CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
MẠNH DẠN TUYÊN XƯNG– Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 6
ĐỪNG SỢ- Chú giải của Fiches Dominicales. 11
LỜI CHỨNG CỦA CÁC CON (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 19
VỮNG LÒNG CẬY TRÔNG CHÚA DÙ ĐANG SỐNG GIỮA KHÓ KHĂN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 33
NGƯỜI TÔNG ĐỒ NHIỆT THÀNH- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 45
BIẾT SỢ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 62
HÃY SỢ TỘI- Lm. Nguyễn Hùng. 66
MẦU NHIỆM ĐAU KHỔ– Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn. 69
CHÚA QUAN PHÒNG- Lm.Giacôbê Nguyễn Văn Phượng. 74
ĐỪNG SỢ SỐNG TIN MỪNG- Lm. Bùi Quang Tuấn. 78
ĐỂ GIÚP NHAU ĐỪNG SỢ- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa. 82
ĐỪNG SỢ– Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn. 87
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN – A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ta đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: “Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó”. Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: “Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó”. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Đấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 68, 8-10. 14 và 17. 33-35
Đáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).
1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. – Đáp.
2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi xin nhìn đến tấm thân con. – Đáp.
3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 5, 12-15
“Không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội trên thế gian; nhưng tội không bị bắt lỗi, khi không có lề luật. Nhưng từ Ađam cho đến Môsê, sự chết ngự trị cả trên những kẻ không phạm tội giống như sự lỗi phạm của Ađam, hình ảnh của người đến sau.
Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 26-33
“Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
“Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
“Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-A
MẠNH DẠN TUYÊN XƯNG– Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Vậy đừng sợ chúng”: Chữ “vậy” liên kết cc. 26-27 với những gì đi trước. Tuy thế nó không loan báo một kết luận đương nhiên nhưng là khai mào cho một lời khích lệ mới dựa trên điều đã nói. Ý nghĩa chẳng phải như thế này: đừng sợ chúng vì chúng không làm gì chống lại các con được, song là: đừng sợ chúng vì các con không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của Thầy các con (c. 24-25). Các kẻ bách hại thật đáng sợ đấy nhưng phải biết khắc phục nỗi sợ hãi này và tuyên xưng niềm tin mới. Thành ra các chữ đầu tiên đây có nghĩa: ước gì nỗi sợ hãi của các con (mà người đời có thể hiểu được cc 17-25) không ngăn cản việc các con làm chứng về Thầy.
“Bị bại lộ … bị thấu biết”: Chủ từ không nói ra của hai động từ ở thể thụ động này là Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa muốn cho mọi người biết mầu nhiệm Nước Trời nhờ chứng tá các môn đồ. Lời khuyên đừng sợ hãi lần lượt dựa trên nhiều lý do. Trước tiên đừng sợ vì sứ điệp vĩ đại của Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ… Bước đầu của “các điều mới” do Chúa Giêsu đem đến thật khiêm tốn vô cùng. Ai nấy đều tưởng dễ nghiền nát hạt giống nhỏ bé đó. Nhưng cái hiện nay đang sống trong âm thầm và thinh lặng, ngày kia sẽ được tỏ lộ cách vinh quang. Chúa Giêsu thực hiện sự nghiệp Người trong tư thế một tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa… thế nhưng, Người sẽ tự mặc khải như niềm hy vọng của muôn dân (12, 17-21). Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh sáng. Điều Người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp Người trước cuộc Tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về Tin Mừng cho Người; và Tin Mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình minh.
“Những kẻ giết được xác”: Lý do đừng sợ thứ hai là sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Các kẻ bách hại chỉ có thể giết (apokteinai) nhưng mình Thiên Chúa mới có thể diệt (apolosai) toàn thể con người. Sự sống thật (xác và hồn) thoát khỏi mọi cuộc tấn công. Nó được Thiên Chúa bảo đảm dứt khoát và không thể bị người đời giảm bớt hay cướp mất đi, ngay cả bằng việc tiêu trừ sự sống thân xác.
“Ngoài ý Cha các con”: lý do đừng sợ thứ ba là: Thiên Chúa quan phòng hằng chăm sóc mọi tạo vật, kể cả những thứ vô nghĩa như loài chim sẻ. Nhưng sự quan phòng đó không phải là một định luật vô ngã của vũ trụ, song là sự trông coi có tính cách hữu ngã của Thiên Chúa hằng sống, Cha các con. Tuy nhiên, nếu chứng tá các môn đồ có thể đưa đến cái chết, thì đó không phải là ngoài ý muốn của Chúa Quan phòng, như thể Thiên Chúa, dầu âu yếm đứng bên giờ chết của vị tử đạo, vẫn không thể cứu thoát vị ấy được, nghĩa của đoạn này hoàn toàn khác. Matthêu muốn nhấn mạnh: dù đang chứng kiến cái chết của vị tử đạo? Thiên Chúa cũng không muốn tách cái chết đó ra khỏi thánh ý Ngài: sở dĩ Thiên Chúa phù giúp vị tử đạo chính là vì xét cho cùng, Ngài muốn cái chết đó. Hãy nói cho rõ hơn: Ngài không chấp nhận cái chết cách chung chung, lý thuyết, vì Ngài muốn con người sống và được cứu thoát; nhưng chính vì mong mọi người lắng nghe Tin Mừng, mà Ngài muốn có những Đấng tử đạo, là những kẻ Ngài hứa ban trong cùng một lúc cái chết bi thảm và ơn cứu rỗi.
“Ta cũng xưng kẻ ấy ra”: Điểm đáng lưu ý là ở đây Chúa Giêsu không xuất hiện như là Thẩm Phán ngày sau hết, nhưng như Trạng sư biện hộ cho các tín hữu Người trước mặt Thiên Chúa Thẩm phán. Cả hai vai trò đều liên kết trong bản thân Người. Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho Người (25, 31tt; 7, 23), nhưng chính Người lại đồng hóa với những kẻ tin tưởng cùng đi theo Người đến nỗi Người có thể đại diện cho họ (x. 10, 40; 18, 20; 25, 35tt).
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã hơn một lần dùng kiểu nói đề phòng sau đây: “Hãy coi chừng” (7, 15; 10, 17…). Nhưng Người cũng bảo, như trong các câu này (3 lần): “đáng sợ”. Cả hai chuyện đều cần thiết phải sáng suốt và khôn ngoan để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến; nhưng sau đó đứng vững giữa mọi cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức tin xua đuổi sợ hãi và niềm ý thức rằng mình thuộc về Đấng Messia, mình phải chịu đựng số phận của mình như Đấng Messia sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
– Trên đường đức tin, phải biết sẵn sàng đón nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. Phải biết thẳng tay loại bỏ những mộng ước dễ dãi về một công cuộc Phúc âm hóa đầy may mắn và tốt đẹp. Đừng sợ, nghĩa là phải chống đối, đấu tranh, kiếm tìm. Có trăm ngàn lý do để sợ: tiến bộ hay thủ cựu, khuynh hữu hay khuynh tá, bạo lực hay yếu hèn … Tất cả đều hợp lực làm lu mờ chân lý. Giữa bao cảnh bạo tàn và gian manh láo khoét ấy, vang dội lời này: “Các con đừng sợ chúng”.
– Người ta có thể chất vấn mọi Kitô hữu: bạn lo sợ cho Nước Trời hay lo sợ cho xác thân, cho cuộc sống bạn? Nỗi lo âu của bạn là lòng nhiệt thành nung nấu hay ưu tư về chính bản thân? Sau cùng bạn quan tâm lo lắng cho tha nhân hay băn khoăn về cuộc đời của bạn? Nói cách khác, bạn sợ hay tin. Vì ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có đức tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có sự nghi ngờ triệt để này? Thiên Chúa có thể cứu ta thực không? Phải chăng Ngài đã chết? Chắc gì Ngài lưu tâm đến ta? Không sợ là vững tin giữa cơn nguy hiểm rằng ngay cả tóc trên đầu ta cũng được đếm cả rồi.
– Trong cuộc sống cụ thể mà Kitô hữu phải làm chứng về niềm tin mình mỗi ngày, thật khó phân biệt giữa sự gan dạ cần thiết với sự táo bạo nguy hiểm vô ích. Ta quá biết rằng mọi thái độ, cử chỉ đều có thể bị chỉ trích vì không gì tốt hảo hoàn toàn. Có thể đôi khi nên thinh lặng hơn là tuyên bố chẳng đúng thời đúng lúc; nhưng đừng thinh lặng vì sợ cho bản thân, vì sợ nguy hiểm cho thanh danh mình hay cho sự thoải mái bên trong. Hôm nay được gặp Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, ta hãy xin Người giải thoát ta khỏi mọi sợ hãi và củng cố niềm tín thác cậy trông mà chỉ mình Người mới có thể ban được.
– Việc Chúa quan phòng chăm sóc ta không có nghĩa là Ngài cất khỏi ta mọi khó khăn, nhưng là giúp đỡ ta qua mọi khó khăn gặp phải, để biến ngay cả cái chết thành một khúc ca tình yêu.
CHÚA NHẬT MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ- A
ĐỪNG SỢ- Chú giải của Fiches Dominicales
Được tiếp đón hay bị từ chối như Thầy…
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi “đến với những chiên lạc là Israel”, Người còn nói với họ một “diễn từ sai đi”, là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc Âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): “Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn”. Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: “Hai câu này nhìn sứ mạng ” Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
Những người được sai đi của Đức Giêsu không được sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ – căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ – Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: “Các con đừng sợ!… Đừng sợ! Đừng sợ gì cả…”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là “Người Cha” chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: “Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều”. Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, Ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
BÀI ĐỌC THÊM:
Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật “Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi”. Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi . “Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều”.
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở “nhà” ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, “tại nhà họ”, không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian . . . Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn . . .
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
Im hay nói (G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: “Hãy la lớn trên “mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “Không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: “Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- A
LỜI CHỨNG CỦA CÁC CON (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy mời gọi chúng ta suy niệm những bổn phận mà các sứ giả Thiên Chúa phải chu toàn, dù họ là những ngôn sứ, tông đồ, nhà truyền giáo hay đơn giản là những môn đệ. Không được lặng thinh, hãy làm chứng và đừng bao giờ sợ hãi. Thiên Chúa ở cùng họ.
Gr 20: 10-13
Bài Đọc I trích dẫn “Lời Trần Tình” cuối cùng của Giê-rê-mi-a. Trong cảnh bị bách hại, ngôn sứ Giê-rê-mi-a kêu cầu cùng Thiên Chúa, phó thác cho Ngài nguyên nhân của mình và hát lên niềm vui của mình.
Rm 5: 12-15
Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Phần trích dẫn hôm nay gợi lên phản đề của triều đại ân sủng được Đức Giê-su thiết lập, phá hủy sự thống trị của cái chết và tội lỗi kể từ nguyên tổ A-đam.
Mt 10: 26-33
Tin Mừng trích dẫn “diễn từ về sứ vụ” của Đức Giê-su trong đó thánh Mát-thêu tập hợp những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài nhắm đến sứ mạng tương lai của họ: nói công khai và không sợ hãi, luôn luôn tuyên xưng Ngài là Chúa bất chấp những bách hại.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 10-13).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những dung mạo hấp dẫn nhất của trào lưu ngôn sứ. Ông thi hành sứ mạng của mình ở Giê-ru-sa-lem vào cuối thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI tCn, nghĩa là vào thời kỳ đặc biệt bi thảm đối với quê hương ông: thời kỳ vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong, kinh thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thánh bị quân Ba-by-lon tàn phá (598-587 tCn).
