CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CHẠNH LÒNG THƯƠNG(*)– Chú giải của Noel Quession. 5
NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ- Chú giải của Fiches Dominicales 12
DẤU CHỈ THÁNH THỂ (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
THIÊN CHÚA LUÔN LÀ ĐẤNG THỎA MÃN NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA CON NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 38
HÓA BÁNH RA NHIỀU- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 48
TẤM BÁNH LIÊN ĐỚI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 53
CÁC CON HÃY CHO HỌ ĂN- Lm. Đaminh Trần Văn Điều. 57
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 64
TẤM BÁNH YÊU THƯƠNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 68
NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 72
ĐÀO TẠO LÒNG TIN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 79
PHÉP LẠ CỦA SỰ LẮNG NGHE– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 87
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
02/08/2020 – CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN
BÀI ĐỌC I: Is 55, 1-3
“Hãy đến mua lúa mà ăn”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán: “Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị. Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Đavít”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 144, 8-9. 15-16. 17-18
Đáp: Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê (x. c. 16).
1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. – Đáp.
2) Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê. – Đáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 35. 37-39
“Không một tạo vật nào có thể tách biệt chúng ta khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Chúa chúng ta”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?
Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Đấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: x. Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! – Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 14, 13-21
“Mọi người đều ăn no”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”.
Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-A
CHẠNH LÒNG THƯƠNG(*)– Chú giải của Noel Quession
Khi nghe tin Gioan Tẩy Giả bị giết chết, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt.
Cảnh hóa bánh ra nhiều mà chúng ta sắp đọc và xảy ra trong bối cảnh bi thảm: Đức Giêsu vừa bị xua đuổi khỏi Nadarét (Mt 13,53-58) và vua Hêrôđê vừa mới giết chết Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Người (Mt 14, 1-12) Khi nghe tin cái chết thảm khốc ấy, Đức Giêsu “chạy trốn” vào một nơi hoang vắng. Trong năm Chúa nhật sắp đến, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu “chạy trốn”, rút lui (Mt 14,13; 15,21; 16,13). Chúng ta thường quá tưởng tượng cho rằng Đức Giêsu như một người được thiên tính của Người để riêng ra. Thật ra Người chịu những cái đánh của số phận, bị liên hệ đến những biến cố mà Người đã không muốn. Phản ứng đầu tiên của Người là chạy trốn một mình.
“Người đến một chỗ hoang vắng riêng biệt…”
Sự ghi nhận này phải có một ý nghĩa cho chúng ta: các Kitô hữu – chẳng cần đôi lúc rút vào nơi riêng biệt đó sao? Phải chăng họ có thể sống đời sống Kitô hữu của họ mà thỉnh thoảng không gặp nhau ngày Chúa nhật? Phải chăng họ có thể không bị lây nhiễm bởi một thế giới ngoại đạo và vô thần nếu như họ không bao giờ biết rút lui ra chỗ riêng biệt, chỗ hoang vắng.
Nghe biết vậy đám đông từ các thành đi bộ mà theo Người. Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoạn người đông. đảo…
Thế là giờ đây Người đã bị đám đông đuổi kịp, Người chỉ ở riêng biệt khoảng thời gian đi thuyền qua họ, Người không làm cách nào để sống cô tịch được, Người bắt buộc phải gặp lại đám đông. Chắc chắn chúng ta phải suy niệm về đề tài những sự “bó buộc”? Thực hành đức vâng lời, trong những điều kiện sống thực của chúng ta, và cũng là vâng lời theo những ý định khôn dò của Chúa Cha, như thánh Phaolô có nói (Pl 2,8). Đó là điều mà chúng đã không tiên liệu. Điều xảy đến với chúng ta và làm đảo lộn những kế hoạch của chúng ta: Một cơn bệnh đến bất ngờ, một nỗi lo lắng mới, một trách nhiệm được đặt lên chúng ta, một cuộc thăm viếng, một cú điện thoai, một công việc được yêu câu, một sự hiện diện miễn cưỡng với những người khác, những đám đông mà chúng ta muốn chạy trốn.
Thì Người chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Chúng ta đã gặp từ này: “chạnh lòng thương”; “xúc động trong lòng”: phải cho từ ngữ này tất cả sự phong phú của nó. Lòng “nhân hậu” không chỉ là lòng nhân từ hay tha thứ nhưng cũng là lòng thương xót chia sẻ nỗi đau khổ của người khác. Đức Giêsu không thể nhìn một ai đau khổ mà Người lại không xúc động, giống như bản năng của một bà mẹ đối với đứa con của mình.
Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm (nguyện gẫm)
Đức Giêsu “chạnh lòng thương”. Hãy tưởng tượng ánh mắt, khuôn mặt, giọng nói, những cử chỉ dịu dàng đối với các bệnh nhân. Ngày nay cũng thế, Đức Giêsu cũng có những tình cảm thương xót như thế đối với mọi người đang đau khổ.
Chiều đến…
Cũng chính những chữ này mà Matthêu sẽ dẫn nhập vào Bữa Tiệc Ly (Mt 26,20) và việc mai táng Đức Giêsu (Mt 27,57). Các Kitô hữu tiên khởi có thói quen cử hành Thánh Thể như một “bữa ăn chiều”, một bữa tiệc ly. Ở bình diện tượng trưng, Thánh Thể xuất hiện với chúng ta như một “bí tích của sa mạc” trong đó chúng ta được ban cho một của ăn đi đường (Thánh Gioan sẽ nói đó là manna xuống từ trời để chú giải cùng một biến cố).
Đó cũng là bí tích của những đêm tối của chúng ta ở đó ánh sáng mầu nhiệm sẽ chiếu rọi đêm đen…
…Các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn!”
Đây là một giải pháp hoàn toàn “nhân bản” và “khôn ngoan”. Theo gương Thầy mình, các môn đệ của Đức Giêsu trong suốt sứ vụ có thói quen tìm kiếm lương thực khi chiều xuống. Một cách tự phát các môn đệ đề nghị giải pháp giải tán đám đông. Nhưng rõ ràng Đức Giêsu nhìn xa hơn. Đàng sau “bữa ăn trong sa mạc”, có một mầu nhiệm nuôi đám đông bằng của ăn vật chất trong khi vẫn để họ đói một cách sâu xa; bởi lẽ con người không chỉ sống bởi bánh! Khi chạy theo sau Đức Giêsu, những đám đông ấy trước tiên không đến để ăn, nhưng bởi vì họ cảm thấy trong Người có một “sức mạnh” siêu nhiên: các đám đông ấy đói Thiên Chúa, họ đói Đức Giêsu? Và không bao giờ một cái bánh mà họ mua ở chỗ này hay chỗ khác trong các làng mạc có thể làm cho họ no thỏa.
Nhưng Đức Giêsu bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả chính anh em hãy cho họ ăn”.
Không! Không có Đức Giêsu, không thể có giải pháp. Không phải bỏ đi mà đám đông sẽ tìm được sự no thỏa.
Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!”
Các môn đệ cũng rất tử tế. Họ thấy việc họ phải làm nhưng họ không có những phương tiện để thực hiện. Hầu hết thời gian, chúng ta cũng giống y như họ. Cái mà các môn đệ có sẵn thật nực cười: năm cái bánh và hai con cá.
Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!”
Thiên Chúa cần có những con người góp một tay. Biết rõ điều mình sẽ làm, hẳn Đức Giêsu có thể hoàn toàn không cần đến những cái bánh đáng thương và vô nghĩa ấy. Thiên Chúa cần đến tôi… Hãy đặt những phương tiện nghèo nàn của con người trong tay Chúa! Và lạy Chúa? Con đang hình dung trong sự nguyện gẫm của con năm cái bánh nhỏ tội nghiệp ấy và hai con cá nhỏ đơn sơ ấy, trong đôi bàn tay của Chúa!
Rồi sau đó, Người truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ.
Rõ ràng đây cũng là những động tác, cử điệu dùng để mô tả lại bữa Tiệc Ly trong ngày thứ Năm Tuần Thánh (Mt 26,26). Không một tình tiết nào trong đời sống của Đức Giêsu lại có tính chất xác quyết như thế: các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Khi người ta biết được vị trí của Thánh Thể trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, người ta không còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện trong đời sống của Đức Giêsu.
Khi thực hiện những động tác này, Đức Giêsu có thái độ của người cha trong gia đình đang chủ tọa một bữa ăn. Không có bữa ăn của người Do Thái nào mà không có “sự chúc lành” bánh … mà không có hành động tạ ơn Thiên Chúa (chữ “hành động tạ ơn” dịch ra tiếng Hy Lạp là “eucharistia”).
Sau đây là lời “chúc lành” mà các người Do Thái sùng đạo hôm nay vẫn luôn luôn đọc: “Chúng con chúc tụng Đấng ban cho chúng con lương thực nuôi sống chúng con vì lòng nhân từ của Ngài. Lạy Chúa, Đấng Hằng Hữu, chúng con cảm tạ Ngài đã nuôi sống mọi tạo vật”. Lương thực mà chúng ta ăn là một “hoa quả của đất đai và của lao công con người “. Nhưng trước hết nó là “một ơn của Thiên Chúa”.
Hạt lúa mì trong đất sẽ không bao giờ cho ra một bông lúa nếu Thiên Chúa không cho nó lớn lên. Nền văn minh kỹ thuật của chúng ta sau cùng đã quên đi chân lý sơ đẳng ấy. Vả lại, không có gì tự nhiên cho bằng cầm một mẩu bánh mì trong đôi tay, hoặc một bát cơm, một củ khoai mì để làm dịu cơn đói của mình? Thế mà hỡi ôi, chúng ta biết rằng “lao động con người” không đủ để nuôi sống mọi người, và nền kỹ thuật công nghiệp của chúng ta có thể trở thành một công cụ của tính ích kỷ và sự nô dịch con người: Những chủ nghĩa duy vật không có Thiên Chúa, từ Đông sang Tây đã quên mất “lời chúc tụng” cũng đã trở thành những kẻ phá hủy nhân phẩm con người.
Đức Giêsu còn có nhiều điều để nói với chúng ta, khi chính Người chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban lương thực hàng ngày, và đã bảo chúng ta cầu xin “lương thực hàng ngày”.
Người trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông.
Tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh ở đây vai trò của các tông đồ: chúng ta đã có một phục vụ đích thực.
Ở đó các tông đồ đóng vai trò nhiều hơn công việc của một người phân phát. Họ tham dự vào chính công việc của Đức Giêsu và làm như Người. Họ là những người làm trung gian giữa Đức Giêsu và dân chúng.
Đức Giáo Hoàng trong thông điệp tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Lộ Đức nhắc lại vai trò thiêng liêng của các linh mục: “Các linh mục đã nhận lãnh bí tích truyền chức đảm nhận ở giữa dân Chúa gồm những người đã chịu phép Thánh tẩy vai trò của Đức Kitô, là Đầu của Giáo Hội Người: tác vụ thiêng liêng của họ là cần thiết để biểu thị rằng việc “bẻ bánh” được họ thực hiện là một ơn nhận được từ Đức Kitô hoàn toàn vượt qua quyền lực của cộng đoàn”.
Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Sự dư dật này là một dấu chỉ được loan báo cho thời kỳ của Đấng Mêsia trong Kinh Thánh (Đệ nhị luật 6,11; Thánh Vịnh 132,15; Is 65,10).
Trang Tin Mừng này đang tra hỏi chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng Đức Giêsu qua cử chỉ quảng đại ngày hôm đó, đã không loại trừ được cái khốn cùng to lớn của nạn đói trên thế giới. Ở đây giá trị nổi bật không phải là khía cạnh mầu nhiệm, phi thường mà là ‘dấu chỉ’ Đức Giêsu đã làm. Vả lại, điều được biểu thị qua dấu chỉ này chính là sự ân cần đầy lòng yêu thương của Đức Giêsu, Người đã chạnh lòng thương đám đông. Như thế mỗi bữa tiệc Thánh Thể phải trả chúng ta về những bổn phận chia sẻ trong tình huynh đệ: Đức Giêsu Kitô là tấm bánh được bẻ ra, được chia sẻ cho một thế giới mới!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ- Chú giải của Fiches Dominicales
1) Một cử chỉ biểu tượng sứ mệnh của Đức Giêsu.
Bốn thánh sử đều tường thuật câu truyện hoá bánh ra nhiều. Cả thảy là sáu lần mà hai lần trong Matthêu và Máccô trong những bối cảnh khác nhau. Ở đây chúng ta gặp một trường hợp duy nhất là cùng một biến cố mà có những ngần ấy trình thuật khác nhau; điều đó đủ nói lên tầm mức quan trọng và vẻ phong phú của biến cố đối với huấn giáo.
Hôm nay Giáo Hội đề nghị ta suy niệm trình thuật thứ nhất trong hai trình thuật của thánh Matthêu.
Tác giả đã đặt câu truyện vào một bối cảnh bi thảm. Nỗi thất bại đã trải qua trong chính quê hương của mình” ở Nadarét (13,53-55) Đức Giêsu lại vừa mới hay tin Gioan Tẩy Giả bị Hêrôđê ra lệnh chém đầu(14,1-3). Khởi sự một chuyến đi lánh nạn sẽ dẫn Người từng chặng lần lượt đến miền Césarée Philipphe “Người lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng, riêng biệt. Không như một bài báo tường thuật biến cố xảy ra, bài trình thuật rất mau chóng lộ ra – cho ai xem xé kỹ lưỡng – là một bài tích luỹ những vay mượn các mẫu của Cựu Ước, đồng thời được đọc lại dưới ánh sáng kinh nghiệm bữa ăn Thánh Thể của các cộng đồng tín hữu đầu tiên.
+ Gặp lại “đám đông” đã đi bộ mà theo Chúa, còn Người thì dùng thuyền tìm nơi êm ả, thanh vắng, Đức Giêsu “chạnh lòng thương” (đúng chữ là “quặn lòng”) họ. Lúc bắt đầu bài giảng về truyền giáo Đức Giêsu đã quặn lòng như vậy khi nhìn thấy đám đông không người chăn dắt (9,36). Người cũng sẽ quặn lòng như thế khi gặp người mù ở Giêricô (20,34). Trước mặt đám người đông đúc mà Người trông thấy khi ra khỏi thuyền”, Đức Giêsu tỏ mình ở đây là MỤC TỬ ĐÍCH THỰC mà các ngôn sứ đã loan báo (cf. Ez, 34), là Mục Tử Thiên Chúa sai đến để quy tụ dân Người và đưa họ đến những đồng cỏ xanh tươi.
Prud’homme chú giải: “Người chạnh lòng thương“. Từ ngữ chỉ thứ xúc động của tình yêu sâu xa, như bản năng, bắt nguồn từ trong tim hay trong “ruột gan” của một người mẹ: đó không phải chỉ là tình cảm thuần tuý, nhưng là lòng trắc ẩn có sức tác động. Trong Cựu Ước động từ ấy chỉ tình yêu của Đức Giavê đôi với dân Người, một tình yêu thuộc bản tính của Thiên Chúa… Truyền thống nguyên thuỷ đã trình bày việc Chúa hoá bánh ra nhiều như một cử điệu chỉ thoát ra từ lòng trắc ẩn của Đức Giêsu. Trong bài tường thuật của mình, thánh Máccô dùng Ezechiel 34 để mô tả Đức Giêsu mang những nét của vị Mục Tử đích thực mà dân trông đợi Thánh Matthêu lại dùng cũng điểm quy chiếu trên ở 9,36 để nói lên ý tưởng là sứ mệnh của các tông đồ có nguồn gốc trong tình yêu trắc ẩn của Đức Giêsu. Ở đây cũng vậy, cử chỉ xót thương của Đức Giêsu được gợi nên do tính cách của đám đông đang đi tìm kiếm mà chẳng biết, đang “đi theo” mà đích thực chẳng khám phá ra Đấng Cứu Thế. Cái “đói” đích thực của đám đông này là thế đó. Hành động của Đức Giêsu sẽ mang tính biểu tượng cho tất cả sứ mệnh của Người, và các tông đồ sẽ tham dự chặt chẽ vào sứ mệnh đó. Nhưng con người nghèo khổ đói khát này, tất cả đều cần được chữa lành và hết thảy không trừ một ai đều được mời gọi tham dự bàn tiệc” (“Assemblée, du Seigneur” số 49, trang 24).
Cũng giống như ba tác giả kia, thánh Matthêu nhấn mạnh đến sự bất cân xứng lớn lao giữa số thực phẩm mang tới: năm chiếc bánh và hai con cá”, và đám đông ăn no nê: “Chừng năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ em”. Như thế Đức Giêsu được giới thiệu như vị NGÔN SỨ ĐƯỢC TRÔNG ĐỢI, vượt trên cả chính Elisée người đã nuôi ăn một trăm người bằng hai mươi cái bánh lúa mạch (2V 4,42-44). Thời đại mới, thời đại ứng nghiệm những hình ảnh của Giao ước cũ, đã được khai trương trong con người Đức Giêsu.
+ Cảnh được đặt vào “một chỗ hoang vắng”. Đối với thánh sử Matthêu, đó là một cách để chào mừng Đức Giêsu là Môsê mới tụ họp dân Chúa tiến vào hoang mạc (Xh 10,4) rồi dẫn họ tới Đất Hứa thực, nơi đó “mọi người sẽ được nuôi ăn và ăn no nê” (Nl 6,11; 11,15; 31,20).
+ Sau cùng khi nhấn mạnh đến số thực phẩm quá dồi dào được ban tặng miễn phí, thánh sứ hàm ý chỉ Đức Giêsu là CHỦ BÀN ĂN quy tụ quanh Người những đám dân tản mác vào dự bàn tiệc của Đấng Cứu Thế (cf. Isaie 55, bài đọc I của Chúa nhật XVIII thường niên).
Một cử chỉ biểu tượng của Giáo Hội:
Nếu cảnh hoá bánh ra nhiều mạc khải bằng biểu tượng căn tính đích thực và sứ mệnh của Đức Giêsu, thì cảnh ấy cũng vén lên bức màn về sứ mệnh của các môn đệ Người phải thực hiện cho tới ngày Người trở lại.
Vả lại khi đặt cảnh hoá bánh ra nhiều vào lúc “chiều đến”, giống như ở Tiệc Ly (26,20), thánh Matthêu có vẻ như muốn đúc kết trình thuật của mình để cho nó có vẻ long trọng hơn, một phong cách phụng vụ hơn, và như thế tập trung hơn những cái nhìn hướng về những cử chỉ của Đức Giêsu. Những cử chỉ được thánh sử tường thuật bằng cùng những lời lẽ như những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa ăn sau hết với các môn đệ”, “Cầm lấy bánh”, “đọc lời chúc tụng” (hoặc “tạ ơn”), “bẻ ra và “trao cho” (Mt 26,26). Những cử chỉ này chính là những cử chỉ của truyền thống phụng vụ về nghi lễ “Bẻ bánh” diễn ra trong các buổi họp hội của các tín hữu. Đối với thánh sử, đó là một cách để trình bày việc hoá bánh ra nhiều như là một báo hiệu tiệc Thánh Thể sau này. Còn về nhiệm vụ dành cho các môn đệ, thánh Matthêu cũng loan báo bằng biểu tượng thừa tác vụ mà sẽ là chính tác vụ của các ông trong việc cử hành Thánh Thể vốn được sinh hoạt trong các cộng đồng tín hữu: “Đức Giêsu cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ. Và Môn đệ trao cho đám đông. J. Perron giải thích: “Đức Giêsu đã muốn cần đến các tông đồ, và muốn cho các ông khai trương ngay hôm đó nhiệm vụ vốn phải là nhiệm vụ của chính các ông. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh ở đây tầm quan trọng và phẩm cách của chức vụ này khi dùng cũng một động từ “trao cho”, mà chủ từ trước tiên là Chúa Giêsu, rồi sau là các môn đệ; điều đó hàm ý rằng: có cùng một ơn ban, và ơn đó được trao qua tay các môn đệ. Phải chăng Đức Giêsu đã muốn như thế, bởi trước đó, Người vừa mới nói với các ông: “Chính anh em hãy cho họ ăn”(Lire La Bible, số 52, trang 227).
Chuyện kể kết thúc ở việc thu gom những “mẩu bánh còn thừa”: “mười hai giỏ đầy”, cũng bằng con số các chi tộc Israel là dấu hiệu nói lên rằng công việc Chúa làm vượt trên số những người được hưởng ơn ngay tức thì, mà còn lan rộng tới cả một dân tộc. Là biểu tượng tiêu biểu việc Chúa ban ơn tràn trề, mười hai thúng đầy này cũng còn là dấu chỉ rằng thứ lương thực này còn mãi cho những ai được mời gọi tham dự cùng một bữa ăn trong cuộc lữ hành hôm nay của Giáo Hội: mỗi lần chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, một cách nào đó, là chúng ta lấy ra ở trong “mười hai thúng đã được uỷ thác chiều hôm đó cho mười hai tông đồ. Như thế, việc hoá bánh ra nhiều, suy niệm về “bánh” của Đức Giêsu, về chính con người Đức Giêsu, và về sứ mệnh của Người, dưới ngòi bút của thánh sử Matthêu, trở thành sự chiêm ngắm Giáo Hội kẻ trao bánh, Giáo Hội kẻ trao ban Đức Giêsu trong khi tiếp tục sứ mệnh của mình trong thế giới.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) “Một biến cố biểu tượng đầy ý nghĩa” (J.Potin, trong “Jésus, L’histoire vraie”, Centurion, trang 276-277).
