CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
YÊU KẺ THÙ(*)– Chú giải của Noel Quesson. 6
ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN…- Chú giải của Fiches Dominicales 14
YÊU THƯƠNG KẺ THÙ (*)- Lm.Inhaxio Hồ Thông. 24
SỐNG BĂNG YÊU THƯƠNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 41
YÊU THA NHÂN VÔ BỜ BẾN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 53
YÊU “KẺ THÙ” NHƯ THẾ NÀO ĐÂY?– Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 67
LUẬT CỦA TÌNH YÊU TOÀN THIỆN- Linh mục Giuse Nguyễn Thành Long 74
HÃY NÊN TRỌN LÀNH NHƯ CHA TRÊN TRỜI– Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến 79
LÒNG BAO DUNG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 87
THA THỨ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 92
YÊU KẺ THÙ LÀ THÁNH- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 98
SỐNG CHỮ NHẪN– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 103
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN-A
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình”.
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy nói cho toàn thể cộng đồng con cái Israel: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi. Đừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Đừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 102, 1-2. 3-4. 8 và 10. 12-13.
Đáp: Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. – Đáp.
2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. – Đáp.
3) Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. – Đáp.
4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 3, 16-23
“Tất cả là của anh em, nhưng anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh, mà chính anh em là đền thờ ấy.
Đừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy hãy nên điên dại để được khôn ngoan: vì sự khôn ngoan của thế gian này là sự điên dại đối với Thiên Chúa, vì có lời chép rằng: “Chính Người bắt chợt những người khôn ngoan ngay trong xảo kế của họ”. Lại có lời khác rằng: “Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền”. Vậy đừng có ai còn tự phô trương nơi loài người. Vì tất cả là của anh em, dù là Phaolô, hay Apollô, hoặc Kêpha, hoặc thế gian, sự sống hay sự chết, hoặc hiện tại hay tương lai. Tất cả là của anh em, nhưng anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 5, 38-48
“Các con hãy yêu thương thù địch các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe bảo: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ.
“Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Đó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN-A
YÊU KẺ THÙ(*)– Chú giải của Noel Quesson
“Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng….còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”
Tiếp nối bài giảng trên núi, chúng ta đang ở phần đề thứ năm và thứ sáu trong luật mới. Đức Giêsu đã chống lại những gì đã được nói trước kia hay đúng hơn người kiện toàn chúng. Nhưng cách nói này có một uy quyền chưa từng thấy, nhất là khi người ta biết công thức ở thể thụ động (“luật dạy người xưa” = luật được dạy cho…) là một ngữ điêu trong ngôn ngữ Do thái, được dùng vô vị, để tránh việc sử dụng danh của Thiên Chúa mà người ta không bao giờ nói ra vì lòng tôn kính Người. Nói rõ ra công thức này có nghĩa; “Thiên Chúa đã nói..còn Thầy, Thầy cho anh em biết…”. Cũng thế, công thức “anh em đã được nghe, được dạy…” gợi lại việc đọc trang trọng luật trong phụng vụ ở Hội Đường. Đó là luật thánh, bất khả xâm phạm toả ánh vinh quang của núi Xi-nai. Vậy, Đức Giêsu đã dám chống lại lời của Thiên Chúa, sách kinh Tô-ra bằng những khẳng định riêng Người. Không bao giờ có một ngôn sứ nào đã nói như thế. Vai trò của họ chỉ là truyền đạt lại hay chú giải sứ điệp của Thiên Chúa: “Đức Chúa nói như thế…” Để nói như Đức Giêsu, phải là người điên hoặc là Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã dạy anh em… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em…” Người ta biết rằng Người đã bị buộc tội phạm thánh.
Nhưng phần tiếp theo sẽ chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng đó là một sứ điệp thật sự siêu phàm, một sứ điệp của Thiên Chúa!
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự người ác…”
Tầm thước thời đại của chúng ta… khó mà hiểu được “luật phạt ngang bằng” (loi du talion). Làm thế nào mà Luật của Môsê (Luật của Thiên Chúa) đã có thể phát biểu một luật như thế. Vả lại, luật này đã là một tiến bộ to lớn đối với bản năng: trả thù rất tự nhiên nơi con người. Bởi luật phạt ngang bằng ấy, những luật theo tập quán của Phương Đông Cổ đại (ví dụ: bộ luật Ham mourabi) cố gắng giới hạn những sự trả thù thái quá. Hành động tự nhiên của người bị tấn công là “trả đũa nhiều hơn”. Như một bài ca man rợ mà La-méc đã hát: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mười bảy…” (St 4,24). Vì thế luật ấy đã cố gắng giới hạn bạo lực và khuyến cáo chỉ nên bắt kẻ tấn công chịu sự đối xử giống như người này bắt nạn nhân của hắn phải chịu (Xh 21, 24; Lv 24,20; Đnl 19,21). Hình như chúng ta đã hoàn toàn vượt qua luật này của Kinh Thánh vì nó được viết ra cho một thời- đại khác với thời đại của chúng ta. Than ôi! Nếu như người ta cứ sống mãi theo luật hình phạt ngang bằng! Biết bao thành phố bị ném bom bởi sự “trả thù” thật biết bao cuộc đấu tranh chủng tộc, quốc gia, xã hội trong đó người ta áp dụng điều ngược lại với “luật hình phạt ngang bằng, nghĩa là sự leo thang của bạo lực”. Nó áp dụng cho người nào sẽ là người mạnh nhất cho người nào sẽ trả đũa lại những cú đòn đã nhận được! người ta nói một cách ngây thơ về ‘những tương quan lực lượng’ nhưng đó luôn luôn là một bản năng man rợ lâu đời.
Đức Giêsu đã táo bạo mời gọi con người đi đến hoàn thiện của tình yêu Người bảo chúng ta rằng không nên trả thù về mọi việc… không nên đánh trả kẻ hung ác! và vốn là một nhà thuyết giảng cụ thể, đại chúng, Người sẽ cho chúng ta bốn ví dụ:
“Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa…
Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài…
Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dăm…
Ai xin thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi..”
Ở đây cũng thế, Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những công thức đạo đức hoàn toàn có sẵn. Điều quan trọng là một “tinh thần” chứ không phải là một “quy tắc”. Chính Đức Giêsu, khi đã nhận cái vả của người đầy tớ Thượng Tế, đã không giơ má kia ra! Người đã đáp lại dũng cảm và xứng đáng: “Sao anh lại đánh tôi” (Ga 18,23).
Vả lại người ta không có quyền dựa trên những lời đó của Đức Giêsu để bảo lãnh cho sự bất công, ở đây, chúng ta không có những quy tắc luật pháp có thể áp dụng nguyên xi cho xã hội dân sự: điều này sẽ khuyến khích tình trạng ăn xin, khích lệ bạo lực và tội ác, không bảo đảm sự trừng phạt những kẻ bất lương. Chắc chắn, Đức Giêsu đã không muốn công nhận một tình trạng áp bức bất bình thường khi đòi hỏi những kẻ yếu phải cam chịu. Cũng có những trường hợp mà một môn đệ chân chính của Đức Giêsu phải chiến đấu: cam chịu sự bất công, nhất là sự bất công mà những người khác là nạn nhân, hoàn toàn trái ngược với tinh thần của Đức Giêsu. Sau khi đã nêu ra những khía cạnh đó, hãy để Đức Giêsu tra hỏi chúng ta. Phải, tất cả chúng ta đều phải chiến thắng bản năng trả thù tròng con người của mình. Điều ác sẽ không bị vượt qua khi chúng ta đáp lại nó bằng một sự tàn nhẫn tương đương. Khi người ta trả đũa điều ác bằng điều ác, người ta trở về với vòng tròn hỏa ngục. Thật vậy, điều ác mà chúng ta chịu đựng thật ra vẫn còn ở bên ngoài chúng ta. Nhưng khi người ta đáp trả lại điều ác, điều ác ấy sẽ có thêm một chiến thắng phụ nữa, bởi vì nó đã đi vào lòng chúng ta. Đức Giêsu muốn mở ra một con đường khác cho nhân loại: chiến thắng điều ác bằng điều thiện, dùng tình yêu để đáp lại hận thù.
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”.
Trong Kinh Thánh, người ta có tìm kiếm một quy tắc như nhưng thế cũng vô ích. Thật vậy, Đức Giêsu muốn ám chỉ thái độ thông thường của toàn thể nhân loại; được diễn tả rất mạnh trong nhiều bài Thánh vịnh về “sự trừng phạt của Chúa”, trong đó lòng thù ghét tội lỗi đi đến chỗ biện minh cho sự thánh chiến: “Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139,19-22). Những thủ bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: “Ngươi sẽ ghét những đứa con của bóng tối”. Vả lại, phải hiểu ở đây trước hết không phải là những kẻ thù của mình mà là những “kẻ thù của Thiên Chúa” tức là những kẻ thù của của nhóm giáo sĩ gồm “con cái của ánh sáng. Vậy sự thù ghét trước hết có ý nghĩa là từ chối ý thức hệ của họ.
“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”.
Đây là điều mới mẻ cao cả nhất của Tin Mừng. Cho đến bây giờ người ta đã cầu nguyện “chống lại” các kẻ thù của mình (Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29; v.v…) Giờ đây phải cầu nguyện cho họ, nghĩa là để cho họ được hoán cải. Nhưng hãy coi chừng, người ta không thể sống Tin Mừng, bằng cách chỉ ở lại trên bình diện con người. Làm điều mà. Thiên Chúa vừa đòi hỏi chúng ta là đã vượt quá những khả năng của con người. Nếu Đức Giêsu bảo chúng ta yêu mến kẻ thù, chúng ta bởi vì Thiên Chúa là người đầu tiên yêu chúng ta như thế Phải đọc lại đoạn văn nổi tiếng của thánh Phaolô gởi tín hữu Rôm (5,7.8): “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi”. Khi chúng ta đứng trước một tình yêu thương mà về mặt con người, chúng ta khó sống hoặc không thể sống nổi thì chúng ta không còn ở lại trên bình diện tâm lý, đạo đức và xã hội… mà phải đặt mình trước măt ảnh chuộc tội: Lạy Chúa Giêsu con của Chúa Cha, Chúa đã muốn điều tốt lành cho những người muốn Chúa chịu điều ác… Chúa đã đau khổ và đã chết… Tình yêu chúng kẻ thù chỉ có thể đến từ Thiên Chúa không ngừng thực hiện, ‘Người cho mặt trời của Người mọc lên trên cánh đồng của người vô thần bách hại đạo, cũng như trên khu vườn của các nữ tu Cát Minh’. Bạn có tự hỏi mình phải làm gì để yêu thương người không yêu thương bạn không?
Thiên Chúa đã yêu bạn như thế nào? Bằng cách không ngừng tha thứ cho bạn. Đức Giêsu chỉ dám yêu cầu chúng ta sống tình yêu thương xem ra không thể có đối với kẻ thù bởi vì Người đã sống nó trước tiên: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
“Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?
Người đã nói: chúng ta hãy trở thành muối và ánh của thế gian. Vì thế Người mời gọi chúng ta chấp nhận một cung cách hoàn toàn mới về mặt nhân loại là không thể có cắt đứt với mọi cung cách của những người khác. Để bắt chước Thiên Chúa; noi gương Người, chúng ta phải đi đến tận cùng tình yêu ấy vốn không đơn giản là một tình yêu có qua có lại: Tôi yêu thương bạn bởi vì bạn yêu thương tôi, tôi chào bạn bởi vì bạn chào tôi… Đức Giêsu nói, người ngoại cũng chẳng làm như thế. Phần Thiên Chúa; trước sự khước từ tuyệt đối không đáp lại tình yêu, Người vẫn duy trì quyết định tuyệt đối là yêu thương. Theo Đức Giêsu yêu không thể chỉ được giản lược vào bình diện tình cảm, sự lôi cuốn, cảm tính, quyến luyến. Đức Giêsu không chê trách tình yêu đó, mà chúng ta rất cần. Ai có thể sống mà không có sự dịu dàng âu yếm đó? Có điều, Đức Giêsu bảo chúng ta rằng không nên ở lại mãi trong tình yêu đó.
Phải Đức Giêsu bảo chúng ta phải yêu thương kẻ thù của mình. Và chúng ta có sẵn nghệ thuật xoa dịu yêu sách của Tin Mừng, chúng ta nói: ‘Tôi không có kẻ thù…’ Lúc đó, chúng ta phải chấp nhận ánh sáng sống sượng và mạnh mẽ mà Đức Giêsu soi chiếu trên cuộc đời con người đã mang dấu ấn của những xung đột không thể tránh khỏi: Thật ra mọi người không giống tôi đều xúc phạm và làm tôi tổn thương. “Cái làm cho người khác khác tôi”, cáo giác tôi và nhắm đến việc loại bỏ tôi… ‘Tính tình ấy rất khác tính tình của tôi’ làm tôi bực dọc giết chết tôi. ‘Cái cách nói năng đó… cái cách cư xử đó…’ làm tôi phát cáu. Bạn đừng chờ đến ngày mai. Ngay trong giây phút này bạn. hãy ngừng ngay suy nghĩ của bạn…. và hãy làm điều Đức Giêsu bảo bạn: Hãy cầu nguyện, dù chỉ trên danh nghĩa cho những người làm bạn bực bội, những người làm bạn đau khổ, những người mà bạn không yêu hoặc những người không yêu bạn.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Yêu thương những người không yêu chúng ta… đó là noi gương Thiên Chúa. Hãy làm điều thiện hảo cho những ai làm hại chúng ta, đó là điều linh thánh. “Kitô hữu là gì? Đó không phải là đã đạt đến mục đích cao cả nhất tức tình yêu phổ quát, mà là cố gắng vươn lên tình yêu ấy. Đây không phải là một thứ đạo đức hiền từ nhu nhược dành cho những người có tình cảm bất lực. Chúng ta là những con cái của một Chúa Cha được “ôm ấp tròng lòng của Người” dù là kẻ xấu cũng như người tốt. Trên thập giá Đức Giêsu có quyền nói với chúng ta những yêu sách ấy. Người là Đấng bị người ta vả vào má… bị người ta lột áo trong, áo ngoài… bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công… bị người ta đem ra xét xử trong một vụ kiện bất công… bị người ta lôi đi hai dặm trên con đường lên núi Can-va-ri-ô. Người là “Đấng bị đóng đinh mà không có lòng thù hận”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ANH EM HÃY NÊN HOÀN THIỆN…- Chú giải của Fiches Dominicales
Những áp dụng cụ thể của luật mới…
Khi tuyên bố rằng Ngài “đến không phải để hủy bỏ Lề luật và các Tiên Tri, nhưng là để kiện toàn”. Trong Bài giảng trên núi, Đức Giêsu mạc khải “sự công chính” mới của Nước Trời hệ tại điều gì: đó không phải là giữ Luật cách hình thức, nhưng là “tự điều chỉnh” theo ý Chúa Cha như Ngài, là sống thông hiệp trong tình yêu và tự do của Người Con như Ngài. Rồi nhờ vào 5 minh họa, Ngài cụ thể hóa “sự công chính” mới này, và cho biết rằng để thực hiện toàn bộ Lề luật người tín hữu phải đầu tư toàn bộ cuộc sống của mình. Cả năm minh họa đều bắt đầu bằng một dạng thức duy nhắt biểu lộ một quyền lực phi thường: ‘Anh em đã nghe người xưa được dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết’. Ba minh họa đầu tiên trong Phúc âm chúa nhật vừa qua, hai minh họa cuối cùng trong Phúc âm hôm nay.
Minh họa thứ tư nhân nhượng mối tương quan và Để tránh những sự trá thù thái quá ngoài tầm kiểm soát luật báo thù (loi du talion) dự kiến kẻ gây hấn sẽ bị đối xử tương xứng với điều thiệt hại đã gây ra cho nạn nhân “Mắt đền mắt” – nhưng không phải là đền hai mắt, “răng đền răng” nhưng không phải là cả hàm (xem Lêvi) Luật này đã là một tiến bộ thực sự trong việc trấn áp tội phạm.
Phần Đức Giêsu, ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẽ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp, và được báo thù.
