CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN LÀ MẾN CHÚA THỰC SỰ– Lm. Đan Vinh. 6
THẦY SẼ KHÔNG BỎ CÁC CON MỒ CÔI- Chú giải của Fiches Dominicales 17
THẦN KHÍ SỰ THẬT (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 24
CUỘC SỐNG MỚI CỦA TÍN HỮU TRONG CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
HỨA BAN THẦN KHÍ- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 44
SỰ SỐNG MỚI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 49
TRỞ NÊN HÌNH ẢNH CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 53
CHÚA GIÊSU KHÔNG ĐỂ CÁC ĐỒ ĐỆ MỒ CÔI– Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện 57
ĐI VÀO TÌNH YÊU ĐỨC GIÊSU KITÔ- Lm. An tôn Pađua Trần Liên Sơn 64
YÊU MẾN CHÚA- Lm. Giacobe Phạm Văn Phượng. 71
THẦN KHÍ HƯỚNG DẪN- Lm. Jos. Quốc Phong. 75
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU– Lm. Giuse Hoàng Kim Toan. 79
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Đức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả.
Khi các tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Đáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! (c. 1)
1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! Hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa! .
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!.
3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa! Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời. .
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi. .
BÀI ĐỌC II: 1 Pr 3, 15-18
“Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy tôn thờ Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Đức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em. Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác. Vì Đức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 14, 15-21
“Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó”. Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH-A
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN LÀ MẾN CHÚA THỰC SỰ– Lm. Đan Vinh
*1. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giê-su trước cuộc khổ nạn phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Đức Giê-su hứa sẽ ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông cách thiêng liêng. Những ai thực sự yêu mến Người thì phải tuân giữ các giới răn của Người. Ai làm như vậy thì sẽ được Chúa Cha yêu mến và bày tỏ sự thật về Ngài cho họ biết.
CHÚ THÍCH:
– C 15-17: + Nếu anh em yêu mến Thầy…: Đối với Đức Giê-su, tình yêu không chỉ dừng lại ở tình cảm dạt dào hay ở xúc động thể xác, mà phải được biểu lộ trong hành động vâng phục là sự tuân giữ các giới răn của Người, cũng như Người đã yêu mến Chúa Cha và tuân giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (x. Ga 15,10). + Đấng Bảo Trợ khác: Bảo Trợ tiếng Hy Lạp là Pa-ra-cle-tos, ám chỉ một người được mời đến để làm trạng sư bênh vực và bầu chữa cho bị cáo khi tòa án xét xử. Ở đây Thánh Thần sẽ bầu chữa cho các môn đệ trong vụ kiện thế gian trước tòa án của Thiên Chúa. Như vậy chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giê-su (x. 1 Tm 2,5), nhưng lại có hai Đấng Bảo Trợ: Một là “Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính” (x. 1 Ga 2,1), cũng là “Đấng hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (x. Dt 7,25); Hai là Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác (x. Ga 14,16) là “chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả” (x. Rm 8,26). + Đến ở với anh em luôn mãi: Sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su sẽ hoàn tất khi Người được Chúa Cha tôn vinh (x. Ga 7,39), nghĩa là khi Người tắt thở trên cây thập giá (x. Ga 19,30). Từ đó Người trao ban Thần Khí là Chúa Thánh Thần cho nhân loại để thực hiện một cuộc tạo thành mới. Thời kỳ của Chúa Thánh Thần sẽ kéo dài mãi đến ngày tận thế. + Thần Chân Lý: là Thánh Thần, phát xuất từ Đức Giê-su là chân lý (x. Ga 14,6), Đấng luôn nói sự thật của Chúa Cha (x. Ga 12,49) và sau khi phục sinh đã thổi hơi ban Thần Khí cho các tông đồ (x. Ga 20,22). Thần Chân Lý đối lập với ma quỷ là cha của sự dối trá (x. Ga 8,44). + Đấng mà thế gian không thể đón nhận: Vì Thánh Thần là Thần Khí thiêng liêng, nên thế gian không xem thấy và không thể đón nhận Người. Thế gian ở đây là các đầu mục dân Do thái, những kẻ có lòng kiêu căng, ích kỷ, thù hận, không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Họ không biết và không muốn đón nhận Thánh Thần của Đức Giê-su nên sẽ bị chết trong tội của mình (x. Ga 8,22-24). + Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em: Các tông đồ nhờ đức tin sẽ đón nhận Thánh Thần, nên sẽ được Người hiện diện ở giữa và dạy dỗ họ về sự thật toàn vẹn.
– C 18-19: + Thầy sẽ không để anh em mồ côi…: Mồ côi là tình trạng con cái bị mất cha mẹ nên không được ai chăm sóc nuôi dưỡng, học trò bị mất thầy nên không được ai dạy dỗ hướng dẫn. Ở đây Đức Giê-su muốn nói: sau khi từ cõi chết sống lại, dù Người không còn ở với các môn đệ như lúc này, nhưng Người sẽ vẫn luôn ở cùng các ông nhờ đức tin và ơn thánh. + Chẳng bao lâu nữa: Người hứa sẽ mau trở lại (x. Ga 16,19.22). + Thế gian sẽ không còn thấy Thầy: Đức Giê-su sắp chịu chết và người đời sẽ không còn thấy Người sau khi Người sống lại, vì từ nay Người không còn hiện diện bằng thân xác vật chất nữa. + Anh em được thấy Thầy: Chữ thấy ở đây là thấy bằng đức tin, nghĩa là tin Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa. Nhờ tin, các ông sẽ được tham dự vào sự sống siêu nhiên và được kết hiệp mật thiết với Người.
– C 20-21: + Ngày đó: là kiểu nói thường dùng trong Cựu Ước để chỉ ngày Chúa lại đến, tức là ngày cánh chung hay tận thế (x. Is 2,17; 4,1). + Thầy ở trong Cha Thầy và Thầy ở trong anh em: Nhờ vào sự thấy được bằng đức tin như vậy, các môn đệ sẽ khám phá ra đời sống kết hiệp thâm sâu giữa Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 14,11), đồng thời cũng cảm nghiệm được sự liên kết mật thiết giữa họ với Chúa Giê-su Phục Sinh bằng đức tin và ân sủng. + Ai có và giữ các điều răn của Thầy…: Lòng mến Chúa không phải chỉ dừng lại ở tình cảm và lời nói, nhưng phải được thể hiện qua hành động tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhất là sống giới răn yêu thương của Chúa Giê-su (x. Ga 13,34). + Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến…: Câu này không có nghĩa là Thiên Chúa chỉ yêu mến những ai yêu mến Chúa Giê-su, vì Thiên Chúa yêu hết mọi người và yêu họ trước (x. 1 Ga 4,10). Nhưng những ai yêu mến và vâng lời Đức Giê-su thì càng được Thiên Chúa yêu mến hơn, với danh nghĩa họ là nghĩa tử của Người và là chi thể của Đầu Nhiệm Thể là chính Người.
CÂU HỎI:
*1) Đức Giê-su đòi người ta phải thể hiện tình yêu đối với Người thế nào? 2) Bảo trợ nghĩa là gì? Loài người chúng ta chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là ai? Nhưng chúng ta lại có hai Đấng Bảo Trợ là những Vị nào? 3) Sứ mạng cứu thế của Đức Giê-su chấm dứt khi nào? Đấng nào khác sẽ tiếp tục sứ mạng cứu độ ấy cho đến tận thế? 4) Thần Chân Lý là ai? Phát xuất từ Đấng nào? Đối lập với ai? 5) Tại sao thế gian không thể đón nhận được Thần Chân Lý? Các tông đồ phải làm gì để đón nhận được Ngài?
*2. SỐNG LỜI CHÚA
– Lời Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15).
– Câu chuyện: TẤM GƯƠNG YÊU THƯƠNG CHẾT THAY CHO NGƯỜI KHÁC:
Một buổi sáng tháng 7 năm 1941, trong trại tập trung OS-WIC-CIM của Đức quốc xã tại nước Ba-lan, lính canh phát hiện có một tù nhân đã vượt ngục trong đêm. Theo thông lệ: mười tù nhân khác phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Bấy giờ tên trưởng trại lần lượt kêu tên mười tù nhân xếp hàng vào hầm chết đói. Khi nghe đọc tên, từng người run rẩy sợ hãi bước ra khỏi hàng tiến ra phía trước. Bỗng nhiên một người trong bọn nghe kêu tên đã bật khóc và la to lên: “Ối vợ con tôi ơi! Thế là từ nay tôi không bao giờ được đoàn tụ với vợ con rồi”.
Hàng ngàn tù nhân đứng xếp hàng đều hồi hộp nín thở và mừng thầm vì mình được thoát chết. Đột nhiên có một tù nhân dáng người gầy yếu đang từ trong hàng ngũ tù nhân bên trái tách ra tiến đến gần viên trưởng trại. Bấy giờ tên này liền rút súng lục đeo bên người ra chĩa nòng súng về phía người tù kia hỏi:
– Thằng kia, đứng lại ngay! Mày muốn gì?
– Tôi muốn chết thay cho một người trong nhóm mười người sắp bị trừng phạt kia.
Viên trưởng trại tỏ vẻ sửng sốt tưởng mình nghe lầm và hỏi:
– Tại sao mày lại làm điều khờ dại ngu ngốc như thế?
– Tôi là một linh mục công giáo không có gia đình, nên tôi xin chịu chết thay cho người có vợ con kia.
Cuối cùng, viên trưởng trại đã đồng ý theo lời yêu cầu và cho kẻ tình nguyện chết nghĩa là ập vào hàng người tiến đến hầm chết đói. Tù nhân nói trên không ai khác hơn là cha MA-XI-MI-LI-EN KÔN-BÊ. Qua việc tình nguyện hy sinh tính mạng cho một người không quen biết, cha đã biểu lộ tấm lòng mến Chúa một cách rõ nét nghĩa là ất. Hành động của cha khiến cho nhiều người từ cai ngục đến các tù nhân hiện diện đều nể phục và nghĩa là ờ đó họ đã tin vào lòng Chúa thương xót. Về sau vào ngày 10/10/1982 tại Roma Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã phong cha Kôn-bê lên bậc hiển thánh để nêu gương thánh thiện thực sự cho các tín hữu chúng ta.
*3) Suy niệm:
Nội dung Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giê-su nghĩa là ắn nghĩa là ủ các môn đệ trước khi ra đi chịu khổ nạn như sau: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Đức Giê-su không đòi các môn đệ phải yêu mến Người bằng thứ tình yêu cảm tính, dù tình cảm ấy cũng có giá trị thúc bách các ông hăng say phục vụ như lời thánh Phao-lô đã dạy: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).
HAI LOẠI TÌNH YÊU:
Người ta thường phân chia tình yêu thành hai loại là tình yêu ích kỷ hoặc vị tha:
* Tình yêu ích kỷ: Là thứ tình yêu giả dối, vì đối tượng không phải là tha nhân, nhưng là chính mình. Nói cách khác: người có loại tình yêu này chỉ coi người yêu như phương thế giúp họ tìm kiếm lợi ích bản thân.
* Tình yêu vị tha: Là thứ tình yêu đích thực, thể hiện qua việc quên mình để nghĩ đến người yêu và tìm làm nghĩa là ững điều mang lại lợi ích thực sự cho họ.
BA CẤP SỐNG ĐẠO: Dựa theo tiêu chuẩn tuân giữ lời Chúa mà người tín hữu được phân làm ba cấp như sau:
* Một là người có đạo: Là nghĩa là ững kẻ đã chịu phép thánh tẩy, nhưng không quan tâm học biết Chúa. Loai người này thường có thái độ vô tâm vô cảm, luôn làm ngơ trước nghĩa là ững nhu cầu của tha nhân như dụ ngôn ông phú hộ làm ngơ trước anh La-da-rô nghèo khó bệnh tật đang nằm trước cổng nhà mình (x. Lc 16,19-21).
* Cấp hai là giữ đạo: Là nghĩa là ững tín hữu có lối giữ đạo hình thức lễ nghi bề ngoài, không quan tâm sống theo Lời Chúa, và luôn chiều theo ý riêng của mình.
* Cấp ba là sống đạo: Là nghĩa là ững người vừa chu toàn luật đạo, lại vừa sống đức Tin cụ thể bằng việc thực hành đức Cậy là siêng năng đọc kinh dự lễ, và thi hành đức Mến là quan tâm phục vụ tha nhân như lời Chúa Giê-su phán: ”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy nghĩa là ững công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Nghĩa là 5,16).
HÃY YÊU THƯƠNG BẰNG VIỆC LÀM:
*a) Thánh Gio-an dạy lòng mến Chúa phải thể hiện qua đức yêu người như sau: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy được” (1 Ga 4,20). Khi yêu thương phục vụ nghĩa là ững kẻ đói khát, bệnh tật và bị bỏ rơi là chúng ta đang yêu thương và phục vụ chính Đức Giê-su (x. Nghĩa là 25,40).
*b) Tình yêu phải biểu lộ qua một số hành động cụ thể như sau:
– Năng nghĩ đến và ước muốn gặp gỡ để tâm sự với người yêu lâu giờ.
– Luôn sãn sàng quên mình phục vụ tha nhân và làm cho họ được hạnh phúc.
– Quảng đại cho đi nghĩa là ững món quà tình cảm mà không mong được báo đền. Yêu nhiều thì sẽ quảng đại cho nhiều mà không tính toán thiệt hơn.
– Không chấp nghĩa là ất nghĩa là ững sai lỗi nghĩa là ỏ mọn về lời nói, nghĩa là ững lối ứng xử vụng về… và sẵn sàng chịu đựng cả nghĩa là ững lầm lỗi khuyết điểm của họ.
– Hy sinh chịu thiệt thòi vì người yêu: nếu cần người ta sẽ sẵn sàng chịu thiệt thòi về danh vọng, chức quyền, tiền bạc, của cải… để người yêu được hạnh phúc.
– Tình yêu sẽ lên đến tột đỉnh khi một người biết hy sinh tính mạng, như lời Chúa: ”Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
*4) Chúng ta phải làm gì?:
*a) Điều quan trọng hiện nay là phải biết thể hiện lòng mến Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn như sau: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Nhưng giới răn ấy là gì? Giới răn quan trọng nghĩa là ất là thương yêu anh em: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 12,34). “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (Ga 4,20).
*b) Hiện nay nhiều người trong chúng ta đã thể hiện tình yêu bằng lời nói hơn là hành động: Có nghĩa là ững đứa con lười biếng làm việc nhà, ăn nói dối trá, thích gây gỗ và đánh lộn với chúng bạn… gây phiền não cho cha mẹ và thầy cô. Có nghĩa là ững ông chồng thường đi chơi tại nghĩa là ững hộp đêm sang trọng, chơi bài bạc cá độ thua sạch tiền khiến vợ con lâm cảnh đói khát. Có nghĩa là ững bà vợ ỷ mình có tiền nên ăn nói thô lỗ cộc cằn, ghen bóng ghen gió hoặc chấp vặt khiến chồng con phiền lòng…
Thảo luận:
*1) Yêu thương bằng việc làm là biết nghĩ đến người khác, xét đoán ý tốt và ước muốn điều tốt cho người mình không ưa, là sẵn sàng chịu đựng và khoan dung tha thứ những sự xúc phạm của kẻ khác đối với mình, là quảng đại cho đi hơn là nhận lãnh, là năng thăm viếng an ủi những người đau khổ và giúp đỡ những người cô đơn, là săn sóc phục vụ những người yếu đuối bệnh tật… Bạn đã thực hành được điều nào trong các điều này rồi? 2) Trong những ngày sắp tới, bạn quyết tâm sẽ làm gì để sống tình yêu thương cụ thể đối với tha nhân?
*5. Lời cầu:
– Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời chúng con mãi mãi xanh tươi. Xin ban cho chúng con sự bình an của Chúa, bình an làm cho chúng con vững tâm khi gặp phải các cơn sóng gió giữa biển đời. Xin ban cho chúng con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt chúng con luôn tươi vui rạng rỡ. Xin ban cho chúng con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần sẽ biến đổi cuộc đời chúng con ngày một nên giống Chúa Cha trên trời.
– Lạy Chúa. Qua Tin Mừng hôm nay, chúng con hiểu rằng Chúa muốn chúng con tuân giữ các huấn lệnh vì lòng yêu mến Chúa, hơn là để được ban thưởng hạnh phúc thiên đàng, và không dám phạm tội trọng chỉ vì sợ bị Chúa phạt xuống hỏa ngục đời đời. Xin giúp chúng con biết mến Chúa bằng việc thực hành giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương Me Ma-ri-a: Luôn lắng nghe lời Chúa và mau mắn thưa xin vâng. Cho chúng con biết quan tâm tìm hiểu nhu cầu của tha nhân và sẵn sàng đáp ứng. Cho chúng con luôn nghĩ đến những người bệnh tật, nghèo khổ và bất hạnh, để chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó, chúng con sẽ chứng tỏ lòng mến Chúa thực sự và xứng đáng được liệt vào số các môn đệ trung thành với Chúa đến cùng.
- X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
THẦY SẼ KHÔNG BỎ CÁC CON MỒ CÔI- Chú giải của Fiches Dominicales
*1. Lời hứa sẽ hiện diện giữa các môn đệ.
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật trước kết thúc với lời loan báo rằng sứ mệnh của Đức Giêsu sẽ sinh hoa kết quả trong thời gian và không gian qua việc làm của các tín hữu “Ai tin vào Thầy sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.
– Trước tiên, câu 16 và 17 là lời hứa ban Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật”
Thánh Thần được Chúa Cha ban xuống nhờ sự can thiệp của Chúa Con. Nhiệm vụ của Ngài là: “ở với anh em luôn mãi”. Đây cũng chính là ý nghĩa của tên Ngài. Vì thế, đây là một sự hiện diện thường xuyên, “luôn mãi”, sự hiện diện như bóng với hình bên người tín hữu và ở với họ “với anh em; bên cạnh anh em; trong anh em”.
– Ngài được gọi là Đấng Bảo Trợ. Ngài sẽ là trạng sư của các môn đệ Chúa và là đấng bào chữa cho họ. Ngài sẽ phụ lực và giúp đỡ họ trong vụ kiện sống còn mà “thế gian” theo đuổi để chống lại Đức Giêsu và các môn đệ Ngài.
– Ngài được gọi là Thần Khí sự thật: Ngài sẽ đào sâu đức tin cho họ, làm cho họ hiểu biết “tận đáy lòng” cuộc sống Đức Giêsu và sứ điệp của Ngài (xem Ga 14,25;16,12-15) Ngài sẽ soi rọi những hoàn cảnh mới và bất ngờ mà các môn đệ sẽ phải đương đầu.
– Tiếp theo sau, các câu 18-20 là lời hứa ban một kiểu Hiện Diện khác của Đức Giêsu: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ đuợc sống.”
Lời hứa về sự hiện diện hoàn toàn mới mẻ này sẽ trở thành hiện thực vào chính ngày lễ Phục sinh: các môn đệ sẽ thấy Đấng Phục Sinh (Ga 20, 20-25) nhưng những cuộc hiện ra trong dịp phục sinh không phải là kết thúc. Chúng mở màn cho một Sự Hiện Diện kéo dài, một sự Hiện Diện dành riêng cho con mắt đức tin. Cuộc “đăng trình” của Đức Giêsu khơi nguồn một kỷ nguyên mới “khởi đầu với vinh quang phục sinh của Chúa và kéo dài trong thời gian với Giáo Hội. trong suốt cuộc sống chúng ta, Chúa đến, chúng ta nhìn thấy Người. Đây không còn phải là thị kiến của các môn đệ trước Đấng Phục Sinh nữa mà là một thị kiến của niềm tin giúp ta ý thức về sự hiện diện và hiệp thông đời sống” (Assemblées du Seigneur số 27, p.42)
*2. Cuộc sống vĩnh hằng đã khởi đầu.
Trong thời đại của Giáo Hội, Đức Giêsu hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tiếp sau sự hiện diện lịch sử của Ngài là một kiểu hiện diện mới mang lại cho chúng ta một nếp sống mới, hợp nhất với Đức Giêsu và Chúa Cha dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, với các môn đệ, đời sống vĩnh cửu đã bắt đầu. cuộc sống họ “ngay trên trần gian này đã tương đương với cuộc sống của Đấng Phục Sinh, đã thông phần với cuộc sống của chính Thiên Chúa, với cuộc sống của Chúa Ba Ngôi. cuộc sống họ là một sự hiệp thông, trong tình yêu, với từng ngôi Thiên Chúa đang ở trong họ.” (M.E.Boismard và A. Lamouille, “Tin Mừng thánh Gioan” Cerf, p.360) “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống, Đức Giêsu hứa như vậy. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.”
BÀI ĐỌC THÊM:
*1. Một cuộc sống mới: (G. Bessière, trong “Thiên Chúa thật gần”)
Rõ ràng, điều quan trọng ở đây là có được mối tương liên cá biệt với Đức Giêsu hay đúng hơn, được “yêu mến Ngài”. Các Phúc Âm Mátthêu, Marcô, Luca mời gọi ta tiến vào nước Trời. Phúc âm Gioan, xuất hiện trễ hơn, không đề cập đến nước Trời ấy nữa mà tập trung vào Đức Giêsu và qui kết về Ngài.
Hình ảnh cây nho và cành nho biểu hiện rõ rệt về điều đó: mỗi môn đệ đều kết hợp trực tiếp với Đức Kitô. Người ta đã có thể nói về “tính đồng đẳng” của thánh Gioan: theo Ngài, mọi người phải sống với Đức Giêsu bằng mối dây tình yêu. trong lòng cộng đoàn tín hữu, mỗi Kitô hữu trực tiếp trao đổi với Ngài.
Tình yêu này không hàm hồ. Nó không phải là một thúc đẩy cảm tính về một hình ảnh mơ hồ qua đó người ta có thể dự phóng những giấc mơ của mình. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của thầy.” Đây là một tình yêu với những việc làm cụ thể. toàn bộ phúc âm là một bằng chứng về cuộc sống mới đã khởi đầu nơi Đức Giêsu: Phải tái sinh, phải mở mắt, phải uống nước vọt lên từ nguồn suối, phải ăn bánh hằng sống, phải để Đức Giêsu rửa chân và chúng ta phải làm đầy tớ cho nhau. Một cuộc sống khác đã khai mở, cuộc sống của chính Thiên Chúa, đúc kết nơi Đức Giêsu.
Tin mừng của thánh Gioan diễn ra trong bầu khí căng thẳng. Sự cắt đứt với với do thái giáo đã chín mùi, và sự đối đầu thật gay go. Tác giả tin mừng thứ tư hết sức cứng rắn với người do thái. Ngài nhấn mạnh đến thần tính của Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống. Từ nay, ngoài Ngài ra, không còn con đường nào khác. Các môn đệ sẽ không ngừng đón nhận sự tự do của Ngài và cùng khám phá với Ngài cuộc sống yêu thương.
Nhưng làm sao có thể sống thân thương được với một người mà kỉ niệm đã xa mờ trong quá vãng? Khi Tin Mừng thánh Gioan được soạn thảo xong, thế hệ những chứng nhân bằng xương bằng thịt đã qua đời. chỉ còn lại những bản văn, những lời chứng, những mẩu chuyện và những lời nói uyên thâm cho phép ta không ngừng gặp gỡ Đấng vĩnh hằng. Song còn hơn thế nữa: còn có một Đấng luôn ở cạnh bên, như một trạng sư hay một Đấng Bảo Trợ, đó là Thần Khí sự thật.
Nhờ Ngài. công việc của Đức Giêsu sẽ luôn hiện thực trước những hoàn cảnh mới. Thánh Thần sẽ không lập lại những lời nói cũ mòn nhưng Ngài cách tân chúng theo dòng đời luôn luôn đổi mới.
Chính trong Ngài mà mối tương giao dấu ái với Đức Giêsu sẽ không ngừng nối kết những con người qua các thế kỷ; nó hệt như một ngọn lửa luôn chiếu sáng và sưởi ấm cõi lòng.
*2. Một Đấng Bảo trợ khác
Đấng Bảo Trợ, là từ Hi Lạp, thoạt đầu, theo nghĩa luật pháp, tức là trạng sư, người trợ lí, người bảo vệ. Về sau, từ này được dùng theo nghĩa rộng để chỉ người an ủi và người can thiệp giúp. Có điều lạ là từ này được áp dụng cho Đức Giêsu (trong thư thứ nhất của thánh Ga 2,1): “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” còn hầu hết thì chỉ Chúa Thánh Thần. Vì thế, nếu gán cho Chúa Thánh Thần mọi phẩm tính trên, ta sẽ thấy, nếu chỉ có một mình, người ta sẽ khó sống trung thành với Đức Kitô tới mức nào.
Nhưng đây cũng chính là sứ điệp của Đức Giêsu: các con sẽ không mồ côi, một mình. Đức Kitô vô hình nhường chỗ cho Đấng Bảo Trợ các tín hữu, mang đến cho họ những kháng độc tố cần thiết cho cuộc sống công chính theo Tin Mừng giữa muôn vàn thử thách. Tốt đẹp biết bao khi tin rằng- từ khi Đức Giêsu ra đi trong ngày Ngài lên trời- tất cả những gì được Đức Kitô thực hiện trên trần gian này một cách hữu hình đều do những người nam và người nữ đã mạo hiểm với niềm tin dũng cảm, đôi khi phải trả giá bằng chính cái chết của mình.
Chính vì họ không đơn độc. Vị đạo diễn vĩ đại, hợp nhất toàn cả vũ trụ, hợp nhất Giáo Hội chính là Đấng Bảo Trợ vô hình, Người ân ban sức mạnh tràn trề cho những người yếu đuối nhất và lòng can đảm cho những kẻ nhát đảm nhất. Niềm ủi an của Chúa Thánh Thần sẽ như ngọn lửa lan truyền giữa các tín hữu từ đời này cho tới đời kia.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- A
THẦN KHÍ SỰ THẬT (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Ngũ Tuần, một biến cố quan trọng của Giáo Hội, sắp đến gần; vì thế, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh loan báo Chúa Thánh Thần, Thần Chân Lý.
Cv 8: 5-8; 14-17
Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật dân Sa-ma-ri trở lại đạo và lần đầu tiên kể ra bí tích Thêm Sức: thánh Phê-rô và thánh Gioan đến đặt tay trên những người đã chịu phép Rửa để họ được đón nhận Chúa Thánh Thần.
1Pr 3: 15-18
Bài Đọc II, tiếp tục trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, nêu lên hy tế của Đức Giê-su, chết cho tội lỗi chúng ta, nhưng Thánh Thần đã phục sinh Ngài.
Ga 14: 15-21
Tin Mừng là đoạn trích dẫn diễn từ Cáo Biệt mà Đức Ki-tô ngỏ lời với các môn đệ Ngài, vào buổi chiều Tiệc Ly: Ngài hứa sai Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần Chân Lý đến ở với họ luôn mãi.
BÀI ĐỌC I (Cv 8: 5-8, 14-17):
Sau việc thiết lập bảy cộng tác viên, cuộc bách hại đã bất ngờ giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ tại Giê-ru-sa-lem. Khởi điểm là lời rao giảng của thánh Tê-pha-nô, một trong bảy cộng tác viên. Lời rao giảng táo bạo của thánh nhân khiến Thượng Hội Đồng phẩn nộ. Họ xúi dục dân chúng ném đá thánh Tê-pha-nô cho đến chết.
Nhiều môn đệ trốn chạy, nhất là những Ki-tô hữu theo văn hóa Hy lạp bị nhắm đến đặc biệt hơn. Trên con đường trốn chạy, đi đến đâu, họ đều làm chứng về Đức Ki-tô Phục Sinh đến đó: “Vậy những người phải tản mác khắp nơi loan báo Lời Chúa” (8: 4). Thế là Lời Chúa được loan truyền rộng rãi vượt ra bên ngoài thành đô Giê-ru-sa-lem. Chính trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, họ trở thành những nhà truyền bá Tin Mừng.
*1.Công việc truyền giáo của phó tế Phi-líp-phê:
Sau khi sơ tán khỏi Giê-ru-sa-lem, Phi-líp-phê, một trong bảy cộng tác viên, “xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Kitô cho dân chúng ở đó”. Tác giả không nói với chúng ta thành nào. Cuộc truyền giáo luôn luôn đạt được kết quả mỹ mãn. Dân chúng chú ý đến lời rao giảng của ông và bị lôi cuốn bởi những phép lạ ông thực hiện nên theo đạo rất đông. Như Đức Ki-tô và nhân danh Ngài, Phi-líp-phê thực hiện nhiều “phép lạ”. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Luca nói về việc chữa lành “những người bị bại liệt”, một từ ngữ chuyên môn, chứ không là những người bại liệt, một từ ngữ bình dân – cũng vậy, trong Tin Mừng của mình, thánh ký luôn luôn dùng thuật ngữ nầy, bởi vì thánh Lu-ca là thầy thuốc. Đây là một tiểu tiết mang lấy chữ ký của ngài.
“Trong thành, người ta rất vui mừng”. Đây cũng là một ghi nhận rất tiêu biểu của thánh Lu-ca. Những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, cả thành đều tràn ngập niềm vui thiên sai mà các ngôn sứ đã loan báo từ xưa. Niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh không những đã làm cho họ phấn chấn, mà ngay cả thân xác của họ cũng được phục hồi sức khoẻ.
*2.Dân Sa-ma-ri đón nhận phép Thêm Sức:
Sách Công Vụ nói đến hai lần: “Các Tông Đồ vẫn ở Giê-ru-sa-lem” (8: 1, 14) để nhấn mạnh rằng trong lúc bách hại, không một Tông Đồ nào rời bỏ Thành Thánh. Khi nghe biết dân Sa-ma-ri trở lại đạo, thánh Phê-rô và thánh Gioan đến tận nơi. Chúng ta đã thấy rồi, hai vị Tông Đồ nầy thường hoạt động cùng nhau.
Những ai đã chịu phép Thánh Tẩy, hai Tông Đồ đặt tay trên họ để Thánh Thần ngự xuống trên họ. Đó là cử chỉ bí tích mà sau nầy chúng ta gọi “Bí Tích Thêm Sức”, bí tích này hoàn thiện bí tích Thánh Tẩy bằng việc đặt tay ban Thánh Thần. Chỉ duy các Tông Đồ, những người kế vị Đức Giê-su, mới có đủ thẩm quyền ban Thánh Thần. Thế là biến cố ngày Ngũ Tuần một lần nữa được tái diễn ở một nơi khác ngoài Giê-ru-sa-lem, và cứ như thế ở bất cứ nơi nào mà Lời Chúa có dịp tràn đến.
BÀI ĐỌC II (1Pr 3 : 15-18)
Vào Chúa Nhật VI Phục Sinh nầy, Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư thứ nhất của thánh Phê-rô gởi những Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Đoạn trích nầy dọi chiếu vài tia sáng trên những thử thách mà họ phải chịu. Thánh Phê-rô an ủi và khích lệ họ. Họ phải chịu phỉ báng, vu khống, bị điệu ra trước tòa, bị trách cứ vì cách sống mới của họ, vân vân. Đây là những cuộc bách hại địa phương hoặc do những anh em đồng đạo Do thái trước đây của họ hay do đồng bào ngoại giáo trước đây của họ.
*1.Hãy tôn kính Đức Kitô làm Chúa trong lòng anh em:
Thánh Phê-rô khuyên nhủ họ. Lời mở đầu : “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn kính Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3: 14-15) gợi hứng từ bản văn của Is 8: 12-13, trong đó ngôn sứ I-sai-a xưa kia ngỏ lời với Giê-ru-sa-lem bị đe dọa và với vua A-khát sợ hãi và xao xuyến. Hoàn cảnh bấy giờ xem ra tương tự. Những người bị bách hại đừng khiếp sợ kẻ thù của họ. Họ không có bận lòng nào khác ngoài việc làm đẹp lòng Thiên Chúa.
*2.Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời :
Sau khi khuyên nhủ một cách khái quát, thánh Phê-rô khuyên nhủ sát với thực tế hơn: “Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn anh em về niềm hy vọng của anh em”. Thánh nhân ám chỉ đến việc họ bị chất vấn trước thế quyền cũng như giáo quyền và khuyên họ hãy bênh vực niềm tin của họ, hãy biện minh niềm hy vọng của họ đối diện với những kẻ không tin.
Đây là lần đầu tiên thánh Phê-rô ban một lời khuyên như vậy cho thấy những hoàn cảnh khó khăn mà các Ki-tô hữu phải trải qua. Sau nầy trong những cuộc bách hại lớn lao như cuộc bách hại của hoàng đế Domitien (81-96) khắp Đế Quốc, lời khuyên nhủ như thế sẽ mặc lấy tính chất bi thảm.
Tiếp đó, trở lại chủ đề chạy xuyên suốt bức thư: “Phúc cho những ai bị bách hại vì công chính”, thánh nhân viết: “bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành còn hơn là vì làm điều ác”. Sau cùng, thánh Phê-rô một lần nữa viện dẫn Đức Giê-su như mẫu gương: Đức Giê-su, Đấng Công Chính đã chết cho những kẻ bất lương, nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết, đó là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta.
Niềm an ủi mà vị thủ lãnh Giáo Hội muốn đem đến cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á bị đối xử bất công, cốt ở nơi lời giáo huấn căn bản nầy: Đức kiên nhẫn trong những trăm chiều thử thách dẫn họ đến cùng một vận mệnh vinh quang như vận mệnh của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 14: 15-21)
Chúng ta tiếp tục diễn từ Cáo Biệt của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài. Thấy họ xao xuyến trước lời loan báo về cái chết sắp đến của Ngài, Đức Giê-su nói với họ những lời an ủi và hứa với họ Ngài sẽ trở lại tìm họ để họ nên một với Ngài luôn mãi trong mối thâm tình với Cha Ngài (Chúa Nhật vừa qua). Chúa Giê-su lại còn hứa Ngài sẽ sai phái Chúa Thánh Thần đến ở với họ, đây là đối tượng của đoạn Tin Mừng Chúa Nhật này.
*1.Trung tín trong tình yêu:
Trước khi hứa sai Thánh Thần đến ở với họ, Đức Giê-su đòi hỏi họ hãy tuân giữ các điều răn của Ngài như bằng chứng tình yêu của họ đối với Ngài.
Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài theo cùng một mức độ như Đức Chúa đòi hỏi dân Do thái khi Người ban Lề Luật của Người cho họ. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi con người phải yêu mến Ngài như vậy. Đây là cách thức Đức Giê-su bày tỏ chân tính thần linh của Ngài. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh việc tuân giữ trong tình yêu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Đức Giê-su đòi hỏi họ yêu mến con người của Ngài chứ không là Lề Luật. Tất cả điểm nhấn của Ki-tô giáo đều tập trung vào luật mới mà Đức Ki-tô ban: không áp đặt từ bên ngoài, nhưng là hành vi thắm đẩm tình yêu, vì thế kêu gọi đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu đi đôi với hiểu biết và thực hành những điều răn (14: 15; 14: 21). Sự hiểu biết được nêu lên ở đây không đơn giản là tri thức, nhưng trào dâng từ cuộc sống xuất phát từ kinh nghiệm cụ thể. Đây là một sự hiểu biết thực tiển nẩy sinh từ cõi lòng sâu thẳm nhất. Đó là lý do tại sao, trong Tin Mừng Gioan, có mối gắn kết bền chặc giữa yêu mến, hiểu biết và tuân giữ các điều răn.
Bản chất tình yêu là muốn được sống cùng nhau, nên một với người mình yêu, không muốn xa lìa nhau. Khi người ta yêu nhau, người ta “đồng cảm” với nhau, người ta “biết” điều gì làm vui lòng người mình yêu mà không có bất kỳ ép buộc bên ngoài nào, người ta ra sức thực hiện bất cứ điều gì làm vui lòng người mình yêu, chu toàn ý muốn của người mình yêu. Tuân giữ là cách thức cụ thể thể hiện ra bên ngoài điều mình nghĩ, điều mình yêu. Đây là điều Đức Giê-su đã làm đối với Cha của Ngài (15: 10), người môn đệ cũng sẽ làm như vậy, bởi vì người ấy “đồ lại” cuộc sống của mình trên cuộc sống của Đức Ki-tô, sống cuộc sống của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện ở cõi sâu thẳm của người môn đệ.
*2.Đấng Bảo Trợ khác:
Đối với những người bạn chí thiết của Ngài, nghĩa là những người thực sự yêu mến Ngài và bày tỏ tấm lòng yêu mến Ngài bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài, Đức Giê-su sẽ xin Cha Ngài sai Thánh Thần đến ở với họ luôn mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến với anh em luôn mãi”.
Qua từ ngữ đơn giản “Đấng Bảo Trợ khác” này, Đức Giê-su định nghĩa cả sứ mạng của Ngài lẫn sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Ngài đã đến để là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, chứ không là quan tòa của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1Ga 2: 1-2). Chúa Thánh Thần được gọi là “Đấng Bảo Trợ khác” vì Ngài sẽ tiếp tục công việc này; Ngài sẽ phù trợ chúng ta và “ở với chúng ta luôn mãi”. “Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý, nên dịch là “trạng sư” mới đúng, vì trong Tin Mừng thứ tư diễn ra một phiên tòa giữa Đức Giê-su và thế gian. Trong Tin Mừng Gioan, từ ngữ “thế gian” mặc ý nghĩa tiêu cực, tức thế giới gian tà nằm dưới quyền thống trị của Xa-tan. Vì thế, thế gian không thể đón nhận Chúa Thánh Thần, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Đó là tất cả tấm thảm kịch của sự cứng lòng tin.
*3.Thần Khí Sự Thật:
Đấng Bảo Trợ khác nầy cũng được gọi Thần Khí Sự Thật (15: 26) đối lập với thế gian dối trá. Ngài ban phát sự thật và dẫn các môn đệ đến sự thật. Trong Tin Mừng Gioan, sự thật không là một phẩm chất luân lý, nhưng là một định nghĩa thậm chí về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa là Sự Thật. Sự thật này được phơi bày ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngài cũng là sự thật, và sứ mạng của Ngài chính là bày tỏ sự thật cho con người, nghĩa là ban cho họ ơn cứu độ. Có nhiều cách nói, nhưng có chung một nghĩa: “sống trong sự thật” hay “sống trong Thiên Chúa”, hoặc “được cứu độ”.
Đấng Bảo Trợ khác nầy cũng là Thần Khí Sự Thật bởi vì Ngài là Một trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mới có thể cho các môn đệ biết chân tính của Đức Giê-su, mới có thể giúp cho các ông thật sự sống trong mối hiệp thông đích thật với Chúa Con và Chúa Cha. Thánh Thần của Đấng Phục Sinh mà Đức Giê-su sẽ ban cho các môn đệ để dẫn dắt họ vào trong sự thật toàn diện (hay ơn cứu độ trọn vẹn). Như vậy, các môn đệ sẽ có thể hiểu cụ thể con người và sứ mạng của Đức Giê-su, và hiện tại hóa ơn cứu độ của Ngài vào trong cuộc sống thường ngày của họ.
*4. “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”:
Từ “mồ côi” là lời nói trìu mến, được Đức Giê-su dùng rất nhiều lần, trong suốt diễn từ Cáo Biệt của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”.
Đoạn, cung giọng ngôn sứ lại được vang lên: Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Phần các con, các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống”. Thành quả Phục Sinh của Ngài sẽ là ân ban sự sống, sự sống Thiên Chúa mà Đức Giê-su sẽ ban phát một cách sung mãn.
“Vào ngày đó”: đây là cách nói của Cựu Ước. Chữ “ngày” chỉ một thời kỳ, thường nhất thời cánh chung. “Thời cánh chung” được kể ở đây khởi sự từ biến cố Phục Sinh. Lúc đó, các môn đệ sẽ kinh nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh ở nơi họ, sự hiện diện của một thế giới mới, sự hiện diện của Thần Khí trong một mối hiệp thông sâu thẳm tròn đầy tình yêu.
CUỘC SỐNG MỚI CỦA TÍN HỮU TRONG CHÚA THÁNH THẦN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : Dân Samari được lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
– Bài Tin Mừng : Chúa Cha sẽ ban cho tín hữu một Đấng phù trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần.
– Bài đọc II : Cuộc sống lạc quan của người tín hữu vì đã có Chúa Thánh Thần giúp họ trong cảnh khó khăn, thù hằn của thế gian.
Anh chị em thân mến,
Chỉ còn một tuần lễ nữa là đến lễ Thăng thiên. Tin Mừng hôm nay thuật rằng trước khi Đức Giêsu lên trời, Ngài đã hứa gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta để giúp chúng ta chu toàn sứ mạng mà Ngài đã giao cho chúng ta, tức là loan báo Tin Mừng khắp thế giới. Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày được Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta có ý thức Ngài đang ở trong chúng ta không, và có nghe theo sự hướng dẫn của ngài không ?
– Mặc dù đã được rửa tội nhân danh Đức Giêsu và được thêm sức trong Chúa Thánh Thần, thế mà chúng ta vẫn sống một cuộc sống tầm thường không hơn những kẻ chưa được rửa tội bao nhiêu.
– Kitô hữu là người mang hy vọng, thế mà nhiều khi chúng ta để mình bị rơi vào thất vọng.
– Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ luôn bênh vực chúng ta. Nhưng chúng ta thường sợ hãi như không có Ngài.
Bị đuổi khỏi Giêrusalem do cuộc bách hại mà những người do thái phát động chống các kitô hữu, phó tế Philíp lánh sang miền Samari. Ông dùng dịp này để loan Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho dân Samari. Nhiều người Samari đã xin lãnh nhận phép rửa. Hoạt động truyền giáo của Philíp đã có tiếng vang đến tai các tông đồ, nên ít lâu sau, chính Phêrô và Gioan đích thân đến Samari và đặt tay xin Thánh Thần xuống trên các tân tòng Samari.
Khi hồi tưởng biết bao ơn lành mà Thiên Chúa đã ban cho mình, dân Israel vui mừng cất tiếng tung hô Ngài và còn kêu mời cả trái đất hợp tiếng tung hô nữa.
So với dân Israel, dân kitô hữu chúng ta còn được Thiên Chúa ban nhiều ơn lành hơn gấp bội. Lẽ nào chúng ta không cất tiếng tung hô Ngài ?
Bức thư 1 Pr do Thánh Phêrô gởi cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy họ cách làm chứng niềm tin giữa hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ấy :
– Khi người ta chất vấn về niềm tin của mình thì hãy sẵn sàng trả lời. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng.
– Phải sống tốt lành theo lương tâm ngay thẳng, khiến cho cuối cùng chính những kẻ bách hại cũng phải xấu hổ vì đã đối xử tệ với các tín hữu.
Trước khi đi vào cuộc chịu nạn chịu chết, Đức Giêsu an ủi các môn đệ. Ngài sẽ không bỏ các ông bơ vơ như những đứa con mồ côi, nhưng Ngài sẽ ban cho họ một Đấng phù trợ khác đến ở với họ luôn mãi, đó là Chúa Thánh Thần.
Bài đọc 2 hôm nay trích từ thư thứ nhất của Thánh Phêrô gởi các tín hữu để an ủi và khuyến khích họ giữ vững đức tin trong hoàn cảnh bị nghi kỵ, thù ghét và bách hại. Tại sao hôm nay Giáo Hội muốn cho chúng ta nghe lại đoạn thư ấy ?
Thưa vì sự bách hại, dưới hình thức này hay hình thức khác, là điều tín hữu không thể tránh nếu họ thực sự sống Tin Mừng. Ta còn có thể nói : chịu bách hại là một thành phần của việc sống đức tin. Lịch sử đã cho thấy rằng khi Giáo Hội gặp bách hại thì đức tin của tín hữu mạnh thêm ; còn khi Giáo Hội bình an thì đức tin yếu đi.
Bởi thế, trước tiên là Đức Giêsu, và kế đó là Thánh Phêrô trong đoạn thư hôm nay, không coi bách hại là một tai họa, nhưng trái lại là một mối phúc : “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,22-23).
Đức tin luôn bị xét xử ! Vì thế, khi đứng trước tòa án của dư luận, trước sự chỉ trích của những người chung quanh, người tín hữu đừng buồn và đừng sợ, nhưng hãy coi đây là dịp tốt để làm chứng về niềm hy vọng sống động của mình.
Nhưng để có thể bình thản và lạc quan như thế, chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu nói hôm nay : “Thầy không để anh em mồ côi đâu… Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho ánh em một Đấng Bào chữa khác đến với anh em luôn mãi… Ngài ở lại với anh em và trong anh em”.
*2. Chúa Thánh Thần giúp ta trở thành Kitô hữu
Ngày xưa khi các tín hữu bị bách hại ở Giêrusalem phải trốn sang Antiôkhia, họ bị dân chúng miền này mỉa mai gọi họ là “Kitô hữu”, ngụ ý đó là những kẻ khờ dại sống theo giáo lý của một tên Giêsu nào đó xưng mình là Kitô. Nhưng không ngờ cái tên “Kitô hữu” ấy lại diễn đạt rất đúng tính cách của người tín hữu. Đúng vậy, tín hữu của Đức Giêsu là người muốn bắt chước Đức Kitô đến nỗi trở thành một Kitô khác.
Nhưng làm thế nào để được như vậy ? Thưa nhờ Chúa Thánh Thần :
– Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, giúp ta ngày càng hiểu rõ Đức Kitô và những lời dạy của Ngài hơn.
– Chúa Thánh Thần là Đấng Phù trợ : Ngài ban sức mạnh giúp chúng ta sống. Sống một cách phi thường trong cuộc đời bình thường ; sống bình thản và lạc quan trong những lúc khó khăn ; sống quảng đại đang khi vác thập giá…
– Chúa Thánh Thần còn là nguồn tình yêu. Nhờ tình yêu mà Chúa Thánh Thần đổ tràn vào lòng chúng ta, cuộc sống chúng ta luôn là một màu hồng, cho dù khi thất bại, khi bị phụ bạc vô ơn, khi chịu đựng những tấn công của kẻ đố kị… giống như Đức Kitô ngày xưa trong cuộc chịu nạn.
*3. Tình yêu thể hiện bằng hành động
Yêu không chỉ là cảm xúc mà còn là sống, cho nên yêu thì tất nhiên thể hiện ra bằng hành động : hành động trước mặt người mình yêu để người ấy vui lòng ; và hành động theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt.
Bởi thế Đức Giêsu nói với các môn đệ : “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy”.
*4. “Chẳng bao lâu nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy“
Có nhiều cuộc ra đi nhưng mang những ý nghĩa khác nhau :
– Có khi ra đi là bỏ lại, như một cha từ trần ra đi bỏ lại đám con côi cút. Hôm nay Đức Giêsu ra đi không có nghĩa là Ngài bỏ chúng ta mồ côi : “Thầy sẽ không để chúng con phải mồ côi”.
– Có khi ra đi là dứt bỏ, như một tên sở khanh bỏ mặc cô gái bị hắn lường gạt mà “quất ngựa truy phong”. Hôm nay Đức Giêsu ra đi cũng không có nghĩa đó.
– Có khi ra đi là cần thiết cho lợi ích của kẻ ra đi, như một người thất nghiệp đi đến nơi khác để có việc làm. Cuộc ra đi hôm nay của Đức Giêsu là như thế, Ngài ra đi để trở về nhà Cha mình. Cuộc ra đi này rất tốt cho Ngài.
– Có khi ra đi vừa tốt cho kẻ ra đi vừa tốt cho kẻ ở lại, như một người đi làm ăn rồi một thời gian sau trở lại đem tiền về cho gia đình. Thí dụ này càng đúng hơn nữa đối với Đức Giêsu. Hôm nay Ngài ra đi để được về với Cha mình, nhưng cũng để “dọn chỗ” cho các môn đệ, rồi sau đó Ngài sẽ trở lại rước các môn đệ cùng Ngài đến chỗ mới đó.
Đức Giêsu không bao giờ bỏ chúng ta ở lại trong cảnh mồ côi thiếu thốn. Ngài để lại cho chúng ta hai trợ lực rất hữu hiệu, một là Phép Thánh Thể mà chúng ta có thể đến hằng ngày, hai là Chúa Thánh Thần vẫn luôn ở bên cạnh để hỗ trợ chúng ta từng giây từng phút.
Một ngày lộng gió, tôi đứng trên bờ biển với cảm giác ớn lạnh.
Nhưng tôi thấy những con chim biển chẳng chút sợ gì những đợt gió mạnh ấy, trái lại còn thích thú nữa.
Có lúc chúng lướt theo gió, có lúc chúng bay ngược chiều gió, chúng lao vút lên trời, rồi chúng đâm nhào xuống đất. Nhưng lúc nào chúng cũng biết vận dụng sức gió, và có thể nói sức mạnh của chúng chính là sức mạnh của gió.
Rồi tôi chợt hiểu câu nói của Đức Giêsu : “Thầy không để chúng con mồ côi. Thầy sẽ ban cho chúng con một Đấng Phù Trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần”. (Flor McCarthy, “Learning from the sea-gulls”)
CT : Anh chị em thân mến
Trung thành tuân giữ các điều răn của Chúa là phương thế tốt nhất để bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Với tâm tình mến yêu Luật Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh luôn cần nhiều vị mục tử thánh thiện và khôn ngoan / để hướng dẫn và củng cố niềm tin của dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh Thần / soi sáng và nâng đỡ các vị mục tử trong đời sống mục vụ thường ngày.
2- Hòa bình và phát triển là hai mục tiêu mà bất cứ ai đang sống trên trái đất đều mong muốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban cho thế giới một nền hòa bình thật sự / nhờ đó các quốc gia có thể phát triển / mọi người được an cư lạc nghiệp / và ấm no hạnh phúc.
3- Người kitô hữu sẽ không bao giờ dám hiên ngang sống đức tin / cũng như sẽ khó trung thành với Chúa và Hội Thánh / nếu không có Chúa Thánh Thần thúc giục và nâng đỡ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban Thánh Thần của Người / để soi sáng / hướng dẫn / và trợ giúp các tín hữu trong mọi lúc mọi nơi.
4- Điều răn Chúa là rào chắn bảo vệ người tín hữu khỏi rơi xuống vực sâu tội lỗi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn mến yêu và trung thành tuân giữ các điều răn của Chúa / nhờ đó mà tránh được những lỗi lầm tai hại.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa hòa ban Thánh Thần cho các tông đồ để các ngài đi đến tận cùng trái đất làm chứng cho Chúa. Xin cũng ban Thánh Thần, để chúng con trở nên chứng nhân can trường của Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị…
– Kinh Tiền Tụng : Nên dùng Kinh Tiền Tụng Phúc sinh 2, nhấn mạnh câu ở đoạn 2 “Nhờ Người chúng con được tái sinh làm con cái ánh sáng để sống muôn đời“
– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta những tình cảm và ước muốn giống như Đức Giêsu, để chúng ta có thể cùng với Đức Giêsu dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha sau đây.
Sau khi rời nhà thờ, chúng ta trở lại cuộc sống bình thường với mọi người khác và trước cặp mắt quan sát của người khác. Anh chị em hãy nhớ làm chứng cho mọi người thấy đức tin và niềm hy vọng của mình. Chúc anh chị em bình an.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH-A
HỨA BAN THẦN KHÍ- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các lệnh truyền Ta”. Gioan không bao giờ cho phép tình yêu thoái hóa thành tình cảm suông hay xúc động thuần túy. Tình yêu được biểu lộ trong sự vâng phục. Điều này cũng đúng cho tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha (x. 15, 10).
“Đấng Bầu chữa khác”: Được vay mượn tư ngữ văn.g pháp luật tiếng Paraklêtos chỉ người được mời tới bên cạnh bị cáo để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự: thành thử nghĩa đầu tiên là trạng sư, người biện hộ. Từ đó, ta thấy xuất hiện nghĩa “Đấng An ủi hãy Đấng chuyển cầu. Nơi Gioan thì ý nghĩa pháp lý thắng thế. Thần khí giúp đỡ các môn đồ trong vụ án vĩ đại mà thế gian đeo đuổi chống lại họ, nhưng những tiểu dị vừa nêu trên có thể áp dụng và nhấn mạnh tùy trường hợp. Theo nghĩa Chuyển cầu, thì Chúa Giêsu cũng là Paraklêtos như Thần khí. Vậy nếu chỉ có một trung gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2, 5), thì vẫn có hai Đấng bầu chữa: Chúa Giêsu, “luôn sống để cầu bầu cho chúng ta” (Dt 7,23) và Thần khí, “Đấng chuyển cầu cho ta bằng những tiếng rên khôn tả” (Rm 8, 26).
“Và Ngài ở trong các con”. Nhiều chỉ cảo và thủ sao có giá trị dùng động từ này ở thì tương lai: Ngài sẽ ở. Người ta có thể đưa ra nhiều lập luận vững chắc để bênh vực cho cả hai lập trường. Tuy nhiên, phần lớn các nhà chú giải gần đây xem ra thích cách đọc: Ngài ở hơn.
“Ta sẽ không bỏ các con mồ côi” Tiếng orphanos cũng được dùng cho các môn đồ không có thầy: xem Platon, Phédon 116a, trong đó các bạn hữu của Socrate được gọi là những orphanoi khi ông chết, và xem Lucien, De morte Peregrini 6.
“Ai yêu mến Ta, sẽ được Cha Ta vêu mến”. Gioan không muốn nói riêng tình yêu của Thiên Chúa bị lệ thuộc vào sự vâng phục của con người, điều ấy sẽ mâu thuẫn với 3, 16; 13, 34; 15, 9. 12; 17, 23. Tư tưởng của ông, trong lúc này, tập trung vào mối liên hệ hỗ tương giữa Chúa Cha, Chúa Con và các tín hữu -xem 13, 34. Bởi vì các môn đồ yêu thương lẫn nhau, nên dưới mắt người đời họ là những thành phần của gia đình Thiên Chúa; tình yêu của họ đối với Chúa Giêsu và sự hiệp nhất giữa họ với Người chứng tỏ là Chúa Cha yêu thương họ trong Người. Trước đó, xét như là thụ tạo, họ đã được Chúa Cha yêu mến rồi (1Ga 4, 10); nay với tư cách là Kitô hữu, họ còn hơn là một sự ngoại trưng của mầu nhiệm Nhập thể; họ là ngoại trưng của nhân cách tập thể của Đầu Nhiệm Thể.
KẾT LUẬN
Trong thời gian của Giáo Hội, thời gian chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn hiện diện với Cha Người và với Thần khí. Sự hiện diện ấy được thể hiện cho tất cả những ai mở lòng đón nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Nó là sự thông giao, thông hiệp, vì không phải là một hiện diện trừu tượng, “vô tính” nhưng hiện diện hỗ tương, hiện diện theo nghĩa mạnh của hạn từ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với chúng ta bây giờ gần gũi hơn, thắm thiết hơn, hữu hiệu hơn là khi Người còn tại thế, bởi vì nay Người hiện diện như Đấng được tôn vinh, như Chúa cánh chung hằng ban cho chúng ta Thần khí và làm cho chúng ta đi vào. trong sự thông hiệp đời sống với Chúa Cha. Vì vậy chúng ta phải nói đến một sự hiện diện trong khiếm diện. Nối tiếp cách hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu, có một cách hiện diện mới là hiệp nhất với Chúa Giêsu và Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*1. Trong bài Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ… Khi Chúa Giêsu nói đến một vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn cám dỗ và bách hại của thế gian.
*2. “Thần khí… mà thế gian không thể lãnh nhận Tiếng “thế gian” ở đây phải hiểu là toàn bộ các quyền lực phản nghịch với Thiên Chúa và Đấng Kitô của ngài Thần khí của thế gian này thiết yếu là một não trạng bất nhất, một bầu khí thiêng liêng nhiễm độc do nhiều sai lầm và ngu đại, do óc kiêu căng cố chấp và tự mãn ngớ ngẩn, một thái độ tâm lý và luân lý đóng kín con người lại. Thế gian ấy không tin cả đến sự khả hữu thần tính của Chúa Kitô và bởi thế cũng chẳng tin việc Thần khí ngự đến. Ở chỗ khác, Chúa Giêsu có nói là Người sẽ cầu xin Chúa Cha che chở các môn đồ người, tức chúng ta hôm nay, cho khỏi thế gian tội lỗi này.
*3.“Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
*4. Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện của Người trong nội tâm còn quý trọng hơn. Như thánh Phaolô, chúng ta không nên tiếc vì đã chẳng sống vào thời của Tin Mừng. Thật là nguy hiểm khi chỉ biết Chúa Giêsu qua những vẻ bên ngoài theo xác thịt, mà không sống mật thiết với Người trong Thần khí.
*5. Thánh Thần là hồng ân được ban cho chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người. Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói: “Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”. Quả thế, không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba, Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”. Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH-A
SỰ SỐNG MỚI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.
Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.
Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.
Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.
Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.
Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?
2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?
3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?
TRỞ NÊN HÌNH ẢNH CHÚA GIÊSU- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?
Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”
Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha…
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.
* * *
Thánh Athanasiô đã diễn tả chân lý nầy như sau: “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn… Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi… Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là… Bố.
Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói “Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu.”
Cậu thanh niên thưa lại: “Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?”
Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: “Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!”
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: “Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!”
Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A
CHÚA GIÊSU KHÔNG ĐỂ CÁC ĐỒ ĐỆ MỒ CÔI– Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước (Ga 14, 1-12) nói về cộng đoàn các đồ đệ của Đức Giêsu trong hành trình đi đến cùng Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 15-21) sẽ nói về sự gắn bó nên một của cộng đoàn và của từng thành viên trong cộng đoàn với Thiên Chúa.
*1. Thần Khí sự thật luôn ở giữa cộng đoàn (cc.15-17)
Sự hiện diện thể lý và thế tạm của Đức Giêsu giữa cộng đoàn các đồ đệ sẽ chấm dứt. Nhưng Thần Khí sự thật sẽ được Chúa Cha sai đến, để Người ở mãi với các đồ đệ, ở bên cạnh và ở trong các đồ đệ.
Trước khi nói đến việc Thần Khí sự thật đến, Đức Giêsu nói đến tình yêu của các đồ đệ đối với Người, và về sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn của Người: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Tình yêu đối với Đức Giêsu là điều kiện để giữ các điều răn của Người (nếu A thì B), và đàng khác, việc thực hiện những lệnh truyền của Đức Giêsu sẽ là bằng chứng của tình yêu đối với Người (c. 21: Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy).
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu nói về tình yêu của các đồ đệ đối với Người. Lòng tin vào Chúa Giêsu đạt đến đỉnh cao trong sự gắn bó thiết thân và đầy tình yêu mến đối với Người. Sự gắn bó ấy được thể hiện trong việc thực hiện những điều răn của Người. Ở 13,34 Đức Giêsu nói về điều răn mới của Người, và bây giờ, Người nói về “các điều răn” của Người (14,15.21; 15,10). Điều răn mới (“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”) là mẫu gộp tóm tất cả mọi điều răn khác. Và tuân giữ các điều răn là đón nhận trong lòng tin toàn bộ Lời của Đức Giêsu và ký thác bản thân cho Người (x. 14, 23-24).
Với các đồ đệ yêu mến Đức Giêsu như thế, Người hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.
Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Người sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn đồ đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14,26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các đồ đệ (15,26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16,14). Còn trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).
Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác. Khi còn ở với các đồ đệ, Đức Giêsu gìn giữ, bảo vệ và dạy dỗ họ (17,12). Từ nay, Thánh Thần sẽ đảm nhận vai trò đó.
Người là Thần Khí sự thật. Có hai cách hiểu danh ngữ “Thần Khí sự thật” (to pneuma tês alêtheias): (1) Thần Khí là sự thật; và (2) Thần Khí thông ban sự thật. Cũng có thể hiểu theo nghĩa Thần Khí là sự thật, thông ban sự thật và làm cho sống trong sự thật. Trong tư cách là Thần Khí sự thật, Người cũng là Thần Khí giải thoát, vì sự thật đem đến sự giải thoát (8,31-32).
Thế gian không biết Thần Khí sự thật. Người là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người” (c.17b). Hạn từ “thế gian” ở đây được sử dụng theo nghĩa xấu, chỉ trật tự bất chính, đối nghịch với Thiên Chúa. Thế gian này tin tưởng vào sự dối trá và kềm hãm con người trong bóng tối của sự dối trá. Nó phục tùng ma quỷ. “Ngay từ đầu, ma quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (8,44). Vì vậy, thế gian không thể biết Thần Khí sự thật và càng không thể đón nhận Thần Khí sự thật.
“Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (c.17c). Các đồ đệ biết Thần Khí sự thật là nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đấng ở trong Chúa Cha (14,10). Một khi được Đức Giêsu sai đến (7,39), Thần Khí sẽ luôn ở giữa các đồ đệ và ở trong mỗi đồ đệ.
*2. Chúa Giêsu trở lại và cộng đoàn được Chúa Cha yêu mến (cc.18-21)
Đứng trước sự ra đi của Đức Giêsu, các đồ đệ xao xuyến (x. 14,1). Vì thế, khi chuẩn bị cho các đồ đệ đối diện với thực tại là sự vắng mặt của Người, Đức Giêsu muốn giúp các ông tránh khỏi sự xao xuyến ấy. Người tuyên bố: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (cc.18-19).
Đức Giêsu sẽ không bỏ các đồ đệ mồ côi. Hạn từ “mồ côi” mang một sắc thái nghĩa khá đặc biệt trong Cựu Ước. Kẻ mồ côi được hình dung như là một dạng điển hình cho những người không có ai bảo vệ và luôn phải đối diện với nguy cơ bị đối xử một cách bất công (x. Is 1,17-23; 10,2; Gr 5,28; 7,6; 22,3; Ed 22,7; Hs 14,4). Đức Giêsu hứa rằng Người sẽ không để các đồ đệ rơi vào tình trạng bi đát đó.
Đức Giêsu đang đi đến cái chết. Nhưng sự vắng mặt của Người sẽ không phải là một tình trạng vĩnh viễn. Người hứa sẽ đến cùng các đồ đệ. Có lẽ nên hiểu cặp đối lập “thấy – không thấy” ở đây trong liên kết với cắp “tỏ mình ra – không tỏ mình ra” trong 14, 21-22. Thế gian sẽ không còn được thấy Đức Giêsu sau khi Người đi vào cõi chết là bởi vì Người không tỏ mình ra cho thế gian. Nhưng các đồ đệ sẽ được thấy Người, vì Người yêu mến họ và tỏ mình cho họ, như lời Người sẽ nói ở cuối bài Tin MỪng: “Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (c.21c).
Thực tại “thấy” Đức Giêsu lại được miêu tả như là sự hiệp thông sự sống với Người. “Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (c.19). “Thấy” ở đây, như thế, là tham dự vào sự sống của chính Đức Giêsu.
“Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha của Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (c.20). Đó là kết quả của sự tình các độ đệ được tham dự vào sự sống của Đức Giêsu. Đó cũng chính là hiệu quả của việc Đức Giêsu ban Thần Khí cho các đồ đệ. Thần Khí, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và làm chứng về Chúa Giêsu (15,26) sẽ làm cho các đồ đệ biết rằng Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30), tức là biết rằng “Thầy ở trong Cha của Thầy”. Và các đồ đệ, trong Thần Khí sự thật, sẽ nên một với Đức Giêsu. Khi ấy, “anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”.
Sự gắn bó nên một như thế với Chúa Giêsu chính là điều kiện để các đồ đệ tuân giữ các điều răn của Người, như đã được khẳng định từ câu đầu tiên của bài Tin Mừng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Và đàng khác, “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (c.21a). Tình yêu đối với Đức Giêsu hệ tại ở chỗ người đồ đệ sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử.
Khi ấy, chính người đồ đệ sẽ được Chúa Cha yêu mến: “Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến” (c.21b). Chúa Cha yêu mến họ bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Đức Giêsu. Trong lời cầu nguyện ở Ga 17, Đức Giêsu thưa với Chúa Cha như sau về các đồ đệ của Người: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (17,23).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
*1. Tình yêu đích thực đối với Đức Giêsu hệ tại ở sự thi hành ý muốn của Đức Giêsu. Ý muốn ấy được thể hiện trong Lời của Người và trong các điều răn của Người. Ai yêu mến Đức Giêsu thì thực hiện các lệnh truyền của Người (x. c.21). Và đàng khác, chính trong lòng yêu mến đối với Đức Giêsu mà chúng ta mới có thể sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử (x.c.15). Hai yếu tố “yêu mến Đức Giêsu” và “tuân giữ lời Đức Giêsu” có mối tương quan biện chứng.
*2. Thần Khí sự thật được Chúa Cha ban cho các đồ đệ yêu mến Chúa Giêsu. Người là sự thật và Người thông ban sự thật, giúp các đồ đệ sống trong sự thật của Chúa Giêsu. Người là Đấng Bảo Trợ, sẽ dạy dỗ, bảo vệ, hướng dẫn… các đồ đệ của Chúa Giêsu.
*3. Chúa Giêsu hứa không để các đồ đệ mồ côi. Ở giữa thế gian, họ có thể sẽ phải hiện diện như là đối tượng của những cách hành xử bất công, bạo tàn. Nhưng Chúa Giêsu luôn đến với họ và cho họ được hiệp thông với chính sự sống thần linh của Người. Chính nhờ đức tin mà các đồ đệ sẽ cảm nghiệm sâu xa sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và sẽ được hưởng sự sống của Người.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH-A
ĐI VÀO TÌNH YÊU ĐỨC GIÊSU KITÔ- Lm. An tôn Pađua Trần Liên Sơn
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Đức Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Đức Giêsu Kitô, là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Đức Giêsu truyền dạy, là vâng lời.
Đó chính là bí quyết Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta thử hình dung cảnh tượng chia ly vĩnh biệt giữa những người thân trong gia đình, kẻ đi người ở: nếu người phải ra đi là người có trách nhiệm trong gia đình đó, thì họ sẽ làm gì, nói gì để có thể an tâm ra đi trước những lo lắng xao xuyến của những người thân còn ở lại?
Toàn bộ Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đặt ta trong một khung cảnh tương tự. Với khung cảnh chuẩn bị cho sự ra đi gần kề của Chúa Giêsu trong Lễ Thăng Thiên, Giáo Hội cho ta nghe bài Tin Mừng của Thánh Gioan, nói đến lời hứa của Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các tông đồ một khi Ngài từ giã các ông, để chính Chúa Thánh Thần tiếp tục nâng đỡ các ông và Giáo Hội trong hành trình giữa thế gian, và biến đổi họ nên những chứng nhân của Đức Kitô, Đấng đã phục Sinh (bài đọc 1&2).
Đặt mình vào tâm trạng của các tông đồ trong bữa tiệc ly, khi phải đối diện với sự ra đi gần kề của Chúa Giêsu, có lẽ ta gặp được ở đó nỗi hoang mang, lo lắng trước một tương lai xem ra vô định, nỗi băn khoăn xao xuyến vì khoảng trống vắng sự hiện diện thường xuyên của vị Thầy. Thấy được tất cả tâm trạng đó của họ, Chúa Giêsu đã an ủi và trăn trối với họ:”Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần khí sự thật,…” (Ga 14, 15-17a).
Đấng Bầu Chữa khác, Đấng là Thần khí sự thật, đó chính là Chúa Thánh Thần ngôi Ba. Người được hứa ban và gửi đến cho các tông đồ ngay liền với sự ra đi của Chúa Giêsu. Và từ đó, một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa được mở ra, để khai mở một sự hiện diện mới của Thiên Chúa. Sự thật, Thiên Chúa không ngừng hiện diện giữa nhân loại. Trong Cựu ước, Người đã hiện diện bằng lời quyền năng của Người. Đến thời Tân ước, Người đã hiện diện bằng chính Ngôi Lời trở thành xác phàm, và bây giờ Người tiếp tục hiện diện bằng Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu giới thiệu là Đấng Bàu chữa khác, là Thánh Thần Chân lý.
Trước hết, Chúa Thánh Thần được giới thiệu là Đấng Bàu chữa khác. KHÁC, vì chính Chúa Giêsu đã là Đấng bầu chữa, và hôm nay Ngài vẫn tiếp tục chức năng đó bên Tòa Thiên Chúa Cha. Trước khi từ biệt các tông đồ ra đi, Chúa Giêsu đã hứa gửi đến cho họ một Đấng bầu chữa khác để nâng đỡ, trợ giúp và biện hộ cho họ giữa lòng thế gian, và để biến họ thành chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh.
Chẳng phải vô tình mà Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chọn bài đọc 1 trong sách CVTĐ, vốn là bài tường thuật việc dân Samari trở lại đón nhận niềm tin vào Chúa Giêsu. Lúc ấy, Hội thánh ở Giêrusalem đã phải trải qua những cơn bách hại nặng nề, các kitô hữu phải tản mác về các vùng quê. Trong một hoàn cảnh tương tự, lẽ ra người ta chỉ còn biết than van và khóc lóc. Ấy thế mà chính những bước đi phiêu bạt đó lại đã trở thành những bước đi gieo rắc Tin Mừng, chính cảnh ly tán ấy lại là thời cơ thuận tiện để thu họp muôn dân. Và cũng chính nhờ cơ hội đó, dân Samari ngoại đạo đã được nghe nói về Chúa Giêsu và tin vào Người. Được như thế là vì ẩn khuất trong những bước đi phiêu bạt mà thế gian áp đặt bằng quyền lực của nó, lại vẫn luôn hiện diện bước đi linh diệu của Chúa Thánh Thần với vai trò nâng đỡ, trợ giúp, bàu chữa những người môn đệ của Đức Kitô.
Chúa Thánh Thần còn được gọi là Thánh Thần CHÂN LÝ. Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất đã gọi Thánh Thần là Chân lý. Đấng an ủi, Đấng Bầu chữa liên kết với Chân Lý. Gọi là Thánh Thần Chân Lý vì chính Ngài là Đấng dẫn đưa các môn đệ vào tất cả sự thật, nghiã là đưa các ông đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Giêsu, vì sự Thật ấy chính là Chúa Giêsu, như chính Người đã nói trước mặt Philatô:”Sự Thật chính là Ta”. Mầu nhiệm ấy, thế gian đã không đón nhận, vì đối với họ, tất cả cũng chỉ là điên rồ và khờ dại (x. 1Co 1,23). Và ngay cả các tông đồ cũng không hoàn toàn lĩnh hội mầu nhiệm ấy. Chính vì thế, trước biến cố khổ nạn thập giá, các ông chỉ nghĩ đến chuyện chạy trốn, hoang mang và thất vọng. Nhưng một khi Chúa Thánh Thần đã được gửi đến cho các ông, lúc đó các ông mới nắm bắt được tất cả sự thật, và hiểu được tất cả vinh quang của Thập giá Đức Kitô, để rồi từ đó, dám gắn bó hơn với sự thật đó, dám hiến cả cuộc đời mình để làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại.
Anh chị em thân mến,
Ngày hôm nay chúng ta đang sống chính tâm trạng của các tông đồ lúc Chúa Giêsu sắp từ biệt họ. Cũng như các tông đồ xưa, tự sức chúng ta, chúng ta cũng không hiểu được tất cả mầu nhiệm của thập giá Đức kitô. Tâm trí chúng ta vẫn còn bị đóng khung trong những cái nhìn rất hạn hẹp: chúng ta khó lòng tin nhận mầu nhiệm Chúa Giêsu, chúng ta không xác tín vinh quang của Thập giá trong chính cuộc sống của chúng ta. Và như thế một cuộc xét xử mà các môn đệ đích thực của Chúa Giêsu vẫn phải luôn ra hầu toà là cuộc xét xử chân lý, và thực sự đó là cuộc xét xử chính Thiên Chúa, với nhiều hình thức tố cáo khác nhau: đó có thể là những phiền nhiễu đủ loại, những cảnh bắt bớ, cấm cách, đó cũng có thể là những tuyên truyền vô tín hay những dửng dưng thanh thản, những chế nhạo tinh tế, mà đó cũng có thể là những hình thức lôi kéo, cuốn hút người môn đệ của Đức Kitô vào trong những gì là hưởng thụ, vật chất và tục hóa.
Thì cũng ngày hôm nay, chúng ta phải luôn xác tín rằng cũng một Chúa Thánh Thần đang tác động trong ta, đang tiếp tục nâng đỡ, bầu chữa và hướng dẫn ta vào tất cả sự thật của Mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Chính Chúa Thánh Thần đang dẫn đưa tâm hồn mỗi người chúng ta vào mầu nhiệm Chúa Giêsu, để rồi càng thấm nhuần, chúng ta càng có khả năng làm chứng về Người, sẵn sàng đáp trả cho bất cứ ai tra vấn về niềm tin và niềm hi vọng chúng ta đang ấp ủ, qua chính cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác phục vụ của chúng ta.
Sứ mạng ấy quả là cao cả, nhưng cũng không thiếu khó khăn và trở ngại khi chúng ta phải làm chứng cho Chúa Kitô giữa một thế gian được xem là thù nghịch với mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô, nhưng nhất là khi toà án tra tấn Đức Kitô lại được dựng nên ngay trong chính cuộc sống và trong lòng của mỗi người chúng ta, mà ở đó người kết án buộc tội chết cho Đức Kitô không ai khác hơn lại là chính chúng ta. Đó là những khi chúng ta đã để cho những ích kỷ của chúng ta giết chết tình yêu, những khi chúng ta chọn những tiện nghi nho nhỏ của chúng ta thay vì chọn phục vụ Thiên Chúa, đó cũng là những lúc chúng ta đã để cho những ươn hèn lười biếng nơi chúng ta bóp chết tất cả mọi nhuệ khí của yêu thương và phục vụ, khi chúng ta an tâm với một cuộc sống hưởng thụ, khi chúng ta thờ ơ với những khao khát sự thật nơi các tâm hồn.
Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và sự hiện diện mới mẻ của Đức Kitô. Điều quan trọng là mỗi người trong chúng ta luôn biết sẵn sàng lắng nghe những lời chỉ bảo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để từ đó, với việc tuân giữ những điều Chúa truyền dạy, chúng ta luôn khám phá và tìm thấy sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, như một ngọn lửa đang soi sáng và sưởi ấm cuộc sống đều đặn và tầm thường của chúng ta, như một sức sống không hề cạn giữa những mệt mỏi và nghi nan của cuộc đời chứng tá của chúng ta.
Trong Mùa Phục Sinh này, chúng ta hãy năng nhớ tới Đấng Bảo Trợ và van xin Ngài ban cho chúng ta được ơn đức tin và yêu mến Chúa. Hãy xin Ngài ơn khôn ngoan và ơn can đảm để chúng ta dám loan truyền và làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chu toàn sứ điệp mà Chúa đã trao cho mỗi người trong nhiệm vụ làm cha mẹ, hoặc con cái trong gia đình. Và nhất là chúng ta hãy xin cho có một tâm tình yêu mến và trái tim luôn luôn mở rộng để đón mừng lễ Chúa Thánh Thần. Amen.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- A
YÊU MẾN CHÚA- Lm. Giacobe Phạm Văn Phượng
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn của Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Như vậy, yêu mến Chúa thì giữ các điều răn, và ngược lại, giữ các điều răn là yêu mến Chúa.
Các điều răn Chúa nói là gì? và giữ các điều răn thế nào để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa? Hiểu theo nghĩa chặt, đó là bản Giao Ước được ghi vào bia đá. Bản Giao Ước đó chính là Mười Điều Răn, mà dân Do Thái gọi là “Những lời của Giao Ước” hoặc “Mười Lời”. Hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những điều Thiên Chúa truyền dạy. Ngày nay, đạo của chúng ta cũng dạy rất nhiều điều: nào là Tin Mừng, nào là mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, nào là luật Giáo Hội. Trong tất cả những luật ấy, chúng ta không biết điều nào là chính điều nào là phụ, sự phân vân thắc mắc đó, ngay từ xưa chính Chúa Giêsu đã giải đáp: điều chính, điều quan trọng nhất, tóm tắt tất cả những gì mọi Kitô hữu phải giữ và thực hành, đó là điều răn yêu mến: mến Chúa yêu người. Ai giữ hai điều này thì kể là giữ tất cả những điều khác, trái lại, ai giữ tất cả những điều khác mà không thực hành lòng mến Chúa yêu người thì kể như không giữ gì cả.
Tóm lại, người Kitô có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không là đủ. Nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.
Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm lấy áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan toà truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.
Nghe qua câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ cười chê thái độ ích kỷ, keo kiệt, vớ vẫn của người bán thịt, thế nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã cư xử với tha nhân như thế. Việt Nam chúng ta có câu chuyện về một người cha tham ăn đang nướng mấy con cá, người mẹ dỗ dành vỗ về đứa con nhỏ khóc đòi ăn: “Nín đi, để xem có con nào nhỏ rồi ba cho”. Anh chồng quát lên: “Cho cái gì? không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau”.
Tình thương không chia sẻ, không liên đời là tình thương không mạnh đủ hay là tình thương không có thật. Trước những nhu cầu bức thiết của người anh em, nhiều người đã tránh né, chạy trốn bằng những câu trả lời: “Chừng nào tôi đủ ăn, dư mặc tôi sẽ cho”, hay “Để lúc khác, bây giờ tôi không có thời giờ”. Và cái lúc khác sẽ không bao giờ đến, vì người ta có trăm ngàn lý do để biện minh cho thái độ thiếu lòng thông cảm, thiếu tình thương của mình.
Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất là điều răn yêu người. Chúng ta hãy sống thế nào để tỏ lòng yêu mến Chúa không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín rằng: chỉ bằng cuộc sống yêu thương chúng ta mới thực sự làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
THẦN KHÍ HƯỚNG DẪN- Lm. Jos. Quốc Phong
“Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại”
Tất cả mọi người chúng ta hẳn đã có kinh nghiệm ít nhiều về cuộc sống, và mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm và sự đau khổ và mất mát. Sự đau khổ có thể đến từ nhiều con đường khác nhau: có thể từ gia đình, trường học, sở làm việc, và có thể đến từ chính nội tâm chúng ta. Tất cả những sự đau khổ và cùng cực đó làm cho trái tim chúng ta đau đớn, làm cho cuộc sống chúng ta cảm thấy bất hạnh, làm cho tương lai của chúng ta mù mịt, khiến những bước đi trong hiện tại trở nên nặng nề, và đôi khi trái tim đau đến nghẹn thở… nó làm chúng ta cảm thấy sợ hãi và căng thẳng, lo lắng và bất an…
Có một anh chàng cử nhân nọ, sau khi tốt nghiệp và cầm trên tay một mảnh bằng ngon lành với một chút tự hào và hạnh phúc. Anh càng tự hào hơn khi anh nghĩ rằng mình từ bỏ danh vọng để dấn thân đi theo Chúa trên con đường thánh hiến. Cuộc sống ơn gọi của anh trong những năm đầu rất thuận lợi, tất cả dường như đi theo đúng kế hoạch và chỉ tiêu do anh ta suy nghĩ và phác thảo, như thể sự vận hành của một cỗ máy cho ra sản phẩm đúng như bản vẽ. Nhưng một ngày nào đó, một số vấn đề đã xảy ra, những kế hoạch bị đảo lộn, và không còn vận hành theo ý của anh được nữa, thậm chí anh đã thất bại, và thất bại rất thảm hại. Và đã có lúc anh đã muốn bỏ cuộc vì không thể chấp nhận nổi chính mình. Tất cả các chương trình và kế hoạch của anh ta dường như tan tành theo mây khói, không có chi cứu nổi. Anh tự suy nghĩ phương pháp để sửa chữa thì nó càng sai lầm và bế tắc. Anh đã vô cùng đau khổ và khủng hoảng…
Sau đó anh cầu nguyện và cầu nguyện thật nhiều, ngày này sang ngày kia, tháng này qua tháng nọ, ròng rã trong suốt 2 năm trời … anh mới nhận ra được một chút ánh sáng. Một trong những sai lầm của anh là đã dựa vào mình quá nhiều, đã tin tưởng vào khả năng của mình, vào những kế hoạch do ý muốn của riêng mình. Đời sống cầu nguyện của anh đó là gần gũi với Chúa để xin Chúa chúc lành và giúp đỡ để kế hoạch của anh ta được toại nguyện, “kế hoạch nên thánh” của anh. Sau khi bị khủng hoảng, anh mới hiểu ra rằng, anh phải thay đổi lại cách thế suy nghĩ, và nhất là thay đổi lại tương quan với Thiên Chúa. Anh phải lắng nghe và nhận ra được kế hoạch mà Chúa muốn mời gọi anh, và việc anh phải làm là dấn thân vào kế hoạch của Ngài: “Xin cho Ý của Cha được nên trọn”. Sau khi đã chết đi cho chính mình, chết đi cho một tinh thần cũ, anh đã được phục sinh, bắt đầu lại một cuộc sống mới, một bước đường mới với một ánh sáng mới “xin cho Ý của Cha được thể hiện”.
Lương thực thật sự làm cho chúng ta sống và sống dồi dào, không phải là một đời sống vật chất sung túc, cũng không phải là một đầu óc thông minh sáng tạo có khả năng chế tạo hay phát minh ra những điều mới mẻ, cũng không phải là một sự tổ chức, quản lý chặt chẽ, …lương thực thật sự có khả năng làm cho chúng ta sống hạnh phúc, mang lại cho chúng ta một đại dương của sự bình an đó chính là được đụng chạm đến “Thiên Chúa”, được ở lại trong Ngài và Ngài ở lại trong chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu đã phán rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn của Thầy. Và thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”. Điều kiện mà Chúa Gesu đã đưa ra là “hãy giữ giới răn của Thầy” thì Thầy sẽ ở người ấy, Thầy sẽ yêu người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Giới răn của Thầy chính là “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Hãy sống yêu thương trong sự thật, sống trong Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta sẽ đụng chạm và ở lại trong tình thương của Ngài. Trích sách tông đồ công vụ, thánh Philipphê đầy tràn Thánh Thần đi xuống sứ Samaria để rao giảng Đức Kitô và làm nhiều phép lạ. Có Thần Khí ở cùng, thánh Phipipphê đã thực sự sống và sống sung mãn. Chính sức sống mãnh liệt đó làm cho ngài có khả năng lướt thắng hết mọi thách đố và khó khăn, để rao giảng một niềm vui to lớn đến nỗi không thể nào không loan truyền cho mọi người. Trong bài đọc hai, Đức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi của chúng ta, Ngài đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại. Thần Khí của Thiên Chúa là nguồn mạnh của sự sống, Đấng làm cho chúng ta sống và sống dồi dào.
Thiên Chúa chính là nguồn mạch của sự sống và sự sống đời đời. Chỉ có ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì chúng ta mới có được sự sống thật sự. Những gì thế gian chào mời chúng ta bằng những sự quảng cáo đủ màu sắc và nhiều lời hứa ngon ngọt, không có khả năng đem lại cho chúng ta một sự sống thật sự trong chân lý và trong an bình. Những gì của thế gian chỉ có thể đáp ứng để thỏa mãn những cơn đói bên ngoài. Hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự can đảm để chúng ta có đủ sức mạnh lột bỏ hết các tất cả các mặt nạ, các bức tường đã ngăn cản và che đi “khuôn mặt thật” của chúng ta, đó là khuôn mặt giống Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là Chân Lý Vĩnh Cửu mới có khả năng thỏa mãn cơn đói tinh thần, cơn đói linh hồn vĩnh cửu của chúng ta, vì Ngài chính là Đấng Tạo Hóa, là Nguồn Mạch Bình An vĩnh cửu.
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH- A
Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU– Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Tình yêu, một đề tài rất xưa và cũng là một đề tài rất mới. Rất xưa bởi vì, từ khi có con người đã có tình yêu, rất mới cũng bởi vì tình yêu vẫn là sự sống động trong thế giới hôm nay. Rất mới và rất cũ nhưng chẳng thể nào có thể hiểu nổi được tình yêu, tình yêu có muôn mặt của thủy chung và những bội phản, sự thực và lừa dối, tinh khiết và hoen úa, ngọt lịm và cay đắng. Tình yêu là một chủ đề hao tốn giấy mực và cũng hao gầy nhiều thân phận.
“Ở lại trong Tình Yêu của Thầy” Ga 14 là một chủ đề quan trọng và cũng tìm thấy trong di chúc của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Chúng ta chỉ thực sự yêu thương khi ở lại trong Tình Yêu của Thiên Chúa.
Tình Yêu tiếng nói của Chúa Thánh Thần:
Tình yêu bao giờ cũng có những thể hiện bằng hành động: Hành động đầu tiên và trước tiên đó là sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa là sự khai mở, đó là bản chất của Tình Yêu. Sáng tạo là sự khai mở của Thiên Chúa để đưa các loài được tạo thành được tham dự vào hạnh phúc của Thiên Chúa. Các loài thụ tạo của Thiên Chúa được chia sẻ vinh quang của Người. Tình yêu đúng nghĩa bao giờ cũng là tình yêu mang đến hạnh phúc cho người mình yêu. Hạnh phúc không chỉ là một lời hứa mà còn là một con đường. Thiên Chúa đã đề nghị một con đường, con đường ấy là “Thực thi ý muốn của Thiên Chúa”; qua con đường giới răn thực thi ý muốn của Thiên Chúa mở ra con đường đối thoại tình yêu. Tình yêu làm nên những cái mới, chính là tác động của Chúa Thánh Thần, “Thần Khí ban sự sống” là gió là hơi thở của sự sống. Là gió là hơi thở “Chúa hà hơi, súc vật được sáng tạo và Ngài đổi mới mặt địa cầu” (Tv 104, 30). Hơi hở thần linh làm cho mùa màng được dồi dào thuận lợi, thời tiết thuận hòa, con người được vui sống. Ở lại trong Tình yêu nghĩa là ở lại trong sự sống Thánh Thần ban tặng, sống dồi dào nhờ hít thở trong bầu khí Thần Linh.
Thần Khí mới – Trái Tim mới:
Trái tim gợi lên đời sống tình cảm, người Do Thái quan niệm trái tim như tất cả những gì thuộc về nội tâm của con người. Đông Phương gọi đó là cái Tâm, Tâm vừa đóng vai trò chính của con người vừa là nơi xuất phát mọi hành vi của con người cũng như là nơi thụ nhận tất cả những gì thế giới giác quan mang lại. Tâm còn là nơi xuất phát niềm vui và hy vọng, dự định và kết quả một hành trình. Ở lại trong Tình Yêu, một lời mời gọi mang lấy và sống trong trái tim của Thiên Chúa. Châm ngôn nhắc tới: “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh.” (Cn 4, 27). Trái tim còn là sự hiểu biết khôn ngoan: “Người ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ” (Hc 17, 6). Trong Thánh Thần chúng ta được sống và sự sống được hướng dẫn bằng Thần trí khôn ngoan, thông minh, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, dũng cảm và kính sợ. Ở lại trong Thầy mang một ý nghĩa đặc biệt trong vương quốc Thiên Chúa, những ân huệ của Chúa Thánh Thần làm nên một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hạnh phúc và thánh thiện.
Trái tim chai đá. Con người thích theo lối sống của mình, ưa thich tìm những lạc thú làm cho mỗi ngày trái tim trở nên chai cứng hơn. Trong đời sống của dân Thiên Chúa chọn cũng xảy ra tình trạng tráo trở này để ru ngủ mình trong tội lỗi bằng những phụng tự bên ngoài (Am 5, 21) với những lời lẽ sáo rỗng (Tv 78, 36) và bị lên án “dân này thờ Ta bằng môi miệng, còn tâm hồn thì xa Ta” (Is 29, 13). Con người quyến luyến trong tội lỗi, bởi chẳng cần nỗ lực để sống thánh, chẳng cần thanh lọc để trở nên tinh trong, mặc dù vẫn biệt hậu quả của tội lỗi là đau khổ là sự chết, nhưng thà rằng như thế còn hơn là liên lạc với Thiên Chúa nghĩa là “liều bỏ tấm lòng mình” (Gier 30, 21). Trái tim xơ cứng chai đá của con người đã đến lúc cần phải đập vỡ nó ra, nhưng ý muốn ấy chỉ có thể đến từ phía con người, khi con người nhận ra mình không còn đủ sức chấp nhận đau khổ, bất hạnh và sự chết.
Cần có một quả tim mới: Khao khát này xuất phát từ nơi thẳm sâu đau khổ của tội lỗi gây nên, nếu không muốn trở thành con người cam chịu số phận. Con người đọc qua lịch sử của dân Israel và lịch sử đời mình hiểu rằng tôn giáo bề ngoài là một thứ tôn giáo bào mòn lòng yêu mến. Muốn thực sự thoát ra khỏi trái tim xơ cứng cần có một thay đổi quyết liệt, “tìm kiếm Thiên Chúa với tất cả tâm hồn” (Đnl 4, 29), muốn đầy đủ sức mạnh để chiến thắng sức ì của bản thân cần “Gắn chặt tấm lòng vào Giavê” (1Sm 7, 3) để thắp lên trong trái tim ngọn lửa “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức” (Đnl 6, 5).
Khao khát là vậy, lý tưởng là thế, nhưng vẫn chẳng thoát ra ngoài được con tim giả dối, tấm lòng bất trung từ nguyên thủy, chỉ còn có thể đến với Thiên Chúa “với tấm lòng tan nát rã rời” (Tv 51, 19) một tấm lòng tan nát khiêm cung để khấn xin Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần con nên chung thủy” (Tv 51, 12).
Tình yêu không bao giờ là hủy diệt, Tình yêu luôn luôn là một chữa lành, rất nhiều người không biết Thiên Chúa rất lạ lẫm khi thấy những con người Kitô giáo vượt qua được thảm trạng tội lỗi của mình, mặc dầu đã biết rằng, những người ấy trước kia là một người tội lỗi, xấu xa, đê tiện. Điều rất lạ ấy xảy ra không chỉ do trái tim tan nát rã rời của hối nhân mà còn nguyên do sức mạnh từ nơi Thiên Chúa đã thực hiện cho con người khiêm nhượng “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi và Ta sẽ ban cho các ngươi trái tim mới, đặt vào lòng trí các ngươi một thần trì mới; cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá và ban tặng trái tim bằng thịt” (Ez 36, 25). Không có sức mạnh Thiên Chúa, thắng được chính mình chỉ là ảo tưởng và đôi khi trở nên quá khích khi diệt mất chính mình.
Chúa Giêsu hứa ban Thánh Thần và mời gọi ở lại trong Tình Yêu của Thầy, đó là một lời gọi đích thật để trái tim được tự do khỏi tội, để tấm lòng an vui hạnh phúc thật sự khi không còn bóng dáng tội lỗi, Chúa Giêsu chính là trái tim mới được ban cho nhân loại, và Thánh Thần là Đấng ban thần trí mới cho chúng ta.
Xin cho những bước chân đi hoang của con người chúng con vào những lúc bế tắc không nơi trọ, không nơi đón nhận, thì xin cho chúng con cũng biết khiêm cung với tấm lòng tan nát ở lại, lưu trú trong Tình Yêu của Người vì Tình Yêu của Người đón nhận, chịu đựng, hy sinh tha thứ và yêu thương tất cả.