“Thực tế mà nói, biến cố ấy có một tầm mức mà những người chứng kiến không thể lĩnh hội hết mọi chiều kích. Sau này các tín hữu sẽ không chỉ xem đó là kỷ niệm việc hoá bánh và cá ra nhiều mà thôi. Tất cả mọi chiều kích của ơn cứu độ Đức Giêsu Kitô mang đến cho toàn thể nhân loại, được diễn tả qua phép lạ này. Người là Môsê mới. Cũng như Môsê, Người đã dẫn Israel, từ bên kia biển, đi qua sa mạc, để tìm đất Hứa. Như Môsê, sau lễ mừng Vượt qua đầu tiên đã ban bố Lề Luật cho dân, thì ở đây, dân chúng cũng đã được nghe Người loan báo Luật mới của Nước Trời. Dân chúng đông đảo Thánh Matthêu nói rõ là bốn hoặc năm ngàn người, không kể đàn bà và con trẻ. Đức Giêsu đã chia họ thành từng nhóm năm mươi hoặc một trăm cũng như Môsê xưa đã tổ chức nhóm nô lệ chạy trốn này thành một dân tộc chính cống. Xưa để nuôi dân Israel, Thiên Chúa cho họ Manna mỗi ngày. Cũng thế, để nuôi những kẻ theo Người, Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều. Nhưng bánh này không phải chỉ là đồ ăn nuôi xác mà thôi Đức Giêsu còn loan báo bánh Thánh Thể mà Người sẽ phân phát cho các môn đệ của Người chiều hôm trước ngày chịu chết và là bánh các môn đệ đến phiên mình cũng sẽ phân phát cho các tín hữu trong các cộng đồng tụ họp lại nhân danh Người. Vì thế, hình ảnh chàng trẻ tuổi làm-phép-lạ sẽ mờ nhạt đi sau con người Đấng Cứu Thế, Đấng mà trong bữa ăn cuối cùng đã phán: “Này là Mình Thầy bị nộp vì các con. Không thể gợi nhớ lại cảnh tượng xảy ra ở ven biển hồ mà lại không nghĩ đến cảnh ở nhà Tiệc Ly. Buổi chiều hôm đó, nhóm Mười Hai là tất cả Giáo Hội non trẻ. Đám đông hưởng phép lạ lúc ấy há không phải là hình ảnh loan báo Israel mới mà Thiên Chúa ban cho dư đầy của cải Nước Trời sao? Thì sách Xuất hành cũng đã tường thuật rồi đó: chiều hôm trước ngày Sabát, Thiên Chúa đã ban cho dân Người khẩu phần manna gấp đôi, để họ giữ lại cho ngày hôm sau, vì ngày hôm đó không có manna rơi xuống. Đức Giêsu cũng vậy, Người đã không đành chỉ làm dịu cơn đói, mà còn ban cho họ lương thực dự trừ để tiếp tục con đường. Quả thực, sau khi dân chúng ăn no nê, các môn đệ thu lại các mẩu bánh thừa được mười hai thúng, theo thánh Matthêu (con số biểu tượng Giáo Hội). Chúa Giêsu quả thật làm no đầy những kẻ thuộc về Người.
Nhờ việc sử dụng bài tường thuật về việc ra khỏi Ai Cập, và hơn nữa, bài nói về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể mà biến cố hoá bánh ra nhiều được kể lại trong các Phúc âm có được một tầm mức biểu tượng nói lên rất nhiều điều, biểu tượng ấy đã nuôi dưỡng việc rao giảng của Giáo Hội.
2) ”Giáo Hội không thể là Giáo Hội mà không thể chia sẻ tình yêu của Chúa mình cho quảng đại quần chúng”. (Đức Cha L. Daloz, trong “Le Règne des cieux s’est approché” Desclée de Brouwer, trang 219-220).
Giáo Hội có sứ mệnh biểu lộ và làm cho người ta chia sẻ cho mọi người tình yêu thương và lòng nhân ái của Thiên Chúa. Điều đó không chỉ giới hạn trong nội bộ của chính Giáo Hội, mà còn vì Giáo Hội có liên quan với tất cả nhân loại. Giáo Hội chỉ có thể là một căn nhà mở ra tứ phía, đón gió muôn phương. Các tín hữu là những người sống liên đới với đồng bào của mình, với những người sống cùng thời với mình, nên các tín hữu ấy chia sẻ những vấn đề, những niềm vui và những nỗ lực của họ. Đức Giêsu luôn luôn tiếp đón đám đông là một mẫu gương luôn luôn hiện thực đối với ta. Ở mọi thời đại, các tín hữu đã dấn thân không biết mệt mỏi để phục vụ con người; họ phục vụ cách nhưng không, không đòi hỏi được đền đáp, không bận tâm về vấn đề chủng tộc hay tôn giáo. Thời nay, nhờ những phương tiện thông tin đại chúng, các nhu cầu của con người được truyền đi mau lẹ và được toàn cầu biết đến, thì Giáo Hội nhất thiết phải quan tâm đến mọi nỗi thống khổ của con người, mọi tiếng kêu gọi có tính nhân đạo. Giáo Hội không thể sống khép kín, chỉ biết lo lắng cho những phần tử của mình. Trong mọi lãnh vực thăng tiến nhân loại, bênh vực quyền con người, Giáo Hội phải là người có mặt, Giáo Hội không thể là chính mình, nếu không chia sẻ tình yêu của Chúa mình cho quảng đại quần chúng mà Người luôn luôn quan tâm”.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
DẤU CHỈ THÁNH THỂ (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Trong Kinh Thánh, cái đói và cái khát cảm thấy trong thân xác được dùng để sánh ví với cái đói và cái khát của con người đối với những thiện hảo tinh thần. Đặc biệt ơn cứu độ được hình tượng về một bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi những người được Ngài tuyển chọn.
Is 55: 1-3
Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, trong đó vị ngôn sứ loan báo cho những người lưu đày cuộc giải thoát của họ gần kề dưới ẩn dụ của một bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị. Điều này muốn nói rằng Thiên Chúa tha thứ cho họ, làm mới lại Giao Ước của Ngài và ban cho họ muôn vàn ân phúc.
Rm 8: 35, 37-39
Bài Đọc II được trích từ thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Rô-ma, trong đó thánh nhân hùng hồn ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa, được mặc khải ở nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Mt 14: 13-21
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu thuật lại phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khi nuôi đám đông dân chúng ăn no nê, Đức Giê-su cho một dấu chỉ tiên trưng về lương thực đích thật mà Ngài sẽ thiết đãi nhân loại: bánh Thánh Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 1-3)
Lời mời gọi hãy đến mà ăn uống cho thỏa thích được gởi đến những người lưu đày tại Ba-by-lon. Trong những năm tháng dài, những người bất hạnh này phải chịu những túng thiếu đủ mọi thứ. Ở giữa họ, một vị ngôn sứ đứng lên, vào giữa những năm 550 và 540 trước Công Nguyên, không ngừng khích lệ họ hãy hy vọng: ông hứa với họ một sự giải phóng gần kề. Chẳng bao lâu Thiên Chúa sẽ tuôn đổ muôn vàn ân phúc của Ngài trên họ.
Vị ngôn sứ này được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị. Sứ điệp của ông, gồm các chương 40-55 của sách I-sai-a, đã được đề tựa là “Sách An Ủi”. Bản văn chúng ta đọc hôm nay là đoạn mở đầu của phần kết.
*1. “Đến cả đi, hỡi những người đang khát”;
Vị ngôn sứ để cho chính Đức Chúa nói, theo thói quen của văn phong ngôn sứ, mà tác giả của chúng ta trung thành một cách đặc biệt; ông xóa mình sau sứ điệp ông truyền đạt đến mức người ta không biết chút gì về ông, thậm chí ngay cả tên ông.
Vị ngôn sứ gán cho Đức Chúa ngôn từ của một người bán nước rong rảo qua các đường phố và các công trường rao bán mặt hàng của mình; nhưng với một sự khác biệt vì những mặt hàng Thiên Chúa đề nghị thì hoàn toàn cho không. Những lời đề nghị của Thiên Chúa được trình bày theo một sơ đồ rất quen thuộc với Cựu Ước: lời hứa ban “của ăn thức uống vật chất”, xưa kia là vườn địa đàng, bánh man-na trong hoang địa, Đất Hứa chảy sữa và mật ong, bên kia của ăn thức uống này ẩn hiện những “của ăn thức uống tinh thần”, chủ yếu là lương thực tuyệt vời, tức là Lời Chúa. Sau cùng, lời mời gọi tham dự bàn tiệc nghĩa là lời hứa “Giao Ước”.
*2.Của ăn thức uống vật chất:
“Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng, đến mua rượu và sữa, không phải trả đồng nào”. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ hàm chứa hai khía cạnh: vừa thực vừa biểu tượng. Xin đừng giãm thiểu tối đa khía cạnh thực: những người lưu đày sắp được tự do và có thể lại được nếm rượu ngon của những vườn nho xứ Pa-lết-tin, lại được uống sữa đàn gia súc của họ và lại được thưởng thức thịt béo của những bữa ăn hy tế mà đã bao năm qua họ đã bị tước đi. Rượu luôn luôn là biểu tượng niềm vui và sữa là dấu chỉ của sự thịnh vượng phú túc.
*3.Của ăn thức uống tinh thần:
Nhưng sâu xa hơn, là ý nghĩa tinh thần. Những của ăn thức uống Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài thường được diễn tả, trong Cựu Ước, bởi những hình ảnh bữa ăn, bánh, rượu, món ăn hảo hạng. Ơn cứu độ thời Mê-si-a như niềm vui tương lai của những người công chính vào thời tận thế, được diễn tả bởi những ẩn dụ như thế. Còn về nước, rĩ ra, phụn vọt lên, chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh như biểu tượng của sự sống thần linh. Đức Giê-su sẽ lấy lại lời của vị ngôn sứ này, vào tuần lễ Lều: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7: 37). Cũng vậy, Chúa Ki-tô quang vinh của sách Khải Huyền công bố: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền” (Kh 22: 17).
Một bản văn của sách Châm Ngôn đưa ra một sự đối chiếu với bản văn hôm nay: Đức Khôn Ngoan kêu to ngoài đường phố, cất tiếng nơi công trường, kêu gọi chỗ ồn ào náo nhiệt, tuyên bố nơi cổng thành, mời gọi tất cả những ai muốn nếm những thiên ân của mình hãy đến tham dự bàn tiệc của mình: “Hãy đến mà ăn bánh của Ta và uống rượu do Ta pha chế!” (Cn 9: 5). Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi rõ ràng hoàn thoàn thuộc về tinh thần. Ở đây cũng vậy: “Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào các thứ chẳng làm cho ấm dạ no lòng”: chỉ lương thực đích thật duy nhất đó là Lời Chúa: “Hãy lắng tai, và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống”. Lời kêu gọi này nhắc nhớ lời kêu gọi của Đức Giê-su: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6: 27).
*4.Bữa ăn Giao Ước:
Lời Chúa này nói gì với những người lưu đày. Nó loan báo cho họ biết Thiên Chúa sắp hoàn lại sự tự do cho họ, và còn nữa, nó là lời hứa về một giao ước mới giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Mọi giao ước đều được đóng ấn trong một bữa ăn. Thức ăn thật hay thức ăn biểu tượng mà Thiên Chúa thiết đãi những người lưu đày là những dấu chỉ của Giao Ước Mới muôn năm bền vững, theo cùng hàng với những lời hứa được ban cho vua Đa-vít.