Ba ví dụ sau đều ở ngôi hai số ít:
+ Ví dụ thứ nhắt về “cái tát”: “Nếu ai vả má bên phải con, hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” Dĩ nhiên không thể hiểu lệnh mâu thuẫn này theo nghĩa đen. Chính Đức Giêsu cũng đã không giơ má khác cho tên đầy tớ tát tai. Ngài hỏi hắn: “Nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói đúng, sao anh lại tát tôi?” (Gioan 18,23). Như vậy, đứng trước kẻ gây hấn, người theo Chúa để có một hành vi vừa thách thức vừa làm cho kẻ địch hết chống trả.
+ ví dụ thứ hai về người môn đệ bị người khác có ý định đưa ra tòa và người đó muốn lấy áo trong (tưnique) người môn đệ làm vật thế chấp, nghĩa là áo lót. Đức Giêsu chủ trương: “Hãy để cho nó lấy cả áo ngoài nữa”. Trong khi đó, theo Luật, áo ngoài và áo trong là của không thể sang nhượng được của người nghèo; chiếm hữu chúng là xâm phạm đến chính Thiên Chúa (coi Xh 22, 25-26). Khi để bị trần trụi đến cho đi cả áo theo gương Thầy mình, các Kitô hữu biết rằng sự khó nghèo như vậy, họ là những kẻ chiến thắng, bởi vì họ sẽ được lòng thương xót của Thiên Chúa bao bọc.
+ Ví dụ sau cùng là ví dụ về sự “trưng tập”, thường được quân đội và các viên chức chánh quyền Rôma dùng để làm việc công ích (một hình thức lao dịch thời đó). Đức Giêsu còn nói thêm. “nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”. Ngoài bài giảng trên núi, thánh sử Mátthêu chỉ dùng động từ “trưng tập” một lần khác khi quân lính trưng tập Sinon thành Xyrênê, một dân ngoại, lúc đó tượng trưng cho tất cả các thế hệ môn đệ chấp nhận thập giá Đức Kitô.
+ Minh họa thứ năm và cuối cùng nói đến yêu thương kẻ thù. Sách Lêvi viết: “Ngươi sẽ yêu tha nhân như chính mình” (19,18). Như vậy điều này mời gọi con cái Israel sống với nhau bằng tình yêu huynh đệ loại bỏ mọi hận thù oán ghét. Nhưng các Thầy rabbi thuộc những nhóm khác nhau tranh luận mãi về quan niệm tha nhân và nhiều người đã cho nó một nghĩa hạn hẹp: tha nhân là người mà ta có quan hệ tốt đẹp; phân biệt với kẻ thù. Từ đó mà có câu Phúc âm: ‘Anh sẽ ghét kẻ thù’ tuy câu này không có trong Luật, nhưng biểu lộ khá đúng ý nghĩ của rất nhiều người. Ngược lại với tình yêu có tính cách chọn lựa đối tượng này, Đức Giêsu nói đến một tình yêu phổ quát vượt mọi biên giới, đến cả kẻ thù và người bách hại, theo Ngài, đòi hỏi này đặt nền tảng trên cách đối xử của chính Thiên Chúa với mọi người, “Kẻ xấu cũng như kẻ tốt”, người công chính cũng như kẻ bất chính”.
Hệ tại theo gương Chúa Cha:
Câu 48 kết luận toàn thể phần này: “Vậy anh em hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng thiện”.
Như vậy, theo gương Cha và Con của ngài Đức Giêsu, đó là nền tảng và mục đích của Luật mới này. Là người môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt chúng ta được mời gọi sống như Con, với Ngài và trong Ngài. Cái mới triệt để của Bài giảng trên núi chính là vậy, chứ không phải trong một giới răn đặc biệt nào.
Cl. Tassin chú giải: “Tính từ “hoàn thiện” tóm tắt ý tưởng về sự công chính hơn (các ký lục và biệt phái) ở câu 20, và sự hoàn thiện này chính là noi theo hành động của Thiên Chúa. Đạo Do Thái đã hiểu “những công việc bác ái xót thương” như những hành vi mà chính Thiên Chúa đã làm gương. Và Hội đường đã chú giải sách Lêvi 22, 28 bằng ngạn ngữ sau: “Như Ta thương xót trên trời thế nào, dưới đất các con cũng hãy thương xót như vậy” Điều này được Luca trình bày bằng những từ như sau: “Hãy xót thương như Cha các con là Đấng xót thương” (6,36). nếu Mátthêu thích tĩnh từ “hoàn thiện” hơn, là vì theo Ngài, lòng thương xót đạt tới mức yêu thương kẻ thù chính là hoàn thiện được Thiên Chúa trông đợi nơi những người của Ngài. Những ai muốn rập theo khuôn mẫu Chúa thì cậy vào Đức Giêsu. Con chí thiết của Thiên Chúa, ngài trao cho các chìa khóa bí mật này”. (“Phúc âm Matthêu”, Centurion, 1991, tr. 69-70).
BÀI ĐỌC THÊM.
“Bẻ gãy vòng vây bạo lực”: (Đức cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần”, Desche de Brouwer, tr. 58-60).
Đức Giêsu lấy lại qui định của Luật: anh em đã nghe dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng… đối với chúng ta điều đó dường như biểu lộ một sự trả thù nghiệt ngã, nhưng trong thực tế, nó lại điều hòa bạo lực và giới hạn ham muốn. Trong một xã hội mà mỗi người thường là quan tòa cho chính mình, đó là một loại luật “tương xứng” trong sự đền trả lại sự xúc phạm, người ta có thể trả thù tới mức độ, không được vượt quá. Trong các quốc gia của chúng ta ngày nay, mỗi người không thể làm quan toà cho chính mình. Chúng ta đã có nhũng cơ quan cảnh sát và tư pháp là những cơ quan duy nhất có quyền bất và trừng phạt những kẻ phạm tội ác. Các hình phạt được xác định rõ bởi một bộ luật. Trong bộ luật này, người ta tìm thấy lại nguyên tắc tương xứng. Như vậy phạm nhân thoát khỏi ham muốn trả thù cá nhâ, người ta lưu ý đến hoàn cảnh, không chỉ tìm cách trấn áp và trừng phạt, mà còn nhằm tìm cách chữa trị và nâng đỡ. Dĩ nhiên, chúng ta ai cũng biết rằng hệ thống tư pháp có những điểm yếu, những trì tre, những sai lầm hay những “vết chàm”. Nhưng dẫu sao nó vẫn là một đảm bảo về sự tiến bộ của nhân loại, chứ trong khung cảnh xã hội và pháp lý này mà hôm nay chúng ta đón nhận Lời Đức Giêsu. Và ngay cả ở trong khung cảnh này, Ngài vẫn kiện toàn Luật bằng cách làm cho nó đi sâu vào tâm hồn con người. Có khi ý muốn trả thù không còn biểu lộ qua hành động nữa nhưng vẫn còn bị khích động và khơi gợi lên trong công luận qua các hành vi bạo lực và các vụ kiện. Không dễ gì chống lại được tình cảm tập thể, nhất là khi nó được chia sẻ bởi một đám đông những khán giả trong một thế giới mà tất cả mọi sự đều bị các phương tiện thông tin đại chúng truyền đi. Đàng khác chúng ta dễ ham muốn kêu gọi trả thù và trừng phạt khi chính chúng ta không phải chịu trách nhiệm. Trong xứ sở chúng ta, ngành tư pháp có sứ mạng xã hội vừa bảo vệ, giáo dục vừa làm gương; nhưng cũng vừa sửa đổi, chữa trị vừa giúp tái hội nhập. Lời Đức Giêsu dạy đừng chống cự người ác không cản trở cũng không gò bó sứ mạng này Nhưng còn có một cái gì khác hơn là những biện pháp cần thiết để bảo đảm an an ninh xã hội, một cái gì khác hơn là sự hận thù, ghen ghét, báo án. Đức Giêsu kêu gọi đến cái tốt nhất nơi con người, đôi khi đến cả sự anh dũng để có được một con út thứ tha; chúng tôi có thể làm chứng các Kitô hữu sự tha thứ này cách công khai! Đức Giêsu không cấm chúng ta đòi hỏi những quyền lợi chính đáng. Khi bị viên vệ binh tát tai, chính Ngài đã đòi anh ta giải thích lý do tại sao anh ta hành động như vậy: nếu tôi nói sai, hãy cho thấy sai ở chỗ nào; nếu tôi nói đúng, thì sao lại tát tôi”. (Ga 18, 23). Nhưng nơi vườn Cây dầu Ngài cho phép Phêrô rút kiếm bảo vệ mình và cũng vì Chúa Cha sai các đạo binh thiên thần đến che chở Ngài để mình bị trấn lột, tát tai, đánh đập và đội triều thiên bằng mũ gai. Ngài không hài lòng với lời kêu gọi đừng lấy oán báo oán, lấy lành thắng dữ, lấy tình yêu thắng hận thù. Ngài còn tỏ ra chính mình là con đường thực hiện lời tiên tri về người đầy tớ đau khổ đã không quay lưng, quay mặt tránh những kẻ ra sức làm khổ mình. Ở bất cứ nơi đâu chúng ta sinh sống và theo cách thế của mình, Ngài kêu mời chúng ta đừng đi vào chu kỳ bạo lực, nhưng hãy có đủ sức mạnh tinh thần để đặt một Lôgíc mới trong mối tương quan giữa con người với nhau.
“Thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho ta”
“Nếu thực sự thứ tha của Thiên Chúa làm tôi hiện hữu, nếu Ngài ban cho tôi tình yêu Thiên Chúa và khả năng yêu mến, làm sao tôi lại không thể hoán chuyển tình yêu thành thứ tha theo chừng mực, mà tôi có thể làm được đối với những ai đã phản bội, chối bỏ và làm tổn thương tôi? Hoặc tôi không là Kitô hữu và rơi vào lối sống theo câu ngạn ngữ cổ: “mắt đền mắt, răng đền răng”, hoặc tôi muốn sống như là một Kitô hữu, thì lập tức tôi phải nhớ điều loan báo cốt yếu nhất của đức tin: tất cả anh em, đều là những tội nhân đã được thứ tha, tất cả anh em đều là nhũng đứa con của lòng thương xót. Nếu anh em muốn là những Kitô thực sự sống đạo, điều thực hiện đầu tiên, cơ bản nhất, chính là thực hành điều Thiên Chúa đã sống đối với anh em, điều mà Đúc Giêsu đã làm vào lúc Ngài sắp qua đời. Đó là thứ tha. Đó là cách thế duy nhất em làm chứng cho mọi người sự tha thứ ta đã lãnh nhận và nó được trao ban cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên sự tha thứ như vậy không thể là sự quá ngây thơ, càng không thể là sự cổ võ cho sự dữ. Để thực sự là tha thứ, nó chỉ có thể phát xuất từ một lương tâm không có ảo tưởng nào về những ác tâm, ô nhục, tội ác của thế gian nào và của lịch sử con người. Tuy nhiên, vượt lên trên không bất hạnh mà người Kitô hữu dấn thân đấu tranh nhân danh công lý, họ còn làm chứng về niềm hy vọng Thiên Chúa đặt sẵn nơi mỗi người, dù là những kẻ phạm tội, nhơ nhớp nhất Như vậy, Thiên Chúa mong muốn tất cả hoán đổi ác tâm và hận thù thành tình yêu. Điều này thật đúng, vì chúng ta chỉ là Kitô hữu do niềm tin và hy vọng như vậy, và chúng ta đang cố gắng hết sức mình sống niềm tin là hy vọng đó nhờ ơn Chúa”
“Yêu thương mọi người vì Thiên Chúa yêu thương họ” (Martin-Luther King, trong “Chỉ có một cuộc cách mạng”. Casterman, 1968, tr. 108-109)
Trong Tân ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu hơn Chúa được thực hiện nơi tâm hồn con người. Khi vươn đến một tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ, chính là ý nghĩa Lời Đức Giêsu Anh em hãy yêu thương kẻ thù. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói: “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi, thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đúc Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người”.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- A
YÊU THƯƠNG KẺ THÙ (*)- Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Thường Niên Năm A mời gọi con cái Thiên Chúa phải nên thánh thiện như Cha của họ, là Đấng Thánh ngự trên trời. Sự hoàn thiện gặp thấy đỉnh cao của nó ở nơi luật yêu thương.
Lv 19: 1-2, 17-18
Bài Đọc I được trích từ sách Lê-vi, chính xác hơn từ phần được gọi “Luật Thánh Thiện” ở đó Đức Chúa đòi hỏi dân Ngài: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” và “Ngươi hãy yêu đồng loại như yêu chính mình”.
1Cr 3: 16-23
Thánh Phao-lô nhắc các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng mọi người Ki-tô hữu là “Đền Thờ Thiên Chúa” vì họ được Chúa Thánh Thần ở cùng; họ không thuộc về sự khôn ngoan đời này nhưng sự khôn ngoan Thiên Chúa, vì họ thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.
Mt 5: 38-48
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu là phần tiếp theo diễn từ của Đức Giê-su về luật mới: “Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”.
BÀI ĐỌC I (Lv 19: 1-2, 17-18)
Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm quyển sách của bộ “Ngũ Thư”: sách Sáng Thế, sách Xuất Hành, sách Lê-vi, sách Dân Số và sách Đệ Nhị Luật. Năm sách này hình thành nên Lề Luật và nguồn cảm hứng của chúng, theo truyền thống, lên đến tận ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Ít-ra-en.
Sách này là cẩm nang chủ yếu dành cho các thầy tư tế hay các thầy Lê-vi, vì thế sách được gọi là sách Lê-vi vì những người này đều thuộc về chi tộc Lê-vi. Chi tộc này có một quy chế đặc biệt; họ không sở hữu đất đai và được dành riêng để phục vụ nơi thánh thay cho dân Ít-ra-en, vì thế Đức Chúa là gia nghiệp của họ. Xưa kia, tư tế và lê-vi là một. Sau này, danh xưng tư tế được dành cho những ai thực hiện những chức năng chính thức trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong khi các thầy Lê-vi đảm nhận những công việc thứ yếu.
Sách Lê-vi được trình bày như một bộ sưu tập các huấn thị nghi thức và các nguyên tắc luân lý thuộc nguồn gốc và niên biểu khác nhau, thường rất xa xưa, với một ý tưởng chủ đạo: hình thành nên lương tâm luân lý của một dân tộc kề cận với sự thánh thiện của Thiên Chúa của mình. Công trình biên soạn chung cuộc thì rất muộn thời: đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, tức là sau thời kỳ hồi hương trở về và công việc tái thiết Đền Thờ thứ hai, tuy nhiên công việc sưu tập các bản văn và các truyền thống đã là một công trình dài lâu, khởi sự rất sớm, chắc hẳn ngay từ cuối thời quân chủ (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên).
Bản văn của chúng ta được trích từ chương 19, chương này góp phần hình thành nên một tổng thể được gọi “Luật về sự Thánh Thiện” (ch 17-26).
*1.Đức Chúa phán với ông Mô-sê:
Phần lớn các chương của sách Lê-vi đều bắt đầu: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê”. Đối với dân Ít-ra-en, Lề Luật là cách diễn tả thánh ý của Thiên Chúa mà ông Mô-sê là người trung gian. Nhà biên soạn sách Lê-vi xây dựng hoạt cảnh, không chỉ trên núi Xi-nai, nhưng còn ở dưới chân núi, trước “Lều Hội Ngộ” nơi đặt Hòm Giao Ước. Đây không là hư cấu văn chương nhưng là ý hướng thần học: tất cả những khai triển Lề Luật chỉ là nối dài pháp luật đầu tiên và được định vị vào trong cùng một tinh thần, một sự liên tục không bao giờ bị gián đoạn.
*2.Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en:
Thật ra, Ít-ra-en là một cộng đồng trước khi là một quốc gia; họ là “dân Thiên Chúa” và căn tính của họ chỉ được diễn tả tròn đầy ở nơi cộng đoàn phụng vụ.
