CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CHO CHIÊN ĐƯỢC SỐNG(*)– Chú giải của Noel Quession. 6
ĐỨC GIÊSU: MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN- Chú giải của Fiches Dominicales 13
CỬA CHUỒNG CHIÊN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông 19
SỐNG THEO SỰ DẪN DẮT CỦA VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 29
CỬA CHUỒNG CHIÊN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 38
CỬA CHUỒNG CHIÊN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 42
ƠN GỌI THÁNH HIẾN- Lm. Dom. Trần Quang Hiền. 47
CHÚA CHIÊN LÀNH– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 51
MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. G. Nguyễn Cao Luật 54
MỤC TỬ CHÂN CHÍNH- Lm. Trần Xuân Lãm.. 60
CHÚA CHIÊN CỦA TÔI- Lm. Gioan Vũ Nghi 62
“CÁC MỤC TỬ HÃY GẦN GŨI VỚI DÂN CHÚA”– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 66
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Ðấng Kitô”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô”.
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: “Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?” Phêrô nói với họ: “Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến”. Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: “Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này”. Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. – Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. – Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. – Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. – Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 20b-25
“Anh em đã trở về cùng Ðấng canh giữ linh hồn anh em”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 1-10
“Ta là cửa chuồng chiên”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-A
CHO CHIÊN ĐƯỢC SỐNG(*)– Chú giải của Noel Quession
Trong Chúa nhật IV Phục Sinh này, Giáo Hội mời gọi chúng ta “cầu nguyện cho các ơn gọi” và mỗi năm đề nghị chúng ta đọc một đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan về “Vị mục tử nhân lành”
Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp
Trên những đồi núi vùng Galilê và Giuđê, người ta thấy khắp nơi có những người chăn chiên, những mục tử. Ban ngày họ cho đàn chiên ăn cỏ trên những đồng cỏ hiếm hoi mọc ở giữa những đống đá của các ngọn đồi. Ban đêm, nhiều mục tử đồng ý với nhau tập họp đàn chiên của họ vào chung một khu đất có vây tường, làm bằng những tảng đá nhỏ ở đây, Đức Giêsu giới thiệu với chúng ta hai nhân vật rất tương phản: mục tử và kẻ trộm. Chính cách họ vào ràn chiên mà người ta phân biệt được họ! Kẻ trộm trèo qua rào. Còn người mục tử đi qua cửa mà vào. Ngay từ đầu chúng ta không thấy những hình ảnh thơ mộng nào cả như vẫn thoáng thấy ở các đề tài về đồng quê!
Chuồng cừu đối với Đức Giêsu không phải là một nơi ngọt ngào và thơ mộng mà là một nơi phải tự bảo vệ chống lại trộm cướp. Chúng ta chớ quên rằng bài giảng này của Đức Giêsu rất bút chiến. Đây là phần tiếp nối cuộc đối đầu bi đát khi Người chữa lành một người mù từ thuở mới sinh. Anh này bị đối xử tệ hại như một con chiên đáng thương bị người ta đánh đập chỉ vì nó tật nguyền.
Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh
Vậy, Đức Giêsu đặt đối lập những “mục tử giả hiệu” kẻ trộm cướp, khoe rằng mình hướng dẫn những người khác nhưng không được ủy nhiệm chân chính, với “mục tử chân thật” đi qua cửa để vào một cách quang minh chính đại, được người gác đã cho vào. Chúng ta chớ vội bỏ qua người gác cửa này. Tất cả Tin Mừng nói với chúng ta về người đó! Đó là Chúa Cha, Đấng đã sai Đức Giêsu đến (Ga 8,16-42), Đấng đã giao mọi sự trong tay Người (Ga 3,35; 5,22-26). Đấng đã ban cho Người những con chiên của Người (Ga 17,6-9).
Anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
Được tập trung vào chung một chỗ có vây tường ban đêm để được các mục tử bảo vệ, buổi sáng các mục tử thu hồi các con chiên của họ, vì các con chiên nhận biết tiếng của mục tử của chúng. Những con chiên này theo bản năng biết được mục tử yêu thương chúng từng con một: Chúng đi theo và lắng nghe mục tử. Người tín hữu chân chính, là người “lắng nghe” tiếng Đức Giêsu và “đi theo” Đức Giêsu. Động từ “lắng nghe” được lặp lại năm mươi tám lần trong Tin Mừng của Thánh Gioan: Đức Giêsu là “lời” là “Ngôi Lời” sự “mạc khải” được nói vào lỗ tai chăm chú của các bạn hữu Người “điều mà Người đã nghe từ Chúa Cha” (Ga 3,31; 8,40; 15,15). Bạn đang suy niệm bài Tin Mừng này, bạn có biết lắng nghe Lời Chúa, tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý?
Đức Giêsu kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
Họ không hiểu bởi vì họ không muốn hiểu, bởi vì họ cảm thấy mình bị chỉ trích. Là những người Pharisêu, họ tự hào hướng dẫn những người khác, nhưng mà người ta chạy trốn bởi vì họ là những mục tử xấu, những kẻ trộm cướp.
Vậy, Đức Giêsu lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.
Những sự tự phụ của Đức Giêsu nếu Người chỉ là một con người quả là thái quá! Người tự giới thiệu như người hướng dẫn duy nhất của nhân loại! “Tất cả những ai đến trước tôi” đều là trộm cướp. Con người nói điều đó là một người điên; hoặc giả người ấy mang trong người một sứ điệp triệt để nhất, tuyệt đối nhất, siêu việt nhất, cách mạng nhất mà nhân loại chưa bao giờ nghe thấy. Than ôi, chúng ta có thể đi theo những người hướng đạo khác nếu chúng ta chịu nổi họ và nhiều người tự giới thiệu với chúng ta như những “cứu tinh do Thiên Chúa an bài”; nhưng Đức Giêsu đã mạnh mẽ báo trước cho chúng ta biết: Các kẻ ấy đều là trộm cướp và phá hoại; mọi người đưa ra những lời hứa hẹn hay đẹp đều là những kẻ trộm cướp. Một thứ tuyệt đối thuyết như thế chỉ có thể đụng chạm đến tâm thức của thời đại chúng ta, mong muốn sự khoan dung, lo lắng đến “tính đa nguyên”. Vậy ai là người dám nói với một sự bảo đảm và một sự loại trừ như thế? còn Đức Giêsu vốn khác với ‘mọi người khác’, Người hứa hẹn chúng ta điều gì?
Tôi là cửa.
Đức Giêsu thích trình bày tư tưởng của Người dưới những hình ảnh. Người đã tự giới thiệu Người như vị Mục tử độc nhất, ở đây, sử dụng những ý nghĩa tượng trưng như các nhạc sĩ thường làm khi các chủ đề của họ đan kết với nhau. Đức Giêsu đưa vào một hình ảnh thứ hai, tinh tế hơn, mầu nhiệm hơn. Người nói: “Tôi là cửa”, cái cửa duy nhất, cái cửa độc nhất! Những tác giả Phúc Âm nhất lãm cũng đã đặt vào miệng Đức Giêsu sự so sánh ấy khi nói về cái “cửa hẹp” dẫn đến Nước Chúa (Mt 7,13-14; Lc 13,24). Nhưng ở đây từ ngữ chứa đựng một ý nghĩa thần học sâu xa hơn, theo nghĩa mà Đức Giêsu không bao lâu nữa sẽ nói; “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Trong Kinh Thánh đã có một thứ thần bí về cái cửa. Giacóp ở giữa sa mạc đã nhìn thấy một cầu thang là cửa của thiên đàng (St 28,17). Những cái cửa của Giêrusalem được mô tả như những con đường đưa vào nơi bình an, công bằng, đến nhà của Thiên Chúa (Is 60,11; Tv 122,2; l18,19-20).
Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.
Như thế, Đức Giêsu có ý thức Người là môt con đường đi qua, một cái cửa, dẫn đến một nơi mới, một không gian mới! Để cảm nhận ân huệ của đề nghị này nới Đức Giêsu, chúng ta phải cảm nghiệm mình đang bị giam hãm trong một thứ “căn hầm đóng kín” như Jean Paul Sartre đã mô tả. Vâng, nhân loại như bị cầm tù bởi những điều tất định khắc nghiệt nào đó: Sinh ra rồi chết đi, sản xuất rồi tiêu thụ, ăn, làm, ngủ rồi lại bắt đầu lại!”. Viễn cảnh của con người lẽ nào lại dừng lại ở vòng tròn chật hẹp này? có phải nhân loại bị kết án quay vòng tròn như thế trong khi chờ đợi cơn đắm tàu sau cùng? Có chăng một lối thoát cho con người?
Chính tại đây Đức Giêsu can thiệp và nói với chúng ta rằng Người là một cái cửa, một lối thoát. Những hình ảnh nói lên nhiều điều: “Các bạn có thể ra vào, lui tới”; đây là hình ảnh của sự tự do! Các bạn sẽ tìm thấy một đồng cỏ, hình ảnh của sự sống và sự tươi trẻ!
Tại sao chúng ta không thử mượn cái cửa mầu nhiệm ấy để đi một vòng hít thở khí trong lành, trong những đồng cỏ tắm nắng mặt trời? Đức Giêsu nói với chúng ta rằng nhân loại không thể khép kín lại với chính mình một cách tuyệt vọng: Trước mắt nhân loại, một không gian được mở ra, một không quan vô tận, một sự sống còn ở phía trước. Thiên Chúa đề nghị dành không gian của Người cho con người. Tại sao chúng ta không muốn cái cửa ấy để đến đó mà hít thở? Cánh cửa này mở ra vô tận và không chỉ mở vào ngày sau cùng, vào giờ lâm tử của chúng ta, điều đó tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Cánh cửa ấy hướng về Thiên Chúa, tại sao chúng ta không bước qua nó ngay từ bây giờ?
Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Đức Giêsu trở lại những viễn cảnh tiêu cực này để giúp chúng ta hiểu rõ hơn đề nghị tích cực của Người. Trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, kỹ thuật, con người đã thực hiện nhiều cuộc giải phóng mà chúng ta không thể coi thường và mọi Kitô hữu phải tham gia. Nhưng Đức Giêsu nhắc chúng ta chỉ có duy nhất một cuộc giải phóng triệt để mà Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Mọi lời hứa khác về giải phóng, về hạnh phúc đều là lừa bịp, một thứ trộm cắp. Nhân loại được dựng nên không phải để bằng lòng với không khí ngột ngạt của mọi thứ chủ nghĩa duy vật. Các chủ nghĩa vô thần chỉ đem lại cho con người một hình ảnh bị cắt xén. Đối với Đức Giêsu, nếu chỉ đưa ra cho con người các viễn cảnh hạn chế thì đó chính là “Giết chết và Phá hủy” con người chỉ sống viên mãn khi con người mở ra với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu là cái cửa! Nếu người nào đi qua cửa đó, người ấy sẽ được cứu!