Vài thập niên trước đó rồi, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã hiểu ở nơi những biến cố nghiêm trọng: thành thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị tiêu hủy, dấu chỉ tiên báo về những mối liên hệ mới giữa dân Ít-ra-en và Thiên Chúa của dân. Giao Ước Mới sẽ được ghi khắc, không còn trên bia đá, nhưng trong tận đáy lòng. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lập lại tư tưởng này. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đến phiên mình công bố giao ước mới này. Khi nhắc lại mẫu gương của vua Đa-vít, vị ngôn sứ gợi lại những tư tưởng rất thân thiết với những người lưu đày: những lời hứa xưa về thành thành Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít muôn năm bền vững. Như vậy, Thiên Chúa đã không quên!
*5.Khía cạnh ngôn sứ:
Khía cạnh ngôn sứ của sứ điệp thì hiển nhiên: một lời mời gọi dự phần trước bàn tiệc thời Mê-si-a, tức là ơn cứu độ. Đức Giê-su sẽ là hiện thân Thiên Chúa trong mọi ngã đường và trên các công trường. Trước tiên, cũng chính Ngài đề nghị những lương thực vật chất, cung cấp rượu hảo hạng cho tiệc cưới làng quê, ban bánh và cá để nuôi dưỡng đám đông đói khát, chữa lành bệnh tật cho các bệnh nhân, vân vân, ngõ hầu muốn nói rằng Ngài là Đấng cứu độ và ban sự sống, và Ngài mời gọi dự phần vào bữa ăn làm no thỏa mọi đói và khát: bữa ăn Thánh Thể.
Bản văn của vị ngôn sứ chuẩn bị cho chúng ta nắm bắt Tin Mừng hôm nay một cách sâu xa.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 35, 37-39)
Những lời thổ lộ đầy cảm xúc này hoàn tất bài ca hy vọng và khải hoàn, qua đó thánh Phao-lô đóng lại chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, thực tế, phần đạo lý của thư này.
Sau khi đã chứng tỏ làm thế nào mọi người, Do thái cũng như dân ngoại, bị giam hãm trong tội, và làm thế nhờ Đức Ki-tô họ được tách ra khỏi tội lỗi, thánh nhân đã phô bày, trong chương 8 này, sự mới mẽ của người Ki-tô hữu: một đời sống theo Thần Khí và trong niềm hy vọng được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa làm chứng về một tình yêu bao la mà con người là đối tượng. Lúc đó, thánh Phao-lô để mặc cho tình cảm nồng nàn của mình tuôn tràn ra dưới ngòi bút thành một bài thánh thi bộc phát, tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Những dòng sau cùng này chất chứa biết bao sự hùng hồn và cảm xúc.
*1.Người Ki-tô hữu đối mặt với sự thử thách:
Thánh Phao-lô chọn hình thức nghi vấn. Trở ngại nào có thể khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là những đau đớn cùng cực nhất? Những thử thách được liệt kê ở nơi con số “bảy”, con cố chỉ sự hoàn hảo. Chắc chắn đây không là ngẫu nhiên. Chắc chắn thánh Phao-lô nghĩ đến tất cả những khốn khổ mà thánh nhân đã kinh qua. Thánh nhân đã nêu lên những nỗi gian truân này nhiều lần (1Cr 4: 9-13; 2Tm 11); thánh nhân thêm vào ở đây, như do sự linh cảm, “gươm giáo”, đó sẽ là dụng cụ trong cuộc tử đạo của ngài. Nhưng đại từ “chúng ta” mà thánh Phao-lô sử dụng chứng thực rằng thánh nhân cũng nghĩ đến mọi người Ki-tô hữu đang gặp phải những khó khăn và những phiền nhiễu.
Thánh Phao-lô khẳng định một cách mạnh mẽ rằng trong mọi gian nan thử thách, những Ki-tô hữu là những người toàn thắng trong cuộc chiến của họ, nhờ Đấng đã yêu mến họ. Họ càng yếu hèn, thì họ càng cảm thấy sự hiệu nghiệm nội tại và tình thân của Thiên Chúa: thánh Phao-lô biết được điều này từ kinh nghiệm của mình.
*2.Người Ki-tô hữu đối mặt với thế gian thù ghét:
Để hoàn thiện những ví dụ của mình, thánh Phao-lô loại ra khỏi những người Ki-tô hữu nỗi sợ hải mà họ có thể có về những quyền lực bí nhiệm ám ảnh vũ trụ và có thể dự phần vào sự điều hành vũ trụ, cũng như mọi cảnh huống cuộc đời con người: sự sống và sự chết, hiện tại và tương lai.
Những mê tín dị đoan cổ xưa đầy dẩy trong vũ trụ về những quyền năng ít nhiều tác hại, chúng dễ dàng giải thích cái ác. Sự gia tăng của những mê tín này trở nên thuận lợi nhờ khoa chiêm tinh phát triển, từ đó, những tín ngưỡng dễ dàng tràn lan hơn nữa vì niềm tin trong các tôn giáo truyền thống sa sút.
“Thiên thần hay ma vương quỷ lực” chắc chắn ám chỉ đến những thiên linh, những sức mạnh quỷ thần, có thể những quyền lực của các thiên thần sa ngã (x. Ep 1: 21; 3: 18; Cl 1: 16; 2: 10-15).
“Bất kỳ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” có lẽ gợi lên từ vựng chiêm tinh và những “định mệnh” đè nặng trên vận mệnh của con người.
Còn đối với những kiểu nói “sự sống hay sự chết”, “hiện tại hay tương lai”, đây là những cặp đối ngẫu. Thánh Phao-lô sử dụng chúng ở nơi khác trong một mạch văn lạc quan hơn, như khi thánh nhân viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Dù cả thế gian này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa” (1Cr 3: 22).
Ở đây, thánh Phao-lô nhắm đến khía cạnh bi quan: cái chết với những xao xuyến của mình, cuộc sống với những bận lòng của mình, hiện tại với những lo âu của mình, tương lai với những bấp bênh của mình.
Thánh Phao-lô không muốn nói rằng thánh nhân xem những niềm tin này và những sợ hãi này là của mình. Với một sự thanh thản bình yên, thánh nhân khẳng định rằng không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã bày tỏ một cách rạng rỡ tình yêu của Ngài đối với con người khi ban cho họ Con của Ngài. Đó là nền tảng xác tín của người Ki-tô hữu và là lý do những toàn thắng của họ trên những quyền lực bên ngoài, dù đó là gì đi nữa. Người Ki-tô hữu “trong Đức Giê-su Ki-tô” sống bằng tình yêu này.
TIN MỪNG (Mt 14: 13-21)
Phép lạ “hóa bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Quả thật, dường như trong số những phép lạ, đây là phép lạ đặc trưng nhất, chứa đựng mặc khải nhất mà Đức Giê-su thực hiện. Bốn bài tường thuật bổ túc cho nhau và soi sáng cho nhau; mọi chi tiết đều hướng đến sự súc tích và sự chính xác của chúng.
Đức Giê-su tìm cách lánh vào nơi hoang vắng một mình với các môn đệ Ngài. Để được yên tỉnh, Ngài xuống thuyền qua bên kia biển hồ Ghê-nê-sa-rét để lánh xa đám đông. Nhưng đám đông đã nhận biết nên theo đường bộ dọc theo biển hồ và họ đến nơi trước khi thuyền cập bến.
*1.Một ngày hồng ân:
Đức Giê-su không còn sống cho chính mình; Ngài đến để hiến dâng mạng sống mình cho con người. Dù đám đông cản trở dự định của Ngài, Ngài ân cần tiếp đón họ; Ngài động lòng thương những nỗi khổ của họ và “chữa lành các bệnh nhân của họ”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca nói: “Ngài dạy dỗ họ suốt ngày” (Mc 6: 34; Lc 9: 11). Khi chiều xuống, Ngài hoàn tất ngày thiên ân này bởi một cử chỉ báo trước cuộc tự hiến của Ngài.
Đức Giê-su đã không lưu lại trên bờ hồ, nhưng dẫn đám đông vào nơi hoang vắng. Hoàn cảnh, thời điểm mà biến cố được định vị, những chi tiết được các tác giả Tin Mừng trình bày, nêu bật sự đồng nhất của những dấu chỉ.
*2.Sự đồng nhất của những dấu chỉ:
Thánh Mát-thêu nhấn mạnh đến hai lần nơi này thì hoang vắng. Như vậy, thánh sử hướng tư tưởng về thời Xuất Hành, khi người Do thái trong hoang địa Xi-nai lâm vào cảnh đói và nhận được từ trời bánh man-na kỳ diệu. Đức Giê-su là Mô-sê mới, trong hoang địa Ga-li-lê này Ngài sắp ban bánh kỳ diệu cho dân ăn no nê.
Thánh Mát-thêu nói: “Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ”. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ” (Ga 6: 10). Thánh Mác-cô cũng nói: “Người truyền cho các ông bảo họ ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh” (Mc 6: 39). Chỉ vào mùa xuân cỏ non mới thật sự phủ xanh miền Pa-lết tin. Điều này muốn nói rằng Đức Giê-su chính là vị mục tử nhân lành, được các ngôn sứ loan báo, Ngài dẫn đàn chiên của mình đến đồng cỏ xanh tươi. Rõ ràng thánh Mác-cô gợi lên điều đó: “Đức Giê-su chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6: 34). Đối diện với sự chểnh mảng của các thủ lãnh Ít-ra-en, Đức Giê-su hành xử như “người chăn chiên thời Mê-si-a”, Ngài tận tình chăm lo dân Ngài.
Thời điểm biến cố xảy ra được thánh Gioan xác định rõ hơn nữa: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua” (Ga 6: 4). Sự kiện này trước tiên giải thích tầm quan trọng của đám đông. Chính ở thành Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ Ghê-nê-sa-rét mà những đoàn người hành hương đến từ miền Ga-li-lê quy tụ lại: chính từ đó mà người ta khởi hành thành từng nhóm tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ rằng thời điểm sắp đến lễ Vượt Qua đem lại một cung giọng đặc biệt cho cử chỉ của Đức Giê-su? Đây là một cử chỉ ngôn sứ, loan báo Lễ Vượt Qua mới.
*3.Dấu chỉ Thánh Thể:
Phép lạ hóa bánh ra nhiều rõ ràng soi sáng cho việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các tác giả Tin Mừng cũng hiểu như vậy. Thánh Mát-thêu viết: “Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Những ngôn từ rất đối xứng với những ngôn từ của Bữa Tiệc Ly.
Việc chia sẻ bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê tiên trưng việc phân phát bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức việc chia sẻ sự hiện diện hóa nhiều của Thân Thể vinh quang của Đức Giê-su, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế.
Bánh được ban ở trên đồi Ga-li-lê thì dư dật như rượu được ban ở tiệc cưới Ca-na. Người ta thu lại những mẫu bánh còn thừa được mười hai thúng đầy: con số 12 ám chỉ đến mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ, họ đại diện dân Thiên Chúa mới. Hơn nữa, những mẫu bánh còn thừa muốn nói lên rằng có đủ chỗ cho những khách mời khác vào dự bàn tiệc của Thiên Chúa.
