ngôn ngữ Aramê “Kê-pha” “Đá” không phải là một tên riêng, nhưng chỉ là một danh từ. Đặt cho ông cái tên mới này, nó sẽ thay thế hẳn tên cũ, Đức Giêsu tỏ cho thấy Người giao cho ông một sứ mạng: ông sẽ là đá nền, đá tảng, đá sẽ bảo đảm cho toà nhà mà Người sẽ xây dựng được vững chắc.
“Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…”.
+ Trong Kinh Thánh, từ “Hội Thánh” (nguyên ngữ mang ý nghĩa mời dự hội) chỉ cộng đoàn tôn giáo của Israel, cộng đoàn mà Thiên Chúa đã quy tụ giữa loài người để trở thành dân của Giao ước, dân -dấu chỉ lòng thương xót và tình thương của Thiên Chúa-.
+ Từ ngữ này được dùng ở đây, lần đầu tiên trong Tin Mừng Matthêu, ở trên đất ngoại giáo, để chỉ cộng đồng những người mà Đức Giêsu quy tụ, giữa các dân tộc tràn qua mọi biên giới để làm nên một dân của Giao ước mới, dân -dấu chỉ ơn cứu độ cho mọi người-.
Nếu cộng đồng này đứng trên tảng đá Phêrô thì quyền lực của sự chết cũng không thể phá đổ được.
“Thầy ban cho con chìa khá Nước Trời”.
+ Không nên nghĩ đến những chiếc chìa khóa hiện đại thời chúng ta, mà phải nghĩ đến những chìa khóa của những thành phố cổ, những lâu đài vua chúa. Loại chìa khóa giống như những thanh sắt khổng lồ mà người ta mang trên vai. Trao chìa khóa cho ai là trao cho người đó nhiệm vụ thủ tướng.
+ Trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, Đức Giêsu làm cho Phêrô thành thủ tướng. Người trao cho ông quyền lực chính Người nắm giữ, như sách Khải Huyền diễn tả: “Đấng Chân Thật, Đấng Thánh, Đấng giữ chìa khóa của Đavit. Người mở ra thì không ai đóng lại được. Người đóng lại thì không ai mở ra được” (đoạn văn có liên quan với 22 trong bài đọc I).
Chức vụ trao cho ông ở đây là ở dưới đất; ông không phải người canh giữ cửa thiên đàng (C.Tassin): Phêrô là người bảo lãnh, là thông dịch viên của sứ điệp cứu rỗi của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
“Sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”.
‘Cầm buộc’, ‘Cởi mở’ là những thuật ngữ vùng Palestine chỉ ý nghĩa đại khái: toàn bộ quyền lực, như thiết lập luật pháp, như loại trừ một ai ra khỏi cộng đoàn hoặc cho phép một ai gia nhập cộng đoàn.
+ Trong Mt 18,18 quyền cầm buộc cởi mở được hứa ban cho các môn đệ (ở số nhiều) như vậy không chỉ dành riêng cho Phêrô, nhưng Phêrô chia sẻ quyền đó với những người phụ trách khác.
* Dặn dò giữ im lặng
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kết thúc bằng một lời khuyến dụ ngược đời: “đừng nói với ai Người là Đấng Messia”. Tại sao có lời khuyến cáo này sau cuộc tuyên xưng đức tin cảm động như vậy? Chắc hẳn danh xưng “Messia” còn mang ý nghĩa mơ hồ, còn mang nhiều trông đợi có tính dân tộc quá khích, đi ngược lại sứ mạng mà Người nhận được từ Chúa Cha – phản ứng của Phêrô mà ta sẽ đọc trong Chúa nhật tới minh chứng điều đó.
Chỉ những ai mở tâm hồn đón nhận mạc khải thập giá mới hiểu chính xác danh xưng ấy. Thật vậy, chỉ dưới ánh sáng của cuộc Khổ nạn – Phục sinh, danh xưng Messia mới tìm thấy ý nghĩa đích thực, và mọi ngộ nhận sẽ vĩnh viễn bị dẹp tan.
BÀI ĐỌC THÊM:
*1) “Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mgr. Daloz, trong cuốn “Le règne de Dieu est approché” Desclée de Brouwer 1993, trang 237-238).
“Đức Giêsu không chỉ là một tôn sư khởi xướng một trào lưu tâm linh; Người không phải một ngôn sứ được sai đến để cảnh tỉnh hoặc kêu gọi người ta trưởng thành với giao ước. Sự nhận biết Đức Giêsu vượt quá điều đó. Với những kẻ Chúa gọi và đã đi theo Người, Chúa đặt câu hỏi: Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai? Người cũng hỏi chúng ta câu đó. Người muốn chúng ta tiến tới, phát huy trong việc khám phá ra bản ngã đích thực của Người. Ta không thể tự thoả mãn khoác cho Người những mong ước của ta, hoặc phóng lên Người những ước vọng của ta. Cần phải đi xa hơn những ý kiến của những con người, cần lột bỏ những ấn tượng hời hợt, cần chấp nhận rằng không thể nắm bắt và không thể tóm gọn Người vào những ý tưởng và những ước muốn của ta. Như ta đã thấy đó, có một hiểu biết về Đức Giêsu theo cách loài người “Người ta bảo Thầy là ai?”. Từ thời Thượng cổ, trải qua giai đoạn lịch sử đã có rất nhiều câu giải đáp. Những giải đáp ấy vừa không vô nghĩa, vừa không đáng coi thường. Nhưng sự hiểu biết đích thực không chỉ của loài người đâu – Nó là do Thiên Chúa ban cho: “Không ai có thể biết Chúa Con chỉ trừ Chúa Cha” (11,27). Bởi vậy Đức Giêsu nói cho Phêrô biết do đâu ông có sức lực nhận biết và tuyên xưng đức tin của ông: “Simon con Giona, phúc cho con, vì không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con điều đó, nhưng là chính Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Một con người, con người rặt, chính miệng Simon con ông Giona, nhận quyền do Thiên Chúa; quyền kêu đích danh xác thật của Đức Giêsu – Lời tuyên xưng của ông đã trở thành tiêu chuẩn cho các môn đệ Chúa mọi thời đại. Nhưng lời tuyên xưng nó đã không tránh cho ông chối Chúa 3 lần. Ông vẫn còn là con người phàm tục – còn mang tính người với những ưu và khuyết điểm của con người. Tuy nhiên ông được chọn để đáp câu hỏi của Đức Giêsu và để làm điều đó ông nhận được mạc khải do Chúa Cha ban – Từ đó ông trở nên tiêu chuẩn về sự chính xác cho mọi lời tuyên xưng đức tin và cho sự nhận biết chính xác về Thiên Chúa. Nhờ ông mà người tín hữu có thể vượt xa ngoài tầm vóc những lời người ta dư luận. Đức tin của ông nâng đỡ đức tin của chúng ta”.
*2) “Con là Đá” (J.Potin trong cuốn “Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, 1994, trang 322).
Hội Thánh của Đức Giêsu, ở đây Người kêu là “Hội Thánh của Người”, được xây dựng trên nền tảng là đức tin vào thiên tính của Người. Hội Thánh đó chỉ một mảng dân Israel chấp nhận đi vào giao ước mới. Simon, do việc tuyên xưng, đã trở nên viên đá tảng, trên đó Đức Giêsu xây “Hội Thánh của Người” bởi vì Hội Thánh đó là cộng đoàn những kẻ tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ông nhận được tên mới: Kêpha, Đá – Quyền lực của tử thần (dịch theo chữ: quyền lực hoả ngục), nghĩa là mọi thế lực nhằm chống lại sự thiết lập vương quốc, không có sức phá đổ Hội Thánh đó. Mà ngược lại, Đức Giêsu sẽ ban cho Hội Thánh của Người quyền và thế mà Ngài thi hành ở trong tay Người. Thiên Chúa công nhận Hội Thánh của Con của Người chính thức là dụng cụ đặc trưng để điều hành vương quốc của Người giữa loài người. Những phát quyết và nghị định của Hội Thánh này được Thiên Chúa công nhận là do Chúa ban hành.
