CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
LỰA CHỌN NƯỚC TRỜI(*)– Chú giải của Noel Quession. 6
DỤ NGÔN KHO BÁU, NGỌC QUÝ VÀ CHIẾC LƯỚI ĐÁNH CÁ- Chú giải của Fiches Dominicales 14
NHẬN RA GIÁ TRỊ KHÔN SÁNH CỦA NƯỚC TRỜI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 20
THIÊN CHÚA LUÔN BAN NHỮNG SỰ TỐT LÀNH CHO TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 29
DỤ NGÔN KHO TÀNG, VIÊN NGỌC VÀ LƯỚI CÁ- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 41
KHÔN NGOAN TÌM NƯỚC TRỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt 47
CHỌN NƯỚC TRỜI LÀ KHÔN NGOAN…- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm 50
TÌM KIẾM KHO TÀNG HẠNH PHÚC– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 52
KHO BÁU TRONG RUỘNG- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy. 58
KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC- Lm. Đaminh Trần Văn Điều. 63
NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ KHO BÁU- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện. 70
NƯỚC TRỜI– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 78
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, tại Gabaon, ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng và phán rằng: “Ngươi muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho ngươi”. Salomon thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này?”
Điều Salomon kêu xin như trên đã đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: “Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 118, 57 và 72. 76-77. 127-128. 129-130
Đáp: Lạy Chúa, con yêu chuộng luật pháp của Chúa biết bao! (c. 97a)
1) Lạy Chúa, con xưng thực kỷ phần của con là tuân giữ những lời ban dạy của Ngài. Đối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. – Đáp.
2) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. – Đáp.
3) Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ. – Đáp.
4) Kỳ diệu thay những lời Ngài nghiêm huấn, bởi thế linh hồn con vẫn tuân theo. Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 28-30
“Người đã tiền định cho chúng ta trở nên giống hình ảnh Con Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! – Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 44-46 hoặc 44-52
“Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
“Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?” Họ thưa rằng: “Có”.
Người liền bảo họ: “Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN-A
LỰA CHỌN NƯỚC TRỜI(*)– Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu nói với đám đông các “dụ ngôn” sau đây.
Đức Giêsu như mọi người kể chuyện ở phương Đông, không giảng dạy một cách trừu tượng, người đưa ra những hình ảnh đẹp những từ ngữ chứa đựng những biểu tượng phổ quát mà mọi người có thể hiểu gợi ra nhiều ý nghĩa hơn định nghĩa của các từ ngữ và do đó thường có thể có nhiều cách giải thích khác nhau. Cũng như trong văn nói, những sự lặp lại, những điệp khúc cho phép khắc ghi một bài học vào trong trí nhớ.
Những dụ ngôn của Đức Giêsu, dù được đọc chỉ một lần, không thể nào quên được. Người ta cũng nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như những kinh sư của thời đại Người thực tế là đã dạy cho các thính giả của Người thuộc lòng những bản văn ngắn. Nhưng như thế thì rất dễ. Vậy chính các bạn hãy thử lại xem-! Các bạn hãy đọc một dụ ngôn và sau đó đọc lại bằng trí nhớ của mình.
Nước trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Một “kho báu”! Mỗi người có thể hiểu điều đó theo cách hiểu của mình. Trên khắp trái đất, trong mọi nền văn minh, con người đều có những đồ vật mà họ coi như những “kho báu’: một vật gì đó đáng được ao ước làm người ta thèm muốn, ở Palestin, vào thời của Đức Giêsu, không có nhiều ngân hàng để gởi những món tiết kiệm mà một gia đình dành dụm cho được an toàn. Vậy, người ta chôn món tiền ấy trong một góc của cánh đồng. Và có khi chủ sở hữu chết di mà không thể tiết lộ nơi giấu kho báu cho ai. Khi làm ruộng, một nông dân sau này có thể tình cờ khám phá ra.
Người nào đã khám phá ra… liền chôn giấu lại!
Thái độ này kỳ lạ… kích thích sự tò mò. Người ấy sắp làm gì?
Rồi vui mừng, đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Rõ ràng đây là cao điểm của bài dụ ngôn mà Đức Giêsu muốn gợi ý cho chúng ta. Các bạn có đồng ý với cách làm đó không? Nếu các bạn gặp được một sự may mắn như thế, một cơ hội tương tự, bạn có làm giống vậy không. Phải, trong đời sống của chúng ta, chúng ta có thể thực hiện những hy sinh to lớn vì một điều mà chúng ta ấp ủ ở trong lòng: các sinh viên làm việc không nghỉ ngơi khi kỳ thi và một kỳ thi tuyển mà họ mơ ước một cách mãnh liệt sắp đến… các vận động viên kiêng cữ đủ thứ để tiến hơn trong bộ môn thi đấu và phá kỷ lục… cha mẹ trong gia đinh hy sinh cho con cái họ… các chính khách trong lãnh vực chính trị và công đoàn bỏ qua các thú vui và sự thư giãn vì chính nghĩa mà họ đang chiến đấu… Đối với Đức Giêsu, Nước Thiên Chúa là một thực tại rất cao quý đến nỗi đáng để hy sinh tất cả, để khám phá, và để sống. Ở đây chúng ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nói về “niềm vui chúng ta đoán được niềm vui ngây ngất của Người thấy một kho báu”. Trong sự vui mừng, người ấy bán tất cả những gì mình có…” Đối với Đức Giêsu, sự hy sinh không phải là một việc đau buồn:
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Rõ ràng ở đây có cùng một bài học, với cùng một điệp khúc. Nhưng thêm một khía cạnh quan trọng. Người làm thuê tình cờ khám phá được kho báu… còn người bán kim hoàn “tìm kiếm” như một người sưu tập tìm một món đồ quý hiếm. Chúng ta cũng thế, chúng ta đều đi tìm hạnh phúc. Nhưng, than ôi; nhiều người trong chúng ta đã lầm lẫn khi tìm những hạnh phúc không giá trị gì, những viên ngọc giả cũng sáng như những viên ngọc thật, nhưng không giá trị như những viên ngọc thật… và chỉ đánh lừa người dốt nát… Đức Giêsu, Người biết hạnh phúc thật của chúng ta là gì. Người đề nghị chúng ta phải trả giá và phải làm tất cả để có được hạnh phúc ấy. Không có niềm vui chân thật và lâu dài bên ngoài sự hiệp nhất với Thiên Chúa… điều mà Người: gọi là Nước Trời!
Để sống hạnh phúc vô giá, tuyệt vời ấy, hãy mua cho được viên ngọc đó… phải làm gì đây?
Ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong thực tế cảnh tượng mà Đức Giêsu kể lại. Xung quanh con người “bán tất cả những gì mình có”, hẳn người ta phải nói: “Thằng cha này điên! Vậy sao? Chính vì những người khác không biết. Khi bán tất cả tài sản của mình, người ấy biết rằng mình không mất gì cả… bởi vì người ấy biết giá trị của viên ngọc! Và tôi cố tưởng tượng Đức Giêsu đang kể lại câu chuyện lôi cuốn này. Không chút lưỡng lợ. Đức Giêsu quả là con người có những quyết định cao cả, có vẻ điên rồ. Trong thực tế Người đã cho tất cả, đã đặt vào đó cái giá tối đa. Ngày hôm nay, thật là tốt đẹp khi có những con người, nam cũng như nữ nghe được tiếng gọi “hiến dâng tất cả” một cách triệt để lập tức thánh hiến cả cuộc đời mình cho Nước Trời qua đời sống linh mục và tu trì.
Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài.
Đức Giêsu có lẽ đang nói về các thủy thủ ở bờ hồ Tibêria. Người nói về Thiên Chúa xuyên qua ngôn ngữ và những hoàn cảnh người ta đang sống. Đó là một biểu mẫu tốt nhất cho những cách dạy giáo lý về mầu nhiệm của Thiên Chúa, nếu chúng ta cũng quan tâm một cách cụ thể đến cuộc sống hàng ngày của anh em.
Nước Trời! Matthêu sử dụng công thức này để tránh nói ra từ ngữ về Thiên Chúa đối với dân Do Thái. Cách diễn tả này cũng có ý nghĩa như “Nước” của những con người hoàn hảo về mọi phương diện, là một sự quy tụ đủ mọi hạng người… tốt và ít tốt hơn! Chúng ta đã thấy tư tưởng này có trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa mì: Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi những kẻ tội lỗi và… cho họ có thời gian.
Trước hết, Thiên Chúa chịu đựng tôi và cho tôi một thời gian. Nhưng hãy coi chừng! Sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi không thể được giải thích như một sự “bỏ mặc” khiến chúng ta sống thụ động, sống chờ thời và sống dửng dưng. Chúng ta hãy nghe phần tiếp theo…
Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lò lửa, ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Một lời cảnh báo hết sức nặng nề! Lòng nhân từ của Thiên Chúa không phải là sự đồng lõa với điều xấu. Vừa rồi, Đức Giêsu nói về niềm vui! Giờ đây Người nói về khóc lóc và nghiến răng… sáu lần công thức đe dọa này trở lại trong Matthêu (8,12; 13,12; 13,50; 22,13; 24,51; 25,50). Chúng ta thường có xu hướng quên rằng sẽ có một sự phán xét. Thái độ của chúng ta không trung lập: chúng chuẩn bị cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta, Đức Giêsu nói. Và chúng ta phải mau lẹ hoán cải. Bởi sự nghiêm khắc này, Đức Giêsu muốn thức tỉnh chúng ta.
Không có gì là sự thích thú đày đọa trong những công thức ấy nhưng là tình yêu của một người sáng suốt muốn làm cho ta hiểu rõ cái được cái mất của đời sống. Khi bác sĩ phẫu thuật đưa con dao mổ vào vết thương mưng mủ, đó không phải vì ông dữ tợn mà vì ông muốn cứu người bệnh. Ngay cả khi dùng đến ngôn ngữ khải huyền (“khóc lóc và nghiến răng” là một phần của văn phong thời đại đó) rõ ràng là Đức Giêsu muốn tạo ra trong chúng ta một cú sốc sinh ơn cứu độ.
Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?
Thiên Chúa không áp đặt. Người tra hỏi chúng ta. Người tôn trọng tự do của chúng ta. Nhưng Người hỏi chúng ta “hiểu” không? Anh em có hiểu không? Từ “hiểu” là một từ được Matthêu lặp lại: Mt 12,7; 13,13; 13,14-15-19-23-51; 15,10-17; 16,9-11-12; 17,13; 19,11-12;21,45-46; 24,15-32-33-43. Đây là câu hỏi nền tảng.
Chẳng phải là trong lòng tôi có nhiều ngõ ngách của cuộc đời mà tôi không muốn hiểu đó sao? Chẳng phải là có những hoàn cảnh mà tôi không muốn đối chiếu với Tin Mừng đó sao? Lạy Chúa, xin thương nhắc con câu hỏi của Người: “Con có hiểu không?”
Họ đáp: “Thưa hiểu”.
Trong sự ngay thẳng, con cũng muốn nói rằng “con hiểu” những dự án của Thiên Chúa trong đời con. Nhưng con xin Chúa sức mạnh để hoàn thành chúng cho đến cùng, cho đến sự lựa chọn cao cả sau cùng, khi Chúa đưa ra ánh sáng “điều gì tốt” và “điều gì không có giá trị” trong cuộc sống.
Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ”.
Đức Giêsu không khinh thường khoa học của các “kinh sư” các học giả về Luật, cho dù nhiều người trong bọn họ thực ra đã chống lại cái mới của Tin Mừng. Chính Matthêu soạn ra Tin Mừng, ngài tự giới thiệu như một “kinh sư” một người hiểu biết sâu xa Truyền thống của Cựu ước… nhưng có khả năng rút ra từ truyền thống ấy điều mới mẻ!