Những chiếc thúng được dùng để đựng những mẫu bánh thừa chắc hẳn là những chiếc giỏ mây mà người Do thái thường mang theo bên mình khi di chuyển. Vào buỗi chiều bắt đầu ngày sa-bát, họ đặt vào trong một ít rơm để ủ thức ăn, vì họ không được nhen lửa vào ngày sa-bát. Người Rô-ma gọi người Do thái là “người mang giỏ”.
*4.Dấu chỉ thời Mê-si-a:
Cử chỉ của Đức Giê-su không chỉ có một tầm mức Thánh Thể, nó còn gợi lên một ý nghĩa trực tiếp: ý nghĩa về bữa tiệc thời Mê-si-a.
Các sấm ngôn ((Is 55: 1-3; 49: 10), các Thánh Vịnh (132: 15; 78: 24-27), các sách minh triết đã loan báo điều đó: triều đại Mê-si-a sẽ được đánh dấu bởi những dấu chỉ của sự dồi dào và no thỏa, những hình ảnh tham dự trước bàn tiệc cánh chung, bàn tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi cho những người được tuyển chọn trong Nước Trời. Chúng ta đã đọc một trong những bản văn này ở Bài Đọc I: sự dồi dào của ăn thức uống được đề nghị một cách nhưng không cho những người lưu đày, có nghĩa đó là giờ giải thoát của họ, giờ tha thứ và ân cần săn sóc của Thiên Chúa.
Đó cũng là ý nghĩa của bữa ăn mà Chúa Giê-su đề nghị cho đám đông: thời điểm cứu độ đã điểm; giờ của Đấng Mê-si-a là giờ Thiên Chúa hiện diện và tác động giữa loài người, giờ Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài. Đó là giờ Đức Giê-su bày tỏ lòng từ ái của Đức Giê-su đối với đám đông dân chúng. Họ đã đi bộ một quảng đường dài để hội ngộ với Ngài, đã lắng nghe Ngài suốt ngày, và chiều xuống, họ không có gì ăn. Nếu họ đã theo Ngài như thế, đó không phải là họ đang tìm kiếm những nhu cầu cốt yếu mà họ cảm thấy một cách lờ mờ sao?
Đức Giê-su làm dịu cơn đói phần xác của họ để giúp cho họ hiểu rằng Ngài có thể cho họ no thỏa cơn đói phần hồn nữa.
*5.Bánh Lời Chúa:
Dấu chỉ khác của thời Mê-si-a không được bày tỏ minh nhiên, nhưng chúng ta không thể không nghĩ đến: “bánh là biểu tượng cốt yếu của Lời Chúa”. Mối liên hệ thường hằng trong Kinh Thánh giữa bánh, thức ăn ban sự sống cho thân xác con người, và Lời Chúa, lương thực thần thiêng cung cấp sự sống đích thật. Qua việc ban bánh một cách dư dật, Đức Giê-su tỏ mình ra Ngài là Ngôi Lời, lời Thiên Chúa ở giữa loài người như trong Am 8: 11:
“Đây sắp đến những ngày
– sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng –
Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này,
không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống,
mà đói khát được nghe lời Đức Chúa”,
hay trong Đnl 8: 3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra”.
*6.Dấu chỉ về Giáo Hội:
Dấu chỉ mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhất là dấu chỉ về Giáo Hội.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất Đức Giê-su cho các môn đệ được dự phần vào. Các môn đệ là những người đề nghị với Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy liệu cho họ ăn”. Các môn đệ cố tránh né; họ không có gì cả. Về phương diện con người, không có giải pháp nào có thể. Bài học thật khủng khiếp. Không phải Giáo Hội thường phải chạm trán với những vấn đề mà bên ngoài không thể giải quyết được, nếu như không có đức tin? Chính niềm tin tưởng phó thác vào Ngài mà Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài. Tiếp đó, chính ở nơi họ mà Ngài trao phó việc ân cần phân phát bánh và cá cho dân chúng: họ là những thừa tác viên của những thiên ân. Chính nhờ họ mà ân ban Thánh Thể và Lời Chúa sẽ được tiếp diễn mãi. Còn đám đông dân chúng, hỗn hợp và đông đảo, quy tụ chung quanh Đức Giê-su và được tham dự vào cùng một bánh, họ loan báo những cộng đồng nhân loại hình thành nên Giáo Hội. Như người ta thường nói: “Thánh Thể làm nên Giáo Hội”.
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu không nêu lên những phản ứng của những người được thụ hưởng sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thêm nữa, đa số trong họ đã không biết nguồn gốc bánh và cá mà người ta phân phát cho họ. Chỉ một mình thánh Gioan nói về lòng nhiệt thành của đám đông “họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua” (Ga 6: 15).
Dù sao, phần tiếp theo của những biến cố cho thấy rằng những dấu chỉ được đề nghị, dù quá minh nhiên, đã không được hiểu; chúng xem ra như một trong những thử thách sau cùng của Đức Giê-su ở Ga-li-lê trong việc khai lòng mở trí cho con người hiểu sứ điệp của Ngài.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
THIÊN CHÚA LUÔN LÀ ĐẤNG THỎA MÃN NHỮNG KHÁT VỌNG CỦA CON NGƯỜI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Lời Chúa mấy tuần gần đây đưa ra những sứ điệp rất an ủi : Chúa nhựt tuần trước. Chúa cho biết Ngài là một người Cha yêu thương luôn tìm những ơn tốt lành nhất để ban cho chúng ta là con cái Ngài. Hôm nay Chúa cho biết thêm Ngài sẽ thỏa mãn tất cả những khát vọng của con người.
Chúng ta hãy cùng dâng Thánh Lễ này trong tâm tình biết ơn và trông cậy Chúa.
– Chúng ta quan tâm thỏa mãn những nhu cầu vật chất mà quên những nhu cầu tâm linh.
– Nhiều khi chúng ta sống thiếu lòng trông cậy Chúa.
– Nhiều khi chúng ta cũng không biết ơn Chúa vì biết bao ơn lành Ngài đã ban.
Đoạn này thuộc về chương cuối của phần II sách Isaia (“sách an ủi”, gồm các chương 40-55). Đệ nhị Isaia công bố lời Thiên Chúa mời gọi người ta đến dự một bữa tiệc do Ngài khoản đãi. Bữa tiệc này rất đặc biệt :
– Những món ăn rất thịnh soạn toàn đồ bổ và cao lương mỹ vị.
– Bữa tiệc hoàn toàn miễn phí.
– Người được mời là những kẻ nghèo khổ, đói khát, không tiền bạc, cũng không có gì để đổi chác.
Dĩ nhiên, hình ảnh bữa tiệc mang ý nghĩa tượng trưng :
– Tượng trưng cho sự thỏa mãn những khát vọng của con người
– Tượng trưng cho hạnh phúc Nước Trời.
Tv 144 ca tụng tình thương ân cần của Thiên Chúa đối với tất cả những thụ tạo của Ngài : chẳng những Ngài đã tạo nên chúng, mà còn quan tâm dưỡng nuôi và chăm sóc chúng : “Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa. Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho mọi sinh vật được no nê”.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều. Cách viết của thánh Matthêu rõ ràng muốn so sánh với phép lạ manna thời xuất hành và bí tích Thánh thể mà Chúa Giêsu sẽ lập : thời xưa Thiên Chúa đã nuôi dân do thái no nê bằng thứ lương thực diệu kỳ là manna. Thời nay Chúa Giêsu còn nuôi dân mới bằng một thứ lương thực diệu kỳ hơn nữa là Bí tích Thánh Thể.
*4. Bài đọc II (Rm 8,35.37-39) (Chủ đề phụ)
Đoạn thư này của Thánh Phaolô là lời tuyên xưng đức trông cậy mạnh mẽ nhất : không gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô.
– Bảng liệt kê thứ nhất kể ra những gian truân thử thách của bản thân Thánh Phaolô và có thể cũng là của mọi kitô hữu : gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo.
– Bảng liệt kê thứ hai kể ra những gian truân của thân phận làm người : chết hay sống, hiện tại hay tương lai…
*1. Phép lạ = quyền phép Thiên Chúa + đóng góp của con người
Đức Giêsu đã làm phép lạ có lương thực nuôi năm ngàn người ăn thừa thải. Nhưng phép lạ này bắt đầu từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Mẹ Têrêxa hàng ngày nuôi chín ngàn người nghèo ở Calcutta. Nhưng số lượng lương thực này là do phần đóng góp của biết bao người hảo tâm.
Một hôm có một cặp vợ chồng trẻ đến trao cho Mẹ một số tiền lớn. Mẹ ngạc nhiên hỏi :
– Làm sao mà anh chị có được số tiền lớn này ?
– Chúng con vừa cưới nhau hai ngày trước đây. Chúng con đã nhất trí với nhau không tổ chức tiệc cưới, để dành tiền giúp những người nghèo.
– Tại sao anh chị làm thế ?
– Vì chúng con rất yêu nhau, chúng con muốn bắt đầu cuộc sống gia đình bằng một việc hy sinh, để Chúa chúc lành cho chúng con.
*2. Có thể tin được Lời Chúa không ?
Lời Chúa hôm nay thật rõ ràng : Chúa nói Ngài thỏa mãn mọi thứ đói khát của con người.
Nhưng ta có thể tin vào Lời đó không, bởi vì ngày nay biết bao người còn đang đói khát, trong số đó có thể có chính chúng ta nữa ?
– Điều căn bản mà chúng ta phải nhớ là Thiên Chúa đã tạo dựng nên trái đất này, một trái đất phong phú, sản sinh ra đầy đủ đến dư thừa mọi lương thực chẳng những cho loài người mà còn cho muôn loài. Cho nên trên căn bản là Chúa bảo đảm cho muôn loài được no nê.
– Trong bài Tin Mừng, Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá mà một cậu bé đã bỏ ra để chia xẻ cho mọi người khác ; sau khi chúc tụng, bẻ ra, Chúa bảo các môn đệ “phân phát”. Nghĩa là Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc chia xẻ, phân phối. Với nguồn tài nguyên phong phú của trái đất, theo nguyên tắc thì mọi người đều có thể no đủ, miễn là con người biết chia xẻ cho nhau và biết phân phối hợp lý.
– Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuôn đến với Chúa mong Ngài tái diễn phép lạ ấy, nhưng Ngài đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của Thánh Gioan, Ngài còn nói với họ “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”
– Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
*3. Những khát vọng của con người
Con người có nhiều khát vọng, nhưng tiếc thay họ chỉ để ý tới những khát vọng tầm thường.
– Rõ rệt và dễ cảm thấy nhất là những khát vọng của thân xác : ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi. Xét cho cùng, những khát vọng này cũng giống với những khát vọng của thú vật và thực vật thôi. Và xét cho cùng thì cũng dễ thỏa mãn thôi miễn là tài nguyên của trái đất này được chia xẻ và phân phối hợp lý. Chúa Giêsu nói “Hãy xem chim trời… hãy xem hoa huệ ngoài đồng…”
– Còn nhiều khát vọng cao hơn và quý hơn : bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu… Chân, thiện, mỹ tuyệt đối… Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thỏa mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
*4. Một giải thích mới về phép lạ hóa bánh ra nhiều
Có người giải thích rằng phép lạ này không nằm ở chỗ số lượng bánh rất nhiều, mà nằm ở chỗ Đức Giêsu đã làm được một việc lạ lùng hầu như không ai làm nổi : biến tính tự tư tự lợi của con người thành tính quảng đại chia xẻ.