Không đi qua lối đó, con người sẽ hư mất. Môi trường sống tuyệt đối duy nhất của con người, chính là môi trường của Thiên Chúa. Chỉ có nơi đó mới là không gian của con người. Chỉ có nơi đó, con người thật sự được tự do. Chỉ có nơi đó con người thật sự hít thở và phát triển đến vô tận.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Ở đây chúng ta gặp lại một chủ đề mà Thánh Gioan ưa thích. Rượu nho ở tiệc cưới Cana được ban cho một cách dồi dào: 600 lít! (Ga 2,6-7). Nước sự sống ban cho người phụ nữ Samari vọt lên để sau cùng làm mọi cơn khát phải chấm dứt (Ga 4,14). Bánh được hóa ra nhiều và rất dồi dào và còn dư lại mười hai giỏ đầy (Ga 6,10-12). Sự đánh cá mầu nhiệm làm chiếc thuyền đầy cá (Ga 21,6). Nhưng đó chỉ là những hình ảnh. Thực tế còn đẹp hơn nhiều. Có một sự sống “dồi dào”: Sự sống của Thiên Chúa!
Quả thật, rõ ràng chỉ có Đức Giêsu mở ra một không gian vô cùng, vô tận cho con người. Bên ngoài Người, nhân loại hoàn toàn “bị giam hãm” trong chính mình: không một ý thức hệ, một lãnh tụ chính trị hay xã hội, một khám phá khoa học nào giải thoát chúng ta khỏi số phận “Chỉ là những con người và vì thế phải chết”. Nhưng chính Đức Giêsu, vừa là người vừa là Thiên Chúa, lôi kéo ta ra khỏi sự bất lực của chúng ta để đưa chúng ta vào lãnh địa của Thiên Chúa. Cái Cửa ấy mở ra cái vô cùng vĩnh cửu.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ĐỨC GIÊSU: MỤC TỬ NHÂN LÀNH VÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN- Chú giải của Fiches Dominicales
1) Đức Giêsu, mục tử nhân lành.
Bài Phúc âm hôm nay nằm trong văn mạch của một cuộc luận chiến tiếp sau việc chữa lành người mù bẩm sinh vẫn ngồi ăn xin bên cửa đền thờ, (Phúc Âm Chúa nhật thứ bốn mùa chay, năm A) những người biệt phái tự xưng là sáng mắt và tự nhận là những bậc linh sư trong dân, thực ra, ngày càng chìm sâu trong sự mù quáng của mình, trong khi đó, người mù được chữa lành, không ngừng được khai sáng đến độ dám tuyên xưng mầu nhiệm Đức Giêsu, nhìn nhận Ngài là “Con Người” và là “Đấng Thiên sai bị người do thái trục xuất khỏi hội đồng và được Đức Giêsu đón nhân, ông trở thành mẫu mực của người có niềm tin, điển hình của con chiên nhận ra Người mục tử để được dẫn về cùng Chúa Cha (X. Dufour, “Đọc Tin Mừng Gioan ” Tập 2, Seuil, 1990, tr. 348).” Đức Giêsu kết luận” ta đến trần gian chỉ là để cho những kẻ không thấy được thấy là những kẻ thấy trở nên đui mù” Thế rồi, tác giả Tin Mừng chuyển thẳng sang dụ ngôn vị mục tử nhân lành, một hình ảnh quen thân trong Kinh Thánh. Thật vậy, trong suốt lịch sử Do thái, Thiên Chúa luôn tự giới thiệu như là vị Mục Tử của dân người, Đấng đã chọn lấy cho mình những tôi tớ, cũng được gọi là “mục tử “, để trao cho họ trách nhiệm dẫn dắt dân Chúa theo người. Tiếc thay họ thường bất xứng với sứ vụ này và vậy các tiên tri đã loan báo một thời đại mà chính Thiên-Chúa, qua Đấng Thiên Sai, sẽ nắm quyền lãnh đạo dân người.
Ở đây Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử nhân lành, vị Mục Tử thiên sai, người gọi “tên từng con chiên một và “dẫn chúng đi ăn”! khác hẳn những tên trộm đạo đến trấn lột đoàn chiên hay những kẻ chăn thuê không bao giờ dám mạo hiểm vì đoàn Chiên. Nên đặc biệt chú ý đến kiểu nói này vì trong Thánh kinh, nó gợi lên: cuộc xuất hành đầu tiên, khi Chúa “dẫn đưa” Israel ra khỏi nhà nô lệ. (Ex 3.10; 6, 27; Lev. 19,36)
Lời cầu nguyện của Môsê, xin Chúa chọn người kế vị mình “một người sẽ lãnh đạo cộng đoàn,..sẽ đưa chúng ra đi và dẫn chúng trở về để chúng không trở thành những con chiên không người chăn giữ” (Nom. 27, 17)
Cuộc xuất hành mới là quyết định được các tiên loan báo “ta sẽ đưa đoàn chiên ta ra khỏi muôn dân, sẽ qui tụ chúng lại từ muôn nước và đưa chúng về cố hương” (Ez.34,l3)
Thành toàn những lời tiên tri trong Cựu Ước, Đức Giêsu là Mô-sê mới đến qui tụ đoàn dân mới của Thiên- Chúa và “dẫn đầu “,”đưa họ ra đi” trong cuộc xuất hành mới, trên đường về miền đất hứa.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để nói vớí người “biệt phái” là những người, theo tác giả Tin Mừng, không hiểu được điều Ngài muốn nói với họ” khiến Ngài phải đề cập đến một chủ đề mới, đó là cửa chuồng chiên.
2) Đức Giêsu là cửa chuồng chiên
“Cửa chuồng chiên” khi nói thế, Đức Giêsu muốn minh định mình là lối vào duy nhất để gặp được đoàn chiên. “để đến với đoàn chiên, hình ảnh của dân Thiên-Chúa, phải đi qua Đức Giêsu. Ngoài ngài ra, không còn cách nào để đến với dân Chúa và với sự sống. ” A. Marchadour, “Tin Mừng theo thánh Gioan”, Centturion, 1992,p.143).
“Cửa chuồng chiên” khi nói thế, Đức Giêsu minh ảnh mình là cửa mà mọi con chiên phải đi qua nếu muốn được tự do và đạt được sự sống viên mãn. A. Machadour viết tiếp ngoài Ngài ra, không ai có thế tự xưng là người mang ơn cứu độ cho nhân loại được. Đức Giêsu là cửa vì qua Ngài, con người đạt được ơn cứu độ và được sống, khung cảnh đền thờ cho phép ta lấy đơn vị (cửa) để cắt nghĩa tổng thể (đền thờ) Đức Giêsu tự giới thiệu mình như đền thờ mới trong đó con người tìm được tự do và sự sống”.
BÀI ĐỌC THÊM
1) Chúa là mục tử của tôi. (H. Denis, trong “100 từ ngữ để nói lên niềm tin”. Desclée de Brouwer,1993, p.149-l50)
Chúa Mục tử, Chúa là Đấng mà với Ngài, trong cảnh nghèo khó cùng cực, người ta có thể cảm nghiệm và hiểu biết được sự phong phú của Thiên Chúa, đây chính là niềm ủi an mới của mùa phục sinh này, các bạn đã là những con chiên lạc, nhưng giữa các bạn, Con Chiên không tì vết đã hiến mình, và hóa thân thành mục tử, thành người chăn giữ mạng sống quí giá của các bạn.
Mục tử, một từ dân dã, một nghề gần như đã mai một còn chăng chỉ có những du khách lâu lâu gặp thấy những người chăn cừu vùng sơn cước. Tuy nhiên chúng ta còn nhạy cảm với hình ảnh của người mục tử với chiếc tù và đang tập họp đoàn chiên, hơn thế nữa, người ta còn xúc động khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa, khi nhìn thấy người mục tử mệt lả vác con chiên lạc trên khi đưa trở về bầy.
Đức Giêsu chính là người muốn qui tụ về đàn chiên duy nhất của Ngài toàn cá nhân loại được thánh tẩy trong máu con Chiên, điều đó khiến ta khiêm tốn. Tôi muốn nói rằng Đức Giêsu không bao giờ quả quyết Ngài, chỉ là mục tử của các tín hữu, và chuồng chiên của Ngài chỉ gồm các Hội thánh công giáo. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài tự giới thiệu mình như là Đấng đưa dẫn mọi người thiện chí về đồng cỏ xanh, là đấng mà mọi người đều có thể nhận ra tiếng Ngài.
Các linh mục hay các mục tử không thể trở thành sở hữu chủ của những người mà họ phục vụ được. Vì thế, từ mọi đồng cỏ, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa đều có thể hướng về trời cất tiếng ca: “Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”.
2) Loan báo những kỳ công Chúa đã thực hiện nơi ta và nhờ ta (Tài liệu của Uỷ ban khuyến khích ơn gọi toàn quốc) Cầu nguyện cho ơn kêu gọi, ngày thế giới cầu nguyện cho ơn kêu gọi… những bản văn được đề nghị cho ngày này mời gọi ta vừa tiến bước, vừa đi theo con đường hòa nhập vào một cộng đoàn thuộc về Đức Giêsu và mời gọi ta làm theo thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là làm lành, sống trong tình yêu nồng nàn và thực sự của Đức Giêsu đối với thế giới bằng cách sống chiến đấu cho công bằng và qua đó biểu tỏ tất cả! niềm hi vọng trong chúng ta. Đức Kitô đã ban lời Ngài để nó thấm nhập, tăng trưởng, đâm rễ và triển nở trong đời sống chúng ta. Lời Chúa mở cửa, mời gọi đón nhận và nhận biết sự tùy thuộc vào Thiên Chúa tình yêu, Thiên Chúa của Đức Kitô Đấng biết rõ từng tên, từng người chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta, không phải để nhốt ta trong vòng rào mênh mông, hầu gìn giữ hay che chở chúng ta, nhưng như những con chiên mà Ngài kêu gọi, “Ngài đưa chúng ra ngoài” để nghe rõ tiếng Ngài hơn, và nhận ra con đường mà chính Ngài đã mượn, trên đó, Ngài dấn bước, ra đi và khơi dậy niềm tự do để người ta được sống và sống dồi dào.
