CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
SỰ MẶC KHẢI ĐẦU TIÊN(*)– Chú giải của Noel Quesson. 6
PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 14
CUỘC THẦN HIỂN (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 27
CHÚA GIÊSU NHẬN LÃNH SỨ MẠNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 48
NÀY LÀ CON TA YÊU DẤU- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 58
ĐIỂM HẸN BẤT NGỜ– ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống. 77
ƠN GỌI LÀM CON- Linh mục GB. Trần Văn Hào SDB.. 83
ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 90
ĐẤNG GÁNH TỘI TRẦN GIAN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 95
CON YÊU DẤU- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 98
CON CHÍ ÁI CỦA CHA- Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn. 102
CHÚA GÁNH LẤY TÔI CON– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 108
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Này là tôi tớ Ta, Ta hài lòng về người”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây là lời Chúa phán: “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người. Người sẽ xét xử chư dân. Người sẽ không lớn tiếng, không thiên vị ai; không ai nghe tiếng người ở công trường. Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Người trung thành đem lại lẽ công bình. Người sẽ không buồn phiền, không nao núng, chỉ lo đặt công lý trên địa cầu, vì trăm đảo mong đợi lề luật người.
Ta là Chúa, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân, để con mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 28, 1a và 2. 3ac-4. 3b và 9b-10
Ðáp: Chúa sẽ chúc phúc cho dân Người trong cảnh thái bình (c. 11b).
Xướng: Các con cái Thiên Chúa hãy dâng kính Chúa, hãy dâng kính Chúa vinh quang xứng với danh Người; hãy mang lễ phục thánh để thờ lạy Chúa.
Xướng: Tiếng Chúa vang dội trên mặt nước, Chúa ngự trên muôn ngàn sóng nước. Tiếng Chúa phán ra trong uy quyền, tiếng Chúa phán ra trong oai vệ.
Xướng: Thiên Chúa oai nghiêm làm cho sấm sét nổ ran, và trong thánh đài của Chúa, mọi người kêu lên: Vinh quang! Chúa ngự trị trong cơn hồng thuỷ, và Chúa làm vua ngự trị tới muôn đời.
BÀI ÐỌC II: Cv 10, 34-38
“Chúa dùng Thánh Thần mà xức dầu tấn phong cho Người”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô mở miệng nói rằng: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận. Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel, loan tin bình an, nhờ Chúa Giêsu Kitô là Chúa muôn loài. Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan đã rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người”.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: x. Mc 9, 7
Alleluia, alleluia! – Các tầng trời mở ra, tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 3, 13-17
“Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên mình Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ xứ Galilêa mà đến với Gioan ở sông Giođan, để ông làm phép rửa cho. Nhưng Gioan can Người rằng: “Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?” Chúa Giêsu liền đáp lại: “Không sao, vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế”. Và bấy giờ ông Gioan chiều ý Người. Chúa Giêsu chịu phép rửa, rồi bước lên khỏi nước. Này đây các tầng trời mở ra, và Người thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống như một bồ câu và đậu trên Người. Và ngay lúc ấy, có tiếng từ trời phán: “Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
SỰ MẶC KHẢI ĐẦU TIÊN(*)– Chú giải của Noel Quesson
Các lễ Giáng Sinh, Thánh Gia, và Hiển Linh vẫn còn thật gần gũi. Dẫu vậy, rất nhanh. Giáo Hội muốn làm cho chúng ta bỏ Tin Mừng tuổi thơ để đề cập cái chính yếu: tác vụ công khai… cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu…
Bấy giờ Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan…
Chúng ta đừng quên những hoàn cảnh lịch sử của “biến cố” mà người ta có thể xác định thời gian vào cuối năm 27.
“Đức Giêsu”… một người vẫn không ai biết.
“Từ miền Galilê đến” tỉnh xa xôi này một nửa ngoại giáo bị khinh để bởi những người dân cư miền Giuđê và Giêrusalem, lãnh địa linh thánh tiêu biểu mà Thiên Chúa cư ngụ. “Bất chợt… xuất hiện”. Cái người vô danh này, đến từ một làng cũng tăm tối, bây giờ vào cuộc.
Chúng ta những người đang sống hơn hai nghìn năm sau, chúng ta bây giờ biết Đức Giêsu sắp thay đổi bộ mặt địa cầu. Người khoảng 30 tuổi. Người ta không biết gì về ông ấy. Một cuộc yên lặng 30 năm.
Trên bờ sông Giođan. A! Con sông này, tất cả đã khởi đầu trên bờ của nó! Một con sông độc nhất vô nhị trên thế gian, kể cả nói về mặt địa lý. Tiếng “Giođan”, trong ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là “người đi xuống”, từ gốc “yarad” “đi xuống Con sông Giođan, thực tế là con sông độc nhất phải xuống quá thấp! Nó bắt nguồn trên đồi Hécmôn, cao 520 mét, dài 220 cây số, chấm dứt ở Biển Chết, ở sâu 394m dưới mực nước biển. Thật là quá thấp!
Như thế sự xuống thấp này là cái gì vậy, con sông kỳ lạ này biểu trưng cho vực thẳm nào vậy?
Đức Giêsu đến gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình.
Thực sự việc vào cuộc này gây lắm hoang mang.
Phép rửa mà Đức Giêsu đến xin Gioan làm, đó là một phép rữa sám hối, dấu hiệu công khai chỉ là người ta hối tiếc về các lỗi lầm của mình làm, người ta muốn thay đổi cuộc đời… “Tất cả miền Giuđê và tất cả miền Giođan đều xin ông Gioan làm phép rửa đồng thời xưng thú tội lỗi mình phạm”.
Tôi dành thời gian nhìn ngắm Đức Giêsu, trong hàng người đánh cá đợi đến lượt mình. Một trực giác sáng ngời và không thể lầm lẫn được, bỗng chốc đem Đức Giêsu đến đỉnh cao của tính nhân bản, nơi đó sự hiện diện của Thánh Linh linh hoạt nhất, nơi đó sự chờ đợi của Thiên Chúa sống động nhất… Đức Giêsu tức khắc đến nhập bọn với những người tội lỗi… tại chỗ mà Thiên Chúa tác động vào lòng họ, tại chỗ mà họ quyết tâm sám hối…
Phép rửa của Đức Giêsu, được cả bốn sách Tin Mừng chứng thực, là một sự kiện lịch sử không thể chối cãi được? không bao giờ những Kitô hữu đầu tiên lại bịa chuyện Đức Giêsu chịu phép rửa sám hối, quá trái ngược với ý nghĩ mà họ đang tạo dựng cho họ một Đấng Mêsia, nếu sự kiện không bắt họ phải nhận, khiến cho người ta phải hoang mang theo các luận giải của con người.
Còn tôi? Có phải tôi phán đoán những người có tội trên đỉnh cao vững vàng về đạo đức của tôi không? Có phải tôi cảm thấy có liên đới về nhân loại tội lỗi không?
Có phải tôi lên án không? Hay là phải chăng thái độ của Đức Giêsu đòi hỏi tôi… nâng đỡ, vâ cứu thoát những người làm điều xấu chung quanh tôi ư?
Gioan một mực can Người và nói: Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa thế mà Ngài lại đến với tôi!
Đúng thế, Gioan được yêu cầu có sự đổi lại ý thế nào? ông báo tin có một Đấng Mêsia – quan xét, sắp sửa đốn tất cả những cây cối không sinh hoa quả và đem vào lửa đốt tất cả mọi thứ rác rưởi phù phiếm (Mt 3,7-12). Và Đức Giêsu đến Chịu phép rửa sám hối! Đó là thế giới đảo ngược. Chính ý tưởng của Thiên Chúa lật ngược. Trái ngược với mọi chờ đợi của mình, Gioan Tẩy Giả sẽ làm phép rửa cho “người con có quyền lực hơn mình” (Mt 3,11). Gioan phản đối. Đó là một sự khiêu khích! ông muốn ngăn Đức Giêsu nhận cử chỉ này.
Như thế có gì xảy ra trong phép rửa này? Có điều gì quan trong được tiết lộ trong đó? Ta đứng ngưng lại ở cái bề mặt của cử chỉ này. Chắc chắn có một sự mạc khải chờ đợi chúng ta đó.”
Nhưng Đức Giêsu trả lời: Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.
Đó là “lời nói đầu tiên” của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng Matthêu. Nó chứng tỏ môt sự trưởng thành bản vị một cách tuyệt đối đặc biệt. Quân bình biết mấy! ý thức về sứ mệnh của mình biết mấy nơi con người này! Khi Người ta giản lược Đức Giêsu chỉ là một con người mà Giáo hội đã Thiên Chúa hóa… hay là một con người đã nhận thức dần dần mình là Thiên Chúa… thì người ta đi qua một cách hoàn toàn đơn giản cái huyền nhiệm duy nhất về bản tính của người.
Những năm tối tăm ở Nadarét không phải là những năm trống rỗng. Đức Giêsu là một người Do Thái. Như tất cả mọi người Do Thái, người thấm nhiễm bộ Torah, Lời Thiên Chúa. Và này đây, một cách hoàn toàn đơn giản, Người nói lên trong lời nói đầu tiên công khai của người. Hai tiếng xác định bản chất của người; thực thi… công chính. Hai từ Kinh Thánh cực kỳ xúc tích. Hai từ tiêu biểu trong các từ vựng của Matthêu.
“Hoàn tất”, “pleroum”… “sự công chính “dikaiosunê”… Thuật ngữ công chính sẽ hay được nói đến (Mt 5,6.10.20 – 6,11.21.32). Sống công chính, tức là đáp lại chính xác ý muốn của Thiên Chúa: một hành động của con người phản ánh cái ý muốn của Chúa. “Hoàn tất” tức là một hành vi hoàn hảo, đầy tràn sự tinh tế ở chỗ là “giữ gìn trong khi biến đổi… hoàn thành trong khi bảo vệ”. Hoàn tất là một hành vi hoàn hảo nhất mà một người có thể làm. Còn chúng ta, chúng ta chiến đấu với nhau giữa những “người luôn tiến tới” và “những người giữ truyền thống”, giữa những người cải tiến và những người bảo thủ. Nơi Đức Giêsu, chính người vừa trung thành với truyền thống của mọi thời đại và đồng thời người canh tân, đổi mới, làm cho đến cùng: đó chính là nguyên tắc của cuộc sống, tức là không bao giờ gián đoạn trọn vẹn với quá khứ, mà phóng đến tương lai.
Này nhé, Chúa không bao giờ là một người làm cách mạng, nhưng Người biến đổi tất cả. Người xin Gioan, người cuối cùng trong các ngôn sứ của Cựu ước, đón nhận phép rửa của người, trong chuỗi người tội lỗi, với tất cả mọi người… như tất cả mọi người.
Nhưng chú ý! Sẽ đột ngột bùng ra một cuộc canh tân.
Bấy giờ ông Gioan mới để cho Người làm.
Khiêm tốn biết mấy trong những từ quá nghèo nàn đến thế. Người ta không nói rằng Gioan đã hiểu. Chỉ đơn giản, ông để cho làm. Ông tự xóa bỏ mình đi, ông phải thay đổi cái khái niệm hiếu thắng mà ông có về Đấng Mêsia. Có lẽ ông đoán một con người huyền nhiệm đang đứng trước mặt ông chăng? Cả chúng ta, ta hãy bước vào huyền nhiệm này… bên ngoài tất cả.
Bởi vì, chính ở đó tất cả kết thúc trong câu truyện này. Ta hãy lắng nghe.
Ngay khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong. Người ở dưới nước đi lên.
Phép rửa không được miêu tả. Người ta không mô tả một cảnh tượng. Câu chuyện cực kỳ ít lời, dè dặt hoàn toàn. Matthêu chỉ kể ra sự kiện bằng một phân từ đơn giản: được làm phép Rửa… Đức Giêsu đi từ dưới nước lên. Chúng ta chỉ được nói rằng Đức Giêsu đã hoàn tất hai động tác: “Người xuống nước… Người từ dưới nước lên… động tác đi về phía sông Giođan, chỗ thấp nhất trên hành tinh này, nhưng là động tác của Thiên Chúa đến gặp gỡ loài người tội lỗi, Đức Giêsu… Sinh ra, chịu khổ hình thập giá chết, táng trong mồ xuống nơi luyện hình… một cuộc đi xuống đến chóng mặt!… sống lại, từ trong kẻ chết và lên trời…”
Này đây các tầng trời mở ra…
Tầng trời mở ra. Thiên Chúa Hiển Linh. Cuộc hiển linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra. Hình ảnh hình tượng về tầng trời mở ra thường thấy trong Kinh Thánh để nói rằng một sự giao thông được thiết lập giữa thiên giới và con người được chấp nhận cho sống những bí mật của Thiên Chúa (Ex 1,1; Kh 19,11; Cv 7,56…)
Chúng ta, chính chúng ta cứ luôn luôn nghĩ rằng trời đóng lại, không thể tới được. Dẫu vậy tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, đều nhờ Người mà trời mở ra sẵn trên đầu họ.
Và người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.
Chúng ta đã chú ý rằng đây không phải là việc mô tả một cảnh tượng: Đó là một huyền nhiệm… Matthêu không nói rằng đã có một con chim bồ câu. Người nói rằng Thần Khí đáp xuống có phần như một con chim bồ câu. Trạng ngữ “có phần như” không bổ nghĩa cho Thần Khí, mà là cho từ “đáp xuống”. Đó là một hình ảnh kỳ diệu mang theo ý nghĩa. Một số văn bản rabbi đã so sánh động tác của Thần Khí Thiên Chúa với động tác chim bồ câu bay lượn trên chuồng của chúng nhưng không chạm xuống, đúng bằng cách như thế Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước thời nguyên thủy (St 1,2). Mũi nhọn của sự so sánh là nhấn mạnh tính cách đồng thời đến: Tính chất khác biệt của Thần Khí, vẫn phân biệt với thế giới thụ tạo, mà Đức Giêsu là một phân tử có tính cách con người, do thân xác của Người…. Sự dịu dàng và sự gần gũi của hành vi Thiên Chúa: phân biệt với Đức Giêsu, Thần Khí vẫn ở đó, rất gần gũi như thể người bay lượn trên chuồng của Người, từ nơi đó vùng lên mầm của sự sống. Thần Khí là Chúa và Người ban cho sự sống.
Và có tiếng từ Trời phán ra: Đây là Con yêu dấu Ta, Ta hài lòng về Người.
Tất cả Phương Đông tin kính Đức Giêsu chịu phép rửa, cũng như Ba Ngôi Thiên Chúa Hiển Linh. Và Thánh Cyrillee thành Giêrusalem chú giải: “muốn có một Đức Kitô (Đấng chịu Xức Dầu), phải có một Đấng nào đó Xức Dầu cho Người, tức Chúa Cha, và một Đấng nào đó là sự Xức Dầu, tức Thánh Linh. Không có Thiên Chúa Ba Ngôi thì từ Đức Kitô đã không có ý nghĩa gì!”.
Chính vì thế mà tượng Thiên Chúa hiển linh biểu thị Đức Giêsu đứng dưới sông Giođan… ở trên cao một bàn tay biểu trưng Đấng đến Xức Dầu, Chúa Cha vô hình, mà tiếng của Người làm chứng cho Đức Giêsu. Đức Giêsu là một trong những ngôi vị của Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu rất thánh: Hôm nay là sự mạc khải đầu tiên của huyền nhiệm này.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
- Matthêu mô tả gì trong phép rửa của Chúa Giêsu: cảm xúc tôn giáo? thị kiến? kinh nghiệm về một trật tự khác? Việc Thần khí xuống “như một chim câu (c.16) và lời nói của “tiếng từ trời có ý nghĩa gì trong hậu cảnh Cựu Ước và đối với hôm nay?
- Việc Thần khí tấn phong Chúa Giêsu làm Messia và tiếng nói từ trời soi sáng thế nào lời gian Tẩy giả công bố về việc hối cải và Nước Trời gần bên (3,2), lời mà Chúa Giêsu lấy lại sau đó (4,17)? Làm sao cho thiên hạ nghe lời công bố ấy hôm nay? Và từ đoạn văn này, ta rút ra được điều gì giúp hiểu về phép rửa trong Giáo Hội?
- Chúa Giêsu phủ nhận quan niệm của vị Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia trên điểm nào?
- Làm sao giải thích thái độ Chúa Giêsu đến xin chịu phép rửa?