Câu chuyện sau đây có thể minh họa cho ý nghĩa này :
Một hôm, có một người đàn ông vào nhà một bà dân làng xin ăn. Bà này từ chối :
– Xin lỗi. Hiện giờ trong nhà tôi không còn gì có thể ăn cả.
– Không sao. Chỉ nhờ Bà cho tôi mượn chiếc nồi nấu súp. Tôi có một viên sỏi có thể nấu thành một nồi súp đặc biệt ngon, từ trước tới giờ chưa từng có món ăn nào ngon bằng.
Bà chủ nhà bằng lòng. Người khách đổ nước vào nồi, bỏ viên sỏi vào rồi bắt đầu nấu. Trong khi đó, bà chủ nhà sang nhà hàng xóm tiết lộ bí mật của nồi súp tuyệt vời ấy. hàng xóm này lại tiết lộ cho hàng xóm khác. Chẳng bao lâu căn nhà đầy người.
Khi nước bắt đầu sôi, người khách lạ múc lên một muỗng nếm : “Chà, rất ngon. Nhưng phải chi có thêm chút ít khoai tây nữa thì sẽ ngon tuyệt”. Một người vội vàng chạy về nhà lấy khoai tây bỏ vào. Lát sau người khách lại nếm và lại nói “Ngon hơn trước rồi. Phải chi có thêm một chút thịt nữa thì hết chỗ chê”. Một người khác vội chạy về nhà lấy thịt. Cứ như thế…
Cuối cùng nồi súp chín. Người khách mời mọi người ngồi vào bàn. Mỗi người một tô. Ai nấy đều khen món súp ngon tuyệt vời. Còn người khách thì vớt từ đáy nồi lên viên sỏi của ông, bỏ vào túi, vui vẻ chào mọi người và ra đi.
*5. “Điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô” ?
Kiểu nói “lòng yêu mến của Đức Kitô” có hai nghĩa : a/ Lòng Đức Kitô yêu mến chúng ta ; và b/ lòng chúng ta yêu mến Đức Kitô.
Chúng ta hãy trả lời câu hỏi của Thánh Phaolô theo nghĩa thứ nhất : có gì có thể làm Đức Kitô không còn yêu mến chúng ta nữa không ? Chắc chắn là không : Đức Kitô đã phải “gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo” nhưng Ngài vẫn yêu mến chúng ta, Ngài yêu mến chúng ta đến nỗi hiến thân chịu chết vì chúng ta.
Bây giờ chúng ta cũng trả lời câu hỏi ấy nhưng theo nghĩa thứ hai : có gì có thể làm cho chúng ta hết yêu mến Đức Kitô không ? Câu này có thể có hai câu trả lời :
– Nếu chúng ta thực lòng yêu mến Chúa thì không. Chẳng hạn Thánh Phaolô. Ngài đã chịu đủ thứ “gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo”, nhưng Ngài vẫn một mực yêu mến Chúa. Ngài còn lấy làm hạnh phúc bởi được chịu khổ vì Chúa. Các thánh thì cũng thế.
– Nhưng nếu chúng ta không thực lòng yêu mến Chúa, tất cả đều có thể tách ta ra khỏi Chúa. Mà xét cho cùng, chỉ có một người có thể tách chúng ta ra khỏi Chúa, đó là chính bản thân chúng ta.
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Tình yêu. Người yêu thương, chăm sóc và dưỡng nuôi hết thảy mọi người. Tin tưởng vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh không những cung cấp lương thực thiêng liêng / là Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa cho con cái mình / mà còn quan tâm giúp đỡ những ai nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / làm tròn trách nhiệm cao quý nhưng hết sức nặng nề này.
2- Trên thế giới ngày nay / nạn đói vẫn còn đang hoành hành dữ đội / mỗi năm giết chết hàng triệu người lớn và trẻ em tại các nước chậm phát triển / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều nhà hảo tâm / luôn sẵn sàng trợ giúp những người nghèo đói một cách quảng đại.
3- Nhiều khi vì miếng cơm manh áo / mà nhiều người đã bán rẻ nhân phẩm / coi thường danh dự / sa lầy trong vũng bủn tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ những ai đang sống trong cảnh khốn cùng / để dù nghèo khổ / họ vẫn luôn giữ được khí tiết của mình.
4- Quan tâm giúp đỡ những ai đói nghèo / những người bệnh tật / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sống bác ái một cách cụ thể với hết thảy mọi người.
CT : Lạy Chúa, thánh Phaolô đã nói với chúng con “Sống bác ái là chu toàn cả lề luật”. Xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con có thể sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương, và biết thật tình chia sẻ với những ai đói rách bần cùng. Chúng con cầu xin…
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-A
HÓA BÁNH RA NHIỀU- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Người lui đến một nơi hiu quạnh”: Động từ này (anachôrêô) thường thấy trong Mt (2, 12.13.14.22; 4,12; 9,24; 12,15; 15,21) và luôn luôn diễn tả phản ứng của Chúa Giêsu khi thiên hạ không chịu tin Người. Ở đây Người rút lui trước sự cứng tin của quận vương Hêrôđê, kẻ vừa ra lệnh giết Gioan Tẩy giả.
“Và Người chữa lành các kẻ yếu liệt trong họ”: Sau khi viếng Nadarét (13, 53-58), Chúa Giêsu ngừng giảng dạy dân chúng nhưng không phải vĩnh viễn xa họ. Họ vẫn luôn có đó và tiếp tục đổ xô đến bên Người. Như mục tử tốt lành mà Mt 9, 36 đã gợi lên hình ảnh, Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót đám đông. Nhưng người không còn giảng dạy, ngay cả nhờ các thừa sai, mà chỉ chữa lành các kẻ đau yếu. Ngoại trừ cuộc tranh luận với nhóm Biệt phái trong đó Người kêu mời dân chúng hãy xa lánh những kẻ này (15, 10-11), Chúa Giêsu không còn ngỏ lời ra với đám đông. Đây là một loại bỏ quan trọng của Matthêu, nhằm diễn tả một chủ ý thần học: ngày hóa bánh ra nhiều chỉ gồm có việc chữa lành các kẻ đau yếu, chứ không giảng dạy nhiều điều” (Mc 6,34) hay “nói về Nước Thiên Chúa” (Lc 9,11). Giờ phân biệt lúc này chẳng còn gì nữa, vì đã đến vào lúc Chúa Giêsu thực hiện các việc phi thường trước mắt người Do thái (ch.11-12) hay trong dịp giảng dạy bằng dụ ngôn (ch.15). Vì thế, dù trong cả phần này (các chương 14-17), đám đông còn đứng chen chúc đó, thì họ vẫn không còn có thể nghe sứ điệp của Chúa Giêsu; đối với họ, Người chỉ làm thêm phép lạ, vì hoạt động cứu thế của Người vẫn còn liên hệ đến họ luôn. Nhưng hoạt động ngôn sứ của Người đã chấm dứt, chấm dứt với nhận xét sau đây của Người khi bị khước từ ở Nadarét: “Một ngôn sứ chỉ bị khinh khi nơi quê quán mình”. Rồi số phận bi thảm dành cho ngôn sứ Gioan Tẩy giả đến hoàn thành quyết định của Chúa Giêsu.
“Năm chiếc bánh và hai con cá”: Bánh và cá là thức ăn căn bản của dân Galilê. Nhà nghèo ăn bánh lúa mạch, nhà giàu ăn bánh lúa mì.
“Đọc lời chúc tụng”: Trước bữa ăn trong các gia đình Do thái, ông cha đọc một công thức khen ngợi và cám ơn Thiên Chúa về các ơn Ngài đã khấng ban. Sau đây là một ví dụ về lời chúc tụng kiểu đó: “Xin chúc tụng Ngài, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, là Vua vũ trụ, là Đấng làm cho đất nảy sinh cơm bánh”. Chúa Giêsu là chủ gia đình của toàn dân vậy.
“Ai nấy đều ăn no và người ta cất mảnh vụn dư lại được 12 giỏ đầy”. Bữa ăn no nê nầy gợi lên bữa tiệc cánh chung mà Isaia đã tiên báo (Is 25,6; 55,1; 65,13); mười hai giỏ đầy mảnh bánh dư có lẽ ám chỉ đến 12 chi họ Israel; sự nghiệp của Chúa Giêsu lan rộng đến toàn dân chứ không dừng lại ở những kẻ thụ ân Người trực tiếp.
KẾT LUẬN
Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, và phải được giải thích như thế. Chúa Giêsu ở giữa, Người là nguồn mạch mọi ơn, Người ban Lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ môn đồ. Họ ở kề bên Người, chuyển đạt các ơn của Người, nối dài cánh tay Người ra một cách nào đó. Còn dân được Chúa Giêsu quy tụ thì ngồi chung quanh, và vui mừng vì có Người hiện diện. Khi đọc lời chúc tụng, Người ngước mắt lên trời. Người làm các việc mà “Cha đã cho Người thực hiện” (Ga 5, 36). Người không còn là vị trung gian như Môisen xưa, song chính là Đấng ban sự sống, vì Người là nguồn mạch sự sống.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Cử chỉ của Chúa Giêsu nói lên quyền năng Người thi thố trên các yếu tố tạo vật; Người đang ở nơi nhà mình, trong cái thế giới “đã được dựng nên nhờ Người và cho Người” (C. l1,16). Việc Người hóa bánh ra nhiều là một cử chỉ sáng tạo nói lên mối liên hệ sâu xa giữa Người với Đấng tạo thành trời đất, và biểu lộ mầu nhiệm của bản thân Người vậy.
2) Ngày nay Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục hóa bánh ra nhiều, song bánh này đã trở thành một cái gì khác hơn là của ăn vật chất; chúng đã biến nên thân thể Người được ban làm lương thực cho nhân loại. Nhờ thế Người vẫn tiếp tục làm trung tâm của Dân mới mà Người đã quy tụ trong thuyền của Phêrô và phân phát cho họ sức mạnh, hy vọng và tình yêu trong phép Thánh Thể.
3) “Các con hãy cho họ ăn”. Mệnh lệnh này của Chúa Giêsu vẫn luôn vang rền trong Giáo Hội. Người ngỏ nó với những đấng kế vị, các sứ đồ và mọi ai có trách nhiệm trên các linh hồn, kể cả các nhà giáo dục và phụ huynh Kitô giáo. Đó là phân phát cho hết thảy Mình Chúa Kitô và lương thực bổ dưỡng là Lời Người. Nếu các linh mục được chính thức ủy thác thi hành sứ mệnh ấy, thì giáo dân cũng được tham dự vào theo cách thế riêng, bằng cách dẫn đưa những kẻ mà họ có trách nhiệm coi sóc đến bàn tiệc Thánh Thể và dạy cho biết lời Chúa Kitô.