Mệnh lệnh này được ban cho ông Mô-sê để ông nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en chỉ được gặp thấy một lần trong sách Lê-vi: vào lúc tấn phong các tư tế. Xem ra nhà biên soạn đã muốn đối chiếu giữa hai cách thế đi vào trong mối hiệp thông với Thiên Chúa:
Đối với sách Lê-vi, các tư tế là những người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Các sách Cựu Ước khác còn xem ngôn sứ hay vua là những người trung gian. Theo “sách Lê-vi”, phụng tự và chức tư tế cấu thành nên sự trung gian cốt yếu. Vào thời kỳ biên soạn sách Lê-vi chung cuộc, dân Ít-ra-en đã không còn vua và truyền thống ngôn sứ đang trên đường biến mất. Qua đức tin của mình và việc thực hành các quy tắc thánh thiện, các tín hữu cũng có thể đi vào trong mối thân tình của Thiên Chúa.
*3. “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”:
Điều răn này được lập lại nhiều lần trong sách Lê-vi, và lời dạy của Chúa Giê-su cũng âm vang điều răn này: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48).
Sự thánh thiện của Thiên Chúa là ý tưởng chủ đạo của sách Lê-vi. Thiên Chúa được gọi là “thánh” không chỉ vì Ngài được ban cho phẩm chất luân lý cao nhất, nhưng để nhấm mạnh khoảng cách vô tận của Ngài với phàm nhân tội lỗi, tính cách bất khả đạt của Ngài, mầu nhiệm cao vời khôn ví của Ngài. Noi theo Thiên Chúa của mình, dân Ít-ra-en được mời gọi tách riêng ra khỏi các dân ngoại, tránh xa tội lỗi, thánh hóa chính mình. Những chỉ thị của Luật Thánh Thiện chỉ cho họ con đường.
Phần thứ hai của bản văn trích dẫn vài lời khuyên bảo luân lý, mà một trong số đó cấu thành một trong những đỉnh cao Cựu Ước: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như yêu chính mình”.
*4. “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”:
Nguyên tắc này, được đặt lại vào trong mạch văn của nó, không có tầm mức quy mô như Tân Ước sẽ ban cho nó.
“Đồng loại” là tất cả thành viên của dân Ít-ra-en. Toàn bộ đoạn văn liên quan đến những mối liên hệ xã hội ở bên trong cộng đồng. Chúng ta cũng gặp thấy những xưng hô khác như “người anh em”, “người đồng hương”. “Người anh em” trong câu: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em”, chỉ một thành viên thuộc cùng giòng dõi, cùng bộ tộc. “Người đồng hương” trong câu “Ngươi phải mạnh dạn quở trách người đồng hương”, tức là một người Ít-ra-en. Vì thế, viễn cảnh bị thu hẹp lại ở nơi câu: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”.
Tuy nhiên, khi tiếp tục đọc chương này, chúng ta gặp thấy ở câu 34: “Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình”. Câu này triển khai luật yêu thương, chắc chắn còn trong những giới hạn của việc đồng hóa người ngoại kiều với một người Ít-ra-en, tuy nhiên luật yêu thương được mở rộng rồi. Chỉ thêm một bước nữa đạt đến tầm mức của tình yêu dành cho hết mọi người mà Chúa Giê-su sẽ dạy và Ngài còn đi xa hơn nữa cho đến huấn lệnh “Phải yêu kẻ thù”.
Đức Giê-su sẽ kết hợp điều răn yêu người này với điều răn mến Chúa. Điều răn mến Chúa này được gặp thấy trong một quyển sách khác của bộ “Ngũ Thư”, sách “Đệ Nhị Luật” (Đnl 6: 5). Đức Giê-su ban cho hai điều răn này một tầm quan trọng như nhau và tóm gọn mọi Lề Luật vào trong hai điều răn này (Mt 22: 37-40; Mc 12: 29; Lc 10: 25-28). Ngài sẽ chứng mình hai điều răn này tương tự nhau khi đồng hóa mình với người đồng loại: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40).
Cựu Ước đã không hiệp nhất hai điều răn này và cũng không đồng hóa Thiên Chúa với người đồng loại. Chính Đức Ki-tô, vừa Thiên Chúa vừa con người, thực hiện sự ngang bằng này.
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 16-23)
Bản văn này mang đến một câu kết luận cho ba lập luận của thánh Phao-lô, chứng minh cho các tín hữu Cô-rin-tô thấy rằng việc họ phân chia thành những bè phái dựa trên một ý tưởng sai lầm về Giáo Hội, một quan niệm lầm lạc về sự khôn ngoan Ki-tô giáo, một sự ngộ nhận về vai trò của các vị rao giảng.
Thánh Phao-lô vừa mới khai triển điểm thứ ba này. Thánh nhân đã so sánh công việc của các nhà rao giảng với công việc của những người kiến trúc sư: “Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó…”. Như vậy mỗi người góp phần theo cách của mình vào việc xây dựng tòa nhà, tức là Đền Thờ Thiên Chúa, vì cộng đồng Ki-tô hữu không gì khác hơn một Đền Thánh ở đó Thiên Chúa ngự.
*1.“Anh em là Đền Thờ Thiên Chúa:
Thánh Phao-lô dùng từ “naos”, từ này chỉ nơi cực thánh nhất, nơi Thiên Chúa ngự, nơi “ba lần thánh” của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh “Thân Thể Đức Ki-tô”. Thánh nhân sử dụng cả hai hình ảnh này, lúc thì luân phiên, lúc thì liên kết với nhau. Khái niệm “Đền Thờ tinh thần” cắm rễ sâu trong lịch sử của dân Ít-ra-en. Đức Chúa đã hứa với dân Ngài “Ngài sẽ ở giữa họ nếu họ tuân giữ các lề luật của Ngài” (Lv 26: 3-11). Kinh nghiệm về thời lưu đày ở Ba-by-lon, xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vả lại bị phá hủy, đã khích lệ tâm tình của các tín hữu rằng sự kiện Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài là một thực tại tinh thần. Trước đó, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo rằng thời sẽ đến, vào thời đó tôn giáo sẽ được trở nên nội tâm hơn, thời Lề Luật sẽ được ghi khắc trong tâm khảm. Sau cùng, Đức Giê-su công bố rằng “thân thể của Ngài” là Đền Thờ mới, mà giờ đã đến, “giờ những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 23).
Lời khẳng định: “đền thờ ấy chính là anh em” được giải thích ngay liền sau đó: người Ki-tô hữu là “đền thờ của Thiên Chúa” vì “Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em”. Đây là chủ đề chính yếu của thần học thánh Phao-lô, đó là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi mỗi người Ki-tô hữu: thần học này phù hợp với những lời hứa của Đức Giê-su và ơn thần khải của lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân lập lại thần học này ở dưới một chút: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em” (1Cr 6: 19).
Đó là sự thánh thiện của cộng đồng Ki-tô hữu vừa trong toàn thể vừa trong mỗi một thành viên. Làm nứt rạn tòa nhà do tinh thần phe phái và những chia rẽ nội bộ, chính là phạm thánh.
*2. Sự khôn ngoan đích thật:
Thánh Phao-lô nhắc lại sự đối lập giữa sự khôn ngoan thế gian và sự khôn ngoan Thiên Chúa, mà thánh nhân đã khai triển ở trên: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì có lời chép rằng: Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái” (1Cr 1: 18-19). Thánh nhân một lần nữa viện dẫn Kinh Thánh khi trích dẫn rất tự do sách Gióp tiếp đó một câu của Thánh Vịnh 94.
Trong nỗi chán chường thất vọng, đối mặt với những quyền lực sự ác, ông Gióp diễn tả niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, Đấng cất nhắc kẻ hèn mọn, đem lại niềm hy vọng cho người phiền muộn, phá vỡ mưu đồ của hạng tinh khôn, bắt kẻ khôn ngoan bằng chính những xảo kế của chúng và đi trước mưu toan của phường xảo quyệt (G 5: 11-13), mà thánh Phao-lô tóm tắt khi nói rằng “Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của nó”. Lời phê-phán thật nghiêm khắc: rõ ràng nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô tự cao tự đại.
Tv 94 cũng là lời kêu gọi cứu giúp của những người công chính chống lại phường vô đạo:
“Tư tưởng phàm nhân, Chúa đều biết cả:
thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài!” (Tv 94: 11)
*3.Những vị rao giảng của anh em là những người phục vụ mọi người:
Những chia rẽ của các tín hữu Cô-rin-tô đối với những vị rao giảng của họ làm chứng rằng họ không là những người khôn ngoan. Không ai được phép nói: “tôi thuộc về Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha”, vì có một sự đảo lộn: dù Phao-lô, A-pô-lô hay Kê-pha đều thuộc về anh em, họ là những người phục vụ cộng đồng Ki-tô hữu, họ hiến dâng bản thân mình cho mỗi người và cho mọi người.
*4.Tất cả đều thuộc về anh em:
Thánh Phao-lô chuyển đổi ngạn ngữ Hy-lạp: “Tất cả đều thuộc hiền triết”, thường được các triết gia Khắc Kỷ lập lại. Hiền triết là người biết, hiểu, gắn bó với trật tự vũ trụ, vừa lý tính vừa thần linh. Người Ki-tô hữu cũng là người biết và còn biết hơn nữa, vì Đức Ki-tô đã mặc khải ý định của Thiên Chúa về nhân loại: người Ki-tô hữu cũng nắm giữ ý nghĩa “sự sống và sự chết, hiện tại hay tương lai”. Thánh Phao-lô thường ca ngợi sự hiểu biết cao cả này của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu không phải cậy dựa vào con người nhưng phải đặt trọng tâm cuộc đời mình vào Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 5: 38-48)
Bản văn Mát-thêu này tiếp nối bản văn Chúa Nhật trước. Đức Giê-su tiếp tục đối chiếu giữa những huấn lệnh Mô-sê và luật yêu thương mà Ngài thiết lập. Hai ví dụ mới được đưa ra để đối chiếu: luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” và luật “Yêu thương đồng loại của mình”.
*1.Luật “mắt đền mắt, răng đền răng”:
Chúa Giê-su trích dẫn luật Cựu Ước: “Anh em đã nghe Luật dạy: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng’”, được phát biểu trong sách Xuất Hành (21: 24) và được lập lại trong sách Lê-vi (24: 19-20). Vào thời Đức Ki-tô, luật này chỉ được áp dụng vào những trường hợp sát nhân: “mạng đền mạng”.
Vào thời đó, luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” này đã giới hạn bạo lực. Chúng ta thử đọc lại bài ca thù hận ngút ngàn được trích trong sách Sáng Thế:
“Vì một vết thương, ta đã giết một người,
vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ.
Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4: 23-24).
Luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” đưa ra những giới hạn chặt chẻ giữa sự xúc phạm và sự trả thù. Luật này chỉ có thể áp dụng vào những tấn công về phương diện thể lý; nhưng trong việc thực hành, luật này thường tỏ ra khó áp dụng. Vì thế, những đền bù thiệt hại bằng tiền bạc dần dần được thay thế, ngoại trừ trường hợp sát nhân.
Khi trích dẫn luật xưa, Đức Giê-su muốn nói rằng không còn “ăn miếng trả miếng” nữa. Dù biết rằng ước muốn trả thù vẫn sống động trong tâm trí con người, Đức Giê-su đòi hỏi người ta không được buông theo ước muốn này, đừng tìm cách trả thù. Thái độ từ chối trả thù trực tiếp này đã được các hiền nhân Cựu Ước phác họa rồi. Hiền nhân Si-rác khuyên:
“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
…..
Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Hc 28: 1-7).
Sách Châm Ngôn khuyên:
“Bạn đừng nói: ‘Tôi sẽ báo thù!’
Hãy cậy trông Đức Chúa, Người sẽ cứu bạn” (Cn 20: 22).
Đức Giê-su còn đi xa hơn các hiền nhân này, khi dạy rằng “lấy thiện báo ác”, “lấy tình yêu đáp lại hận thù”. Ngài dùng những kiểu nói rất bắt mắt và mâu thuẫn để nhấn mạnh: “Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để cướp lấy áo trong, thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài”. Áo trong và áo ngoài là y phục chính yếu miền Cận Đông. Áo ngoài còn cần thiết hơn áo trong: đây là chăn mền mà người nghèo dùng để đắp trong đêm, vì thế luật cấm giữ lại áo ngoài qua đêm. Ở đây, Đức Giê-su đòi hỏi một hành vi đặc biệt có ý nghĩa.
Động từ được dùng trong câu: “Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”, mang nét nghĩa đầu tiên là “trưng dụng phương tiện chuyên chở”, tiếp đó được mở rộng đến mọi công việc phục dịch. Xem ra chính nghĩa này phải giữ lại, bởi vì cốt là dặm đường phải đi. Người có quyền “trưng dụng” chắc hẳn là một binh lính hay quan chức Rô-ma. Quả thật, động từ này lại xuất hiện trong Tin Mừng Mát-thêu khi những người lính Rô-ma “trưng dụng” ông Si-mon thành Si-rê-nê vác đỡ thập giá với Đức Giê-su.
Luật truyền thống muốn rằng của bố thí và việc cho vay không lãi chỉ được dành cho những thành viên của đại gia đình Ít-ra-en, chứ không người ngoại kiều. Hơn nữa, năm sa-bát – cứ bảy năm một lần – bao gồm việc tha nợ nần. Những quy luật được thông qua ở bên trong cộng đồng. Khi công bố rằng “Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”, Đức Giê-su muốn rằng những cử chỉ này phải ban cho hết mọi người, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Luật bác ái mà Đức Giê-su dạy không có giới hạn.
*2.Yêu thương kẻ thù:
Lệnh truyền “Hãy yêu đồng loại” được gặp thấy trong sách Lê-vi, nhưng lệnh truyền “Hãy ghét kẻ thù” không được gặp thấy ở đâu trong sách Luật cả. Động từ “ghét” này chỉ cốt làm tương phản động từ “yêu thương”, theo một cặp đối lập rất đặc thù của ngôn ngữ sê-mít. Sự đối lập này được gặp thấy trong Luật Cộng Đồng Qum-ran: “Ngươi phải yêu thương con cái Ánh Sáng, nhưng ghét con cái Bóng Tối”. Dù sao đi nữa, cặp động từ đối lập này trình bày một tâm thức nào đó. Chúng ta đọc thấy trong sách Huấn Ca:
“Hãy cho người đạo hạnh, nhưng đừng giúp kẻ tội lỗi.
Hãy xử tốt với người khiêm tốn,
và đừng ủng hộ quân vô đạo,
hãy khước từ, đừng cung cấp bánh ăn cho nó…
Đừng bao giờ tin vào thù địch;
vì đồng tiền ten sét thế nào,
thì sự độc ác của nó cũng vậy” (Hc 12: 4-5, 10).
Quả thật, người Do thái ghét cay ghét đắng người Sa-ma-ri, khinh miệt người thu thuế, anh em đồng bào mặt dày mày dạn của mình cộng tác với quân chiếm đóng. Người Do thái chẳng bao giờ có những mối quan hệ bạn hữu với người ngoại giáo. Sách Lê-vi dạy yêu thương đồng loại của mình, nhưng quan niệm đồng loại bị hạn chế chỉ đóng khung vào đồng bào của mình. Đức Giê-su mở rộng cho đến hết mọi người. Luật đức ái phải lật đổ những phân biệt đối xử như thế. Khuôn mẫu của tình yêu này là mẫu gương của Cha trên trời, Đấng ban cho hết mọi người, kẻ xấu cũng như người tốt, ơn mưa mốc chan hòa.
Vào thời thánh Mát-thêu ghi lại những lời này: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, chúng có một âm vang bi thảm. Đây là thời kỳ Hội Đường bách hại Giáo Hội tiên khởi không chút xót thương. Những Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh Mát-thêu ngỏ lời, phải chịu những phiền nhiễu thậm tệ về phía những đồng đạo trước đây của mình.
Nhưng những môn đệ Đức Ki-tô phải mở rộng lòng mình, không so đo tính toán hơn thiệt. Đức Giê-su đòi hỏi họ đức tính anh hùng này và kêu gọi họ hãy nên hoàn thiện, thuật ngữ này nhắc nhớ “Luật Thánh Thiện” của sách Lê-vi, trong đó Đức Chúa phán: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”; còn ở đây, Đức Giê-su truyền: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, là Đấng hoàn thiện”.