Phải chăng Đức Giêsu phán những lời này trong khi đi đường lên Giêrusalem? Có nhiều nhà chú giải đặt những lời này sau biến cố Phục sinh, trong một cuộc hiện ra. Thật vậy, trước khi Chúa chết, từ “Hội Thánh chỉ thấy xuất hiện có một lần duy nhất ở Mt 18,17 nói về đời sống của cộng đồng Kitô hữu.
Lời tuyên bố với Phêrô xem ra diễn tả cách Hội Thánh sơ khai hiểu về chính mình: Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Simon Phêrô đã là phát ngôn viên của lời tuyên xưng. Lời tuyên bố cũng có liên hệ với việc đổi tên Simon ra Kêpha: Đá. Trong tiếng Aramê, Đá không phải là một tên riêng. Tên mới này chí tính cách vững bền của đá tảng mà người ta có thể xây an tâm trên đó… Phêrô là đá tảng mà Đức Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người. Do đó Người sẽ trao ông địa vị ưu tiên trên nhóm Mười Hai. Ông được Hội Thánh nhìn nhận dưới cái tên mới và coi như quên hẳn cái tên cũ kia”.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A
TRAO BAN QUYỀN LÃNH ĐẠO(*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này có thể được gọi là trao ban quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Is 22: 19-23
Bản văn I-sai-a gợi lên lễ tấn phong “tổng giám quản hoàng cung” của vương quốc Giu-đa, viên quan nầy sẽ thực hiện quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Rm 11: 33-36
Trong đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Rô-ma, bài thánh thi ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa kết thúc phần đạo lý của thư gởi tín hữu Rô-ma.
Mt 16: 13-20
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su trao quyền lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)
Bài Đọc I hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan nầy quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a đề cập đến chắc chắn được định vị vào cuối thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của đạo quân Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa.
Chính Thiên Chúa truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” vào lúc đó mà trao cho ông En-gia-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài.
“Đức Chúa phán: ‘Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ,
Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.
Ngày ấy Ta sẽ gọi tôi tớ Ta
là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu’”.
Câu chuyện nầy có hai đặc trưng:
-Mô tả lễ tấn phong.
-Hậu cảnh Mê-si-a.
*1.Mô tả lễ tấn phong:
“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó;
cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y;
quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó”
Xem ra vị quyền cao chức trọng nầy mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định địa vị và quyền hành của ông.
“Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”. Chắc chắn, ở đây, muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình.
“Chìa khóa nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày vua đăng quang. Chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền lãnh đạo của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích thiên sai.
*2.Hậu cảnh thiên sai:
Phần cuối bài thơ được giải thích trong ánh sáng thiên sai:
“Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai nó.
Nó mở ra thì không ai đóng được,
nó đóng lại thì không ai mở được.
Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột,
nó sẽ làm nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó”
Những biểu thức nầy được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một vị hoàng tử. Nhưng nếu như phải chăng đây thật sự là một vị “hoàng tử của vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích đấng giữ “chìa khóa nhà Đa-vít” theo nghĩa Mê-si-a. Quả thật, sách Khải Huyền đã giải thích bản văn theo truyền thống nầy, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Tiếp theo sách Khải Huyền, các Giáo Phụ đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh Mê-si-a nầy.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)
Bài thánh thi nầy tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo lý của thư gởi tín hữu Rô-ma.
*1.Ơn Cứu Độ cho người Do thái:
Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định nầy đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: việc dân Ít-ra-en bất phục tùng lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, kế hoạch dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.
*2.Niềm cảm tạ tri ân:
Từ đó, làm thế nào không cất lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi được chứ? Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phao-lô diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình. Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị âm vang trong tâm trí của thánh nhân:
“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi?
Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13).
Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,
tính chung lại, ôi nhiều vô kể.” (Tv 139: 6, 17).
*3.Lời chúc tụng:
Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca nầy với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men”. Câu “Vinh Tụng Ca” nầy với những thuật ngữ riêng chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xuyết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca nầy cũng có thể được kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi gợi hứng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)
Vì các Biệt phái và Kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực, và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tỉnh để được sống riêng tư mật thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền cai trị của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị mực thước và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp nầy đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gu-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố nầy được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp-phê”.
Trong lãnh địa nầy, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình nầy, Ngài bắt chuyện với các ông. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện nầy vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.
*1.Thăm dò dư luận.
Trước khi đề cập chi tiết cuộc chuyện trò giữa Thầy và trò, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện đã xảy ra trước đó ngõ hầu hiểu rõ tầm quan trọng lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ở đây. Sự kiện thứ nhất được thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6: 67-69).
Sự kiện thứ hai đặc biệt chỉ dành riêng cho các môn đệ thân tính của Ngài khi Ngài đi trên mặt biển và dẹp yên phong ba bảo tố. Trong sự kiện này, thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và lao mình xuống mặt biển sóng to gió lớn để gặp Ngài. Sau cùng, tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33).
Liệu đức tin mà các ông tuyên xưng trong những giây phút cảm kích này còn động lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Đức Giê-su sắp dò xét tâm tư tình cảm của họ. Nhưng trước tiên, Ngài thăm dò tâm tư tình cảm của đám đông dân chúng đối với Ngài, vừa để tạo cơ hội cho các ông trả lời cách chân thật cho câu hỏi thiết yếu của Ngài, đồng thời giúp các môn đệ hiểu biết sâu xa hơn đức tin của họ phải thoát khỏi thế kềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào.
Kẻ thì nói Ngài là ông Gio-an Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc nhớ tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ông Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin nầy dựa trên Ml 4: 5: “Đây Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Ta đến, ngày vĩ đại và kinh hoàng.” Có người lại cho Ngài là ông Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất trong ba thánh ký nhất lãm nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện nầy (x. Mt 16: 14; Mc 8: 28: Lc 9: 19). 2Mcb 15: 13-16 chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (Xh 32: 11).
*2.Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô.
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Đây mới thật sự là câu hỏi cốt yếu Đức Giê-su nhắm đến trong cuộc trò chuyện thân mật này. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, nhân danh các bạn thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là danh xưng phiên âm từ Hy-ngữ: “Christos” xuất xứ từ nguyên ngữ Híp-ri: “Mesiah” có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là cách nói tiêu biểu Cựu Ước, nhắc nhở rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng bất động của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng nầy, thánh Phê-rô nhận ra vừa “tước vị Mê-si-a” vừa “tử hệ thần linh” của Đức Giê-su: Ngài không đơn giản chỉ là một con người được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Mê-si-a có nguồn gốc thần linh.
Đức Giê-su tán dương đức tin nầy và ơn linh ứng siêu nhiên mà thánh Phê-rô đón nhận: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói: “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu hèn của kiếp người. Như vậy, việc thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đức Ki tô, Con Thiên Chúa hằng sống không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải.
Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được Đức Giê-su xác nhận. Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài. Vài ngày sau đó, Ngài sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự vào biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp-phê.
*3.Tấn phong thánh Phê-rô:
Phần cuối của câu chuyện nầy, được gọi là việc tấn phong Phê-rô, chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội. Khoa chú giải Công Giáo giải thích cuộc tấn phong của thánh Phê-rô có hiệu lực không chỉ riêng đối với vị lãnh đạo của các Tông Đồ, nhưng còn đối với những người kế vị thánh nhân: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Képha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Képha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng. Khi nâng danh từ “képha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Képha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên ông từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên của một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy và trao quan cho người ấy một sứ mạng mới, như vậy, một con người mới và một vận mệnh mới: Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay của Giáo Hội Ngài.
Khi tuyên bố: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”, Đức Giê-su khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”: Hình ảnh nầy chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao phó cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng gia, ông có nhiệm vụ coi sóc và điều hành dinh thự hoàng gia. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và điều hành Giáo Hội của Đức Kitô.
“Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”: “Ngăn cấm” và “cho phép” được dịch theo sát từ là “buộc” và “tháo”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” khi áp dụng chúng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.