4) Như Chúa Kitô đã quan tâm đến các nhu cầu vật chất của quần chúng, thì các môn đồ người ngày nay cũng phải làm hết sức để xoa dịu các nỗi khốn khổ thể lý mà họ gặp phải, trước hết là cảnh đói nghèo. Việc “hóa bánh ra nhiều” hôm nay là một trong các bổn phận căn bản của Kitô hữu, bổn phận mà nếu cố gắng chu toàn thì họ sẽ được cứu độ: “Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, vì… xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn” (25, 34-35). Nghèo nàn hoặc chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá, điều đó không quan hệ gì cả, miễn là ta biết bắt đầu san sẻ trong tinh thần đức tin. Chúa sẽ thực hiện những gì còn lại.
5) Ngay cả khi làm phép lạ, Chúa Giêsu cũng luôn đòi hỏi một sự hợp tác nào đó từ phía những kẻ kêu xin Người: thông thường là lòng tin, ở đây là năm chiếc bánh và hai con cá. Dù tài nguyên, năng lực, văn hóa, sức khỏe ta yếu kém Chúa Kitô vẫn sẽ dùng ta để thực hiện những việc kỳ diệu nếu ta hiến thân trọn vẹn cho Người.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
TẤM BÁNH LIÊN ĐỚI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương. Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm. Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tục ngữ Việt nam có câu: Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin Mừng hôm nay không?
2) Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ chưa?
3) Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Bạn có nghĩ thế không?
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
CÁC CON HÃY CHO HỌ ĂN- Lm. Đaminh Trần Văn Điều
Trung Hoa và Ấn Độ là 2 quốc gia có tỷ lệ dân số cao nhất thế giới hiện nay. Trung Hoa nhờ áp dụng chính sách kinh tế hợp lý, đang triển vọng vươn lên thành một nước giàu có; trong khi đó, Ấn Độ do tài nguyên thiên nhiên không dồi dào, đường lối kinh tế chưa ổn định, xã hội quá phân biệt nhiều giai cấp khác nhau, nên quốc gia còn đang phát triển, đời sống dân chúng vẫn vất vả lầm than.
Cách đây vài thập niên, Calcutta khi ấy là một thành phố đông dân: ban ngày, người nghèo ngồi la liệt khắp phố, mong chờ lòng rộng rãi giúp đỡ của khách thập phương; ban đêm, họ không nơi cư trú phải nghỉ đêm trên các vỉa hè, hẻm cụt của thành phố. Một nữ tu trung niên người Albanie vốn đang phục vụ truyền giáo tại Ấn Độ, đã động lòng xót thương họ. Đêm ngày đối diện những cảnh nghèo hèn đau khổ của cư dân thành phố Calcutta, Chị đã tự hỏi: “Ta phải làm gì cho đám đông những người đáng thương này?”. Trở lại nhà dòng, Chị gom hết số tiền mình có, mua một căn nhà rẻ mạt và sửa chửa nó thành nơi cư trú qua đêm cho những kẻ không nhà. Bằng khả năng nhỏ bé nhưng với tấm lòng quảng đại to lớn, Chị muốn ra tay làm một cái gì đó giúp người khốn cùng không còn phải bơ vơ hiu quạnh nữa.
Không những lo cho họ có chỗ định cư, lại còn phải tìm nguồn cung cấp lương thực giúp họ sống qua ngày. Làm thế nào Chị nữ tu ấy- mà sau này người ta quen gọi là Mẹ Têrêsa- có thể nuôi đủ 9000 miệng ăn mỗi ngày? Chúa đã không chịu thua lòng bác ái của Mẹ. Nhiều bàn tay yêu thương sẵn sàng liên đới công việc từ thiện của Mẹ: một đôi bạn trẻ sắp lập gia đình, hy sinh không tổ chức tiệc cưới dành toàn bộ chi phí giúp người nghèo; Ủy Ban Nobel trao tặng Mẹ giải thưởng Nobel Hoà Bình năm 1979; nhiều phụ nữ thiện chí dâng hiến cuộc đời trong hội dòng Thừa Sai Bác Ái nối dài việc cứu tế.
Biết nhận ra những người nghèo đói quanh mình, sẵn sàng giúp đỡ tình trạng đau khổ của họ là phương thế đáp ứng lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16).
*1. Tình trạng đói khát trong cuộc sống.
Sách Các Vua quyển thứ II thuật lại: tiên tri Êlisa, môn đệ thân tín của Êlia, đến vùng Baal- Salisa rao giảng. Dân chúng hàng trăm người khát Lời Chúa tuôn đến nghe Êlisa nói đến nỗi không mang lương thực đi đường (2V. 4,42-44). Với 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa của một người dâng cúng, Êlisa đã xin Chúa giúp dân no nê cơm bánh đường dài.
Tin Mừng hôm nay (Mt 14,13-21) cũng cho thấy: đám đông dân chúng từ các thành thị đến nghe Chúa giảng. Nơi hoang địa xa nhà, họ không đủ thuận lợi để mua thức ăn dọc đường. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé mang theo (Ga. 6,9), Chúa đã làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn dư dả.
Cha Mark Linh, SJ. cho biết: Báo Chicago Sun Times có thực hiện một nghiên cứu thì biết rằng thế giới hiện nay trên 6 tỉ người, trong đó hàng đêm khoảng 450 triệu người đi ngủ (13%) mà bụng vẫn đói cồn cào. Họ không đủ điều kiện để có cơm bánh qua ngày, suy dinh dưỡng trầm trọng.
Phi Châu xưa nay vốn là một lục địa có nhiều quốc gia nghèo đói trong vùng. Thập niên 1990, nước Rwanda xảy ra tình trạng tranh chấp giữa 2 sắc tộc: Tutsi và Hutu. Đất đai kém cỏi, hạn hán thường xuyên, lại thêm cuộc nội chiến phe phái, đời sống dân Rwanda mỗi ngày một cùng cực hơn. Liên Hiệp Quốc phải kêu gọi Quốc Tế cứu đói Rwanda.
*2. Giúp đỡ kẻ khốn cùng: hãy cho họ ăn.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Ngài không ngừng thi ân cứu giúp khi con người lâm cơn đói khát.
* Nơi sa mạc nắng cháy da người, dân Do Thái lo sợ đói ăn, khát uống. Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và chim cút, Ngài lại còn cho Maisen cầm gậy gõ vào đá khiến nước vọt ra tràn trề dân uống thoả thuê (Xh. 16-17,1-6).
* Tiên tri Êlia bị hoàng hậu I-de-ven truy nã vì đã ra lệnh sát hại các sư sãi thần Ba-al. Trên đường tránh nạn, Êlia khiếp sợ và lo lắng cho mạng sống mình. Suốt bốn mươi ngày đi đến núi Khô-rếp, Chúa đã nuôi Êlia bằng bánh và nước, giúp ông an tâm ẩn mình, tiếp tục phục vụ Thiên Chúa (1V. 19,1-8).
* Sách tiên tri Isaia còn cho thấy: Thiên Chúa dọn sẵn cho dân Người một bữa tiệc miễn phí đầy cao lương mỹ vị, người nghèo khổ đói khát không có gì để trả cũng được mời tham dự (Is 55,1-3). Bữa tiệc ấy chính là hình ảnh Nước Trời, nơi con người được no nê sung mãn mọi sự.
Chúa Giêsu cũng thúc giục các Tông Đồ: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Ngài mời gọi con người hãy quan tâm đến nhu cầu thiếu thốn của tha nhân.
* Thánh Martin de Porrès: “đứa con bị từ chối” bởi người cha là một hiệp sĩ Tây Ban Nha. Tuy gia đình nghèo khổ, mẹ Ngài vẫn kiên tâm giáo dục 2 chị em Martin nên người tốt lành, hữu ích cho xã hội. Một ngày nọ đi chợ, Martin gặp người nghèo túng bên đường, Martin đã bớt xén tiền chợ, bố thí giúp kẻ khốn cùng. Cậu biết mình cơ cực nhưng nghĩ đến còn nhiều người khác neo đơn hơn: Martin đã rộng tay san sẻ cái mình có.
* Cơn bão Katrina 2005 làm nhiều cư dân VN vùng New Orleans và Bilosi gặp khó khăn. Ngày ngày, họ nhận hàng viện trợ Red Cross cung ứng, tháng tháng lãnh phiếu Food Stamps chi tiêu cho qua ngày đoạn tháng. Bất ngờ vài tháng sau đó, quê nhà Việt Nam bị cơn bão số 9 tàn phá miền Trung dấu yêu: đồng hương đất Mẹ không nhà cửa trú thân, mỗi bữa ăn chỉ được giúp tiêu chuẩn một gói mì tôm, cơn đói hành hạ thê thảm. Kiều bào VN hải ngoại đã không ngại đóng góp tiền của, nhanh tay cứu giúp anh chị em quê nhà còn khốn khổ hơn nỗi xót xa Katrina của mình.
* Mahatma Gandhi đã nói: “Theo quan niệm cá nhân tôi, tất cả chúng ta xét ý nghĩa nào đó đều là tên ăn cắp. Vì: ta có quá nhiều cái dư thừa không cần thiết, trong khi người anh em quanh ta còn thiếu thốn đang cần đến nó. Chúng ta có vật nào đó không cần, thì vật ấy chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những người nghèo cần đến nó”.
*3. Thiên Chúa cần những bàn tay cộng tác của con người.
Tiên tri Êlisa không thể giúp dân chúng vùng Baal-Salisa thoát khỏi cơn đói lả, nếu không có người dâng cúng cho tiên tri 20 bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Chúa Giêsu muốn giúp cho dân chúng đi nghe Ngài giảng được ăn no nê, Chúa mời gọi em bé dâng cúng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài đã thực hiện phép lạ hoá bánh ra nhiều vì yêu thương con người. Ngài sẵn sàng chúc phúc cho con người, khi con người biết cộng tác, đóng góp khả năng mình vào chương trình của Thiên Chúa. “Thánh ý Ngài là gia nghiệp con mãi mãi…Con hướng lòng quyết thực thi thánh chỉ, mãi mãi cho đến cùng” (Tv.118:111-112).
* Trong một lớp Kinh Thánh, khi học hỏi tìm hiểu về phép lạ hoá bánh ra nhiều, một học viên tân tòng đã hỏi Cha xứ rằng: “Thưa Cha! Ngày xưa Chúa đã làm phép lạ nuôi 5000 người ăn, tại sao thời nay Chúa không tiếp tục làm phép lạ thêm, để chúng ta khỏi phải đi làm đầu tắt mặt tối như thế này?”. Cha xứ đã khéo léo trả lời: “Chúa là Đấng quyền năng, Ngài vẫn thường xuyên làm phép lạ cho con người. Ngài vẫn nuôi dân Chúa mỗi ngày bằng lương thực Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Nhưng Chúa vẫn muốn chúng ta cộng tác với Ngài vì nếu Chúa cứ làm phép lạ hoài, con người sẽ lười biếng, cậy dựa vào Chúa hoàn toàn, không trưởng thành được”.