SỐNG BẰNG YÊU THƯƠNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I : “Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi”.
– Đáp ca : “Chúa là Đấng thương xót và nhân ái”.
– Tin Mừng : “Hãy yêu thương thù địch”
Anh chị em thân mến
Ở đời này, và cả ở đời sau, không có gì quan trọng cho bằng tình yêu. Hạnh phúc chính là yêu và được yêu lại. Nhưng chắc gì chúng ta đã hiểu đúng về tình yêu. Trong Thánh Lễ này, Lời Chúa sẽ dạy chúng ta điều quan trọng đó. Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu và thực thi yêu thương trong cuộc sống chúng ta.
– Chúng ta yêu thương một số người, nhưng đồng thời cũng ghét bỏ nhiều người khác.
– Chúng ta muốn người ta yêu thương mình, nhưng mình lại không yêu thương người khác.
– Đặc biệt chúng ta nuôi dưỡng lòng ganh ghét, hận thù, là điều hoàn toàn đi ngược lại lời dạy của Chúa.
*1. Bài đọc I (Lv 19,1-2.17-18) :
Sách Lêvi là một bộ sưu tập những khoản luật rất cổ xưa, trong đó các chương từ 17 đến 25 (đoạn được trích đọc hôm nay nằm trong phần này) được gọi là “Bộ luật về sự thánh thiện”.
Vấn đề căn bản được đặt ra trong bộ luật này là : Thiên Chúa là thánh, con người là tội lỗi. Vậy làm thế nào con người tội lỗi như chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa thánh thiện được ?
Câu trả lời tuy rất đơn giản nhưng lại rất sâu sắc : Hãy sống yêu thương như chính Thiên Chúa đã yêu thương. Sách Lêvi diễn tả cuộc sống yêu thương theo hai phương diện :
– Phương diện tiêu cực là “Ngươi sẽ không thù ghét anh em ngươi… Ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngươi”.
– Phương diện tích cực là “Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi”.
Chúng ta hãy chú ý : đối tượng của lòng yêu thương là “anh em ngươi, con cái dân ngươi, đồng loại ngươi”. Những kiểu nói đó đều chỉ về dân Israel. Điều này có nghĩa là lòng yêu thương trong Cựu Ước còn giới hạn nơi những người Israel với nhau.
Thánh vịnh này ca tụng tình thương của Thiên Chúa, thể hiện qua những nét : ban ân huệ, tha thứ, cứu chữa, chuộc mạng, thương xót và nhân ái. Ngài yêu thương loài người như Cha thương con cái.
Đức Giêsu đã nói ở phần đầu bài giảng trên núi là giáo huấn của Ngài hoàn thiện Luật cũ. Trong bài đọc I, chúng ta đã thấy Luật về sự thánh dạy phải yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
– Theo tinh thần Cựu Ước, người ta có quyền trả đũa “Mắt đền mắt, răng thế răng”. Còn theo giáo huấn của Đức Giêsu thì đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.
– Theo tinh thần Cựu Ước, người ta chỉ yêu thương người đồng bào. Còn theo giáo huấn của Đức Giêsu thì hãy yêu thương thù địch và lấy ơn để báo oán.
Lý do của lòng yêu thương bao la ấy là chúng ta phải noi gương Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời, “Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên người công chính lẫn kẻ bất lương”.
Như thế, giáo huấn về yêu thương của Đức Giêsu thể hiện đúng nguyên tắc mà Luật về sự thánh trong sách Lêvi đã đề ra : “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh”.
*4. Bài đọc II (1 Cr 3,16-23) (Chủ đề phụ) :
Ôn lại những đoạn được trích đọc các Chúa nhựt trước : Tín hữu Côrintô tự hào mình khôn ngoan nên chia rẽ nhau, nhóm thì theo Phaolô, nhóm khác theo Apollô, nhóm khác nữa theo Kêpha (tức Phêrô).
Thánh Phaolô nói cho họ biết rằng tất cả là Đền thờ của Thiên Chúa, một thể thống nhất liên kết với nhau. Do đó họ không nên dựa vào sự khôn ngoan để kình chống nhau, làm hại đến tính thống nhất của giáo đoàn.
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe được hai lời kêu gọi nên thánh như Thiên Chúa : “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (bài đọc I) ; “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Bài Tin Mừng).
Thánh là thế nào ?
Người ta thường hình dung vị thánh là một người khổ hạnh, xa lánh thế gian, chuyên chăm đọc kinh cầu nguyện… Vì hình dung như thế, người ta ngưỡng mộ các vị thánh nhưng không thích làm thánh.
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay hình dung vị thánh một cách rất dễ thương, dễ thích : Thánh là người cố gắng giống Chúa. Mà vì Chúa là tình yêu cho nên thánh là người sống yêu thương, chẳng những yêu thương những người thân cận với mình, mà còn yêu thương cả những kẻ thù ghét mình.
Một vị thánh như thế, ai mà không thích ? Hình ảnh một vị thánh như thế, ai mà không muốn trở thành ? Và những người thánh như thế, xã hội nào mà không cần đến ?
*2. “Mắt đền mắt, răng thế răng”
Toàn văn của khoản luật trả đũa được ghi trong sách Xuất hành (Xh 21,24) như sau : “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng”. Mục đích của khoản luật này là tuy cho phép trả đũa nhưng giới hạn sự trả đũa đúng mức bị gây hại : kẻ thù làm mình hư một mắt, mình có thể trả đũa làm cho nó hư lại một mắt (không được hai) ; nó đánh mình bầm, mình có thể đánh nó bầm lại (không được hơn)…
Một điều đáng buồn là ngay trong thời đại Tân Ước này, nhiều người chẳng những chưa giữ được giới hạn tối thiểu của luật Cựu Ước mà còn tệ hơn thế nhiều. Họ sống theo luật “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hãy nhìn tình hình xung đột bên Trung Đông giữa Palestine và Israel : một người của bên này bị bắn tỉa chết là liền sau đó một làng của bên kia bị máy bay bên này ném bom. Trên bình diện nhỏ hơn : hai đứa trẻ đánh nhau kéo theo hai gia đình xung đột với nhau ; khi hai người cãi nhau, người này chửi một câu thì người kia đáp lại ba câu ; người này nói “Cha mầy” thì người kia đáp lại “Tổ tiên sư mầy”…
Làm thế nào để chấm dứt xung đột ? Cách giải quyết “Mắt đền mắt răng đền răng” rất khó dừng lại ở giới hạn hợp lý mà thường có khuynh hướng leo thang trả đũa. Còn nếu giải quyết bằng cách “Hòn đất ném đi hòn chì ném lại” thì xung đột càng leo thang nhanh hơn.
Đến đây chúng ta mới thấy giáo huấn của Đức Giêsu rất khôn ngoan. Xung đột chỉ chấm dứt được khi một bên chịu nhường nhịn. Nhường nhịn không có nghĩa là mình yếu, mình thua, nhưng là mình đang cố gắng nên thánh như Thiên Chúa ở trên trời là Đấng thánh.
*3. Yêu thương kẻ thù không phải là thiện cảm, mà là thiện chí
Martin Luther King là một mục sư da đen, người đã đấu tranh để người da đen không còn bị người da trắng ngược đãi. Ông có một cách hiểu rất dễ chấp nhận về lời Chúa Giêsu dạy “Hãy yêu thương kẻ thù”, như sau :
“Trong Tân Ước, chúng ta thấy từ Agapè được dùng để chỉ tình yêu. Đó chính là tình yêu dồi dào không đòi một đáp trả nào hết. Các nhà thần học nói đó là tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nới tâm hồn con người. Khi vươn lên một đỉnh tình yêu như vậy, chúng ta sẽ yêu hết mọi người, không phải vì chúng ta có thiện cảm với họ, cũng không phải vì chúng ta đánh giá cao lối sống của họ. Chúng ta yêu thương họ vì Thiên Chúa yêu thương họ. Đó chính là ý nghĩa lời Đức Giêsu dạy “Anh em hãy yêu thương kẻ thù”. Phần tôi, tôi sung sướng vì Ngài đã không nói “Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em” bởi vì có những người mà tôi khó có thiện cảm nổi. Thiện cảm là một xúc cảm. Tôi không thể có xúc cảm với người đã ném bom vào gia đình tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người bóc lột tôi. Tôi không thể có thiện cảm với người đè bẹp tôi dưới sự bất công. Không, không thể có một thiện cảm nào đối với người đêm ngày đe dọa giết tôi. Nhưng Đức Giêsu nhắc tôi rằng tình yêu còn lớn hơn thiện cảm, rằng tình yêu là thiện chí biết cảm thông, có tính sáng tạo, cứu độ đối với hết mọi người” (Trích bởi Fiches dominuicales, Năm A, trang 201)
– Khi đọc lịch sử người ta rất buồn, không phải buồn vì những tội ác mà những kẻ ác đã phạm, cho bằng vì những sự trừng phạt mà người lành phải gánh chịu ; và một cộng đoàn trở nên hung ác không phải do những tội ác thỉnh thoảng xảy ra cho bằng do thói quen xử dụng hình phạt. (Oscar Wilde)
– Tha thứ giống như cái gì ? Giống như mùi hương mà bông hoa tỏa ra khi nó bị giẫm nát.
Lạy Chúa
mỗi ngày khi chúng con đi ngủ là đi vào một cái chết nho nhỏ
để chịu một cuộc phán xét nho nhỏ về một ngày vừa qua.
Ước gì khi đó từng điều lầm lỗi của chúng con đều đã được tha thứ,
và từng điều không thánh thiện của chúng con đều đã được thánh hóa.
Xin đừng để còn một điều gì đi theo chúng con vào giấc ngủ mà chưa được tha thứ và thánh hóa.
Có như thế chúng con mới luôn sẵn sàng cho cuộc tái sinh vào cõi đời đời,
chúng con dám nhìn về phía trước với ánh mắt chan chứa tình yêu và hy vọng
và có thể đứng vững trước mặt Chúa là Đấng vừa là quan tòa vừa là Đấng cứu độ chúng con, một quan tòa thánh thiện và một đấng cứu độ yêu thương. (Đức Giám Mục Appleton)
*a/ Trả thù
Một thanh niên trong làng bị lăng mạ cách thậm tệ. Anh vội vàng đến mục sư kể cho ông nghe và muốn đi trả thù ngay.
– Tốt hơn, con nên về nhà.
– Nhưng con bị nhục mạ.
– Vậy thì con càng nên về nhà ngay lúc này. Sự nhục mạ cũng giống như bùn.
– Đúng thế. Con sẽ làm sạch nó.
– Này con, có một điều con có thể học hỏi tốt ngay bây giờ và sau này : Bùn được gạt sạch dễ dàng khi nó khô.
*b/ Tiêu diệt kẻ thù
Một hoàng đế Trung hoa tuyên bố sẽ tiêu diệt hết các kẻ thù. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.
– Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù ?
– Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
CT : Anh chị em thân mến
Chúng ta hãy cầu xin Chúa dùng tình yêu Đức Kitô mà thiêu đốt lòng chúng ta. Và chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời cầu xin tha thiết sau đây :
1- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Hội Thánh luôn luôn dùng tiếng nói tình thương để giới thiệu Đức Kitô là Đấng Thiên sai, là Người Tôi Tớ đau khổ và là Con Thiên Chúa.
2- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho ánh sáng Chúa Kitô được chiếu tỏa trên mọi dân tộc và mang ơn cứu độ đến cho mọi người.
3- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi kitô hữu đã lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, luôn luôn theo sự hướng dẫn của Ngài mà bền tâm theo tiếng gọi trọn lành của Chúa.
4- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho việc tham dự Thánh lễ Chúa nhật hôm nay trở nên nguồn mạch tình thương và ơn cứu độ cho tất cả mọi người trong xứ đạo chúng ta.
CT : Lạy Chúa, Ngài hằng ban phát mọi ơn lành. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện mà soi dẫn cho biết những gì là ngay chính, và giúp cho đủ sức thi hành những việc ấy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
– Trước kinh Lạy Cha : Hôm nay, khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt lưu ý câu “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
– Chúc bình an : Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình thực sự yêu thương và tha thứ.
Anh chị em sắp trở lại với cuộc sống, một cuộc sống nhiều va chạm, xung khắc. Hãy cố gắng thực thi điều Chúa Giêsu đã dạy : “Các con hãy yêu thương thù địch các con”.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN-A
YÊU THA NHÂN VÔ BỜ BẾN- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Các yêu sách của Chúa Giê-su có thể thực hiện được không?
Chúng là những chỉ thị, chỉ dẫn hay điều luật?
Chúa Giêsu ngỏ lời với ai? Với một nhóm ưu tú? Với tất cả môn đồ? Thánh Bonaventura phân biệt hai hạng người: hạng của điều luật, hạng của lời khuyên, và cho rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến hạng thứ hai. Phải nghĩ sao về ý kiến này? Các “lời khuyên” thuộc phần nào trong Tin Mừng?
Vài tác giả khác cho rằng nghiêm chỉnh mà nói thì các lời Chúa Giêsu không thể nào thực hiện được. Từ đó họ bảo có hai nền luân lý, một có tính cách hão huyền, do Chúa Giêsu tưởng tượng ra, nhằm thúc đẩy ta ăn năn hoán cải và nhận biết mình là tội nhận; một có tính cách thực tế, tầm thường, công dụng.
Hãy rút ra phần sự thật trong lối giải thích thứ nhất (cánh chung học): Các yêu sách của Chúa Kitô tự chúng có thể thực hiện được không? Ai làm cho chúng có thể thực hiện được? Nếu không thì Diễn từ chẳng trở nên một khảo luận luân lý sao?
Tầm mức và giới hạn của Diễn từ trên núi:
Phải chăng đó là một chương trình sống xã hội (Tolstoi)? Một chương trình đào tạo Kitô hữu?
Phải chăng đó là toàn bộ hiến chương Kitô giáo? Thiếu điều gì chủ yếu trong Diễn từ này không, hoặc trong các yêu sách, hoặc trong lời mặc khải mầu nhiệm Nước Trời?
Hãy tìm tương quan giữa luật Chúa Kitô với luật tự nhiên: mối tương quan giữa luật Môisen và luật Chúa Giêsu phải chăng không tương tự với tương quan bản tính-ân sủng và với tương quan thế trần Kitô giáo?
Tìm ý nghĩa của câu: “Hãy nên trọn lành như…” (5,48; x. Lv 19, 2; Lc 6, 36). Câu đó phải chăng không nói lên một mệnh lệnh bất khả thực hiện? Giữa sự “trọn lành” và “đức công chính dư dật” (5, 20) có tương quan gì?
***
Người ta đã dày công tìm hiểu giáo huấn luân lý Do thái để xem các lời khiển trách của Chúa Giêsu, ví dụ về luật báo thù, có đúng hay không, và để xem tính cách mới mẻ của các yêu sách “mới” của Người hệ tại ở chỗ nào. Kết quả của những cuộc nghiên cứu này không bất lợi mấy cho Do thái giáo. Đối chiếu với mọi giới luật luân lý được Chúa Giêsu phát biểu một cách như khiêu khích, ta có thể trích dẫn nhiều câu tuyên bố của các giáo sĩ cũng nói ít nhiều một chuyện như thế, cũng đạt tới một tầm mức luân lý cao như thế, trên một vài điểm hoặc ít ra cũng rất tương hợp trên nhiều điểm khác. Phải thành thật mà công nhận điều đó. Tuy nhiên việc so sánh ấy làm lệch lạc quan điểm. Vì một trong những đặc điểm của truyền thống trường phái Do thái là thu gộp lại các câu nói khác nhau của các giáo sĩ, đến nỗi có nhiều ý kiến có giá trị luân lý cao đã được đặt bên cạnh các ý kiến khác từng bị Chúa Giêsu tấn công. Thành thử ta phải công nhận Tân ước như là nguồn mạch của mọi quan niệm thông thường ảnh hưởng trên tâm thức nhân gian thời bấy giờ. Sau cùng và đặc biệt, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu, đó là một sứ điệp tôn giáo và luân lý tổng hợp, mà tìm cách mới mẻ đã được tỏ bày cùng với giờ của lịch sử cứu rỗi.