*4.Ba truyền thống Tin Mừng về quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô:
Ba bản văn Tin Mừng thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô dựa trên lòng tin, niềm hy vọng và lòng mến của thánh Phê-rô:
1-Bản văn của thánh Mát-thêu mà chúng ta vừa mới đọc nhấn mạnh lòng tin, trong đó, Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô: “Anh là Đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy…”căn cứ trên lời tuyên xưng đức tin của thánh nhân: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15).
2-Bản văn của thánh Lu-ca nêu bật niềm hy vọng, trong đó Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô trước khi bước vào con đường thương khó, khi căn dặn với chỉ một mình thánh nhân cách long trọng: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 31-32). Qua lời này, Đức Giê-su nhắc nhở thánh nhân không bao giờ được mất đi niềm hy vọng ở nơi mình, nhưng còn phải là động lực khơi lên niềm hy vọng của anh em mình.
3-Bản văn của thánh Gioan thắp sáng lòng mến, trong đó Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền lãnh đạo của Phê-rô trên toàn thể Giáo Hội của Ngài: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21: 15, 16, 17) dựa trên ba lần lời cam kết tràn đầy lòng mến của thánh Phê-rô đối với Ngài: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21: 15-17).
Cả ba truyền thống: đức tin, đức cậy và đức mến, bổ túc cho nhau hội đủ ba đức tính của nhà lãnh đạo Giáo Hội. Đó cũng là nền tảng vững chắc của toàn thể Giáo Hội Đức Giê-su Ki-tô mà không thế lực trần thế nào có thể làm lay chuyển được.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : Thiên Chúa trao nhiệm vụ cai quản đền thờ cho Sobna.
– Đáp ca : Lời cầu xin Chúa cho kẻ khiêm nhường đang chăm lo công việc Chúa giao.
– Tin Mừng : Đức Giêsu trao nhiệm vụ lãnh đạo Hội Thánh cho Phêrô.
Anh chị em thân mến
Trong anh chị em đang hiện diện ở đây, có người làm cha, có người làm mẹ, có người làm con… người nào cũng có trách nhiệm trong gia đình.
Đối với giáo xứ, có người được giao trọng trách trong Hội đồng giáo xứ, trong ban trị sự khu xóm, trong các giới các đoàn thể. Những người khác không có chức tước, nhưng cũng có trách nhiệm xây dựng giáo xứ và Giáo Hội. Ai cũng có trách nhiệm.
Đối với xã hội và đất nước cũng thế… Không ai được quyền chỉ lo cho mình hoặc chờ người khác lo cho mình. Ai ai cũng có trách nhiệm với người khác.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm của mình, và xin Ngài giúp sức để chúng ta chu toàn trách nhiệm ấy.
– Chúng ta thiếu sót rất nhiều về trách nhiệm đối với gia đình.
– Chúng ta còn thiếu sót hơn nữa trong trách nhiệm đối với xã hội và Giáo Hội.
– Nhất là chúng ta có khuynh hướng ích kỷ, lo cho bản thân nhiều hơn lo cho người khác.
Thời vua Eâdêkia làm vua nước Giuđa (thế kỷ thứ 8 trước công nguyên), Sobna làm quan cai đền thờ. Vì ông này không xứng đáng nên bị cách chức, và chức vụ này được trao cho một người khác tên là Eâliakim.
Những điều đáng chú ý trong chuyện này là :
– Chính Thiên Chúa trao trách nhiệm cho con người : mặc dù Eâliakim phục vụ cho vua Eâdêkia, nhưng trách nhiệm của Eâliakim không phải do vua trao, mà do chính Thiên Chúa.
– Khi Thiên Chúa trao trách nhiệm cho ai thì Ngài cũng ban cho người đó những trợ giúp cần thiết để có thể chu toàn trách nhiệm : Ngài trao cho Eâliakim “áo choàng” và “đai lưng”, tức là những thứ bề ngoài để người lãnh trách nhiệm có một tư cách được người ta nhìn nhận ; Ngài cũng trao cho Eâliakim “chìa khóa”, nghĩa là thẩm quyền để hành xử trong phạm vi trách nhiệm của mình ; Ngài còn hứa “sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh”, nghĩa là che chở, trợ giúp để ông thi hành trách nhiệm.
Lời cầu xin Chúa cho kẻ khiêm nhường đang chăm lo công việc Chúa giao : “Lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa”.
Đức Giêsu trao cho Phêrô “chìa khóa Nước Trời”, nghĩa là ông được làm người quản trị của Hội Thánh mà Ngài sẽ thành lập. Việc trao trách nhiệm này có một số điều đáng ta lưu ý :
– Phêrô được giao trách nhiệm sau khi tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu : “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” à Người lãnh trách nhiệm của Chúa phải có đức tin vào Chúa.
– Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa sẽ hỗ trợ cho trách nhiệm của Phêrô : “Điều gì con cầm buộc… trên trời cũng cầm buộc ; điều gì con tháo cởi… trên trời cũng tháo cởi”.
– Tuy nhiên người lãnh trách nhiệm không hẳn là người hoàn toán xứng đáng, thánh thiện : vừa được trao trách nhiệm cao cả, đã can gián Chúa chịu nạn chịu chết và bị Ngài quở trách nặng lời : “Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy”.
*4. Bài đọc II (Rm 11,33-36) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô ca tụng sự khôn ngoan vô cùng của Chúa : “Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa. Sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được”
*1. Mỗi người chúng ta cũng là một viên đá sống động
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng Thánh Phêrô đã được Đức Giêsu chọn làm tảng đá để xây dựng Hội Thánh của Ngài trên đó. Nhưng ngoài tảng đá Phêrô, Chúa còn xây dựng Hội Thánh của Ngài trên tảng đá nào khác nữa không ? Đây là một câu hỏi thú vị. Câu hỏi thú vị này lại có câu trả lời thú vị không kém, mà lại là câu trả lời của chính tảng đá Phêrô : Thưa có, mỗi kitô hữu cũng là một viên đá để xây dựng Hội Thánh. Nguyên văn câu nói của Phêrô trong thư thứ nhất của ngài là : “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1 Pr 2,5)
Như thế, thánh Phêrô không dành độc quyền xây dựng Hội Thánh mà chia quyền ấy cho mọi kitô hữu. Công đồng Vaticanô II cũng nói không khác với Phêrô : mọi kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội Thánh, mỗi người trong cương vị của mình, hoàn cảnh của mình và theo khả năng của mình.
Có một bài cầu nguyện rất đặc biệt mà tôi đã đọc trong một quyển sách. Tôi không còn nhớ tựa đề quyển sách đó, cũng không nhớ tên tác giả, nhưng vẫn nhớ nội dung lời cầu nguyện ấy mặc dù không nhớ kỹ từng lời. Đó là lời cầu nguyện của một viên gạch. Viên gạch này nằm sát chân tường. Đôi khi nó nhìn lên những viên gạch khác và trong lòng nó chợt nảy ra những so sánh, những ước ao, và nó cầu nguyện như sau :
Lạy Chúa, con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát dưới chân tường.
Con không được như viên gạch xây cửa, ở ngay tầm mắt người ta.
Con không được như viên gạch xây mặt tiền, hãnh diện nhìn người qua kẻ lại và sung sướng được người ta khen đẹp.
Con không được như viên gạch trong phòng khách, hàng ngày được người ta lau chùi đánh bóng.
Con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát chân tường.
Nhưng viên gạch ấy đã suy nghĩ, rồi nó cầu nguyện thêm :
Nhưng lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con. Con mừng vì con cũng có góp phần trong ngôi nhà xinh đẹp này. Không có phần nhỏ bé và âm thầm của con thì bức tường sẽ đổ, ngôi nhà sẽ sập. Mặt tiền xinh đẹp kia không còn, cánh cửa xinh đẹp kia không còn, phòng khách xinh đẹp kia cũng không còn.
Bài Tin Mừng về việc Chúa chọn Phêrô làm đá tảng xây dựng Hội Thánh khiến ta liên tưởng tới một đoạn Tin Mừng khác, Đức Giêsu nói về việc xây nhà trên đá (Mt 7,24-27).