Dụ ngôn nhỏ này và cũng là sau cùng làm kết luận cho một loạt các dụ ngôn mà chúng ta đọc từ ba Chúa nhật và mang đầy tính thời sự. Cuộc tranh luận của những người theo xưa và theo nay. Sự đối lập giữa những người bảo thủ và những người cấp tiến. Đối với Đức Giêsu, người “theo truyền thống” thật sự không thể chỉ là người lặp lại cứng ngắc. Để không phản bội tư tưởng của Đức Giêsu, phải hiểu biết tư tưởng ấy từ nền văn hóa và ngôn ngữ của thời đại mình và vì thế, làm sáng tỏ tư tưởng ấy và thích ứng nó với thời đại của chúng ta mà vẫn tôn trọng ý nghĩa sâu xa của nó. Đức Giêsu hầu như không mã hóa gì cả. Bởi vì ‘Thiên Chúa là người cùng thời với chúng ta”: Người nói với chúng ta ngày hôm nay. Truyền thống (cái cũ) là chân chính nếu nó sống động, đầy những chồi nụ (cái mới). Cái mới chân chính không hủy hoại truyền thống: đối với những vấn đề mới, nó rút ra những lời giải đáp mới phù hợp. Với sự khôn ngoan của mọi thời đại. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chú ý đến mọi “cái mới” trong Giáo Hội “cũ xưa” của Chúa. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung tín với Người.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
DỤ NGÔN KHO BÁU, NGỌC QUÝ VÀ CHIẾC LƯỚI ĐÁNH CÁ- Chú giải của Fiches Dominicales
1-Chọn lựa Nước Trời là điều khẩn trương…
Từ hai tuần qua, chúng ta đã khởi sự đọc “Bài giảng bằng dụ ngôn”, với dụ ngôn người gieo giống. Hôm nay chúng kết thúc với những dụ ngôn kho báu và ngọc quí dụ ngôn chiếc lưới và lời kết thúc bài giảng.
Như một cặp, nên hai dụ ngôn kho báu và ngọc quí đều được xây dựng cách cân đối. Không muốn ta chú ý đến những sự vật là kho báu ngọc quí vì cho ta ít giáo huấn- hai dụ ngôn muốn tập trung chú ý của ta vào thái độ ửng xứ của các nhân vật. Việc họ khám phá ra kho báu, viên ngọc chỉ làm nên điều giả sử đã có, sẽ cho phép ta hiểu được ngay cách hành xử mà hai người đã chọn.
+ Người thứ nhất là một người làm công nhật, cầy ruộng của một người khác, tình cờ trong lúc làm ruộng, anh gặp thấy chôn giấu miếng đất một kho báu. Một kho báu mà theo con mắt của anh là vô giá, nên anh liền “đi bán tất cả những gì có là mua thửa ruộng ấy”.
+ Người thứ hai là một thương gia buôn bán ngọc quý. Tình cờ trong khi chạy hàng anh đã tìm được một viên ngọc thượng thặng, liền bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy”.
Cả hai đều không muốn bỏ lỡ cơ hội có một không hai, không muốn để cho vận may của cuộc đời qua mất, và vì thế họ hành động. Lời đáp trả cho sứ điệp Tin Mừng về Nước Chúa, như J. Dupont chú giải, có thể khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh và ơn gọi của mỗi cá nhân; nhưng không làm tất cả những gì cần thiết để được vào Nước Chúa, không lợi dụng vận may hiếm có đưa đến, đó là tỏ ra một thái độ khờ dại không thể tha thứ được. Chẳng có gì là phải trả giá quá đắt đối với -sự thiện có được: lấy tất cả những gì ta có, đem tất cả con người của mình để đặt cọc cho sự thiện này, đó chính là việc mua bán tuyệt vời. Đã cam kết trọn vẹn, lẽ nào lại keo kiệt, đắn đo? Hiểu như vậy, ta mới thấy hai dụ ngôn khó ăn ý với nhau để minh hoạ cho lời rao giảng ban đầu của Chúa Giêsu: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17) (cf. Assemblées du Seigneur, số 48, trang 20).
2- Đang khi đợi chờ ngày Chúa đến:
Tiếp theo là dụ ngôn chiết lưới, đúng hơn là lưới vét: một loài lưới để là, hoặc là được kéo đi nhờ hai thuyền, hoặc được một thuyền đánh cá bố trí, rồi dòng giây dài vào bờ mà kéo đi.
+ Rất gần gũi với dụ ngôn cỏ lùng và hạt giống tốt, dụ ngôn thứ bảy và cũng là dụ ngôn cuối cùng này đưa chúng ta gặp lại biển, bờ biển cùng những người ngồi trên bờ lúc Chúa bắt đầu giảng (Phúc âm Chúa nhật thứ XV). J. Dupont giải thích: “Đức Giêsu loan báo việc Nước Chúa đến là điều sắp xảy ra. Thế nên mọi người biết rằng việc đến này phải bắt đầu bằng một cuộc tẩy rửa lớn lao… Bởi vậy, người ta chờ đợi xem Đức Giêsu bắt đầu cuộc thanh tẩy: luận phạt kẻ có tội, qui tụ người công chính chung quanh Người. Nhưng sứ vụ của Đức Giêsu lại chẳng tương xứng chút nào với sự mong chờ đợi này… Đức Giêsu phải tự giải thích. Người thực hiện điều này bằng nhiều cách khác nhau: Sứ mệnh của Người liên can tới những người tội lỗi mà Chúa muốn cho họ được cứu độ (Mt 20,1-15; Lc 15); làm cho giờ xét xử đến trước thời gian, việc đó không thuộc quyền Người… Thiên Chúa xử sự không khác với các ngư phủ; họ gom tất cả vào lưới rồi mới tiến hành việc lựa chọn. Bởi vậy lòng nhân từ yêu thương Đức Giêsu tỏ ra đối với những người tội lỗi không được là căn cớ gây nên xì-căng-đan: trong viễn ảnh ngày cánh chung khi mà Thiên Chúa ra tay can thiệp, thì sứ vụ của Đức Giêsu được coi là giai đoạn một, giai đoạn mà lưới được đầy cá đủ loại. Thời điểm tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính hãy còn chưa tới. Nhưng sẽ tới, đó là điều chắc (O.C., trang 22-23).
+ Lời giải thích tiếp theo ngay dụ ngôn này rõ ràng có một sự chuyển hướng tầm nhìn. Trong dụ ngôn, Đức Giêsu có ý cắt nghĩa tình trạng hiện hành là việc trà trộn người tốt với kẻ xấu. Còn cách giải thích của Phúc âm thứ nhất thì nhấn mạnh đến sự trừng phạt sẽ giáng xuống những kẻ có tội vào ngày tận thế, vào giờ sẽ thực hiện sự lựa chọn. J. Dupont kết luận: “Trong lời cảnh giác nghiên nhặt này, người ta nhận thấy mối bận tâm có tính huấn giáo của thánh sử. Ngài lo lắng vì thấy có biết bao tín hữu mà nơi họ lời Chúa vẫn trơ trơ không sinh kết qủa gì” (O.C. trang 24).
BÀI ĐỌC THÊM:
1-Chỉ có một thực tại đáng kể, kính là Thiên Chúa (J. Potin, trong “Jésus, l’histoire vraie” NXB Centurion, 1994, trang 134).
Bằng hai dụ ngôn nhỏ này. Đức Giêsu gợi ý rằng nước Trời là giá trị tuyệt đối không thể đem ra so sánh được với cái gì khác. Mọi sự còn lại đều mờ nhạt khi ta nhận thức được Nước Trời là gì và cao quý thế nào. Nhân vật trong dụ ngôn như bị thôi miên, bị choáng ngợp vì sự khám phá của mình, từ nay trở đi chỉ có một cái đó là đáng kể đối với anh mà thôi. Và để cái đáng kể đó trở thành của mình, anh sẵn sàng rũ bỏ mọi sự. Đức Giêsu chỉ cho thấy chỉ có một thực tại đáng kể chính là Thiên Chúa, Đấng mà ta phải loại trừ và hy sinh tất cả mọi sự khác ở trần gian này để mà chiếm lấy”.
2-“Đức tin, trường học ưu tiên và hấp dẫn” (F. Deleclos, trong Preuds ét mang La Parole”, Centurion – Duculot, 1992, trang 68-69).
Vì thế phải nhìn Kitô giáo trong sự thực sâu xa của nó. Không phải là tôn giáo chủ trương tìm kiếm đau khổ hay cam chịu đau khổ, không phải là tôn giáo sùng bái những hy sinh và từ bỏ chỉ vì phải từ bỏ, hy sinh. Đức tin mới là trường học được ưa chuộng nhất và hấp dẫn, là bước dẫn đến kho báu đích thực làm cho cuộc sống và trọn vẹn cuộc sống được phong phú. Sứ điệp và giáo huấn của Đức Kitô là Tin Mừng chân lý và hạnh phúc.
Đối diện với kho báu, chúng ta bị dồn vào thế phải chọn lựa và chọn lựa ngay không tên hoãn: bán đi để có được, từ bỏ để chiếm hữu, khước từ để được tự do. Chắc chắn là phải khởi sự đi tìm và tìm cho được, bởi lẽ tài sản quý giá vô cùng này, viên ngọc vô giá kia được chôn giấu trong đất mà chúng ta vẫn dằm lên mỗi ngày. Kho báu và viên ngọc quý ấy hoà trộn vào cái làm nên sinh hoạt đời thường của ta. Bởi vậy ta có thể đến gần nó mà không biết, xéo lên chúng mà lại vô tình. Vì thế ta phải biết chú ý đến “những dấu chỉ của thời đại”, những tiếng gọi bí ẩn vang dội lên mỗi ngày và trong mọi trường hợp. Bị loá mắt nếu không muốn nói là mù quáng bởi ánh sáng của những của cải phù vân giả dối, chúng ta có nguy cơ bỏ qua “chiếc đồng hồ vàng” và lạc đường khi đuổi theo những ảo ảnh. Bí tích Thánh Thể là phút dừng chân đặc biệt trong cuộc săn đuổi tìm kiếm kho báu. Hãy mượn lời ca của thánh vịnh để hát lên: “Niềm hy vọng của con, chính là lời Chúa! Nhờ để tâm lắng nghe Lời khôn ngoan, lòng ta “bừng cháy”. Việc khám phá ra tài sản quý giá không xa. Nhưng liệu ta có đủ tin tưởng và lòng tin để bán đi những gì ta có hầu mua lấy viên ngọc quí hoặc thửa ruộng có kho báu ấy chăng?
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- A
NHẬN RA GIÁ TRỊ KHÔN SÁNH CỦA NƯỚC TRỜI (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII Thường Niên Năm A này đề nghị chúng ta suy niệm về đức biện phân.
1V 3: 5, 7-12
Trong Bài Đọc I trích từ sách Các Vua quyển thứ nhất, vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình “một tâm hồn biết lắng nghe” để “biết phân phải trái”, nhờ đó vua mới có thể điều hành dân của Chúa cách công minh chính trực. Lời cầu xin của vua làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Rm 8: 28-30
Trong đoạn thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc các tín hữu nhớ lại rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài.
Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đòi hỏi chúng ta phải biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để thu đắc cho được Nước Trời.
BÀI ĐỌC I (1V 3: 5, 7-12)
Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, vua chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống Kinh Thánh, vua ở độ tuổi mười hai.
1-Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:
Vua đi đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để dâng hiến lễ lên Thiên Chúa. Vào lúc đó, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng. Đêm sau đó vua có một giấc mộng.
Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa được các nhà giải mộng vây quanh. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp thần linh trong khi ngủ mơ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Những dân tộc thời xưa cho chúng ta nhiều ví dụ về điều này. Thật đáng lưu ý rằng trong dân Ít-ra-en, cách thức mặc khải này không còn nữa trong xuất thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong những thế kỷ muộn thời hơn, kỷ nguyên của các sách khải huyền.