Vốn bản tính nhút nhát, một tâm hồn rất đa cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận sứ mạng loan báo những tai họa, công bố những sứ điệp đi ngược lại với những viễn kiến của mọi người, rao giảng ăn năn sám hối cho các vị lãnh đạo và dân chúng, những người nầy cứng lòng tin không chịu nghe ông.
Trong tác phẩm của mình, thỉnh thoảng ông bày tỏ những phàn nàn, những xao xuyến, thậm chí những nghi ngờ nữa. Những lời trần tình tản mạn nầy được các nhà biên soạn tập hợp lại dưới nhan đề : “Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” (11: 18-23; 12: 1-6; 15: 10 và 20; 17: 14-18; 18: 18-23; 20: 7-18). Vào Chúa Nhật nầy, chúng ta đọc Lời Trần Tình sau cùng.
Đơn độc một mình:
Chính vào thời kỳ thế lực Át-sua hoàn toàn suy yếu mà Giê-rê-mi-a loan báo những cuộc tấn công gây tang tóc từ phía một kẻ thù lân bang. Tuy nhiên, những lời loan báo của ông chẳng được ai quan tâm.
Khi Giê-ru-sa-lem bị vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so xâm chiếm vào 598 tCn, và một phần dân cư bị dẫn đi lưu đày, vị ngôn sứ tiên báo rằng cuộc lưu đày sẽ dài lâu, nhưng đó sẽ là cuộc thử thách có lợi, phong phú về phương diện tinh thần. Người ta gán cho ông có tinh thần chủ bại.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn tiên báo những tàn phá mới càng trầm trọng hơn. Vua Giê-hô-gia-kim xé những sấm ngôn của vị ngôn sứ ra thành từng miếng và ném vào lò lửa. Ngôn sứ Giê-rê-mi đập vỡ chiếc bình gốm để cảnh tỉnh đồng bào ông rằng đó sẽ là số phận của Giê-ru-sa-lem. Ông trở nên trò cười cho mọi người. Một ngày kia, trong Đền Thờ, ông công bố rằng những tàn phá sẽ sớm xảy đến. Người ta bắt ông, đánh đòn ông, xích ông lại. Một lần khác, người ta ném ông vào một cái giếng cạn đầy bùn.
Đám đông chán ngấy vị ngôn sứ loan báo tai họa nầy: “Kìa lão “Tứ phía kinh hoàng !, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi !”. Gia đình của ông, bạn bè của ông, những người đồng hương của ông đều âm mưu hãm hại ông.
Ở Giê-ru-sa-lem, có những ngôn sứ khác đồng thời với ông tuyên sấm bình an, nhưng họ không được Đức Chúa ủy quyền. Giê-rê-mi-a biết rằng những lời của ông thì chân thật vì chúng phát xuất từ Thiên Chúa. Ông sống trước những biến cố khủng khiếp mà ông tiên báo và ông cảm thấy một nỗi phiền muộn mênh mông.
Thiên Chúa sẽ báo oán cho những phận hèn.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a chỉ nương tựa vào một mình Đức Chúa. Vốn là một con người cầu nguyện và nội tâm, ngôn sứ không ngừng đối thoại với Thiên Chúa; ông phó thác công việc của ông cho Ngài, vì biết rằng Đức Chúa là Đấng bênh vực những người đơn côi cô thế và phận hèn. Vị ngôn sứ mong ước được thấy đối thủ của ông phải hổ ngươi bẽ mặt: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là nỗi ô nhục không thể nào quên”.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a diễn tả nhiều lần niềm ước mong nầy. Nhưng ông không bao giờ có ý định trả thù đối với bất kỳ cá nhân nào. Ông hoàn toàn phó thác vào duy chỉ một mình Thiên Chúa. Thỉnh thoảng ông thôi phàn nàn để cầu bầu cho những kẻ thù của ông.
Niềm hoan hỉ:
“Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” kết thúc với một tiếng reo vui, tràn đầy niềm tín thác, vì ông tin chắc rằng lời nguyện xin của ông sẽ được nhậm lời: “Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”.
Khi thành thánh Giê-ru-sa-lem bị quân Ba-by-lon đánh chiếm trong cảnh hỗn loạn vào năm 587 tCn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a được nể trọng và không phải bị dẫn đi lưu đày. Trước cảnh tang thương lớn lao của dân tộc ông, ông trở thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng. Ông khẳng định rằng không có gì bị mất đi, Thiên Chúa sẽ thiết lập một Giao Ước mới, Giao Ước sẽ được ghi khắc không phải trên bia đá mà trong lòng dạ của con người. Ông tiên cảm một tôn giáo mang chiều kích nội tâm hơn bằng chính cuộc sống của mình.
Sau khi ông qua đời, ảnh hưởng của ông thật lớn lao và ngay tức khắc. Không một tác phẩm ngôn sứ nào được những người lưu đầy ở Ba-by-lon đọc đi đọc lại nhiều như tác phẩm của Giê-rê-mi-a. Việc báo ứng mà ông đã từng khẩn nguyện với Thiên Chúa thuộc trật tự tâm linh.
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-15)
Trong chương năm thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô thiết lập tiền đề về ơn cứu độ phổ quát của Đức Giê-su. Ngài là Đấng cứu độ của muôn dân: không ai có thể được cứu mà không qua Ngài. Mọi người là những tội nhân, vì thế, tất yếu đều phải qua Ngài để được công chính hóa. Thánh nhân ca ngợi Đức Giê-su đích thật là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát. Trên cõi thế nầy, không ai có thể nên công chính nếu Đức Giê-su đã không hành động ở nơi người ấy.
Như trong chương trước đó, thánh Phao-lô đã ra sức thiết lập tiền đề của mình khởi đi từ truyền thống Kinh Thánh. Tổ phụ Áp-ra-ham được cứu nhờ tin. Ở đây cũng vậy, thánh nhân lại viện dẫn Cựu Ước như phản đề. Đức Giê-su là Đấng Cứu độ duy nhất, nhờ chỉ mình Ngài mà ơn cứu độ đã xâm nhập trần gian. A-đam là tội nhân nguyên khởi. Qua ông mà tội đã lan tràn đến hết mọi người. Cựu Ước và Tân Ước đối xứng với nhau thật hoàn hảo. Hình ảnh Cựu Ước loan báo việc ứng nghiệm trong thế giới Kitô giáo. Rõ ràng toàn bộ chương trình cứu độ xuất phát từ chính Thiên Chúa. Tấm màn đen tối của Cựu Ước làm rực sáng lên Đức Kitô trong Tân Ước. Dự định của thánh nhân dễ dàng nhận ra: phải lớn tiếng cao rao ơn cứu độ phổ quát nơi Đức Giê-su Kitô.
Để kết thúc, chúng ta phải ghi nhận rằng thánh Phao-lô thiết lập tiền đề của mình ở Rm 5: 12-21. Các câu 1-11 hình thành nên một loại chuyển tiếp giữa tiền đề thần học đi trước: sự công chính hóa không bởi công nghiệp của Lề Luật nhưng bởi đức tin. Đó là tiền đề mà chúng ta đang tìm hiểu ở đây.
Bản văn mà Phụng Vụ đề xuất cho chúng ta chỉ là một phần của đề tài mà thánh Phao-lô trình bày. Đề tài phải được đọc trên hậu cảnh mà chúng ta vừa mới gợi lên. Sự hiểu biết của đoạn trích nầy tùy thuộc vào hậu cảnh nầy.
Câu 12 bắt đầu một sự đối chiếu vĩ đại nhằm diễn tả tiền đề của thánh Phao-lô, vì thế thống trị toàn bộ bản văn và sẽ được nối tiếp chỉ ở câu 18. Hai thành viên của sự đối chiếu được tách riêng ra bởi một loạt những khảo sát thần học, những khảo sát nầy gặp thấy vài khía cạnh của vấn đề. Tư tưởng của thánh Phao-lô xô đẩy lẫn nhau; cường độ của suy tư vượt lên trên trật tự hợp lý. Trong niềm hưng phấn của cuộc tranh luận, thánh nhân suy nghĩ nhanh hơn là nói.
Để làm sáng tỏ hơn, chúng ta sẽ trình bày sự đối chiếu theo sơ đồ như sau: vì một người duy nhất, tội lỗi xâm nhập thế gian, và từ đó, tội lỗi gây nên cái chết (5: 12); cũng vậy, vì một người duy nhất, sự công chính hóa đã được thực hiện, và từ đó, ơn công chính hóa nầy đem lại sự sống (5: 18).
Do từ sự đối chiếu nầy, bản văn phụng vụ chỉ giữ lại câu 12, vì thế, câu nầy chưa hoàn tất, thậm chí còn rườm rà phức tạp nữa. Vế thứ nhất của câu 12: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên cái chết” nối lại lập luận với điều đi trước: tóm lại, vì xuất hiện trong chức năng cứu độ viên mãn của mình, Đức Giê-su đặt mình trong tư thế đối lập với nguyên tổ A-đam. Vì bất tuân, nguyên tổ A-đam đã đem tội lỗi vào thế gian và hậu quả của nó là cái chết đã gây tác hại ngay tức khắc trên thân phận con người.
Cái chết cô động và tóm gọn tất cả sự dữ trong thế gian. Cái chết tinh thần hệ tại nơi sự đoạn tuyệt giữa con người với Thiên Chúa mà cái chết thể lý xem ra là dấu chỉ rõ ràng nhất. Thánh Phao-lô lập luận trong viễn cảnh Cựu Ước, theo đó có một sự liên kết chặt chẽ giữa tội lỗi và mọi hình thức sự dữ trong thế gian. Con người phải chịu trách nhiệm đưa sự dữ vào trong công trình tạo dựng vốn tốt lành. Con người đã làm hỏng công trình của Thiên Chúa. Suy tư nầy dẫn chúng ta trực tiếp vào trọng tâm của giáo thuyết về tội nguyên tổ.
Vế thư hai của câu 12 có thể được hiểu theo hai cách tùy theo cách giải thích của đại từ liên hệ Hy lạp: đại từ nầy có thể quy chiếu đến số nhiều: “mọi người” hay số ít: “người nầy” (A-đam) hoặc “cái chết” của vế đi trước đó. Theo cách hiểu thứ nhất: “Cái chết đã tràn lan đến hết mọi người vì mọi người đều phạm tội”, thánh nhân nhấn mạnh rằng, do tội của chính mình, con người liên đới với tội Ađam. Theo cách hiểu thứ hai: “Cái chết đã lan tràn đến hết mọi người vì A-đam, vì ông mọi người đều phạm tội”, thánh nhân soi sáng mối liên hệ nhân quả giữa tội A-đam và tội của toàn thể nhân loại, tội của toàn thể nhân loại một cách nào đó chuẩn nhận tội nguyên tổ. Ý nghĩa của câu không thay đổi là mấy nếu đại từ liên hệ được quy chiếu không đến nguyên tổ A-đam nhưng đến cái chết: “cái chết đã lan tràn đến hết mọi người vì tình trạng của cái chết (gây ra bởi tội A-đam), mọi người đều phạm tội”. Văn phạm không giúp giải quyết cuộc tranh luận giữa các nhà chú giải. Vả lại, văn phạm không nêu lên vấn đề về ý nghĩa sâu xa của đoạn văn, nó đem đến những dấu nhấn khác nhau trong một sự khẳng định tự căn bản vẫn là như nhau.