Tất cả những điều này đều có thể thành toàn nhờ cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Đức Kitô, nhờ mối dây tình yêu thương hằng và liên tục giữa lòng với lòng, vì thế cầu nguyện cho ơn gọi có nghĩa là cầu nguyện cho con người, chia sẻ cuộc sống của Thiên Chúa, trở nên những cộng đoàn, xây dựng những cộng đoàn Kitô hầu sống động và tích cực. Còn về ơn gọi linh mục, tu sĩ, đừng mong những phép lạ, không phải chỉ cầu nguyện là có nhiều ơn gọi đâu… điều đó chỉ có được nếu chúng ta cầu nguyện trong chân lý, bằng cách xây dựng những cộng đoàn Kitô hữu thực sự, lúc bấy giờ, tự nhiên sẽ có những lời đáp trả. Nếu hôm nay, 5 triệu tín hữu Pháp tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô đã chết và phục sinh, thì sẽ có 5 triệu “ơn gọi” vì thế ngày nay, cần phải nói lên điều mình sống, điều mình tin, loan báo những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi ta và qua ta.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- A
CỬA CHUỒNG CHIÊN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Theo chu trình ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Chúa Nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu.
Cv 2: 14, 36-41
Chúng ta tiếp tục đọc bài diễn từ thánh Phê-rô công bố cho đám đông đến Giê-ru-sa-lem mừng lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân khuyên họ hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Đó phải là con đường đi vào ràn chiên của Đức Giê-su Ki-tô.
1Pr 2: 20-25
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô, trong đó thánh nhân an ủi các tín hữu đang phải chịu đau khổ và cho họ biết rằng Đức Ki-tô là vị Mục Tử của họ.
Ga 10: 1-10
Dụ ngôn Đấng Chăn Chiên nhân lành được trích từ Tin Mừng Gioan và được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ. Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay là phần đầu của dụ ngôn “Người Mục Tử nhân lành”.
BÀI ĐỌC I ( Cv 2: 14a, 36-41)
Bản văn nầy là phần kết của bài diễn từ mà thánh Phê-rô công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần, qua đó thánh nhân đang ngỏ lời với đám đông dân chúng đến mừng lễ.
Trong phần trước đó, thánh nhân công bố ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su và ân ban dồi dào của Chúa Thánh Thần, Đấng nội tâm hóa sứ điệp của Đức Ki-tô và thúc đẩy các tín hữu dấn bước theo Đức Giê-su.
*1.Đức Giê-su là Đức Chúa và là Đấng Ki-tô:
Trong phần kết nầy, khởi đi từ nhân tính của Đức Giê-su, thánh nhân công bố tước vị Đức Chúa và Đấng Ki-tô của Đức Giê-su: “Thưa toàn thể nhà Ít-ra-en, xin biết chắc cho điều nầy: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”. Tước hiệu “Đức Chúa” (“kupios”) là tước hiệu mà bản Bảy Mươi dùng để dịch danh xưng của chính Thiên Chúa là “A-đô-nai”. Thánh Phê-rô ban cho Đức Giê-su tước hiệu nầy, như vậy thánh nhân không ngần ngại định vị Đức Giê-su vào trong lãnh vực thần linh. Vả lại, sách Công Vụ ban tước hiệu Đức Chúa lúc thì cho Thiên Chúa (Đức Chúa Cha), lúc thì cho Đức Giê-su (Đức Chúa Giê-su), để nhấn mạnh tính duy nhất của Cha và Con.
Lời công bố nầy đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn những người đang hiện diện khiến họ đi đến một quyết định cụ thể: “Thưa quý ông, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Thế nên, thánh Phê-rô trả lời với một đòi hỏi kép: hoán cải tận căn: “Anh em hãy đoạn tuyệt với thế hệ gian tà nầy” và lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”. Đây là phương thức đầu tiên để trở thành người Ki-tô hữu.
*2.Hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô:
Như thường gặp thấy trong Kinh Thánh, tên gọi của một người chính là con người mang tên ấy. Ai lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”, tức là tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giê-su Ki-tô, người ấy được sáp nhập vào con người của Đấng Phục Sinh, thuộc vào Đức Ki-tô, trở nên một với Ngài. Thánh Phê-rô nghĩ đến ý nghĩa phép Thánh Tẩy chứ không đến chính nghi thức. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Lu-ca không bao giờ dùng danh từ “phép rửa” để chỉ phép Thánh Tẩy Ki tô giáo, bởi vì thuật ngữ này luôn luôn quy chiếu đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Thánh Lu-ca dành riêng cho phép Thánh Tẩy Ki-tô giáo động từ “rửa”, thường nhất ở thể thụ động thần linh.
Có lẽ công thức Ba Ngôi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” đã chưa được sử dụng cách phổ quát ngay. Công thức Ba Ngôi được thánh Mát-thêu trích dẫn (Mt 28: 19) rõ ràng được thánh Phao-lô nêu lên ở 1Cr 6: 11: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta”. Cuối thế kỷ thứ nhất, sách Đi-đa-khê hay “Giáo Huấn của nhóm Mười Hai” (sưu tập giáo lý và phụng vụ) chỉ biết công thức Ba Ngôi. Tuy nhiên, ở đây thánh Phê-rô kể ra liền ngay ân sủng Thánh Thần như thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Thế nên, Ba Ngôi hiện diện rồi.
*3.Ơn cứu độ phổ quát:
Thánh nhân ngỏ lời trước tiên với người Do thái: “Vì đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em” (nghĩa là ân sủng Thánh Thần như lời hứa ban cho dân Ngài vào thời Mê-si-a), nhưng ngay liền sau đó, thánh nhân ngỏ lời với lương dân: “và tất cả những người ở chốn xa xăm”. Quả thật, cách nói nầy thường được dùng để chỉ lương dân đối lập với dân Chúa chọn, dân ở “gần” Thiên Chúa, như Is 57: 19: “Bình an cho những ai ở xa (lương dân) như cho những ai ở gần (dân Chúa chọn)”. Đang khi xuất thần ở trong Đền Thờ, thánh Phao-lô nghe tiếng Chúa bảo ông: “Hãy đi, vì Thầy đã sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa” (Cv 22: 21).
Thánh Lu-ca kết thúc bài bài trình thuật nầy khi nhấn mạnh rằng Ki-tô giáo phát triển rất nhanh như thánh nhân thường làm: “Và hôm ấy đã có thêm được ba ngàn người theo đạo” .
BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 20-25)
Phụng vụ hôm nay chọn đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, vì câu cuối của đoạn trích nầy vang dội Tin Mừng hôm nay về Người Mục Tử nhân lành: “Vì trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về cùng Vị Mục Tử chăm sóc linh hồn anh em”.
*1.Ý hướng:
Trong đoạn trích nầy, thánh Phê-rô đưa ra những lời khuyên cho những người Ki-tô hữu thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Những lời khuyên này cốt yếu được gởi đến cho “những tôi tớ”, “những gia nhân”. Bản văn phụng vụ dịch khá khái quát: “anh em”, vì những lời khuyên bảo nầy có giá trị đối với tất cả những ai đang chịu đau khổ.
Việc thánh Phê-rô chú ý đến những người bé mọn nầy chứng thực Ki-tô giáo được đón nhận rộng rãi ở giữa những thành phần xã hội bị ngược đãi nhất. Cũng như thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phê-rô không nhằm đặt lại tận căn những cơ cấu xã hội vào thời đại của ngài: thánh nhân chỉ nhắm đến việc biến đổi bên trong. Sống những giá trị Ki-tô giáo trong điều kiện mà người ta đang sống đó là cách thức biến đổi những mối tương quan giữa người với người. Một cách khái quát, thư nhắm đến ý nghĩa nầy: cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khiến cho lương dân suy nghĩ, soi sáng họ, khiến họ thay đổi cách hành xử của mình. Lúc đó, sức mạnh giải phóng của Đức Ki-tô thay đổi cơ cấu xã hội và biến toàn thể nhân loại thành một cộng đoàn huynh đệ và bình đẳng.
*2.Người Công Chính phải chịu đau khổ:
Để an ủi những người bé mọn nầy phải chịu nhiều đau khổ bất công, thánh Phê-rô nhắc nhở họ, hãy theo gương Đức Giê-su, hãy lấy Ân báo Oán. Thánh nhân không ngần ngại nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu đó là chấp nhận đau khổ: “Anh em được Chúa gọi để sống như thế”, ám chỉ đến lời mời gọi của Đức Giê-su: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy vác lấy thập giá mình…”.
Đức Ki-tô đã không giải quyết những đau khổ, nhưng Ngài đã đảm nhận, đón nhận chúng vào nơi chính bản thân mình và biến đổi chúng bằng cách cho chúng một ý nghĩa. Để giải thích cuộc Tử Nạn mà Đức Giê-su phải chịu dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về Người Tôi Trung Đau Khổ, thánh Phê-rô trích dẫn khá tự do bài ca thứ ba (Is 50: 5-8) và bài ca thứ tư (Is 53: 4-7), và áp dụng vào Đức Ki-tô, Đấng “mang trong thân xác mình tội lỗi của chúng ta mà đưa lên thập giá…”.
Vì thế, câu cuối của đoạn văn này minh họa một chủ để quan trọng của bức thư: thành quả tinh thần của sự đau khổ mà người công chính phải chịu và mối phúc của những người bị bách hại. Những người Ki-tô hữu đang phải sống những gian nan thử thách, họ chắc chắn thuộc vào đoàn chiên của Vị Mục Tử chân thật, Ngài đang “chăn dắt họ”.
TIN MỪNG (Ga 10: 1-10)
Trong cả ba chu trình Năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành.” Dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành” được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ: năm A: Ga 10: 1-10, Ga 10: 11-18 vào năm B: Ga 10: 11-18, và năm C: Ga 10: 27-30.
*1.Hình ảnh “người mục tử” trong Kinh Thánh:
Hình ảnh “người mục tử và đàn chiên” chạy xuyên suốt Kinh Thánh, từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tự nguồn gốc, dân Ít-ra-en vốn là dân du mục. Vào thời Đức Giê-su, một thành phần vẫn còn sống nghề chăn chiên. Các tác giả thánh vịnh đã có chủ ý phóng chiếu trên Thiên Chúa của mình những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng, như Tv 23:
“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức tôi…”
hay Tv 78:
“Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu,
đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên,
đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…” (Tv 78: 51-52).
Các ngôn sứ đã phác họa Đấng Mê-si-a theo những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng này; nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả một viễn cảnh thật táo bạo. Vị ngôn sứ, nhân danh Thiên Chúa, gay gắt lên án các vị lãnh đạo thời ông. Họ là những mục tử vô trách nhiệm, là quân trộm cướp, chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến đoàn chiên. Vì vậy, Thiên Chúa sẽ tước đi khỏi họ quyền chăn dắt đoàn chiên của Người. Chính Người sẽ đích thân chăm sóc chiên của Người. Cuối cùng, Người sẽ cho xuất hiện một vị Mục Tử Nhân Lành theo dung mạo vua Đa-vít, sống chết vì đàn chiên (Ed 34). Dụ ngôn của Đức Giê-su được đặt vào truyền thống của dụ ngôn Ê-dê-ki-en, vì thế, khi tuyên bố mình là Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su đòi hỏi cho mình tước hiệu Mê-si-a.