*******
- Việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả dẫn ta đến phép rửa của Chúa Kitô, trung tâm đích thực của các trình thuật chương 3- 4. Về phép rửa này, Tin Mừng Nhất Lãm cống hiến cho ta 3 bản văn song song rất giống nhau. Thế nhưng đoạn văn của Matthêu lại thêm vào trình thuật một mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan và Chúa Giêsu, một mẩu đối thoại rất có ý nghĩa xét trong nhãn giới của ông. Rồi đây chúng ta sẽ thấy nó ý nghĩa chỗ nào.
- Khi chấp nhận liên đới với kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu tỏ ra muốn phản đối quan niệm của vị Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia: thay vì xuất hiện như Thẩm phán cánh chung đến quét sạch sân lúa trong cơn Hỏa nộ, Chúa Giêsu lại tự hủy trong dòng nước Giođan. Trình thuật Matthêu như thế kín đáo ám chỉ cuộc Tử nạn, qua việc đồng hóa Chúa Giêsu với người Tôi tớ Giavê (Is 42,1; x. Mt 3,17), Đấng đã gánh lấy mọi yếu hèn của ta (Is 53,4; x. Mt 8,17). Chính trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (27,45-56) cũng chứa đựng nhiều yếu tố của cảnh này, như chúng ta sẽ thấy về sau khi nghiên cứu cuộc Khổ nạn.
- Thuộc văn thể nào cái trình thuật về thị kiến khai mạc của chúng ta đây, một trình thuật xem ra không mô tả một quang cảnh thấy được bên ngoài, cũng chẳng tỏ cho biết một kinh nghiệm tâm lý hay một mặc khải bên trong của Chúa Giêsu? Trước hết, trình thuật có chủ ý thần học; nó biểu lộ mối ưu tư của các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên muốn diễn tả niềm tin của họ vào Chúa Giêsu như vào kẻ đến thỏa mãn lòng mong đợi Đấng Thiên Sai, và muốn biện minh cho thái độ khó hiểu của Chúa Giêsu khi đến xin Gioan làm phép rửa. Trình thuật có những nét tương tự với các cuộc “thần hiện ” (tỏ mình của Cứu Chúa) hay với những cảnh “kêu gọi ngôn sứ”, thường thấy trong Cựu Ước. Nhưng đúng hơn, nó thuộc về một văn thể khác mang tính chất khải huyền, mà ta có thể gọi là văn thể “thị kiến giải thích” (vision interprétative), thường được dùng trong các Targumim. Thật vậy, các Targumim liên hệ đến lịch sử tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, đều soi sáng lạ lùng trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa của chúng ta.
- Trình thuật này có lẽ có có liên hệ với kinh nghiệm phép rửa Kitô giáo mà Matthêu sẽ đề cập vào cuối Tin Mừng của ông (28,19). Người chịu thanh tẩy “đi lên” khỏi nước sự chết, đón nhận Thần Khí và tỏ mình ra như “Con chí ái” của Chúa Cha, trước khi được dẫn cùng với Chúa Giêsu vào hoang địa thế gian, hầu chịu thử thách cùng chu toàn phận vụ trong đó.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bấy giờ” (c. 13), một tiếng thường gặp trong Matthêu, ở đây tương đương với một công thức chuyển mạch thuần túy. “Xuất hiện” cũng là động từ Matthêu đã dùng để đưa Gioan Tẩy Giả nhập cuộc (3,1): ông tái nhấn mạnh mối tương quan mật thiết giữa Gioan và Chúa Giêsu vậy. “Bỏ Galilê”: Matthêu không đề cập đến Nadarét mà ông đã nói tới ở 2,23. “Để chịu thanh tẩy”: mục đích rõ ràng của Chúa Giêsu. Matthêu minh bạch đặt vấn đề Chúa Giêsu chịu rửa, trước khi trả lời trong các câu kế tiếp.
Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu (cc. 14-15), mà chỉ Matthêu có, phản ảnh một khuynh hướng hộ giáo. Việc Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu đã sớm gây nhiều khó khăn cho Kitô hữu (so sánh Lc 3,21tt; Ga 1,29-34; Tin Mừng người Hy bá). Các khó khăn đó như thế này:
(1) Các vai trò xem ra đảo ngược, trái ngược với điều chính Gioan loan báo khi ông tự tuyên bố mình không đáng mở dây giày cho Đấng Messia tương lai;
(2) Phép rửa của Gioan, có việc thú tội kèm theo (3,6) được các tội nhân đón nhận, vậy Chúa Giêsu, khi cúi mình chịu, phải chăng cũng ý thức mình là tội nhân. Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu đem lại câu trả lời cho khó khăn thứ nhất, trong lúc cuộc thần hiện tiếp theo phép rửa làm giảm khó khăn thứ hai.
Gioan (c.14) nhận thấy bổn phận chuẩn bị cho Chúa Kitô đến giờ đây chấm dứt; lúc này tới phiên ông chịu rửa “trong Thánh Thần và lửa” (c. 11) và Chúa Giêsu phải là người ban phép. Nhưng Chúa Giêsu trả lời (c.15) rằng cần phải tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Tiếng prepon (do động từ prepoin “thích hợp”, và gán tương đương với dei: phải) diễn tả sự bắt buộc do thánh ý Thiên Chúa. Đoạn văn gần giống bản văn chúng ta là Dt 2, 10 (so sánh với Lc 7,30). ở đây có hai tiếng quan trọng, đặc biệt của thần học Matthêu: plêroun (làm trọn; thực hiện; hoàn thành; kết thúc) và dikaiosunê (sự công chính). Thông thường, plêloun có nghĩa là “làm trọn”, theo nghĩa chấp hành tốt lề luật chẳng hạn. Nhưng trong Matthêu, nghĩa của nó phong phú hơn nhiều. Nếu dự đoán được những kết luận của cuộc phân tích Mt 5,17, ta sẽ hiểu rằng việc “làm trọn” ở đây (có hai nghĩa “bảo tồn và kết thúc”, “duy trì và kiện toàn”. Sở dĩ Chúa Kitô, khi chịu phép rửa bởi Gioan, “đã làm trọn” sự công chính, đó là vì Người vừa cúi chịu vừa siêu hóa và bày tỏ ý nghĩa tròn đầy của phép rửa ấy; cử chỉ của Người mặc khải điều đã được chứa đựng cách bất toàn trong việc người Israel cúi mình chịu phép rửa của Gioan vậy.
Tiếng thứ hai, “hệt nghĩa công chính” (Matthêu rất ưa dùng, nhất là trong Diễn từ trên núi). Trong văn mạch chung của tư tưởng tôn giáo và tư tưởng xã hội Hy bá (cả hai chỉ là một), tiếng này chỉ sự hoàn thành thánh ý Thiên Chúa; sự tuân thủ Lề luật Giao Ước dưới mọi đòi hỏi yêu sách. Việc Matthêu dùng ý niệm “công chính” nằm trong truyền thống thần học của Israel: con người trở nên công chính khi, nhờ ý thức sâu sắc về sự siêu việt và thánh thiện của Thiên Chúa, họ cố gắng sống phù hợp với tôn ý Ngài. Nhưng tại sao Thiên Chúa đã quyết định là Đấng Messia của Ngài phải nhận phép rửa của Gioan và tỏ mình như kẻ có tội? Bản văn không đưa ra một lý do sáng sủa nào để giải thích ý định thần linh lạ lùng này, trừ ra lời ám chỉ mập mờ về việc “hoàn thành mọi nghĩa công chính”. Nhưng toàn thể Tân Ước có gợi lên hai lý do của đòi hỏi ấy.
Lý do thứ nhất, được nhiều nhà chú giải nhấn mạnh dựa vào Mt 20,28 và 26,28, có thể phát biểu như thế này: Chúa Giêsu phải xóa hết tội lỗi của “nhiều người”. Cv 8,32-35, trích Is 53,7-8, cho thấy Chúa Giêsu như là Tôi tớ Giavê chịu đau khổ vì tội dân mình, mặc dầu chính Người không vương mắc tội Phaolô còn minh định giáo thuyết ấy hơn: qua việc nhập thể, Chúa Giêsu đã mang lấy “một xác thịt giống xác thịt tội lỗi (Rm 8,3), Người đã trở nên chi thể và thủ lĩnh của một nhân loại tội lỗi. Thành ra mặc dầu chẳng phạm tội, Chúa Giêsu cũng phải cúi chịu phép rửa thống hối vì đã muốn liên đới với mọi tội nhân (2 Cr 5, 21; Dt 2, 14- 17).
Nhưng ta có thể thấy một lý do thứ hai trong phép rửa của Chúa Giêsu, hay đúng hơn là lý do đầu, song nhìn dưới một hình thức hơi khác. Lý do ấy không nhấn mạnh đến sự đồng hóa Chúa Giêsu với tội nhân cho bằng đến việc Người đồng hóa với các tội-nhân-hối-cải. Thật vậy, đối với người Do Thái, lãnh nhận phép rửa của Gioan là một yêu sách công chính, theo nghĩa là họ phải dùng nghi thức đó mà biểu lộ sự thống hối của mình, biểu lộ lòng ước muốn trở về với Giavê và sống trung thành hơn nữa với những đòi hỏi của Giao Ước. Xét về cơ bản thì sự công chính Kitô giáo, như Matthêu hiểu, đồng nhất ý nghĩa với sự công chính của Giao Ước cũ (nhưng cũng siêu hóa nó): đó là trung thành với các yêu sách của Giao Ước mới, là thần phục Luật mới của Chúa Kitô chương 5-7). Như thế, khi “làm trọn hết nghĩa công chính” là Chúa Kitô lấy thái độ trung thành với Giao Ước của những người Israel “công chính” làm của mình, đồng thời đưa lòng trung thành đó lên tới tuyệt đỉnh hoàn thiện. Đấy chính là ý nghĩa đặc biệt của phép rửa Chúa Kitô, một phép rửa trong đó Người trở nên liên đối với dân Người đang quay đầu trở lại. Qua phép rửa, Chúa Kitô kéo hết thảy những kẻ tin đi với mình và trong mình về tùng phục lại Chúa Cha; lòng tùng phục thảo hiếu này Người sẽ bày tỏ cách đặc biệt sáng ngời trong cuộc Tử nạn. Thành ra phép rửa của Chúa Giêsu đã là dấu chấp nhận trước cuộc Tử nạn (26,39), sự hoàn thành mọi lẽ công chính. Lời đầu tiên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu tóm tắt cả cuộc đời Người vậy.
Các câu 16-17 trình bày sự kiện một cách gọn gàng, đơn giản. Điểm được chú trọng là biến cố thần hiện, trung tâm của tất cả phần này. Matthêu đã nhấn mạnh rằng việc thụ thai Chúa Giêsu là công trình của Thánh Thần (1,18-20), nay ông lại cho thấy sứ mệnh Người không có nguồn gốc nào khác hơn. Chính lúc Chúa Giêsu tỏ ra vâng lời và tự hạ, thì Người được xác nhận như là ngôn sứ và Messia, nghĩa là như Thẩm phán cánh chung (mặc dầu việc tỏ mình như Thẩm phán được hồi lại vào ngày Quang lâm). Thật thế, chính sự hạ mình như là Con được Cha sai đã làm cho người trở thành Thẩm phán cánh chung, vì chính trong sự xóa mình, sự tự hủy ấy (kénose, theo cách nói của Phaolô) mà trời đến gần đất.
“Trời mở ra”: Matthêu dùng cũng một động từ như Isaia đã dùng trong một đoạn thời danh: “Ước gì Ngài xé trời Ngài xuống” (Is 63,19. Bản 70): Niềm hy vọng thiên sai diễn tả qua miệng ngôn sứ bây giờ được thực hiện vậy.
“Người thấy Thần khí Thiên Chúa”. Việc Chúa Cha chấp nhận sự tùng phục của Chúa Con được biểu lộ rõ ràng qua việc Thần khí đáp xuống và nhất là qua “tiếng nói từ trời”. Như thế phép rửa có vẻ là cuộc tấn phong Chúa Giêsu làm vua và Messia, vì Thần khí Người lãnh nhận là Thần khí đã ngập tràn các ngôn sứ và vua chúa để ban cho họ khả năng thi hành nhiệm vụ; nhưng hơn hẳn các nhân vật quá khứ, Người lãnh nhận Thần khí một cách dư đầy. Chính Isaia đã từng tiên báo như thế về Đấng Messia: “Sẽ đậu trên Người Thần khí Giavê, Thần khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần khí mưu lược và anh dũng, Thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê”(Is 11,2). Ngôn sứ Gioel cũng đã tiên báo: thời Đấng Messia tới sẽ được đánh dấu bằng việc tuôn tràn Thần khí cho mọi người (3, 1-2), việc tuôn tràn này bắt đầu từ sông Giođan nhưng sẽ đạt đến mức độ viên mãn trong ngày Hiện xuống.
“Người thấy Thần khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu”: Trong Do thái giáo, chim câu không hề được coi là hình ảnh của Thần khí, thế nhưng một vài bản văn các giáo sĩ có so sánh chuyển động của Thần khí Thiên Chúa với cử chỉ của một con bồ câu “bay chập chững trên bầy con mà không đụng tới chúng”; Thần khí cũng “bay là đà” trên nước nguyên thủy như vậy (St 12). Trọng tâm so sánh nằm ở chỗ nhấn mạnh tới thần tính của Thần khí (Thần khí chẳng phải là một mãnh lực mưu xuất từ thiên nhiên hay con người, song là một hữu thể siêu việt), lẫn tính cách dịu dàng, gần gũi của hoạt động Ngài. Bản văn Matthêu, như Maccô, không gợi lên hình dáng (Lc) cho bằng cách thức mà Thần khí đột hiện và tác động trên Chúa Giêsu. Trạng từ ngữ “hơi như (hôsei) chim câu” bổ nghĩa cho động từ “xuống” chứ không cho danh từ “Thần khí”.
“Người này là Con Ta”: Tiếng phán ra là tiếng Chúa Cha; tiếng ấy lấy lại lời khẳng quyết của Tv 2,7: “Con là con Ta, hôm nay Ta đã sinh con”; nó cũng lấy lại lời Giavê ngỏ cùng người Tôi tớ đau khổ sẽ thể hiện ơn cứu độ cho thân thuộc mình: “Này đây Tôi tớ của Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ. Ta đã ban Thần khí Ta trên Người…” (Is 42, 1). Cũng có thể đối chiếu lời công bố của Thiên Chúa với nhiều bản văn Cựu ước trong đó Giavê gọi Israel là “con” Ngài (Xh 4, 22; Hs 11,1 v.v…) và một lần nữa kết luận rằng Matthêu muốn cho thấy Chúa Giêsu là Israel mới. Trình thuật Cám dỗ (4, 1-11) sẽ củng cố hơn nữa việc song đối này.
Công thức “Người này là Con chí ái Ta, kẻ Ta sủng mộ” được lấy lại từng chữ trong trình thuật Biến hình (17,5). Chắc hẳn Matthêu muốn thiết lập một sự tương đồng có tính cách thần học giữa hai biến cố. Thật vậy, cũng như cuộc biến hình là thể hiện trước việc tôn vinh Chúa Kitô khi Người sống lại tôn vinh là kết quả của tự hạ trong Khổ nạn), thì sự phê chuẩn của Chúa Cha và việc đổ đầy Thần khí cũng loan báo, theo cách thức riêng, việc tôn vinh Chúa Kitô (tôn vinh sẽ là kết quả không những của cuộc Tử nạn mà còn của cả đời sống tự hạ, bắt đầu từ việc hạ mình ngày chịu phép rửa). Hết thảy những điều này xác nhận rằng cảnh phép rửa thật là một cuộc thần hiện, y như cuộc biến hình, hơn là một thị kiến của riêng Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này nhắm tới các độc giả Tin Mừng đã trở thành môn đồ Chúa Giêsu (vì Matthêu không đề cập tới đám đông nào hết), y như cuộc Biến hình chỉ dành riêng cho 3 môn đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thôi vậy.
KẾT LUẬN
Cơ cấu văn chương và thần học của tất cả phần này (ch.3-4) chỉ cho thấy nên tìm giáo huấn chủ yếu của các chương ở ngay trung tâm của chúng là 3,16-17. Thần khí Thiên Chúa xuống trên Chúa Giêsu và thánh hiến Người, không những như Ngôn sứ-tôi tớ, mà còn như kẻ hiện thân cho Nước Trời, vì Người là Đấng Messia thiên hạ đợi trông. Trong Chúa Giêsu, trời xem ra nối liền với đất, vì trong Người “Nước Trời đã gần bên” (3,2). Từ nay mọi cái đều hội tụ về Chúa Giêsu, và mỗi người đều được kêu mời nghe tiếng phán từ trời, tiếng ban ý nghĩa cho những gì xảy ra; từ nay Chúa giàu có bổn phận làm cho cuộc sống, ngôn ngữ, cử chỉ Người trở nên tiếng nói Chúa Cha ngỏ với nhân loại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Phép rửa của Chúa Giêsu cho ta thấy Người muốn sống đời mình theo viễn tượng nào, muốn được sinh động bởi não trạng nào, muốn hành động theo phương cách nào. Người đứng về phía các tội nhân mà Người đến tha thứ và cứu vớt. Người mong biến đổi nhân loại, nhưng là từ bên trong, bằng cách chia sẻ thân phận nghèo hèn và khốn khổ của họ, hơn là từ bên ngoài, bằng xét xử phán đoán. Người từ chối thống trị, chinh phục với vũ lực, bắt buộc người ta phải thừa nhận Người. Từ đầu sứ vụ Người cho thấy chỉ muốn cứu nhân loại bằng cách tự hủy mình cho đến chết trên Thập giá. Kitô hữu nào dự định thực hiện cuộc giải phóng con người cũng phải chấp nhận các phương pháp như trên.
- Lúc Chúa Giêsu chìm dưới dòng nước sông Giođan, nghĩa là trong vũ trụ của các tội nhân, dưới tận đáy khiêm nhượng, thì Chúa Cha đến gặp Người và đặt Người làm “Kitô và Chúa” (Cv 2, 33): ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
- Chúa Giêsu muốn liên đới với con người trong nỗi khốn cùng và sự yếu hèn của họ. Người muốn đợi chúng ta chính nơi đó. Vì thế đừng luống công làm ra vẻ quan trọng, tự đắc, cho mình xứng đáng với tình yêu của Người. Chính trong đáy vực sâu tội lỗi mà Người gặp gỡ và phục hồi ta.
- Ai chịu thanh tẩy là đi vào đời sống nghĩa tử với Chúa Giêsu: người ấy được làm con cái Thiên Chúa theo cách riêng của mình và cũng nhận được Thần khí Chúa Cha và Chúa Con.
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
CUỘC THẦN HIỂN (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Theo chu trình năm Phụng Vụ, Chúa Nhật I Thường Niên tưởng niệm sự kiện Đức Giê-su chịu phép rửa. Phép rửa nầy được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giê-su chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiễn Linh, lễ Đức Giê-su chịu phép rửa và lễ Chúa Giê-su Biến Hình.
Is 42: 1-4, 6-7
Trước hết, bài đọc thứ nhất, được trích từ sấm ngôn I-sai-a, loan báo cuộc tấn phong “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật mầu nhiệm mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.
Cv 10: 34-38
Tiếp đó, bài đọc thứ hai, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng của thánh Phê-rô ngỏ lời với ông Cô-nê-li-ô, viên bách quản Rô-ma, và toàn thể gia quyến của ông, họ là những lương dân đầu tiên gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu qua phép Rửa. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.
Mt 3: 13-17
Sau cùng, thánh Mát-thêu tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “Người Tôi Trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.
BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)
Bản văn nầy gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, nhờ đó nhân vật ấy trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Đây là bài ca đầu tiên trong bốn bài ca về “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 BC), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55).
Bài ca nầy gồm có hai phần: phần thứ nhất, Thiên Chúa giới thiệu “Người Tôi Trung” của Ngài; phần thứ hai, Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật này.
*1.Người Tôi Trung của Đức Chúa là ai?
Danh xưng “Người Tôi Trung” xuất hiện nhiều lần trong Kinh Thánh. Đây là danh hiệu cao quí mà Đức Chúa tặng ban cho những ai Ngài trao phó nhiệm vụ hướng dẫn dân Ngài, hay trao gởi một sứ mạng: Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp, Mô-sê, Đa-vít, vân vân. Danh hiệu nầy cũng chỉ toàn dân Ít-ra-en.
Nhân vật nầy là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn nầy trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là vua Ba tư tên là Ky-rô; hoặc dân Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.
*2.Vua Ky-rô, vị thẩm phán chí công và nhân hậu.
“Người Tôi Trung” nầy vừa là một vị thẩm phán vừa là nhà giải phóng: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ; đây là người Ta tuyển chọn, Ta hết lòng quý mến. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người; Người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Người Tôi Trung này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.
Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh tù đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mõi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Tất cả mạch văn hướng về vị vua Ba tư tên là Ky-rô, mà quyền lực của vua mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.
Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Ky-rô:
“Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng
đi mở đường cho nền công chính?
Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi,
cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm.
Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn
….
Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?
…
Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên,
và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).
Chương 45 còn nêu bật rõ ràng hơn:
“Đức Chúa phán với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô
– Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó,
Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín nữa
….
Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp,
và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en
….
Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ,
để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta.
Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).
Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Vua thi hành chính sách “thu phục dân tâm”. Vua Ky-rô và những người kế vị vua không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim đèn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.
*3.Dân Chúa chọn.
Sau nầy, khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Đức Chúa nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Dân nhỏ bé nầy, Ngài đã “nắn nên” họ bằng chính bàn tay của mình. Ở giữa muôn dân, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc khẳng định niềm tin của mình vào Đức Chúa, Thiên Chúa chân thật.
*4.Đấng Mê-si-a.
Danh hiệu “Người Tôi Trung” nầy được nhận dạng chỉ ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự giàu có của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp nầy vào trong những giờ phút nghiêm trọng vào lúc lời sấm được công bố.
Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị phá hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ. Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật nầy sẽ thực hiện sứ mạng công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài ca thứ tư). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không bị bãi bỏ một chút nào, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn nầy hé mở, thì không còn một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tâm linh:
“Nó không yếu hèn, không chịu nhục,
cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.
Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42: 4).
Trong sách Tin Mừng của mình ở 12: 18-21, thánh Mát-thêu trích dẫn một đoạn văn dài sấm ngôn I-sai-a nầy để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.
Khi chịu phép rửa của thánh Gioan, Đức Giê-su thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Việc mô tả nầy mặc nhiên quy chiếu đến sấm ngôn I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng nầy khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.
BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Rửa.
*1.Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó
Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với dân Do thái nhằm chứng minh cho họ nhận biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được mặc khải qua các thị kiến ngôn sứ: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Nhưng các Tông Đồ đã không nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.
Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần ép buộc đến nhà một người ngoại giáo. Một viên Bách Quản Rô-ma, đồn trú ở thành Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xe-da-rê khoảng năm mươi cây số. Thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian nầy), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình nầy để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.
*2.Một khúc quanh của Giáo Hội
Thánh Phê-rô đến nhà viên Bách Quản. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng cửa của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được diễn tả trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả hôm nay.
*3.Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hể ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phê-rô, vốn là một người Do thái, quen nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn. Vị lãnh tụ Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh nầy.
Ông Cô-nê-li-ô, viên Bách Quản Rô-ma, là một “cảm tình viên của Do thái giáo”, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận.
Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên nầy: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng, sứ mạng chuẩn bị bình an, bình an giữa muôn dân, bình an giữa dân Do thái và lương dân. Bình an nầy trở nên có thể nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.
*4.Quyền năng của Phép Rửa Ki-tô giáo.
Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các chặng đường đời Chúa Giê-su, khởi đi từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Gio-đan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”, “thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.
TIN MỪNG (Mt 3: 13-17)
Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu khai mạc cuộc đời công khai của Chúa Giê-su với việc Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Ngoài ra, chúng ta nên lưu ý rằng thánh Mát-thêu hoàn tất tác phẩm của mình với lời căn dặn của Đấng Phục Sinh về giáo huấn tối hậu của phép rửa: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19).
Tại thánh Mát-thêu, như tại hai sách Tin Mừng Nhất Lãm khác, câu chuyện Chúa Giê-su chịu phép rửa bao gồm hai hoạt cảnh biệt phân: một hoạt cảnh về sự khiêm hạ: Đức Giê-su tự nguyện để thánh Gioan làm phép rửa cho mình; và một hoạt cảnh vĩ đại khác: Ngài được Chúa Thánh Thần tấn phong và được Chúa Cha chứng nhận. Nhưng thánh Mát-thêu là vị thánh ký duy nhất tường thuật cuộc đối thoại giữa Chúa Giê-su và thánh Gioan Tẩy Giả (3: 14-15), cuộc đối thoại mang đậm nét Kinh Thánh. Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Mát-thêu.
*1.Chúa Giê-su chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả (3: 13)
Đức Giê-su đến từ miền Ga-li-lê. Ngài đã rời bỏ gia đình và nghề nghiệp của mình để bắt tay vào sứ mạng của mình. Cử chỉ đầu tiên của Ngài là xin chịu phép rửa của Gioan, như bao người muốn thực hiện hành vi sám hối. Dáng điệu này là yếu tố đầu tiên của công trình Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Chúa Giê-su muốn đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi. Đây là bước đi đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến đồi Can-vê, để chịu một phép rửa khác, phép rửa bằng máu, mà chính Chúa Giê-su đã sánh ví với cuộc Tử Nạn của Ngài: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12: 50). Cũng như Ngài tuyên bố với thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Qua động từ Hy ngữ, “chịu phép rửa” có nghĩa “nhận chìm”, Chúa Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ bị nhận chìm vào trong vực thẳm của muôn vàn đau khổ. Quả thật, từ phép rửa trong nước đến phép rửa trong máu, chính là tiến trình cuộc sống của Chúa Ki-tô. Trong hoạt cảnh phép rửa trong sông Gio-đan có một hậu cảnh bi thảm của cuộc Tử Nạn.
Nước được liên kết với những hình ảnh của cuộc sinh ra và cuộc tái sinh: những tiên trưng của phép rửa được gợi ý rất nhiều trong Cựu Ước: từ nước của trận đại hồng thủy xuất hiện một nhân loại mới với ông No-ê và gia đình của ông; từ nước của Biển Đỏ xuất hiện một dân mới, dân được giải thoát. Cũng vậy, khi bước ra khỏi dòng sông, Chúa Giê-su khai mạc một nhân loại mới, nhân loại được tái sinh. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng khi bước vào sông Gio-đan, Chúa Giê-su đã chuẩn bị, một cách nào đó, tác động thần linh của nước trên người rửa tội.
Việc dìm mình vào trong nước tượng trưng cho cái chết và việc trồi mình lên khỏi mặt nước biểu tượng cho một cuộc sống mới. Phép Rửa Ki-tô giáo sẽ đón nhận ý nghĩa tròn đầy sau biến cố Phục Sinh. Thánh Phao-lô nhấn rất mạnh tính cách vượt qua của phép Rửa (x. Rm 6: 4; Cl 2: 12; vân vân). Ngay từ thời kỳ đầu Ki-tô giáo, các tân tòng lãnh nhận phép Rửa vào Đêm Vọng Phục Sinh. Điều này thật có ý nghĩa biết bao.
*2.Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với thánh Gioan Tẩy Giả (3: 14-15)
Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với thánh Gioan (3: 14-15) chỉ có trong Tin Mừng Mát-thêu, phản ảnh một chiều hướng biện giáo. Sự kiện Đức Giê-su được thánh Gioan ban phép rửa đã sớm tạo ra những khó khăn cho các Ki-tô hữu (x. Lc 3: 21t; Ga 1: 29-34): trước hết, những gì thánh Gioan trước đây đã loan báo về sự cao cả của Đấng Mê-si-a, thì ở nơi hoạt cảnh phép rửa, vai trò của hai người dường như đảo lộn. Thứ nữa, phép rửa của thánh Gioan là dấu chỉ bên ngoài bày tỏ lòng sám hối vì tội lỗi của mình, vậy khi đến xin chịu phép rửa, dường như Đức Giê-su ý thức mình có tội. Cuộc đối thoại cung cấp câu trả lời cho vấn nạn thứ nhất, còn cuộc Thần Hiển tiếp đó (3: 16-17) thì giải đáp cho vấn nạn thứ hai.
Trong cuộc đối thoại, việc thánh Gioan ngần ngại làm phép rửa cho Đức Giê-su không làm cho chúng ta ngạc nhiên, vì chúng ta biết chính thánh nhân đã làm chứng về sự cao cả của Chúa Giê-su trước đó. Tuy nhiên, chính nội dung của cuộc đối thoại đã xua tan các nhận định ởm ờ đó: thánh Gioan đã tuyên bố Đức Giê-su cao trọng hơn ông, cũng như phép rửa của ông chỉ trong nước để tỏ lòng ăn năn sám hối; trái lại, phép rửa của Chúa Giê-su trong Thánh Thần và lửa mới có quyền năng tha thứ tội lỗi (3: 11). Dù vậy, Chúa Giê-su vẫn cứ xin chịu phép rửa: chính việc đảo ngược vị thế của hai người như vậy, “cả hai mới làm trọn nghĩa công chính” (3: 15).
“Đức công chính” mang đậm ý nghĩa Kinh Thánh; nó quy chiếu đến chương trình mà Thiên Chúa, với lòng nhân hậu và khôn ngoan vô lượng của Ngài, đã hoạch định cứu độ con người. Vì thế, “giữ trọn đức công chính” phải được hiểu là “chu toàn ý muốn và kế hoạch của Thiên Chúa”. Quả thật, chúng ta có thể dịch “giữ trọn đức công chính” là “chu toàn mọi điều Thiên Chúa đã hoạch định”. Đức Giê-su đến để đón nhận phép rửa của thánh Gioan và vì thế Ngài nhận ra nó như là một giai đoạn trong lịch sử cứu độ, một giai đoạn mà Thiên Chúa đã thấy trước như là một sự chuẩn bị sau cùng và cần thiết cho kỷ nguyên thời Thiên Sai. Thực thi bất kỳ một trong những giai đoạn này có thể được gọi là hành vi công chính. Vì đến để thực thi ý muốn của Cha Ngài (Ga 4: 34) nên Chúa Giê-su cẩn trọng thực thi chương trình cứu độ đó trong mọi khía cạnh. Thánh Gioan Tẩy Giả và Chúa Giê-su là một nhịp cầu nối kết Cựu Ước với Tân Ước. Chúng ta ghi nhận rằng Chúa Giê-su nói: “Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”, vì thế, không là đoạn tuyệt nhưng là nên trọn. Đây chính là tuyến phát triển của Tin Mừng Mát-thêu.
*3.Cuộc Thần Hiển (3: 16-17)
“Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra”: Thánh Mát-thêu sử dụng cùng một động từ “mở ra” với Is 63: 19 của bản Bảy Mươi chứ không “xé ra” của bản Híp-ri (“Phải chi Người xé trời mà ngự xuống”), nhưng ý nghĩa vẫn như nhau: niềm hy vọng cánh chung được ngôn sứ I-sai-a loan báo, nay đã được thực hiện.
– “Thần Khi Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu”: Cụm từ “như chim bồ câu” bổ nghĩa cho động từ “đáp xuống” chứ không phải cho danh từ “Thần Khí”. Trong Do thái giáo, con chim bồ câu không bao giờ được coi là hình ảnh của “thần khí” cả, nhưng có vài bản văn so sánh chuyển động của “thần khí” với chuyển động của một con chim, như St 1: 2: “Thần khí bay lượn trên nước”. Hình ảnh của thánh Mát-thêu muốn nói rằng trước hết, Thần Khí không phải là một sức mạnh phát xuất từ thiên nhiên hay con người, mà là một hữu thể siêu việt; thứ nữa, Thần Khí ngự xuống trên Đức Giê-su một cách vừa dịu dàng vừa thân thiết. Bản văn của thánh Mát-thêu cũng như của thánh Mác-cô không muốn nói đến dáng vẻ bên ngoài như của thánh Lu-ca: “Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu” (Lc 3: 22), nhưng cách thức Thần Khí âm thầm đến và tác động trên Đức Giê-su một cách dịu dàng mật thiết.
Đức Giê-su đã đầy tràn Chúa Thánh Thần ngay từ giây phút thụ thai trong lòng mẹ, do bởi việc hiệp nhất thiên tính và nhân tính trong cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời (tín lý về ngôi hiệp). Giáo Huấn Công Giáo dạy rằng ở nơi Đức Ki-tô chỉ có một ngôi vị (ngôi vị Thiên Chúa) nhưng hai bản tính (thiên tính và nhân tính). Việc Chúa Thánh Thần hiện xuống như được nói trong bản văn bày tỏ rằng ngay khi Chúa Giê-su long trọng bắt tay vào việc cứu thế của Ngài, Chúa Thánh Thần cũng bắt đầu công việc của mình qua Chúa Giê-su. Có rất nhiều bản văn Cựu Ước nói về việc Chúa Thánh Thần tỏ mình ra ở nơi Đấng Cứu Thế tương lai. Dấu hiệu của Chúa Thánh Thần này đã cung cấp cho thánh Gioan Tẩy Giả một bằng chứng bất khả ngộ về tính chân thật mà thánh nhân làm chứng liên quan đến Chúa Ki-tô (x. Ga 1: 29-34).
Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa được mặc khải trong phép rửa của Chúa Giê-su: Chúa Con chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Ngài như chim bồ câu, và tiếng của Chúa Cha chứng thực Đức Giê-su là Người Con Một của Ngài. Người Ki-tô cũng sẽ lãnh nhận phép Rửa nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Địa vị làm con này sẽ được Giáo Hội công bố trên mỗi người lãnh nhận phép Rửa, họ trở thành con cái của Thiên Chúa, nghĩa tử của Chúa Cha, ở nơi Người Con Một của Ngài là Chúa Ki-tô, như lời dạy của thánh Giáo Phụ Xi-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem: “Nếu bạn có lòng mộ đạo, Chúa Thánh Thần cũng sẽ ngự xuống trên bạn và bạn sẽ nghe tiếng Chúa Cha từ trời phán với bạn: ‘Trước đây nó đã không là con Ta, nhưng giờ đây sau phép Rửa nó được trở thành con Ta’” (St Cyril of Jerusalem, De Baptismo, 14). Phụng vụ Đông Phương không lầm lẫn khi cử hành biến cố Chúa Ki-tô chịu phép rửa như “ngày lễ Ba Ngôi”. Chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép Rửa Ki-tô giáo được ban cho, đúng như lời căn dặn của chính Chúa Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28: 19).
*4. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (3: 17):
Lời mặc khải của Chúa Cha từ trời gồm hai vế: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và “Ta hài lòng về Con”.
-Vế thứ nhất: “Đây là Con yêu dấu của Ta”, thường quy chiếu đến đứa con trai một (x. St 16; Gr 6: 26; Am 8: 10; Dcr 12: 10). Như vậy, thật rõ rằng Đức Giê-su không là một trong số những nghĩa tử của Thiên Chúa, cũng không là Trưởng Tử trong số các nghĩa tử. Đúng hơn, diễn ngữ này tuyên bố mạnh mẽ và cụ thể rằng Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa được sinh ra hoàn toàn khác với những con người khác vì thiên tính của Ngài (x. Mt 7: 21; 11: 27; 17: 5; Ga 3: 35; 5: 20; 20: 17; vân vân).
-Vế thứ hai:“Ta hài lòng về Người”, được mượn từ bài ca về Người Tôi Trung của Đức Chúa (Is 42: 1). Đức Giê-su là Người Tôi Trung đã sẵn sàng đến chia sẻ thân phận khốn cùng của kẻ tội lỗi. Khi xếp hàng chờ chịu phép rửa bên giòng sông Gio-đan, Chúa Giê-su đảm nhận những yếu đuối của loài người, như thánh Mát-thêu nói sau này (8: 17: I s 53: 4). Như thế, thánh ký đã kín đáo gợi nhớ cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài (x. 27: 45-56).
Mạc khải từ trời được lập lại y nguyên trong bài tường thuật Chúa Giê-su Biến Hình (x. 17: 5). Hẳn là thánh Mát-thêu muốn tạo một tương quan thần học giữa hai biến cố. Cũng như biến cố Biến Hình báo trước việc Đức Giê-su được tôn vinh khi sống lại: sự tôn vinh này là hoa trái của sự tự hạ trong cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, thì biến cố chịu phép rửa cũng loan báo Đức Giê-su được tôn vinh: sự tôn vinh không chỉ là hoa trái của cuộc Khổ Nạn mà còn của cả cuộc đời tự hạ của Đức Giê-su, khởi đầu với sự tự hạ trong phép rửa của thánh Gioan. Tất cả những điều này xác nhận rằng câu chuyện phép rửa đúng là một cuộc Thần Hiển, như cuộc Biến Hình, chứ không phải là một thị kiến chỉ dành riêng cho một mình Đức Giê-su. Cuộc Thần Hiển này được ngỏ với các độc giả Tin Mừng, nay đã là môn đệ Đức Giê-su (bởi vì thánh Mát-thêu không nhắc tới đám đông dân chúng nào cả), cũng như cuộc Biến Hình chỉ được ngỏ với ba Tông Đồ: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan.
CHÚA GIÊSU NHẬN LÃNH SỨ MẠNG- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật với giai đoạn Ngài rao giảng công khai: sau thời gian sống với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu đi rao giảng. Việc đầu tiên Ngài làm là lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả ở sông Giođan. Như thế, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là gạch nối giữa mùa Giáng sinh với mùa Thường niên: Chúng ta đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố giáng sinh và hiển linh. Kể từ hôm nay chúng ta sẽ cùng sống với Ngài qua các biến cố của đời rao giảng.
Trong dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, và tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống xác nhận Ngài là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó cũng chính là thân phận kitô hữu của mỗi người chúng ta: chúng ta cũng đã lãnh nhận phép rửa, cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Vậy chúng ta cũng hãy noi gương Chúa Giêsu mà cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
- Gợi ý sám hối
- Do bí tích Rửa tội, chúng ta đã được nhận là con của Chúa. Nhưng chúng ta chưa sống xứng đáng với danh nghĩa ấy.
- Dù là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã sống như một Người Tôi Tớ hạ mình phục vụ mọi người. Còn chúng ta, chúng ta không thích hạ mình, không ưa phục vụ.
- Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngược lại chúng ta hay sống theo ý riêng.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 42,1-4.6-7):
Ngôn sứ Isaia được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt nên đã hiểu Đấng Messia tương lai là một Người Tôi Tớ. Ông đã mô tả Người Tôi Tớ trong 4 bài thơ. Đoạn được phụng vụ trích đọc hôm nay nằm trong bài thơ thứ I:
- Đó là người được Thiên Chúa tuyển chọn và Thiên Chúa rất hài lòng.
- Người đó rất hiền lành và dịu dàng: “không lớn tiếng, không nở bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”.
- Sứ mạng của Người Tôi Tớ là: a/ Tái lập công bình; b/ nên ánh sáng cho muôn dân; c/ giải thoát những người khốn khổ.
- Đáp ca (Tv 28):
Bài thơ này ca tụng Thiên Chúa uy phong. Sự uy phong của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài thống trị các sức mạnh của thiên nhiên: Ngài ngự trên những ngọn thuỷ triều, tiếng Ngài vang rền trên sóng nước.
Chính Thiên Chúa uy phong ấy sẽ tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng Messia của Ngài trong biến cố phép rửa.
- Tin Mừng (Mt 3,13-17):
Mặc dù kể chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa, nhưng Thánh Marcô không chú ý mô tả cảnh chịu phép rửa, mà lại chú trọng đến những người làm chứng cho Chúa Giêsu:
a/ Chứng của Gioan Tẩy giả: Chúa Giêsu mặc dù đến sau Gioan nhưng trổi vượt hơn Gioan, Gioan không xứng đáng làm đầy tớ cuối xuống cởi dây giày cho Ngài; mặc dù Chúa Giêsu nhận phép rửa Gioan, nhưng phép rửa trong Thánh Thần của Ngài cao trọng hơn phép rửa bằng nước của Gioan.
b/ Chứng từ trời: a/ Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Chúa Giêsu để cho thấy Ngài là Vị Ngôn Sứ đầy tràn Thánh Thần; b/ Tiếng Thiên Chúa từ trời phán xuống xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha.
c/ Với việc Chúa Giêsu bắt đầu xuất hiện trước công chúng, “trời mở ra” để bắt đầu một kỷ nguyên mới.
- Bài đọc II (Cv 10,34-38):
Dân Do Thái có quan niệm hẹp hòi cho rằng Thiên Chúa là Chúa riêng của họ, và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa được dành riêng cho họ. Vì thế, khi thánh Phêrô rửa tội cho ông Cornêliô một người thuộc dân ngoại, một số người Do Thái đã thắc mắc.
Thánh Phêrô biện minh rằng ông đã làm như thế cũng chỉ là theo đúng sứ mạng của Chúa Giêsu:
- Trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, Ngài đã được Thiên Chúa tấn phong làm Đấng Messia: “Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Ngài”.
- Sứ mạng Messia của Chúa Giêsu là mang Tin Mừng cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, vì thế nên “Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người”. Phêrô còn nói: “Thiên Chúa không tây vị ai. Nhưng ở bất cứ xứ nào ai kính sợ Người và thi hành sự công chính đều được Người đón nhận”.
- Gợi ý giảng
- Mỗi người đều có sứ mạng
Hai tiếng “sứ mạng” nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo – nói chung là mọi “hiện hữu” – đều có một sứ mạng:
- Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất
- Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người
- Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân huỷ những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi “Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng?”
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói “Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân”.
- “Con yêu dấu”
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua phép rửa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa. Về phần Chúa Giêsu, Ngài đã được khen là “Con yêu dấu của Cha”. Thế nào là một người “con yêu dấu”?
- là biết ý của cha mình: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
- và luôn làm theo ý cha mình: Chúa Giêsu nói “Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta”. Trong vườn Cây Dầu, sau khi đơn thành tỏ cho Chúa Cha biết Ngài rất sợ chén đắng của cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói tiếp ngay “Nhưng xin đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha”.
Nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thi chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
- “Nếu…”
Nếu tôi là dân Do Thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Giođan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi, chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai. Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói “Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến”. Rửa xong, tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu Thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xảy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu Thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dạy: “Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con”. Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở với tôi.
Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu Thế, tôi sẽ tự đắc hô to: Đấy, tôi nói có sai đâu. Ngài đến đây nè… Rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do giàu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ”. Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng, để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu Thế: dù phải chặt đầu, ông vẫn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: “Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế”. Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong dòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu xin cho chúng con biết kính nhường nhau. Đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm kitô hữu cho Đấng Cứu Thế. Chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
(Linh mục Vũ Khắc Nghiêm, “Xây nhà trên đá” Năm A)
- Mảnh suy tư
Thanh tẩy không chỉ là xối nước lên trán, chỉ một lần trong đời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi mọi chuyện xảy ra trong đời.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những gian truân thử thách, vì dòng nước xoáy này rửa sạch chúng ta khỏi giả dối và vô dụng.
Chúng ta được thanh tẩy bởi những đau khổ, vì dòng nước âm u này giúp chúng ta khiêm tốn và biết cảm thông.
Chúng ta được thanh tẩy bởi niềm vui, vì dòng nước róc rách này cho ta cảm nghiệm sự tốt lành của cuộc sống.
Chúng ta được thanh tẩy bởi tình yêu, vì nhờ dòng nước líu lo này chúng ta sẽ tươi nở như cánh hoa dưới ánh mặt trời.
Bí tích Thanh Tẩy giống như trồng một cây non, nó sẽ tiếp tục lớn lên suốt trọn đời ta.
(Flor McCarthy)
- Chuyện minh họa
Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời”. Bà đáp: “Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.” Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925.”
- Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Đức Giêsu được Chúa Cha trao ban Thánh Thần và được chính thức tấn phong làm Đấng Cứu Thế để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa Cha và tha thiết nguyện xin.
- Hội Thánh có trách nhiệm thông truyền sự sống của Chúa / cho những người lãnh nhận bí tích thánh tẩy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh luôn làm tròn bổn phận của mình.
- Chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho những anh chị em dự tòng / trước khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy / là một việc hết sức cần thiết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử biết luôn cố gắng thực hiện việc quan trọng này / đúng như Hội Thánh mong muốn.
- Ở mọi nơi và mọi lúc đều có rất nhiều người xả thân rao giảng Tin Mừng / giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em ấy / luôn được bình an trong cuộc sống chứng nhân thường ngày.
- Dù đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy / và đã sống đạo lâu năm / người tín hữu vẫn có bổn phận phải học hỏi / đào sâu thêm giáo lý của Chúa / để củng cố niềm tin còn non yếu của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn quan tâm đến việc học hỏi Lời Chúa và giáo lý của Người.
CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con trở nên con cái của Chúa qua bí tích Thánh Tẩy. Xin Chúa cho chúng con luôn cố gắng sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình. Chúng con cầu xin…
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Vậy, cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin canh tân sức mạnh Bí Tích Rửa tội trong chúng con. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp… “
VII. Giải tán
Thánh lễ đã hết, anh chị em lại trở về cuộc sống bình thường. Anh chị em hãy cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
NÀY LÀ CON TA YÊU DẤU- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Các bài đọc Thánh lễ hôm nay cho chúng ta biết : Đức Giêsu Kitô được tiên tri Isaia gọi là Người Tôi Tớ, đã đến chịu phép rửa ở sông Giorđan và được Thiên Chúa tấn phong và nhận làm Con Yêu Dấu của Ngài. Người Tôi Tớ này có sứ mạng đem Tin mừng cho tất cả mọi người, cho mọi dân tộc trên thế giới.
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế hòan tòan vô tì tích, thế mà lại đến xin Gioan làm phép rửa cho, tự coi mình như một tội nhân. Việc làm của Ngài nhắc nhở cho chúng ta phải ý thức về tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Nước sông Giorđan không thánh hóa được Ngài, nhưng ngược lại, Ngài thánh hóa nuớc sống ấy, và từ đó lập nên bí tích rửa tội để tha tội cho chúng ta và làm cho chúng trở nên con Thiên Chúa.
Sách có chữ rằng :”Thùy năng xuất tất do hộ” : ai ra vào cũng đều phải qua cửa. Giáo hội là một tòa nhà tạm trú để đợi ngày về trời, nghĩa là trước ngày về trời, ai nấy phải qua cửa Giáo hội. Cửa ấy Đức Giêsu đã mở cho chúng ta thấy khi Ngài chịu phép rửa mà Giáo hội kính lễ hôm nay. Chính Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô :”Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”(Ga 3,5). Vì vậy, mọi người phải được rửa tội để được vào Nước Trời. Bí tích rửa tội sẽ xóa bỏ tội tổ tông và tội riêng, ban ơn thánh hóa và làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và được thừa hưởng Nước Trời.
Trong phép rửa của Gioan, Đức Giêsu đã được Chúa Cha tuyên phong và nhận làm Con Yêu Dấu của Ngài. Cũng thế, qua bí tích rửa tội, chúng ta sẽ được nhận làm con Thiên Chúa và là thành viên của Hội thánh. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người phàm hèn của chúng ta. Để đáp lại lòng thương yêu vô biên của Chúa, chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo đối với Chúa bằng cách tỏ lòng tri ân, yêu mến, làm sáng danh Chúa, sống khiêm tốn và phục vụ để làm vẻ vang cho Cha chúng ta ở trên trời.
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 42,1-4.6-7.
Tiên tri Isaia là một tiên tri vĩ đại trong Cựu ước đã được Thiên Chúa hé mở cho biết về người Tôi Tớ mà ông đã mô tả trong bài thơ. Hôm nay phụng vụ trích đọc một đọan nằm trong bài thơ thứ nhất, có mấy ý như sau :
– Người tôi tớ này được Thiên Chúa tuyển chọn, qúi mến và hài lòng.
– Người tôi tớ này rất hiền từ dịu dàng, âm thầm lặng lẽ nhưng rất mạnh mẽ bảo vệ và làm sáng tỏ chân lý.
– Người tôi tớ này có sứ mạng soi sáng cho muôn nước, làm việc bác ái và giải thóat những người còn ở trong chốn tối tăm.
+ Bài đọc 2 : Cv 10,34-38.
Thánh Phêrô cho biết : Thiên Chúa không thiên vị ai, hễ ai kính sợ Chúa và ăn ở ngay lành thì được Thiên Chúa chấp nhận, khắc hẳn với tư tưởng hẹp hòi của người Do thái, họ tưởng rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho dân tộc họ.
Thánh Phêrô cho biết thêm : Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa bởi ông Gioan ở sông Giorđan và sau khi đã được xức dầu tấn phong, sẽ đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, thi ân giáng phúc cho họ bởi vì Thiên Chúa vẫn ở với Người.
+ Bài Tin mừng : Mt 3,13-17.
Đức Giêsu mà tiên tri gọi là Tôi Tớ đã đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình ở sông Giorđan. Ông Gioan đã can gián Đức Giêsu vì Ngài không có tội gì, không cần rửa tội, chính mình mới cần chịu phép rửa. Nhưng Đức Giêsu xin Gioan rửa cho mình lấy lý do rằng : phải làm như vậy thì mới phù hợp với thánh ý Chúa. Lúc đó, Gioan mới chịu chiều theo ý Ngài.
Gioan đã dìm Đức Giêsu xuống nước và khi kéo Ngài ra khỏi nước thì trời mở ra và thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán :”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Hôm nay Thiên Chúa Cha đã tấn phong và công khai công nhận Đức Giêsu là Con của Ngài.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Này là Con Ta yêu dấu.
*I. VIỆC ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA.
* 1. Nghi thức thanh tẩy nơi nhiều dân tộc.
Sau một thời gian sống chay tịnh khắc khổ trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ mạng tiền hô của mình, ông Gioan đã đi rao giảng phép rửa sám hối để dọn lòng chờ đón Đấng Cứu thế. Có nhiều người đến thú tội và chịu phép rửa do tay ông Gioan tại sông Giorđan.
Thực ra, bất cứ một dân tộc nào, tuy không theo tôn giáo nào, cũng có cảm thức sâu xa về thân phận tội lụy của mình và muốn thần linh tha thứ bằng một hình thức nào đó. Ví dụ ở Aán độ, những người theo Aán giáo đến trầm mình trong nước sống Hằng để được thần linh tha thứ. Ở Ai cập, người ta đến tắm gội trong dòng sông Nil để được thần linh thông cảm và tha thứ. Nơi nhiều dân tộc cổ sơ cũng có những kiểu tắm gội dìm mình tương tự hay được rảy nước trên mình. Đối với người Do thái, ngay từ thời Cựu ước, đã có những nghi thức thanh tẩy, nhưng ít chú trọng về phương diện luân lý. Sau này, nhất là gần thời Đức Giêsu, họ cũng tin những nghi thức thanh tẩy đó tượng trưng cho sự trong sạch tâm hồn, mặc dầu nó không phát sinh ra điều đó.
*2. Nghi thức thanh tẩy của Gioan.
Gioan Tẩy giảû cũng làm phép rửa cho dân chúng tại sông Giorđan. Ông dìm họ xuống nước rồi kéo họ lên. Hình thức này khác với hình thức của các dân ngọai, họ tự dìm mình xuống nước, còn trong phép rửa của Gioan thì phải có người khác rửa cho. Và còn một điều khác quan trọng hơn, theo Tin mừng cho biết : họ phải có một thái độ nội tâm cũng như bên ngòai, như phải tin vào sứ điệp của Gioan, phải trở lại thực lòng, nghĩa là phải quay về với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, phép rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều đó :”Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước để anh em được sám hối. Nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa”(Mt 3,11).
*3. Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu từ Galilê đến sống Giordan tìm gặp Gioan Tẩy giả để xin ông làm phép rửa cho. Đức Giêsu đã đích thân và tự nguyện xin Gioan làm phép rửa cho, đó là một việc làm và một thái độ khiêm nhường thẳm sâu. Phép rửa của Gioan là phép rửa thống hối mà Đức Giêsu lại chịu phép rửa thống hối. Việc Đức Giêsu chịu phép rửa là một điều khó hiểu. Phép rửa của Gioan là để kêu gọi người ta ăn năn sám hối và mở đường đến sự tha tội. Nhưng nếu Đức Giêsu mà chúng ta tin là Đấng Cứu Thế, thì Ngài không đứng ở cương vị cần phải ăn năn và cũng không cần đến sự tha tội. Phép rửa của Gioan là để tội nhân nhận thức tội lỗi mình phạm, nên không thể áp dụng cho Đức Giêsu được.
Thực ra, đây là cơ hội thuận tiện để Ngài tự đồng hóa mình với những người Ngài đến cứu, đúng lúc họ nhận thức được tội lỗi của mình và tìm kiếm Thiên Chúa. Khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu đã bằng lòng nhận số phận của Ngài liên hiệp với dân Ngài và với nhân lọai, Ngài mang lấy tội lỗi của họ : khi chịu phép rửa Ngài xua đuổi tội lỗi ấy, đồng thời Ngài dâng mình cho Thiên Chúa của Ngài.
Khi Đức Giêsu bước ra khỏi nước thì Thánh Thần hiện xuống trên Ngài với hình con bồ câu và có tiếng phán ra từ trời :”Con là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”. Tiếng nói mà Đức Giêsu nghe sau khi chịu phép rửa vô cùng quan trọng. Câu này bao hàm hai lời trích dẫn :
-“Này là Con Ta yêu dấu” được trích trong Thánh vịnh 2,7. Mọi người đều hiểu thánh vịnh này mô tả Đấng Cứu Thế, Vua quyền năng của Thiên Chúa, Đấng sẽ đến.
-“Con đẹp lòng Ta” trích ra từ Isaia 42,1 mô tả về người Đầy Tớ Đau Khổ mà cao điểm là Isaia 53. Tại đây, đấng tiên tri nói về một đầy tớ lý tưởng của Thiên Chúa, hòan tòan theo ý muốn của Ngài, đang theo con đường vâng lời và phục vụ.
Như vậy, Đức Giêsu được tuyên xưng là Con yêu dấu của Thiên Chúa, là Đấng mà nơi Ngài lời tiên tri này được ứng nghiệm hòan tòan. Và trong phép rửa của Đức Giêsu có hai điều được xác quyết :
– Một là Ngài là Đấng lựa chọn của Thiên Chúa.
– Hai là con đường trước mặt Ngài phải đi là con đường thập tự.
*II. HIỆU QUẢ CỦA PHÉP RỬA.
*1. Bí tích rửa tội của chúng ta.
Phép rửa của Gioan bằng nước chỉ là nghi thức tượng trưng nhằm thúc đẩy và diễn tả tâm tình thống hối. Còn phép rửa của Đức Giêsu được Gioan mô tả là bằng lửa và trong Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Đức Giêsu là một bí tích tuôn tràn Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngòai, còn thực sự ta được rửa bằng lửa. Lửa ở đây ám chỉ sức mạnh của Chúa Thánh Thần biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và đáng được hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Nước Trời. Vì thế, phép rửa tội của chúng ta có mục đích xóa tội tổ tông và các tội riêng, ban ân sủng siêu nhiên, đời sống ơn thánh, làm cho ta trở nên con Thiên Chúa, làm công dân Nước Trời và thành viên của Hội thánh.
Mỗi người chịu phép rửa tội, theo thánh Phaolô, được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người được xức dầu và được tham dự vào ba chức năng của Chúa Kitô là tư tế, tiên tri và vương giả. Kitô hữu được gọi là người mang danh Chúa Kitô và được thuộc về Ngài. Kitô hữu là một danh hiệu thật cao quí.
*2. Mỗi người phải sinh lại.
Ông Nicôđêmô đã được gặp Đức Giêsu vào ban đêm, trong câu chuyện trao đổi, Ngài đã nói với ông :”Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”(Ga 3,3). Ngài còn nói rõ thêm :”Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần”(Ga 3,5).
Thực vậy, bí tích rửa tội mang lại cho chúng ta một hiệu quả vô cùng cao quí, đó là sự tái sinh. Mỗi Kitô hữu là một người đã được tái sinh, nghĩa là chúng ta đã sinh ra lần thứ nhất với sự sống tự nhiên do cha mẹ, lần thứ hai với sự sống siêu nhiên do bí tích rửa tội. Nói rõ hơn, mỗi người chúng ta sinh ra hai lần : lần thứ nhất do cha mẹ, các ngài đã truyền cho chúng ta sự sống tự nhiên. Lần thứ hai do Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội, Ngài ban cho chúng ta sự sống siêu nhiên.
Thánh Phaolô viết cho một nhóm Kitô hữu mới chịu phép rửa tội như sau :”Khi chịu phép rửa, anh chị em đã được mai táng cùng với Đức Giêsu trong phép rửa, và anh chị em cũng sẽ được sống lại cùng với Chúa Kitô… Trước kia anh chị em đã chết về mặt thiêng liêng vì tội lỗi của anh chị em… Nhưng giờ đây, Thiên Chúa đã đưa anh chị em đến nguồn sống cùng với Chúa Kitô”(Cl 2,12-13).
Ngày 01.06.1930 dịp lễ giáp năm ngày chịu phép rửa tội, Đức Giáo hòang Piô XI đã sung sướng nói với 1500 thanh niên ở Rôma :”Ngày Cha chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời Cha, cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời chúng con”. Chúng ta hãy nhớ : ngày chúng ta chịu phép rửa tội là ngày chúng ta tái sinh trở nên con Chúa, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta.
*3. Sinh lại để làm con Chúa.
Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Không phải chỉ là có danh, nhưng thực sự như thế, chúng ta là con Thiên Chúa và Thiên Chúa là Cha chúng ta, một người Cha yêu thương chúng ta vô cùng. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã dạy các Tông đồ cầu nguyện và mở đầu bằng câu :”Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Như thế, Đức Giêsu tiết lộ cho chúng ta biết chúng ta được làm con một Cha trên trời.
Tìm về nguồn gốc, ngày xưa Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người đầu tiên là Adong và Evà. Thiên Chúa đã cho họ gọi Ngài là Cha. Nhưng vì phạm tội ăn trái cấm không vâng phục Ngài nên bị phạt mất quyền làm con, không được gọi Thiên Chúa là Cha nữa, mà phải sống dưới quyền lực của ma qủi và tội lỗi. Nhưng vì thương yêu nhân lọai, Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ, để lấy lại quyền làm con mà nhân lọai đã bị đánh mất. Nhờ bí tích Rửa tội mà Đức Giêsu đã trả lại cho chúng ta quyền được làm con Thiên Chúa để có thể gọi Thiên Chúa là Cha :”Abba, cha ơi”!
Trên đời không ai có thể thiếâu được người cha vì cha là yếu tố cần thiết cho người con để cho người con có chỗ nương tựa vì :
Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta không thể thiếu được Thiên Chúa là Cha. Ngài đã dựng nên chúng ta lại còn nuôi dưỡng bằng ân sủng của Ngài. Chúng ta hãy vui sướng và hãnh diện có Thiên Chúa là Cha, chúng ta sẽ không phải là đứa con mồ côi. Còn gì quí bằng danh hiệu được làm con Thiên Chúa mà đã là con thì được gọi là Cha : Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Một khi đã được gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta phải tin cậy phó thác vào Ngài. Ngài phải chiếm chỗ cao nhất trong đời chúng ta và chúng ta phải qui hướng mọi sự vào Ngài, coi Ngài như trung tâm điểm của đời sống. Ngài phải là “Number One”. Ngài là Number one, còn chúng ta là Zéro, là số không. Nếu chúng ta để số 1 đứng trươc số không (0) thì số không ấy có ý nghĩa, càng nhiều số không thì số ấy càng to, ví dụ 1.000.000. Nếu để số 1 đàng sau số không thì con số càng nhỏ, càng nhiều số không thì càng nhỏ, ví dụ : 000.000.1. Cho nên, Thiên Chúa phải chiếm chỗ cao nhất trrong đời ta. Ngài phải là “Number One” trong đời ta.
*III. BỔN PHẬN NGƯỜI CHỊU PHÉP RỬA TỘI.
*1. Cảm tạ hồng ân Thiên Chúa.
Trong thánh vịnh 50 tác giả đã nói :”Mẹ con đã hòai thai trong tội”, khi sinh ra chúng ta vẫn là tội nhân, làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỉ. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương lòai người, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Đức Giêsu lại còn cứu chuộc chúng ta một lần nữa qua bí tích rửa tội và làm cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa. Đây là một vinh dự vô cùng lớn lao vì “Con vua thì lại làm vua”.
Tước vị làm con Thiên Chúa thật là lớn lao. Tuy tước vị này, nhất là linh hồn chúng ta, bị che phủ bằng một thân xác phàm hèn, không ai xem thấy, không ai biết giá trị của nó, nhưng tự bản chất nó thực là cao quí. Trường hợp này giống như ở Miến điện, có nhiều bức tượng bằng vàng ròng, vì sợ bị ngọai xâm cướp mất, có vị sư đã lấy một lớp đất sét trét lên các bức tượng ấy để giấu đi cái cốt lõi thật của các bức tượng… nhưng dưới cái lớp vỏ đất sét ấy là cả một khối vàng ròng quí giá.
Hồng ân của bí tích rửa tội cũng thật lớn lao và cao quí. Có thể qúi như những viên ngọc trai mà nhiều người chưa biết giá trị của nó. Đúng là “vật khinh nhưng hình trọng”.
Truyện : Hạt ngọc trai.
Ngày 19. 03.1627, Cha Đắc Lộ đến Cửa Bạng Thanh hóa. Lời đầu tiên ngài nói với cha ông chúng ta :”Hiện giờ tầu của chúng tôi có chở một thứ hạt trai tuyệt đẹp và quí giá, ai mua thì cả đời được giầu có hạnh phúc muôn thuở. Không nên sợ giá cao, vì chẳng ai nghèo đến nỗi không đủ tiền mua hạt trai ấy”. Tổ tiên chúng ta khấp khởi vui mừng, xin ngài ít là cho xem đôi ba hạt. Ngài trả ời :”Hạt ấy mắt xác thịt không thể xem thấy được, chỉ có trí khôn hiểu được mà thôi. Hạt trai ấy chính là lề luật Thiên Chúa, một cái gì qúi trọng hơn trân châu và hàng hóa Aán độ. Chúng tôi sẵn sàng giảng dạy luật đó cho anh chị em, nên không ngần ngại vượt biển băng ngàn đến đây” (Lm Hồng Phúc, Suy nịem Lời Chua, năm A, tr 22-23).
*2. Hiếu thảo với Cha trên trời.
Người Á đông đề cao chữ “HIẾU”, nhất là trong luân lý đạo Khổng. Đời sống con người phải lấy chữ hiếu làm đầu mà bất hiếu là một tội nặng nhất trong các tội. Người ta đã nâng chữ hiếu lên thành “ĐẠO’ nên mới có “HIẾU ĐẠO”. Phận làm con cũng được nâng lên thành đạo nên mới có “ĐẠO CON”. Như vậy, muốn trọn đạo làm con thì phải chu tòan “đạo hiếu”. Tư tưởng này được đúc kết thành câu ca dao để nhắc nhở cho mọi người phải thi hành :
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là “đạo con”.
Trong phép rửa của Gioan, Đức Giêu được gọi là “Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Vậy thế nào là một người “con yêu dấu” ? Thưa đó là :
– biết ý của cha mình : Đức Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
– và luôn theo ý cha mình : Đức Giêsu nói :”Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha T Cũng thế, nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thì chúng ta hãy bắt chước Đức Giêsu : luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
Ngòai ra, chúng ta đã có Chúa là Cha, chúng ta cũng phải làm tròn “đạo hiếu” đối với Ngài để trọn đạo làm con của chúng ta. Tỏ lòng hiếu đối với Ngài, trước tiên là hãy yêu mến Ngài trên hết và trước hết như Chúa dạy :”Hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hôn hết trí khôn…”(x. Mt 22,37; Mc 12,30; Lc 10,27).
Nhưng yêu mến Ngài thì phải thực hiện bằng những việc cụ thể bên ngòai vì thánh Giacôbê nói :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nếu không thì người ta sẽ chê cười :
Thương miệng thương môi, thương miếng xôi miếng thịt.
Chúa bảo chúng ta là ánh sáng thế gian. Nếu là ánh sáng mà không chiếu sáng thì không còn là ánh sáng nữa mà là bóng tối. Nhiệm vụ của chúng ta là phải soi sáng cho người khác bằng những việc làm cụ thể như Chúa nói :”Aùnh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,16). Cuộc sống của chúng ta phải làm vinh Cha chúng ta ở trên trời khi chúng ta nguyện :”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến…”
Cuộc sống của chúng ta phải biểu lộ cho người khác biết chúng ta là con Thiên Chúa. Đã là con thì phải sống thế nào để người ta phải nói :”Cha nào con ấy”(Qualis pater, talis filius). Chúng ta hãy bắt chước Boleslas, vua nước Ba lan, luôn đeo ở ngực mẫu ảnh vua cha, và khi toan làm một việc gì quan trọng, vua nhìn vào mẫu ảnh đó và nói :”Con sẽ chẳng hề làm gì bất xứng người con thảo của cha”.
Hôm nay Đức Giêsu cũng khuyên nhủ chúng ta là những Klitô hữu, những người được mang tên Ngài, những người được thuộc về Ngài, hãy sống xứng đáng với danh hiệu cao qúi ấy giống như hòang tử của vua Ménedem, mỗi khi được bạn bè mời đi chơi, thì đến xin phép vua cha, vua ban phép lành và chỉ dặn có một điều là :”Dầu ở đâu, hãy nhớ mình là con vua”.
*3. Biết khiêm tốn và phục vụ.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy cả Gioan tẩy giả và dân chúng Do thái đều không hiểu nổi Đấng Messia lại là một Người Tôi Tớ khiêm tốn hiến thân phục vụ nhân lọai cho đến chết. Hai ngàn năm đã trôi qua, thế mà ngày nay chúng ta cũng vẫn thế. Chúng ta giới thiệu Đức Giêsu cho người ta như một Đấng quyền phép hay một quan tòa xét xử. Chúng ta bỏ sót một phương diện rất quan trọng của Ngài : Ngài trước hết là một Người Tôi Tớ hiến thân phục vụ . Đạo của Đức Giêsu là một đạo hiến thân phục vụ, người môn đệ của Đức Giêsu cũng pải là người hiến thân phục vụ như thế.
Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn : Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Đức Giêsu; còn Đức Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người klhiêm tốn là người chỉ nhĩ đến việc chu tòan nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
Truyện : Hòang đế cầy ruộng.
Tại một thành phố bên Tiệp khắc, giữa những di tích cổ người ta thấy có một chiếc cầy từ thế kỷ 18. Người ta truyền tụng câu truyện như sau : Một hôm, hòang đế Joseph II cùng đòan tùy tùng đến viếng thăm một ngôi làng trong vùng. Đi qua một cánh đồng, Hòang đế thấy một nông dân đang ngồi nghỉ mệt bên một gốc cây. Ông đến trò truyện với người nông dân và xin được cầy thử một luống.
Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên vì có một người sang trọng lại xin tra tay vào cầy, và ông ta phá lên cười khi thấy những luống cầy vụng về. Với tất cả thành thực, người nông dân lắc đầu và nói :”Xin lỗi ông, hạng người như ông thì làm sao có thể tra tay vào cầy để kiếm sống được”. Nghe thế, một người trong đòan tùy tùng mới nói nhỏ cho người nông dân biết người đang cầm chiếc cầy của ông chính là Hòang đế. Lập tức, người nông dân như muốn độn thổ, ông không thể tưởng tượng được một vị Hòang đế lại có thể tra tay vào cầy của ông.
Thánh Phaolo dâng lời ca tụng :”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã tự coi mình như “Con người đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người”. Ngài muốn tham dự vào cuộc sống của con người, muốn nói rằng Con Thiên Chúa đã thực sự đến trần gian và đã hạ mình xuống lãnh nhận phép rửa từ một người. Những thái độ khiêm tốn của vị Hòang đế trần gian và Hòang đế Nước Trời đã làm dân chúng cảm phục và ngưỡng mộ khi họ nhận ra đó là một người có uy quyền trong một nước và một Vua cao trọng hơn hết các vua chúa trần gian này.
Người ta nói :”Thượng hành hạ hiệu” : người trên làm kẻ duới theo. Chúa Giêu đã làm gương trước, một tấm gương sán lạn đáng mọi người chúng ta bắt chước để chúng ta sống xứng đáng với danh hiệu là con cái Cha trên trời.
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
ĐIỂM HẸN BẤT NGỜ– ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
Gần nhà thờ Đức Bà là cả một quần thể panô, người ta dựng lên để quảng cáo cho những phim ảnh đang được trình chiếu tại các rạp trong thành phố. Dù muốn hay không muốn, mỗi lần đi qua, những tựa phim cứ trải ra như tấm thực đơn thơm nức mời mọc, đến nỗi một người bạn thấy thế có lần đã thốt lên câu đùa: “Nếu chịu khó xem hết những panô quảng cáo này, người ta có thể trở thành nhà điểm phim nghiệp dư đấy”. Ừ nhỉ! Không xem phim thì xem tựa phim, biết đâu lại chẳng là một cái thú?
Mấy tuần lễ gần đây, thử để ý, đã thấy xuất hiện một cuốn phim mới tựa đề “Điểm hẹn bất ngờ”. Chẳng biết nội dung thế nào, nhưng tựa phim ấy đã âm thầm đi vào bộ nhớ, để rồi chợt lóe lên khi tiếp cận với trang Tin Mừng hôm nay, đến nỗi cũng muốn gọi lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa như là một điểm hẹn bất ngờ.
1) Điểm hẹn bất ngờ giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu.
Phúc Âm Nhất Lãm đưa ra ba bản văn song song rất giống nhau về việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa, nhưng riêng bản văn của Matthêu mới có mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu như được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay. Và chính mẩu đối thoại tưởng như trầm chìm ấy lại là một bất ngờ lý thú làm nên điểm hẹn cho phép Rửa nơi sông Giođan.
Khi giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố rằng mình chỉ là tiếng kêu bên ngoài, còn Đức Giêsu mới là Lời làm nên ý nghĩa; mình chỉ là cát hoang trải dài sa mạc, còn Đức Giêsu mới là Nẻo Đường thênh thang đi tới; mình dẫu đến trước nhưng lại có sau, còn Đức Giêsu dẫu đến sau nhưng hằng có trước; và mình chỉ rửa trong nước, còn Đức Giêsu mới là Đấng sẽ rửa chính thức trong Thánh Thần. Ông tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng Cứu Thế. Ấy thế mà, bất ngờ thay, chính Đức Giêsu lại đến với Gioan Tẩy Giả nằng nặc đòi ông làm phép Rửa cho mình: chủ sự bước xuống làm thụ nhân, còn thụ nhân lại miễn cưỡng đóng vai chủ sự.
Điều bất ngờ là điều người ta không chờ đợi. Ở đây còn mạnh nghĩa hơn, bởi điều đó Gioan Tẩy Giả không hề nghĩ tới nên dám đâu đợi chờ. Và vì thế, bất ngờ lại càng bất ngờ hơn. Nhưng chính điều bất ngờ ấy đã thành điểm hẹn giao ca thế hệ giữa Cựu Ước mà Gioan Tẩy Giả là đại biểu kết thúc với Tân Ước mà Đức Giêsu là Đấng khởi đầu.
Đồng thời, đó cũng là điểm hẹn gặp gỡ bất ngờ trong việc “chu toàn thánh ý Chúa”. Nơi Đức Giêsu, đó là việc Người sống lấy thái độ công chính của Israel, nhưng lại đưa sự công chính ấy tới đỉnh cao hoàn thiện, cũng như khi chịu phép Rửa bởi nước, Người đã thánh hóa chính nguồn nước tái sinh. Còn nơi Gioan Tẩy Giả, đó là việc ông đổ nước cho Đức Giêsu, một vinh dự đến bất ngờ, nhưng cũng chính vào giờ phút ấy, ông cảm nhận rất rõ rằng sứ vụ của mình tới đây đã mãn: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. Hình như ông đã sẵn sàng để chịu một phép Rửa khác, cũng là điểm hẹn bất ngờ cho ông: đó là kiếp ngục tù.
2) Điểm hẹn bất ngờ giữa người Tôi Tớ đau khổ và Người Con chí ái.
Nếu bên ngoài, việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa đã là một điểm hẹn cho Gioan Tẩy Giả gặp gỡ Đấng Cứu Thế, thì đi sâu vào chính mầu nhiệm, đó còn là điểm hẹn bất ngờ giữa người Tôi Tớ mà Tiên tri Isaia đã ghi lại trong bài ca thứ nhất (bài đọc thứ nhất) và Người Con chí ái của Chúa Cha mà phần sau trích đoạn Tin Mừng đã nêu lên, làm thành một lễ Hiển Linh mới cho tất cả những ai cần được cứu độ.
Khi bước xuống dòng sông phép Rửa, Đức Giêsu tỏ mình ra không chỉ là Đấng đã đến sống giữa con người, mà còn là Đấng sống cho con người bằng cách đón nhận vào mình đời sống thực thụ của họ, để trọn vẹn liên đới với họ mọi mặt, kể cả mặt yếu đuối tăm tối đớn hèn nhất là thân phận tội nhân. Người là tôi tớ của Giavê đã tự nguyện gánh tội trần gian, đã tự hạ chịu hết mọi nỗi đau của toàn thể dân mình, và mặc dầu chẳng vướng tội nhơ, Người đã nhẫn nhục cúi xuống lãnh nhận phép Rửa thống hối chỉ vì muốn liên đới đến cùng với mọi tội nhân.
Nhưng bất ngờ làm sao, chính khi bước lên từ dòng sông phép Rửa ấy, Đức Giêsu lại tỏ mình ra trong một quang cảnh hoàn toàn khác lạ, làm thành đỉnh cao của toàn thể mầu nhiệm Hiển Linh: Người được tiếng từ trời xác nhận là Con chí ái và được Thánh Thần tấn phong làm Đấng quy tụ tất cả nhân loại về một đầu mối cứu độ. Đất bỗng gặp Trời, Người Tôi Tớ đau khổ bỗng hóa nên Người Con chí ái, và Người tự hạ xóa mình ra không lại bất ngờ nên Đấng vừa làm đẹp lòng Cha, vừa làm thỏa lòng mong ước của bao thuở đợi chờ.
Và như thế, dòng sông phép Rửa đã nên điểm hẹn bất ngờ để Chúa Giêsu tỏ mình cho nhân loại: Người vốn là Con chí ái của Chúa Cha, nhưng đã tự hạ làm người Tôi Tớ, và khi đi đến cùng trong đau khổ, Người là Đấng thuộc về Trời cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
3) Điểm hẹn bất ngờ giữa đời làm người và đời làm con Chúa.
Điểm hẹn bất ngờ nơi sông Giođan, đối với Chúa Giêsu, đã như một dự báo về công cuộc Tử Nạn và Phục Sinh, để từ đó mở ra những điểm hẹn mới cho tất cả những ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Được trở nên chi thể Chúa Kitô, được thông phần sự sống thiên linh và được trở nên con Thiên Chúa: đó là thiên chức của đời tín hữu. Nhưng thiên chức ấy không miễn chuẩn cho họ khỏi phải chu toàn những trách vụ trong đời sống trần thế mà họ là thành phần. Do đó, đời tín hữu chính là một điểm hẹn bất ngờ giữa cuộc sống đời và cuộc sống đạo, giữa phận làm con người và phận làm con Chúa, giữa sự sống nhân linh và sự sống thiên linh. Vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao chu toàn được cả hai mặt sống trong cùng một cuộc đời, làm sao cho mặt ân sủng không bị nhận chìm vì nhu cầu cơm áo, và làm sao cho mặt đời thường được nâng lên ngang tầm với sức mạnh của thánh ân?
Sẽ là một điểm hẹn đáng buồn nếu như hai mặt sống không có sự đồng bộ, sẽ là một điểm hẹn đáng trách nếu đạo đời vẫn tiếp tục ly thân; nhưng sẽ là một điểm hẹn của niềm vui nếu như đời tín hữu là một đời biết chu toàn thánh ý Chúa, cho dẫu nhiều khi vì thánh ý mà phải chấp nhận một số thiệt thòi nào đó trong đời.
Và bởi vì việc Chúa chịu phép Rửa là một bất ngờ về tình liên đới, nên giới luật yêu thương với những hành động cụ thể cũng là một điểm hẹn đem lại những hiệu quả bất ngờ nhất cho những kẻ sống tinh thần của con Chúa trong phận kiếp của con người. Biết liên đới là biết dẹp bỏ mọi hàng rào cản lối yêu thương, và sống liên đới cũng có nghĩa là không mệt mỏi vượt qua những ranh giới vị kỷ của bản thân mình, để không chỉ đón nhận người khác mà còn quan tâm thăng tiến họ nữa.
Hôm nay Phụng Vụ khép lại Mùa Giáng Sinh, đồng thời mở ra Mùa Thường Niên. Không còn nữa những tưng bừng bên ngoài, nhưng vẫn có đó một sâu lắng niềm vui. Bởi cuộc đời Chúa Kitô là điểm hẹn giữa thiên tính và nhân tính để bất ngờ mở ra mùa cứu độ, cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng muốn là điểm hẹn giữa ơn thánh Chúa và nỗ lực con người để xin được vươn tới những bất ngờ hạnh phúc.
ƠN GỌI LÀM CON- Linh mục GB. Trần Văn Hào SDB
Biến cố Chúa chịu phép rửa được cả ba sách Tin mừng nhất lãm kể lại. Sự kiện này đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Đức Giêsu. Trình thuật cũng tiên báo về bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài.
Một cuộc lễ phong vương trong khiêm hạ.
Ngày xưa, khi một người sắp được tấn phong làm vua, người ta tiến hành nghi thức gồm 3 giai đoạn: Tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm và nghi lễ phong vương long trọng. Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ tiến trình ấy. Đức Giêsu được dìm xuống để tẩy rửa trong dòng sông Giorđan. Ngài được Thánh Thần xức dầu và đậu xuống trên Ngài. Sau cùng Ngài được chính Chúa Cha tấn phong qua lời tuyên bố ‘Đây là Con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng’. Tuy nhiên cuộc phong vương mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc chỉ là hình bóng. Đức Giêsu sẽ thực sự được tấn phong làm Vua khi Ngài được tắm rửa bằng máu đổ ra trên Thập giá, được xức dầu tẩn liệm trong huyệt đá và được Chúa Cha cho Phục sinh để khai mở một triều đại mới, một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên ơn cứu độ.
Các chi tiết mà thánh Matthêu mô tả trong Tin mừng hôm nay đều mang chở những nội dung rất sâu xa. Trước hết, sự kiện trời mở ra diễn bày sự giao hòa giữa trời và đất. Theo quan niệm Do thái cổ xưa, Thiên Chúa ở tít trên cao và con người ở sâu tận trong vực thẳm dưới đất thấp. Có cả một khoảng cách mênh mông con người không thể vươn tới. Cửa trời mãi khép lại, và con người luôn bị ngập chìm trong bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì vậy trong Cựu ước, chúng ta nghe những lời rên xiết ai oán của dân Chúa vọng lên cao: “Lạy Chúa xin xé trời mà ngự đến với chúng con”. Khi Đức Giêsu thụ tẩy trong dòng sông Hòa giang, bầu trời đã mở toang ra và đất trời được giao hòa. Đây là hình tượng tiên báo bí tích Thánh tẩy của Tân ước. Một khi được dìm trong máu Đức Giêsu, chúng ta cũng được tẩy sạch mọi tội lỗi và được nâng lên địa vị làm con cái Chúa. Con người từ đất thấp được nâng lên tới trời cao.
Thứ đến, Thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Đức Giêsu dưới hình chim bồ câu. Tác giả sách Sáng Thế mô tả Thần Khí như là nguyên lý tác sinh vũ trụ : “ Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2). Khi Đức Giêsu sống lại, Ngài cũng hiện ra với các Tông đồ và ‘thổi hơi ban Thánh Thần’ (Ga 20, 22). Như vậy sự hiện diện của Thần khí chứng thực một cuộc tạo dựng mới, đem đến cho con người luồng sinh khí mới để chúng ta được sống sung mãn trong nguồn ân sủng. Chúa Giêsu lãnh phép rửa để khai mở ơn cứu độ. Ngài bắt đầu đi rao giảng Tin mừng, và đây là Tin mừng giải phóng, phục hồi nơi ta sự sống thần linh. Đó chính là sự tái tạo mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua cái chết và sự phục sinh vinh thắng của Ngài.
Cuối cùng, chúng ta nghe câu tuyên bố của Chúa Cha. Lời Thánh vịnh này cũng được lập lại trong đêm Giáng sinh: “Này là Con Ta yêu dấu, ngày hôm nay Ta đã sinh ra Con”. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa cũng thực hiện một cuộc đản sinh mới nơi loài người. Phụng vụ hôm nay là cao điểm và kết thúc mùa Giáng sinh, mùa chúng ta mừng kính việc Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang của Ngài nơi Đức Giêsu. Hài nhi Giêsu đến trần gian để thực hiện thánh ý Chúa Cha, diễn bày sự giao hòa trời đất, và dẫn đưa chúng ta đi vào một tạo dựng mới, phục hồi cho chúng ta phẩm giá được làm con cái Chúa.
Văn hóa xếp hàng.
Ngày nay, xã hội nói nhiều về loại hình văn hóa này. Sự chen lấn xô xẩy, dành giật nhau là những gì chúng ta thấy xảy ra nhan nhản hằng ngày. Người văn minh rất khó chịu khi nhìn vào những cảnh tượng ấy. Nhiều người vẫn còn nhớ thời bao cấp, chúng ta phải xếp hàng rồng rắn có khi cả ngày mới mua được vé xe đò hay mua vài ba ký lương thực theo chế độ tem phiếu. Nhưng không phải chỉ chúng ta mà 2000 năm trước đây, Đức Giêsu cũng đã từng đứng xếp hàng bên dòng sông Giorđan. Có điều khá lạ lùng, là Ngài đứng chung với những người tội lỗi để xin thụ tẩy theo lời mời gọi của Thánh Gioan tiền hô. Gioan đã từng tuyên bố cho dân chúng: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian”. Thế thì tại sao Con Chiên vô tội ấy lại lặng lẽ đứng xếp hàng, chung với các tội nhân. Đây là một nghịch lý khó hiểu, không phải chỉ đối với Gioan, nhưng còn đối với tâm thức con người thuộc mọi thời đại.
Bài học ở đây không phải chỉ là bài học về ‘văn hóa xếp hàng’, nhưng Đức Giêsu muốn diễn bày một linh đạo sâu xa khi đứng chung với những con người tội lỗi. Ngài tự mang lấy muôn tội của loài người cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Ngài xin được thanh tẩy trong dòng sông, nhưng chính con sông Giorđan ấy mới cần được thanh tẩy. Nơi con người Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra hết nghịch lý này đến nghịch lý khác. Những nghịch lý đó nhằm diễn bày chân trời yêu thương rộng mở mà Đức Giêsu đã khai sáng. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con một, để ai tin Người Con ấy sẽ được cứu độ” (Ga 3, 16). ‘Văn hóa xếp hàng’ mà Đức Giêsu đi bước trước, hàm chứa bài học sâu xa về sự khiêm hạ sâu thẳm.
Ơn gọi làm con.
Nhà văn Flannery O’Connor trong tác phẩm ‘Dòng sông’có viết một câu chuyện hư cấu với nội dung gần giống với câu chuyện chúng ta nghe trong Tin mừng hôm nay. Một giáo sỹ đang giảng đạo cho dân chúng bên cạnh một con sông nhỏ và mời gọi dân chúng sám hối để thụ tẩy. Một dãy người đông đảo đứng xếp hàng nối đuôi nhau để xin ông làm phép rửa. Chú bé Bavel cũng đứng trong dãy người chờ đến lượt mình. Vị giáo sỹ dìm đứa bé xuống nước và làm nghi thức, sau đó xách cổ đứa bé lôi lên khỏi mặt nước và nói: “Này chú bé, lúc nãy chú mày chẳng là cái thớ gì, nhưng bây giờ chú em có giá rồi đấy”. Mọi Kitô hữu chúng ta cũng trở nên có giá vì đã được dìm trong máu cứu độ nơi giếng rửa tội. Chúng ta mang nơi mình giá trị vô song vì được biến đổi hoàn toàn, được lãnh nhận thiên chức trở nên con cái Thiên Chúa. Phẩm giá ưu việt chúng ta có được nhờ vào việc thanh tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội.
Một vị Cha già đã chua chát nhận xét: “Nhiều vị linh mục ngày nay khi được mọi người gọi mình bằng cha, bỗng quên mất đi ơn gọi làm con của mình”. Đây là ơn gọi căn bản và cao quý nhất mà tất cả chúng ta, các Kitô hữu đều được chia sẻ. Cách đây vài thập niên ở Âu Châu, có một phong trào rộ lên đòi tự do một cách vô lối. Nhiều bạn trẻ Công giáo đặt vấn đề tại sao bố mẹ đem tôi đến nhà thờ để rửa tội mà không hỏi ý kiến trước. Họ phải đợi chúng tôi lớn lên, đủ trưởng thành để chúng tôi quyết định về sự tự do chọn lựa của mình. Khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đi thăm viếng mục vụ nước Pháp vào những năm thập niên 80, nhiều người đồng loạt ký tên xin ra khỏi Giáo hội vì não trạng và thái độ mang tính ngụy biện giống như vậy.
Không cần nói đâu xa, ngay tại Việt Nam, không ít Kitô hữu vẫn có tên trong giáo xứ, nhưng cuộc sống của họ cũng giống như những con người vô thần, xa rời hẳn mẹ Hội Thánh. Ở bên Pháp người ta vẫn gọi họ là ‘Croyant mais non-practiquant’, tức là chỉ tin trên lý thuyết còn thực hành thì không. Còn chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta đã sống ơn gọi Bí tích rửa tội như thế nào?
Kết luận
Phụng vụ hôm nay gợi nhắc về ơn gọi cao quý chúng ta đã lãnh nhận nơi giếng rửa tội. Chúng ta nhìn vào gương mẫu nơi Đức Giêsu, một Con Chiên vô tội đã tự hạ, xếp mình ngang hàng với những tội nhân hèn mọn. Về phần chúng ta, chúng ta có đủ khiêm tốn để nhận ra những bất toàn nơi con người mình và cố gắng sống thật sung mãn ơn gọi của Bí tích rửa tội hay không? Bí tích thánh thiêng ấy đã ghi ấn tích vĩnh viễn nơi tâm hồn chúng ta, một ấn tích không thể xóa nhòa. Còn lại, chúng ta có bổn phận phải phát huy và sống thật trọn vẹn ơn gọi cao quý này.
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Kitô hữu ngày nay biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; nhưng những người ngày xưa như dân Bêlem, dân làng Nadarét và cả những người nghe Đức Giêsu rao giảng, đều không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Họ đã đối xử với Đức Giêsu như một con người. Vì thế, khi Đức Giêsu mặc khải Ngài ngang hàng với Thiên Chúa thì Ngài bị người ta kết án tử hình. Đối với người thời đó, không có chuyện Thiên Chúa ba ngôi vị, nên chẳng có chuyện Thiên Chúa nhập thể.
Đức Giêsu là con của Đức Maria ở Nadarét. Ngài đã được sinh trong chuồng chiên cừu ở Bêlem khi cha mẹ Ngài không tìm được chỗ qua đêm. Ngài sinh ra như một người nghèo hèn nhất trong thiên hạ. Không ai biết chân tướng của Ngài. Có lẽ cả Đức Maria và thánh Giuse cũng chỉ biết Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, là người của Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Người ta chỉ biết Thiên Chúa là ba ngôi vị sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài ở Nadarét như tất cả những người Do Thái thời đó. Ngài hành nghề lao động như bao người nghèo. Tin về Gioan con ông Dacaria rao giảng làm phép rửa sám hối đến làng Nadarét, chắc Đức Giêsu không phải là người duy nhất từ Nadarét muốn đi nhận lãnh phép rửa sám hối với Gioan. Có lẽ Ngài đã xin Đức Maria, và được sự đồng ý của Mẹ, Ngài đã lên đường tới sông Giordan. Ngài chờ đợi tới phiên mình. Ngài cũng gục đầu sám hối như bao người. Ngài cảm thấy mình liên đới với con người tội lỗi. Ngài thống hối xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tất cả mọi người. “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian”. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài gánh tội trần gian.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài sống ở Nadarét, vì Ngài không thấy Thiên Chúa muốn Ngài làm điều gì đặc biệt. Với biến cố này, Thiên Chúa thúc đẩy Ngài tới với Gioan để nhận phép rửa sám hối. Sau khi lãnh nhận phép rửa sám hối, Thánh Thần Thiên Chúa đã thúc đẩy Ngài vào sa mạc ăn chay cầu nguyện (Mt.4, 1tt). Ngài cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Đức Giêsu là một người chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, nghĩa là, Ngài cũng chấp nhận “đi tìm ý Thiên Chúa” như tất cả mọi người. Cũng chính trong bầu khí này mà người ta hiểu tại sao Ngài lại bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Ngài làm sai ý của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã chống lại. Đức Giêsu đã chiến thắng.
Đức Giêsu cũng đã phải nhận định xem mình có nên chịu phép rửa hay không, vì Ngài thấy mình đâu có tội lỗi gì để mà phải nhận lãnh phép rửa sám hối. Đức Giêsu đã muốn liên đới với con người, với tội nhân, nên Ngài đã đi nhận lãnh phép rửa. Hành vi này của Ngài, đã được Thiên Chúa chuẩn nhận. “Khi Ngài đang cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim câu. Và có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con’”.
Hành vi Đức Giêsu nhận lãnh phép rửa sám hối, làm đẹp lòng Thiên Chúa. Khiêm tốn, liên đới với người nghèo và người tội lỗi, là cung cách hành xử của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã thực hiện đúng ý Người. Đức Giêsu luôn tìm kiếm ý Thiên Chúa, và một khi thấy thì Ngài thi hành:
Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta (Ga.4, 34),
Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, mà theo ý Cha.
Đức Giêsu luôn tìm kiếm để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Sở dĩ vậy, vì Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người hoàn toàn (Dt.2, 17; 4, 15). Con người không biết nên phải tìm kiếm ý Thiên Chúa, thì cũng vậy Đức Giêsu cũng chia sẻ tính vô tri này của con người, và Ngài cũng phải liên tục tìm biết ý Thiên Chúa.
Khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về chính mình. Đức Giêsu đã nhìn nhận sự thật về chính Ngài, và hơn nữa, Ngài còn tự hạ mình, muốn chia sẻ thân phận của anh em mình vì yêu thương. Hành vi này của Ngài, đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hành vi khiêm tốn, là hành vi chấp nhận sự thật về chính mình, và cũng là hành vi được điều khiển bởi tình yêu. Yêu thương sẵn sàng hy sinh chính mạng sống mình để anh em mình được sống.
Biến cố Đức Giêsu xuất hiện, đã được Giáo Hội nhìn như một biến cố đặc biệt mà Cựu Ước đã loan báo như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; Hỡi kẻ loan tin mừng cho Yêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật lớn … kìa Thiên Chúa các ngươi đang tới”. Nơi Đức Giêsu, người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Chúa đến cách đặc biệt nơi Đức Giêsu.
Biến cố Đức Giêsu cũng đã chi phối và biến đổi đời sống của những người tin Ngài một cách dứt khoát. Đời sống của Kitô hữu phải dọi theo đời sống của chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu luôn chọn ý Thiên Chúa trên tất cả, Ngài luôn yêu thương anh chị em mình. Ngài yêu họ đến độ dám hy sinh chính mạng sống mình cho họ, nói cho họ biết Thiên Chúa yêu thương họ đến cùng khi cho Con Ngài nhập thể, cho dù khi nói như vậy Ngài bị người ta hiểu lầm và giết Ngài. Đức Giêsu là người đã đến sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Xin cho mỗi người chúng ta sống theo gương Ngài, yêu thương và khiêm tốn, để đem hạnh phúc cho những người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
*1. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chịu phép rửa khi Ngài thấy mình không có tội?
*2. “Đức Giêsu cũng đi tìm ý Thiên Chúa như mỗi con người”. Theo bạn, nói như vậy có hạ phẩm giá của Đức Giêsu không? Tại sao?
*3. Bạn thấy Đức Giêsu gần gũi hay xa lạ với bạn? Xin bạn chia sẻ.
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
ĐẤNG GÁNH TỘI TRẦN GIAN- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thánh Gioan, vị ngôn sứ cao cả bậc nhất thời cựu ước, đã từng giới thiệu cho các môn đệ của mình về Chúa Giê-su như sau: “Ngài mạnh thế hơn tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Lc 3, 16), “Ngài là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian, Ngài đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi vì Ngài có trước tôi.” (Ga 1,29-30)
Thánh Gioan còn giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng sẽ cử hành một phép rửa vượt xa phép rửa của Gioan: “Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước. Còn Ngài, Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Chúa Thánh Thần” (Mc 1, 7)
Thế mà Chúa Giê-su lại đến với thánh Gioan như một người tội lỗi, hòa mình với đám đông những người thu thuế, những người đàng điếm, những tên côn đồ đạo tặc và với bao nhiêu người tội lỗi khác, chăm chú nghe Gioan rao giảng và để chờ đến phiên, bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ thánh Gioan làm phép rửa cho mình.
Tại sao Chúa Giê-su lại hạ mình đến thế? Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người, là Đấng hoàn toàn vô tội thì cần gì phải xin Gioan làm phép rửa cho mình?
Phải hiểu thế nào về hành động hạ mình quá đáng nầy của Chúa Giê-su?
Chắc chắn Chúa Giê-su đến chịu phép rửa không phải vì Ngài có tội, nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Ngài đã mang vào thân. Cũng thế, Chúa Giê-su chịu khổ hình thập giá không phải vì tội của Ngài mà vì tội lỗi của thế gian mà Ngài đã gánh lấy. Thánh Gioan đã từng giới thiệu Chúa Giê-su là con “Chiên Thiên Chúa” (Gioan 1, 29) được sai đến trần gian để làm chiên đền tội.
Thời cựu ước, người Do-Thái làm lễ xá tội bằng cách đặt tay lên đầu con bò hay dê, trút hết tội mình cho nó, rồi sát tế nó, để nó chết thay cho người tội lỗi. (Lê-vi 8, 14-20)
Thế nhưng “máu của các con bò, con dê không thể trừ khử được tội lỗi” (Do-thái 10, 4) nên Chúa Giê-su đã hiến mình làm Chiên mới, Con Chiên của Thiên Chúa, đến mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân. Chính vì thế mà Ngài trở thành tội nhân, như lời thánh Phao-lô dạy: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài.” (II Cr 5, 21)
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành “hiện thân của tội lỗi” (II Cr 5, 21), nên Chúa Giê-su hòa mình với những tội nhân khác, liên đới với nhân loại tội lỗi, xin Gioan làm phép rửa cho mình và cùng với bao tội nhân khác tỏ lòng ăn năn sám hối.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành “hiện thân của tội lỗi” nên Chúa Giê-su đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để cứu chuộc loài người tội lỗi, như lời thánh Phê-rô: “Tội lỗi của chúng ta, Ngài mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2, 21-24)
Tuy hoàn toàn vô tội, Chúa Giê-su vẫn mang lấy tội của mỗi người chúng ta nên đã chịu thanh tẩy, chịu khổ nạn và chịu chết vì chúng ta. Còn chúng ta, dù mang nhiều tội lỗi, lại không chịu nhận lỗi và chịu trách nhiệm về tội của mình, mà lại thường đổ lỗi cho người khác, trút trách nhiệm lên đầu người khác!
Lạy Chúa Giê-su,
Hình ảnh Chúa Giê-su vô cùng tốt lành thánh thiện mà lại hòa mình với các tội nhân bên bờ sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa của Gioan là một lời mời gọi mỗi người chúng con phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng tự phụ của mình để biết nhận tội và thành tâm sám hối tội lỗi của mình.
Chúa đã mang lấy tội lỗi chúng con, chịu thanh tẩy và chịu chết vì chúng con thì xin cho chúng con cũng biết thông phần vào công cuộc cứu độ của Chúa và hợp tác với Chúa trong việc cứu chữa các tội nhân.
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
CON YÊU DẤU- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Lễ kính nhớ Đức Giêsu chịu phép rửa, là chúng ta kết thúc mùa Giáng sinh, và bắt đầu với Chúa nhật thứ I mùa Thường Niên. Trong mùa Giáng sinh, chúng ta chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu bé nhỏ nằm trong máng cỏ. Trong mùa Thường Niên, chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệu cứu độ của Đức Kitô, khởi đi bằng việc đồng hành với dân chúng, đến bờ sông Giođan xin Gioan cử hành Phép rửa.
Như vậy, Đức Giêsu đã trải qua 30 năm âm thầm sống trong mái nhà Nazareth. Từ đây, Ngài bắt đầu cuộc đời hoạt công khai rao giảng Tin Mừng, trong công cuộc rao giảng, rất nhiều lần Đức Giêsu dùng nước để bày tỏ quyền năng của Ngài. Chẳng hạn Ngài đã dùng nước để biến thành rượu ngon đem lại niềm vui và hạnh phúc cho đôi tân hôn.
Rõ ràng nước là nhu cầu thiết yếu cho muôn loài thọ sinh. Nước đem lại sự sống cho con người và thanh tẩy mọi sự. Trong dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa dùng nước để thanh tẩy tội lỗi và kiến tạo một nhân loại mới.
Chẳng hạn như câu chuyện lụt Đại Hồng Thủy. Khi nhân loại đắm chìm trong tội lỗi, lúc bấy giờ Chúa cho mưa xuống 40 đêm ngày, Hồng Thủy tiêu diệt tất cả nhân loại tội lỗi xấu xa đó, trừ gia đình ông Noe, được Thiên Chúa tuyển chọn.
Rồi biến cố dân Do thái vượt qua biển Đỏ. Chúa làm cho nước rẽ ra như bức tường hai bên tả hữu, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Khi quân Aicập đuổi theo trong lối đi ấy, thì Chúa cho nước ập lại vùi dập chiến xa và kỵ binh của vua Pharaon không còn tên nào sống sót.
Khi Gioan Tẩy Giả thực hiện sứ mạng, ông kêu gọi dân chúng dọn lòng đón đợi Đấng cứu thế. Lắng nghe lời ông, họ lũ lượt kéo đến bờ sông Giođan, bày tỏ lòng sám hối, xin Gioan làm phép rửa cho họ.
Phép rửa của Gioan là hình ảnh tiên trưng, để sau này Đức Giêsu sẽ rửa chúng ta bằng Máu Thánh của Ngài và trong Chúa Thánh Thần.
Tin mừng thánh Matthiêu ghi lại, lúc Đức Giêsu từ dòng sông Giođan bước lên, đang lúc cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Lúc đó, có tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Đây là mạc khải đầu tiên về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi.
Có thể nói rằng: Tiếng Chúa Cha từ trời phán “Con là con yêu dấu của Cha”. Tiếng nói ấy không chỉ dành riêng cho Đức Giêsu, mà còn cho tất cả những ai khi lãnh nhận Bí tích thanh tẩy đều trở nên con cái Thiên Chúa.
Chi tiết Chúa Thánh Thần ngự xuống mang một ý nghĩa sâu xa, làm chúng ta nhớ lại khởi đầu công trình sáng tạo, Thánh Thần Thiên Chúa bay là là trên mặt nước. Chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới mà sau này Đức Giêsu sẽ thực hiện bằng phép rửa, là điểm khởi đầu công cuộc tái sinh mới trong Chúa Thánh Thần.
Như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi được vén mở từ đây, để rồi sau này, chính Đức Giêsu sẽ còn mặc khải thêm cho các tông đồ, dưới nhiều hình thức khác nhau. Và trước khi Đức Giêsu về trời, Ngài ra lệnh cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Anh chị em thân mến,
Trong kinh Vinh Danh có câu, chỉ có Chúa là Đấng Thánh, ấy thế mà tại sao Đức Giêsu đến xin Gioan làm phép rửa? Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta mới thấy nổi bật lên Đức Giêsu hòa nhập với con người, Ngài muốn liên đới với con người, để rồi khi từ dưới dòng sông Giođan bước lên, Ngài muốn nâng rước họ lên trở thành con cái Thiên Chúa.
Hơn 2.000 năm qua, từ thời các Thánh tông đồ cho đến nay, luôn luôn có những người bước theo gương Đức Giêsu, là đồng cảm với anh em đồng loại.
Chẳng hạn như: Cha Đamiêng tông đồ người hủi, thánh Gioan Thiên Chúa, thánh Gioan Phaolô II, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta… những vị này không ngừng dấn thân vào khắp hang cùng ngõ hẻm, sống chung với những mãnh đời đau thương dập nát, nhất là những anh em nghèo khổ, bất hạnh, những người mà xã hội ít quan tâm, bằng đôi tay nâng đỡ, với con tim rộng mở, để xoa dịu và đem lại niềm vui bình an của Chúa cho họ.
Thế thì hôm nay, hành động của Đức Giêsu hòa mình với dân chúng lãnh nhận phép rửa nơi bờ sông Giođan muốn nói với chúng ta rằng: trong cuộc đời, có những lúc chúng ta gặp thất bại, đau khổ, buồn phiền, cách này cách khác, thì hãy tin rằng: Đức Giêsu vẫn đang đồng hành thiêng liêng, vẫn có mặt trong cuộc đời chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra ơn Chúa nâng đỡ hay không.
Mừng Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa, chúng ta chung lời tạ ơn Chúa vì hồng ân được làm con cái của Chúa. Đồng thời, khi cầu nguyện, chúng ta đừng đến với Chúa một mình, nhưng hãy liên đới với tất cả mọi người, đặc biệt những người bất hạnh, những người đang bị bỏ rơi, những người không có nơi nương tựa. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ họ, giúp họ tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Amen.
CON CHÍ ÁI CỦA CHA- Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn
Việc đầu tiên của Chúa Giêsu trước khi thi hành chức năng rao giảng là đến xin ông Gioan tẩy giả làm phép rửa cho mình.
Khi thấy Chúa Giêsu đến, Gioan ngạc nhiên quá sức và can ngăn Chúa “Chính tôi mới cần đựơc Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi”. Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3,14-15). Cả hai nhân vật trong tin mừng là Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả đều khiêm nhường.
Gioan biết mình không đáng xách dép cho Chúa, chỉ là người giới thiệu, minh chứng về Chúa. Xong nhiệm vụ của mình ông phải rút lui vào bóng tối để cho Chúa phải lớn lên. Nhưng đồng thời phép rửa của ông cũng chỉ là một nghi thức giục lòng ăn năn sám hối chứ không có sức để tha tội. Đức Giêsu là Thiên Chúa vô tội, Thiên Chúa quyền năng nhưng lại dám hạ mình xếp hàng đứng bên cạnh những người có tội bên dòng sông Giođan chờ đến lượt theo thứ tự để được chịu phép rửa. Đức Giêsu hoà mình bình thường đến nỗi không ai nhận ra Ngài đang đứng bên cạnh mình. Có ai ngờ một đấng thánh thiện vô tội, cao cả lại đang đứng bên cạnh mình?
Sứ mệnh của Chúa Giêsu đến trần gian: cứu con người khỏi đau khổ, khỏi tội lỗi, khỏi chết đời đời. Không ai có thể làm được điều này. Để làm công việc này, Chúa Giêsu đã phải từ bỏ ngai vàng vinh quang là Thiên Chúa, bỏ trời cao, quên địa vị cao sang sống địa vị thấp hèn nhất trong xã hội loài người qua biến cố giáng sinh. Rồi Ngài lại tiếp tục hành trình qua từng giai đoạn, từng bước trong cuộc đời: cũng giữ mọi luật lệ, tập tục đạo đời, chịu chi phối bởi mọi định luật tự nhiên. Đặc biệt hôm nay, Chúa Giêsu đã bước xuống dòng sông Giođan. Theo tiếng Do thái, ‘Jarad’ nghĩa là đi xuống, vì đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Dòng sông bắt nguồn từ độ cao trên núi 520m đến chỗ sâu nhất dưới mực nước biển là 394m. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Chúa Giêsu chịu phép rửa ở chỗ này. Ngài đã xuống thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Ngài bước xuống tận chiều sâu của thân phận tội lỗi loài người để cảm nghiệm được sức nặng nề, đau đớn của tội nhân. Vì thế, chính nơi đây, Gioan đã giới thiệu về Đức Giêsu rằng ‘đây là Chiên Thiên Chúa, đây là đấng xoá bỏ tội trần gian’ (Ga 1,29). Nhưng cũng chính nơi đây, sau những lời giới thiệu của Gioan thì Đức Giêsu không cần người khác, nhân vật khác làm chứng hướng dẫn nữa mà chính Thiên Chúa Cha giới thiệu ‘đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người’. Đồng thời Chúa Thánh Thần xuất hiện giống hình chim bồ câu xác nhận điều đó.
Sự xuất hiện một lúc ba ngôi Thiên Chúa lần đầu tiên cho thấy địa vị, vai trò đặc biệt của Đức Giêsu hơn hẳn Gioan tiền hô, hơn hẳn các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo khác trên trần gian.
Với lễ Đức Giêsu chịu phép rửa chấm dứt mùa giáng sinh, bắt đầu mùa thường niên. Chấm dứt gian đoạn 30 năm sống âm thầm ở quê nhà Nagiarét; Đức Giêsu chính thức hoạt động công khai để cứu độ con người với danh hiệu là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật.
Sự tỏ mình của Đức Giêsu ngày càng rõ bao nhiêu thì đức tính khiêm nhường của Chúa càng nổi rõ hơn bấy nhiêu. Đó chính là bản chất của Thiên Chúa ‘nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi’.
Tất cả những gì xưa nay các ngôn sứ thời Cựu ước loan báo về Đức Giêsu nay được ứng nghiệm dần dần. Quả thật Đức Giê su đến không phải để bãi bỏ lề luật, bãi bỏ những cái cũ, nhưng là để kiện toàn, làm cho nó mới mẻ hơn. Chính Đức Giê su đã xác nhận điều đó. Vì thế Ngài không huỷ bỏ phép rửa của Gioan là nghi thức của thời cựu ước, ngược lại Ngài đón nhận lại còn mặc cho nó một ý nghĩa mới trong phép rửa tội mà Ngài sẽ lập sau. Hơn nữa, Chúa còn mặc khải cho các môn đệ biết phép rửa là cái chết của Chúa khi Ngài nói: ‘Thầy còn phải chịu một phép rửa và thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất”(Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi họ đến xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Chúa rằng: “các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu phép thánh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc10,38). Phép rửa đó chính là cái chết của Chúa, là đỉnh cao cuả sự hạ mình tột cùng của Chúa Giêsu.
Như vậy ý nghĩa trọn vẹn của phép rửa và sự khiêm nhường của Đức Giêsu được gặp thấy nơi cái chết của Ngài trên thập giá.
Mỗi người kitô hữu đã được chịu phép rửa tội là có một mối liên hệ hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô và giao hội. Nghĩa là đều có chung một cảm nghĩ, lời nói và cách cư xử như Chúa. Xa hơn là cùng sống thân phận con người phải chết do hậu quả cuả tội nguyên tổ. Bởi vậy chúng ta không đứng ngoài sự liên đới với người khác mà phải đồng hành cùng với nhân loại trong dòng chảy của những tập tục, truyền thống, lễ nghi, văn hoá,…để thánh hoá, biến đổi, thăng hoa và làm hoàn hảo những giá trị này theo tinh thần của Chúa.
Chúng ta không được đứng ngoài trật tự của đời sống cộng đoàn mà phải hoà nhập trong tinh thần khiêm tốn, lịch sự để nâng đỡ nhau trong tinh thần của người con cái Chúa. Chúng ta không được phép gạt bỏ một cộng đoàn, giáo hội chỉ vì một chút truyền thống, nề nếp cũ kỹ; không được phép loại trừ một con người chỉ vì một chút khuyết điểm, ngược lại phải đón nhận để sửa chữa, đổi mới, canh tân theo cách hành xử của Chúa.
Người kitô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội cũng là cuộc vượt qua từ sự chết đến sự sống. Chết với Chúa Kitô và sống lại với Người. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “anh em không biết rằng khi ta được dìm vào nươc thánh tẩy để thuộc về Đức Giêsu Kitô là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Bởi thế cũng như Người đã sống lại từ cõi chết thì chúng ta cũng sống một đời sống mới”(Rm 6,4-5).
Nơi Đức Giêsu phép rửa không còn là một nghi thức mà đã trở thành cuộc sống. Tội lỗi bị đánh bại không phải bằng nước mà là bằng máu của sự sống. Bí tích rửa tội của người kitô hữu không phải lãnh nhận một lần rồi thôi mà chính là cả cuộc sống phải tích cực đẩy lui tội lỗi mỗi ngày. Người kitô hữu phải có trách nhiệm làm sao để tiếng từ trời cao cũng lặp lại với mỗi người chúng ta: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”(Mc 1,11). Đặc biệt trong năm đức tin, các bậc làm cha mẹ phải ý thức sâu xa hơn về vai trò của mình là giáo dục con cái mình sống trọn vẹn ơn đã lãnh nhận qua bí tích rửa tội và đào tạo con cái thành những người con đẹp lòng Chúa Cha.
CHÚA NHẬT CHÚA CHỊU PHÉP RỬA
CHÚA GÁNH LẤY TÔI CON– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người sống là để yêu. Tình yêu là lẽ sống của con người. Là người ai cũng biết yêu, biết đón nhận tình yêu, biết thi thố tình yêu.
Thế nên, Xuân Diệu đã từng nói rằng:
“Đố ai sống được mà không yêu,
Không nhớ không thương một kẻ nào”
Nhưng tình yêu cũng có trăm ngàn lối thể hiện. Và “con tim luôn có lý lẽ riêng”. Phải chăng khi yêu người ta thường mù quáng? Vâng, khi đã hành động vì yêu người ta không còn những toan tính thiệt hơn. Khi đã vì yêu người ta dám xả thân, bất chấp mọi hiểm nguy miễn sao thể hiện tình yêu. Tình yêu với gia đình, với tổ quốc, với đồng loại luôn làm cho con người nên cao thượng hơn. Vì những tình yêu này mà biết bao người đã can đảm hy sinh để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Có một nhà Truyền giáo, tình cờ thấy một người đàn ông đang chăm sóc một ngôi mộ cũ và trang điểm bằng những bông hoa đẹp. Nghĩ rằng mình có thể an ủi ông ta đôi lời, nên vị Truyền đạo bắt chuyện: “Người quá cố là thế nào với anh vậy?” Sau giây phút im lặng, người đàn ông tâm sự: “Người nằm nơi đây đã chết thế cho tôi. Khi cuộc nội chiến xảy ra, tên tôi có trong danh sách ra trận. Nhưng tôi đã có vợ và bốn đứa con, cả gia đình đều trông cậy vào tôi. Người thanh niên ở cạnh nhà đã tình nguyện đi lính thế cho tôi – điều nầy được cho phép trong luật nội chiến… Anh ta ra trận và đã hy sinh trong một trận đánh. Sau đó, cha anh mất, mẹ anh trở thành góa phụ, chúng tôi đưa bà về sống với gia đình tôi, và phụng dưỡng bà như là mẹ ruột của mình. Anh ta chết thay cho tôi, để tôi được sống.”
Có lẽ, người để lại dấu ấn nơi ta nhất chính là người dám hy sinh cho ta. Họ dám đánh đổi cả sự sống mình để cho chúng ta được sống hạnh phúc. Họ có thể là cha mẹ, là anh em, là bạn bè của chúng ta. Họ chính là ân nhân của chúng ta vì những sự hy sinh mà họ đã làm cho chúng ta. Có lẽ ta sẽ mang ơn họ suốt đời. Ta sẽ nguyện phục vụ họ suốt đời vì tất cả những điều tốt đẹp họ đã làm cho chúng ta.
Có một người đã đền tội thay cho chúng ta. Ngài đã chết để đền tội cho cả nhân loại. Ngài đã đi đến tận cùng của lời yêu thương là “chết cho người mình yêu”. Nhưng có mấy ai đã thề nguyện phục vụ Ngài suốt đời? Có mấy ai đã tự nguyện đền đáp ân tình Ngài?
Thực vậy, Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8). Ngài đã tự nguyện gánh lên vai mình tội lỗi toàn dân. Ngài tự nguyện là Con Chiên chịu sát tế đền thay cho tội lỗi nhân gian.
Hôm nay, Chúa đến dòng sông Giordan. Ngài hoà mình trong đám đông nhân loại tội lỗi. Ngài vô tội mà vẫn cúi mình nhận tội như bao tội nhân. Ngài khiêm cung nhận lấy tội lỗi nhân gian để một ngày kia Ngài sẽ đền thay cho tội cả loài người qua cái chết thập tự giá.
Xin cho chúng ta luôn biết nhận ra hồng ân làm con cái Chúa là nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu để hết lòng tạ ơn Chúa.
Xin cho chúng ta luôn nhận ra mình là tội nhân đã được chính Chúa Giêsu vẫn hiến tế mỗi ngày đền thay tội lỗi chúng ta để biết sống sám hối từng ngày.
Xin cho chúng ta cũng biết hiến tế chính cuộc đời mình làm của lễ đẹp lòng Chúa qua những hy sinh, những từ bỏ tội lỗi, những nỗ lực canh tân đời sống hằng ngày nên tốt hơn.
Xin Chúa là Đấng đã chết vì người tội lỗi xin thương cứu chuộc con người thấp hèn của chúng ta. Amen.