* Có một lần đi sang Hoa Kỳ, nghiên cứu cơ sở để lập các chi nhánh dòng Thừa Sai Bác Ái tại quốc gia này, Mẹ Têrêsa Calcutta đã tâm sự: “Nhiều trẻ em sinh sống tại Mỹ không nghèo vật chất nhưng thật tội nghiệp, chúng lại nghèo tình thương”. Đời sống sung túc đưa con người đến tình trạng hưởng thụ quá đáng, quên cả sự hy sinh tiết kiệm để chia sẻ cho người nghèo,cộng tác với Thiên Chúa giúp thế giới này bớt đau khổ hơn.
*4. Lời nguyện kết thúc:
Lạy Chúa là Thiên Chúa của tình thương,
Chúa yêu thương chúng con quá đỗi, khi tự hiến thân mình
làm Bánh Thánh Thể, bẻ ra nuôi muôn người chúng con
được no nê và được sống dồi dào.
Xin giúp chúng con luôn liên kết cộng tác với Chúa
biết dâng mọi sức lao công vui buồn cùng giọt mồ hôi nước mắt
làm của lễ dâng tiến Chúa mỗi ngày. Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
KHI NGƯỜI TA BIẾT CHIA BÁNH– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14,13-21 và 15,32-38) và Mác cô (6,35-44 và 8,1-10) Luca (9,12-17) và Gioan (6,1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.
Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.
Thế thì tại sao có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng “người thì ăn không hết, người thì làm không ra”.
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, ngày mốt và cho con cháu… thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên mặt đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu mọi người biết chia sớt cho nhau, thì chắc chắn không có ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những phương tiện sản xuất hiện đại, nắm bắt những công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người sa cơ thất thế phải lâm cảnh thiếu đói triền miên.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu, say mê nghe lời Người giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?”
Thế rồi “Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi xuống, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.”
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giêsu kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân.
Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sarépta: Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Êlia truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (1V 17, 7-16)
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giêsu: “Các con hãy cho họ ăn” để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.
Mẹ Têrêxa kết luận: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-A
TẤM BÁNH YÊU THƯƠNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Tại hội đường Nazareth, Đức Giêsu đã nói về sứ mạng của Ngài: “Thánh Thần Chúa ngự trên Tôi, vì Ngài xức dầu cho Tôi, sai Tôi đi rao giảng tin mừng cho kẻ nghèo khó, chữa lành các bệnh nhân và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa….”.
Trong ba năm rao giảng Tin mừng Đức Giêsu đã làm sáng lên sứ mạng của Ngài khi giảng dạy như Đấng có uy quyền và kèm theo các phép lạ, người ta tin theo Chúa đông lắm, cho nên vừa ra khỏi thuyền Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng đi theo, thì Ngài chạnh lòng thương. Lòng thương ấy làm sáng lên dung mạo của Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Vì thương nên Ngài dạy dỗ họ nhiều điều. Vì thương, nên Ngài chữa lành mọi bệnh tật, và vì thương nên Ngài hóa bánh ra nhiều cho họ ăn uống no nê.
Ngày qua ngày, Thiên Chúa vẫn chạnh lòng thương và thi ân giáng phúc để chúng ta được sống dồi dào, bình an và hạnh phúc. Vấn đề ở chỗ là chúng ta có nhận ra tình Chúa yêu thương hay không? Chúng ta có năng tìm đến với Chúa như dân Do thái năm xưa không?.
Nhìn vào thế giới hôm nay, con người văn minh phát triển nhiều lãnh vực thật đáng kể, thế nhưng, dường như trái tim một số đông người lại nhỏ bé hơn, lòng con người hẹp hòi hơn, do chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ, chỉ lo vun đắp cho mình hơn lo cho người khác. Vì thế, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Đó là nền văn minh của sự chết ”.
Theo ngân hàng thế giới cho biết hiện nay có trên 1 tỉ 300 triệu người đang đứng trước ngưỡng cửa của sự nghèo đói thất nghiệp. Có gần 1 tỉ người đi ngủ đêm với bụng đói, và mỗi ngày có hơn 50 ngàn người chết đói, chết khát, chưa kể chết vì phá thai, bệnh tật, tai nạn, chiến tranh…
Mặc dầu thế giới văn minh tột bậc như thế, nhưng tại sao có tình trạng chết đói chết khát như thế?. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này hết sức tốt đẹp, tài nguyên thiên nhiên dư đầy, cộng với trí thông minh con người, thì không thể nào chết đói được. Ấy thế mà tại sao vẫn còn tình trạng thiếu thốn đói khát như vậy?. Thưa, bởi vì con người thiếu tình liên đới với nhau. Hay nói rõ hơn là phân phối lương thực không đồng đều. Mỗi năm những nước giàu có đổ xuống biển biết bao nhiêu tấn lương thực do thừa mứa, do quá đát mà không viện trợ cho những đất nước nghèo.
Rồi hơn 80% của cải được cất giữ trong ngân hàng, trong két sắt, trong túi áo của những nhà tỉ phú, những ông đại gia. Người ta bỏ ra bao nhiêu tiền của đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng người ta lại can đảm giết chết những đứa con vô tội còn nằm trong dạ mẹ.
Người ta bỏ ra bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền của đi du lịch nước này nước nọ chơi được, nhưng người ta lại khó lòng dành ra một chút thời giờ bước sang nhà bên cạnh, để thăm một bệnh nhân đang cần một lời kinh hay một lời an ủi trong giờ sau hết.
Có khi người ta không chết đói vì chén cơm manh áo, nhưng người ta chết đói vì bỏ rơi, người ta đói tình người, đói sự quan tâm, chia sẻ tình liên đới với nhau. Cho nên, con người ngày nay rất cần tấm bánh sự thật, tấm bánh yêu thương, tấm bánh cảm thông, tấm bánh tình nghĩa…
Với quyền năng và tình thương, Thiên Chúa làm được mọi sự, Ngài chỉ phán một lời là có dư thừa bánh cho mọi người ăn, nhưng Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có. Cụ thể như câu chuyện trong Tin mừng hôm nay, nhờ năm chiếc bánh và hai con cá do lòng quảng đại của cậu bé, mà Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho bao nhiêu ngàn người được ăn dư thừa.
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần hiệp dâng Thánh lễ đông đảo như thế này, chẳng khác nào dân chúng năm xưa, Chúa Giêsu tiếp tục chạnh lòng thương xót. Vì khi cử hành Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu tự hiến thân mình, tự bẻ đời mình ra để nuôi sống chúng ta. Và Ngài nhắc nhở chúng ta: “các con hãy cho họ ăn”, có nghĩa là Chúa muốn chúng ta hãy cho nhau thời giờ, cho nhau một lời cảm thông, một lời tha thứ và chia cơm xẻ áo cho nhau.
Ước gì chúng ta biết sống tình liên đới và cộng tác với ơn Chúa theo khả năng của mình, để rồi biến đời mình trở thành những tấm bánh yêu thương được bẻ ra, được chia sẻ cho tha nhân, tuy đơn sơ nhỏ bé, nhưng với lòng tin và con tim rộng mở, Chúa sẽ làm phép lạ, để thế giới này bớt đi cảnh đói nghèo vật chất và đói khát tình thương. Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).
Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người. Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.
Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.
Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.
Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.
Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo, mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.
Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.
Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường. Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh. Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành, sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.
Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn nửa vời.
Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (x. Lc 14,33).
Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).
Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.
Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống, Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người dẫn vào cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20).
Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.
Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được. Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người.
Tất cả là hồng ân!
Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-A
ĐÀO TẠO LÒNG TIN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng.
Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.
Chúa làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ.
Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!” (Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5, 4 -7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6, 38). Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.
Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích đào tạo lòng tin của các môn đệ.
Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Ngài đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Ngài là vị Mục tử mà ngôn sứ Êdêkien đã nói đến (x. Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Ngài là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẻ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại.
– Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14, 20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng” (Mc 14, 22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (x. Lc 24, 30) và của Giáo hội (x. Cv 2, 42).
– Được bánh ăn, dân chúng muốn “bắt lấy Ngài tôn lên làm vua” (Ga 6, 15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống, chính là “Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.
“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.
– Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.
Các anh có mấy chiếc bánh? (Mc 6, 38), đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi, vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.
Bánh Lời Chúa:
“Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ” (Dt1, 1).
Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9, 2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao!
Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng “do nhân” (ex opere operantis), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành phụng vụ. Đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo hội bời Thừa tác viên chính thức.
Lời Bí Tích mang hiệu năng “do sự” (ex opere operato), qua các bí tích, Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.
Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm, nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần” (1 Cor 12, 3) và “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công” (Tv 127, 1).
Các Con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa, chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời, cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.
Công bố Lời Chúa, vừa là một hồng ân, vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.
Bánh Thánh Thể:
Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người.
Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh, chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui, ta uống chén rươụ mừng, nhưng khi buồn, ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu, là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Đến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng, là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.
Linh mục đọc Lời Truyền Phép là lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ, để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.
Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó, tham dự thánh lễ cách đầy đủ, tích cực, trọn vẹn với tất cả con người, là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaiviê Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. (Đường Hy Vọng #349).
Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).
Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- A
PHÉP LẠ CỦA SỰ LẮNG NGHE– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể. Đây là cái nhìn thông thường. Thế nhưng, theo tường thuật của thánh Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa. Họ vượt qua mọi trở ngại của ngăn sông cách núi. Họ rỉ tai nhau. Họ lũ lượt mời gọi nhau lên đường tìm kiếm Chúa. Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn. Họ không xin Chúa bánh ăn. Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng. Họ muốn tìm ra chân lý của cuộc đời. Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống. Thực sự họ đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời. Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng của Chúa đến mức độ quên cả thời gian. Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này vẫn chưa muốn rời xa Chúa. Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi miệng Chúa.
Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000 người). Đây cũng là một sự kiện lạ. Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào. Nơi mà người ta nói “ăn sóng nói gió”, phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau. Thế mà, lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người. Mặc dù không micro, không loa phóng thanh. Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên man mà ai cũng nghe được. Ai cũng hiểu. Ai cũng say sưa nghe giảng. Quả thực, đây là một phép lạ! Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe. Họ tôn trọng Chúa là người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe. Thông thường ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe. Chính nhờ thế mà đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau. Khi mỗi người biết nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được thanh bình hơn. Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở và yêu thương. Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc. Một thế giới mà còn đầy những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình yên. Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ không có được tâm hồn thanh thỏa bình an.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau. Vợ chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở. Con cái vâng lời cha mẹ. Kính yêu ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương. Một thôn ấp văn hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau. Tối lửa tắt đèn có nhau trong sự chia cơm sẻ áo. Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng vẫn lời qua tiếng lại. Chê bôi, dè bửu nhau. Chỉ gây thêm hận thù. Đánh mất truyền thống tổ tiên. “Thương người như thể thương thân. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ. Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi lại. “Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng dạy và gom góp của cải thành của chung”. Một con người biết đóng góp và xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: “Tôi đã làm gì cho giáo xứ”, hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.
Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương thực được trao tặng cho nhau. Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một đứa bé. Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau. Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thương. Amen.