Trong Tin Mừng Gioan, Diễn Từ: “Người Mục Tử đích thật” đặt liền ngay sau câu chuyện người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Những kiểu nói được lập đi lập lại: “Thật, tôi bảo thật các ông” loan báo sự phối hợp của hai câu chuyện này và chỉ cho thấy sự liên tục của tư tưởng và tuyến phát triển của lập luận. Mối liên kết nầy soi sáng những lời nói của Đức Giê-su. Qua những hình ảnh biểu tượng: người mục tử, ràn chiên, cửa chuồng chiên, Đức Giê-su muốn mặc khải cho chúng ta những khía cạnh mầu nhiệm của con người Ngài, vén mở cho chúng ta thoáng thấy những mối tâm giao mới giữa Thiên Chúa và con người mà Ngài đến thiết lập, và giúp chúng ta nắm bắt một cách sâu xa tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.
*2.Người Mục Tử đích thật:
Phần thứ nhất đặt sự tương phản giữa người mục tử và quân trộm cướp. Bức tranh nầy rất quen thuộc với miền Pa-lết-tinh. Ràn chiên là một thuở đất giữa đồng được rào chung quanh và có người canh giữ để chiên khỏi bị quân trộm cướp đến giết hại. Khi chiều xuống, những người mục tử gởi đàn chiên của mình vào chung một ràn chiên. Sáng sớm, người chăn chiên đến tìm đàn chiên của mình, anh chỉ cần lên tiếng gọi: chiên nào thuộc người chăn chiên thì nhận ra tiếng của anh và chạy đến với anh; chúng không theo người lạ.
Qua hình ảnh đó, Chúa Giê-su khẳng định mối tâm giao giữa người chăn chiên và đàn chiên: “Anh gọi tên từng con một”. Đối với Đức Giê-su, không có đám đông vô danh; Ngài nhận biết và yêu mến từng con chiên. Đáp lại, đàn chiên quen hơi bén tiếng với người chăn chiên của mình: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”. Qua mối tâm giao hổ tương này, Chúa Giê-su đối lập thái độ của Ngài với thái độ của nhóm Pha-ri-sêu: họ đã loại bỏ một cách tàn nhẫn anh mù được sáng mắt, như thế họ đã hành xử như mục tử gian ác. Trái lại, Đức Giê-su không chỉ tiếp đón anh, nhưng sau khi đã cho con mắt xác thịt của anh được thấy, Ngài còn dẫn dắt anh đến niềm tin, đã khai lòng mở trí cho anh đón nhận ánh sáng, vì Ngài là mục tử đích thật.
*3.Cửa chuồng chiên:
“Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu Người có ý nói gì”. Vì thế, Chúa Giê-su tiếp tục nói với họ khi giới thiệu Ngài là “cửa chuồng chiên”. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận ra nét tinh tế của bản văn ở đây. Đức Giê-su không nói: “Tôi là cửa chuồng chiên”, nhưng “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Đây là một nét biệt phân quan trọng: Đức Giê-su không là cửa của một nơi chốn, nhưng Ngài là lối đi cho chiên ra vào, như vậy, Ngài khẳng định mình là Đấng trung gian duy nhất. Ngài là cửa duy nhất, qua đó chiên có thể vào nơi trú ẩn an toàn mỗi khi chiều xuống, để rồi khi bình minh đến, đàn chiên ra đi đến đồng cỏ xanh tươi: “Ai qua tôi mà vào, thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ được ra vào và tìm được lương thực nuôi mình”. Cuối cùng, khi phác họa chân dung người mục tử lý tưởng, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai tiếp tục sự nghiệp dẫn dắt dân Ngài hãy bước theo mẫu gương nầy. Vì thế, Chúa Nhật IV Phục Sinh này cũng được gọi “Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu”.
SỐNG THEO SỰ DẪN DẮT CỦA VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Lời Chúa hôm nay trình bày Đức Giêsu là người mục tử tốt lành : Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài thí mạng sống vì chúng ta, và Ngài dẫn chúng ta tới sự sống thật. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở thành chiên của Ngài, không phải những con chiên bướng bỉnh mà là những con chiên biết chủ mình là ai, biết tiếng chủ và ngoan ngoãn bước theo sự dẫn dắt của chủ.
– Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta tới sự sống thật, còn chúng ta nhiều khi từ chối không nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
– Đức Giêsu biết rất rõ từng người chúng ta và yêu thương chúng ta vô cùng, thế mà lắm khi chúng ta hồ nghi tình thương của Chúa.
– Đức Giêsu đã chịu biết bao đau khổ vì chúng ta, còn chúng ta nhiều khi gặp đau khổ thì nản lòng như kẻ không có đức tin.
LỜI CHÚA
Đây là phần kết luận bài giảng của Phêrô hôm lễ Ngũ tuần : Phêrô kết luận bằng cách kêu gọi người ta sám hối và lãnh nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Dân chúng đã đáp lại cách nồng nhiệt. Kết quả là hôm ấy có thêm khoảng 3000 người theo đạo, gia nhập đoàn chiên của Đức Giêsu.
Hình ảnh người mục tử trong Thánh vịnh này áp dụng rất đúng vào Đức Giêsu : Ngài chăm sóc từng người chúng ta, Ngài rửa sạch chúng ta trong nước bí tích Thanh Tẩy, Ngài cho ta uống no nê những ân huệ của Ngài, Ngài cho chúng ta dự tiệc Thánh Thể, và Ngài dẫn chúng ta tới với Chúa Cha. Ở bên Ngài chúng ta không thiếu thốn gì cả và chúng ta có thể luôn an lòng.
So sánh cuộc đời hiện tại của các kitô hữu với thời gian trước kia, Thánh Phêrô nói : “Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em”.
Đoạn Ga 10,1-18 là một ẩn dụ trong đó Đức Giêsu tự ví mình là “cửa chuồng chiên” và là “mục tử”. Phần được chọn đọc hôm nay là hình ảnh “cửa chuồng chiên” (cc 1-10).
Chúng ta nên biết rằng ở xứ Palestina, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm, các mục tử dẫn các đàn chiên của mình vào một cái chuồng chung ở giữa đồng cỏ và chia phiên nhau canh gác ở ngay cửa ra vào. Đến sáng, từng mục tử qua cửa để vào chuồng và gọi tên các con chiên trong đàn mình. Chúng đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Những tên trộm cướp không dám qua cửa vì sợ đụng người canh gác nên phải trèo rào mà vào. Nhưng dù vậy, chiên cũng không đến gần bọn họ vì chúng lạ họ. Nếu họ có đưa được con chiên nào ra khỏi chuồng thì cũng không phải để nuôi dưỡng nhưng để giết ăn thịt.
Qua những câu này, Đức Giêsu muốn so sánh Ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo do thái thời đó : họ không phải là mục tử thật nhưng là những tên trộm cướp leo rào vào chuồng, họ không chăm sóc cho chiên nhưng chỉ làm hại chiên ; chính Đức Giêsu mới là mục tử thật và là cửa chuồng chiên.
Mặc dù con người ai cũng muốn được độc lập, thế nhưng trong thâm tâm sâu xa ai cũng có nhu cầu cần được dẫn dắt đến hạnh phúc, đến một cuộc sống tròn đầy. Như thế ai cũng là con chiên và cần mục tử. Vấn đề là chọn ai làm mục tử cho mình thôi.
– Những kẻ dẫn mình tới những cánh đồng hoang, những khu rừng rậm đầy thú dữ (cuộc sống buông thả, những ý hệ lệch lạc, những cách sống thời trang, hưởng thụ v.v.) thực ra chỉ là những tên trộm cướp làm hại con chiên.
– Mục tử thật phải dẫn con chiên tới nơi nào có suối nước, bóng mát, cỏ non nuôi dưỡng cuộc sống của chiên ; phải cực nhọc tìm dẫn về những con chiên đi lạc ; phải gian lao chiến đấu với sói dữ và kẻ cướp. Mục tử như thế chỉ có thể là Đức Giêsu mà thôi.
Nghĩa là có hai lầm tưởng tai hại : 1/ Tưởng mình là con chiên độc lập không cần ai dẫn dắt ; 2/ Tưởng đi theo những “mục tử” dễ dãi là đời mình sẽ sung sướng.
Liên hệ giữa Đức Giêsu và chiên của Ngài
Chúa biết rõ từng người của mình, từng người một. Ngài không đẩy họ đi trước mình, nhưng Ngài đi trước họ, dẫn đường cho họ, nói với từng người, thu hút họ hơn là hướng dẫn họ.
Tuy nhiên, sói không ngừng lảng vảng quanh đoàn chiên, rình bắt những con chiên bất cẩn xa đàn. Vị mục tử đích thực sẵn sàng đương đầu với sói vì mỗi con chiên đều quý giá vô ngần. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên.
Mối tương giao giữa họ hệt như giữa Chúa Cha và Chúa Con. Mối tương giao ấy dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau, nghĩa là trên tình yêu. Cha biết Con sẵn sàng tự hiến trọn vẹn cho những người bước theo và sẽ bước theo mình. (J. Potin, “Đức Giêsu lịch sử đích thực”, trích dịch trong Fiches dominicales, năm A, trang 138).
Không còn là con số vô danh nữa
Con người thời nay rất ghét phải sống như một con người vô danh giữa một đám đông, như một con số âm thầm giữa lòng tập thể. Mỗi người như một bộ phận nhỏ trong guồng máy khổng lồ, âm thầm và cô đơn làm cho xong phần việc của mình. Tại sao có những người cố tình có những hành vi ngênh ngang, ăn mặc lố lăng, nếp sống lập dị… ? Vì đó là cách để cho người khác chú ý tới họ.
Đức Giêsu đối với chúng ta thì khác hẳn. Ngài không vơ đũa cả nắm coi hết mọi người y như nhau. Trái lại Ngài biết rõ từng người một với cá tính riêng, hoàn cảnh riêng, chỗ mạnh chỗ yếu riêng. Nhất là Ngài yêu thương mỗi người một cách riêng. “Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta, như Chúa Cha biết Ta và Ta biết Chúa Cha”.
Tâm sự của người đồng hành bị quên lãng
Sáng nay khi bạn vừa thức dậy, tôi nhìn bạn và chờ đợi bạn nói với tôi đôi lời : để cám ơn về những điều tốt lành bạn đã gặp được ngày hôm qua, hoặc để hỏi xem tôi có ý kiến gì với bạn cho ngày hôm nay… Đôi lời ngắn ngủi thôi. – Nhưng bạn mãi lo tìm chọn quần áo giày dép… Nên tôi phải chờ.