Trong tất cả các phản đề Chúa Giêsu nêu lên, hiện ra một yêu sách duy nhất, dứt khoát. Điều thiện cần làtn thì phải làm cho trọn vẹn. Ai chỉ làm một phần, với sự hạn chế, cốt cho xong mệnh lệnh bên ngoài, là không làm gì cả. Và để người ta hoàn toàn chú ý tới yêu sách đó, cái yêu sách ăn sâu đến tận tâm hồn, Chúa Giêsu dùng một thể văn đặc biệt: thể văn phóng đại. Câu tuyên bố về việc làm gương xấu và về yêu sách chặt bớt các phần thân thể là một trường hợp rõ ràng. Và ta cũng phải hiểu theo một nghĩa tương tự phán quyết của Chúa Giêsu về sự giận hờn và nhục mạ. Tuy nhiên, đừng lạm dụng hình thức giảng dạy bình dân thông dụng ở phương Đông này, để làm yếu đi các đòi hỏi khách quan mà nó chứa đựng. Vì quả thực Chúa Giêsu buộc phải triệt để xa lánh ngay cả dịp tội, chấp hành tốt tình huynh đệ không chỉ bên ngoài mà còn từ ý tưởng con tim, và từ chối mọi quyền trả thù chính đáng (5, 38- 42).
Nố sau cùng này đặc biệt gây ra nhiều vấn đề khó giải quyết. Phải chăng như thế là Chúa Giêsu đã không phá bỏ trật tự pháp lý bên ngoài cần thiết cho đời sống xã hội? Trật tự đó há chẳng bắt nguồn từ Thiên Chúa sao? Và đặc biệt riêng về đoạn văn này, phải chăng nó không tạo nén một nền tảng Kinh Thánh vững chắc cho các luồng tư tưởng chủ hòa hiện thời, những luồng tư tưởng nghiêm cấm mọi hình thức tham chiến. Rồi người bị thiệt thòi cách bất công có thể nại đến toà án không.. Đó là những câu hỏi hóc búa khó trả lời trong vài dòng chữ. Chúng ta hãy tạm đưa ra một vài nhận xét tổng quát ít nhất như những cái mốc đầu tiên của một câu trả lời.
Tất cả các quy định của luật Cựu ước mà Chúa Giêsu trích dẫn, dù chưa thực sự hoàn hảo, cũng đã nói lên một tiến bộ luân lý không thể chối cãi so với luật rừng hay tình trạng man rợ vẫn có khuynh hướng ưu thắng trong đời sống xã hội thời bấy giờ. Tất cả các quy định đó đều nhằm mục đích làm cho đời sống xã hội trở nên công bình và huynh đệ hơn. Thế mà, sở dĩ Chúa Giêsu đến kiện toàn Lề luật Môisen, chính là để kiến lập thêm công bình và huynh đệ giữa con người. Dĩ nhiên, việc kiện toàn luật Môisen chỉ có thể được thực hiện trong chiều hướng triệt để hóa các yêu sách tuyệt hảo nhất của nó. Thành ra mọi lời giải thích học thuyết luân lý của Chúa Giêsu trong Diễn từ trên núi đều phải lưu ý đến bối cảnh tổng quát đó: lối giải thích nào khuyến khích các lạm dụng và có khuynh hướng biến xã hội thành một đàn cừu phó mặc cho lũ sói cắn xé, thì không phù hợp với bồi cảnh này. Vì thế, thái độ bất kháng cự tuyệt đối trước mọi hình thức bạo lực đang hoành hành trong thế giới ngày nay, chỉ tổ khuyến khích việc bóc lột kẻ cô thân yếu đuối, tước đoạt các nhân quyền và làm phương hại phẩm giá con người cách trầm trọng.
Thứ đến, có thể tự hỏi phải chăng Chúa Giêsu chỉ muốn đứng trên bình diện pháp định hoàn toàn. Có nhiều bằng chứng cho thấy phải hiểu ngược lại. Thực vậy, các bản văn pháp luật thường mang tính cách điều độ, dùng từ ngữ chính xác, không có những hình ảnh thái quá hay kiểu nói khoa trương, đầy dấy nhiều điều khoản tiên liệu các luật trừ v.v… Thế mà văn thể Chúa Giêsu dùng trong Diễn từ lại hoàn toàn khác biệt. Người ưa sử dụng kiểu nói đại ngôn. Hãy lấy một trường hợp điển hình: lời khuyên bảo chìa cả hai má cho kẻ vả mặt (5, 39). Hiển nhiên đây không phải là một nguyên tắc về phản lệ chính thức, song chỉ là một ví dụ cố ý phóng đại ra; cũng vậy khi nói phải móc mắt hay chặt bàn tay. Vì trong thực tế, hành động như thế chẳng có hiệu quả gì. Cũng như con mắt bị móc hay bàn tay chặt lìa không thể bảo vệ người tín hữu khỏi bị một gương xấu khác, thì cũng vậy, cái vả má thứ hai chẳng cản ngăn được cái tát thứ ba, hay làm cho người hung ác trở nên thiện cảm. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu sẽ đưa ra một lối giải thích hay nhất về câu nói của Người: đó là khi bị tên đầy tớ vả mặt, Người đã chẳng đưa má kia, song nghiêm nghị hỏi nó: “Nếu Ta đã nói không phải, thì hãy làm chứng không phải chỗ nào: còn nếu là phải, sao lại đánh Ta?” (Ga 18, 23). Hãy phân biệt rõ: một đàng là mệnh lệnh, có giá trị đối với mọi người và cho mọi hoàn cảnh, đàng kia là một ví dụ cố ý phóng đại mà chẳng xét đến các điều kiện cụ thể hằng biến đổi luôn. Chúa Giêsu công bố một lý tưởng, chứ không ban hành một đạo luật.
Lại nữa, giả thiết rằng Giáo Hội và xã hội phải tuân theo một quá trình tiến hóa có tính cách năng động, và quá trình này, ít ra trong các nguyên tắc, nhằm tinh luyện ý thức luân lý dưới tác động của Chúa Thánh Thần (như đã xảy ra trong suốt lịch sử Israel), thì có thể Chúa Giêsu đã biết đến một quá trình như vậy và muốn trình bày, trong Diễn từ trên núi, các nguyên tắc năng động sẽ hướng quá trình đó tiến về việc thực hiện ngày càng hoàn hảo một xã hội công bằng và huynh đệ. Trong viễn ảnh ấy, các lời khuyên bảo có tính cách tuyệt đối của Người có lẽ không nhằm đưa ra các mệnh lệnh cụ thể phải thực hiện tức khắc, nhưng đưa ra một đường hướng phải theo để dần dà, với thời gian, sự thiện lướt thắng sự ác.
Hiển nhiên, mọi suy luận trên đây chẳng làm mất đi tính cách khẩn trương của một nỗ lực vô điều kiện nhằm thực hiện các yêu sách luân lý của Chúa Giêsu. Vì Người cũng muốn đưa ra, không phải một bộ luật mới, song là những đường hướng mới và đòi buộc một thái độ cụ thể. Điều đó hiện ra rõ ràng qua cung giọng sai khiến của các phản đề, và được xác định bởi dụ ngôn cuối cùng về việc xây nhà, trong ấy Chúa Giêsu đối chiếu người khôn biết nghe lời Người và đem ra thực hành, với kẻ dại chỉ nghe qua mà thôi. Tuy nhiên, trong cụ thể, việc đem ra thực hành đó cũng bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh. Điều cốt yếu là biết cảm hứng theo lý tường mình nhận ra trong Diễn từ này và chân thành phấn đấu đưa lý tưởng đó vào trong một thế giới mà, mặc dầu bị nhiều thất bại thê thảm, cũng biết cách mù mờ rằng nó phải chọn hoặc luân lý Tin Mừng, hoặc là bị hủy diệt tiêu tan.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Mắt thế mắt, răng đền răng”: Nguyên tắc báo thù theo đó phạm nhân phải bị bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên, vẫn được áp dụng chung chung và từ lâu, trong thế giới văn minh. Nguyên tắc đã xuất hiện trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Ở đây nó quy chiếu về Xh 21, 24 (x. Đnl 19, 21; Lv 24, 20). Trong bối cảnh Cựu ước, nó nhấn mạnh đến tính cách nghiêm khắc cần thiết của hình phạt, song cũng đánh dấu một bước tiến quan trọng so với chế độ báo thù cá nhân hỗn loạn (xem bài ca man rợ của Lamek trong St 4, 24 chẳng hạn).
“Đừng cự lại người ác”: Huấn thị này không nói với các quan tòa là những kẻ phải tìm cho ra phương cách mới để áp dụng luật lệ trường hợp các truyền thống giáo sĩ Do thái), nhưng trái lại ngỏ lời với người bị tổn thương để bảo họ biết phải xử trí ra sao cho hợp với tư cách môn đồ Chúa Kitô. Chúa Giêsu và các Kitô hữu đầu tiên không muốn hủy bỏ pháp chế hiện hành thời đó (như thánh Phaolô, với tư cách công dân Rôma, đã kháng cáo lên Hoàng đế để xin minh oan: Cv 25,11); song các ngài đã đưa vào xã hội một thái độ nhân bản mới làm phát hiện tính cách sơ thiển, hạn chế trong thời gian của các bộ hình luật chính thức hiện hành; các bộ luật này không bị hủy bỏ nhưng đã trở nên lỗi thời vì thái độ cụ thể của các Kitô hữu, là thái độ dù cảm hứng theo một lý tưởng, vẫn để ý tới các hoàn cảnh con người, không gian và thời gian.
“Đi một dặm”: Chắc hẳn ví dụ này ám chỉ đến một khổ dịch; binh sĩ và viên chức này xưa có thể buộc một bộ hành nào đó vác một gánh nặng (x. trường hợp ông Simon thành Xyrênê vác thập giá) hoặc đi theo họ để làm con tin hay người dẫn đường.
“Ai xin… ai muốn vay”: Lời khuyên gồm hai xác ngôn song song- hầu như đồng nghĩa: việc cho vay mượn thường tương đương với việc bố thí. “Cho đồng loại vay là làm việc từ thiện”, Hc 29, 1 khẳng định thế. Giữa người Do thái với nhau, cho vay không được ăn lời (Xh 22, 24; Lv 25, 35- 37; Đnl 15, 7- 11; 23, 20-21 tất cả các bản văn này đều quy chiếu về các “anh em” Do thái) và đến hưu niên (année sabbatique) thì mọi nợ nần và vay mượn đều được tha ít nhất trên lý thuyết (Đnl 15). Làm thế là vì Israel muốn mãi mãi là một dân tộc sống tình anh em. Ở đây hình như Chúa Giêsu muốn nới rộng luật ấy theo nghĩa là người yêu cầu hãy cho vay bất cứ ai xin vay, mà đừng để ý đến chủng tộc hay tôn giáo của họ. Gia đình Israel phải mở rộng cửa nhà mình cho tất cả mọi người.
“Hãy ghét địch thù”: Trong lúc mấy phản đề trên kia quy chiếu về các khoản luật đích xác của Cựu ước thì ớ đây lại khác hẳn. Quả vậy, ta chẳng tìm đâu ra trong Cựu ước mệnh lệnh minh nhiên phải ghét địch thù. Có lẽ lời huấn thị chỉ muốn chống lại tư tưởng khá phổ biến trong Do thái giáo suy đồi là: tất cả những ai không thuộc thành phần cộng đoàn quốc gia và tôn giáo đều là thù địch. Đặc biệt trong các bản văn Qumrân, ta thấy tỏa ra lòng khinh miệt ghê gớm đối với “con cái tối tăm”; các Thánh vịnh của Salomon cũng cho nhiều ví dụ tương tự. Thành thử có lẽ trong bối cảnh này, thù địch không phải là đối phương cá nhân bên trong cộng đoàn tôn giáo, cũng chẳng phải là thù địch của quốc gia theo nghĩa chính trị hay quân sự, nhưng là kẻ bách hại đức tin, kẻ thù của cộng đoàn thiên sai do các Kitô hữu đầu tiên thành lập. Trước đó, trong bản 70, chữ echthros đã thường chỉ các thù địch của dân Thiên Chúa (Tv 31, 7; 139, 21 v.v…); lời ám chỉ đến các người bắt bớ trong câu tiếp theo củng cố giả thiết vừa nói; sau cùng các thánh thư cũng cho thấy chữ này thường được dùng theo nghĩa ở thế kỷ thứ nhất (2 Tx 3, 15; Rm 5, 10; Cl 1, 21; Gc 4, 4). Tình yêu nói đây không phải chỉ là chẳng giận hờn, chẳng báo oán nhưng, như trong Cựu ước và Tân ước, luôn luôn là hành động cụ thể, là hiệp thông sống động biểu lộ qua các cừ chỉ rõ ràng (Vd. Lời chào hỏi nơi c.47). Cầu nguyện cho các người bắt bớ không phải là biểu thức duy nhất của tình yêu đó, song chỉ là một trong các cách biểu lộ tình yêu; chữ khi (và) chẳng có nghĩa giải thích nhưng có nghĩa: và đặc biệt. trong khi làm các cử chỉ yêu thương này, có thể ta vẫn mang tâm trạng oán hận hay ác cảm tự nhiên đối với kẻ thù hiện gây cho ta đau khổ. Trong một trường hợp như vậy, dù cố gắng thế nào, cũng khó mà chế ngự các phản ứng nhạy cảm được. Nhưng Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tâm lý, và chẳng muốn phân biệt giữa điều cảm thấy và điều ưng thuận như các nhà luân lý học thường làm một cách chính đáng. Người đứng trên bình diện hành lang cụ thể (vd: cầu nguyện, c.44; chào hỏi, c.47), nơi phê phán sau cùng sự chọn lựa sâu xa của con người vượt trên mọi xao động của cảm giác.
“Hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành”: Hình như lời tuyên bố này không chỉ kết thúc đoạn văn về lòng yêu thương thù địch, mà còn kết thúc cả đoạn gồm cc. 17-48 về việc chu tất Lề luật theo quan niệm của Chúa Giêsu. “Câu nói” (logion) rõ ràng cảm hứng từ Lv 19, 2: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh” và từ Đnl 18, 3: “Ngươi hãy nên trọn. lành trước mặt Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Có nhiều cách giải thích nó. Nhưng hình như phải loại bỏ ý tưởng về một sự tương đồng kiểu hữu thể học (xa lạ với tư tưởng Hy bá) hay kiểu luân lý học theo nghĩa tuyệt đối không thể phạm tội là một điều bát khả đối với tạo vật, trừ phi được đặc ân ngoại thường). Thật ra, chủ đề “trọn lành”, trong các bản văn Kinh Thánh, diễn tả ý tưởng dấn thân hoàn toàn, thuộc trọn về một mình Thiên Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của teleios (trọn lành) được một dùng thêm một lần nữa, trong câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị người thanh niên giàu có bán của cải anh ta có và đi theo Người nếu anh muốn nên trọn lành (19, 21). Hạn từ này xem ra liên hệ với hạn từ công chính”: người trọn lành là người thực thi tròn đầy Lề luật đã được Chúa Kitô tái giải thích.
KẾT LUẬN
Dù ta có thể nghĩ rằng các thành ngữ Chúa Giêsu dùng trong đoạn văn này có tính cách nghịch lý, thì sứ điệp căn bản vẫn rành rành: môn đồ của Chúa Giêsu được mời gọi hãy yêu thương tất cả mọi người không trừ ai và yêu thương một cách cụ thể, chứ đừng để cho tà ý hay hận thù lấn át tình yêu. Như thế, họ mới tỏ ra mình là con cái đích thật của Cha trên trời.
Ý HƯƠNG BÀI GIẢNG
-Trong một thế giới bị chi phối bởi luật “do út des” (hòn đất ném đi, hòn chì ném lại), giáo huấn của Chúa Giêsu thật mở ra nhiều viễn tượng mênh mông. Nó giúp ta tránh khỏi cái vòng quỷ quái của toan tính ích kỷ, của hành động vụ lợi, của thù hận đáp trả hận thù. Chỉ tình yêu mới có thể phát sinh tình yêu. Chỉ các Kitô hữu bị thu húat bởi sức mạnh chinh phục của sự dịu dàng nơi Chúa Kitô, mới có thể tạo nên trong thế giới một cuộc cách mạng ôn hòa có sức đánh đổ việc bóc lột người hèn yếu và bạo động quá đáng.