Xây nhà trên đá là gì ? Thưa là biết lắng nghe Lời Chúa và nhất là sau đó đem Lời Chúa ra thi hành. Đức Giêsu bảo người đó là người khôn. Còn kẻ nào không lắng nghe Lời Chúa và nhất là không thi hành lời Chúa thì giống như người ngu xây nhà trên cát.
Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm xây dựng Giáo Hội, xây dựng giáo xứ, xây dựng xã hội và xây dựng gia đình. Việc xây dựng đầu tiên, làm nền tảng cho mọi cuộc xây dựng tiếp theo, chính là nỗ lực lắng nghe và sống Lời Chúa.
*3. Đừng là gánh nặng cho nhau, mà hãy là đá để thành chỗ dựa cho nhau
Trong cuộc sống chung, khi mọi việc đều êm xuôi tốt đẹp thì hòa thuận yêu thương nhau rất là dễ, hạnh phúc như đang bao bọc chung quanh mình. Nhưng khi khó khăn xảy đến thì mọi người đều buồn phiền, bực bội, gắt gỏng… Một chuyện nhỏ cũng có thể gây nên một xung đột lớn. Tại sao thế ?
Thưa vì trong những lúc khó khăn như thế, người ta chỉ còn nghĩ đến nỗi khổ của mình mà không còn nghĩ đến người khác, người ta chỉ nhớ rằng người khác phải có trách nhiệm với mình mà quên rằng mình cũng có trách nhiệm với người khác.
Ai nấy cũng đã khổ rồi, sao còn vô tình làm khổ nhau thêm ? Phải chi mỗi người nhớ đến trách nhiệm của mình để đến an ủi người khác, san xẻ gánh nặng của người khác, và trở thành chỗ dựa cho người khác thì tốt hơn biết mấy !
Hạnh phúc không phải do thụ động chờ mà tới. Hạnh phúc phải do con người xây dựng, người này xây dựng cho người kia, mọi người xây dựng cho nhau.
a/ Trách nhiệm âm thầm
Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 đồng một tháng.
Sau một hồi vãng cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân : do người phu quét là rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa. (Trích “Phúc”)
b/ Trung thành với trách nhiệm
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó Hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói : “Không biết hôm nay có phải là ngày tận thế hay không. Nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu toàn nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh để tiếp tục công cuộc cứu độ của Người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Đức Thánh Cha là đấng kế vị Thánh Phêrô / và thay mặt Chúa Giêsu / hướng dẫn dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa luôn gìn giữ Người khỏi mọi hiểm nguy / và giúp đỡ Người chu toàn trọng trách của mình.
2- Các Đức Giám mục là những đấng kế vị các thánh tông đồ / là thầy dạy chân lý cho các kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa luôn soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các ngài trong đời sống mục vụ / vốn đầy dẫy những khó khăn và đau khổ.
3- Tuyên xứng đức tin phải là việc làm thường xuyên của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho các kitô hữu / luôn hiên ngang sống đức ái đã lãnh nhận / bất chấp những thử thách cam go trong cuộc sống thường ngày.
4- Bổn phận của người kitô hữu là luôn yêu mến / vâng lời / và bênh vực Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn trung thành với Hội Thánh / mến yêu hàng giáo phẩm / nhất là biết tích cực cộng tác với các ngài trong việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô.
CT : Lạy Chúa, theo Thánh Gioan Tông đồ, tin không phải là tuân giữ một số điều răn, nhưng là gắn bó và dấn thân theo Chúa. Xin cho tất cả chúng con biết cố gắng sống trọn vẹn niềm tin mà thánh Gioan đã nhắc nhở chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN-A
PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia”: Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ”, xin xem chú thích của BJ).
“Ta là ai “: Đừng mặc cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
“Con Thiên Chúa hằng sống”: Câu thêm này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ nhất dựa trên các lý do như sau:
1/ Trong lúc các chỗ khác trong Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa” (Fils de Dieu) (4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc thần linh của Người.
2/ Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.
3/ Có một trường hợp duy nhất khác trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).
4/ Ta không hiểu được tại sao một mặc khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của Chúa Giêsu thôi (c.17).
5/ Người ta không bao giờ minh chứng thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không phải thần tính của Chúa Giêsu.
Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.
Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như sau:
1/ Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của Gioan.
2/ Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?
3/ Xem ra hơi táo bạo khi gán quá nhiều ý nghĩa cho mạo từ “Người” (Lc) trong thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.
4/ Cái mà vị thượng tế xem là phạm thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa” (Le Fils de Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu Thiên Chúa với tư cách là “Chúa” của Tv 110, và với tư cách là nhân vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x. chú thích của BJ); v.v…
Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh), nhưng sau đấy “được đọc lại” dưới ánh sáng Phục sinh và được giải thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói ‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.
“Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta”: Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).
Đổi tên như vậy là một chuyện thường xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds 13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.
Các thành ngữ tảng đá móng và xây, theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai “Ta sẽ xây” có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.
“Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục) sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai; đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G 38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)
Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28, 20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.
“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.
KẾT LUẬN
Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc” và “tháo cởi”, nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chắc chắn Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô, vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.
2) Sau khi nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.
3) Giáo Hội không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.
4) Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong khắp cả thế gian.
5) Giáo Hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.
6) Dù Giáo Hội còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A
HỘI THÁNH CỦA CHÚA– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối. Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng, nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A
ĐỨC TIN VỮNG NHƯ ĐÁ- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Khi nhận một chức vụ to lớn, người ta phải long trọng tuyên thệ trước toàn dân, trước pháp luật, dù Chủ tịch hay Tổng thống cũng phải nghiêm chỉnh tuyên thệ làm tròn sứ mệnh quốc dân trao phó.
Phêrô trước khi được Thầy đặt làm đá tảng xây tòa nhà Giáo hội, đã phải quyết liệt tuyên xưng đức tin chân thật của mình: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Những người khác chỉ biết Thầy là Gioan tẩy giả, Thầy là Elia, Giêrêmia hay một tiên tri nào khác. Họ coi Thầy là một người phàm trần, một người nổi hơn người khác về chức vụ. Họ không thể nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa đến cứu độ trần gian.
Riêng Phêrô, ông đã tuyên xưng rõ rệt và dứt khoát Thầy là Đấng hằng sống như xưa Thiên Chúa đã tỏ cho Môsê biết: “Ta là Đấng tự hữu, Đấng hằng có”. Đấng ban sự sống, sự hiện hữu cho muôn loài. Chỉ có Đấng hằng sống mới cứu con người khỏi chết, Phêrô đã nhận ra Đấng ban sự sống cho mình, ông không còn sợ chết nữa.
Ông đã trở nên bất tử, sống trường tồn vững chắc như đá tảng để Thầy xây Hội thánh vững mạnh đến muôn đời. Đồng thời ông cũng là người được nắm giữ chìa khóa nước Trời hằng sống đó.
Chìa khóa đó cũng chính là đức tin của ông, xin ông trao ban chìa khóa đức tin ấy cho chúng tôi để chúng tôi cũng được mơ ước hằng sống cho mình và nhiều người. Chính ông không có chìa khóa đức tin đó. Máu huyết của ông thuộc loài hay chết và không có xác phàm nào cho ông được đức tin hằng sống đó. Chỉ có Cha Thầy là Đấng hằng sống đã ban chìa khóa hằng sống đó cho ông. Vậy ông đã được không công, thì ông hãy cho chúng tôi cách vô vị lợi để ông xứng đáng làm nền tảng Hội thánh cho muôn dân được hằng sống.
Êlyakim trong Bài đọc I (Is. 22, 19-23), cũng như Phêrô, được Thiên Chúa trao cho chức vụ làm tướng phủ của triều đình vua Êzêkia thay cho Shêbna, để làm sứ giả đi điều đình với quân hùng tướng mạnh của vua Sennakia đang đe dọa xâm chiếm Giêrusalem. Sở dĩ Êlyakim được làm tướng phủ và thành công trong việc cứu dân ông là nhờ ông đã vững tin vào lời Chúa phán cùng tiên tri Isaia rằng: “Đừng sợ những lời lộng ngôn của bầy tôi vua Sennakia, Ta sẽ cho nó linh cảm và nghe tin đồn mà lui về quê quán; và Ta sẽ cho nó ngã gục vào gươm đâm chính ở quê nhà nó” (Is. 37, 6-7).
Êlyakim đã tin lời Chúa và đã cứu dân khỏi chết. Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin vào con Thiên Chúa, đã được làm Thủ tướng tiên khởi của nước Trời.
Chiêm ngưỡng những kỳ công của Thiên Chúa đã làm, Thánh Phaolô đã ca tụng: “Thiên Chúa thật giàu có, khôn ngoan, thông suốt dường bao, vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại. Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. Amen” (Rm. 11, 33. 36 – Bài đọc II).
Lạy Chúa, Chúa đã làm tất cả mọi sự tốt đẹp như khi Chúa tạo dựng trời đất muôn vật: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra: và này tốt lành quá đỗi” (St. 1, 31).
Xin cho con biết chiêm ngắm những công trình kỳ diệu đó như Thánh Phaolô, để xin tôn vinh Chúa suốt đời. Xin cho con biết tuyên xưng đức tin mạnh mẽ như Thánh Phêrô để tham gia vào công cuộc xây dựng Hội thánh, xây dựng nước Trời và biết nghe lời Chúa để làm cho dân tộc được hòa bình hạnh phúc như tướng phủ Êlyakim xưa.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A
TRỞ NÊN “ĐÁ TẢNG” XÂY DỰNG HỘI THÁNH TẠI GIA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
“Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.”
Thế là cho đến lúc đó, chưa có ai trong dân Do-Thái nhận biết thiên tính của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Một câu đáp gây kinh ngạc! Si-môn Phê-rô đã thấu được căn tính của Chúa Giê-su!
Cho đến lúc đó, chỉ có Si-môn Phê-rô là người duy nhất được đặc ân nầy. Vì thế, Chúa Giê-su ca ngợi và chúc mừng: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Cũng như thánh Phê-rô, chúng ta được diễm phúc nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa.
Hôm nay, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta hồng phúc không thua kém gì Phê-rô xưa.
Trong số 90 triệu người Việt Nam, có chừng sáu triệu người công giáo, chiếm 7% dân số. Như thế, cứ một trăm người Việt mới có được bảy người công giáo. Chúng ta may mắn được liệt vào con số ít ỏi nhưng đầy diễm phúc nầy.
Điều mà các vị ngôn sứ tầm cỡ như Ê-li-a, I-sa-i-a, Mô-sê… và ngay cả các nhà hiền triết, các khoa học gia tên tuổi… chưa từng được nghe, chưa từng biết, thì Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta từ lúc mới có trí khôn. Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận đó là đại phúc:
“Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.” (Mt 13, 16-17)
Sở dĩ đây là đại hồng phúc vì hiểu biết Thiên Chúa là chìa khoá đưa đến ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời.
Hồng ân Chúa Cha ban cho chúng ta lớn lao quá đỗi đến nỗi Chúa Giê-su đã từng cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa Cha thay cho chúng ta: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25)
Cũng như thánh Phê-rô xưa, chúng ta được chọn làm “viên đá” xây dựng Hội Thánh.
Bên cạnh hồng phúc nhận biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Si-môn Phê-rô còn được phúc thứ hai là được Chúa chọn làm Đá tảng xây Hội Thánh Chúa: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Từ ngày được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa cũng ưu ái trao ban hồng phúc đó cho mỗi người chúng ta. Chúng ta cũng được liên kết với Chúa Giê-su là “viên đá đỉnh góc” (Mt 21,42), là “viên đá sống động” (I Pr 2,5) để cùng nhau xây lên Đền thờ Thiên Chúa, như lời thánh Phê-rô: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng” (1Pr 2,5)
Noi gương thánh Phê-rô, chúng ta tích cực xây dựng hội thánh tại gia.
Phê-rô là Đá Tảng được Chúa chọn làm nền để xây dựng Hội Thánh hoàn vũ, thì chúng ta cũng là những viên đá khác được Chúa chọn để xây dựng hội thánh nhỏ là gia đình và giáo xứ chúng ta. Thế là trong cương vị người cha người mẹ, người anh chị em trong gia đình, chúng ta trở thành những Phê-rô khác, những “viên đá” khác trong hội thánh tại gia. Hội Thánh toàn cầu được kiên vững nhờ được xây dựng trên Đá tảng Phê-rô thì hội thánh tại gia có được kiên vững hay không là tuỳ vào chúng ta.
Được chọn làm Đá tảng xây dựng Hội Thánh, Phê-rô không thụ động cầu an, nhưng đã anh dũng hy sinh đời mình phụng sự Thiên Chúa và đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Được chọn làm đá tảng như Phê-rô, chúng ta hãy tích cực xây dựng gia đình và xứ đạo chúng ta trở nên một đại gia đình chuyên chăm phục vụ và chan hòa tình yêu thương.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã ban ơn giúp sức cho thánh Phê-rô làm tròn vai trò của người trong cương vị Đá tảng Hội Thánh thì xin Chúa cũng nâng đỡ và giúp sức để chúng con chu toàn vai trò của mình trong cương vị đá tảng của hội thánh tại gia.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN-A
ĐI SAU CHÚA- Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Đang khi dân chúng còn mù mờ về vai trò và con người của Đức Giêsu thì Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi đã mạnh mẽ tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Phêrô được khen là có phúc vì nhận được mạc khải từ trên cao. Thế nhưng chỉ một khoảnh khắc sau, chính Phêrô lại bị Thầy mình trách là “Satan” vì lòng dạ tăm tối, chỉ “hiểu biết những sự thuộc về loài người” và đang “làm cớ cho Thầy vấp phạm”.
Phêrô tuy nhận chân Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng trong cái nhìn của ông, Đấng Cứu Thế sẽ là người hùng mạnh, đánh đông dẹp bắc, chinh phục vua Chúa, thâu tóm quyền hành, và rồi đăng quang thống trị thế giới.
Đức Giêsu hiểu rõ quan niệm trần gian của các tông đồ về Đấng Cứu Thế, nên ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, Ngài cấm các ông nói cho người khác những gì họ mới biết. Ngài muốn giúp các ông thay đổi quan niệm về Đức Kitô. Đức Kitô đúng nghĩa sẽ là đấng phải đau khổ, bị từ khước, chịu giết chết trước khi đi đến toàn thắng. Sức mạnh của Đức Kitô không ở trong binh khí hay chiến mã như bao vua chúa trần gian, song là nơi thập giá khổ đau. Chiến lược của Đức Kitô là đi xuống chỗ tận cùng trong lũng sâu nước mắt của nhân loại để nâng tất cả lên trong vinh quang của Thiên Chúa.
Nhưng nào các tông đồ có hiểu được điều đó! Và đâu phải chỉ có các ông. Chính tôi lắm khi cũng không hiểu nỗi đấy chứ. Tôi cứ nghĩ Chúa là Đấng quyền năng đầy sức mạnh, phải cứu con người khỏi bao gian nan, khốn khổ, trái ý trên đường đời; phải ra tay làm nhiều phép lạ cho người ta tin; chứ đàng này Chúa lại im như bất lực, thậm chí còn để cho dân Chúa, Giáo hội Ngài chịu biết bao thách đố đau thương.
Cũng như Phêrô, tôi muốn chỉ cho Chúa phương cách cứu thế, chứ làm theo kiểu của Chúa thì e rằng chẳng còn ai tin và Ngài sẽ thất bại ê chề.
Cũng như Phêrô, tôi muốn chận Chúa lại, không cho Ngài tiếp tục cuộc hành trình kỳ quặc về Giêrusalem. Tôi muốn “dạy” cho Ngài lối đường nên đi. Tôi muốn Ngài rút bớt điều kiện cho mọi người cảm thấy nhẹ nhàng; cung cấp bánh ăn, của cải vật chất dư đầy cho người ta theo đông; làm nhiều phép lạ, ảo thuật giựt gân cho dân chúng thích thú.
Nhưng Chúa Giêsu quát lên: ‘Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Ta”.
Có hai lần trong đời mình, Chúa Giêsu đã dùng đến chữ “Satan”. Một lần với tên Cám dỗ và lần này với Phêrô. Satan đối nghịch với Thiên Chúa. Satan làm đảo lộn trật tự thế giới. Satan phá hoại chương trình của Thượng Đế nơi con người. Thế nên lời quở mắng “Satan” là lời khiển trách nặng nề nhất.
Nhưng để ý sẽ thấy: trong lần quở mắng tên Cám dỗ, Chúa Giêsu bảo nó “hãy cút đi”, Ngài không còn muốn thấy mặt nó nữa; nhưng khi khiển trách Phêrô, Chúa Giêsu lại nói “hãy lui ra sau Ta”. Như thế Ngài vẫn cho người môn đệ cơ hội hoán đổi hướng nhìn và cách đi. Thay vì đi trước và chỉ lối cho Chúa, tôi phải hướng theo và tiếp bước sau Ngài.
Satan không thể bước theo Chúa vì bản chất kiêu ngạo của nó. Nhưng riêng tôi, dù bao vấp phạm lầm lỡ, dù lắm khi sống theo ý mình, hay từng chạy theo tiếng gọi của quỉ ma, tôi vẫn được ban cho cơ hội làm lại hành trình của người môn đệ Đức Kitô, dẫu biết rằng không môn đệ chân chính nào của Ngài lại không phải mang thập giá: “Ai muốn đi sau Ta thì hãy chối bỏ mình, hãy vác lấy khổ giá mình và theo Ta” (Mt 16:24).
Thánh Phêrô, sau lời khiển trách của Thầy, đã về lại với chỗ đứng đúng nhất của mình: ông không đòi Chúa theo ý mình, song là vâng theo ý Chúa; ông không dẫn đường cho Chúa nhưng là bước theo dấu chân Ngài. Cao điểm của sự “đi theo” này là việc Phêrô chịu đóng đinh thập giá vì Đức Kitô vào năm 69 AD.
Như thế, vị Giáo hoàng tiên khởi, với biết bao yếu đuối sa ngã, cuối cùng đã lấy cái chết của mình để xác minh chân lý thập giá. Từ chỗ muốn dạy cho Thầy mình về sự khôn ngoan của thế gian đến việc khám phá và ôm ấp giá trị sâu xa sự điên rồ của Thiên Chúa. Từ chỗ phủ nhận và ngăn chận Thầy mình bước đi trên con đường khổ đau, đến việc chính mình anh dũng tiến vào. Nhưng nhờ đâu mà Phêrô có được thái độ và hành vi hào hùng đó? Phải chăng chính nhờ niềm xác tín vào Đức Giêsu, Đấng ông đã tuyên xưng. Nếu không có xác tín, hẳn ông đã chẳng dám theo.
Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu thúc đẩy người ta vâng theo lời Ngài. Khi Chúa bảo “Hãy lui ra sau Ta”, Phêrô vâng lời lui ra chứ không giận dỗi bỏ đi. Khi bị mắng là “Satan”, Phêrô vẫn khiêm tốn nhìn nhận tầm nhìn nông cạn của mình chứ không tự ái phản đối.
Thử hỏi tôi có được niềm xác tín làm phát sinh thái độ khiêm tốn và nghe lời Chúa như thế không, hay tôi vẫn khăng khăng chối từ lối đường thập giá?
Một nhà tư tưởng quả quyết: “Luật của thập giá là luật phổ quát. Làm người, không ai thoát khỏi thập giá”. Như thế chối từ thập giá là chối từ làm người đúng nghĩa.
Nhưng phải vác thập giá theo Đức Giêsu-tức là sống theo những giá trị Tin Mừng như vị tha, thanh khiết, chân thật, từ tâm, phục vụ, quên mình…-tôi mới là con người trọn vẹn, một con người phản chiếu dung mạo Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ…- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô: ”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền khen thưởng thánh Phêrô: ”Phêrô, con là Đá trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”.
Con là Đá: Đá ở đây vừa là tảng đá vừa là tên mới của Simon. Trong Kinh Thánh, khi trao nhiệm vụ đặc biệt cho một nhân vật nào thì Thiên Chúa thường đổi tên cho người đó (St 17,5-15. 35,10 . Tv 13,16. 2V 23,34) . Quả vậy, khi đổi tên Simon là Phêrô, tức là Đá,
Chúa có ý chỉ Phêrô sẽ là Đá Tảng vững chắc, trên đó Người sẽ xây Hội thánh của Người và Chúa còn hứa với thánh Phêrô: quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi.
Như vậy Phêrô là một tảng đá, một tảng đá chắc chắn, bền vững và kiên cố.
Phi hành gia James Irwin, lái chiếc phi thuyền Apolo 15 sau khi đã đáp xuống mặt trăng, ông đào được một tạ đá đưa về trái đất, và ông đem đi khắp thế giới để nói về sự thành công vĩ đại của khoa học không gian ngày nay.
Ngày 8 tháng 3 năm 1973, James Irwin đã nói chuyện tại rạp Thống Nhất ở Sàigòn như sau:
Có ba loại đá tượng trưng cho ba lãnh vực:
– Đá mê tín của những người bạc nhược, không tận dụng khả năng của mình, mà chỉ tin vào sức thần thiêng giải quyết trong mọi lãnh vực cuộc sống. Loại đá mê tín này khiến nhiều người lầm lẫn, vì tin rằng cứ rờ vào là khỏi bệnh tật, thoát hoạn nạn, hết rủi ro, được bình an!
– Đá nguyệt cầu (đá lấy từ mặt trăng) tượng trưng cho tài khéo của khối óc và nỗ lực làm việc của con người cộng tác với ơn Chúa.
Sự thành công này, nhiều người đã quá cao vọng, đi đến chỗ cực đoan và kiêu ngạo, tưởng khoa học sẽ giải quyết thoả đáng mọi khát vọng của con người ! Nhưng nếu có ai tài giỏi hơn tôi khi ngồi vào phi thuyền đi vào không gian, mới thấy con người quá nhỏ bé, so với quyền lực của vũ trụ, và số phận người ta quá mỏng manh như bong bóng xà phòng trong không khí ! Do đó phải biết rằng khoa học không bao giờ làm ra được cái máy nói dối, chỉ những kẻ phủ nhận Thiên Chúa mới nói dối mà lại cho là khôn ngoan!
– Đá Kitô. Ngồi vào phi thuyền mới thấy con người không thể cậy dựa hoàn toàn vào sức mạnh của phàm nhân. Hơn lúc nào hết, ngay lúc này chỉ còn trông cậy vào sự nâng đỡ của Thượng Đế cho con người một niềm tin, niềm phó thác và sự bình tĩnh, bởi vì
“Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan? Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con” (Tv 139/138, 7-10).
Do đó ơn Chúa phù trợ giúp cho chuyến bay của tôi được thành công rực rỡ là tôi tin vào Đức Kitô, vì nếu Ngài ngoảnh mặt đi trong chốc lát là tôi chết ngay (Tv 104/103,29)! Vậy ngồi ở trong phi thuyền nếu biết tin vào Đức Kitô để đi đến nơi an toàn, thì người ở trong Hội Thánh tin vào Đức Kitô, chắc chắn được Ngài trợ giúp, điều chỉnh cách sống Đạo, mới có thể bay về tới thiên cung, nơi mọi người tin Chúa đang mong chờ![1]
Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?”, Đây là câu hỏi thứ nhất, nhưng là câu hỏi phụ. Câu hỏi thứ hai quan trọng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ và cũng là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho mỗi người chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết.
Phải, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nếu chúng ta chỉ lặp lại lời của Phêrô thì quá dễ:
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.” Điều quan trọng là Đức Kitô Hằng Sống đó đối với chúng ta như thế nào.
Chúng ta hãy nhìn vào phi hành gia James Irwin diễn tả ra sao:
Khi bay vào không gian ông cảm thấy con người quá nhỏ bé, so với quyền lực của vũ trụ,
và số phận người ta quá mỏng manh như bong bóng xà phòng trong không khí!
Do đó, ông chỉ biết trông cậy và phó thác nơi Chúa và ông đã mượn thánh vịnh 139 để nói lên tâm tình của mình:
“Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan? Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con” (Tv 139/138, 7-10).
Và nếu Ngài ngoảnh mặt đi là tôi biến tan ngay trong cuộc sống này (Tv 104/103,29)!
Niềm tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống là như thế đó.
Kính thưa anh chị em,
Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho xã hội hôm nay rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng Quyền Năng, Ngài đã làm người và đang ở giữa chúng ta. Amen
—————
[1] Câu chuyện của Lm Giuse Đinh Quang Thịnh, truyện góp nhặt trg. 63-64
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN-A
TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 16,13-20) nói với chúng ta những nội dung rất quan trọng liên quan đến đời sống của Hội Thánh.
Hôm ấy, Đức Giêsu đưa các môn đệ đến Xêdarê Philípphê, một thành phố do tiểu vương Hêrôđê Philipphê xây năm 2 tr.CN để kính nhớ hoàng đế Augustô “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (c.13). Người đã không hỏi các ông về ý kiến của đám đông dân chúng về bài giảng trên núi của Người chẳng hạn, hay về một hoạt động nào đó của Người, ví dụ như về phép lạ hóa bánh ra nhiều mới đây… Nhưng Người quan tâm đến ý kiến của đám đông và nhất là của các môn đệ về chính bản thân Người. Điều này cho thấy đây là một vấn đề quan trọng đối với Đức Giêsu.
Các môn đệ nhanh chóng nói cho Đức Giêsu biết đám đông dân chúng nghĩ gì về Người. “Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ” (c.14). Đám đông dân chúng đồng hóa Đức Giêsu với các nhân vật nổi tiếng trong Cựu Ước. Thậm chí có kẻ còn cho rằng Người chính là ông Gioan Tẩy Giả, vốn đã bị giết (x. 14,2), nay tái thế. Có kẻ nói Người là ông Êlia, vị ngôn sứ phải trở lại, theo sấm ngôn do Ml 3,23 và Hc 48,10 loan báo từ trước. Có người bảo Người là ông Giêrêmia, như đã từng xảy ra trong 2Mcb 15,13tt. Nói chung lại, đám đông dân chúng chỉ quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật, cho dù vĩ đại, cũng vẫn chỉ là sự tiếp nối quá khứ; đó là một nhân vật do Thiên Chúa sai đến như các nhân vật vĩ đại trong Cựu Ước mà thôi. Họ chưa nhận ra nơi Đức Giêsu những thực tại mới mẻ chứng tỏ tính cách độc nhất vô nhị của Người, càng không nhận ra nguồn gốc độc đáo và thần linh của Người. Họ không hiểu đúng về con người và sứ mạng của Người.
“Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?. Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (cc.15-16). Câu hỏi thứ hai này hướng trực tiếp về các môn độ. Đức Giêsu muốn biết lập trường và quan niệm của chính các ông về bản thân Người. Các ông đã đi theo Người một thời gian dài, đã chứng kiến những hoạt động của Người, đã được nghe những giáo huấn của Người. Thay mặt anh em, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu câu trả lời của các ông đối với vấn đề quan trọng này. Ông tuyên xưng lòng tin của chính ông và của các anh em ông trong cộng đoàn các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Câu trả lời của ông Phêrô rõ ràng là một lời tuyên xưng đức tin rất hoàn hảo. Trong Mc 8,29 câu trả lời chỉ đơn giản là “Thầy là Đấng Kitô”. Hình như tác giả Mt không hài lòng lắm với câu trả lời đó. Ông bổ túc rõ ràng: “Con Thiên Chúa hằng sống”. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh tư cách là Con Thiên Chúa của Đấng Mêsia (x. 3,17;17,5), không hoàn toàn trùng với quan niệm về Mêsia con vua Đavít như dân chúng nói chung đang mong chờ. Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” không chỉ theo nghĩa là do Thiên Chúa sinh ra, mà trước hết là do Người hành động trong tư cách là chính Thiên Chúa đang hành động. Nói cách khác, công thức “Con Thiên Chúa” ở đây là tương đương với công thức “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Thiên Chúa hằng sống (x. Is 37, 4.17; Hs 2,1; Đn 6,21) thì đối ngược, khác biệt và siêu vượt các ngẫu thần chết chóc: Ngài sống và làm cho sống. Là Con Thiên Chúa hằng sống, Đức Giêsu là Đấng sống và thông ban sự sống đích thực cho con người.
“Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (c.17). Đáp lại lời tuyên xưng của ông Phêrô, Đức Giêsu tuyên bố một mối phúc. Ngài khẳng định Phêrô có phúc vì được lãnh nhận một ơn huệ cao trọng và huyền nhiệm do chính Thiên Chúa ban. Chính Cha của Đức Giêsu, tức là vị Thiên Chúa hằng sống trong lời tuyên xưng của Phêrô, đã mặc khải cho Phêrô biết về căn tính đích thật của Đức Giêsu.
Trong 11,25-27, Đức Giêsu đã dâng lời tạ ơn Cha của Người: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”. Đọc câu 27 của bài Tin Mừng hôm nay trong liên hệ với lời ngợi khen đó, chúng ta biết rằng ông Phêrô đang được đón nhận ân huệ dành cho những người bé mọn, chứ không phải vì ông là kẻ khôn ngoan và thông thái theo kiểu các người Pharisêu và các kinh sư. Nói cách khác, ông Phêrô và các môn đệ anh em của ông không bị nhiễm men, tức là không bị ảnh hưởng, của giáo thuyết của các người Pharisêu và nhóm Xađốc (16,12). Đước chính Thiên Chúa mạc khải, ông Phêrô và các anh em được hiểu biết ý nghĩa sâu xa của những hoạt động và giáo huấn của Đức Giêsu.
“Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” cần được đọc song song với “Cha của chúng con, Đấng ngự trên trời” trong Mt 6,9. Những ai đón nhận từ Chúa Cha mặc khải liên quan đến Đức Giêsu thì đồng thời cũng nhận biết nơi Đức Giêsu dung mạo của chính Chúa Cha; và những ai đón nhận từ Đức Giêsu kinh nghiệm về chính Thiên Chúa là Cha thì sẽ có thể thưa với Thiên Chúa lời Abba thân tình. Chính trong ân huệ và trải nghiệm huyền nhiệm ấy mà ông Phêrô và toàn thể cộng đoàn các môn đệ tuyên xưng lòng tin của mình về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu tiếp tục nói với ông Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Tương ứng với lời tuyên xưng “Thầy là” của ông Phêrô là lời tuyên bố của Đức Giêsu “Anh là”. Đức Giêsu khẳng định ông Phêrô là “Tảng đá” (pêtra), tức là một thực tại chắc chắn, không lay chuyển, không thay đổi. Hội Thánh được Đức Giêsu xây trên nền đá vững chắc ấy. Cộng đoàn những người tuyên xưng cùng một lòng tin mà ông Phêrô vừa tuyên xưng thì được ví như một tòa do chính Đức Giêsu xây dựng trên tảng đá Phêrô. Ông có nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn ấy sự chắc chắn, bền vững, không thay đổi, không lay chuyển, dựa trên ơn huệ là mạc khải của chính Thiên Chúa ban cho những con người bé mọn. Và sự bền vững ấy được bảo đảm bởi chính lời hứa của Đức Giêsu rằng “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
“Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (c.18). Chúng ta thấy thấp thoáng ở đây nội dung của mối phúc cuối cùng trong 5,10t (“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”) và nội dung lời giáo huấn trong 10,28 (“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”). Quyền lực của tử thần, quyền lực của những kẻ bách hại Hội Thánh, quyền lực của những kẻ sỉ vả và vu khống các môn đệ Đức Giêsu, quyền lực của những kẻ chỉ giết được thân xác… sẽ không thể tiêu diệt Hội Thánh, vì Hội Thánh được Đức Giêsu xây dựng trên nền tảng ân huệ lòng tin mà Chúa Cha ban cho những người bé mọn thoe thánh ý Ngài.
Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp cho cộng đoàn sự bền vững, ông Phêrô còn có nhiệm vụ quản lý các mầu nhiệm Nước Trời như một người tôi tớ được Chủ trao cho chìa khóa (x. Is 22,22): “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (c.19).
“Cầm buộc và tháo cởi” là ngôn ngữ của các trường phái rabbi, diễn tả nhiệm vụ cho phép hay ngăn cấm về những điểm còn tranh luận trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng quy về việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời.
Trao cho Phêrô những nhiệm vụ làm đá tảng, giữ chìa khóa và cầm buộc – tháo cởi, Đức Giêsu cho thấy Người không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu trong tình trạng mất hướng, nhưng ban cho cộng đoàn đó người lãnh đạo với những năng quyền và nhiệm vụ lớn lao.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng: ông Simon Phêrô, người thứ nhất và là đại diện cho anh em, tuyên xưng lòng tin vào Đức Giêsu với một công thức diễn đạt hoàn hảo con người và sứ mạng của Người, đã được Đức Giêsu đặt làm đá tảng cho Hội Thánh, làm người quản lý các mầu nhiệm Nước Trời và làm người có quyền bính thực sự trong việc lấy những quyết định liên quan đến những cách hành xử cần thiết để được vào Nước Trời. Với ông, Đức Giêsu xây dựng cộng đồng nhân loại mới, cộng đồng những con người bé mọn tuyên xưng lòng tin vào Người là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Cộng đồng mới này là chính Hội Thánh, sẽ đứng vững trước những sức mạnh tấn công của quyền lực tử thần.
Ý thức về sự cao cả và sự nặng nề của những quyền bính và các nhiệm vụ mà Phêrô đã được trao phó, chúng ta được mời gọi cầu nguyện, vâng phục và hiệp thông sâu xa với Đấng kế vị Thánh Phêrô.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- A
CHÚA GIÊSU LÀ AI TRONG CUỘC ĐỜI TÔI– Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang
Một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi nhà lãnh đạo Trung Hoa rằng: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo?” Ông đáp: “Có ba lý do. Thứ nhất, Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai, Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống. Thứ ba, Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế là vị thẩm phán”. Đó là những lý do và cũng là lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế được lưu truyền trong suốt lịch sử Giáo hội, khởi đầu từ các Tông đồ.
Quả thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không hỏi các Tông đồ: “Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải, là quan trọng nhất trong đời? Nhưng Ngài hỏi: “Các con nói Thầy là ai?” Các Tông đồ đã nói cho Chúa biết dư luận của dân chúng rằng: Kẻ thì nói Chúa là ông Gioan Tẩy giả. Kẻ thì bảo là ông Êlia. Có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ. Vì sao người ta lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Gioan Tẩy giả sống lại? Vì Vua Hêrôđê sau khi nghe những việc Chúa Giêsu đã làm, ông đã xác định đó là Gioan bị Vua chém đầu đã sống lại, cho nên dân cũng nghe theo (Mt 14,1-2: Mc 6,14-16). Tại sao có người nghĩ Chúa Giêsu là ông Êlia? Bởi vì, thời đó, trong niềm mong đợi Đấng Mêsia, người ta luôn mong đợi ngôn sứ Êlia sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến (Ml 3, 23-24). Tại sao có người lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Giêrêmia hay là một trong các ngôn sứ? Vì đối với dân Do Thái, một vị ngôn sứ xuất hiện là dấu chỉ niềm hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung thành với giao ước. Ngài sắp đến viếng thăm cứu chuộc dân Ngài. Rõ ràng, tùy góc cạnh tiếp xúc, tùy trình độ hiểu biết, các người dân có những những câu trả lời khác nhau về Chúa Giêsu. Nhưng những câu trả lời ấy chưa chính xác cho nên Chúa Giêsu hỏi chính các Tông đồ: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Thánh Phêrô đã thay mặt toàn thể anh em khác thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
“Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”, lời tuyên xưng ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha (Mt 9, 1-8 ; Ga 5,17-23 ), vừa là người thật như ta (Pl 2,7; Dt 4,15 ). Ngài có hai bản tính, vừa bản tính Thiên Chúa, vừa bản tính loài người, trong cùng một ngôi vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa (Ga 1,14;20,24-29). Ngài cao trọng biết bao trong chức vụ của Ngài. Ngài còn cao trọng hơn tất cả những tước hiệu, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai yêu tố vững chắc đó là yêu tố tự nhiên và siêu nhiên. Trước hết, yêu tự nhiên: ông Phêrô, người là kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Nào những lần được thấy Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi trên mặt biển và trợ giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Còn yếu tố siêu nhiên của đức tin Phêrô là chính ngài được thêm ánh sáng Chúa Thánh Thần soi dẫn bên trong mà chính Chúa Giêsu đã nói rõ với ông hôm nay: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Đức tin Công giáo của chúng ta trước hết không phải là một vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều mà là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu trong đời sống chúng ta. Cho nên, hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho mỗi người chúng ta rằng: “Con bảo Thầy là ai?” Ngài nhắm thẳng vào mỗi người trong chúng ta, đòi chúng ta phải trả lời. Và câu trả lời của ta không phải là câu trả lời máy móc, không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ, phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm gặp gỡ và sống thân tình với Đức Giêsu. Vì vậy, câu trả lời đúng nhất cho câu hỏi của Chúa Giêsu là hãy sống tận căn thân phận của Chúa Giêsu, tức sống chân thật với Lời Chúa hằng ngày. Cụ thể, ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Chúa Giêsu loan báo con đường duy nhất dành cho người môn đệ đó là con đường Thập Giá mà Chúa đã đi qua. Chúa Giêsu đã sống phận con người với tất cả bấp bênh tăm tối, đã phải chịu đau khổ, chịu hành hạ và sỉ nhục, chịu vác thập giá và chịu chết. Tôi có dám sống chết với phận con người của tôi hay chính hoàn cảnh của tôi giờ này trong cuộc sống hiên tại với niềm vui, tin tưởng và phó thác không? Tôi có dám từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ngài để trọn tình nghĩa với ông, bà cha mẹ, vợ chồng hay con cái trong gia đình tôi chưa? Chúa Giêsu đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng sống của tôi vì Chúa và vì Tin Mừng của Chúa không? Chúa Giêsu đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó để phục vụ Chúa và tha nhân chân tình chưa?
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, một đức tin có thật bên trong, một đức tin mà ông sẵn sàng sống chết với nó, thì Đức Giêsu tuyên bố: «Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi». Chúng ta cũng vậy, trước khi chịu Phép Rửa Tội, linh mục hỏi người chịu rửa tội, anh chị em xin gì? Chúng ta thưa, xin đức tin. Linh mục hỏi tiếp, đức tin sinh ích cho con. Anh chị thưa: đức tin đem lại cho con sự sống đời đời. Như vậy, để đức tin của chúng ta sống và sinh ích thì chúng ta phải hành động và chứng tỏ đức tin ấy bằng chính cuộc sống người môn đệ của Chúa, bằng những lời ăn tiếng nói và hành động cụ thể phù hợp Chúa và với Lời Chúa vì chưng /, nhà thần học Arialdo Beni nói rằng: “Đức Tin không phải là kết quả của hoạt động con người, nhưng mà kết quả của hoạt động phối hợp với Thiên Chúa và con người.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn lấy Chúa làm gia nghiệp và Lời Chúa làm lẽ sống hằng ngày như thế chúng ta mới xứng đáng là những viên đá tảng của gia đình, của giáo xứ và Giáo Hội. Và đó gia đình chúng ta chan hoà yêu thương, giáo xứ chúng ta luôn hiệp nhất nên một trong Ba Ngôi Thiên Chúa và Giáo Hội được làn rộng khắp nơi. Amen.