2-Lời cầu xin của vua Sa-lô-mon:
Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi khi vua cầu xin Chúa ban cho mình “một tâm hồn biết lắng nghe” để “biết biệt phân phải trái”, nhờ đó vua có thể cai trị dân của Thiên Chúa, một dân lớn mạnh như thế.
Như người gặp được kho báu hay một thương gia đi tìm ngọc đẹp của các dụ ngôn của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra những giá trị đích thật. Khi thức dậy, vua hiểu lời báo mộng của Đức Chúa. Từ đó, vua điều hành việc nước một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua từ chối những phú quý giàu sang, tuy vậy, vua được ban vô số kể.
3-Tính chất thần học của chuyện tích:
Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua (qua nhiều giai đoạn biên soạn) trong suốt thời gian làm việc nghiêm túc đã tra cứu những tài liệu viết và đã thu thập những truyền thống miệng, nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ thuộc trật tự thần học. Chìa khóa của lịch sử Ít-ra-en nằm trong tay Thiên Chúa. Về vấn đề này, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.
Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu ghê tởm ý tưởng tôn một người lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ mình Đức Chúa là Vua của họ. Tuy nhiên, những hoàn cảnh lịch sử đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng thể chế quân chủ này được tín nhiệm, nếu vị quân vương nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài” khi vua ngỏ lời với Thiên Chúa. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.
Thứ nữa, những phẩm chất đặc biệt của con vua Đa-vít và vinh quang của triều đại vua hiển nhiên là câu trả lời của Thiên Chúa. Ngay từ ngày đăng quang của vị vua trẻ, Thiên Chúa đã cầm tay của vua để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại Lịch Sử của dân tộc mình, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây Lịch Sử Thánh.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 28-30)
Đoạn thư này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần kết này được kèm theo với bài ca Đức Ái. Đoạn thư này thật sự khó nắm bắt những suy luận thần học về tiền định, ngay từ thời thánh Âu-gút-ti-nô.
1-Vấn đề tiền định:
Chúng ta phải hiểu những lời này của thánh Phao-lô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, Con của Người, để Đức Ki-tô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?
Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn thư này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phao-lô lấy lại sự phát triển của mình trên sự công chính hóa nhờ đức tin và trên vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ “ý định” luôn luôn được thánh Phao-lô dùng theo nghĩa phổ quát, không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh việc Thiên Chúa kêu gọi và con người được gọi; đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không còn có bất kỳ chỗ nào cho việc tiền định phải chịu kết án cả.
2-Tình Chúa yêu thương:
Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi của tình yêu. Những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho họ”. Lợi ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là lợi ích tinh thần trong thời hiện tại. Từ “mọi sự”, đối lập với “lợi ích”, chỉ ra những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.
Đối với người Do thái, kiểu nói: “Những ai Người đã biết từ trước”, luôn luôn âm vang một tuyển chọn xuất phát từ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Không phải thánh Phao-lô không biết ý nghĩa thâm sâu của nhũng lời này, nhưng thánh nhân nhấn mạnh rằng sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn biện phân của Thiên Chúa, Đấng qua thời gian nhận ra những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài bằng trọn niềm tin của mình.
3-Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:
Một lần nữa, thánh Phao-lô đặt sự lạc quan của mình dựa trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Ở đây sự ám chỉ thì dễ thấy. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài; người Ki-tô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Việc hiệp nhất với Đức Ki-tô cho phép “phục hồi hình ảnh nguyên thủy”.
Tiếp đó, thánh Phao-lô trở về khởi điểm của mình (hình thức văn chương bao hàm); thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa đến câu trả lời của con người qua đức tin, ơn công chính hóa đoạn vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt vinh quang tương lai vào thời quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Thời quá khứ diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này. Chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, Đức Giê-su nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11: 24).
Chúng ta nên đọc lại đoạn thư này: tiền định được nêu lên trong thư này chính là Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ muôn thuở. Chủ đề hy vọng đem lại cung giọng cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang và cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.
TIN MỪNG (Mt 13: 44-52)
Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài của Đức Giê-su về các dụ ngôn theo Tin Mừng Mát-thêu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới trong đó hai dụ ngôn: kho báu và ngọc quý, có ý nghĩa rất gần nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới thì rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.
1-Hai dụ ngôn: kho báu và ngọc quý:
Hai dụ ngôn này được phân biệt rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước đó liên quan đến lời loan báo về Nước Trời và sự phát triển của nó; chúng mang tính cách chủ yếu “miêu tả”. Dụ ngôn kho báu, cũng như dụ ngôn ngọc quý, là những “lời khuyến dụ” cá nhân, khẩn trương, đanh thép, nhằm thay đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giê-su là con đường dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Ki-tô thì ngay tức khắc, trọn vẹn, không thể nào đảo ngược được, và việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho sự cốt yếu duy nhất này, là điều dễ hiểu! Với sự hiện của Đức Ki-tô, Nước Trời hiện có mặt ở đây rồi. Kho báu này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để có được kho báu này là nguồn mạch của niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do, niềm vui vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.
2-Dụ ngôn chiếc lưới:
Dụ ngôn chiếc lưới này là dịp cho các môn đệ sống lại những kỷ niệm về nghề ngư phủ xưa kia của mình. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người gieo giống gieo hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đày cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất, như người gieo giống chờ đợi mùa thu hoạch để chọn lựa. Các Tông Đồ đã trở thành những người lưới người như lưới cá – và Giáo Hội tiếp nối bước chân của các ngài. Họ phải biết kiên nhẫn hết mực. Số phận đe dọa bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những từ ngữ như ở phần kết của dụ ngôn cỏ lùng.
Ở phần kết, thánh Mát-thêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giê-su. Được hiểu biết Kinh Thánh cách phong phú, người kinh sư biết giá trị của những điều hoàn thiện mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ lý tưởng của tác giả Tin Mừng Mát-thêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký của thánh nhân.
THIÊN CHÚA LUÔN BAN NHỮNG SỰ TỐT LÀNH CHO TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Hằng ngày, hằng phút, hằng giây chúng ta sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không ý thức điều đó, cho nên nhiều khi chúng ta bi quan chán nản, và mặt khác chúng ta không đáp lại tấm lòng của Chúa.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy nhớ đến những ơn lành Chúa đã ban, và khơi lên trong lòng mình những tâm tình cảm mến và biết ơn Ngài.
– Chúng ta ít suy gẫm về tình thương của Chúa đối với chúng ta.
– Chúng ta ít biết ơn Chúa mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn từ bàn tay rộng rãi của Ngài.
– Ơn quý trọng nhất mà Chúa ban cho ta là Nước Trời. Nhưng xem ra chúng ta không coi trọng ơn này.
Salomon lên ngôi vua kế vị Đavít. Salomon biết mình còn trẻ nên thiếu khả năng. Ông cũng biết rằng trách nhiệm rất nặng nề. Ông còn ý thức rằng vương quyền của Oâng là do Thiên Chúa ban, để phục vụ cho dân của Chúa. Bởi vậy khi Thiên Chúa bảo ông muốn xin bất cứ điều gì thì Ngài sẵn sàng ban cho, Salomon chỉ xin một điều duy nhất, đó là được khôn ngoan. Thiên Chúa rất hài lòng về lời xin đó, nên đáp lại Ngài chẳng những ban cho ông được khôn ngoan, mà còn nhiều ơn khác nữa.
Thánh vịnh này cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban Luật cho dân Ngài. Tác giả rất đề cao Luật Chúa :
– Luật pháp Chúa quý hơn vàng bạc châu báu
– Luật pháp Chúa là nguồn vui sướng
– Luật pháp Chúa là phần gia nghiệp
Đoạn Tin Mừng này gồm 3 dụ ngôn :
– Hai dụ ngôn đầu (kho báu dấu trong ruộng và viên ngọc quý) dạy rằng Nước Trời là thứ quý giá nhất, đáng cho người ta bán mọi thứ để đổi lấy.
– Dụ ngôn thứ ba (mẻ lưới gồm nhiều thứ cá) mang cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng (Tin Mừng tuần vừa qua) : Hiện tại trong Nước Trời có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Nhưng đến ngày tận thế thì sẽ có sự lọc lựa : kẻ tốt sẽ được thưởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt.
Thánh Phaolô nói đến tình thương Thiên Chúa đối với kẻ mến yêu Ngài :
– Ngài giúp họ được sự lành
– Ngài kêu gọi họ nên thánh
– Ngài tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con của Ngài.
– Ngài kêu gọi họ và sẽ ban cho họ được vinh quang.
Thương thì cho : thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.
Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển. Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu, nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.
Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình.
– Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho : …
– Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất, có ích cho chúng ta nhất. Đó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết : sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.
Bài đọc 1 khiến chúng ta nhớ lại những chuyện về những lời ước : một vị thần tiên cho hai vợ chồng nghèo 3 điều ước. Chồng ước một thứ, vợ ước một thứ ngược lại, cuối cùng họ đã sử dụng hết 3 điều ước nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo.
Chuyện vua Salomon cũng thuộc loại đó, nhưng ý nghĩa lại rất khác. Vua Salomon xem ra “dại” nhưng thực ra là quá “khôn”. Chúa đã bảo ông : “Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi”. Ông dại quá, không xin giàu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh… mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên thực ra ông quá khôn, bởi vì Khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác : nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giàu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giàu mạnh… và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.
Khôn ngoan là gì ? Thưa là nhận biết cái gì là đúng cái gì là sai, cái gì là chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bền vững cái gì là chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết : “Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan”
Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không :
– Nhiều người ham tiền. Đối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không ? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này… Vậy, người suốt đời lo kiến tiền và chạy theo tiền là người dại.
– Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi Danh có bền vững mãi không ? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng… Cho nên hám danh cũng là dại.
– Nhiều người mê tình : tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.
Một câu chuyện : Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích “Phúc”)
Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn.
Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan : người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy ! Đương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.
Qua bài Tin Mừng này, Đức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời. Tiền bạc của cái mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.
Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời ?
a/ Tìm lại được kho báu của mình
Một viên chức kia luôn cố gắng vươn lên ngày càng cao trên chiếc thang danh vọng, vì thế mà ông bỏ hết thời giờ và công sức vào việc tạo dựng sự nghiệp, chẳng còn thời giờ chăm sóc vợ con, cũng chẳng có giờ để giải trí. Nhìn cách sống của ông, ai cũng biết kho báu mà ông tìm nằm ở đâu.
Thế rồi ông bị một cơn đau tim quật ngã, phải vào bệnh viện, nằm ở đấy nhiều ngày trong tình trạng hôn mê. Trong những cơn mê, ông thấy lại cuộc sống của mình, những công việc của mình và những người mình gặp gỡ. Và ông cảm thấy mọi sự, mọi người đều như xa lạ quá. Cảm giác ấy khiến ông rất cô đơn và chán nản. Một ngày kia ông bắt đầu tỉnh lại, ông thấy một số khuôn mặt mờ mờ hiện ra trước mắt. Một lúc sau nhìn rõ hơn thì đó là những khuôn mặt của vợ con ông, những người duy nhất ngày đêm túc trực bên giường bệnh của ông, trong khi các bạn bè đồng nghiệp đều biến đâu mất hết.