Các câu 13-14 nhấn mạnh sự kiện theo đó mọi người đều là tội nhân. Người ta có thể nghĩ rằng những người trước ông Mô-sê đã không bị tội tác hại. Họ đã không biết luật, vì thế họ đã không thể vi phạm luật. Tuy nhiên, phải nhận chân rằng họ cũng chết, cũng bị thống trị và nghiền nát do hậu quả của tội. Vì thế, người ta có thể kết luận rằng chính họ cũng là những tội nhân. Ở phần cuối của câu: “A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới” thánh nhân dẫn đưa chúng ta từ hình bóng của Cựu Ước đến thực tại của nó trong Tân Ước.
Phản đề khởi sự ở câu 12 thật sự được khai triển ở câu 15. Đức Kitô trổi vượt vô cùng tận trên nguyên tổ A-đam. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi của con người. Nếu như tội lỗi của con người có thể hủy hoại tất cả công trình sáng tạo, thì ân sủng của Thiên Chúa phải đổi mới thế gian biết chừng nào! Thánh Phao-lô tiếp tục nhấn mạnh sự siêu vượt của Đức Kitô trong mối liên hệ với nguyên tổ A-đam ở những câu 16-17 và tiếp đó lấy lại sự đối chiếu còn bỏ lững ở câu 12.
TIN MỪNG (Mt 10: 26-33).
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ thứ hai của Đức Giê-su được gọi “diễn từ về sứ vụ” (10: 5-42). Thánh Mát-thêu đã kết tập ở đây những lời khuyên bảo và những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài, nhắm đến sứ mạng tương lai của họ.
Đức Giê-su vừa mới phác họa bức tranh tăm tối về những khó khăn mà các Tông Đồ sẽ phải đối đầu, những thù ghét sẽ nổi lên dữ dội chống lại họ như đã chống lại Thầy họ, những lời vu khống mà người ta sẽ cáo tội họ như người ta cáo tội Thầy họ. Nhưng đừng để nỗi sợ hãi làm mình nao núng.
Sức mạnh của sứ điệp.
Bất chấp thái độ thù địch, các môn đệ đừng sợ, hãy mạnh dạn lớn tiếng công bố giữa thanh thiên bạch nhật sứ điệp mà Ngài đã trao gởi cho họ “lúc đêm vắng, tai kề tai”.
Trong chỗ thân tình, Đức Giê-su giáo huấn chỉ một nhóm nhỏ môn đệ, còn với đám đông Ngài chỉ dạy bằng dụ ngôn, tuy nhiên khi thời gian đến “không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Thánh Lu-ca cũng trích dẫn hai lần câu nói nầy: lần thứ nhất theo cùng một ý nghĩa như thánh Mát-thêu, không ai lấy hũ che ngọn đèn thắp sáng hoặc đặt nó ở dưới gầm giường (Lc 8: 17); còn lần thứ hai, câu nói nầy theo văn mạch có ý nghĩa rất khác: Đức Giê-su tố cáo thói giả nhân giả nghĩa của người Biệt Phái (Lc 12: 2-3). Bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su sẽ đưa Mặc Khải đến hồi viên mãn. Lúc đó, các môn đệ của Ngài, các thừa tác viên của Lời Ngài, những người phục vụ Lời Ngài, sẽ phải thông truyền Lời Ngài cách công khai cho hết mọi người, công bố lớn tiếng Lời Ngài “trên mái nhà”. Mái nhà, theo kiểu xây nhà của người xứ Pa-lét-tin, là một sân thượng, ở đó vào lúc chiều hôm mát mẽ người ta trò chuyện với nhau từ sân thượng nầy sang sân thượng khác. Đức Giê-su đối lập Mặc Khải chưa hoàn tất với Mặc Khải nên trọn, cũng như sự nhát đảm hiện nay của nhóm Mười Hai với lời rao giảng đầy quyền năng của họ sau biến cố Ngũ Tuần.
Những kẻ bách hại không thể giết được linh hồn.
Các môn đệ sẽ kinh qua những nhục hình, đòn vọt, tù đày…, và phần lớn trong số họ được phúc tử đạo. Tuy nhiên, những kẻ bách hại không thể làm gì được trên lương tâm của họ, đức tin của họ, chính trên pháo đài nội tâm nầy mà tâm hồn của mỗi người hình thành nên. Vì thế, Đức Giê-su khuyên các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Chính Thiên Chúa mà các môn đệ phải sợ vì chỉ mình Ngài mới có quyền năng xác định số phận đời đời của con người. Như vậy, thánh Lu-ca đối lập sợ hãi con người với sợ hãi Thiên Chúa. Theo nghĩa Kinh Thánh, “sợ hãi Thiên Chúa” hàm chứa một cuộc sống công chính, tránh xa tội lỗi. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô một cách nào đó tóm lược lời nói nầy: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em.” (1Pr 3: 14-15).
Tình phụ tử của Thiên Chúa.
Những lời khuyên bảo của Đức Giê-su được sưu tập và đặt bên cạnh nhau khiến gây nên những trái ngược. Sau Thiên Chúa là Thẩm Phán, lại đến Thiên Chúa là Phụ Tử, Ngài ân cần săn sóc các thụ tạo của Ngài, dù chúng chỉ là những chim sẻ không đáng giá là bao.
Kiểu nói: “Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” được mượn ở Cựu Ước: “Không một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành động cùng với Thiên Chúa” (1Sm 14: 45; x. 2Sm 14: 11; 1V 1: 52), có nghĩa ơn quan phòng của Thiên Chúa.
Lời chứng của Chúa Con.
Viễn cảnh của những cuộc bách hại là điểm nhấn của diễn từ về sứ vụ. Giờ đây thánh Mát-thêu gợi lên những nguy cơ chối đạo có thể bất ngờ xảy đến: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Theo lối hành văn đối xứng rất được người Do thái ưa chuộng, lời khẳng định nầy hàm chứa lời tuyên bố tương tự theo lối phủ định: “Phàm ai không tuyên bố…, thì Thầy cũng sẽ không…”. Đây là lời hứa của Đức Giê-su vào giờ xét xử thời chung cuộc.
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu nầy có một hậu cảnh bi thảm. Nó loan báo một thời kỳ bách hại dữ dội trong lịch sử. Những kẻ bách hại sẽ bất ngờ xuất hiện rất sớm. Vào năm 36, thánh Tê-pha-nô sẽ mở đầu một danh sách dài của những người tử đạo, tiếp đó thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, vào năm 42. Theo sau những bách đạo của chính quyền Do thái giáo, đến những bách đạo của chính quyền Rô-ma. Bản văn của sách Khải Huyền đã nêu rõ lời bối cảnh này: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi phải chịu: nầy ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2: 10).
VỮNG LÒNG CẬY TRÔNG CHÚA DÙ ĐANG SỐNG GIỮA KHÓ KHĂN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
“Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”(Mt 10,31)
Sợi chỉ đỏ : Các bài đọc hôm nay nêu lên ba tình huống khó khăn khác nhau :
– Ngôn sứ Giêrêmia bị dân do thái tìm cách làm hại (Bài đọc I – Gr 20,10-13) : “Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng.
– Tác giả Tv 68 bị những người thân thích bài xích (Đáp ca – Tv 68) : “Chúa nghe những người cơ khổ”
– Các sứ giả Tin Mừng bị bách hại (Mt 10,26-33) : “Tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”
Những vai chính trong 3 bài đọc trên đều vững lòng trông cậy nơi Chúa, với niềm xác tín được Chúa bảo vệ và giải thoát.
– Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ) : “Do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần”
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta trên dương thế này thường xuyên gặp phải biết bao khó khăn gian khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác quyết rằng nếu chúng ta trông cậy vào Chúa thì Ngài sẽ bảo vệ và giải thoát chúng ta.
Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa củng cố lòng trông cậy của chúng ta.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Nhiều khi gặp đau khổ, chúng ta đã bỏ đọc kinh cầu nguyện.
– Nhiều khi vì quá khổ, chúng ta phiền trách Chúa.
– Nhiều khi trong lúc khó khăn, chúng ta mê tín dị đoan.
LỜI CHÚA
- Bài đọc I (Gr 20,10-13)
Giêrêmia là một ngôn sứ phải nhận lãnh một sứ mạng rất khó khăn và cay đắng, đó là vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Nhưng giữa những khó khăn và khổ sở đó, Giêrêmia luôn trông cậy vào Chúa. Ông tin vững vàng rằng “Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng”.
- Đáp ca (Tv 68)
Thánh vịnh này là lời cầu nguyện của một người công chính đáng bị kẻ ác hãm hại, cùng một tâm tình với ngôn sứ Giêrêmia. Giữa những lúc khó khăn như thế, tác giả vẫn ngợi khen Chúa và tin chắc rằng Ngài sẽ nhậm lời.
- Tin Mừng (Mt 10,26-33)
Đoạn Tin Mừng này tiếp nối những lời Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Ngài khuyến cáo họ rằng có thể họ sẽ gặp nhiều khó khăn và cả bách hại nữa. Nhưng Ngài bảo họ “Đừng sợ”, bởi vì Chúa quan phòng luôn ở bên họ để che chở : “Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi”
- Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ)
Văn mạch : Trong đoạn được trích đọc tuần trước, Phaolô đã bắt đầu luận đề người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà là nhờ đức tin.
Trong đoạn thư hôm nay, Phaolô đưa ra lập luận thứ nhất để chứng minh luận đề ấy :
– Do tội của Ađam mà tất cả loài người phải gánh hậu quả là cái chết.
– Do công của Đức Giêsu Ađam mới mà tất cả loài người được ơn nghĩa dư đầy của Thiên Chúa.
Như thế, con người được ơn nghĩa của Thiên Chúa là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.
GỢI Ý GIẢNG
- Bàn về sự sợ
Con người có nhiều nỗi sợ : sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người : không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ : sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo “đừng sợ”. Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài :
– Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị năng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
– Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác : a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người ; b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì “Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Cha Charles de Foucauld đã nói : “Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả”
- Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt : gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói “Đó là ý Chúa” ; thành công hay thất bại, họ cũng nói “đó là ý Chúa” ; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói “Để Chúa lo”… Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ : đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ ! “Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm” !
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng :
– Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy : “Ta hằng ở với con” (Gr 1,10), “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)…
– Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng : “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (bài Tin Mừng hôm nay)
– Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như Thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất : “Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì” (Mt 632).
- Im hay nói ?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta “Hãy la lớn trên mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người : “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói ? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ : nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi ? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh ? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh : nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng ?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao : “Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diếm rồi mọi người sẽ biết”. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói : “Có thời để nói, có thời để im lặng”. Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa : vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, l61i suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt.
Mong sao kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ. (G. Bessière, Dieu si proche, DDB, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 211-212).
- Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe.
Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói : “Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi”. Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đang lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua : “Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột”.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Tin tưởng mãnh liệt vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, và hân hoan sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận, phải là quyết tâm của từng người kitô hữu. Trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của người tín hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần chăm sóc giữ gìn Người / để nhờ Người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắc son.
2- Ngày nay / nhiều kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / mất đức tin chỉ vì vốn liếng giáo lý không đủ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dùng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
3- Nhiều tín hữu hiểu một cách đơn giản rằng / tin là giữ một số lề luật của Chúa và Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu hiểu rằng / tin là gắn bó cùng Chúa và dấn thân theo Người đến cùng.
4- Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Chúa / và hiên ngang sống đức tin / phải là thái độ căn bản của mọi tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn khôn ngoan chỉ tin tưởng một mình Chúa / và mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong đời sống thường ngày.
CT : Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn rất yếu kém, chúng con dễ hoang mang giao động trước mọi thử th1ch trong cuộc sống. Vậy, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-A
NGƯỜI TÔNG ĐỒ NHIỆT THÀNH- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Các bài đọc của tuần XI mời gọi các Kitô hữu hãy trở nên sứ giả Tin mừng, đem ơn cứu rỗi của Chúa đến cho mọi người. Tuần này, Chúa báo trước cho chúng ta rằng muốn làm tông đồ của Chúa phải can đảm, vững tâm, đừng sợ trước những gian nan thử thách. Nếu Chúa là chủ và là Thầy mà người ta còn xử tàn tệ như thế, thì chúng ta, những tôi tớ, những môn đệ của Chúa cũng không tránh khỏi con đường đó. Nhưng Chúa khuyên chúng ta đừng lo âu sợ hãi vì Thiên Chúa quan phòng luôn nâng đỡ, che chở và hộ phù mọi sứ giả của Chúa. Hãy có một đức tin vững vàng và một đức cậy sáng suốt mà hành động, và phần thưởng của chúng ta đang chờ nếu biết xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
Người ta thường nói :”Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử” : không vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Muốn đem Tin mừng đến cho người khác thì người tông đồ phải biết dấn thân và dấn thân cũng gần có nghĩa như liều mạng. Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân. Ngài không nề quản những khó khăn vất vả, những gian nan thử thách, ngay cả đến tính mạng của mình vì ngài luôn tâm niệm :”Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin mừng”. Các thánh Tông đồ cũng đã dấn thân rao giảng Tin mừng và kết cục là đã nhận lấy cái chết vì Chúa.
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở cho cúng ta cái tư tưởng là “Đừng sợ”. Chúng ta có thể tìm thấy từ ngữ “đừng sợ” 365 lần trong Thánh Kinh. Người Tông đồ chỉ có thể tìm được sự can đảm nếu biết tin cậy phó thác cho Chúa. Chính Ngài sẽ ban ơn đầy đủ để chúng ta có thể hòan thành sứ mạng đã được giao phó. Qua kinh nhgiệm, thánh Phaolô đã khẳng định được tư tưởng trên khi ngài nói :”Omnia possum in eo qui me confortat”.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gr 20,10-13.
Tiên tri Giêrêmia là một con người đau khổ triền miên. Ông đã lãnh nhận nhiệm vụ tuyên sấm cho người Do thái, một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm: Ông phải vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là trò hề cho họ nhạo báng sỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên : Ôi, hành hung, ức hiếp… nhưng Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr 20,7-8). Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa… Ông tiếp tục công bố sứ điệp vừa bằng lời nói, vừa bằng đời sống.
+ Bài đọc 2 : Rm 10,226-33.
Bài đọc 2 hôm nay chỉ là chủ đề phụ, không hoàn toàn ăn khớp với bài đọc 1 và bài Tin mừng, theo đó, thánh Phaolô dạy chúng ta rằng nếu vì liên đới với nguyên tổ Ađam mà chúng ta phải mang tội và phải chết, thì nhờ kết hợp với Đức Kitô, chúng ta sẽ được lãnh nhận ân sủng và sự sống.
Ân sủng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn tội lỗi và sự chết là lương bổng của tội lỗi, khiến cho tội của Adam trở nên “Tội hồng phúc” (bài Exultet) vì nhờ đó mà Ngôi Hai Thiên Chúa mới xuống thế làm người và ở cùng chúng ta.
+ . Bài Tin mừng : Mt 10,26-33.
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng tuần trước : Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng nhưng đồng thời Ngài cũng phải khuyến cáo họ rằng rao giảng Tin mừng không phải là một chuyện dễ dàng, phải dùng đến nội lực , phải can đảm và vững lòng trông cậy trước những khó khăn chồng chất, ngay cả khi bị hãm hại. Đừng sợ ! vì Chúa quan phòng luôn ở bên cạnh để che chở. Đừng sợ vì Cha trên trời đã lưu ý đến cả những con chim chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc trên đầu từng người. Chúa đã dựng nên tất cả, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn những thứ bé nhỏ như thế, huống chi đối với các tông đồ của Chúa. Ngoài ra, Chúa còn hứa ban thưởng cho những ai dám tuyên xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chân dung người tông đồ
Bản chất của Kitô hữu là truyền giáo. Mọi người phải trở thành sứ giả Tin mừng. Sứ mạng thì cao qúi, nhưng thực thi sứ mạng đó rất cam go, việc rao giảng đòi hỏi nơi người tông đồ một số đức tính mà thiếu nó thì không thành công. Dựa theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cho rằng muốn thành công trong việc rao giảng, người tông đồ phải có 3 đức tính sau đây :
NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI DẤN THÂN.
Đứng trước những công việc khó khăn, ai cũng thấy ái ngại. Những khó khăn trong việc rao giảng Tin mừng không phải là tình cờ hay do may rủi, nhưng đã được Chúa Giêsu báo trước : “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Con chiên sẽ là mồi ngon cho bầy sói, nguy cơ bị ăn thịt luôn rình rập. Người tông đồ phải sống hiền lành như con chiên, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Tin mừng.
Chúa Giêsu cũng còn cho biết : số phận của tông đồ là bị bách hại, vì nếu Chúa Giêsu mà còn bị bách hại thì làm sao họ lại tha các môn đệ ? Vì thế, Chúa đã dặn trước :”Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em ; anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến. Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24).
Bài đọc hôm nay cũng cho biết tiên tri Giêrêmia phải loan báo cho dân biết những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ trút xuống dân. Những lời loan báo này chẳng hay ho gì đối với dân, lại làm cho họ bực mình, nên họ đã chống đối ông, hành hạ ông và muốn giết ông (x. Gr 20,10-11). Các tông đồ nhận trách nhiệm đi rao giảng lời Chúa cho muôn dân, cũng bị người ta chống đối, hành hạ và giết chết. Các ông đã phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm. Số phận các ông cũng giống như Chúa Giêsu.
Những Kitô hữu đầu tiên rất ý thức về sự quan trọng của việc truyền bá đức tin. Họ mang trong lòng lời dặn dò của Chúa Giêsu trước khi về trời là hãy rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng trái đất. Tuy nhiên, loan báo Tin mừng một cách công khai đã không phải là một chuyện dễ dàng, bởi vì, trong thời gian đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu đã bị bách hại. Giữa những người Do thái, nhiều người xem những người chuyển sang Kitô giáo như là những kẻ phản bội, và tìm cách loại trừ. Làm chứng đức tin trong thời kỳ này, đôi khi là liều mạng sống. Chính vì thế mà một vài người bị cám dỗ sống âm thầm, kín đáo, không dám lên tiếng.
Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng. Ngài nói :”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”.. Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về một số nguy hiểm đã phải trải qua : 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm (2Cr 12,24-25). Ngài phải được gọi là chiến sĩ của Tin mừng, anh hùng của đức tin, của lòng nhiệt thành, bất chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì :
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
(Nguyễn bá Học)
Chúa muốn cho các tông đồ của Ngài phải yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin mừng. Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng : con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức Linh mục : con có muốn tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không ?
– Thưa con muốn.
Một sự dấn thân trọn vẹn : Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong những điều cao cả của cuộc sống con người. Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn (André Sève, Sương mai, tr 77).
NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI CAN ĐẢM : ĐỪNG SỢ.
Con người không biết sợ được coi là một người can đảm. Nói theo kiểu bình dân, người ta gọi đó là người “có gan cóc tía”. Con người dám liều mạng vì lý tưởng cao cả, không gì có thể lay chuyển được chí khí của họ., không khó khăn nào có thể làm cho họ chùn bước hay bỏ cuộc. Tấm gương sán lạn của thánh Phaolô tông đồ đã chứng tỏ điều đó. Cuộc hành trình truyền giáo của Ngài đã phải trải qua những bước thăng trầm, nhưng không gì làm cho ngài chùn bước :
Cũng có lúc mưa dồn sống vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong,
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên đấng phi thường đâu đấy tỏ.
(Nguyễn công Trứ)
Nhưng bình thường, con người có nhiều nỗi lo sợ : sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thấn v.v… Cái sợ làm tê liệt con người : không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống… Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ : sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin mừng… Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng bảo cho các tông đồ :”Đừng sợ”. Ngài đã thấy trước bao nhiêu gian nan khốn khó đang chờ đón các ông khiến các ông nản lòng. Hãy can đảm lên vì đã có Chúa ở bên. Các ông hãy nhớ lại lần vượt biển bị sóng gió đánh tơi bời, tưởng chừng thuyền chìm tới nơi. Nhưng Chúa Giêsu đã can thiệp, sóng gió phải vâng lời Ngài, biển lại trở nên tĩnh lặng như tờ. Ngài khuyên bảo các ông một mặt dựa vào Chúa, một mặt cứ vững tay chèo lái con thuyền đời mình :
Chớ thấy sóng cả mà lo,
Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng.
(Ca dao)
Chúa Giêsu bảo :”Đừng sợ vì không có gì che giấu mà sẽ không bị tỏ lộ ra, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ thắng. Châm ngôn La tinh có câu :”Chân lý là vĩ đại và chân lý sẽ thắng”. Đức thánh Cha Gioan Phaolo II hay nhắc đến đề tài này trong các huấn dụ của ngài.
Khi vua Giacôbêâ VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đầy André Meville, ông khảng khái đáp :”Vua không thể treo cổ hoặc lưu đầy chân lý”. Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí chết vì đạo, thì phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự được phơi bầy, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người nhận đúng phần công của mình.
Người tông đồ nói điều mình đã nghe Chúa Giêsu và phải nói lại dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể toi mạng. Người đời không ưa chân lý vì “chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau” (Diogens). Một lần giáo sĩ Latimer đang giảng, có cả vua Henri dự, ngài biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng ngài nói lớn như nói với chính mình :”Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henri đấy”. Kế đó, ngài ngưng, rồi nói tiếp :”Latimer, Latimer. Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người giảng đạo đem một sứ điệp nói cho loài người, nhưng phải nói trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi chôn Gioan Knox, người ta nói về ông :”Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”. Chứng nhân Kitô là người không biết sợ, vì biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh sự phán xét tạm thời. Người truyền giảng là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì xác tín rằng vô luận nghe nói đều ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Các tín hữu thời sơ khai đã gặp bao nhiêu khó khăn, nhưng họ tỏ ra luôn vững tin, không nao núng trước những thử thách. Sử gia Tertullianô đã viết về họ :
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. . Câu :”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu.Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
Người làm tông đồ phải được huấn luyện, tập cho mình biết hy sinh chịu đựng mà không kêu ca phàn nàn. Người làm tông đồ hãy theo cách huấn luyện thanh niên ở thành Spartes : Hằng năm, một số trẻ em thành Spartes cử hành lễ CHỊU ĐỰNG, các em phải chịu đựng cho roi quất vào mình, máu chảy, thịt rách nhưng không được thối chí hay khóc lóc. Châm ngôn của họ là đau không khóc, đói không than. Ngoài ra, các em phải tự mưu sinh ở trong rừng một thời gian, chiến đấu với thú rừng để sinh tồn .
Chớ gì người tông đồ tỏ ra kiên trung, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để một lòng một dạ theo chân Chúa dù phải đòn vọt, gông cùm hoặc phải nhận lấy cái chết :
Chân xiềng cổ lại đeo gông,
Chết anh anh chịu, anh không buông nàng.
(Ca dao)
Truyện : Gương can đảm.
Các vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng đức tin như sau :
Ghèssèssén là một bé trai Eùthiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui ve ûvà sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Em thuộc một gia đình quí tộc lâu đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Oâng không bao giờ chấp nhận kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.
Lớn lên em được học ở trường Công giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các em Công giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công giáo, ước ao được rước lễ. Nhưng cac Cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến của ba má em.
Ngày nọ, em bị Ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em từ chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi :
Con đến gặp Ba con, cùng đi với con có Mẹ con. Ôâng ôm hôn con, và con hôn đầu gối Ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve :
– Ta và Mẹ đã quyết định cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ : “Dạ”.
Con đã trả lời :
– Không.
Cha con nói gằn giọng :
– Mày nói gì ?
– Con nói “Không”, vì con muốn được học ở nơi các Cha Cố.
– Im đi ! Ta muốn mày cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công giáo!
– Thưa cha, con đã là Công giáo trong tâm hồn rồi.
Nghe các lời này, ông nổi cơn tam bành, hét to :
– Đồ bị chúc dữ ! Mày, con của Rèdada, lại muốn trở thành Công giáo ! Ta thích mày chết đi còn hơn !
Ôâng nghiến răng, nắm tay đấm. Ôâng dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la to :”Phải phạt nó”.
Mẹ con thì im lặng. Ba con lặp lại :
– Hãy bỏ tôn giáo đó đi ! Nếu không, tao giết mày như một con vật.
– Con không thể bỏ đạo thánh được, thà chết còn hơn. Ba là Ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là Cha của linh hồn con.
Thế là một trận đòn với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do Ba con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng tay.
Ba con lại hỏi một lần nữa :
– Có bỏ đạo Công giáo không ?
Con trả lời :
– Không, thà chết…
Trải qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững lập trường bắt con bỏ đạo. Ôâng hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích !
Ngày 7/9 vọng lễ Sinh nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với Ba cậu :
– Cho con đến Gouala, nhà các Cha.
Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm gì khác. Ôâng đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala.
Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn chịu phép Rửa tội và Rước lễ. Em nói :
– Các Cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo nữa sao ? Xin đừng sợ ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu ! Vì Ngài, con sẵn sàng dâng cả mạng sống con.
NGƯỜI TÔNG ĐỒ LUÔN TRÔNG CẬY VÀO CHÚA.
Trên bước đường truyền giáo, người tông đồ không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết trông cậy vào sự quan phòng của Chúa. Tuy không thấy Chúa nhưng phải tin rằng lúc nào cũng có cánh tay của Chúa đang hướng dẫn và hộ phù.
Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống :”Ta hằng ở với con” (Gr 1,10) hoặc “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 26,20).
Người tín thác vào Chúa luôn tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không có gì xẩy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa :”Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”(bài Tin mừng hôm nay).
Người phó thác cho Chúa xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Một người cha tốt lành lo cho con tất cả, đem đến cho con những gì tốt lành nhất :”Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì”(Mt 6,32).
Truyện : Mối dây liên lạc với Thiên Chúa.
Một em bé chơi diều, thả con diều lên cao đến độ con diều trở nên như một chấm nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời, một người qua đường hỏi em :
– Em đang làm gì vậy ?
Em bé trả lời :
– Cháu đang chơi thả diều.
Người kia ngạc nhiên hỏi tiếp :
– Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên trời cả.
Em bé thưa lại :
– Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong tay cháu đây mà.
Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài.
(Hạt giống âm thầm, tr 196)
Chúng ta hãy tiếp tục triển khai lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu câu nói đầy ý nghĩa này :
Thiên Chúa đóng kín cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.
Đây là câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống của đạo sâu xa. Thiên Chúa đóng kín cửa chính đó là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc ta đương đầu với thử thách khó khăn. Lúc đó chúng ta nhớ rằng : Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn, và trước đó ta không ngờ những kinh nghiệâm đau thương tiêu cực, mà ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa, để mời gọi ta bước ra một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị ta sẵn sàng đón nhận những hồng ân mới.
Nhìn lại cuộc sống, có thể mọi người chúng ta sẽ cảm nghiệm được những giây phút, Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta.
Khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, thì Ngài sẽ mở ra cửa sổ, chúng ta hãy nhìn trong những biến cố đau thương, tiêu cực xẩy ra trong cuộc đời, với tinh thần tích cực lạc quan và sự tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Chính những lúc ta gặp thử thách đen tối, là lúc ta cần tin tưởng phó thác vào Chúa nhiều hơn nữa. Hãy ngắm nhìn thấy những cánh cửa sổ Thiên Chúa mở ra cho cuộc đời mình. Mỗi người chúng ta cần sống trong sự hiện diện của Ngài, cần lưu hướng về Ngài trong việc thực hành cầu nguyện đối thoại với Ngài. Khi gặp thử thách đau thương, chúng ta không nên giảm bớt hay bỏ quên việc cầu nguyện, chạy đến tiếp xúc với Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- A
BIẾT SỢ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay. Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ. Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.
Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị. Sự sống là quí giá ta phải trân trọng. Mất sự sống là mất tất cả. Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ. Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn. Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau. Sự sống đời này là chóng qua. Sự sống đời sau vĩnh cửu. Sự sống thân xác mau tàn. Sự sống linh hồn bất diệt. Ta phải yêu quí cả hai sự sống. Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.
Người cũng dạy ta phân định thời cơ. Thời cơ chỉ đến một lần. Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời. Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa. Hiện nay, Lời Chúabị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết. Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa. Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ. Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết. Bấy giờ cơ hội sẽ hết. Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa. Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa. Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.
Và sau cùng là phân định nguyên lý. Thiên Chúa là chủ mọi loài. Thiên Chúa nắm quyền sinh tử. Thiên Chúa an bài mọi sự. Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực. Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.
Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.
Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự. Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn. Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.
Biết sợ mất linh hồn. Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người. Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Mất linh hồn là mất tất cả. Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”.
Biết sợ lỡ thời cơ. Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống. Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời. Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc. Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.
Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài. Ta sẽ không sợ hình khổ hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.
Nói không sợ cũng không đúng hẳn. Đau đớn khổ cực ai mà không sợ. Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
*1) Bạn đã từng bị những nỗi sợ nào đè nặng. Những nỗi sợ đó có chính đáng không?
*2) Sống đạo là chấp nhận thiệt thòi. Bạn có dám chấp nhận thiệt thòi vì Chúa không?
*3) Muốn trung thành với Chúa, bạn làm cách nào để tránh được những nỗi sợ do người đời đem đến?
HÃY SỢ TỘI- Lm. Nguyễn Hùng
Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu tẩu thuốc hút có vẻ nhàn hạ. Một người khách lạ qua đường hỏi thăm:
– Ruộng trồng bông gòn của ông có khá không?
Nông dân trả lời:
– Tôi không có trồng bông gòn vì sợ có nhiều cỏ dại.
Người kia hỏi tiếp:
– Vậy thì vườn bắp của ông ra sao?
– Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.
– Vậy ông có trồng khoai tây không?
– Không có, vì sợ sâu đất.
Người khách lạ mở to đôi mắt ngạc nhiên hỏi:
– Vậy thì ông trồng cái quái gì?
– Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi sợ gì hết.
Sợ là một yếu tố tâm lý có ảnh hưởng lớn trong đời sống con người. Bậc cha mẹ và giới giáo dục thường dùng hình phạt gây sợ hãi để huấn luyện con cái, học sinh khi còn nhỏ. Chính phủ và các thể chế điều hành nắm vào sự sợ hãi đến một mức nào đó để giữ kỷ luật, trật tự. Các hãng bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, sức khoẻ, sinh mạng… cũng khai thác yếu điểm tâm lý này nơi con người để… phát tài. Vụ khủng bố lớn ngày 11/9/2001 và những vụ khủng bố gần đây tại Do Thái cho chúng ta thấy có những người quá khích dùng nỗi sợ hãi như võ khí để khống chế, gây áp lực trên những cường quốc như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, Do Thái…
Sợ hãi quá mức làm cho con người bị tê liệt, không thể làm gì được giống như ông nông dân kể trên. Ngược lại không biết sợ là gì khiến con người trở nên điên cuồng, quá khích, mất quân bình như những tử sĩ Palestine ôm bom tự tử để giết người của phe Do Thái. Sợ đúng mức giúp con người xa tránh những điều nguy hiểm, bảo vệ an toàn bản thân, đem lại hạnh phúc cho cuộc sống. Vì thế sợ hãi không phải là điều hoàn toàn xấu. Nó là một phần trong bản năng tự vệ, sinh tồn của con người.
Thế nào là sợ hãi đúng mức? Đối tượng của sự sợ hãi chính đáng là những gì có thể gây tổn thương, nguy hại đến tính mạng của người ta. Khi đi vào rừng người ta sợ cọp từ trong bụi nhảy chồm ra xơi tái là điều chính đáng. Các cô nường khi thấy con gián, con chuột xuất hiện trong nhà vội vàng trèo lên bàn đứng hét không phải là nỗi sợ chính đáng.
Trong bài Phúc Âm Chúa Kitô dạy cho các môn đệ biết nỗi sợ chính đáng. Chúa nói đừng sợ những người bắt bớ ai theo Chúa Kitô vì họ chỉ có thể làm hại đến thân xác, cùng lắm giết chết phần xác. Cuộc sống ở trần gian này rồi cũng sẽ chấm dứt không sớm thì muộn. Nếu phải chết sớm để làm chứng cho Chúa Kitô thì điều đó là cách diễn tả tình yêu đến tột cùng mà Ngài đã làm gương. Đó là một vinh dự, không phải là điều đáng sợ. Điều đáng sợ Chúa muốn nói chính là tội lỗi, chống lại Thiên Chúa, cắt đứt mọi liên hệ với Ngài để tự đưa mình vào hoả ngục, nơi đoạ phạt đời đời.
Chúa muốn nhắc nhở rằng nguy hại đến thân xác không đáng sợ bằng những gì gây hại đến linh hồn. Chúng ta cần chú ý đến điểm này vì xã hội nặng vật chất này đang ru chúng ta vào cơn mê ngủ hưởng thụ, chôn vùi lương tâm mình trong vật chất. Có nhiều điều bệnh hoạn thông truyền qua phim ảnh, báo chí, Internet dưới danh hiệu “người lớn” (Adult) thật sự đang đầu độc cả người lớn và trẻ con. Có những cách gian lận chính phủ, hãng Satellite Disc, cable TV, sở làm… mà người Kitô hữu vướng vào và vẫn đi rước lễ tỉnh queo. Tất cả những điều đó đem lại cho con người thoải mái trong chốc lát, nhưng sẽ đưa linh hồn vào chốn đoạ phạt đời đời. Đó mới là điều đáng sợ và phải xa tránh.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- A
MẦU NHIỆM ĐAU KHỔ– Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Trong Chúa Nhật vừa qua, Đức Giêsu đã mời gọi từng người chúng ta lên đường loan báo cho mọi người về Tin mừng Nước Thiên Chúa. Đây là một vinh dự, nhưng Lời Chúa hôm nay cho thấy, sứ mạng của người tông đồ vẫn không thiếu những khó khăn. Được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi, nhưng người tông đồ không hề được miễn chước khỏi mọi đau khổ trở ngại. Nếu không muốn nói là đau khổ hình như luôn gắn liền với sứ mạng, và có khi trở thành một dấu chỉ để nhận ra khuôn mặt của người tông đồ chân chính.
Nhưng cho dù có gặp đau khổ, người tông đồ chân chính vẫn luôn bình an, vì họ luôn có Chúa ở cùng. Đồng thời, ngang qua những đau khổ đó, họ lại tiếp tục được mời gọi loan báo cho mọi người về tình yêu của Thiên Chúa.
Đau khổ trong đời sống con người. Bài đọc một chúng ta vừa nghe thuật lại cuộc chiến trong nội tâm của ngôn sứ Giêrêmia, một trong bốn vị ngôn sứ lớn của Cựu Ước. Cuộc đời của ông thật là lắm nỗi gian truân. Ông đã được Chúa gọi đi làm ngôn sứ cho Ngài, cho dù ông không muốn, ông nói: “Người đã dụ dỗ tôi, và tôi đã để mình bị dụ dỗ” (Gr 20, 7). Thế nhưng, vâng lời Thiên Chúa, ông vẫn chấp nhận từ bỏ ý riêng để thực hiện sứ mạng của một vị ngôn sứ, một sứ mạng đầy những thử thách, cam go. Ông đã được Thiên Chúa sai đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá, để xây và cấy trồng” (Gr 1, 10b). Ông đã lên tiếng tố cáo sự tham nhũng, bất trung của nhà cầm quyền đối với giao ước. Theo lời Chúa, ông còn phải lên tiếng cảnh cáo dân về đời sống sa đọa của họ. Ông loan báo về những ngày hoạn nạn sẽ tới, nếu dân không thay đổi lối sống, trở về với Thiên Chúa.
Đứng trước những lời cảnh báo của vị ngôn sứ, chẳng những vua quan, dân chúng không chịu hối cải, nhưng còn xem ông như là kẻ chuyên loan báo tai họa. Và thế là họ tìm mọi cách làm hại ông. Ông đã bị bắt bớ, giam cầm, bỏ đói, hành hạ đủ cách đủ kiểu, chết đi, sống lại. Thậm chí cả bạn bè, thân hữu nhiều khi cũng tìm cách tránh xa ông. Trong nỗi đau khổ cùng cực đó, ông đã phải thưa lên với Giavê, Thiên Chúa: “Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: “Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó”. Cả cuộc đời của vị ngôn sứ hình như luôn đối mặt với đau khổ, cho dù ông đã hết lòng vâng nghe theo lời Chúa. Đau khổ quả là một mầu nhiệm mà vị ngôn sứ không thể hiểu nổi.
Không riêng gì ngôn sứ Giêrêmia, những nỗi đau khổ do hiểu lầm, chống đối, ganh tỵ, thậm chí có khi còn bị kết án, tẩy chay …, bởi chính những người gần gũi mình nhất, hình như luôn gắn liền với sứ mạng của người tông đồ. Cùng chung một cảm nghiệm về đau khổ đó, tác giả Thánh Vịnh cũng kêu lên: “Tôi bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến tôi mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ, Chúa đổ trên mình tôi”.
Đau khổ của ngôn sứ Giêrêmia, của các người công chính trong Cựu ước, tất cả như tập trung và báo trước cho hành trình thập giá của Đức Kitô. Với con đường thập giá, Đức Kitô đã mang vào thân thể Ngài tất cả sự tủi hổ, oan ức, cùng với biết bao nỗi đắng cay khi bị người thân, kẻ nghĩa phản bội, rồi bỏ Ngài mà trốn chạy ngay giữa lúc Ngài cần họ nhất.
Như thế, với cái nhìn tự nhiên, đau khổ tự nó là một cái gì thật ghê gớm, đáng sợ không thể hiểu nổi và người ta càng không thể hiểu, khi những thấy cả những người công chính, thánh thiện cũng gặp phải biết bao đau khổ, thử thách. Tuy nhiên, lời Chúa hôm nay cho thấy, sức mạnh của đau khổ không phải là tuyệt đối. Chính nhờ đau khổ, chúng ta sẽ có dịp để cảm nghiệm rõ hơn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Với kinh nghiệm của mình, tác giả Thánh vịnh mời gọi chúng ta: “Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh, vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù”.
Đức Giêsu, Đấng giải thoát: Nhìn lại cả cuộc đời đau khổ của ngôn sứ Giêrêmia, của những người công chính trong Thánh Kinh, nhất là với cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, có những lúc làm cho chúng ta nghi ngờ về chính sự hiện diện của Thiên Chúa.
Nhưng cho dù đau khổ, thử thách có lớn lao đến mấy, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện bên cạnh người mà Ngài đã chọn gọi. Chính niềm xác tín đó đã giúp ngôn sứ Giêrêmia kiên vững và trung thành trong suốt sứ vụ của mình. Giữa những thử thách và bắt bớ, giữa bao nỗi âu lo, buồn phiền, vị ngôn sứ vẫn luôn cảm nhận được “Thiên Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng”. Cùng một cảm nghiệm đó, tác giả Thánh Vịnh đã mời gọi chúng ta hiệp tiếng ngợi khen, chúc tụng Chúa: “Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ”.
Người tông đồ, người công chính có thể vẫn còn gặp phải các sự dữ, vẫn còn phải đương đầu với mọi thử thách, gian truân, nhưng chắc chắn, họ không lâm cảnh cùng đường tuyệt vọng, bởi vì họ luôn xác tín vào lời hứa của Đức Giêsu: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn… Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”.
Vâng, Thiên Chúa biết chúng ta rõ hơn là chúng ta biết bản thân mình. Và nhất là Người vẫn đang hết lòng yêu thương chúng ta. Đặc biệt với cuộc Vượt Qua của mình, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã “gánh vác” lấy tội của chúng ta vào mình và đem lên thập giá, để rồi nhờ cuộc Phục Sinh của Ngài, chúng ta nhận được muôn vàn ơn phúc của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai: “Vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần”.
- Loan báo cho mọi người biết về tình yêu của Thiên Chúa:Nhận được tình yêu của Thiên Chúa, đến lượt mình, chúng ta được Đức Giêsu mời gọi trở nên chứng nhân cho tình yêu đó trước mặt mọi người: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời”.
Lời loan báo này không giới hạn ở các lễ nghi phụng vụ giữa các tín hữu với nhau, nhưng cần được gởi đến cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại. Đức Giêsu nhắn bảo chúng ta: “Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”. Khi nói: “Hãy nói nơi ánh sáng… hãy rao giảng trên mái nhà”, nghĩa là, Đức Giêsu muốn chúng ta loan báo Tin mừng của Thiên Chúa một cách mạnh mẽ, và công khai. Chúng ta cần loan báo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa bằng chính cuộc sống hiện tại của mình.
Tóm lại, Thiên Chúa vẫn luôn ở đó, hiện diện bên cạnh và trong chúng ta, nhất là mỗi khi chúng ta hiệp lễ. Ngài ở với chúng ta, cùng mang lấy gánh nặng của chúng ta, để rồi đến lượt mình, Ngài muốn mỗi người chúng ta cũng biết đưa bàn tay của mình ra, để chia sẻ gánh nặng với tha nhân. Nhờ đó, khi phải ra trình diện trước mặt Chúa, chúng ta sẽ được Đức Giêsu tuyên nhận trước mặt Cha Ngài. Amen.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN-A
CHÚA QUAN PHÒNG- Lm.Giacôbê Nguyễn Văn Phượng
Thời hoàng đế Vát-pa-si-a-nô, thượng viện Rô-ma đã bàn luận xem nên gọi vị thần tốt nhất và lớn nhất của họ là gì, người thì đề nghị nên gọi là “Thần giàu sang”, người thì cho rằng nên gọi là “Thần khôn ngoan”, người khác nữa đề nghị nên gọi là “Thần uy quyền”. Sau cùng, một ông nghị phát biểu : “Theo ý tôi, chúng ta nên gọi là “Thần nhân lành”, vì nếu chúng ta gọi là “Thần giàu sang” thì những người khó có gì ? Nếu chúng ta gọi là “Thần khôn ngoan” thì những người bình dân, đơn sơ chất phác có gì ? Và nếu chúng ta gọi là “Thần uy quyền” thì những người khiêm tốn có gì ? Vậy chúng ta muốn vị thần ấy hợp với tất cả mọi người thì chúng ta chỉ có thể gọi là “Thần nhân lành”, mọi người đều hoan nghênh.
Đối với chúng ta, những người tin Chúa Kitô, thì hơn thế nữa, chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt đẹp biết bao kho gọi Thiên Chúa là “Cha nhân lành” của chúng ta. Người Hy Lạp, Rô-ma ngày xưa đã không biết Chúa là Cha. Thích Ca Mâu Ni không thấy Chúa là Cha. Ma-hô-mét cũng không hề rao giảng Chúa là Cha, cả dân Do Thái trong Cựu Ước không bao giờ có ý tưởng xưng hô Chúa là Cha. Đối với họ, Thiên Chúa là ông chủ nghiêm khắc, Đấng đã ban truyền những điều răn trong sấm chớp và ánh sáng, Đấng thẩm phán sửa dạy họ nghiêm khắc mỗi khi họ bất tuân hay phản bội, nhưng từ khi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại : Chúa là Cha, Ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần : Thiên Chúa không phải là một ông chủ độc ác, nhìn chúng ta như bầy tôi, nô lệ, nhưng Chúa là Cha, Người luôn luôn săn sóc và yêu thương chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy rõ ý tưởng đó. Sau khi khuyến khích các môn đệ hãy can đảm và mạnh dạn công bố cho mọi người biết tất cả những điều Chúa đã dạy các ông trong nơi kín đáo, Chúa khích lệ các ông đừng sợ chi cả, hãy tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, vì Thiên Chúa là Cha, Đấng thông biết mọi sự và quan phòng tất cả.
Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị mọi vật. Chúa dựng nên những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa săn sóc người này cũng như người kia : “Nào người mẹ có thể quên con mình không ? và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”, “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không ? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”, “Hãy xem chim trời, Cha anh em vẫn nuôi chúng. Anh em lại không hơn Chúng sao ?”, “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em, Chúa còn săn sóc hơn nhiều”. Thánh Âu Tinh nói : “Lo lắng cho cả vũ trụ còn vĩ đại hơn làm cho năm ngàn người no nê bằng năm chiếc bánh, vậy mà chẳng ai lạ lùng về truyện đó. Chúa săn sóc mỗi người dường như chỉ có một người đó ở trên đời và Chúa săn sóc tất cả mọi người dường như Chúa săn sóc cho một người”.
Chính vì yêu thương săn sóc chúng ta như thế, nên nhiều lần Chúa Giêsu đã khích lệ chúng ta đừng sợ. Đừng sợ có nghĩa là đừng làm gì, đừng lo đến sinh kế, đừng cố gắng nỗ lực. Không, ngàn lần không. Đừng sợ không phải là như vậy, nhưng có nghĩa là cứ làm, cứ lo sinh kế, cứ cố gắng nỗ lực, đồng thời phải tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Nhưng như vậy có phải là chúng ta tin chắc vào đôi tay rắn chắc khỏe mạnh chăng ? Tin vào tuổi đang lên, đầy sức sống nghị lực chăng ? Hoặc cậy dựa vào những người khác ? Không, vì đôi tay khỏe mạnh này ngày mai sẽ yếu đi, tuổi đôi mươi sẽ chóng qua, còn nghị lực thì rất mỏng dòn, và những người khác mà chúng ta cậy dựa vào hôm nay thì thường hay thay đổi, thiếu thiện chí và làm sao họ có thể bảo đảm cho chúng ta lâu dài được. Ngoài những điều trên, chúng ta phải trông cậy vào một sức mạnh khác, có thể bảo đảm cho chúng ta hôm nay và mãi mãi về phần hồn cũng như phần xác, sức mạnh đó chính là Thiên Chúa, vì Ngài là Cha của chúng ta, Người hoàn toàn hiểu những nhu cầu, những thiếu thốn, những ước mơ của chúng ta và Người biết những điều nào thích hợp và cần thiết cho chúng ta hơn. Cho dù một người mẹ trần gian chăm chỉ nhất, yêu thương con cái nhất, còn có thể không biết đến một vài nhu cầu của con mình, bà có thể quên sót, nhầm lẫn trong việc lo liệu hoặc lâm vào tình trạng không thể giúp đỡ con mình được. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ lâm vào tình trạng như thế. Do sự quan phòng, Ngài biết, Ngài thấy và Ngài có thể làm được tất cả.
Tuy nhiên, để được Thiên Chúa yêu thương săn sóc như thế, Chúa đòi chúng ta phải tin tưởng vào Chúa, tuyệt đối tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa. Người là Cha chúng ta, Người luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- A
ĐỪNG SỢ SỐNG TIN MỪNG- Lm. Bùi Quang Tuấn
Giêrêmia là vị tiên tri trong thời quân Babylon cai trị đất nước Giuđa. Năm 605 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, vua Nabucôđônôsor bành trướng đế quốc Canđê đến tận Palestine. Sang năm 597 B.C, nhà vua chiếm Giêrusalem và đưa một số đông người Do thái sang lưu đày bên đất Babylon. Đây là đợt lưu đày thứ nhất. Năm 587 B.C., do sự nổi dậy của dân cư Giêrusalem, đạo binh Canđê lại tiến đánh và tàn phá đền thờ. Đợt lưu đày thứ hai bắt đầu.
Giêrêmia trải qua gian đoạn thê lương đó trong lịch sử Do thái. Được linh ứng, ông lên tiếng báo trước các tai ương sẽ đổ xuống trên những kẻ phản bội Giavê, thành đô sẽ tan nát dưới bàn tay ngoại bang. Ông cũng răn đe sự lạm dụng nơi thờ phượng để trục lợi riêng tư và kêu gọi một cuộc cải cách phụng tự.
Thế nhưng chẳng ai nghe Giêrêmia, thậm chí còn tố cáo ông là kẻ gieo tai rắc vạ, là người chủ bại, là tên bán nước. Rốt cuộc ông bị bắt nhốt. Các đầu mục Do thái muốn giết ông. Người ta ném ông xuống giếng, nhưng một hoạn quan ngoại giáo đã cứu ông. Về sau, khi những người Do thái ám sát quan tổng trấn Gôđôlia, rồi vì sợ bị trả thù, nên họ đã trốn sang Ai cập, kéo theo Giêrêmia. Và trên vùng đất xa lạ này ông bị giết chết.
Phải đương đầu với bao gian khổ, bị tẩy chay và bắt bớ, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành sống trọn vai trò người ngôn sứ của Giavê. Ông một thân một mình chấp nhận bao lăng nhục đoạ đày để Lời Chúa được công bố và rao truyền. Giêrêmia được mệnh danh là vị tiên tri khổ đau, người đã phải sống trước số phận đắng cay của một dân tộc bội bạc. Thế nhưng ông không sợ. Gian nan và cái chết không bịt miệng hay quật ngã được tâm hồn ngôn sứ của ông. Kết quả, Lời Chúa vẫn được nói lên; sứ điệp vẫn được loan truyền.
Trước khi sai các môn đệ lên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng nhắn bảo các ông: “Đừng sợ chúng.” Tức là đừng nhát đảm trước những kẻ gian dối và phủ nhận chân lý Phúc âm, nhưng hãy can đảm loan báo sự thật.
“Điều gì Thầy nói với anh em trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng. Điều gì anh em nghe rỉ tai, hãy rao lên trên mái nhà” (Mt 10:27). Tin Mừng Đức Kitô phải được truyền rao cho hết mọi người. Thánh Phaolô từng quả quyết: “Quả như nơi tôi có sự thật của Đức Kitô thì sẽ không ai bịt miệng tôi được” (2 Cor 11:10).
Song trên hành trình loan báo chân lý, gieo rắc tin mừng sự sống, không phải là không có kẻ thù chống đối ngăm đe. Khó khăn, nhục nhằn, khổ đau, và cả cái chết đang chờ đợi bước chân của người ngôn sứ. Nhưng Đức Giêsu lại một lần nữa nhắc nhở: “Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.”
Thử thách và khổ đau của thân xác không đáng là gì khi so với sự sống của tâm hồn có Đức Giêsu—Đấng là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Thánh Phaolô đã không ngừng viết đi viết lại niềm xác tín của mình: “Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3:8). Có Đức Kitô là có tất cả. Mất Đức Kitô là mất tất cả.
Càng gắn bó với Thiên Chúa, càng yêu mến chân lý Phúc âm, thì càng dễ nhận biết giá trị linh hồn con người, và dù đang phải đứng trước khổ đau do kẻ thù mang lại, con người vẫn có thể nhìn ra tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời. Người vững tin vào Đưc Giêsu sẽ khám phá ra rằng: “Tất cả mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8:28).
Oscar Romero đã trở nên mẫu gương can đảm cho thời đại hôm nay khi không khiếp sợ khuất phục trước kẻ thù của Tin Mừng.
Khi mới được chọn làm Tổng Giám mục San Salvado năm 1977, Đức Cha Oscar là con người bảo thủ và trầm lặng. Nhưng ngài đã đổi thái độ khi chứng kiến những gì đang sảy ra trên quê hương đất nước. Các bài giảng của ngài đã vạch trần tội ác của chính quyền đương nhiệm và làm chấn động các thành phần liên hệ. Mặc dù tính mạng bị đe doạ thường xuyên, cũng như tận mắt nhìn thấy các thân hữu bị sát hại, ngài vẫn không khiếp sợ. Đức Cha khẳng định: “Khi gặp hiểm nguy người chủ chăn không thể nào trốn chạy hay rời bỏ đàn chiên để bảo đảm an toàn cá nhân. Thế nên, tôi cũng sẽ ở với đàn chiên của tôi cho đến cùng.”
Hậu quả là ngài bị kẻ thù bắn chết lúc đang dâng Thánh lễ vào một sáng tháng Ba năm 1980.
Những kẻ sát hại Đức Cha tưởng bịt được miệng chân lý, nhưng càng bịt họ càng rơi vào tình trạng sợ hãi và thất bại. Riêng Đức Cha Oscar, mặc dầu thân xác bị ngã xuống vì hận thù, gian ác và bất công, nhưng linh hồn ngài vẫn tồn tại trong Thiên Chúa đến muôn đời.
“Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn. Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào hoả ngục.” Lời nhắc nhở đó không chỉ cho các môn đệ ngày xưa trước lúc lên đường rao truyền Chân lý Phúc âm, nhưng còn cho cả bạn và tôi hôm nay khi mà Chân lý đang bị xé mảnh và đóng đinh từng giây.
Ngày hôm nay có biết bao người chỉ thấy hưởng thụ thân xác là trên hết; có biết bao người cho luân lý làm cản bước tiến của nhân loại; có biết bao người sẵn sàng bóp chết kẻ khác vì tư lợi; có biết bao người đang đắm chìm trong ngoại tình, phá thai, li dị, gian tham, bất công… mà không hề mảy may giao động cõi lòng. Trước một thế giới đang làm tê liệt lương tâm con người như vậy, bạn và tôi được mời gọi: “Đừng sợ khi phải sống công chính, đạo đức. Đừng sợ khi phải yêu thương cách chân thành. Đừng sợ khó khăn đau khổ khi phải sống theo các giá trị Tin Mừng.”
Chỉ khi không sợ như thế ta mới trở nên lời chứng cho niềm tin vào một sự sống thiêng liêng phong phú mà nhân loại phải tìm kiếm.
ĐỂ GIÚP NHAU ĐỪNG SỢ- Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao giảng Tin Mừng lẫn sau khi từ cõi chết phục sinh, đó là “anh em đừng sợ !”. Bài Tin Mừng Chúa Nhật XII TN A một lần nữa cho ta nghe sứ điệp này. Hẳn không là vô cớ khi Chúa Kitô thường lặp đi lặp lại sứ điệp ấy : Đừng sợ ! Là con người, chúng ta khó tránh nhiều nổi sợ hãi, có nguyên nhân cũng nhiều mà vô cớ cũng không thiếu : sợ đói, sợ khát, sợ khổ, sợ thất bại, sợ thiên tai, sợ dịch bệnh, sợ gặp phải những điều xúi quẩy, không may… Phúc bất trùng lai mà họa vô đơn chí. Chính vì thế người ta thường hành xử kiểu khôn ngoan, tìm sự an toàn bằng cách không kiêng thì cũng dè. Những hình thức kiêng cử, úy kỵ trong dân gian là một minh chứng về nổi sợ hãi ít nhiều đã và đang hiển hiện. Là Kitô hữu, chúng ta có thoát ra ngoài cái vòng lẩn quẩn của sự bất an ấy không ? Là Kitô hữu, hy vọng rằng ít có ai để cho nhiều nổi sợ hãi “vu vơ” khiến mình dây vào những chuyện mê tín. Tuy nhiên thử hỏi có ai dám vổ ngực xưng mình không hề sợ hãi bất cứ điều gì. Có nhiều nổi sợ như sợ đói, sợ khổ, sợ chết…mang tính tự nhiên dễ chấp nhận với kiếp nhân sinh. Tuy nhiên có những nổi sợ thiếu chính đáng cần loại bỏ. Được gợi ý từ ba bài đọc Lời Chúa ngày Chúa Nhật XII TN A, xin được chia sẽ một vài nổi sợ mà ta phải biết nói “không”hay là“ đừng sợ !”.
1.Đừng sợ sống trong sự thật : Xét về bình diện hữu thể, thì chỉ có một “sự thật” duy nhất đúng nghĩa đó là Đấng “có sao, có vậy” ( Xh 3,14 ). Tất cả mọi sự hiện hữu khác khi chúng hiện hữu như chúng là, thì chúng chỉ tham gia hay thông phần vào “sự thật viên mãn” là chính Đấng sáng tạo. Xét về phưong diện luận lý hay tư duy thì sự thật là sự phù hợp giữa nhận thức với thực tại khách quan. Trên bình diện này thì nhận thức của “chiếc bình gốm” quả là có nhiều hạn chế về cả chính nó, đừng nói gì đến các chiếc bình khác hay đến người thợ gốm. Duy chỉ người thợ gốm mới hiểu rõ sản phẩm do mình làm nên.
Không sợ sai lầm khi khẳng định rằng duy chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật viên mãn. Vì thế khi ở trong sự thật là ta đang ở trong Thiên Chúa, Đấng chăm sóc chúng ta từ đường đi nước bước đến cả số phận của từng sợi tóc trên đầu chúng ta (x.Mt 10,30 ). Xác tín được điều này thì lẽ nào ta lại sợ sống trong sự thật.
2.Đừng sợ đón nhận sự thật : Sự thật thì dễ mất lòng nhưng sự thật lại giải phóng chúng ta. Có nhiều khi ta biết sự thật nhưng không muốn đón nhận. Vì sự thật thường đòi hỏi ta phải thay đổi, thay đổi cái nhìn, thay đổi lối sống, đặc biệt khi sự thật lại đến từ những con người vai vế nhỏ hơn ta, chức vụ kém hơn ta. Hơn nữa, khi sự thật đòi hỏi ta phải từ bỏ một kiểu sống, một mối quan hệ hay một mối lợi nào đó. Có thể chần chừ, có thể lần lữa một thời gian, nhưng rồi sẽ có lúc ta phải trực diện với sự thật đó là lúc ta phải giả từ trần thế này.
Một trong những sự thật ta cần đón nhận đó là sự hiện hữu của tội và đầu mối của nó là thần dữ. Tội lỗi ở trong ta, ở giữa chúng ta. Thần dữ luôn rảo quanh ta như “sư tử rình mồi chờ cắn xé” ( 1P 5,8 ). Tuy nhiên Thánh Phaolô khẳng định : ở đâu tội lỗi càng lan tràn thì ở đó ân sủng càng chan chứa. Vì sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Đức Kitô ( x. Rm 5,15 ). Đón nhận sự thật này thì thái độ của Kitô hữu chúng ta là sẽ không bi quan yếm thế và cũng không chểnh mảng coi thường nhưng sẽ luôn cẩn trong trong niềm hy vọng.
3.Đừng sợ công bố sự thật : “ Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không só gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” ( Mt 10, 26-27 ). Khi nói lên một sự thật là ta đã mặc nhiên nhìn nhận đồng thời đón nhận sự thật ấy. Và khi đã can đảm nói lên sự thật thì ta cũng đã chấp nhận nhữung hệ quả kéo theo. Ngôn sứ Giêrêmia là một trong những ngôn sứ cảm nhận điều này. Dù được đặt cho biệt danh “ Lão tứ phía kinh hoàng”, Giêrêmia vẫn trung kiên nói lời Chúa dạy. Giêrêmia đã phải gánh bao truân chuyên khốn khó vì đã công bố sự thật. Số phận của Vị Ngôn sứ trên các ngôn sứ là Đức Kitô còn bi thảm gấp bội. “Để làm chứng cho sự thật” ( x.Ga 18,37 ), Đức Kitô đã phải gánh lấy án hình thập giá đau thương.
Cớ sao, đôi khi, đôi lần chúng ta ngại ngần nói lên sự thật ? Dĩ nhiên là phải loại bỏ việc “không được nói” những gì theo luật dạy như những sự việc mang tính bí mật an ninh quốc gia, như bí mật tòa cáo giải, bí mật chuyện lương tâm cá nhân…hay “được nói không” tức là từ chối nói sự thật khi gây phương hại đến đức ái… Tuy nhiên, cần thú nhận rằng vẫn có không ít trường hợp “nói không được”, tức là không dám nói sự thật vì những nguyên cớ thiếu trong sáng và thậm chí là mờ ám, đen tối. Chúa Kitô đã tự xưng Người chính là Sự Thật ( x.Ga 14,6 ). Và chúng ta đừng quên Người đã minh nhiên khẳng định : “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thẩy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” ( Mt 10,32-33 ).
Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta, ai ai cũng dẫy đầy lầm lỗi với kiếp người “đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhiều tội lỗi. Một trong những chiêu bài của thần dữ và những người xấu, những thế lực đen tối, để kìm giữ con người trong sự nô lệ, đó là gieo rắc nổi sợ hãi bằng nhiều hình thức. Một vài hình thức thông dụng chúng thường dùng đó là trấn áp, lên án, kết án, loại trừ… Nếu như chúng ta tích cực cộng tác với ơn Chúa dệt xây một môi sinh ắp đầy tình khoan dung, sự tha thứ, ắp đầy tình yêu thương đón nhận nhau, thì chắc chắn ta đã giúp cho tha nhân và cả chính bản thân mình, thêm can đảm ở trong sự thật, đón nhận sự thật và loan báo sự thật. Chính lúc này vương quốc Nước Trời đang trị đến, một vương quốc không hề có bóng dáng của sự sợ hãi.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- A
ĐỪNG SỢ– Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
Con người chúng ta có bảy loại tình cảm gọi là thất tình, đó là: hỉ nộ ai cụ ái ố dục. Trong đó có thứ tình cảm sợ hãi. Như vậy, tự bản chất con người đã có sẵn tính sợ hãi. Ai cũng có nỗi sợ hãi. Còn sống trên đời là còn sợ. Không sợ cái này thì sợ cái khác. Không sợ người này thì sợ người kia. ‘Trẻ sợ ma, già sợ chết’. Đàn bà con gái thì sợ xuống sắc lắm. Họ mong đến tuổi hồi xuân may ra còn cứu vãn được ít nữa!
Trong Kinh thánh có rất nhiều lần Thiên Chúa phán ‘đừng sợ’. Thời cựu ước, nhiều vị ngôn sứ khi được Thiên Chúa chọn gọi cũng thoái thác vì sợ hãi, nhưng Thiên Chúa luôn bảo họ rằng: đừng sợ, vì có Ta ở với ngươi. Mẹ Maria khi được sứ thần báo tin sẽ mang thai Chúa Giêsu cũng sợ hãi, nhưng thiên thần trấn an: ‘Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”(Lc 1,30). Khi Chúa Giêsu hiện ra trên mặt biển, các tông đồ sợ hãi tưởng là ma, Chúa bảo: chính Thầy đây, đừng sợ!
Tin Mừng Mt 10,26-33 Chúa Giêsu nhắc tới ba lần “đừng sợ”. Chúa Giêsu đã thấy trước những nỗi khó khăn, thử thách, gian truân bách hại mà các môn đệ sẽ phải đương đầu với những thế lực trần gian nên Ngài đã trấn an các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết giết thân xác mà không giết được linh hồn”. Ngài đã từng cầu nguyện rất nhiều cho các môn đệ, vì Ngài biết giữa họ và thế gian trái ngược nhau cho nên thế gian sẽ ghen ghét, vu khống, đánh đòn và giết hại các môn đệ của Chúa. Nhưng nếu đã chấp nhận làm môn đệ Chúa thì không sợ chi cả.
Thấy trước sự bắt bớ các tông đồ sẽ phải đương đầu cho nên Chúa Giêsu trấn an: đừng sợ. Lời trấn an này không chỉ dừng lại là lời an ủi, động viên, khích lệ mang tính tâm lý giao tiếp mà là một lời có kèm theo sức mạnh đồng hành của Chúa ‘vì có Ta ở với ngươi’ mà. Đây là một loại sức mạnh sánh ngang tầm với vũ khỉ bảo hộ được trao gửi làm hành tranh khi các ông phải đơn thân độc mã chống chọi với mọi nghịch cảnh éo le. Chính vì thế, sau này, hầu như chẳng môn đệ nào sợ hãi trước sức mạnh của thế gian, của kẻ thù bách hại.
Ngày 22/10/1978, ĐTC Gioan Phaolô II khởi đầu sứ vụ Phêrô đã nói: ‘đừng sợ’! Ngày 24/4/2005 ĐTC Bênêđictô XVI khởi đầu sứ vụ cũng nhắc lại và thêm: ‘Tôi không cô đơn, tôi không phải gánh vác một mình, điều mà thực ra tôi không bao giờ gánh vác nổi. Và lời cầu nguyện của anh chị em, những bằng hữu thân mến của tôi; lòng sốt mến, đức ái đức tin đức cậy của anh chị em đồng hành với tôi’.
Đặc tính của người lãnh đạo là can đảm và bình tĩnh. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế. Nếu sợ hãi bỏ chạy thì đoàn chiên sẽ tan tác. Các giám mục, linh mục, cha ông chúng ta đã không sợ hãi bỏ chạy khi có lệnh cấm đạo.
Chúa Giêsu thấy chúng ta thường hay sợ hãi nên Ngài trấn an ‘đừng sợ’. Chúng ta được cấp trên giao nhiệm vụ và bảo đừng sợ thì sẽ cảm thấy bình tĩnh, an vui, can đảm thi hành nhiệm vụ. Người môn đệ Chúa là người công bố niềm hy vọng và sự sống cho mọi người bằng lời nói và việc làm, cho nên phải can đảm: nếu thế gian, xã hội này sống gian dối, không muốn sống trong sự thật, chúng ta phải minh chứng về Tin mừng của Chúa là sự thật. Nếu thế gian tối tăm không muốn tiếp nhận ánh sáng, sợ những hành động đen tối bị phơi bày, chúng ta hãy minh chứng cho họ về Tin mừng là sự sáng thế gian. Nếu thế gian sống chia rẽ, hận thù, không yêu thương kẻ thù, chúng ta hãy minh chứng về Tin mừng là tình yêu. Nếu thế gian tranh giành nhau, đấu đá nhau thậm chí chém giết nhau để đạt của cải, danh vọng, chức quyền, chúng ta hãy minh chứng cho họ biết về Tin mừng cứu độ có sức giải phóng tất cả. Cha Charles de Foucauled nói: ‘cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là không bao giờ sợ hãi gì cả’.
Đức Tổng giám mục giáo phận San Salvador – Oscar Rômêô không chấp nhận bất công xã hội, mỗi chủ nhật ngài giảng đều tố cáo tội ác mà đa số do các viên chức chính phủ. Lời của ngài ảnh hưởng rất lớn tới xã hội. Khi ngài giảng mọi người ngưng việc lắng nghe. Tính mạng của ngài bị đe doạ. Một vài người bạn bè của ngài bị giết. Ngài vẫn không im tiếng, không trốn đi nơi khác. Ngài nói: ‘một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi’. Và ngài đã bị bắn chết dưới làn đạn vào tháng 3/1980 lúc đang dâng thánh lễ.
Số phận đời đời của chúng ta cũng tuỳ thuộc vào tư cách sống chứng nhân cho Lời Chúa, chứ không phải trên tư cách là một người mang một tên gọi cho dẫu tên gọi ấy hay lắm, đẹp lắm, xứng đáng lắm. Chúa đã từng từ chối dứt khoát những kẻ chỉ thờ kính Ngài bằng môi miệng còn lòng dạ thì xa Chúa. ‘Hãy xéo đi hỡi quân làm điều gian ác. Ta không biết các ngươi là ai’.
‘Vì phàm ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời'(Mt 10,33). Chắc chắn chúng ta phải sợ Đấng ấy.
Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: ‘nhưng có Chúa ở với tôi như một chiến sĩ oai hùng, nên những kẻ tìm hại tôi sẽ phải lảo đảo và không thắng nổi tôi’. Đó là niềm xác tín của một ngôn sứ, một nhân chứng. Và không một nhân chứng nào thoát khỏi con đường gian nan, bấp bênh. Vậy nếu trong cuộc sống đề cao tình nghĩa yêu thương mà chúng ta gặp những gian nan thử thách, trù dập, vu cáo, chống đối…đó là những dấu chỉ chắc chắn nhất chúng ta đã đi đúng con đường của Chúa Kitô. Và nếu chúng ta đã không sợ hãi thì hãy can đảm rao giảng và làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm ở tất cả mọi nơi mọi lúc.