-Các bản văn này buộc ta tự vấn về mức độ cởi mở của ta đối với kẻ khác. Phải chăng ta chỉ phục vụ, yêu thương cha mẹ và bằng hữu? Khi gặp dịp, ta có biết chấp nhận phiền toái để giúp đỡ những người xa lạ không?
-Lý tưởng trọn lành của Kitô hữu chẳng phải là lý tưởng tránh phạm tội của Biệt phái, tiết độ của Khắc kỷ, hay vô cảm của Phât giáo. Kitô hữu không nhìn đến bản thân mình nhưng nhìn đến Chúa Cha, không tìm cách trau dồi các nhân đức như người ta vun trồng cây cối hay tìm cách tạc nên bức tượng thiêng liêng của mình, nhưng chỉ cố gắng bắt chước Chúa Cha, bằng cách gieo rắc tình yêu quanh mình. Và so với lòng nhân lành vô biên của Chúa Cha, người Kitô hữu luôn cảm thấy mình thiếu sót.
-Khi thấy mình hoàn toàn không thể sống tình yêu mà Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu liền ý thức rằng chỉ ân sủng của Chúa Thánh Thần mới có thể biến đổi tâm hồn hẹp hòi của mình và làm cho mình nên giống như Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 25, 34).
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN-A
YÊU “KẺ THÙ” NHƯ THẾ NÀO ĐÂY?– Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Quả thật đã từng có nhiều ý kiến khác chiều, thậm chí có khi là trái chiều liên quan đến những lời dạy của Chúa Kitô về việc không chỉ “đừng chống cự lại kẻ ác” mà còn “giơ má kia cho người ta đánh” hoặc “phải yêu kẻ thù” (x.Mt 5,38-44).
“Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”. Lời một bài ca khá phổ biến này dường như được cảm hứng từ những lời Tin Mừng trên đây. Nếu nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình thì hẳn sẽ không có chuyện giết hay ghét bỏ. Chỉ có ma quỷ mới là kẻ thù đích thực của chúng ta.
Trước hết chúng ta cần phân định rõ lời dạy của Chúa Kitô qua đoạn tin mừng Mt 5, 38-48 mà giáo hội cho trích đọc trong Chúa Nhật VII TN A. Nội dung chính lời dạy của Chúa Kitô là cần phải vượt qua cái giới hạn của đức công bình cũng như giới hạn của đức yêu thương theo luật Cựu ước.
Thiết tưởng cần nhìn nhận mặt tích cực của luật công bình “mắt đền mắt, răng đền răng, sưng đền sưng, bầm đền bầm…”. Luật này giúp hạn chế sự gia tăng mức độ báo thù mà thường theo bản năng người ta khó tự kiềm chế. Chuyện bị đánh gảy một cái răng thì đánh trả lại người ta gảy nguyên cả hàm vẫn còn nhan nhản ngay trong thời đại hôm nay. Nước này phóng vào lãnh địa nước kia mười quả đạn pháo thì nước kia sẽ phóng trả đủa lại không dưới mười quả, có khi là gấp ba, gấp bảy lần. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” dường như vẫn còn giá trị của nó. Tuy nhiên giới luật này không khử trừ sự ác, điều xấu cách tận căn mà nhiều khi dẫn đến tình trạng không lối thoát.
Chuyện thật như bịa theo ý cha Anthony de Mello: Có tay trộm choai choai lẻn vào khuôn viên nhà thờ lúc bốn giờ sáng, định cuỗm thứ gì đó. Chưa thu được chiến lợi phẩm gì thì bị “ông từ” đi đánh chuông phát giác. Hoảng quá cậu nhóc leo đại lên tháp chuông trốn tưởng rằng qua được mắt ông từ già. Nhưng rủi cho cậu nhóc là cặp mắt ông từ vẫn còn tinh. Ông từ kiên nhẫn ngồi dưới tháp chuông chờ có người đến thì la làng. Cậu nhóc đoán được ý ông từ đành làm liều nhảy đại xuống từ độ cao khoảng bốn mét (tầng cuối). Ai ngờ cậu nhóc nhảy xuống vấp phải ông từ khiến ông già trẹo một chân. Dù gảy chân nhưng ông từ vẫn ôm chặt cậu bé và la lớn tiếng. Người ta chạy đến và cậu nhóc bị tóm. Tất cả dẫn cậu nhóc vào cha xứ. Ngài hỏi cậu nhóc đã ăn trộm cái gì. Cậu ta thưa là chưa lấy được gì cả. Ngài phán tiếp: “thế thì theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ông từ được quyền leo lên tháp chuông và nhảy xuống để làm trẹo một chân cậu nhóc!” Mặt ông từ tái xanh.
Chúa Giêsu đã dùng lối nói “ngoa ngữ” dạy chúng ta dùng chính tình yêu, việc lành để giải hoá sự hận thù, diệt trừ sự dữ tận gốc rễ. Cần lưu ý rằng văn phong “ngoa ngữ” thường được sử dụng không phải cố ý dạy những gì được trình bày nhưng để nhằm nhấn mạnh ý tưởng muốn nói. Chẳng hạn khi dạy chúng ta rằng nếu mắt hay tay chân ta gây cớ cho ta phạm tội thì chặt chúng đi, Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến việc dứt khoát tránh dịp tội chứ không biểu chúng ta móc mắt hay chặt chân, chặt tay (x.Mt 5,29-30). Hiểu được điều này thì chúng sẽ không thấy có sự mâu thuẩn giữa lời dạy và hành động của Chúa Giêsu. Trước mặt thượng tế Khanan, khi bị một thuộc hạ của thượng tế vả vào mặt thì Chúa Giêsu đã chất vấn: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18,23). Khi dạy chúng ta “nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa” thì Chúa Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh điều này: “đừng chống cự người ác”, nghĩa là đừng báo thù, kiểu ăn miếng trả miếng.
Tình yêu thì không có biên giới cả về mức độ lẫn đối tượng. Ăn cho, buôn so. Đã có tính toán, đã có hạn mức cố định thì sẽ chẳng còn là tình yêu. Đã yêu là yêu đến cùng. Xét về mức độ thì Chúa Kitô không chỉ minh định rõ ràng đó là sẵn sàng hiến thân vì người mình yêu mà Người còn thể hiện sự đến cùng trong tình yêu bằng cái chết trên thập giá. Để diễn tả sự đến cùng trong mức độ mến Chúa và yêu tha nhân thì Chúa Giêsu đã long trọng nhắc lại lời Cựu ước và nhấn mạnh thêm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi…Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12,30-31). Hạn từ “hết” đuợc lặp đi lặp lại và hạn từ “như chính mình” làm nỗi rõ tính vô biên của tình yêu.
Xét về đối tượng, luật Cựu ước đòi hỏi phải yêu thương người đồng bào, người đồng đạo. Luật còn dạy phải quan tâm đến người nghèo khổ, mẹ goá, con côi, khách ngụ cư, khách ngoại kiều. Chẳng hạn khi gặt lúa thì đừng gặt sát bờ, kiểu gặt sạch sành sanh, đừng mót các gié bị vương vải. Và khi hái nho cũng thế, không được lượm các quả rơi rụng…Tất cả những thứ ấy là để dành cho người nghèo, người khốn khổ… (x. Lv 19, 9-10). Tuy nhiên, dù trong luật không minh nhiên dạy phải ghét kẻ thù nhưng truyền thống và lối sống của dân Chúa xưa luôn có khoảng cách với người tội lỗi, với người bị xem là ô uế, với quân thù lân bang. Những hạng người trên tuy không bị ghét bỏ, nhưng thường không được xem là anh em, là người thân cận với người Do Thái. Một vị thông luật đã từng hỏi Chúa Giêsu rằng: “Ai là người thân cận của tôi?” Nhân dịp ấy Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “người Samaritanô nhân hậu” và qua đó khẳng định rằng chúng ta phải làm người thân cận với tất cả những ai đang cần đến lòng thương xót của chúng ta (x.Lc 10,25-37).
Ngoài trừ thần dữ, Kitô hữu chúng ta không xem ai là kẻ thù. Tuy nhiên vấn nạn đặt ra là làm sao có thể yêu những người xem chúng ta là kẻ thù nghịch đồng thời ngược đãi chúng ta và làm thế nào để thi ân cho người bách hại chúng ta? Làm sao có thể yêu được những người đang làm hại chúng ta cách cố tình và cách bất chính và bất công? Làm sao có thể yêu những người đang đàn áp, bóc lột kẻ nghèo hèn, đang bán nước cầu vinh, đang cao ngạo cho mình là duy nhất đúng kiểu như thần, như thánh trong khi đang làm cho tiền đồ dân tộc đi vào ngõ cụt…?
Nếu cho rằng yêu thuơng là một phạm trù thuộc tình cảm thì quả thật rất khó vượt qua tâm lý bình thường của kiếp người. Tuy nhiên cần lưu ý rằng yêu thương trên hết là một quyết định của ý chí tự do được biểu lộ cả bằng tình cảm và hành động. Không chỉ có những tình cảm trìu mến, quyến luyến mới phản ánh tình yêu mà ngay cả khi giận dữ, buồn phiền cũng có thể phản ánh tình yêu. Chuyện thương con cho roi cho vọt là chuyện như hiển nhiên mang tính quy luật. Không chỉ khi xúc động trước đoàn lũ đông đảo dân chúng như chiên không người chăn thì Chúa Giêsu mới tỏ bày tình yêu, cũng không phải khi Người rơi lệ trước cái chết của Ladarô thì mới là yêu, nhưng cả khi Chúa Giêsu buồn phiền trước lòng chai dạ đá của một số kinh sư và biệt phái cũng là vì yêu hay khi Người xung giận bện dây thành roi đánh đuổi những người đã biến Ngôi nhà Chúa thành nơi chợ búa, thành hang trộm cướp thì cũng là yêu thương vậy.
Yêu thương là không chỉ muốn mà còn phải nỗ lực làm điều tốt nhất cho người mình yêu. Trong niềm tin Kitô giáo thì mọi người đều là anh chị em với nhau. Đã là anh em, chị em với nhau thì trên bình diện tiêu cực, chúng ta không được phép loại bỏ nhau dù dưới bất cứ hình thức nào. Trên bình diện tích cực thì cần giúp nhau tồn tại, phát triển theo thánh ý Thiên Chúa để có hạnh phúc đích thực. Cách thế biểu lộ tình yêu có thể khác nhau tùy từng trường hợp nhưng luôn với ý hướng là để người mình yêu nên tốt hơn, nên hoàn thiện hơn. Có thể nói rằng cách chung đối với những người tội lỗi thuộc hàng bé mọn, yếu đuối, thì Chúa Giêsu thường bày tỏ lòng khoan dung, sự trìu mến, cử chỉ khích lệ, còn với những người tội lỗi thuộc hàng phận cao, quyền trọng mà cố chấp thì Người nghiêm khắc cách tỏ tường.
Với người này thì chúng ta biểu lộ tình yêu bằng cách thế này, người kia thì cách thế kia, nhưng xin đừng quên rằng chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho tất cả mọi hạng người. Vâng lệnh Chúa Giêsu chúng ta hãy chân thành cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta. Trước hết hãy cầu xin cho họ nhận ra lầm lỗi họ đã phạm và biết sám hối, ăn năn, thay đổi. Hãy cầu xin cho họ biết tìm cách khắc phục những hậu quả xấu đã gây ra cho tha nhân, cho xã hội… Có thể nói đây là bước khởi đầu của việc sống yêu thương “kẻ thù”, yêu thương những người làm hại chúng ta. Tiếp đến, hãy dùng ngôn ngữ mà rao truyền chân lý, vạch trần sự dữ để giúp người lạc lối trở về nẽo chính, đường ngay. Ngôn sứ Êdêkien đã từng nghe Thiên Chúa phán: “Nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác biết tội lỗi của nó, không cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, để nó được sống, thì chính kẻ gian ác sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (x. Ed 3,18). Có thể có nhiều cách thế yêu thương, nhưng thiết tưởng dù yêu bằng cách thế nào đi nữa cũng không thể thiếu hai động thái trên đây.
Phải chăng đang có đó nhiều Kitô hữu, thậm chí là nhiều tu sĩ, linh mục, giám mục những tưởng rằng mình đã yêu “kẻ thù”, đã làm ơn cho người “làm hại mình”, nhưng thực ra chỉ yêu chính mình mà thôi?
LUẬT CỦA TÌNH YÊU TOÀN THIỆN- Linh mục Giuse Nguyễn Thành Long
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta thấy Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn một khoản luật nữa của Cựu Ước, đó là luật của sự “ăn miếng trả miếng”. Trong bài ca man rợ mà nhân vật La-méc đã hát có câu: Cain được báo thù gấp bảy (1 trả 7 lần) thì La-méc được báo thù gấp 77 (1 trả 77 lần). Đến thời của Môisê, đã có một sự tiến bộ hơn: một trả một, tức là luật “ăn miếng trả miếng”, hay là luật “răng đền răng, mắt đền mắt”. Đây là giới hạn lẽ công bằng theo nghĩa chặt.
Vậy Chúa Giêsu kiện toàn theo nghĩa nào? Luật mới của Chúa Giêsu đó là gì? Luật mới của Chúa Giêsu đó là luật của tình yêu hoàn thiện, khi khoan dung với kẻ ác. Cụ thể là khoan dung với kẻ xúc phạm danh dự và phẩm giá của mình: “Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). Khoan dung với kẻ trấn lột, tước đoạt những thứ mình sở hữu: “Ai kiện lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy luôn cả áo ngoài” (Mt 5,40). Khoan dung với kẻ hành hạ bóc lột sức lực của mình: “Nếu có ai bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm” (Mt 5,41).
Nhưng tại sao lại phải khoan dung với kẻ ác? Phải chăng là Chúa Giêsu muốn cỗ võ thái độ nhu nhược và cam chịu cách thụ động? Hay Ngài muốn khuyến lệ sự bất công khi dung dưỡng cái ác? Thực ra khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài phải có thái độ khoan dung như thế là có lý do của mình:
Thứ nhất là nhằm ngăn chặn vòng xoáy của sự ác, sự leo thang của bạo lực theo nghĩa “lấy oán báo oán, oán càng chồng chất”. Thứ hai là nhằm chinh phục và cảm hoá kẻ ác vốn cũng là con người, vì sự bao dung tha thứ có khả năng biến thù thành bạn, như Chúa Giêsu đã nói: “Như vậy là các con đã được lợi một người anh em”. Thứ ba là để có được một tâm hồn bình an, thanh thản của con cái Thiên Chúa. Và thứ bốn là để trở nên giống như Cha trên trời là Đấng nhân từ, bao dung và khoan thứ.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn trả đũa, và khi trả đũa thì thường muốn trả nặng hơn mức người ta gây cho mình: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Hòn chì chắc chắn là cứng hơn và nặng hơn hòn đất rồi. Chẳng thế mà khi chứng kiến đội chủ nhà Áo (tại Eurô 2008) được trọng tài cho hưởng quả phạt đền ở phút cuốn trận đấu, đẩy đội Ba Lan vào tình thế chắc chắn xếp vali về nước, Tổng thống Ba Lan đã thốt lên rằng: “Tôi chỉ muốn giết ngay viên trọng tài đó”.
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, tìm cơ hội để báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… (Mt 5, 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên. Chính Chúa Giêsu, muốn các môn đệ của Ngài xưa cũng như nay phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39). Hơn thế nữa, Ngài còn nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, tha thứ cho những xúc phạm của anh em đối với mình, như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” Lc 23,34). Như vậy, bao dung tha thứ không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh, kẻ mạnh về tình yêu thương. Vì chỉ người nào có một tình yêu thương rất mạnh mới có khả năng chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta thường xử sự với anh em mình theo luật nào? Luật của sự “ăn miếng trả miếng” hay luật tình yêu bao dung mà Đức Kitô đã dạy?