Biến cố ấy đảo ngược lại mọi giá trị đời ông. Nó giúp ông hiểu rằng gia đình chính là mục tiêu ông phải nhắm tới và cũng chính là kho báu của đời ông.
b/ Kho tàng chôn dưới đất
Một anh thợ may nằm mơ gặp một vị thần cho biết là có một kho báu chôn dưới đất trong sân của hoàng cung. Anh liền lên đường tìm đến hoàng cung. Tuy nhiên anh không vào được vì ở đó lính gác đông quá. Nhưng anh không bỏ cuộc. Anh nán lại đấy nhiều ngày và tìm cách kết thân với vị chỉ huy. Khi đã thân thiết với nhau rồi, anh thành thật bày tỏ ý định của mình là vào hoàng cung đào lấy kho báu. Anh đề nghị vị chỉ huy hợp tác và hứa sẽ chia đôi.
Vị chỉ huy nghe xong phì cười và cũng chia xẻ lại : Tôi cũng vừa có một giấc mơ, trong đó tôi cũng thấy một vị thần cho biết là có một kho báu đang chôn trong sân nhà của một người thợ may giống hệt như anh vậy.
Nghe xong, người thợ may vội vàng trở về nhà và đào bới mảnh đất sau vườn. Quả thật ở đó có một kho vàng.
Lời bàn : Kho báu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim người đó.
c/ Kho tàng bị quên lãng
Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng, và dĩ nhiên phải gọi bác sĩ đến. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh. Nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một bức tranh để tặng. Tuy nhiên ông bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông lấy nó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng mục nát.
Về sau, người ta tìm thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức không ai tìm lại được. Đó chính là bức tranh nhà danh họa đích thân vẽ tặng cho vị bác sĩ nọ.
Lời bàn : Thiên Chúa cũng tặng cho mỗi người chúng ta một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Đừng để nó bị tàn phai hủy hoại như bức tranh kia.
CT : Anh chị em thân mến
Nước Trời quả là một kho tàng vô giá, một viên ngọc quý báu mà bất cứ người khôn ngoan nào cũng đều nhất quyết chiếm cho bằng được. Với ước mong chiếm hữu được Nước Trời, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Chúa đã trao phó cho Đức Thánh Cha nhiệm vụ săn sóc Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Người được lòng tin mạnh mẽ / lòng trông cậy vững vàng / và lòng yêu mến thiết tha.
2- Xưa Chúa đã lưu lạc nơi đất khách quê người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa an ủi đỡ nâng / những kẻ đang phải sống xa gia đình / xa quê hương yêu dấu của mình.
3- Giáo lý của Chúa thật quý báu và cần thiết biết bao / cho đời sống đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chuyên cần học hỏi giáo lý của Chúa / để nhờ đó mà hiểu biết yêu mến Chúa nhiều hơn.
4- Muốn được vào Nước Trời / người tín hữu phải từ bỏ những gì không phù hợp với lề luật Chúa / chấp nhận hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chọn con đường hẹp là con đường dẫn đến cõi trường sinh.
CT : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con được phúc làm con Chúa, được Hội Thánh là mẹ chăm sóc, được Tin Mừng Chúa hướng dẫn trong cuộc sống thường ngày. Xin cho cuộc đời chúng con là một lời cảm tạ Chúa không ngừng. Chúng con cầu xin nhờ…
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN-A
DỤ NGÔN KHO TÀNG, VIÊN NGỌC VÀ LƯỚI CÁ- Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
“Về Nước Trời thì cũng giống như một kho báu”: Không phải là Nước Trời được so sánh với một kho báu, nhưng điều xảy ra khi một người tìm thấy kho báu được so sánh với điều xảy ra (hay phải xảy ra) khi một người khám phá Nước Trời.
“Người kia gặp thấy”: Câu chuyện thật quá giản dị. Kho báu này không phải là vật do tổ tiên để lại hay phải tìm kiếm một cách gian khổ khó khăn; nó được chôn dấu, nhưng chẳng phải là ở một nơi nào hiểm trở, kẻ đến đầu tiên có thể bắt gặp được. Như Nước Trời trong con người Chúa Giêsu, kho báu đang nằm đấy, trước mặt con người không chủ ý tìm kiếm này. Nhưng một khi khám phá ra, tự nhiên anh ta bỏ rơi mọi điều khác. Sự từ bỏ theo tinh thần Tin Mừng không phải là phương thế để đạt đến Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá Nước đó.
“Anh đi bán tất cả những gì anh có”: Anh làm một công việc mà chẳng người lân cận nào trông thấy mà không thắc mắc. Anh bán tất cả: giá thửa ruộng cao đến độ con người ấy phải phá sản, dĩ nhiên là một gia sản chẳng đáng bao nhiêu, nhưng điều quan trọng không phải là ở chỗ đó mà ở chỗ anh bán hết không để lại tí gì. Chính đấy là điểm mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh trong dụ ngôn của người: Nước Trời là một kho báu đòi ta phải bỏ ra tất cả những gì mình có, kể cả bản thân, để tậu nó cho được.
“Một thương gia rảo tìm ngọc quý”: Có lẽ đừng xem việc người thương gia rảo tìm ngọc quý như là biểu tượng của việc tìm đạo; chẳng qua là ông ta làm nghề buôn bán thôi. Cái mà ông muốn tìm, đó là những viên ngọc đẹp, quý, chứ không phải là những viên ngọc “đắt giá”. Thế mà ông lại bắt gặp một kho báu bất ngờ… Thành thử rốt cuộc dụ ngôn viên ngọc cũng tương tự và có cùng một ý nghĩa như dụ ngôn kho báu.
“Về Nước Trời thì lại còn giống như chiếc lưới”: Như các dụ ngôn trước, phải hiểu Nước Trời không đồng hóa với chiếc lưới (là một phương tiện tạm thời), cũng chẳng với cá bắt được, mà với toàn thể công việc được miêu tả.
“…đã được thả”: Trái với cách dịch của BJ (“người ta thả”) động từ Hy lạp nói rằng lưới đã được thả, và được thả do ơn Chúa (thể thụ động ngụ ý Thiên Chúa là tác giả của hành động; điều này được xác nhận qua sự kiện không có câu nào đề cập đến các ngư phủ).
“Mọi thứ”: Trong văn mạch, điều này muốn nói: Cá tốt lẫn cá xấu, như c. 48 sẽ bảo. Biển Galilê nổi tiếng là có rất nhiều giống cá. Cá “xấu” có lẽ là thứ bị luật Torah cấm ăn (Lv 11, 9-12; Đnl 14, 9-10) hay là quá bé nhỏ.
“Sẽ phân tách kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi quăng chúng vào lò lửa..”. Phải nhận là ở đây chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh tiêu cực của việc lựa lọc. Việc Nước Trời đến cách sung mãn không còn chịu được cảnh vàng thau lẫn lộn như trước nữa, và đòi hỏi phải triệt để loại bỏ kẻ dữ ra khỏi lòng mình. Trong lúc đoạn kết của lời chú giải dụ ngôn cỏ lùng (c. 43) gợi lên vinh quang của các người công chính “sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha họ”, thì nơi đây lại không giống thế. Chắc hẳn một muốn chấm dứt diễn từ dụ ngôn của ông bằng lời cảnh giác có phần nghiêm khắc này, để thúc giục Kitô hữu hãy luôn cẩn thân canh chừng, chứ đừng buông thả.
“Các con có hiểu các điều ấy không? – Có”: Như đã thấy nơi dụ ngôn người gieo giống, động từ hiểu được tác giả Tin Mừng gán cho một tầm quan trọng đặc biệt. Ở đây, qua câu hỏi này, Chúa Giêsu cố ý quy về tất cả những điều Người đã nói với dân chúng bằng dụ ngôn. Câu trả lời là một tiếng tán đồng ngấn ngủi: Có, Ai trả lời? Văn mạch ngụ ý là các môn đồ đã hỏi Chúa Giêsu trước đây (c.36). Nhưng vì không minh nhiên đề cập đến các ông ấy, nên chắc là một muốn ngầm bảo là mọi độc giả Tin Mừng, mọi Kitô hữu phải có trách nhiệm trả lời: chính câu trả lời đó đưa ta từ thân phận “đám đông” đi sang địa vị “môn đồ”.
KẾT LUẬN
Tất cả mọi dụ ngôn đều nói cho ta về Nước Trời; hết thảy chúng đều mặc khải một khía cạnh nào đó và trước hết diễn tả thực tại Chúa Giêsu, biến cố trung tâm của lịch sử và là giao điểm dứt khoát giữa đất và trời: trong Người, Nước Trời đã đến gần nhân loại một lần thay cho tất cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1- Nước Trời buộc ta phải bán hết thảy một khi ta đã khám ra ra nó. Không phải Nước Trời dẹp bỏ mọi thứ khác đâu, nhưng là chiếm đoạt tất cả để ban cho tất cả một chiều hướng, ý nghĩa mới. Cái nhân bản không bị xua trừ, nhưng được nâng lên để được đào sâu biến đổi, canh tân và đi vào thiên giới. Người ta chỉ dẹp bỏ trong cái nhân bản ấy những gì là chướng ngại vật của tình yêu. Kẻ đã tìm thấy Nước Trời là một người mới, sống động, rũ bỏ được mọi thần tượng, và trở nên trắng tay để nhận lãnh từ Thiên Chúa hiện tại và tương lai của mình.
2- “Tâm tình nào đã nung nấu hai kẻ tìm thấy kho tàng và bắt gặp viên ngộc đắt giá? Tâm tình mừng vui. Họ “hết sức vui mừng”! Cũng vui như thế khi tình yêu của Thiên Chúa, của phục sinh và Thập giá Ngài tràn ngập trong đời ta, khiến ta được nâng lên và bị chinh phục. Bấy giờ cái mà từ trước vẫn được xem như quý hóa thì mất hết giá trị, so với cái vừa mới nhận được, một cái thật cao giá vô cùng. Ai có Thiên Chúa là có tất cả vì chỉ mình Ngài là đủ. Đấy là một chân lý chỉ có thể hiểu được nhờ kinh nghiệm sống. Não trạng “trần tục” của ta, không lo sợ mất mát hay thiếu một vật nào, nỗi ám ảnh muốn được bảo đảm an toàn, chương trình sống ích kỷ dò ta lập ra, sẽ luôn va chạm với chân lý căn bản này: chỉ Thiên Chúa mới có thể làm mãn nguyện những cõi lòng hiến dâng cho Ngài trọn vẹn.
3- Dù không gặp sự dữ ở đời này, dù xem ra được tranh công, được kính nể yêu vì, dù có vẻ tốt lành và chăng đáng bị chỉ trích, thì con người nào đó cũng chỉ lộ phẩm chất đích thực của mình trong ngày sau hết, vào lúc chung thẩm (như trong dụ ngôn lưới cá). Điều ấy mọi người phải ý thức rõ, dù là các Kitô hữu đã có một ngày nào tìm gặp viên ngọc quý hay kho báu chôn giấu trong ruộng đồng. Vì rất có thể đời sống thực của họ được che giấu dưới một mặt nạ đạo đức. Vì rất có thể họ là loại “xấu” nếu chỉ đi tìm kiếm bản thân, thay vì kiếm tìm một mình Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- A
KHÔN NGOAN TÌM NƯỚC TRỜI– ĐTGM.Giuse Ngô Quang Kiệt
Vua Salomon nổi tiếng là vị vua khôn ngoan sáng suốt. Ông đã xử những vụ án rất khó khăn một cách khéo léo không khác gì Bao Công. Bà hoàng hậu Saba ở mãi tận phương nam cũng phải đến nghe sự khôn ngoan của ông. Nhưng khôn ngoan nhất là khi được Chúa cho chọn lựa, ông đã không xin được trường thọ hay được giàu sang, mà chỉ xin được ơn khôn ngoan. Lời cầu xin của ông rất đẹp lòng Chúa. Nên Chúa đã khen ngợi và ban cho ông mọi điều mong muốn. Chúa muốn tôi bắt chước vua Salomon, biết xin ơn khôn ngoan và biết khôn ngoan trong những lựa chọn. Nhất là biết khôn ngoan lựa chọn Nước Trời như những người trong bài Tin Mừng hôm nay.
Những người trong bài Tin Mừng hôm nay khôn ngoan vì thao thức đi tìm. Sự thao thức đi tìm được thấy trong thái độ bôn ba đây đó, khảo sát đất đai. Chắc phải đào bới nhiều mới thấy kho tàng chôn giấu trong ruộng. Sự thao thức đi tìm cũng thấy trong việc ra khơi thả lưới. Vất vả chài lưới rồi còn phải lựa chọn. Dù vất vả, họ quyết tìm cho ra Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết phân định. Đời sống đem đến cho ta đủ mọi loại giá trị thượng vàng hạ cám, như chiếc lưới đánh bắt đủ mọi loại tôm cá. Giữa những giá trị ấy ta phải biết phân định. Lựa chọn những giá trị cao quý, tốt đẹp. Biết chọn lựa cá tốt, vứt bỏ cá xấu. Biết giá trị của viên ngọc dù nó còn đang nằm giữa khối đá sù sì dơ bẩn. Biết giá trị của kho tàng dù nó còn đang bị chôn giấu dưới lòng đất sâu. Biết giá trị của Nước Trời dù Nước Trời chưa tỏ hiện rõ ràng trên thế gian.
Họ khôn ngoan vì dám dấn thân. Khi đã biết được giá trị Nước Trời, họ dấn thân theo đuổi đến cùng. Dấn thân trọn vẹn nên bán tất cả những gì mình có để đổi lấy kho tàng, viên ngọc quý. Dấn thân quyết liệt vì bán hết nhà cửa rồi thì không thể quay về chốn cũ, chỉ còn gắn bó với quê hương mới mà thôi. Dấn thân tuyệt đối, bỏ hết tất cả chỉ vì một viên ngọc. Dấn thân như thế là thái độ của tình yêu, sự say mê, sự khao khát mãnh liệt. Đó chính là thái độ phải có khi đi tìm Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết từ bỏ. Bán tất cả những gì mình có là một từ bỏ lớn lao. Dứt lìa những gì mình gắn bó còn đau đớn hơn nữa. Bỏ một nơi yên thân chắc chắn để dấn thân vào một tương lai bấp bênh thì thật là phiêu lưu đến tận cùng. Nhưng không có cách nào khác. Phải bán tất cả mới đủ sức mua viên ngọc Nước Trời. Phải đầu tư trọn vẹn con người với tất cả tài năng trí tuệ, sức lực, thời giờ mới mong chiếm đoạt được Nước Trời. Luyến tiếc một chút là bất thành. Chần chừ một chút là hỏng việc. Nấn ná một chút là bị lỡ cơ hội.
Họ từ bỏ một cách nhẹ nhàng thanh thoát. Nên từ bỏ rồi họ cảm thấy vui tươi. Họ từ bỏ một cách mau mắn vì họ đã dứt khoát với những gì xưa cũ. Lòng trí của họ chỉ gắn bó tha thiết với kho tàng mới tìm thấy.
Đó là những thái độ khôn ngoan đáng cho ta noi theo trên con đường đi tìm Nước Trời. Biết thao thức đi tìm. Biết phân định giá trị. Biết mau mắn từ bỏ. Biết hăng hái dấn thân đến cùng.
Lạy Chúa, xin ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có thực sự coi Nước Trời là kho tàng quý giá nhất không?
2) Bạn đã thực sự bán hết mọi sự để mua Nước Trời chưa? Còn những gì bạn còn luyến tiếc chưa muốn bán?
3) Bạn nghĩ thế nào về sự khôn ngoan. Bạn muốn trở thành người khôn ngoan thực sự không?
CHỌN NƯỚC TRỜI LÀ KHÔN NGOAN…- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Chủ đề lời Chúa hôm nay: chọn nước Trời hơn hết mọi sự, là khôn ngoan nhất.
Bài đọc I (1V. 3, 5. 7-12) cho ta thấy: Vua Salômon đã tự nhận mình là đứa bé nhỏ, chưa biết ngõ ra lối vào, làm sao dám cầm quyền cai trị nước. Ông hoàn toàn cậy trông, cầu xin Chúa ban cho ông tâm hồn biết lắng nghe để nghe Chúa dậy dỗ, chỉ bảo mới có sức cai trị dân Ngài. Ông đã khiêm tốn thiện chí chọn theo ý Chúa. Chọn Chúa là chọn lối sống nước Trời hơn đời sống trường thọ trần gian, hơn sống giàu sang của cải, hơn sự chiến thắng kẻ thù, hơn lên ngôi đế quốc cai trị muôn dân. Chính vì chọn nước Trời, chọn theo ý Thiên Chúa, ông đã được khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ông chẳng ai sánh bằng, và sau ông chẳng ai bì kịp. Quả thật, khôn ngoan của ông là khôn ngoan của Thiên Chúa chứ không phải của loài người.
Trong Bài Tin mừng, Chúa Giêsu ví nước Trời như kho tàng quý báu, quý giá hơn mọi của cải, hơn mọi danh vọng, mọi phước lộc của trần gian. Cho nên người khôn ngoan sẵn sàng đánh đổi hết mọi sự, mọi lời lãi cả thế gian này để mua sắm nước Trời cho bằng được, vì có nước Trời, ta mới được sống trường sinh vĩnh phúc. Chính Đức Giêsu đã nói cho ta thấy rõ: “Dù được lời lãi cả thế gian, mất mạng sống mình nào được ích gì”.
Nước Trời như viên ngọc quý. Ngọc quý là ngọc có đủ mọi màu sắc lóng lánh rực rỡ, chiếu tỏa muôn ánh hào quang sang trọng, chứng tỏ vinh quang lạ lùng của nước Trời, không một vinh quang trần gian nào sánh kịp. Muôn ngàn lễ đăng quang hào nhoáng hay quốc khánh long trọng của trần gian cũng chỉ là tạm bợ, phút chốc tiêu tan như mây khói, đâu có thể so sánh được lễ đăng quang về nước Trời vĩnh phúc muôn thuở của một linh hồn lành thánh! Những linh hồn được hưởng hạnh phúc trong nước Trời, đó là những cá tốt, còn những cá xấu, những kẻ dữ, thật kinh khủng! chúng bị quẳng vào lò lửa, ở đó chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng ghê sợ muôn đời.
Phúc cho ta vô cùng khi biết chọn Nước Trời, bằng ngay từ bây giờ ta biết chọn lắng nghe lời Chúa như vua Salomon, như những vị kinh sư biết siêng năng, học hỏi, suy ngẫm, chọn lọc sống theo những lời Chúa trong pho sách Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước.
Thật sự Thiên Chúa đã định liệu cho những ai yêu mến sống theo Lời Ngài được nên công chính, được nên đồng dạng với Chúa Kitô, Con của Ngài, được hưởng phúc vinh quang muôn thuở (Bài II – Rm. 8, 28-30)
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- A
TÌM KIẾM KHO TÀNG HẠNH PHÚC– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một học giả uyên thâm đã già, sau khi nhìn lại quãng đời quá khứ, đã chia sẻ kinh nghiệm về hành trình tìm kiếm kho tàng của ông như sau:
Giai đoạn thứ nhất: tìm kiếm kho tàng tri thức
Hồi còn niên thiếu, tôi nhận thấy tri thức là tối cần và trong tôi có một khao khát cháy bỏng là được học nhiều, biết nhiều, tích luỹ thật nhiều kiến thức để trở thành nhà thông thái. Thế là tôi đam mê việc đèn sách hơn mọi thứ trên đời. Tôi cho đó là phương thế tốt nhất để trở nên thông thái và thành đạt. Tôi đã đem hết nghị lực của tuổi thanh xuân và tiêu tốn gần hết gia tài cho việc học tập nghiên cứu. Cuối cùng tôi cũng đạt được thành quả mong muốn: được nhìn nhận là bậc thức giả của xã hội đương thời.
Thế nhưng khi đến tuổi sáu mươi, tôi mới nhận ra một thực tế phũ phàng là bao nhiêu kiến thức mình thu thập được suốt gần cả đời người, giờ đây gom góp lại không bằng mớ dữ liệu được lưu trữ trong ổ đĩa máy vi tính.
Và điều làm cho tôi ngỡ ngàng là đứa cháu nhỏ mới mười lăm tuổi của tôi chỉ cần ngồi vào máy tính có nối mạng và chỉ mất mươi phút là có thể truy xuất được nhiều kiến thức chính xác và phong phú về mọi lãnh vực, mà chính tôi, người đã dày công nghiên cứu học tập hơn nửa đời người, cũng chưa nắm bắt được một cách chính xác và đầy đủ như thế.
Điều nầy làm tôi liên tưởng đến câu chuyện một đạo sĩ phải mất năm mươi năm khổ luyện mới đạt được một thành tích thượng thặng là có khả năng đi trên mặt nước. Với khả năng nầy, ông ta có thể rảo bước trên mặt nước như đi dạo trong vườn, có thể vượt qua con sông rộng mà không cần đến thuyền bè. Thế nhưng sau đó, khi nhìn thấy một em bé nhà quê chẳng học tập tu luyện gì ráo, chỉ cần bỏ ra mươi đồng để trả tiền đò là có thể qua mặt ông để lướt qua sông, ông cảm thấy trong người hụt hẫng: giá như ông tận dụng thời gian năm mươi năm khổ luyện ấy để đổi lấy điều gì đem lại lợi ích thiết thực hơn. Đó cũng là tâm trạng lúc nầy của tôi.
Rồi thỉnh thoảng đọc báo, xem truyền hình, tôi được biết có những nông dân thất học lại có thể xây dựng được hàng chục chiếc cầu treo, chế tạo được hàng trăm máy hút bùn, máy cắt lúa, xén cỏ… lại có cả những những người thuộc dân tộc thiểu số tạo ra được máy lảy bắp, máy gieo hạt… Những nông dân mù chữ nầy đã cống hiến nhiều tiện ích cho những người lao động chân tay, còn tôi với bao nhiêu kiến thức được tích luỹ hơn nửa đời người, mà chưa có phát minh hay sáng chế nào đem lại ích lợi cho làng xóm của tôi.
Thế là từ đó, tôi cảm thấy nỗ lực chiếm hữu kho tàng tri thức của mình trong suốt nửa thế kỷ qua là một đầu tư không đúng hướng. Và bấy giờ tôi nghĩ rằng giá như mình có thể phát minh sáng tạo được chút gì tương tự như những nhà ‘khoa học chân đất’ nói trên thì mới bỏ công miệt mài đèn sách suốt bao năm qua.
Giai đoạn thứ hai: tìm kiếm kho tàng đem lại hạnh phúc
Sau đó, tôi lại nhận ra rằng nhân loại hôm nay tuy có nhiều máy bay, nhiều xe hơi, nhiều tiện nghi hơn những thế kỷ trước, nhưng số người bất hạnh lại nhiều hơn, số người tự tử cao hơn, số người mắc bệnh tâm thần đông đảo hơn, số gia đình tan vỡ vượt trội, số phạm pháp gia tăng…
Thế là cuối cùng khi cuộc đời đã về chiều, tôi mới học được bài học thứ hai: dồn mọi nỗ lực vào việc phát minh và sáng chế chưa hẳn là điều tốt cho nhân loại, vì con người hôm nay, cho dù được sở hữu nhiều máy móc hiện đại, được hưởng nhiều tiện nghi tuyệt vời nhưng đời sống có phần bất hạnh hơn, và do đó, lòng khao khát hạnh phúc của con người hôm nay càng mãnh liệt hơn.
Quả vậy, không có gì quý bằng hạnh phúc nên điều tốt nhất là cống hiến cho nhân loại phương thế đem lại hạnh phúc. Đó là điều mà nhân loại hôm nay đang mong đợi một cách khẩn thiết. Từ đó, tôi cất bước kiếm tìm một vị tôn sư có thể chỉ giáo cho tôi phương cách đem lại hạnh phúc cho đời mình và cho nhân loại. May thay, cuối cùng tôi đã tìm được điều tôi mong đợi nơi Chúa Giêsu và kho báu Tin Mừng.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết có một kho tàng, một viên ngọc vô cùng quý báu mà mọi người nên đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được, đó chính là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. (Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người chỉ là một).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Ba Ngôi Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng quý báu vì có sức đem lại sự sống đời đời cho nhân loại như lời tuyên xưng của thánh Phêrô: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là ánh sáng cho thế gian: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là con đường dẫn đến sự thật, bình an và hạnh phúc. “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Chỉ trong Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, con người mới có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực. Đó là khám phá của thánh Augustino: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài, và hồn con khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Ngài.”
* * *
Lạy Chúa Thánh Thần,
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là kho báu cao quý và cần thiết nhất cho toàn nhân loại, nhưng tiếc thay, phần đông nhân loại đã bị bức màn vật chất và dục vọng che chắn nên đã không nhận ra giá trị của Kho Báu nầy.
Xin thương chiếu dọi ánh sáng của Chúa vào tâm trí con người, để họ nhận ra giá trị cao quý của Tin Mừng và quyết tâm chiếm hữu cho bằng được.
Và xin cho chúng con luôn kiên trì tiếp tay với Chúa Giêsu trong sứ mạng giới thiệu kho báu nầy cho thế giới. Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN-A
KHO BÁU TRONG RUỘNG- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Chúa Giêsu là người thợ ngọc trong câu chuyện. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế và bằng cái chết của Người, Người đã mạc khải cho chúng ta Nước Trời chính là một kho báu quí giá nhất trên thế gian này.
1-Kho báu trong ruộng thời Chúa Giêsu
Người Do Thái thời Chúa Giêsu hẳn không xa lạ gì với khái niệm kho tàng chôn giấu trong lòng đất. Lịch sử nước Palestina từng ghi nhận nhiều bước xâm lăng của các đế quốc Babylon, Assyria, Ba Tư, Hy Lạp, Rôma và nhiều sắc tộc khác. Không những thế, nội chiến cũng thường xuyên xảy ra. Trên dải đất từng bị mất đi chiếm lại nhiều lần như thế, chuyện chôn giấu tài sản là việc đương nhiên đối với dân thời loạn.
Thế nhưng làm sao tránh khỏi trường hợp chủ nhân không may mất mạng trên đường di tản, hay có người không thể nhớ ra chỗ chôn giấu, hoặc vùng đất bị giặc chiếm đóng lâu ngày. Điều này khiến cho không ít người tình cờ đào được những kho tàng quí báu ngay trên mảnh đất nhà mình. Và theo luật thời đó, ai làm chủ vùng đất nào sẽ được quyền sở hữu mọi thứ nằm trong vùng đất đó.
Đức Giêsu dùng khái niệm thông thường này để nói về Nước Trời: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó”.
Điều quan trọng là người này đã thấy đó là một kho tàng, mà kho tàng này thật quí giá, nên anh mới đem bán hết tài sản để mua thửa ruộng đó. Nếu anh không thấy được giá trị của kho báu, chắc chắn anh đã không làm như vậy.
2-Những bước đi cần thiết để chiếm được kho báu
2.1- Chúng ta coi thường vì không biết giá trị đích thực của kho báu
Người ta có kể lại câu chuyện như sau: Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng và phải đi bác sĩ. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh, nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ, nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một một bức tranh để tặng bác sĩ. Nhưng bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông dùng bức tranh đó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng đã mục nát.
Về sau, người ta thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức tranh không thể tìm được, đó chính là bức tranh Van Gogh đã tặng cho vị bác sĩ. Một bức tranh vô giá, nhưng nó đã thành vô giá trị đối với vị bác sĩ này.
2.2- Khi đã nhận ra kho báu phải biết buông bỏ những giá trị khác không quí bằng giá trị của kho báu
Muốn bắt khỉ, người ta cho quả táo vào cái lu, miệng nhỏ, chỉ để vừa tay con khỉ thò vào, đầu kia gắn vào gốc cây, rồi người ta ngồi rình chờ. Khỉ đến thấy quả táo ngon thì thò tay vào lấy nhưng không rút tay ra được vì vướng miệng ống. Muốn rút tay ra được thì phải buông quả táo ra, nhưng con khỉ không biết buông quả táo ra mà cứ nắm chặt lấy nó mà la hét. Người ta chỉ việc đến tóm cổ chú khỉ.
Con khỉ thật dại dột, không biết buông quả táo ra để có thể rút bàn ta ra khỏi lu mà cứ khư khư giữ lấy quả táo thì không bao giờ có thể rút tay ra được. Con khỉ không biết bỏ cái nhỏ mà chọn lấy cái lớn, không biết bỏ quả táo đi mà giữ lấy bản thân.
2.3- Điểm cuối cùng là quyết tâm theo đuổi
Đức Hồng y Martini thường kể lại câu chuyện sau đây: Có người đến gặp một vị ẩn tu trong sa mạc và hỏi:”Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ, tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó lắm người lại bỏ về, và có ít người bền đỗ”. Khi ấy, vị ẩn tu mới trả lời:” Chuyện này giống như chuyện một con chó đuổi theo con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo. Chẳng bao sau những con chó này đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên lúc nào cũng tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ.”
3- Điểm quan trọng trong bài Tin Mừng hôm nay “ai là người chỉ cho chúng ta biết kho báu đó là Nước Trời”
Để nhận ra kho báu phải có người chỉ dẫn đưa đường qua câu chuyện “Ngọc bích nhà họ Hòa”.
Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc”. Vua lại cho họ Hòa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa:”Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hòa”.[1]
Chúa Giêsu là người thợ ngọc trong câu chuyện. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể, nhập thế và bằng cái chết của Người, Người đã mạc khải cho chúng ta Nước Trời chính là một kho báu quí giá nhất trên thế gian này.
Lạy Chúa Giêsu, nước Trời là một kho báu tuyệt vời đang ẩn giấu trong những dụ ngôn trong Tin Mừng, nhưng tiếc thay, chúng con chẳng hay biết nên đã tỏ ra dửng dưng, hờ hững với kho báu ấy. Xin cho chúng con biết giá trị của Nước Trời để rồi quyết tâm khám phá cho bằng được và sẵn sàng đầu tư không quản ngại phí tổn về thời giờ và công sức để chiếm được kho báu ấy, vì một khi sở hữu được kho báu vô giá ấy, cuộc đời chúng con sẽ được cải thiện, xã hội sẽ hạnh phúc và tương lai của nhân loại sẽ bừng sáng. Amen.
______________
[1] Nguyễn Văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, trg. 144
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- A
KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC- Lm. Đaminh Trần Văn Điều
Saigon sau biến cố 1975, có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra:
* Thập niên 1990, nền kinh tế thị trường nở rộ, dân miền quê ùn ùn kéo về thành phố với hy vọng mưu sinh kiếm sống bớt cơ cực hơn. Vành đai thành phố Saigon được quy hoạch lại, chính phủ quyết định mở rộng thành phố đến vùng Thủ Đức, Củ Chi, Duyên Hải, Cần Giờ. Các nhà đầu tư liền bỏ tiền mua đất ruộng khu vực Giồng Ông Tố, ngã ba Cát Lái, xây nhiều biệt thự cao tầng. Giá đất tăng lên vùn vụt, các nông gia phút chốc trở thành những triệu phú bất đắc dĩ nhờ việc sở hữu chủ đất vàng, “kho tàng” thửa ruộng mình.
* Sau đó một thời gian, nghe nói có dự án chính phủ sẽ xây dựng một phi trường quốc tế rộng lớn ở vùng lân cận Saigon, khu Long Thành: nhằm thay thế phi trường Tân Sơn Nhất hiện tại vốn quá nhỏ bé, chỉ đáp ứng giải quyết được các chuyến bay quốc nội. Thế là giá đất đai từ ngã ba Vũng Tàu đi về Bà Rịa đột ngột tăng cao. Nhiều cư dân sống trong vòng đai qui hoạch của phi trường mới, vô tình chiếm hữu được “viên ngọc qúi” ngay trên thổ cư bất động sản của mình.
Ngày 10/3/2008, báo chí quốc tế lại đưa tin: bà Stead, một phụ nữ 49 tuổi ở New Abbot, hạt Devon nước Anh, khi đang ăn chiếc bánh bích quy giúp tiêu hoá của hãng Mc. Vitie’s, bất ngờ cắn phải một vật lạ, nhìn kỹ ra thì đó là một viên kim cương bé tí xíu. Người phụ nữ một con thật sự ngạc nhiên nhưng tỏ ra thích thú với món quà bất ngờ này. Bà Stead đâu ngờ mình may mắn làm chủ được “viên ngọc qúi” vô tình ấy.
Những câu chuyện thời sự trên giúp ta liên tưởng đến hình ảnh người nông gia tìm thấy kho tàng được chôn giấu trong ruộng và hình ảnh người lái buôn nhận ra giá trị viên ngọc qúi trong Phúc âm hôm nay. Họ sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc hoặc làm chủ được thửa đất ấy. Đầu óc khôn ngoan tính toán “một vốn bốn lời” khiến họ nhạy bén được vấn đề, nhận thức được giá trị vô cùng to lớn của những sản phẩm đó.
1-Óc khôn ngoan của người đời:
Sách Các Vua quyển thứ nhất (1V.3:5.7-12) cho ta thấy: Salomon lên nối nghiệp Cha là David làm Vua dân Israel. Trẻ người, non kinh nghiệm, cai trị một vương quốc rộng lớn bao quát cả 12 chi tộc, Salomon đã cầu khẩn Giavê Thiên Chúa trợ giúp mình. Chúa hứa Vua muốn xin gì, Ngài sẽ ban cho.
Salomon không xin Chúa ban cho vợ đẹp con khôn, tiền rừng bạc biển, danh vọng nhiều năm, sống lâu trăm tuổi… vốn là những ước mơ chung con người. Ông chỉ xin Chúa một điều cần thiết là Ơn Khôn Ngoan để biết phân biệt phải trái, đúng sai, tội phúc…mà hành xử dân Chúa cách hợp lý.
Quả thật, điều ông xin rất đẹp lòng Chúa. Chúa đã ban cho Salomon một trí khôn ngoan minh mẫn, phân xử chính xác trong vụ án Con Của Ai (1V. 3,16-28). Vua lại xây một đền thờ Giêrusalem lộng lẫy để kính Chúa, tiếc rằng nó bị sụp đổ thời Israel lưu đày.
2- Tài liệu lịch sử cũng ghi lại: Từ Hi Thái Hậu vốn là người yêu thích các loại đồ vàng ngọc, trân châu đá qúi. Năm 1895, bà đã khôn ngoan khéo léo cho xây một công trình lăng tẩm ở Đông Lăng, thuộc thành phố Tuân Hoá, tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa. Từ Hi đã kín đáo cất tất cả vàng bạc châu báu vào trong lăng tẩm ấy, đề phòng khi chết, chúng vẫn thuộc quyền sở hữu của bà. Sau 13 năm xây dựng, ngày 18/10/1908, lăng được hoàn tất: điều độc đáo là 4 ngày sau đó, Từ Hi Thái Hậu cũng qua đời, thọ 74 tuổi. Mọi vòng vàng được chôn theo với bà. Kho tàng trong lăng tẩm tưởng rằng được ẩn giấu mãi với thời gian.
Nào ngờ 10 năm sau đó, tháng 7 năm 1928, Tôn Điện Anh, một sĩ quan quân đoàn 12 của Quốc Dân Đảng đã dùng pháo binh mở đường khai quật lăng mộ Từ Hi Thái Hậu. Khi nắp quan tài được mở ra, ánh sáng chói loà, binh sĩ thấy vàng vòng ngọc qúi đầy dẫy. Cấp lớn đua nhau lấy thứ lớn, quân lính mon men lấy thứ nhỏ. Ai cũng giàu to, thậm chí Tôn Điện Anh còn hạ lệnh lột long bào của Từ Hi, lấy sạch châu báu trên người bà.
Tin đồn binh lính Tôn Điện Anh trộm báu vật của Tứ Hi Thái Hậu đến tai Thống chế Tưởng Giới Thạch. Ông ban lệnh điều tra kẻ chủ mưu, Tôn Điện Anh khôn ngoan nhờ cấp trên đi đêm với phu nhân Tống Mỹ Linh: tặng cho vợ Tưởng Giới Thạch nhiều báu vật, trong đó có chiếc mũ phụng quán gắn viên trân châu cực lớn của Từ Hi Thái Hậu. Tôn Điện Anh còn biếu riêng Tưởng Giới Thạch một thanh Cửu Long bảo kiếm cùng nhiều báu vật khác của các bậc vua chúa triều đình Trung Hoa. Nhờ đó, ông bình an vô sự thoát khỏi án phạt hình sự.
Có người dùng khôn ngoan để đoán xét công minh chính trực, ích dân lợi nước như Vua Salomon, nhưng cũng không thiếu những kẻ sử dụng khôn ngoan như một thủ đoạn gian lận, chiếm hữu như Tứ Hi Thái Hậu, như viên sĩ quan Tôn Điện Anh của vệ binh Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
3- Những khôn ngoan ấy có giá trị lâu dài chăng?
Salomon nổi tiếng là vị Vua khôn ngoan hơn các Vua trước ông và sau ông (1V. 3,12). Qủa thật, suốt triều đại Ngài, vương quốc Israel được thanh bình, thịnh vượng. Nữ hoàng Saba từ phương Nam tìm đến Saolomon để học hỏi. Vua xây dựng đền thờ cho Chúa ngự trị giữa muôn dân. Óc khôn ngoan giúp Saolomon lãnh đạo thành công trong việc trị nước.
Thế nhưng sử liệu còn ghi: lúc về già, nhà vua yêu nhiều phụ nữ ngoại bang, nghe theo họ mà thờ các thần ngoại, mất lòng chung thủy với Chúa (1V.11:1-8). Rõ là khôn ba năm dại một giờ. Óc khôn ngoan sáng suốt thời trai tráng nay đã nên mê muội lúc xế chiều. Salomon đã chết trong sự dại khờ say đắm, lòng Vua xa rời Chúa.
Người nông dân khéo thăm dò địa chất tốt, biết rõ kho tàng chôn giấu trong ruộng. Bằng mọi cách, ông khôn ngoan thuyết phục chủ ruộng bán lại cho ông mảnh đất vàng đó. Có được kho tàng trong tay, ông nghĩ rằng cuộc đời ông từ nay sẽ giàu có, sung sướng lâu dài.
Thế nhưng cái chết đến bất thình lình, ông ra đi với hai bàn tay trắng, kho tàng ông chiếm hữu nay cũng xa lìa ông. Óc khôn ngoan tính toán đã chịu thua lưỡi hái tử thần.
Người thương gia biết thẩm định giá trị viên ngọc chính xác, ông sẵn sàng hy sinh mọi của cải đang có, để mua cho được viên ngọc qúi báu. Óc khôn ngoan định mức giúp ông tự tin, luôn cho rằng mình đang đầu tư một món hàng chắc chắn sẽ có lời sau này.
Thế nhưng phải đến ngày ông từ bỏ cuộc chơi thế trần, viên ngọc qúi mà ông trân trọng gìn giữ lâu nay bây giờ cũng trở nên vô nghĩa. Cái chết đã chấm dứt mọi lo toan.
Salomon, người nông dân và anh lái buôn: có lẽ cả 3 đều nghĩ rằng mình đã khôn ngoan đắc thủ được món quà giá trị nhất (sự thông minh sáng suốt, kho tàng vô giá, viên ngọc qúi báu).
Thực tế, những chiếm hữu ấy đều tạm thời vì họ chỉ sở hữu chúng một thời gian. Và như thế, óc khôn ngoan mà họ đã suy tính đâu có mang lại cho họ một giá trị vĩnh cửu.
4-Đâu là sự khôn ngoan đích thực?
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài, là nguồn mọi sự hiểu biết, là nền tảng mọi thông minh thượng trí. Giữa mọi nghiên cứu thiên văn, nhà khoa học Isaac Newton đã khiêm nhường xác tín: “Tôi nhận ra Thiên Chúa ngay trên đầu viễn vọng kính của tôi”. Như thế, Thiên Chúa là nguồn mọi khôn ngoan. Đi tìm sự khôn ngoan đích thực chỉ có ở nơi Ngài và trong Ngài.
Chính Thiên Chúa đã ban cho ta thửa ruộng vàng, đất vàng, có kho tàng cao qúi ẩn giấu trong đó.
* Thửa ruộng vàng, đất vàng ấy chính là Nước Trời.
* Trong Nước Trời ấy có kho tàng cao qúi là Đức Tin Công Giáo, là Giáo Hội.
Chúa Giêsu phán với các bệnh nhân: “Đức tin của con đã cứu chữa con”. Trong đức Tin, ta học hỏi Giáo Lý Giáo Hội, sống tuân giữ giới răn Chúa, nuôi dưỡng ta nên tốt lành, xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Trong Giáo Hội, ta nhận được Ơn Cứu Rỗi, được kín múc Ơn Thánh Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua việc lãnh nhận các Bí tích…là những hành trang đưa ta vào Nước Trời.
Chính Thiên Chúa cũng đã ban cho ta một viên ngọc qúi là chính Đức Giêsu Kitô.
* Qua bí tích Thánh Thể, ta có được Đức Giêsu ở trong mình.
* Chúa Giêsu phải là viên ngọc qúy giá nhất mà ta luôn trân trọng bảo trì tốt.
“Có Chúa đi với con, con nào sợ thiếu thốn chi? Có Chúa ở bên con, con nào lo lắng gì?”
“Có Chúa trong lòng, địch thù tan nát hết. Chúa trong lòng ta, lo lắng gì hồn tôi ơi!”
Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.
biết Chúa là viên ngọc qúy thật sang giàu,
biết con chỉ là thụ tạo thấp bé, thật nghèo hèn,
để suốt đời, con chỉ say sưa đi tìm Chúa là hạnh phúc đích thực đời con. Amen.
NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ KHO BÁU- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Tiếp nối bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,44-52) gồm ba dụ ngôn về Nước Trời: dụ ngôn kho báu (c.44), dụ ngôn viên ngọc (cc.45-46) và dụ ngôn chiếc lưới (cc. 47-50). Kết thúc là một lời kết luận chung về các dụ ngôn (cc.51-52).
1-Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý (cc.44-46)
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (cc.44-46).
Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc có chung một điểm nhấn quan trọng về nội dung giáo huấn: Nước Trời không phải chỉ là chuyện của ước muốn hay ý chí, mà chính yếu là niềm vui của một cuộc tìm kiếm thành công bất ngờ ngoài sự mong đợi, và đặc biệt, là kết quả của một cuộc dấn thân đòi phải dám phiêu lưu. Sự từ bỏ tất cả những gì mình đang có không phải là một hành động tu đức, hy sinh hay hãm mình, mà là một chọn lựa tự nguyện cùng với niềm vui lớn lao.
Sứ điệp và trải nghiệm về mầu nhiệm Nước Trời làm cho mọi giá trị đã được biết từ trước tới nay bỗng trở nên tương đối. Tất nhiên những thực tại tốt lành khác vẫn là những thực tại có giá trị, như sức khoẻ, gia đình, nghề nghiệp, danh dự, học vấn, sự thành công, tình bạn, tình yêu đôi lứa… Nhưng chúng sẽ là tương đối trong so sánh với mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa ẩn mình nơi những sứ điệp và hoạt động của Chúa Giêsu. Ai hiểu những sứ điệp và mầu nhiệm đó sẽ khám phá nơi chúng những giá trị tuyệt đối, quý hơn tất cả những gì khác trong cuộc đời. Người đó sẽ dám bỏ đi tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình, vì Nước Thiên Chúa, bởi lẽ anh ta đã biết rằng đó là kho tàng quý giá duy nhất có khả năng làm cho sự sống của anh ta trở nên thực chất và giàu có vô cùng. Đó cũng là kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, vì mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,7-9)
Cuối cùng, hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc, một lần nữa, đề nghị người nghe chọn lựa sự nghèo khó như được nói trong 5,3 (“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”), khi lặp đi lặp lại: “bán tất cả những gì mình có” (cc.44.46). Kho báu và viên ngọc quý, như thế, chính là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa (“Nước Trời là của họ”). Kinh nghiệm đó tạo nên niềm vui sâu xa trong tâm hồn. “Kho tàng anh ở đâu thì lòng anh ở đó” (6,20).
2-Dụ ngôn chiếc lưới (cc.47-50)
“Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (cc.47-50).
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong một loạt 7 dụ ngôn ven biển hồ về Nước Trời, được ghi lại trong Mt 13. Dụ ngôn cuối cùng này có kèm lời giải thích. Về nội dung, chúng ta gặp lại sứ điệp của các dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, nhưng nhấn mạnh hơn về ngày chung thẩm.
Như đàn cá bơi dưới biển, gồm đủ mọi thứ cá tốt xấu khác nhau, cộng đoàn Hội Thánh cũng gồm những người tốt kẻ xấu. Nhìn bề ngoài, không có chuyện gì khác biệt, nhưng khi chiếc lưới đã được kéo lên bờ, sự phân biệt sẽ xảy đến: cá tốt và cá xấu sẽ có số phận khác nhau hoàn toàn.
Sự đối lập “cá tốt” và “cá xấu” tương ứng với sự đối lập giữa cây tốt với cây xấu trong 7,15-19. Vậy những “cá xấu” ở đây chính là các ngôn sứ giả, những đồ đệ giả, những con sói đội lốt chiên, những kẻ chỉ có vẻ bề ngoài theo Chúa Kitô còn thực chất là chạy theo những giá trị giả trá và không thực… Trong lời giải thích ở câu 48, họ bị gọi là những “kẻ xấu”.
Số phận của họ sẽ là bị quăng vào lò lửa (c.50). Nỗi đau đớn kinh hoàng và không bao giờ chấm dứt trong số phận chung cuộc của họ được miêu tả bằng những hình ảnh đáng sợ: “khóc lóc” và “nghiến răng”. Điều căn bản làm nên nỗi đau đó chính là sự vĩnh viễn mất đi sự sống đích thật. Nhưng dụ ngôn đề cập đến số phận chung cục như thế là nhằm giúp các môn đệ xác định hướng đi đúng đắn trong những quyết định hiện tại. Chỉ những ai sinh hoa quả tốt mới được đạt tới sự sống đời đời.
3-Kết luận về các dụ ngôn (cc.51-52)
Kết thúc các dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu.”52 Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (cc.51-52).