Bạn đã mặc quần áo xong, bạn còn 15 phút rãnh rỗi. Tôi hy vọng bạn sẽ lên tiếng chào tôi. – Nhưng không, bạn ngồi xuống ghế sofa, im lặng, thanh thản. Tôi vẫn chờ.
Chợt bạn đứng lên – Tôi tưởng bạn sẽ đến với tôi nói đôi lời gì đó. Thế nhưng bạn đến máy điện thoại, quay số đến một người bạn thân, hai người đấu láo với nhau một hồi. Và tôi tiếp tục chờ.
Rồi đến giờ bạn ra xe. Bạn đến chỗ làm. Tôi chờ bạn suốt buổi sáng.
Đã đến giờ ăn trưa. Bạn ngồi vào bàn, rảo mắt nhìn quanh. Bạn thấy vài người ở những bàn bên cạnh cúi đầu thầm thì nói với tôi đôi lời trước khi ăn. Tôi tưởng bạn cũng sẽ làm thế. Nhưng không ! Và tôi tiếp tục chờ.
Ăn xong, bạn còn một khoảng thời giờ thảnh thơi. Tôi thầm mong bạn sắp nói với tôi. Nhưng chẳng có một lời nào cả. Tôi vẫn chờ.
Buổi chiều, tan sở. Bạn lên xe về nhà. Chắc hẳn có biết bao điều bạn sẽ kể cho tôi nghe. Tôi chờ. Nhưng bạn chạy thẳng một mạch tới nhà. Về tới nhà, bạn lao ngay vào phòng tắm… Và tôi vẫn chờ.
Bạn đã cảm thấy mát mẻ và thoải mái. Nhưng bạn không thấy tôi đang chờ. Bạn chỉ nhìn thấy cái TV. Bạn mở máy, để mặc tôi tiếp tục chờ.
Rồi bạn lên giường, suy nghĩ mông lung trong khi chờ giấc ngủ đến. Bạn nhớ lại đủ thứ chuyện, đủ thứ người, chỉ trừ tôi. Có lẽ vì bạn không biết tôi vẫn luôn ở bên cạnh bạn. Bạn không thấy tôi, nhưng tôi vẫn luôn ở kề bên bạn, yêu thương bạn, rất muốn nói chuyện với bạn, để an ủi, để chia xẻ, để góp ý, để động viên… Bạn không biết, không để ý gì cả. Và bạn thiếp dần vào giấc ngủ. Tôi vẫn chờ.
Một ngày mới lại bắt đầu. Bạn thức dậy. Tôi hy vọng hôm nay bạn sẽ dành ra đôi phút để nói với tôi. Tôi vẫn chờ bạn đấy. Chúc bạn một ngày tốt đẹp.
a/ “Ta là cửa chuồng chiên”
Từ lâu, tôi vẫn cứ ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví mình như Mục tử, lúc lại ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải tỏa cho tôi thắc mắc đó. Sách viết : một du khách đến Palestin, gặp được một mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi : “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?” Người mục tử hỏi lại : “Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi.” Thế đó, đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình : Ngài vừa là mục tử vừa là cửa vào.
b/ “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”
Người Tây Ban Nha có câu chuyện sau đây :
Khi có người đến cửa thiên đàng, Thánh Phêrô đặt cho mỗi người một câu hỏi rất lạ : “Lúc còn ở trần thế, bạn đã biết nếm mùi những vui thú mà Chúa nhân lành ban cho bạn không ?”
Nếu người đó đáp “Thưa không” thì Thánh nhân nói : “Bạn chưa biết nếm những vui thú nhỏ dưới thế thì làm sao có thể nếm những vui thú lớn lao trên thiên đàng được ! Xin lỗi, Ta chưa cho bạn vào được.”
CT : Anh chị em thân mến
Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân hậu. Người đã hy sinh mạng sống để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Dung mạo của Hội Thánh là dung mạo của một người chăn chiên / có trách nhiệm chăm sóc đoàn chiên mà Vị Mục Tử đích thực đã giao phó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử của chúng ta / luôn hành động theo tinh thần phúc âm / hiền hòa trong cung cách đối xử / và biết quên mình vì đoàn chiên.
2- Trên thế giới ngày nay / để có thể phục vụ hữu hiệu dân Chúa và loan báo Tin Mừng / thì số Linh mục và tu sĩ quả là thiếu thốn trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho có thêm nhiều thợ gặt lành nghề trên cánh đồng truyền giáo / dám vì Chúa mà xả thân phục vụ anh em.
3- Hằng ngày / vì nghe và nói biết bao điều không tốt / nên tâm trí con người bị ô nhiễm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các kitô hữu biết giữ miệng lưỡi / chỉ nói những lời xây dựng / đem lại niềm an ủi / niềm vui cho mọi người / và biết chăm chú lắng nghe Lời Chúa.
4- Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sẵn sàng rộng rãi đóng góp vào việc đào tạo các Linh mục / bằng lời cầu nguyện và việc nâng đỡ các Chủng viện.
CT : Lạy Chúa Giêsu, không gì bất hạnh cho một cộng đoàn bằng thiếu vắng bóng dáng Linh mục. Vì thế xin Chúa ban cho chúng con các Linh mục mà mọi người đều cần đến : đó là những mục tử vừa sốt sắng phục vụ bàn thờ, vừa hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ. Chúa hằng sống và…
CHÚA NHẬT IVPHỤC SINH-A
CỬA CHUỒNG CHIÊN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“Kẻ nào ngang qua cửa mà vào, kẻ đó mới là người chăn chiên”. Câu này phải dịch vậy vì bản văn Hy lạp không có mạo từ trước chữ. “Người chăn chiên”, nhưng đúng hơn nên dịch: “là một người chăn chiên”: vì như thế mới thích hợp với hoàn cảnh thực tế của xứ Palestine, bởi có nhiều người chăn cùng nhốt chiên của mình trong cùng một chuồng.
“Kẻ ấy gọi tên từng con”. Bản văn Hy lạp viết: katonoma, mà có lẽ đôi khi người ta dịch quá sát chữ là “từng con bằng tên của nó”. Thực ra, ngay cả thời bây giờ, mục tử xứ Palestine chỉ đặt tên cho những con chiên chính của đàn. Cha Jaussen có kể ra nhiều thí dụ điển hình trong cuốn Naplouse, tr. 305. Thành thử ở đây nói rằng mỗi con chiên có một tên riêng thì hơi quá đáng. Một vài tác giả ưa dịch “Kat onomat” là từng con một” (BJ) hoặc là “riêng từng con” (Jouon). Dù chọn cách giải thích nào đi nữa, thì ý tưởng chính vẫn là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến chiều kích cá vị trong mối tương quan giữa Người với các môn đồ, ngược lại với kẻ mị dân chỉ đối xứ với người ta như những đám đông không tên tuổi.
“Bao nhiêu kẻ đã đến, thảy đều là trộm là cướp”: Đây không có ý nói về các ngôn sứ của Cựu Ước, nhưng là về những người, trong xã hội Do thái cũng như trong thế giới lương dân, thường tự hào là kẻ mang lại cho con người sự hiểu biết về các thực tại thần linh và ơn cứu độ bằng các phương thế riêng của họ.
KẾT LUẬN
Giữa lòng Israel cũng như giữa lòng Giáo Hội, có hai hạng người: những kẻ thực sự thuộc về đấng chăn chiên, biết đáp lại tiếng gọi của một mình Người, và những kẻ không hề lại vì họ chẳng bao giờ thuộc về Đấng ấy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
*1) Thánh Gioan kể lại cho ta một ám dụ, một kiểu so sánh, điều họa hiếm trong Tin Mừng của ngài. Do đó có thể nghĩ rằng ngài muốn gán cho ẩn dụ này một tầm quan trọng đặc biệt. Dụ ngôn được nói cho người Biệt phái và muốn gởi đến họ một sứ điệp thiết yếu.
Biệt phái tự phụ mình là người hướng dẫn kẻ khác nhân danh Thiên Chúa; họ rất ghen với Chúa Giêsu vì Người được lòng dân và làm họ mất uy tín. Thành thử giữa Chúa Giêsu và họ, có một sự tranh chấp ảnh hưởng. Chúa Giêsu sắp nói rõ cho họ biết họ đã ảnh hưởng ra sao và chính Người đã ảnh hưởng thế nào trên đàn chiên Israel.
*2) Chúa Giêsu là cửa vào, Người không loại bỏ một ai khỏi ơn cứu rỗi. “Người đến để tất cả nhân loại có sự sống dồi dào”, ngay cả những kẻ Biệt phái vốn từ khước Người. Khi xưng mình là cửa vào, Chúa Giêsu không còn cách nào rõ hơn để xác quyết độc quyền của Người trong việc thông ban ơn cứu rỗi. Người khẳng định rằng người ta không thể tranh chấp với Người được, vì Người là cửa cứu rỗi duy nhất mà tất cả phải chấp nhận đi qua, và không ai có đặc ân được miễn, ngay cả những kẻ xem ra được trao phó một chức quyền thiêng liêng trong cộng đoàn tín hữu.
*3) Giáo huấn này rất quan trọng và khẩn yếu. Chúng ta có thật sự tin rằng không có một người hướng dẫn nào khác, một vị Thầy nào khác, một lối đi nào khác cho con người ngoài Chúa Kitô không? Có nhiều Kitô hữu, khi phải nói lên điều này hôm nay, đều cảm thấy hầu như lúng túng; họ có cảm tưởng rằng mình tự gán cho mình nhiều đặc ân và đặc quyền trên những người khác. Vì ước mong hiệp nhất thiếu sáng suốt, vì khoan dung thiếu quân bình hoặc vì lẫn lộn các giá trị nên họ cảm thấy hầu như hổ thẹn về lòng tin của họ vào Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, người ta chẳng bảo rằng mọi tôn giáo đều có giá trị như nhau, mọi học thuyết và mọi Giáo Hội đều chính đáng miễn là ta thành thật đó sao? Nhưng khi xưng mình là cửa duy nhất, Chúa Giêsu đã dẹp tan mọi lối biện luận hồ đồ này. Chẳng phải là tất cả mọi người không mang danh hiệu Kitô hữu cách chính thức đều bị ở ngoài chuồng chiên cả đâu nhưng, Chúa Giêsu muốn nói rằng ngay cả người ngoại giáo nào có thiện chí, người vô thần nào cố gắng sống ngay thẳng theo lương tâm, đều đã chỉ nhờ một mình Chúa Kitô mà được như vậy. Thành ra những ai, thuộc về chuồng chiên của Chúa Kitô mà không ý thức rõ ràng, đều phải qua cửa vào là chính Người vậy.
*4) “Chiên Người, Người gọi từng con một”. Có nghĩa là Chúa biết mỗi một người cách đặc biệt. Người có thể biết như vậy vì Người là Thiên Chúa. Đó chẳng phải là một sự kiện đánh động chúng ta cách mãnh liệt đó sao?
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-A
CỬA CHUỒNG CHIÊN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.
Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh cửa mở ra.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.
Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế. Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.
Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó. Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.
Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống
Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.
Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.
Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.
Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn. Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.
Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.
Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.
Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?
2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa, ngăn không cho người khác vào?
3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?
ƠN GỌI THÁNH HIẾN- Lm. Dom. Trần Quang Hiền
Chiều hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng Đaminh Rosalima vừa mới qua đời vào buổi sáng cùng ngày, là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi đang phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà Chúa, nghĩa là hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến, một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Đấng Tình Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của Nữ Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng hay nhắc nhở nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới biết chúng ta trung thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến hơi thở cuối cùng.
Đời tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy sinh, từ bỏ để sống triệt để lời mời gọi của đời sống thánh hiến. Vì thế, trên thực tế ở Châu Âu Giáo Hội đang báo động tình trạng khan hiếm ơn gọi, đời sống thánh hiến không còn hấp dẫn nơi người trẻ nữa, nhiều dòng tu đã đóng cửa, nhiều dòng tu chỉ còn những Cha, Thầy, nữ tu đã già. Nếu so sánh ở Việt Nam, chúng ta vẫn còn cảm thấy phải tạ ơn Chúa vì chúng ta vẫn còn nhiều ơn gọi tuy đang trong tình trạng giảm sút so với trước đây, nhưng vẫn còn có nhiều bạn trẻ quảng đại, dấn thân trong đời sống thánh hiến. Nói như thế, tự bản chất đời sống thánh hiến là đẹp, là hấp dẫn, là ước mơ của bao người, là hồng ân của Thiên Chúa, Chúa yêu thương, Chúa mời gọi và thánh hiến, chỉ có điều là mỗi người chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa mời gọi và quảng đại đáp trả lại tiếng gọi này.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ, trong sứ điệp gởi toàn thể dân chúa nhân ngày ơn gọi năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như sau: “Ơn gọi là hoa trái chín mọng trong một cánh đồng được canh tác tốt bởi tình yêu thương lẫn nhau thể hiện nơi việc phục vụ lẫn nhau, trong bối cảnh của một cuộc sống cộng đoàn thực sự. Không có ơn gọi nào được sinh ra chỉ cho riêng mình hay sống cho chính mình. Ơn gọi triển nở từ con tim Thiên Chúa và đâm hoa kết trái trong mảnh đất tốt của dân trung tín với Chúa, và từ những cảm nghiệm của tình huynh đệ. Chẳng phải là Đức Giêsu đã từng nói: “Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13:35) hay sao?”
Đây chính là câu trả lời cho những thao thức về tình hình ơn gọi giảm sút hiện nay, trả lời cho những chất vấn tại sao các bạn trẻ không cảm thấy bị thu hút nơi những người sống đời thánh hiến nữa? có nhiều lần tôi đã nghe nhiều bạn trẻ nói, nhìn vào cách sống của ông Cha này, ông Thầy kia hay bà Sr nọ con chẳng muốn đi tu chút nào, vì họ sống không triệt để lối sống mà họ đã chọn, vẫn còn lo cho chính bản thân mình, không quảng đại phục vụ người khác, không phải là một mục tử nhân lành….. rồi cũng có nhiều câu hỏi tự chúng ta đặt ra: tại sao giáo xứ, cộng đoàn của tôi ở đây bao nhiêu năm rồi mà chẳng có một mống ơn gọi nào? lỗi do ai? chắc có lẽ mỗi người chúng ta cần phải chất vấn chính mình, tôi có làm chứng một cách hùng hồn về đời sống thánh hiến của tôi để qua đó người trẻ có thể bị hấp dẫn, lôi cuốn muốn dấn thân trong đời sống tu trì hay không? cộng đoàn của tôi có làm chứng về đời sống hiệp nhất, yêu thương, vui tươi trong đời sống thánh hiến và phục vụ người khác hay không? vì ngày nay giới trẻ muốn tận mắt chứng kiến chứng tá của người tu sĩ hơn là qua tu phục, qua những lời giảng dạy. Người trẻ ngày nay bị thuyết phục hơn khi thấy người linh mục, tu sĩ sống khiêm tốn, hy sinh, khó nghèo, quên mình phục vụ người khác. Mẹ Têrêsa thành Calcuta là một mẫu gương sống động nhất về một chứng tá của người tu sĩ quên mình phục vụ những người đau khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi làm cho nhiều người trẻ bị hấp dẫn, lôi cuốn và thế giới phải thán phục.
“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành, Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). Đức Kitô chính là Mục Tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đàn chiên, Ngài yêu thương hết tất cả chúng ta và Ngài muốn hết thảy chúng ta đều là những con chiên dễ thương của Ngài, sống trong một ràn chiên của Ngài. Là những linh mục, tu sĩ chúng ta hãy cố gắng sống xứng đáng là những mục tử nhân lành, biết yêu thương, hy sinh, phục vụ, quan tâm đến giới trẻ, thanh thiếu niên để nhờ đó thanh thiếu niên, người trẻ sẽ cảm thấy được yêu thương, quan tâm, được đánh động bởi chứng tá đời sống thánh hiến của chúng ta, qua đó họ sẽ quảng đại dấn thân trong đời sống tu trì. Để có nhiều ơn gọi, mỗi người chúng ta phải quan tâm vun trồng, gieo hạt, Thiên Chúa sẽ cho lớn lên, vì Ngài chính là Chủ mùa gặt, chúng ta là cánh tay nối dài, khơi dậy nơi thanh thiếu niên và giới trẻ lòng quảng đại dấn thân. Amen.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- A
CHÚA CHIÊN LÀNH– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Phúc âm Gioan triển khai đề tài Mục Tử nhân lành trong bầu khí căng thẳng của cuộc tranh luận giữa đức Giêsu và những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, đặc biệt các người thuộc nhóm Pha-ri-sêu. Sau những khảng định về sự khác biệt căn bản giữa mục tử làm thuê và mục tử chân chính (Ga 10, 1-18), Đức Giêsu long trọng công bố các yếu tố chính yếu trong tương quan giữa Ngài với các kẻ tin vào Ngài, giữa vị Mục Tử tốt lành với các chiên được trao cho Ngài chăn dắt. Chúng ta cùng suy niệm từng điểm một.
Về người Mục Tử:
“Tôi biết chúng”. Rất ít ai đề cập sâu rộng tới cái ‘biết’ của Người Mục Tử nhân lành đối với chiên của mình. Ngài không chỉ biết số lượng (100 con), con ở lại dàn và con đi lạc (99 và 01 con). Ngài biết từng con chiên của Ngài, với những tốt xấu, những mạnh yếu, những thiện chí và ác ý, những nỗ lực và sa ngã… Ngài rành về chiên, có lẽ, còn hơn cả chính chiên biết về mình. Nhưng sự ‘biết’ này khác xa một giám thị soi mói, một cảnh sát rình rập, một quan tòa xét xử. Nó gần giống với với cái biết của một bà mẹ âu yếm đối với đứa con dại. Đó chính là cái ‘biết’ của một Mục Tử nhân lành chăm sóc và tự hiến cho từng con chiên của mình.
“Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi… Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Lời khảng định của Mục Tử thật tuyệt đối: Ngài sẽ dùng tất cả sức lực Ngài để giữ chiên lại với Ngài. Và không chỉ Ngài mà thôi, Ngài còn làm việc đó nhân danh Chúa Cha, với tất cả uy quyền của Cha. Ngài không dùng dây để cột chiên lại, không xây chuồng, gài then để canh phòng, không rào cao, dậu dày để ngăn chặn. Ngài dùng chính tình yêu thương tha thứ và nhân ái để bao bọc. Dây cột, rào dậu duy nhất của Ngài là hiến mình thập giá. Và đó cũng là uy quyền của Cha, vì “Tôi và Chúa Cha là một”.
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời… không bao giờ chúng phải diệt vong”. Công việc hoàn toàn nằm trong tay người Mục Tử. Ngài chủ động và quyết đoán tất cả. Ngài đảm bảo và tuyệt đối quyết tâm chu toàn như một ủy thác tối hậu từ Cha: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả…”
Về phía chiên:
Hình như không đòi một điều kiện tương xứng nào, ngoại trừ “ Chiên nghe tiếng… chiên theo tôi”.
Người ta vẫn thường giải thích, ‘nghe và theo’ chính là chấp nhận và thi hành những điều Chúa (và Hội Thánh) dạy bảo. Ta hình dung Mục Tử là một nhà thuyết giảng luân lý, đạo đức, đứng trên bục giảng…, và chiên là những tín hữu ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.
Không, vị Mục tử nhân lành không coi dạy dỗ là chính. Ngài là (Ngôi) Lời trong bản thể của mình, trong đời sống và cái chết của Ngài. Chiên chỉ thật sự nghe tiếng Ngài khi chiêm ngắm thập giá và phục sinh. Lúc đó chiên nghe thấy Lời tình yêu nhân ái của một Thiên Chúa cứu độ giầu lòng xót thương. Qua việc lãnh nhận bí tích rửa tội, chiên quyết bước đi trong niềm tin vào Lời tình yêu giáng thế. Và cứ thế tiến bước theo Mục Tử nhân hậu và tự hiến suốt cả đời mình.
Chỉ cần có thế, và chiên được sống đời đời và không bao giờ phải diệt vong. Dầu tội lỗi và bất xứng, chiên tin nghe Lời nhân lành và quyết tâm bước theo Mục Tử tự hiến nhân hậu. Phải chăng Ki-tô hữu, trước nhất, phải là những chiên như thế?
Cách nói này của đức Giêsu quả đã gây sốc cho các Pha-ri-sêu, những đôi tai và con tim chỉ có biết mẫu mục tử như Mô-sê (rất chính trực và cao đẹp của Cựu ước, nhưng chưa phải là Ki-tô Giêsu). Xem ra, nó cũng đã từng gây sốc nhiều lần cho cả tôi và bạn nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử duy nhất nhân lành của tự hiến thập giá và phục sinh, xin cho con – Alter Christus của Chúa – được có một chút nét nhân lành và tự hiến quá độc đáo của Chúa. Xin cho con giảm bớt tính mô phạm trong đời mục vụ, và biết gia tăng nơi mình sự tự hiến và lòng thương xót, để các chiên nhận ra nơi con đôi chút hình bóng của Mục Tử Giêsu nhân lành. Amen.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-A
MỤC TỬ NHÂN LÀNH- Lm. G. Nguyễn Cao Luật
Năm 1964 dư luận thế giới xôn xao bàn tán về kịch bản tựa đề “Vị Đại Diện” Trong đó, soạn giả Hóc-hút kết án Đức Giáo Hoàng Piô XII là đồng lõa với Đức Quốc Xã nên đã không hề lên tiếng bênh vực người Do Thái trong thời thế chiến II. Rồi tất cả những người thù nghịch Tòa Thánh Vatican đã nhao nhao hùa vào bôi nhọ gương mặt của Đức Piô XII và đả kích Giáo Hội. Nhưng một năm sau đó, linh mục Rosaria Espuslto đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề “Vụ án Vị Đại Diện” thu thập rất nhiều tài liệu và chứng từ chứng minh cho thấy cái sai lầm của những lời kết tột nói trên.
Thật ra, qua các Tông huấn và hàng trăm thư từ và cả các sứ đíệp đọc trên đài Vatican, Đức Piô XII đã nhiều lần kết án Đức Quốc Xã về quyền con người và các vụ tàn sát do Đức Quốc Xã chủ mưu cũng như bênh vực và cứu hàng ngàn người Do Thái khỏí chết. Và hình ảnh khó quên nhất là khi thủ đô Rô-ma bị quân Đức Quốc Xã bỏ bom, Đức Piô XII đã rời thành Vatican đến uỷ lạo dân chúng bí chết và bị thương trên quảng trường trước nghĩa trang Pam-pu-pi-ra-nô giữa tiếng bom đạn nổ chung quanh. Trong tình hình chiến sự nguy ngập và với những phương tiện eo hẹp của thơì thế chíến II, Đức Piô XII đã hành động như một Vị Mục Tử nhân lành.
Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Đây cũng là đề tài nổi bật của các bài đọc Phụng vụ CN IV Phục Sinh Năm A.
Trong bài Tin Mừng: Chương 10 Tin Mừng Gio-an vẫn được gọi là Tin Mừng Mục Tử nhân lành được khai triển theo một lược đồ quen thuộc trong nền văn chương Khải huyền. Lược đồ đó gồm ba nhịp: Lời Mạc khải – Thái độ không hiểu của cử tọa – Lời Mạc khải mới. Khác với các Tin Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh trên việc săn sóc đoàn chiên và niềm vui của sự hoán cải, Tin Mừng theo thánh Glo-an nêu bật các mối liên hệ cá nhân, thân tình của vị Mục Tử và từng con chiên. Tất cả những hình ảnh Thánh kinh: Mục Tử,.., đoàn chiên và các chiên cũng như các động từ để diễn tả mối tương giữa Thiên Chúa với loài người với cộng đoàn Giáo Hội, dân riêng của Thiên Chúa, trong nhãn quan Kitô.Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhắc nhở hình ảnh Thiên Chúa Mục Tử hướng dẫn dân Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập và đưa họ vào Đất Hứa như được tường thuật trong sách Xuất hành.
Mạc khải thứ nhất trong chương 10 Tin Mừng theo thánh Gio-an nêu bật sự khác biệt giữa Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành và các người chăn thuê: Chúa Giêsu đi vào qua cửa chính chứ không đột nhập chuồng chiên bởi vì Người là chủ chăn có các mối liên hẹ thân tình với đoàn chiên, bằng chứng là Người biết và gọi trên từng con chiên một và các chiên biết tiếng gọi của Người. Động từ “biết” ở đây theo ngôn ngữ Thánh Kinh ám chỉ các liên hệ thân tình liên bản vị như liên hệ sâu thẳm khắng khít giữa hai vợ chồng.
Và Chúa Giêsu Mục Tử dẫn đưa đoàn chiên đi ra tới các đồng cỏ xanh tươi, Người hướng dẫn và đồng hành với đoàn chiên. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả cuộc Xuất hành mới do Chúa Giêsu lãnh đạo Cộng đoàn của những người đi theo Người trong cuộc giải phóng này là cộng đoàn Phục Sinh, là Giáo Hội đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tội lỗi và khỏi mọi sự dữ và cái chết. Sau phản ứng không hiểu của cử tọa, Chúa Giêsu tuyên bố mình là Cửa chiên. Lúc đó trong khi giảng dạy, Chúa Giêsu nhìn Cửa chiên là một hình ảnh của cửa thành thánh Giê-ru-sa-lem và đoàn tín hữu tiến qua cửa chiên đó để vào Đền thờ cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế khi tuyên bố mình!à Cửa chiên, Chúa Giêsu có ý nói Người là nơi mà qua đó con người bước vào trong tương quan trọn vẹn với Thiên Chúa. Người là ngôi lều bằng thịt nơi Thiên Chúa ngự trị và sống giữa dân người, đồng thời là trung gian cần thiết, nghĩa là Cửa chính qua đó con người tới được với Thiên Chúa.
Kiểu nói “Ta là” ám chỉ tên gọi của Thiên Chúa đã mạc khải cho ông Mô-sê trong sa mạc xưa kia: ‘Ta là Đấng Hằng Hữu. Nói cách khác Chúa Giêsu tự xưng mình là Thiên Chúa. Chính vì thế nên ai tin vào Người, chấp nhận và sống Tin Mừng của Người sẽ được ơn Cứu độ. Lòng tin đó vào Chúa Gìê-su, Đền Thờ toàn vẹn của Thiên Chúa Cha bao gồm ba kết quả quan trọng:
Thứ nhất: nếu ai bước vào trong đó sẽ được cứu rỗi, nghĩa là ai chọn tôn thờ Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật, tức là trong Chúa Giêsu Kitô, thì được thông phần trọn vẹn vào sự sống thần linh của Người, và vì thế được ơn cứu rỗi.
Thứ hai: người đó sẽ “vào, ra”. Theo klểu nói của người Do Thái, hai động từ đối chọi này ám chỉ hai cực của cuộc sống con người: là ra khỏi lòng mẹ để chào đời, để bước vào trong lòng thế giới; là ra khỏi cuộc sống ở trần gian này để đi vào lòng đất. Nói cách khác, ‘vào ra, ra vào’ diễn tả toàn bộ cuộc sống của người tín hữu với Chúa Kitô, một cuộc sống của sự hiện diện và đồng hành với Chúa Kitô, một cuộc sống kết hiệp với Người trong mọi sự.
Thứ ba: tín hữu sẽ tìm thấy đồng cỏ xanh. Chúa Giêsu Kitô sẽ đáp ứng mọi khát vọng và chờ mong của họ và cho họ hưởng nếm những phút giây hạnh phúc trên đồng cỏ xanh tươi là Nước của Người. Điều đó còn có nghĩa là Người luôn luôn chăm sóc cho đoàn chiên của Người khác với “những kẻ trộm trèo qua cửa sổ” để cướp bóc và tàn sát đoàn chiên.
Chúa Giêsu Kitô Mục Tử nhân lành đến để trao ban cuộc sống của chính Người và niềm vui dồi dào cho những ai tin vào Người. Nhưng để có niềm tin trao ban sự sống và niềm vui ấy chúng ta phải làm gì?
Trong bài giảng cua thánh Phêrô trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như ghi trong chương hai sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô đề nghị với mọi người một chương trình hoán cải bao gồm các đểm giáo lý nền tảng như được rao giảng trong cộng đoàn Kitô tiên khởi. Muốn được hưởng ơn Cứu độ, người tín hữu phải lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người, nghĩa là lựa chọn Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người làm kim chỉ nam cho toàn cuộc sống. Quyết định này dẫn tín hữu đến chỗ thay đổi tấm lòng, thay đổi lối sống từ cách suy tư và hành xử, để cho Chúa Giêsu Kitô biến đổi toàn cuộc sống của mình.
Tiến đến cần lãnh nhận bí tích Rửa tội và Chúa Thánh Thần để được ơn tha tội và bước vào cuộc sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa. Như thế, khi được tràn đầy Chúa Thánh Thần, tín hữu trở thành một thụ tạo mới vì có trong mình một nguyên lý sự sống mới thần thiêng, siêu việt. Dân riêng mới phát sinh từ những người biết tìếp nhận Lời Chúa.
Nơi bài đọc II trích từ thư I của thánh Phêrô chỉ cho chúng ta một bí quyết khác giúp tín hữu đón nhận được sự sống mới, đó là chiêm ngắm dung mạo của Chúa Giêsu Kitô khải hoàn, vinh híển được diễn tả trong Kính thánh Cựu Ước là “Chiên Con” của Lễ Vượt Qua, là “Người Tôi Tớ Đau Khổ của Gia-vê Thiên Chúa” và là con dê đền tội trong lễ nghi xá giải xưa kia. Việc chiêm ngắm gương sống của Chúa Giêsu Kitô khiến cho tín hữu dấn thân sống xác tín bằng lòng tin sâu đậm hơn. Khổ đau mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống thường ngày không còn là một lời chúc dữ tối tăm nữa nhưng chất chứa môt mầu nhiệm phong phú cần phải khám phá ra với đôi mắt đức tin. Nếu chính câc vết thương đớn đau và khổ nhục của Cllúa Giêsu cbịu chết treo trên thập giá chữa chúng ta khỏi các thương tích do tội lỗi gây ra trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta, thì giờ đây chúng ta có thể dùng mọi đau khổ trong đời để tiếp tục phổ biến ơn lành Cứu độ phát xuất từ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và đó là hoa trái tuyệt diệu và bất ngờ nhất của đức tin Kitô.
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- A
MỤC TỬ CHÂN CHÍNH- Lm. Trần Xuân Lãm
Mục tử là thuật ngữ Cựu ước dùng để chỉ về Chúa. Trong Sáng thế ký, Gia-cóp tuyên xưng Chúa là Vị mục tử của ông từ lúc ông sinh ra. Trong thánh vịnh 23, David nói: “Chúa là mục tử của tôi, tôi chẳng còn thiếu thốn chi”. Tiên tri Isaia nói Chúa sẽ dẫn đưa Do thái khỏi chốn lưu đầy, như mục tử vác chiên trên vai (40:11). Trong Cựu ước, đã có những mục tử chính danh làm đúng ý Chúa như David, Mô-sê. Nhưng cũng có những mục tử xấu không làm tròn bổn phận. Với hạng này, tiên tri E-zê-ki-en đã cảnh cáo: “Khốn cho những mục tử nhà Is-ra-en là những kẻ, thay vì chăm sóc đàn chiên, lại chỉ chăm sóc chính mình” (Ez 34:2)
Có nhiều hình ảnh và tính cách chỉ về mục tử, cần làm rõ nét:
Mục tử gọi đích danh chiên của mình:
Tại Palestine, người ta thường vây hàng rào cao để lùa chiên vào và canh giữ. Cửa được mở ra mỗi buổi sáng. Chiên xem ra sợ sệt lúc ra khỏi chuồng cũng như khi trở về buổi chiều. Chỉ khi chúng nghe tiếng mục tử, chúng bắt đầu tiến lên, và khi chúng nghe mục tử gọi tên, chúng bước ra. Chúa yêu chúng ta, Chúa gọi đích danh từng người, chúng ta theo Chúa và chúng ta sẽ được cứu thoát.
Mục tử bước đi trước chiên:
Nhiều nơi, như ở Australia, mục tử dùng gậy hoặc dùng chó để hướng dẫn chiên. Nhưng ở Palestine, mục tử đi trước, chiên bước theo sau. Hình ảnh này nói lên Chúa dẫn dắt ta, không phải Ngài lùa ta đi. Ngài đi trước ta, ta tin tưởng bước theo Ngài.
Cửa chuồng chiên:
Khi chiều buông, đàn chiên không kịp về chuồng trước nửa đêm, thì mục tử lùa chiên vào trong hang, rồi anh ta nằm chắn ngay lối vào. Chiên sẽ không lang thang đi ra ngoài. Và thú dữ cũng chẳng có thể vào hang bắt chiên. Mục tử tự làm cho mình thành cửa chuồng chiên. Không một ai ra hay vào mà không bước qua anh ta. Qua hình ảnh tuyệt đẹp này, Chúa Giêsu cho ta biết chẳng có ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài.Ta chỉ được cứu thoát vì tin và đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Kẻ trộm và cướp bóc:
Những ai không qua cửa mà vào thì không phải mục tử mà là kẻ trộm và kẻ sát hại. Ai không qua Chúa Giêsu thì kẻ ấy kéo bày chiên xa rời Thiên Chúa. Thánh Gioan ám chỉ các lãnh đạo Do-thái. Bởi họ đã trục xuất Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài ra khỏi hội đường của họ. Gio-an ví họ những kẻ bỏ mặc đoàn chiên cho trộm cắp và sát thủ.
Quả thực Chúa là Mục tử: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” (Tv. 23).
CHÚA CHIÊN CỦA TÔI- Lm. Gioan Vũ Nghi
Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện mồ côi. Mấy ngày trước đó, bố mẹ của em đã cãi vã với nhau, rồi bố em đã bắn chết mẹ em, rồi quay súng lại mà tự vẫn. Tất cả xảy ra trước sự chứng kiến của em. Đến ngày Chúa Nhật sau đó, em được đưa đến Nhà thờ Công Giáo để tham dự thánh lễ và sau đó, dự lớp Giáo lý. Vì sợ cô giáo không hiểu hoàn cảnh của em, người coi sóc viện mồ côi đã phải căn dặn cô giáo: Bố mẹ của em là người vô thần, nên chắc chưa bao giờ bé được nghe về Thiên Chúa, vì vậy, xin cô giáo nhẫn nại với em. Trong buổi học đầu, cô giáo đã giơ cao một bức hình Chúa Giêsu và hỏi cả lớp: “Có em nào biết đây là ai không?” Cô bé giơ tay trả lời: “Em biết, đó là người đã ôm em vào lòng sau khi ba má em chết.”
Câu chuyện của em bé trên đây chỉ là một trong ngàn vạn câu chuyện thương tâm khác đang xảy ra trong xã hội ngày nay. Chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết bố mẹ, bạn bè thanh toán nhau, nhân công ám hại nhau, là những mẩu tin chúng ta thường đọc thấy trong báo hằng ngày. Trong những ngày tháng gần đây, nạn khủng bố đã gây tang tóc thương đau cho biết bao gia đình. Những lá thư hăm dọa đã khiến cho con người sống trong lo sợ. Quân khủng bố đã bất chấp thủ đoạn khi hành động. Tháng Giêng vừa qua tại Do Thái, lần đầu tiên một phụ nữ đã nổ bom tự sát để giết người. Sau đó, người ta tìm ra chị ta là một trong những nhân viên cứu thương của thành phố. Hôm trước cứu người; hôm sau giết người. Thật là khó hiểu. Hơn nữa, họ còn coi đây là thánh chiến. Lắm lúc nghĩ cũng thấy buồn. Ba tôn giáo lớn trên thế giới: Kitô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, thế mà đã mười mấy thế kỷ chém giết nhau. Con cháu tổ phụ Abraham ngày nay đã đông như sao trên trời như cát dưới biển, đúng như Lời Chúa đã hứa, nhưng tiếc thay con cháu tổ phụ lại cắn xé nhau, để rồi gây tan tác cho đoàn chiên của Chúa.
Khi xưa, Chúa Giêsu sống trong một xã hội tuy không hận thù khủng bố, nhưng cũng mang đầy những thù ghét, chia rẽ, kỳ thị và bất công. Những người Samaritanô, tuy cũng mang giòng máu Do thái, nhưng lại bị người Do thái coi là dân ngoại; những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, nên tuyệt đối bị những người “ngoan đạo” xa tránh; những người phong cùi bị đuổi ra sống bên ngoài xã hội. Đứng trước thảm trạng đó, Chúa Giêsu đã đến và đã ví mình như gà mẹ túc con dưới cánh để bảo vệ và vỗ về. Chúa đã tỏ tình thương và mối quan tâm đặc biệt đối với những người tội lỗi, nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề của xã hội. Chúa cũng ví mình như một Chủ Chiên đến để qui tụ đoàn chiên đã bị chia ly phân tán, và để đem lại sức sống và niềm hy vọng cho đoàn chiên: “Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào.”
Với hiện trạng của thế giới, Lời Chúa vẫn còn mang một ý nghĩa đặc biệt cho con người ngày nay. Thật vậy, Chúa Giêsu, Chúa Chiên của chúng ta, đã đến để chúng ta được sống, nhưng không phải sống trong chán chường tẻ lạnh, một cuộc sống vô nghĩa. Chúa đến là để chiên của Ngài được sống một cách dồi dào, nghĩa là một cuộc sống đầy yên vui, an bình, và yêu thương. Đó là điều Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta, và Ngài đã và đang thực hiện lời hứa của Ngài nơi những con chiên đáp lại lời mời gọi của Ngài và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.
Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn chiên của Ngài. Đây không phải là lời mời gọi một cách chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực tiếp. Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô, Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn, và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống. Ngài ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn trong cuộc đời. Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò hãm hại chúng ta. Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đức con phung phá.
Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài. Hãy luôn nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự hướng dẫn phù trợ của Ngài. Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an. Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm hồn chúng ta được. “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng tôi” (Tv 23)
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- A
“CÁC MỤC TỬ HÃY GẦN GŨI VỚI DÂN CHÚA”– Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Sáng thứ Sáu 24/4, Đức Thánh Cha Phanxicô dâng Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta.Tin Mừng phụng vụ hôm ấy nói về phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều. Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng và sau đó Ngài bảo các môn đệ hãy cho dân chúng ăn. Đức Thánh Cha lưu ý rằng, Chúa Giêsu hay trắc nghiệm các môn đệ, như trong trường hợp hóa bánh và cá ra nhiều. Trong Tin Mừng, có nhiều cử chỉ của Chúa Giêsu như thế để cho các môn đệ được lớn lên và trở thành các mục tử của dân Chúa.
Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Tại sao Chúa Giêsu lại làm như vậy? Bởi vì Chúa Giêsu ưu thích ở với dân chúng, nhưng các môn đệ thì lại không thích điều này vì các ông thích ở gần bên Chúa hơn. Cho nên các ông thất vọng vì một ngày nghỉ ngơi với Chúa bị phá hỏng do sự hiện diện của đám đông”. Rồi Đức Thánh Cha nói: “Chúa tìm cách ở với dân chúng, tìm cách huấn luyện tâm hồn các mục tử gần gũi với dân Chúa. Mặt khác, các môn đệ cảm thấy mình thuộc về một thành phần được ưu tuyển, thuộc tầng lớp quý tộc, gần bên Chúa, và nhiều lần Chúa đã sửa dạy họ về điều này”. Đức Thánh Cha đưa ra vài ví dụ về việc Chúa dạy các ông về điều này: Khi các trẻ nhỏ đến với Chúa, các môn đệ không muốn nhưng Chúa thì lại yêu cầu để các em đến với Chúa. Rồi khi Chúa và các ông đang đi trên đường đến Giêrusalem có một người mù thành Giêricô kêu lớn tiếng xin được Chúa chữa, Chúa cũng đã dừng lại để chữa lành ông”. Đức Thánh Cha khẳng định: “Đúng là dân Chúa làm cho các vị mục tử mệt mỏi. Khi mục tử làm nhiều điều tốt cho dân chúng thì dân chúng đến với mục tử”. (Ngọc Yến – Vatican News – Tiếng Việt, 25/4).
***
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các mục tử: “Hãy gần gũi với dân Chúa”.
Mục tử luôn sống giữa đoàn chiên và đồng hành gắn bó với dân Chúa. Mục tử “là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. (Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử). Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó. Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đã nêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội. Khi sống sứ vụ theo gương Chúa Giêsu, các mục tử sẽ luôn gần gũi với dân Chúa.
Sống hết tình với anh em
Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em.
Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.
Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.
Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng : nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác; mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình). Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác. (Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).
Cầu nguyện nhiều cho dân chúng.
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy. Chúa Giêsu cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết vẫn còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời.
Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.
Hy sinh tính mạng vì anh em mình.
Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18). Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên.
Ngày 20/04, dựa trên cơ sở thông tin nhận được từ các giáo phận, Hội đồng giám mục Tây Ban Nha đã công bố có khoảng 70 linh mục ở Tây Ban Nha đã qua đời do Covid-19 kể từ khi đại dịch bùng nổ.Trong khi đó, số linh mục triều tại Ý qua đời vì virus corona đã lên đến 115 vị. (x.Avvenire 20/04/2020). Nhiều vị trong số đó đã bị nhiễm virus từ những bệnh nhân mà các ngài phục vụ.Theo tờ New York Times, các linh mục và tu sĩ, “đặc biệt là các vị ở những khu vực bị nhiễm virus corona nặng như Bergamo, đã mạo hiểm cuộc sống của họ, để đáp ứng nhu cầu tâm linh cho các tín hữu sùng đạo và lớn tuổi, vốn bị virus corona tấn công mạnh nhất”. Trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh 2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tôn vinh các linh mục này như “những vị thánh bên cạnh” chúng ta. (x.vietnamese.rvasia.org). Tổng giáo phận Boston đã tập hợp các nhóm linh mục – sống cùng nhau tại các địa điểm chiến lược gần bệnh viện, để đảm nhận việc xức dầu cho bệnh nhân covid-19. Có khoảng 80 linh mục được đào tạo để thực hiện nhiệm vụ này, với 30 linh mục tích cực thực hiện các cuộc xức dầu bệnh nhân; số còn lại phục vụ dự phòng. Đây là điều đặc biệt an ủi với những gia đình hiện không được phép đến thăm những người thân yêu trong bệnh viện và những người đang được điều trị bệnh covid-19. (theo CNA).
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành gần gũi biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.