Nếu ta muốn trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu thì ta không thể sống khác hơn những gì mà Chúa Giêsu đã sống, đó là bao dung tha thứ luôn luôn. Amen.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- A
HÃY NÊN TRỌN LÀNH NHƯ CHA TRÊN TRỜI– Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến
Sang phần hai của đoạn chính 5,21-48, Chúa Giêsu chuyển sang nói về cách hành xử của bản thân người môn đệ, đặc biệt đối với những người chống lại mình/kẻ thù: – Đừng thề (5,33-37), – Đừng chống lại người ác (5,38-42), – Yêu thương kẻ thù (5,43-48).
Đừng chống lại người ác (5,38-42)
Câu mở đầu (c. 38) hoàn toàn giống với 5,43, và giáo huấn của Chúa Giêsu ở dạng phủ định giống với câu ở phần trước: mè + động từ nguyên mẫu (c. 34). Các câu giải thích (cc. 39b-42) gồm hai phần đối xứng nhau với hai thí dụ cụ thể ở mỗi bên.
Luật Cựu ước “mắt đền mắt và răng đền răng” (Xh 21,24, Lv 24,20; Đnl 19,21) nhằm hạn chế việc đổ máu do không kiềm chế nỗi sự hận thù. Lamech hãnh diện với vợ mình “Nếu Cain trả thù bảy lần, Lamech trả thù bảy mươi lần” (Kh 4,23-24). Luật nầy đòi hỏi trách nhiệm trong việc gây thiệt hại, và giữ sự quân bình giữa tội ác và hình phạt. Trong Tân ước còn tìm thấy cách diễn tả tương tự với luật nầy (Mc 8,38, 1Cr 3,17).
Chúa Giêsu cấm sự đánh trả người làm điều ác: “Đừng chống trả người ác” (c. 39). Động từ anthistèmi, “chống lại”, hàm ý sự thiệt hại do người ác gây nên. Người ác, ponèros, tương đương với kẻ thù, echthros, với người bắt bớ, làm sỉ nhục (x. 5,11). “Không chống lại người ác” nghĩa là không để mình bị vướng vào vòng lẩn quẩn của sự ác: bạo lực sinh ra bạo lực; một cái răng của mình bị mất đi phải đòi lại một cái răng của người khác. Mức độ đầu tiên là bất bạo động: “Khi Ngài bị sỉ nhục, Ngài không sỉ nhục lại” (1Pr 2,23). Mức độ kế tiếp cao hơn sẽ là yêu mến người làm điều ác (5,44-45; 1 Thess 5,15). Chúa Giêsu đưa ra bốn minh họa về sự bất bạo động:
– Bị đánh vào má (c. 39b), rhapizò, là hành vi hạ nhục và khinh dễ hơn là làm cho đau về mặt thể lý. Việc đưa cả hai má phải và trái cho người ác chỉ việc hoàn toàn không chống trả và sẵn sàng chịu mọi sự sỉ nhục không do lỗi mình; người tôi tớ trong Isaia cũng đã làm như thế, “Tôi đã không che mặt” (Is 5,5-6; x. Gióp 16,10). Chúa Giêsu đã bị đánh vào má trước mặt các thượng tế và Công nghị vì Ngài bị cho là phạm thượng; do đó đáng phải chết (26,67).
– Bị đoạt áo (c. 40): bối cảnh của đoạn nầy là việc thưa kiện ở toà án để đoạt lấy áo, “muốn kiện”, theolonti krithènai (c. 40; x. 18,30). Người bị kiện là một người nghèo tận cùng. Người nầy phải vay nợ để sống và không có gì để trả nợ. Chủ nợ chỉ có thể lấy áo trong, chitòn để trừ nợ, chứ không được lấy áo ngoài, mặc dù áo ngoài có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Theo luật pháp thời ấy, chủ nợ không được cầm giữ áo ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy áo ngoài thì buộc phải trả lại áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo ngoài/áo choàng dùng để làm chăn đắp ban đêm (Xh 22,25-27; Đnl 24,12-13). Đứng trước người không có lòng xót thương, người nghèo có thể bị lột trần trước mặt mọi người. Ngay cả khi bị như thế, Chúa Giêsu dạy đưa luôn áo ngoài cho họ. Chúa Giêsu đã bị lột áo, cả áo trong (Ga 19,23) lẫn áo ngoài (27,31.35), và nên trần truồng hoàn toàn trên thập giá.
– Bị ép phục dịch (c. 41): động từ angareuò, “bắt ép”, mượn từ tiếng Persian. Angaroi là những người đưa thư. Những người nầy đứng tại các trạm ở các địa phương do vua xứ Persian chỉ định. Họ sẵn sàng với con ngựa để chuyển thư từ trạm nầy qua trạm kia để chuyển thư thật nhanh đến đích. Ở đây từ angareuò nầy chỉ sự ép buộc đi một hành trình, mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó do quân đội hay các viên chức trên một hay nhiều người, như trường hợp Simôn người Xirênê bị quân lính Rôma ép vác thánh giá với Chúa Giêsu (27:32).
– Cho và vay mượn (c. 42): Câu nầy vẫn còn nằm trong văn mạch của mệnh lệnh: “Đừng chống lại người ác” (c. 39a), và người môn đệ vẫn còn là nạn nhân của bạo lực hay bất công. Theo cấu trúc, câu nầy đối xứng và song song với câu 40a: tò + phân từ + ngươi + động từ. Động từ “muốn + vay mượn”, thelò, trong câu nầy mang ý nghĩa tương tự như trong câu 42 là muốn vay mượn tài sản của anh em trong đó hàm ý việc đoạt lấy; so sánh câu nầy với câu song song trong Lc 6,30: “Tất cả ai xin, hãy cho, và kẻ đoạt của ngươi, ngươi chớ đòi lại”. Hơn nữa, câu nầy liên kết với đoạn theo sau 5,43-48 bởi từ ponèros, “người xấu” (cc. 39,45), trong đó nói về việc yêu thương kẻ thù. Đây là minh họa đi trước cho việc yêu thương kẻ thù.
Việc giúp đỡ và cho vay mượn được nói rất nhiều đến trong Cựu ước, mà đối tượng nhắm đến thường là người nghèo (Xh 22,25; Lc 25,36-37; Đnl 15,2-6). Ở đây Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát và không phân biệt người được cho và cho vay: “Ai xin, ngươi hãy cho. Ai muốn vay, ngươi chớ khước từ” (c. 42; x. 5.45), trong đó bao hàm cả người ác/xấu.
Vậy qua đoạn 5,38-42 Chúa Giêsu muốn chúng ta giữ mình tự do khỏi mọi hình thức bạo lực. Quyền xét xử và báo oán là của Thiên Chúa (Rm 12:19-21). Phần người môn đệ của Chúa là “không lấy oán báo oán, mà theo đuổi điều thiện cho nhau và cho mọi người” (1 Thess 5:15).
“Yêu thương kẻ thù” (cc. 43-48)
Sự công chính của người môn đệ được thể hiện ở mức tối đa là yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương nầy làm họ nên giống Cha trên trời là Đấng trọn lành (5:48) và là Đấng công chính (6:33), và cũng làm cho họ trổi vượt hơn các kinh sư và người Pharisêô về sự công chính (5:20). Đoạn nầy có cấu trúc giống như các đoạn trước, và thêm lời kết luận cho toàn phần 5:21-48. Từ ngữ chính trong đoạn nầy là agapaò, “yêu thương” (cc. 43.44.46[2x]) và echthros, “kẻ thù” (cc. 43.44).
Cựu ước nói cách rõ ràng việc yêu thương người lân cận. Người lân cận được định nghĩa là người đồng hương Israel, mặc dù cũng có thể nới rộng định nghĩa nầy ra cho người ngoại quốc đến ngụ cư (Lv 19:18, 33-34; Đnl 10:18-19). Trái lại, không thấy Kinh Thánh nói cách hiển nhiên việc ghét kẻ thù, mặc dù có thể suy diễn từ một số đoạn (x. Đnl 7:2; 20:13–18; 25:17–19; Tv 137:8–9; 139:19–22). Đối lại với câu chủ đề gồm hai mệnh đề, Chúa Giêsu cũng đưa ra một câu gồm hai mệnh đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người bắt bớ các con” (c. 44). Hai mệnh lệnh đều ở ngôi thứ hai số nhiều và thì hiện tại, chỉ sự áp dụng chung cho các môn đệ của Chúa Giêsu và cho mọi thời.
“Kẻ thù” theo mạch văn là người bắt bớ (c. 44b), người xấu (c. 45). Họ sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu đủ điều các môn đệ (x. 5:10-11), họ làm những điều bất công (x. 5:38-42); do đó việc ghét kẻ thù là điều thường tình đối với người đời. Trái lại Chúa Giêsu dạy phải yêu thương kẻ thù theo mẫu gương của Cha trên trời. Ngài “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ lẫn người lành” (c. 45; x. 22:10). Ngài làm điều tốt cho cả hai mà không phân biệt (x. Rm 212:20-21). Matthêô dùng từ ponèros, “người xấu” thay vì echthros, “kẻ thù”, trong câu liên quan đến Thiên Chúa, vì “kẻ thù” thật sự của Thiên Chúa là ma quỉ; chắc chắn là Ngài không “cho mặt trời mọc lên” trên kẻ thù nầy, mà đặt nó dưới bệ chân Ngài (13:25tt, 22:44).
Trước khi đi đến kết luận, Chúa Giêsu đưa ra hai minh hoạ về cách yêu thương mà người môn đệ không nên noi theo, “Nếu chỉ yêu thương…”, “Nếu chỉ chào hỏi…” (cc. 46-47), bằng không họ sẽ không công chính hơn người thu thuế và dân ngoại chút nào cả. Tính từ so sánh “hơn”, perisson, ở đây đóng khung đoạn 5:21-48, và liên quan đến sự công chính của các môn đệ (c. 20). Vậy ai hành động như Thiên Chúa thì sẽ nên con cái của Ngài, và con cái của Ngài phải là người xây dựng hoà bình, chứ không lấy ác báo ác (5:9).
“Nên trọn lành như Cha trên trời” (c. 48)
Từ quan trọng của câu kết luận là teleios, “trọn lành”, nghĩa là đi đến cùng và không còn thiếu gì cần thiết nữa. Matthêô dùng 3 lần từ nầy và qui chiếu về Thiên Chúa. Trong 19,21, sự trọn lành mà Chúa Giêsu chỉ cho người thanh niên là tuân giữ lề luật Chúa, từ bỏ của cải và theo Chúa. Trong câu 5,48 sự trọn lành trước tiên quy chiếu về lề luật đã được Chúa Giêsu làm trọn (5,21-48), và cũng qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha…” (c. 48b). Liên từ “như”, hòs, chỉ phẩm tính thuộc về Thiên Chúa. Vậy việc “nên trọn lành như Cha trên trời” được đặt trong tương quan Cha – con, “Cha trên trời” (c. 48) – “con cái Cha trên trời” (c. 45): sự trọn lành của con cái bắt nguồn từ sự trọn lành của Cha và có cùng phẩm tính là yêu thương, và tình yêu của Cha thể hiện qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành” để nêu gương, thì con cái cũng bắt chước gương Cha mà làm như vậy: làm điều tốt cho người khác vì yêu thương.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN-A
LÒNG BAO DUNG- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trả thù, báo oán là cách ứng xử man rợ, thiếu đạo đức.
Luật trả thù báo oán kiểu “mắt đền mắt, răng đền răng” là thứ luật đã lỗi thời, không còn thích hợp nữa, thế mà ngày nay không ít người vẫn muốn cư xử với nhau theo thứ luật rừng man rợ đó. Ai móc mắt tôi, tôi móc mắt người đó. Ai đánh gảy răng tôi, tôi đánh gảy răng người đó…”
Trước hết, đây là cách ứng xử thông thường của loài vật, như gà chọi chẳng hạn: Con nầy đá qua, con kia mổ lại, đấu đá nhau cho đến khi cả hai đều gục xuống, kiệt sức, mình mẩy đầy máu me!
Đây cũng là phản ứng tự nhiên của những con trâu điên, của những con chó dại: Trâu nầy húc qua, trâu kia báng lại cho đến khi cả hai không còn hơi sức.
Những cách ứng xử như trên là man rợ, rừng rú, chỉ thích hợp cho một số loài động vật hung hãn. Là người, chúng ta không thể sống theo bản năng hạ cấp mang đầy thú tính như vậy.
Nhiều cuộc xung đột trên thế giới được giải quyết theo kiểu “mắt đổi mắt răng đền răng”, tức giải quyết bằng chiến tranh, trả thù, báo oán và đã đưa đến hậu quả vô cùng bi đát. Lịch sử chiến tranh giữa các dân tộc qua bao thời đã cho thấy điều đó.
Bao dung tha thứ cho kẻ thù là thượng sách.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su muốn nâng nền luân lý nhân loại lên một tầm cao mới. Người đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44) Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.
Khi người ta quai búa tạ vào tảng đá cứng, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại búa, hậu quả là đá sẽ nứt vỡ ra, bị nghiền tán ra. Đá bị thất bại hoàn toàn! Nhưng khi người ta quai búa giáng mạnh xuống hồ nước, nước sẽ dùng sự mềm mại của mình để vô hiệu hoá sức mạnh của búa. Nước không hề hấn gì nhưng búa thì sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy hồ. Thế là nước thắng lợi vẻ vang!
Khi gặp bão táp cuồng phong, những cây cổ thụ cao lớn cứng cáp dùng sự cứng rắn mạnh mẽ của mình để kháng cự lại bão tố. Hậu quả là chúng bị gảy cành, trốc gốc. Trong khi đó, những rặng tre, những cây lau sậy không hề kháng cự lại bão tố, nhưng dùng sự mềm dẻo của mình để uốn theo chiều gió nên chúng được an toàn.
Hiểu được quy luật đó nên Lão tử đã dạy môn sinh từ mấy ngàn năm trước: “nhu thắng cương, nhược thắng cường.” Vị sư tổ của môn phái Judo cũng đã dựa vào quy luật nầy để sáng lập nên môn phái Judo (nhu đạo), một môn võ thuật lấy mềm dẻo chiến thắng hung bạo cứng rắn.
Thay phần kết luận:
Gia đình ông A và ông B sống gần nhau và cùng trồng dưa trên hai lô đất kế cận. Gia đình ông A đam mê rượu chè, bài bạc, không chăm sóc vườn dưa nên vườn dưa xơ xác, không thu hoạch được gì. Trong khi đó, gia đình ông B chăm sóc vườn dưa chu đáo nên được bội thu, tiền vào như nước, sắm sửa được nhiều thứ trong nhà. Nổi máu ghen tị, ông A xúi con qua phá hoại vườn dưa của ông B, vừa hái trái ăn vừa nhổ cây, gây thiệt hại nặng nề cho gia đình ông B.
Trước sự gây hấn đó, gia đình ông B giận sôi gan, chuẩn bị mài dao mài rựa tìm cách báo thù. Buổi tối trước khi ra tay hành động, ông B nằm suy nghĩ miên man và may thay, câu Lời Chúa ông vừa nghe trong thánh lễ ban sáng chợt vọng về: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt 5, 44. 38-39).
Sáng hôm sau, nhờ Lời Chúa tác động, ông B bàn với vợ con cứ đến lúc trời mới tờ mờ sáng thì kéo nhau ra vườn dưa ông A, không phải để phá hoại trả thù, nhưng là chăm sóc, tưới nước, xịt thuốc, bón phân cho cả vườn dưa. Chẳng bao lâu sau, vườn dưa của ông A trở nên xanh tốt không kém gì dưa nhà ông B.
Khi biết được việc làm cao đẹp của ông B, cả gia đình ông A hết sức hối hận vì việc làm của mình, rồi dắt nhau qua tận nhà ông B để tạ lỗi. Từ đó, hai gia đình kết nghĩa anh em, thề nguyền yêu thương gắn bó với nhau cho đến mãn đời.