Giáo huấn dành cho các môn đệ được kết thúc trong khung cảnh mang tính riêng tư giữa Chúa Giêsu với các ông mà thôi. Tác giả Tin Mừng quay lại với chủ đề “hiểu”, vốn là chủ đề xuyên suốt Mt 13 (cc.13.14.15.19.23.51). Đã được hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời, các môn đệ phải trình bày mầu nhiệm đó cho những người khác. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh một sự khác biệt lớn giữa các “bậc thầy” trong cộng đoàn Kitô giáo với các bậc thầy trong cộng đồng Do Thái giáo. Các kinh sư Israel mang trên vai gánh nặng của cả một truyền thống giải thích lớn lao vốn không cho phép mọi sự vượt quá giới hạn cổ xưa. Các “kinh sư đã được học hỏi về Nước Trời”, tức là các bậc thầy trong cộng đoàn Kitô hữu, thì không bị lệ thuộc vào truyền thống cổ xưa ấy. Đối với họ, ưu tiên số một sẽ là “cái mới” trong kho tàng mầu nhiệm mà họ đã được học hỏi; “cái cũ” phải lệ thuộc cái mới đó. Nói cách khác, họ không đặt đạo lý của mình trước hết trên nền tảng là những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã nói, mà là trên chính mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Họ bắt đầu bằng sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu và đó chính là chìa khoá giúp họ đọc toàn bộ kho tàng Cựu Ước.
Không ít học giả hiểu rằng có lẽ tác giả Tin Mừng Mt muốn kín đáo tự nói về chính mình trong câu này.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
– Tác giả Mt không có ý nói về tính cách luân lý trong quyết định và cách hành xử của người đi tìm kho tàng và người đi tìm viên ngọc quý trong hai dụ ngôn ở đầu bài Tin Mừng hôm nay. Vì vậy, sẽ không chính xác nếu chúng ta buộc ông phải trả lời về vấn đề này. Điểm nhấn mà ông nhắm tới là niềm vui của con người gặp được mầu nhiệm Nước Trời, vốn là thực tại tuyệt hảo, cao quý hơn tất cả mọi giá trị khác.
Điều quan trọng không phải là ao ước Nước Trời, mà phải tìm kiếm, và nhất là phải quyết định, phải chọn lựa và phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy Nước Trời. Kho tàng quý và viên ngọc quý sẽ không thuộc về chúng ta nếu chúng ta không dám quyết định bán tất cả những gì mình đang có.
– Một trong những yếu tố đáng lưu ý là niềm vui tràn ngập tâm hồn các nhân vật trong hai dụ ngôn kho tàng quý và viên ngọc quý. Niềm vui đó vừa diễn tả độ lớn của niềm khao khát vừa là yếu tố thúc đẩy người ta mau mắn quyết định bán tất cả những gì mình đang có. Chúng ta đón nhận mầu nhiệm Nước Trời trong hân hoan hay miễn cưỡng? Chúng ta sống các mầu nhiệm thánh trong Đạo với niềm vui hay với sự chán nản mệt mỏi? Sứ điệp mà chúng ta công bố với thế giới có là tin mừng hay không?
– Số phận thật của những con cá khi mẻ lưới được kéo lên sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào chất lượng của những con cá ấy. Những con cá xấu sẽ bị ném ra ngoài. Vì thế, trước khi tấm lưới được kéo lên trong ngày chung thẩm, chúng ta cần phải trở thành những con cá tốt. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào chất lượng của cuộc sống hiện tại này.
– Điểm quy chiếu chính yếu, nền tảng căn bản và đầu tiên, có tính quyết định, phải là chính Đức Giêsu và đạo lý của Ngài, chứ không phải là những truyền thống cổ xưa của con người, cho dù là những truyền thống tốt lành. Chính Đức Giêsu sẽ là tiêu chuẩn đánh giá những truyền thống ấy, những thực tại “cũ” ấy. Người kinh sư đã được hiểu biết mầu nhiệm Nước Trời sẽ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào các truyền thống Do Thái cũ như các kinh sư Do Thái nữa. Điểm quy chiếu có tính quyết định luôn luôn là chính Chúa Giêsu, Đấng là chính thực tại Nước Trời giữa chúng ta.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- A
NƯỚC TRỜI– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa đã yêu thương và ưu đãi vua Salômôn qúa nhiều. Thiên Chúa đã giáng phúc và ban mọi phước lành cho đời của ông. Vua cha Đavid đã chọn Salômôn lên kế vị ngôi vua. Chúa đã rộng ban cho ông những ơn cần thiết tùy ông cầu xin. Vua Salômôn đã thưa: Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này (1Vua 3, 9). Salômôn đã không xin cho được giầu sang phú quý hay sống lâu. Vua chỉ xin Chúa ban ơn khôn ngoan. Ơn khôn ngoan là đầu mối của tất cả các niềm an vui và thành công trong đời. Khôn ngoan để biết phân biệt lành dữ và biết xét xử đúng sai trước mặt Chúa.
Ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho vua Salômôn ân sủng theo ý sở nguyện. Vua đã dùng ơn khôn ngoan để cai quản dân chúng và điều hành quốc gia dân tộc một cách an bình thịnh vượng. Chúa chấp nhận lời cầu: Thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi và sau ngươi không có ai bằng ngươi (1Vua 3, 12). Đây là sự khôn ngoan đích thực. Chúng ta biết ở đời có rất nhiều người khôn, nhưng chưa chắc đã ngoan. Thiên Chúa ban cho con người có khả năng và trí thông minh, nhưng họ lại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình để phủ nhận và chống đối lại Thượng Đế. Có nhiều người tuy tài giỏi lỗi lạc về các môn khoa học đời, nhưng lại chối bỏ sự khôn ngoan thượng trí của Tạo Hóa. Nhiều người tự mãn rằng họ có trí tuệ nhưng đã tỏ vẻ huênh hoang và kiêu ngạo không chấp nhận sự quan phòng của Thiên Chúa trong vũ trụ và đời sống của các loài thụ tạo. Hãy nhớ rằng con người chúng ta chỉ là một loài thụ tạo giới hạn trong thời gian và không gian. Có đó rồi biến đó.
Vua Salômôn là một bậc minh quân. Ông biết phân biệt trời cao đất thấp. Quy phục quyền năng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì con người yếu đuối lầm lỗi, Salômôn cũng không tránh khỏi những cám dỗ cả về danh, lợi và thú. Cuối đời, đã có lần ông rời xa Chúa, chạy theo các thần dân ngoại của các bà vợ và lập đền thờ cúng. Tuy nhiên, vì tình thương, Thiên Chúa vẫn chúc lành cho đời của ông lập được nhiều thành qủa tốt đẹp. Ông đã hoàn tất công trình của Vua Đavid là xây dựng đền thờ nơi Chúa ẩn ngự. Ông khéo léo cai quản gìn giữ quê hương xứ sở bình an trong suốt thời kỳ dựng xây nhà Chúa. Chúa ban cho ông ân lộc dư tràn và đất nước thịnh vượng một thời. Danh tiếng của ông vang khắp miền.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một vài hình ảnh về Nước Trời. Nước Trời được ví như một kho tàng, một viên ngọc quý và một mẻ lưới đầy cá. Nước Trời ở ngay tại thế, nếu chúng ta cố công đi tìm, sẽ gặp. Nước Trời không phải là một số kiến thức, một triết thuyết hay một chủ trương sống, mà là một kho tàng được chôn giấu cần ơn giác ngộ: Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh ta có mà mua thửa ruộng ấy (Mt 13, 44). Kho tàng này là một món qùa qúy, không phải vàng bạc châu báu, nhưng là lời khôn ngoan. Kho tàng nằm trong Lời Chúa và Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu đã giảng trên núi. Thật hạnh phúc cho ai giác ngộ sống theo Bát Phúc này.
Nước Trời được ví như viên ngọc quý, khi tìm thấy, người ta bán mọi sự để mua được viên ngọc đó. Ngọc quý là chính ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một hạ thân cứu độ chúng sinh. Viên Ngọc quý từ trời ban xuống là Đức Kitô đã hy sinh hiến mình để cứu độ nhân loại. Qua bao đời, có biết bao nhiêu người đã nghe giảng, học biết và tin nhận Chúa Kitô là Con Thiên Chúa giáng trần. Họ đã tìm được viên ngọc qua đời sống đức tin trong Giáo Hội. Cửa Nước Trời đã mở ra thâu nhận những ai muốn kiếm tìm và sống niềm tin. Mọi người đều có thể sở hữu viên ngọc quý của Nước Trời. Viên ngọc của ân sủng, của tin yêu và hy vọng. Chúa Giêsu đã sắm sẵn cho mọi người.
Ai tin vào Chúa thì sẽ được lãnh nhận ơn cứu độ.
Một hình ảnh rất cụ thể: Nước trời giống như chiếc lưới thả xuống biển, bắt được mọi thứ cá (Mt 13, 47). Nước Trời khởi sự tại trần gian nhưng qui hướng về trời. Chiếc lưới có đủ mọi thứ cá, có nghĩa là Nước Trời nơi trần thế bao gồm tất cả mọi thành phần cần biến đổi. Trong đời sống Giáo Hội, có nhiều thành viên thánh thiện, tốt lành, đạo đức và cũng bao gồm nhiều người bình thường, chuộng danh nghĩa, sống hình thức, chỉ mang danh Kitô hữu, nhưng không sống đạo hoặc gồm cả những thành phần sa chìm tội lỗi, sống bê bối và lãnh đạm thờ ơ. Hình ảnh một Giáo Hội đang trên đường lữ thứ trần gian cần sự kiên nhẫn thanh lọc, canh tân đổi mới và tinh luyện con người nên tốt hơn và thánh thiện hơn. Vì Đạo chính là đường dẫn chúng ta tới quê thật là Nước Trời.
Chúa Giêsu dậy rằng am tường sự khôn ngoan là biết lợi dụng mọi môi trường và hoàn cảnh để dẫn lối vào Nước Trời. Trong kho tàng của Giáo Hội chất chứa mọi thứ cũ mới như những viên ngọc quý: Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới cũ trong kho mình (Mt 13, 53). Mọi lời khôn ngoan đã được mạc khải trong Sách Thánh. Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Ngôi Lời đã tỏ cho chúng ta biết về chương trình cứu độ và mở cửa Nước Trời đón nhận chúng ta. Học biết lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta có thể hiểu biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với các cha ông và các tổ phụ trong thời Cựu Ước. Giáo ước đã dẫn bước dân của Chúa tới giao ước mới được ký kết bằng Máu châu báu của chính Chúa Kitô. Muốn hiểu được ý nghĩa của Nước Trời, chúng ta cần phải tìm hiểu kho tàng ơn cứu độ trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Thiên Chúa tạo dựng muôn loài trong vũ trụ. Mỗi loài đều có một cùng đích để nhắm tới. Không có vật gì, sự gì hay sự sống nào là vô ích. Sự liên kết chằng chịt giữa các phần tử trong vũ trụ đều liên đới và bổ túc cho nhau để hiện hữu. Khoa học con người chưa thể khám phá ra tất cả ý nghĩa cao sâu của mầu nhiệm sáng tạo. Sự an bài và quan phòng của Thiên Chúa cho mỗi loại và mỗi loài theo ý định của Người. Riêng con người mang hình ảnh của Thiên Chúa được chia phần vinh quang cách đặc biệt. Trong thơ gởi tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô viết: Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi họ, và những ai Người đã kêu gọi, thì Người cho họ được vinh quang (Rm 8, 30). Thiên Chúa tiền định thế nào, chúng ta không biết, nhưng tin rằng chúng ta sẽ được chung phần hưởng vinh quang với Đức Kitô. Chúa đã gọi chúng ta vào đời và tái sinh chúng ta làm con Chúa qua Bí tích Rửa Tội. Niềm hy vọng của chúng ta là cùng được sống lại với Chúa Kitô trong ngày sau hết.
Lạy Chúa, Chúa đã mở cửa Nước Trời đón nhận những ai tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa và trung thành thực thi lời Chúa, để canh tân cải biến đời sống mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết gìn giữ kho tàng ngọc quý mà Chúa đã trao ban để sinh hoa kết quả tốt lành và thánh thiện.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #loichuachuanhatxviithuongniena