Thế đó, Lời Chúa là giải pháp tuyệt vời cho các xung đột giữa đôi bên.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN-A
THA THỨ- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong thời kỳ đầu của Phong Trào Nhân Quyền tại Montgomery, Alabama, đây là điểm sáng đích thật. Những người da đen tẩy chay dịch vụ xe búyt của thành phố, bởi vì có sự kỳ thị chủng tộc. Những người da trắng đã đáp lại bằng cách cho nổ bom những khu nhà của người da đen. Bầu khí sự thù hận bao trùm một cách nặng nề và căng thẳng. Mục sư Martin Luther King, Jr., đã giảng cho cộng đoàn người da đen trong khu phố của ông rằng sự hòa bình và sự tha thứ nằm trong tay của họ. Mục sư tiếp tục trình bầy: Hành động qúi báu của sự tha thứ luôn luôn được bắt đầu với những người bị lầm lạc.
Lời mời gọi sống phúc âm giữa đời là một thách thức đòi hỏi sự thắng vượt chính mình. Từ thời xa xưa, những lời dạy bảo về đức yêu thương và tha thứ đã được ghi chép trong sách Luật: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. (Lev 19, 17). Chữ ‘đừng’đã được tác giả sách Lêvi dùng để khuyên răn đồng loại là ngưng theo đuổi sự dữ. Vì sự dữ sẽ sinh ra sự dữ. Sự báo qua oán lại sẽ không bao giờ được kết thúc. Chúng ta không thể dùng sự báo thù để tìm đạt sự công bình. Nếu chúng ta trả thù qua lại lẫn nhau mãi, thì chúng ta cũng chẳng khác gì cách cư xử của dân ngoại, họ không nhìn biết Thiên Chúa nhân lành. Trong kinh nghiệm sống đời, ai trong chúng ta cũng có lúc cảm thấy bực mình vì sự phản bội, đặt điều nói xấu, ngang trái và gây hại. Thái độ thù ghét là những phản ứng rất tự nhiên của lòng người. Nhưng sách Lêvi khuyên dậy chúng ta là đừng giữ lòng thù ghét nhưng hãy tha thứ và công khai răn bảo.
Đừng tìm báo oán là điểm son trong đời sống đạo: Đừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa (Lev 19, 18). Đừng báo oán, không phải vì chúng ta sợ hãi, nhát đảm, yếu nhược hay bị áp chế, nhưng đây là một thái độ thực hành đạo bác ái yêu thương. Sự nhún nhường là một thái độ bao dung và tự chủ. Người ta vẫn thường nói rằng: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Không phải ai cũng có thể dễ dàng thắng được sự ghen tuông, thù óan và bất công. Chịu nhường một bước để thắng hai bước, đó là thắng chính mình và thắng người khác. Biết tự kiềm hãm và làm chủ ý chí của mình là một trong những thành công trong việc đối nhân xử thế. Vì chúng ta biết rằng thái độ nóng nảy và giận dữ bốc đồng sẽ gây thiệt hại nhân cách và đổ vỡ tương giao. Tự ái vặt là đầu mối của nhiều phiền thức trong giao tế nhân sự và phá đổ các mối liên hệ.
Chúa Giêsu đã rao giảng tin mừng giải thoát vượt trên mọi lẽ thường tình: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Đừng chống cự với kẻ hung ác, trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa (Mt 5, 39). Sống theo lời Chúa, xem ra chúng ta sẽ bị thua thiệt nhiều. Chính Chúa Giêsu đã nêu gương chọn đi vào con đường khiêm hạ này. Một Thiên Chúa có uy quyền trên mọi loài đã cúi đầu chấp nhận mọi xỉ vả của con người. Chúng ta không thể nào hiểu thấu mầu nhiệm của sự đau khổ mà Chúa đã chịu. Nhẫn nhục chịu đựng để thắng vượt những bất công cần có sức mạnh nội tâm nhiệt thành. Trong đời sống thường ngày, chúng ta va chạm biết bao những thứ bực mình chung quanh qua lời nói và cách thế hành xử của những người khác. Cần phải biết kiên nhẫn cư xử và thắng vượt.
Một trải nghiệm gần gũi nhất là làm sao có thể đối xử tốt với các thành viên trong gia đình. Thí dụ: Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị, một thái độ ơ hờ và một tranh luận nhỏ nhoi cũng có thể gây nên sự. Người nói qua, kẻ nói lại chẳng ai chịu ai sẽ dễ gây bất hòa. Đôi khi có những câu truyện vô cớ cũng làm ảnh hưởng tới bầu khí êm ấm của gia đình. Thật là không đáng! Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng chống cự với kẻ hung ác. Vậy những người vợ và người chồng hiền lương và những thành viên nhiệt tình trong gia đình, nhóm hội hay một cộng đoàn giáo xứ, có đáng để chúng ta phải chống cự lẫn nhau hay không? Ca dao tục ngữ dạy: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Đừng bao giờ dùng những lời nói cộc cằn, thô lỗ và tục tĩu đối với tha nhân, nhất là những người trong gia đình thân tộc. Lời nói như con dao hai lưỡi, có thể xây dựng hòa bình và cũng có thể gây chiến tranh. Chúng ta biết chiến tranh bao giờ cũng gây thiệt hại và chỉ phá đổ.
Chúa Giêsu mở con đường yêu thương ngược dòng: Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống cho các con (Mt 5, 44). Lời của Chúa không chỉ để suy gẫm và chiêm ngắm, nhưng phải đem ra thực hành trong đời sống. Đây là một thách thức cam go, vì nó đi ngược với bản năng tự nhiên của con người. Trong tâm lòng của con người có thất tình: Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Gieo hạt giống nào, chúng ta sẽ được gặt qủa đó. Nếu chúng ta gieo sự yêu thương tha thứ, chúng ta sẽ gặt được hoa trái an lạc và bình yên. Nếu chúng ta gieo hạt giận dữ và thù hằn, tim chúng ta sẽ cháy lửa cuồng si. Để thực hành các nhân đức, chúng ta hãy vun tưới những hạt giống yêu thương, bác ái, từ bi và khoan dung độ lượng. Con đường nhẫn nhục và tha thứ là con đường giải thoát. Tha thứ bỏ qua là cắt đứt giây xích của sự báo thù. Giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc của sự ăn miếng trả miếng. Tâm hồn chúng ta sẽ được tự do vui hưởng sự an vui tự tại.
Thánh Phaolô cảnh tỉnh: Đừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy nên điên dại để được khôn ngoan (1Cor 3, 18). Thiên Chúa trao ban cho mỗi người một khả năng riêng biệt. Mỗi người đều có những khả năng để hỗ tương làm giầu cho cuộc sống chung xã hội. Ân huệ giống như các ly chứa có dung tích khác nhau. Người nhiều kẻ ít, ai cũng có một số vốn cần được sinh lợi. Mỗi người chúng ta đều có khả năng chuyên môn để phát triển. Những khả năng tiềm ẩn đã được phú bẩm cho mỗi cá nhân, chỉ cần có cơ hội nó sẽ phát triển. Chúng ta sẽ thỏa mãn với những khả năng riêng đã nhận được. Biết rằng dù một số người có khả năng gọi là siêu việt như thần đồng, thì sự khôn ngoan của họ vẫn có giới hạn. Con người không phải là thần minh có thể hiểu thấu mọi sự. So với sự nhiệm mầu bao la của vũ trụ vạn vật, sự khôn ngoan của con người chỉ là hạt sương rơi.
Chẳng có ai hiểu thấu được sự vận hành tiến tới trong tương lai. Trong mọi cố gắng suy tư đi tìm về Chân, Thiện, Mỹ của vũ trụ, sự hiểu biết của con người vẫn chỉ là như mới khởi đầu. Phaolô nói tư tưởng của những kẻ khôn ngoan chỉ là hư không: Lại có lời khác rằng: Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền (1Cor 3, 20). Thiên Chúa cho tâm trí con người được tham dự vào việc tìm kiếm sự cao siêu của sự sống và vận hành của vũ trụ. Bao lâu con người còn biết đặt niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì sự khôn ngoan học hỏi của họ sẽ tìm tới ánh sáng. Quan sát chiếc diều bay cao trên không trung là nhờ sợi dây nối với cột trụ dưới đất. Nếu chúng ta cắt đứt sợi giây nối, diều sẽ rơi xuống đất. Đặt niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan ở đời. Sự khôn ngoan sẽ dẫn dắt chúng ta đến cùng đích và chung cục, đó chính là tình yêu nguồn ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con yêu thương, tha thứ và cầu nguyện cho những kẻ bách hại, nguyền rủa và vu khống. Khó qúa Chúa ơi. Mỗi lần chúng con bị người ta hiểu lầm, bịa truyện và gây hại, chúng con lại muốn tìm cách báo thù. Xin cho chúng con biết nhẫn nhịn dõi theo từng bước chân của Chúa để học hỏi và đem ra thực hành từng ngày trong đời sống. Yêu thương là tất cả!
YÊU KẺ THÙ LÀ THÁNH- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Mở đầu sách Đại học của Nho Giáo đã nêu rõ mục đích là “Đại học chi đạo: Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện”.
Kết thúc Hiến chương nước Trời trong bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt rõ mục đích là “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời… là yêu kẻ thù”.
Nho Giáo ở phương trời Viễn Đông, Kitô giáo ở phương trời Cận Đông, tuy xa nhau hàng ngàn dặm, nhưng tình yêu đâu có khác nhau?
Một đàng muốn con người nên chí thiện ở tại thân dân, thương yêu dân.
Một đàng bảo: “Anh em hãy nên toàn thiện ở tại thương yêu cả kẻ thù”.
Một đàng: “Minh minh đức”, minh là làm sáng tỏ, minh đức là đức sáng láng của Trời; minh minh đức là làm cho đức sáng của Trời sáng tỏ ra, chiếu sáng ra.
Một đàng bảo: hãy cầu nguyện, cốt yếu của cầu nguyện là làm cho danh thánh Cha trên trời hiển sáng, chiếu sáng ra khắp muôn dân. Thiên Chúa là ánh sáng, Đức Kitô là ánh sáng bởi ánh sáng (Ga. 1, 9).
Phần kinh của sách Đại học chỉ có 205 chữ: đây là cương lĩnh, là Hiến chương của Nho Giáo, mục đích đào tạo người học Thánh quân tử, thánh nhân.
Hiến chương nước Trời của Đức Giêsu cũng rất ngắn gọn, vài trăm chữ, nhằm đào tạo con người thành con Cha trên Trời, thành Thánh nhân của Thiên Chúa.
Hai Hiến chương có lẽ chỉ khác nhau ở chỗ: Tin Mừng nói rõ Cha trên trời là Đấng hoàn thiện và hạnh phúc Nước Trời; sách Đại học không nói rõ, nhưng cũng ngầm hiểu: làm cho dân được hạnh phúc là ở tới đích chí thiện; chí thiện chính là Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay đặt chương trình nên chí thiện, nên chí thánh rất cụ thể.
Bài I (Lv. 19, 1-2; 17-18) Chúa phán dạy: “Các ngươi phải nên thánh”. Nhờ sống thánh thiện, mới tránh được: ghen ghét, oán hận, trả thù; mới biết yêu đồng loại như chính mình. Nền tảng của dân thánh đặt trên: “Ta là Đấng Thánh”.
Ở thời Cựu Ước, trước kỳ lưu đầy, khi nghe nói đến “Đấng Thánh” thì dân nhớ đến Đền Thánh, nhớ đến nơi cực Thánh trong cung thánh, nhớ đến những ngày lễ Thánh, những việc Thánh họ phải làm nơi đền thờ để được nên thánh.
Đến thời lưu đầy đền thờ bị phá hủy, dân bơ vơ, không còn điểm tựa để nhận ra Giavê là Đấng Thánh cho dân nên thánh. Họ phải nhớ lại giới luật giao ước núi Sinai mà Giavê, Đấng Thánh đã ban cho họ. Họ cần sống thực hiện giới luật đó để họ nên thánh như Đấng Thánh đã truyền dạy họ. Họ mới mong Đấng Thánh giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy như Ngài đã giải phóng tổ tiên họ khỏi nô lệ Ai Cập.
Bài II (1Cr. 3, 16-23) Phaolô không nhắc tới đền thờ Giêrusalem, không nhắc đến luật cũ nữa. Tân Ước là thời đại mới, dân Chúa thực sự không nên thánh nhờ đền thờ hay lề luật. Họ nên thánh, họ là dân thánh (1Phêrô 2, 9) nhờ được tái sinh bởi nước và Thánh Thần. Phaolô cho họ thấy: “Anh em là đền thờ Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em” Từ nay họ là chi thể thánh của Đức Kitô “Anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”
Thánh Phaolô đã cho ta biết rõ, bản chất cốt yếu của thánh thiện, không nhờ đền thờ hoặc bất cứ ai dù là Phaolô… hay luật lệ chỉ nhờ một mình Thiên Chúa: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người” đã làm cho ta nên thánh.
Khi đã nhờ Người mà nên thánh, thì chính nhờ Người mà chúng ta mới có thể yêu kẻ thù.
Nhờ Người và như Người, chúng ta sẵn sàng chịu vả má phải và giơ thêm má trái cho họ vả, chứ không như luật dạy: mắt đền mắt răng đền răng. Nhờ Người và như Người, chúng ta không cần che thân, không cần bảo vệ, sẵn sàng chịu bóc lột áo trong cũng như áo ngoài. Nhờ Người và như Người không có hòn đá gối đầu, chúng ta không tiếc xót khi cho vay mượn, không bám gót của cải, dễ dàng cho đi, bỏ đi.
Nhờ Người và như Người đã vác khổ giá, chúng ta sẵn sàng phục vụ công việc như nô dịch, làm phu như ông Simon vô cớ bị quân dữ bắt làm phu vác đỡ thánh giá Chúa. Hơn nữa, còn phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để yêu kẻ thù.
Như thế, mới được trở nên con Cha, Đấng đã làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống cho kẻ dữ cũng như người lành. Chiêm ngắm những kỳ công bao la đó, Nho gia xưa đã rất ngạc nhiên kêu lên: “Ôi đạo của bậc thánh vĩ đại thay! mênh mông như biển cả, sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục, thánh hóa tất cả vạn vật trong vũ trụ từ đất đi tới trời cực kỳ tốt đẹp: Đại tai thánh nhân chi đạo! dương dương hồ, phát dục vạn vật; tuấn cực vu thiên” (Trung Dung – chương 27)
Thánh như vậy đã “phối hợp với trời đất rộng dầy cao minh: bác hậu phối địa, cao minh phối thiên” (Trung Dung – 26)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấy ba mức độ thánh thiện:
Thánh thiện ở đền thờ, kinh lễ như hạng tư tế, bị Chúa phê: quân này mến Ta bằng môi miệng và lòng nó xa Ta.
Thánh thiện ở giữ trọn lề luật như chàng thanh niên giàu có, nhưng anh thiếu một điều là: hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, người nghèo là kẻ thù của người giàu.
Thánh thiện ở yêu kẻ thù, yêu kẻ thù mới thực là tình yêu chí thiện, chí thánh phản ánh rõ nét tình yêu Thiên Chúa đã thí mạng sống Con Một cho kẻ thù: kẻ thù của Thiên Chúa là kẻ tội lỗi.
Lạy Chúa, xin thánh hóa tình yêu con, cho con biết yêu mến mọi người, nhất là những người thù ghét, oán hận con. Amen.
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN- A
SỐNG CHỮ NHẪN– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn. Thế mà có những lúc không đủ ăn. Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà. Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.
Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:
Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì! Bây giờ tôi không cho chú đi. Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.
Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: “Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!”
Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể. Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn. Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý. Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: “Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?
Hàn Tín ôn tồn bảo: “Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận. Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban”.
Lối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay. Đối với người ân thì ban thường, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù. Thật là một người quân tử.
Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn. Đây là một lời khuyên quan trọng: chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà. Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian… Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay. Đó là tính tự nhiên của con người. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn. Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà. Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa. Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau. Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác. Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được vời mình. Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ. Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình. Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình. Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng. Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù. Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm. Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ. Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho anh em của mình. Hãy quên đi những xúc phạm của nhau. Hãy làm hoà để thêm bạn bớt thù. Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những người chung quanh. Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen.