CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
KHIÊM NHƯỜNG TRONG CẦU NGUYỆN VÀ ĐỜI SỐNG– Lm. Đan Vinh 6
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM NHƯỜNG (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 17
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM TỐN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 28
NÂNG LÊN VÀ HẠ XUỐNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 41
XIN XÓT THƯƠNG CON– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 62
ĐẤM NGỰC CẦU NGUYỆN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 65
KHIÊM NHƯỜNG CẦU NGUYỆN– Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng. 70
CẦU NGUYỆN LÀ HIỆP THÔNG VỚI THIÊN CHÚA– Lm. Bùi Mạnh Tín 74
AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP 77
TÔN LÊN, HẠ XUỐNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 84
TIN MỪNG CHO KẺ KHỐN CÙNG– Trích Logos C.. 90
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Lời cầu nguyện của người khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”.
Trích sách Huấn Ca.
Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van.
Nỗi hồn đắng cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Ðấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 17-18. 19 và 28
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Xướng: Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo.
Xướng: Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi.
Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 16-18
“Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện.
Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh quang muôn đời! Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 9-14
“Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi’. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
KHIÊM NHƯỜNG TRONG CẦU NGUYỆN VÀ ĐỜI SỐNG– Lm. Đan Vinh
*I.HỌC LỜI CHÚA
*1. TIN MỪNG: Lc 18,9-14
(9) Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: (10) “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế”. (11) Người Pha-ri-sêu đứng riêng một mình cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. (12) Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. (13) Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. (14) Tôi nói cho các ông biết: Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi. Còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
*2. Ý CHÍNH:
Nhằm dạy bài học khiêm nhường, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện. Trong đó người Pha-ri-sêu đã kiêu ngạo khi cầu nguyện chỉ trích tha nhân và tự đề cao bản thân. Đang khi người thu thuế khiêm tốn xin Chúa tha tội và chỉ biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng Đức Giê-su kết luận: người Pha-ri-sêu kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống, còn người thu thuế khiêm hạ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh.
*3. CHÚ THÍCH:
– C 9-10: + Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Đền thờ là nơi người Do thái cầu nguyện. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào các ngày Sa-bát, ngày Lễ, ngày Chay… để nghe đọc Thánh kinh, hát Thánh vịnh và cầu nguyện chung. Tuy nhiên mọi người đều có thể vào Đền Thờ cầu nguyện riêng khi mở cửa. +Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu: Đây là nhóm người tự tách mình ra khỏi quần chúng. Họ giữ Luật cặn kẽ chi tiết và thường tự hào cho mình là công chính. Tuy nhiên họ làm mọi điều tốt nhằm tìm tiếng khen hơn là vì lòng mến Chúa thực sự. Vì thế họ cố tình đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được chào hỏi ở nơi công cộng và muốn được dân chúng xưng hô là “Thầy” (Ráp-bi) (x. Mt 23,5-7). +Còn người kia làm nghề thu thuế: Đây là hạng người bị dân chúng đồng hóa với những kẻ tội lỗi và bị khinh dể xa lánh, vì đã cộng tác với chính quyền Rô-ma. Đồng thời còn tham lam, thường ăn chặn tiền thu thuế của người dân đóng góp để làm giàu cách bất chính.
– C 11-12: + Người Pha-ri-sêu đứng riêng một mình…: Pha-ri-sêu có nghĩa là tách biệt. Ở đây người Pha-ri-sêu đã tự tách ra khỏi những người Do thái khác khi đến cầu nguyện tại Đền thờ. + Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia…: Người Pha-ri-sêu này đã cầu nguyện phê phán người khác về các tội cụ thể như tham lam, bất công, ngoại tình hay tội làm đầy tớ cho ngoại bang như người thu thuế đang đứng cuối Đền thờ. + Con ăn chay mỗi tuần hai lần: Luật chỉ buộc người Do thái ăn chay vào lễ Xá Tội tức là ngày 10 tháng 7 hàng năm (x. Lv 16,29). Tuy nhiên, mỗi tuần những người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm hai ngày khác là thứ Hai và thứ Năm, và họ hãnh diện nghĩ mình đạo đức hơn người khác về việc này (x. Lc 5,33). + Con dâng cho Chúa một phần mưới thu nhập của con: Người Do thái công nhận Thiên Chúa đã ban lương thực cho mình, nên họ bày tỏ lòng biết ơn bằng việc dâng lên Chúa những hoa quả đầu mùa. Luật qui định phải nộp thuế “thập phân” (một phần mười), đánh trên các hoa màu như lúa mì, rượu mới, dầu tươi và cả những con vật đầu lòng trong đàn bò và chiên dê (x. Đnl 14,22-23). Ngoài ra họ còn tình nguyện nộp thêm phần thuế về các thứ rau quả khác nữa (x. Lc 11,42). Tóm lại, người Pha-ri-sêu này lên Đền thờ không phải để xin Chúa tha tội mà để khoe với Chúa về những điều tốt ông ta đã làm được hơn người khác để đòi Chúa phải trả công cho mình.
– C 13-14): + Còn người thu thuế thì đứng đàng xa…: Người thu thuế chỉ biết thú nhận những tội lỗi đã phạm. Ông cảm thấy xấu hổ nên không dám đến gần gian thánh, đứng cúi mình trước bàn thờ không dám đứng thẳng như người Pha-ri-sêu. + Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi: Ong ta chỉ biết đấm ngực ăn năn về các tội lỗi đã phạm và xin Chúa tha thứ tội lỗi như lời Thánh vịnh 50 của vua Đa-vít. Chính nhờ thái độ khiêm tốn ấy mà ông đã được Chúa ban ơn cứu độ. + Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Câu này đã có ở Lc 14,11 và được Lu-ca thêm vào đây để kêu gọi người ta sống khiêm tốn dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Vì trong lịch sử Ít-ra-en, Đức Chúa thường hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu (x. Lc 1,25).
*4. CÂU HỎI: 1) Phân biệt lối sống của người Pha-ri-sêu (Biệt phái) và người thu thuế thời Đức Giê-su giống và khác nhau thế nào ? 2) Lời người Pha-ri-sêu cầu nguyện trong Tin Mừng hôm nay có đẹp lòng Chúa không ? Tại sao ? 3) Lý do khiến Đức Giê-su tỏ lòng khoan dung nhân hậu với người thu thuế tội lỗi, và nghiêm khắc với người Pha-ri-sêu là gì ?
*II.SỐNG LỜI CHÚA
*1.LỜI CHÚA: Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
*2. CÂU CHUYỆN: TẠI SAO MA QUỶ KHÔNG ĐƯỢC CHÚA THỨ THA ?
Một hôm có một tên quỷ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng: “Tôi thấy Chúa đối xử không công bằng chút nào!”. Chúa liền hỏi nó: “Tại sao ngươi lại dám bảo Ta đối xử không công bằng ?” Bấy giờ tên quỷ kia mới đáp: “Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội lỗi lớn lao, và chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban cho chúng hạnh phúc thiên đang đời đời. Còn chúng tôi chỉ phạm tội một lần duy nhất. Thế mà Chúa không những không tha mà còn phạt chúng tôi phải sa hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đã thiên vị và bất công lắm sao ?” Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói với tên quỷ rằng: “Loài người có phạm tội không vâng lời Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã sai phạm nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều hồi tâm sám hối và khiêm tốn chạy đến xin Ta tha cho. Còn lũ quỷ các ngươi, có bao giờ các ngươi chịu hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội hay chưa ?” Nghe thấy Chúa đòi hỏi phải ăn năn sám hối và cầu xin tha tội, tên quỷ liền thét lên rằng: “Lòai quỷ chúng ta không đời nào lại hèn hạ ăn năn sám hối và cũng không cần phải xin ai tha tội cả”. Nói thế rồi quỷ liền cong đuôi chạy mất.
*3. SUY NIỆM:
Khi nghe Đức Giê-su kết luận người thu thuế tội lỗi ra về được nên công chính, còn người biệt phái nhiều công đức thì không, chắc hẳn nhiều người hiện diện phải ngạc nhiên. Vì người biệt phái xem ra là người mẫu mực trong việc tuân giữ Lề Luật và không phạm phải các tội xấu xa. Ông ta còn làm nhiều hơn Luật dạy khi tự nguyện ăn chay và bố thí. Vậy tại sao Đức Giê-su lại không chấp nhận lời cầu của ông ta ? Tại sao Chúa lại ưu ái người thu thuế tội lỗi, ngay khi anh ta chưa từ bỏ cái nghề tồi tệ đó, và không đả động đến việc đền bù các thiệt hại đã gây ra cho tha nhân ? Chúng ta cân làm gì để diệt trừ thói kiêu ngạo tự ái cao và thực tập khiêm nhường phục vụ ?
*1.Nguyên nhân lời cầu của người biệt phái không được chấp nhận:
-Chúng ta phải thừa nhận rằng: Người biệt phái đây là một người tốt, một tín hữu trung thành với Lề Luật. Chỉ tiếc một điều là do tính tự mãn mà bao nhiêu việc tốt anh làm đươc đã bị trôi ra sông ra biển hết. Do cái tôi quá to, nên anh chỉ thấy con người của mình mà không thấy Chúa. Anh coi thành quả đạt được là do tài đức cá nhân, chứ không do ơn Chúa giúp. Giá như anh biết đối chiếu với cuộc đời Đức Giê-su, thì có lẽ anh đã nhận ra sự thiếu sót lớn lao của mình, để không dam khinh thường người khác, và sẽ biết cầu xin lòng khoan dung tha thứ của Chúa.
-Lời cầu nguyện của người biệt phái không được chấp nhận là do anh ta đã “đứng riêng một mình” và cầu nguyện to tiếng với nội dung khinh thường người khác và đề cao bản thân để xin Thiên Chúa trả công cho anh: “Con xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần. Con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc, 8,11).
-Tuy nhiên, con người “nhân vô thập toàn”: Người biệt phái cũng có các tội như: tự mãn, kiêu căng, khinh thường người khác… Nhưng anh ta lại không ý thức về các tội đó. Anh ta không nhận ra mình cũng là tội nhân như người thu thuế mà anh khinh thường. Anh đã không nhận ra sự công chính là do ơn Chúa ban như thánh Phao-lô dạy : “Tôi được như vậy không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do Luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3,9). Chính do tự mãn kiêu ngạo mà anh bị mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
*2. Nguyên nhân người thu thuế được Chúa xót thương:
-Người thu thuế cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình, nên chỉ dám đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa với Chúa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Anh ta cảm thấy bất lực hoàn toàn, chỉ biết phó thác cho lòng Chúa thương xót. Chính nhờ tâm tình ấy mà Chúa đã đoái thương nhìn đến anh và ban ơn thánh giúp anh hoán cải nên công chính.
-Thái độ khiêm cung và lời cầu nguyện sám hối của anh thu thuế cho thấy anh đã mở cửa lòng đón Chúa. Chúa đã vào nhà linh hồn anh ban ơn tha thứ và biến đổi anh nên công chính đẹp lòng Thiên Chúa. Người thu thuế đã ý thức về tình trạng tội lỗi của mình, nên không dám ngước mắt nhìn lên Chúa, chỉ biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót của Chúa. Nhờ đó, anh đã nên công chính như lời Đức Giê-su: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
*3. Chúng ta phải làm gì ?
-Cần tránh lối cầu nguyện biệt phái: Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ tự mãn như người biệt phái xưa đã thưa với Chúa rằng: “Xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác”. Nhiều lần chúng ta đã đổ tội cho người khác hơn là khiêm tốn nhận tội như lời kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhiều lần trong tòa xá giải chúng ta đã dài dòng kể tội của người thân trong gia đình hay tội của người hàng xóm đã phạm đến mình, đang khi lẽ ra phải khiêm nhường xưng thú tội lỗi mình đã phạm để cầu xin Chúa tha thứ.
-Cần tập cầu nguyện khiêm hạ như người thu thuê: Người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay đã bày tỏ thiện chí và muốn được ơn thứ tha bằng việc lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy nhiên, anh cũng ý thức các tội lỗi của mình khó được Chúa tha, vì theo Luật Mô-sê: một người lỗi phép công bình muốn được tha thì trước hết phải thanh toán hết số nợ. Ngoài ra còn phải bồi thường thiệt hại cho chủ nợ thêm 1/5 nữa. Anh thu thuế này không có khả năng làm như thế. Dù vậy, anh đã không tuyệt vọng, mà đã biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Noi gương tác giả Thánh vịnh 50, anh đã nài xin Chúa như sau : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Vì vậy anh đã nhận được ơn tha thứ để nên công chính (x. Lc 18,14).
-Cần tránh thói kiêu căng tự mãn: Kiêu ngạo là thói xấu đứng đầu và hầu như mọi người chúng ta đều ít nhiều mắc phải. Đây là thói xấu nguy hiểm nhất và là mẹ phát sinh ra các thói hư khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm thay thế Thiên Chúa. Anh muốn mọi người phải quan tâm phục vụ mình và luôn tạo ra hàng rào tách biệt với tha nhân… Kiêu ngạo phát sinh ra tự ái tự cao và dễ nổi giận khi có ai dám chê trách nói chạm đến mình. Đây cũng là thói xấu thâm căn khó chừa cải nhât. Tuy nhiên kinh “Cải tội bảy mối” cũng cho chúng ta một phương thế hữu hiệu để diệt trừ được thói hư này như sau: “thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Như vậy muốn loại trừ thói kiêu ngạo thì cần xin Chúa giúp thực tập đức khiêm nhường.
-Cần thực tập đức tính khiêm nhương phục vụ: Ai trong chúng ta cũng đều yêu thích người khiêm tốn, nhưng rất ít người có được nhân đức này. Thực ra khiêm nhường là can đảm nhìn thẳng vào con người thật của mình. Khổng Tử đã nói: “Cái gì biết thì nói biết, cái gì không biết thì nói không biết, đó mới thật là biết vậy”. Khiêm nhường tự hạ, quên mình phục vụ luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức sẽ gia tăng giá trị lên gấp bội nếu kèm theo đức khiêm nhường. Cũng như những số 0 (số không) dù nhiều tới đâu cũng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bằng một con số như số 1 chẳng hạn, thì lập tức những số 0 kia sẽ tăng giá trị gấp 10 lần. Cần tập khiêm nhường băng cách tránh khoe khoang các ưu điểm thành tích của mình và rộng rãi nói lời động viên khen ngợi tha nhân. Cần luôn ý thức mình là người phục vụ và hay nói với người khác: “Tôi có thể giúp gì được cho bạn ?” rồi sau đó phục vụ họ cách chân thành và vô vụ lợi.
*4. THẢO LUẬN: 1) Khi được người khác khen một ưu điểm có thật, bạn thường phản ứng thế nào để thực hành nhân đức khiêm nhường noi gương Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a trong Tin Mừng (x. Lc 1,45-49) ? 2) Bạn đã bao giờ khen người dưới khi thấy họ làm được việc tốt chưa ? 3) Khi biết một người phạm một tội có hại cho tập thể, bạn sẽ làm gì: Giữ im lặng để tránh rắc rối hay lên tiếng để giúp họ sửa lỗi ?
*5. NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA CHA TỪ ÁI. Trước Thánh Nhan Cha, chúng con chỉ còn biết noi gương người thu thuế mà thưa với Cha rằng: “Lạy Cha, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Thật vậy, đối với Cha, chúng con chỉ là hư không. Những việc tốt chúng con làm được cho Cha, xét cho cùng đều nhờ ơn Cha ban, và đòi chúng con phải dâng lời tạ ơn Cha.
– LẠY CHA. Xin giúp chúng con ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Xin giúp chúng con tránh thói kiêu căng tự mãn của người biệt phái. Xin cho chúng con biết tôn trọng mọi người và không bao giờ dám tự mãn khoe khoang thành tích đã làm. Xin cho chúng con biết luôn cảm tạ Cha về những ơn lành của Cha. Xin cho cuộc sống của chúng con trở thành bài ca tạ ơn: khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi khỏe mạnh cũng như lúc đau ốm… Vì chúng con biết rằng mọi sự Cha để xảy đến cho chúng con đều là hồng ân của Cha và đều đem lại ích lợi cho phần rỗi đời đời của chúng con.
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM NHƯỜNG (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm C ca ngợi tấm lòng khiêm hạ trong cầu nguyện.
Hc 35: 15b-17, 20-22a
Bài Đọc I, trích từ sách Huấn Ca của hiền nhân Si-rác, ca ngợi lời cầu nguyện của những người khiêm hạ và những người nghèo; lời cầu nguyện của họ được Chúa lắng nghe và đón nhận.
2Tm 4: 6-8, 16-18
Những lời vĩnh biệt của thánh Phao-lô là bài ca khải hoàn và tâm tình cảm tạ tri ân. Lời cầu nguyện sau cùng của thánh nhân là chúc tụng Thiên Chúa.
Lc 18: 9-14
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn nổi tiếng về người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Người Pha-ri-sêu cầu nguyện với thái độ tự mãn; còn người thu thuế cầu nguyện với tấm lòng khiêm hạ, ông ta nhận ra mình là tội nhân: lời cầu nguyện này được Chúa đoái thương và ban ơn công chính hóa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
BÀI ĐỌC I (Hc 35: 15b-17, 20-22a)
Ông Si-rác là một hiền nhân Do thái sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Vào thời kỳ này, kể từ sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê, nền văn hóa Hy-lạp đã ảnh hưởng đến tận miền Pa-lét-tin. Giới quý tộc và tư tế Giê-ru-sa-lem đã mở rộng vòng tay đón nhận văn hóa Hy-lạp. Ông Si-rác không ác cảm với nền văn hóa này, nếu như Do thái giáo không đánh mất đi căn tính của mình. Chính vì để bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông mà ông đã soạn thảo tác phẩm của mình. Ông tỏ ra là người bênh vực nhiệt thành Lề Luật, nền tảng cốt yếu của Do thái giáo, nhưng là Lề Luật mà ở đó những yêu sách luân lý (công bình, đức hạnh, tình thương, vân vân) cũng phải đòi buộc tuân giữ. Tác phẩm của Si-rác bộc lộ tâm tình tôn giáo tinh tế và bày tỏ nỗi bận lòng đến đức hạnh cá nhân với những điểm nhấn mới.
*1.Cách thức phụng tự làm đẹp lòng Thiên Chúa:
Đoạn văn hôm nay được trích từ một trong những chương tiêu biểu nhất của sách Huấn Ca, chương 35, một trong những đỉnh cao của tác phẩm – ở đó tác giả định nghĩa phẩm chất của việc phụng tự chân thật được Thiên Chúa đoái thương chấp nhận:
“Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa,chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội” (35: 3)
hay: “Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu.Đừng ỷ vào hy lễ bất chính.Vì Đức Chúa là Đấng xét xử,Người chẳng thiên vị ai.Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn,nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức” (35: 11-13).
*2.Lời cầu nguyện của những người khiêm hạ:
Người nghèo hèn trong xứ, kẻ bị áp bức, cô nhi quả phụ đó là tất cả những người mà Cựu Ước gọi là “những người nghèo của Đức Chúa”, những người không có của cải nào khác ngoài một lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và gặp thấy ở nơi Ngài là Đấng bênh vực họ:
“Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm.Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa được an lòng.Họ sẽ không rời đi bao lâu Đấng Tối Cao chưa đoái nhìn,chưa xét xử cho người chính trực và thi hành công lý” (Hc 35: 17-18).
Lòng kính trọng mà ông Si-rác dành cho những người phận nhỏ này xem ra rập theo khuôn mẫu của truyền thống, như chúng ta đọc thấy trong các thánh vịnh, tại các ngôn sứ. Như chúng ta biết, lời cầu nguyện chiếm lấy một chỗ quan trọng trong tác phẩm của bậc hiền nhân này. Ông ca ngợi lời cầu nguyện hết lời. Ông dừng lại những luận bàn của mình để sáng tác lời cầu nguyện của riêng mình. Ông đã thích cầu nguyện từ thời thơ ấu; chính nhờ cầu nguyện mà ông đã gặp thấy sự khôn ngoan.
Ông Si-rác đưa những người nghèo và những kẻ bất hạnh ra làm mẫu gương, không vì cảm thương số phận của họ cho bằng ca ngợi giá trị lời cầu nguyện của họ. Lời cầu nguyện của họ chỉ là lời cầu nguyện đơn thuần, trơ trụi, không có hiến lễ ngoạn mục nào đi kèm theo. Vì thế, lời cầu nguyện của họ chạm đến tấm lòng của Thiên Chúa, động lòng trắc ẩn của Ngài.
BÀI ĐỌC II (2Tm 4: 6-9, 16-18)
Đoạn cuối thư thứ hai gởi ông Ti-mô-thê là bản văn cảm động nhất trong số các thư của thánh Phao-lô. Đây là những lời trăn trối sau cùng của người sắp chờ đợi nhận lãnh phúc tử đạo, ấy vậy, những lời vĩnh biệt này lại vang lên khúc ca khải hoàn.
Thánh Phao-lô khảo sát hiện tại một cách nghiêm túc: thánh nhân sắp đổ máu ra làm của lễ. Thánh nhân khảo sát quá khứ với sự sáng suốt: ngài đã kiên vững trong đức tin và đã hoàn thành sứ mạng mà Ngài đã chịu thương chịu khó cho đến cùng. Thánh nhân khảo sát tương lai với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào sự công chính của Thiên Chúa và vào lời hứa vinh quang bất diệt của Nước Trời.
*1.Hiến Lễ:
Trong các hy lễ của người Do thái cũng như của dân ngoại, người ta đổ dầu hay rượu trên tế vật trước khi hiến tế, như trong Xh 29: 40 hay trong Ds 28: 7. Thánh Phao-lô dâng hiến đời mình thành hy lễ và máu của mình sẽ đổ ra làm rượu tế.
Trước đây, khi còn bị giam cầm có thể ở Ê-phê-xô, và không biết số phận dành cho ngài, thánh nhân gợi lên cho các tín hữu Phi-líp-phê, theo cùng những từ ngữ, tình huống là ngài có thể bị án tử: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em…” (Pl 2: 17).
Thánh Phao-lô sẽ đổ máu mình, nhưng từ lâu ngài đã dâng hiến đời mình làm hy lễ rồi, như ngài đã khuyên nhũ mọi người Ki-tô hữu: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhũ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12: 1).
*2. Bài ca khải hoàn:
Phúc tử đạo này thánh nhân chờ đợi một cách nghiêm túc sẽ là giờ ngài phải ra đi. Thánh nhân gợi ra cái chết của ngài với cung điệu khải hoàn, như người lính chiến đã chiến thắng quân thù, như vận động viên đã dành được vòng nguyệt quế, như người Ki-tô hữu vẫn một mực trung tín cho đến hơi thở cuối cùng: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”.
Thánh Phao-lô nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ trao phần thưởng cho ngài, vào Ngày Quanh Lâm, tức là vào ngày phán xét, và cùng với ngài, cho tất cả những ai đã hết lòng mong đợi Triều Đại Thiên Chúa. Ở phần cuối đoạn văn này, thánh nhân suy nghĩ thêm nữa đến số phận của chính ngài: “Chúa sẽ cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”.
*3. Tâm tình cảm tạ và tri ân:
Phần thứ hai của đoạn trích hôm nay mang giọng điệu đượm buồn. Thánh Phao-lô chứng thực rằng các bạn đồng hành xưa kia đã bỏ mặc thánh nhân. Không ai trong họ, kể cả các Ki-tô hữu Rô-ma, đến bênh vực thánh nhân, vào lúc thánh nhân bị điệu ra trước tòa lần đầu tiên. Như Chúa Ki-tô trong cuộc khổ nạn của Ngài, thánh nhân bị bỏ mặc; cũng như Chúa Ki-tô, thánh nhân tha thứ: “Xin Chúa đừng chấp họ”. Hành vi cảm tạ tri ân theo liền sau những giọng điệu buồn phiền. Thánh nhân trông cậy mọi sự vào Chúa. Trong suốt sứ vụ tông đồ của ngài, thánh nhân đã nương tựa vào Chúa. Thánh nhân đã thoát khỏi mọi nanh vuốt sư tử nhờ Chúa bảo vệ che chở; ngài đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn phù trợ của Chúa trong những giờ phút sắp đến. Và rồi thánh nhân xướng lên bài thánh thi của những người được tuyển chọn: “Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời”.
TIN MỪNG (Lc 18: 9-14)
Đây là dụ ngôn riêng của thánh Lu-ca, một hạt ngọc được đẻo gọt rất tinh xảo. Thánh Lu-ca họa nên chân dung người Pha-ri-sêu vênh vang tự đắc, còn thánh Mát-thêu thì đã kích kịch liệt hạng người này.
Người Pha-ri-sêu, theo nguyên ngữ Do thái có nghĩa “Biệt Phái”, là một bè phái của những người Do thái trí thức và chính thống. Họ tự tách biệt mình khỏi đám đông bởi kiến thức Kinh Thánh và việc tuân giữ Lề Luật nghiêm nhặt của họ. Tuy nhiên, họ biết kết hợp duy luật với tinh thần cởi mở, chấp nhận những sự phong phú của truyền khẩu (trái với nhóm Xa-đốc). Theo thánh Lu-ca, vài người Pha-ri-sêu, thậm chí những bậc vị vọng, đã mời Chúa Giê-su dùng bữa tại nhà họ. Sự kiện này phù hợp với thực tại lịch sử, được sách Công Vụ củng cố khi tường thuật việc một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên, lên tiếng can thiệp cho các tông đồ trong phiên xử của Thượng Hội Đồng (Cv 5: 34-39).
*1. Lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu:
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác… Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Người Pha-ri-sêu này tiêu biểu những người Pha-ri-sêu tự cho mình là đạo đức bằng việc tuân giữ nghiêm nhặt chẳng những những đòi buộc của Lề Luật, thậm chí còn hơn thế nữa. Ví dụ như Lề Luật chỉ buộc mỗi năm ăn chay chỉ một ngày, vào ngày lễ Xá Tội, họ còn sốt sáng ăn chay một tuần hai ngày vào ngày thứ ba và thứ năm. Vì thế, họ tự xem mình là người công chính và coi thường những người khác.
Người Pha-ri-sêu mà dụ ngôn miêu tả chân dung của ông ở nơi lời cầu nguyện này rất tương xứng với những gì mà thánh Phao-lô nói về con người Pha-ri-sêu xưa kia của ngài và con người Ki-tô hữu ngày nay của thánh nhân: “Nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi. Vì Người mà tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3: 6-8).
*2. Lời cầu nguyện của người thu thuế:
Những người thu thuế là những viên chức nhà nước được chính quyền Rô-ma ủy nhiệm thu thuế dân Do thái ở miền Pa-lét-tin. Họ bị thù ghét vì họ cộng tác với chính quyền chiếm đóng và bị đối xử như kẻ trộm cướp vì người ta nghi ngờ rằng họ làm giàu nhờ lạm dụng chức vụ của mình.
Dụ ngôn đưa ra sân khấu một người trong bọn họ. Lời cầu nguyện của người thu thuế này thì trái ngược với lời cầu nguyện của người Pha-ri-sêu về dáng điệu bên ngoài lẫn tâm tình bên trong. Anh ta không dám tiến lại gần, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời. Và lời cầu nguyện của anh chỉ võn vẹn một câu, nhưng đầy lòng khiêm hạ: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người thu thuế này, chắc hẳn là một người giàu có như bao người thu thuế khác, lại là một người có tâm hồn khó nghèo, những người mà Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện của họ.
*3. Lời kết:
Lời kết đặt câu chuyện vào bối cảnh thuần túy của sách Tin Mừng, tức tôn vinh đức khiêm hạ, như Đức Ma-ri-a đã cất tiếng ca trong Bài Ca “Ngợi Khen” (Mangificat):
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).
Lời kết này cũng theo chiều hướng chủ đề của thánh Phao-lô về ơn công chính hóa nhờ Đức Tin chứ không nhờ Lề Luật. Tuy nhiên, ở đây, Chúa Giê-su không đối lập Lề Luật với Đức Tin (người Pha-ri-sêu là một người tin); nhưng Ngài đối lập tính tự mãn của kẻ lấy mình làm chuẫn mực đạo đức với đức khiêm hạ của người biết nhận ra những bất toàn của mình và cầu xin lòng xót thương của Chúa: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi”.
Lời cầu nguyện đích thật là một hành vi đầy khiêm hạ. Cầu nguyện, chính là nhận ra thân phận yếu đuối của con người và đức hạnh mõng dòn của con người để mà đặt trọn niềm tin, cậy và mến vào Chúa.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LỜI CẦU NGUYỆN KHIÊM TỐN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể có hai người lên đền thờ cầu nguyện: Chúa không nhậm lời cầu nguyện của người biệt phái nhưng nhậm lời cầu nguyện của người thu thuế.
Hôm nay chúng ta cũng lên đền thờ cầu nguyện. Chúng ta đừng đến với Chúa với lòng tự phụ như người biệt phái, nhưng hãy đến với Ngài với tâm tình khiêm nhường thống hối như người thu thuế.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi mình và xin Chúa thứ tha.
*II. Gợi ý sám hối
- Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tự hào về những việc lành mình làm được.
- Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tỏ ra khinh miệt những người yếu đuối lỡ sa phạm tội.
- Như người thu thuế, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi mình và xin Chúa thương xót.
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I (Hc 35, 12-14. 16-18)
“Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn”. Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của toàn bộ Thánh Kinh: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người nghèo hèn yếu đuối; trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương đặc biệt những người bị xã hội coi khinh.
*2. Đáp ca (Tv 33)
Kêu gọi những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
*3. Tin Mừng (Lc 18, 9-14)
Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho hai thái độ sống:
– Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
– Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
*4. Bài đọc II (2 Tm 4, 6-8. 16-18) (Chủ đề phụ)
Những suy nghĩ và tâm tình của Phaolô khi đang ngồi tù và biết mình sắp chết:
- Nhìn lại cuộc sống đã qua, Phaolô an tâm vì thấy mình giống như một vận động viên đã kiên trì chạy hết đường đua và sắp về tới đích.
- Nghĩ tới những người đã làm khổ mình, Phaolô xin Chúa đừng chấp tội họ. Ông cũng cảm tạ Chúa đã ban sức mạnh cho ông vượt qua mọi gian khổ ấy.
- Nghĩ tới cái chết, Phaolô coi đó là một lễ tế dâng lên cho Chúa.
*IV. Gợi ý giảng
* 1. Tội và thân phận tội lỗi
Công bình mà xét thì người biệt phái ít tội hơn người thu thuế.
Nhưng điểm đáng chú ý là người biệt phái lại nói về tội lỗi nhiều hơn người thu thuế: hắn đã kể ra những tội tham lam, bất chính, ngoại tình v. v. Tuy nhiên tất cả đều là… tội của người khác! Còn người thu thuế thì trái lại, tuy anh rất nhiều tội, nhưng anh lại không kể các tội đó ra. Điều duy nhất anh kể ra là “Con là kẻ tội lỗi. Lạy Chúa xin thương xót con”
Thực ra người biệt phái cũng có tội: tội tự mãn, tội kiêu căng, tội khinh miệt người khác… Nhưng hắn không ý thức các tội đó. Hắn không nhìn nhận mình là người tội lỗi. Hắn không biết thân phận tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu phê phán người biệt phái vì: a/ Hắn chỉ nhìn thấy tội; b/ chỉ nhìn thấy tội của người khác; c/ hoàn toàn không thấy thân phận tội lỗi của mình; d/ hoàn toàn không thấy lòng thương xót của Chúa.
Chúa Giêsu đề cao người thu thuế vì: a/ Anh không những thấy tội mà còn thấy thân phận tội lỗi của mình; b/ Anh còn thấy được lòng thương xót của Chúa nữa.
Cả hai người trên đều có thể thành bài học cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta cũng giống người biệt phái. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.
Chúng ta cũng có thể học nơi người thu thuế. Anh dạy chúng ta can đảm xưng thú những tội lỗi của mình. Anh chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ mang thân phận tội lỗi.
Nhiều người đến tòa cáo giải với một bảng liệt kê các tội đã phạm. Hầu hết các tội trong bảng liệt kê ấy đều không khác nhau mấy từ lần xưng tội này đến lần xưng tội khác. Xưng xong rồi ra về và mọi sự đều trở lại y như cũ. Việc xưng tội không giúp chúng ta cải thiện con người bao nhiêu. Tại sao? Vì chúng ta quá chú ý đến các thứ tội mà không chú ý bao nhiêu đến thân phận tội lỗi của mình.
Tội không chỉ là những việc làm xấu, mà chủ yếu là tình trạng xấu ta đang sống. Vì thế điều cần thiết hơn không phải chỉ là xin Chúa tha tội cho mình, mà là xin Chúa thương xót cứu vớt mình khỏi tình trạng xấu ấy.
“Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh” (Yiddish).
* 2. Một tấm lòng tan nát khiêm cung
Trong xã hội Do Thái, ai cũng coi những người thu thuế là những kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn này chính Chúa Giêsu cũng coi như thế, và chính người thu thuế cũng tự coi như thế.
Nhưng người thu thuế này đã lên đền thờ cầu nguyện, nghĩa là anh có thiện chí, anh muốn từ bỏ tội lỗi, anh muốn được tha.
Tuy nhiên khi xét lại quãng đời tội lỗi đã qua, anh biết rằng anh không thể nào được tha: theo luật, một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn bồi thường thêm 1/5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại, có nhớ cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5. . .
Lòng anh tan nát. Nhưng anh không tuyệt vọng: nếu theo luật, anh không thể được tha thì anh sẽ kêu xin đến lòng thương xót của Chúa. Thế là anh thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Điểm đáng ta chú ý là anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Thánh vịnh 50 (“Lạy Chúa xin xót thương con theo lòng nhân hậu Chúa”). Mà trong Thánh vịnh này cũng có câu “Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung”. Thiên Chúa đúng là như thế. Người thu thuế đã kêu đến chính nơi phải kêu, chạm tới chính chỗ phải chạm. Vì vậy Chúa đã thương xót anh, tha thứ tất cả cho anh, như lời Chúa Giêsu nói: “Ta nói cho các ông biết: người này khi trở về thì đã nên công chính rồi”.
* 3. Lòng trí hướng về ai?
Người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ và đều cầu nguyện. Nhưng lòng trí của mỗi người hướng đến những hướng khác nhau.
Lòng trí của người biệt phái hướng về ai?
- Trước hết là hướng về người khác: “Lạy Chúa, con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”
- Đồng thời lúc đó cũng hướng về bản thân mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”
- Nơi quan trọng nhất phải hướng về là Thiên Chúa thì hắn lại bỏ qua!
Còn lòng trí người thu thuế thì hướng thẳng về Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Chúng ta dễ phạm lại sai lầm của người biệt phái: khi cầu nguyện, lòng trí chúng ta hướng về những nhu cầu ích kỷ của bản thân và than phiền về những điều khó chịu người khác gây cho mình.
Hãy học cầu nguyện như người thu thuế là hướng về Chúa. Có nghĩ về mình là để ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi càng hướng về Chúa nhiều hơn.
* 4. Ai là người công chính?
Ngày kia, Khổng tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở: “Người học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng?” Khi Tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói:
– Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa:
– Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng:
– Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!
*
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám dỗ rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn: “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này: “Vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia” (Lc, 8, 11). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13).
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban (Pl 3, 9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18, 14).
*
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen. (TP)
*5. Mảnh suy tư
Nếu người biệt phái có quyền thì chắc hẳn hắn đã không cho người thu thuế vào đền thờ.
Nhiều người trong chúng ta cũng nghĩ rằng những kẻ tội lỗi không được đến nhà thờ: tội lỗi mà đến nhà thờ làm chi? Chỉ là giả hình! Nhà thờ là nơi dành cho những người đạo đức thánh thiện.
Nếu như thế thì nhà thờ sẽ rất nhỏ hẹp.
Tưởng tượng xem một tiệm sửa giày mà chỉ nhận những đôi giày còn tốt thì có còn là tiệm sửa giày không! Một bệnh viện mà chỉ nhận những người khoẻ mạnh thì có còn là bệnh viện không!
Chúng ta đến nhà thờ không phải vì chúng ta xứng đáng mà vì chúng ta cần. Chúng ta cần được lòng thương xót Chúa chữa trị, và chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của anh chị em trong cộng đoàn. (FM)
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội, cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa. Tin tưởng vào lòng từ bi của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh luôn mời gọi con cái mình tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa là Đấng hay thương xót và thứ tha.
- Hiện nay / nạn kỳ thị chủng tộc / khinh dể những sắc tộc yếu kém hơn mình / thanh lọc sắc tộc bằng các cuộc chiến tranh diệt chủng / vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô / thấm nhập và tác động đến mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
- Tự cho mình là thánh thiện và coi thường người khác / là thái độ kiêu căng đáng ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi của mình / để đừng bao giờ kết án hay khinh khi anh chị em của mình.
- Cầu nguyện trong khiêm tốn là điều mà mỗi Kitô hữu cần ghi lòng tạc dạ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thân thưa cùng Chúa / Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm tốn và ghét kẻ kiêu căng. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, Con Chúa là Đấng có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
*VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều có tội. Hơn nữa tất cả chúng ta đều mang thân phận yếu đuối tội lỗi. Chúng ta hãy xin Chúa là Cha tha tội cho chúng ta và hãy hứa với Ngài là chúng ta cũng tha thứ cho anh em chúng ta.
*VII. Giải tán
Là những kẻ tội lỗi đã được Chúa thương xót thứ tha, anh chị em hãy ra về và làm chứng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NÂNG LÊN VÀ HẠ XUỐNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Trong các bài Tin mừng của các Chúa nhật trước, Đức Giêsu đã dạy các tông đồ phải cầu nguyện với lòng tin tưởng, biết ơn và kiên trì. Chúa nhật này Ngài còn tiếp tục dạy các ông phải cầu nguyện trong tinh thần khiêm nhường và thống hối, vì Thiên Chúa luôn tỏ ra thương yêu những người công chính và nghèo hèn bé mọn. Để nói lên tư tưởng ấy, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện.
Trong khi cầu nguyện hai người có hai thái độ khác nhau và trái ngược nhau. Người biệt phái tự mãn khoe khoang những việc tốt lành của mình. Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ơn cứu chuộc, lại còn tỏ ra khinh miệt người thu thuế tội lỗi nữa. Ngược lại, người thu thuế không có gì để khoe khoang. Ông biết ông là một tội nhân, ông nói ít lời, nhưng thái độ của tâm hồn ông đã làm đẹp lòng Chúa. Lời cầu nguyện khiêm nhường của ông làm cho ông nhận được ơn tha thứ.
Qua dụ ngôn này, ta nhận thấy, mặc dù người biệt phái này thích khoe khoang những công đức của mình, lại còn khinh dể người khác, nhưng cái sai trái lớn của ông là ông tự cho mình làm được mọi sự mà không cần đến ân sủng và sự tha thứ của Thiên Chúa. Còn người thu thuế nhận thấy mình thiếu thốn, chỉ biết phó thác cho lòng thương xót của Chúa, kêu xin với lòng khiêm nhường, ông đã được Chúa nhận lời ban ơn tha thứ. Đúng là :
Muôn đời Chúa cự kiêu căng,
Và người khiêm nhượng Chúa hằng ban ơn.(Gc 4,6)
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 35,15b-17.20-22a.
Chúa nhận lời kêu xin của kẻ nghèo hèn. Đây là chủ đề của đoạn sách Huấn ca này. Trong một xã hội, tiền bạc và quyền lực là tất cả, “dân nghèo” không có cơ may. Nhưng bài đọc 1 hôm nay khẳng định Thiên Chúa đối xử tử tế với hết mọi người. Ngài không thiên vị người giầu có và quyền thế. Ngài lắng nghe lời cầu nguyện khiêm nhường của người công chính và bé mọn, vì Ngài là thẩm phán công minh và là người Cha nhân hậu.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 4,6-8.16-18.
Thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma. Ngài biết cuộc đời của mình sắp được kết liễu. Trong thư gửi cho Timôthêô, Ngài đã nói lên những suy nghĩ rất lạc quan :
– Ngài sung sướng vì mình như một vận động viên sắp về tới đích vì ngài đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin mừng.
– Ngài cảm tạ Chúa vì đã ban sức mạnh cho ngài được vượt qua những gian lao thử thách phải chịu. Ngài còn nôn nóng mong chờ ngày ngài được gặp lại Đấng mà ngài đã dành trọn cuộc đời mà phục vụ.
– Cái chết của ngài sẽ là một lễ tế dâng cho Chúa và ngài đón chờ vinh quang Chúa sắp ban cho ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 18,9-14.
Bài Tin mừng đưa ra hai mẫu người đối lập nhau về thái độ sống :
- a) Người biệt phái : Ông này tự mãn khoe khoang những việc tốt của mình : không có tội gì cả, lại còn ăn chay, dâng cúng 1/10 lợi tức cho Chúa… Ông ta nghĩ rằng nhờ có những việc tốt ấy mà Thiên Chúa phải ban cho ông ta ơn cứu chuộc. Thực ra, ông ta không có lòng yêu Chúa, chỉ khoe khoang công lênh của mình và Chúa phải yêu thương cũng như ban thưởng cho ông.
- b) Người thu thuế : Người này cũng chẳng có gì để khoe khoang, anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Anh biết anh chỉ là một tội nhân, vì thế anh phó thác mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Anh chỉ nói ít lời :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Thái độ khiêm nhường của anh làm đẹp lòng Chúa và được nhận lời.
Sau cùng Đức Giêsu kết luận : Chúa không nhận lời cầu xin của người biệt phái mà chỉ nhận lời cầu xin của người thu thuế vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ai hạ mình xuống ?
*I. DỤ NGÔN NGƯỜI BIỆT PHÁI VÀ NGƯỜI THU THUẾ.
*1. Hai mẫu người trái ngược nhau.
Dụ ngôn nói về người biệt phái và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện : thái độ của người biệt phái tự mãn về chính mình, về sự thánh thiện của chính mình; còn thái độ của người thu thuế, tuy là một tội nhân, nhưng biết tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Kết quả : một người bị từ chối, một người được chấp nhận. Dụ ngôn này nêu lên hai nhân vật đặc biệt có tính cách tương phản để nói lên hai thái độ khác biệt khi cầu nguyện.
- a) Người biệt phái.
Biệt phái thuộc nhóm Pharisêu, bắt nguồn từ nhóm người đạo đức (Hassidin) có từ thời Maccabê. Những người này sống tách biệt thành những cộng đoàn nhỏ để nên thánh. Họ chuyên cần suy niệm Lời Chúa và tuân giữ tỉ mỉ mọi lề luật thành văn cũng như truyền khẩu. Họ tin linh hồn bất tử, tin có sự sống lại, tin Thiên Chúa là Đấng thông suốt duy nhất. Nhưng họ lại quá bảo thủ những tập tục truyền thống của cha ông hơn cả Thánh Kinh. Họ thi hành luật quá đến câu nệ vào hình thức, giữ từng nét, mà thiếu hẳn Đức Ai. Đức Kitô đã không tiếc lời phê phán họ (Mt 23,13t; Lc 11,39; Mc 12,38t).
- b) Người thu thuế.
Họ là những người cộng tác với đế quốc Rôma, thu thuế của người Do thái nộp cho người Rôma. Họ thường hà khắc để thủ lợi, để làm giầu cho bản thân mình. Hạng người này bị người Do thái căm ghét, khinh bỉ, coi họ là những tội nhân ngang hàng với gái điếm, cần phải tránh xa.
*2. Hai người lên đền thờ cầu nguyện.
- a) Đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ là nơi cầu nguyện, có tầm quan trọng đối với người Do thái. Người ta tụ tập ở Đền thờ vào những ngày sabát, ngày lễ, ngày chay để nghe Thánh Kinh, hát thánh vịnh và cầu nguyện. Tuy nhiên, mỗi người cũng có thể đến đó vào những lúc khác.
Có lẽ người biệt phái và người thu thuế đã lên Đền thờ cầu nguyện vào buổi sáng hay buổi chiều. Cùng với các tín hữu khác, họ đến tham dự nghi thức tha tội được cử hành mỗi ngày hai lần trong Đền thờ.
- b) Người biệt phái cầu nguyện.
Người biệt phái đứng riêng một mình mà cầu nguyện. Ông không muốn đứng gần những người dân thường, sợ mắc phải nhơ uế cuả họ. Ông đứng thẳng người giống người Do thái quen làm khi cầu nguyện.
Lời nguyện của người biệt phái trước hết là một lời tạ ơn, tiếp theo đó là danh sách những thói hư tật xấu mà ông không hề phạm và cuối cùng là bản báo cáo thành tích vẻ vang của ông : chẳng những ông đã làm các việc đạo đức như Luật buộc, như ăn chay mỗi năm vào dịp lễ Xá Tội, nộp 1/10 lợi tức cho Đền thờ, mà ông còn tự nguyện làm những việc đó ở mức độ cao hơn, như ăn chay một tuần hai lần, nộp cho Đền thờ 1/10 tiền mua sắm mọi vật mình sử dụng.
Xét ra, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Ông thật là con người đúng mức, một con người hoàn hảo, không có gì đáng chê trách, một tín đồ trung thành với Lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Đây là một lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Chúng ta thấy ông không xin gì cho bản thân mình, nhưng chỉ là lời tạ ơn.
Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự kiêu tự mãn nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bèo bọt của mình mà trôi ra sông biển hết, lại còn có thái độ khinh bỉ người khác nữa :”Vì con không như bao người khác : tham lam , bất chính, ngọai tình, hoặc như tên thu thuế kia”(Lc 18.11). Nếu ông biết nhìn vào mình và đối chiếu với Đức Kitô thì ông không dám có thái độ ấy.
Còn một cái sai lầm nữa của ông là ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó, ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
- c) Người thu thuế cầu nguyện.
Người thu thuế cũng đến Đền thờ cầu nguyện. Anh ý thức rằng mình làm cái nghề không tốt đẹp, ai cũng ghét, bị cho là giáo gian, đi cộng tác làm lợi cho ngoại bang. Anh tự cho mình là một tội nhân, ngang hàng với gái điếm (x. Mt 21,31-32). Có lẽ anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người biệt phái (“hay như người thu thuế kia”), nên anh khỏi cần cáo tội mình, anh chỉ đặt mình trước mặt Thiên Chúa, cúi đầu xuống, đấm ngực ăn năn :”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hòa với anh em, nhưng anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình hoàn toàn bất xứng. Ngay lúc đó, anh đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho anh nên công chính.
- d) Kết quả sau lời cầu nguyện.
Sau khi đưa ra hai thái độ cầu nguyện của người biệt phái và thu thuế, thì Đức Giêsu đã phê cho một câu :”Người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”(Lc 18,14). Đức Giêsu muốn nói, lời cầu nguyện của người thu thuế với thái độ khiêm tốn và thống hối nên được ơn nghĩa với Thiên Chúa và được ơn tha thứ; còn lời cầu nguyện của người biệt phái với thái độ tự mãn thiếu lòng khiêm tốn và hoán cải, vì ông chỉ để ý đến sự công chính của riêng mình nên không được ơn nghĩa gì trước mặt Chúa và không được tha thứ. Người biệt phái này tuy tốt về phương diện không sai lỗi luật, nhưng ông không nhận ra rằng những ân tứ ông đang có là do Chúa ban cho chứ không phải tự ông mà có. Cái sai lầm của ông ở chỗ ông không nhận ra sự công chính là một ân huệ của Chúa ban, nên ông đã tự mãn về sự công chính của ông.
Chúa đã tha thứ cho người thu thuế, còn người biệt phái thì không “vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 18,14). Người ta thường nói :”Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi, huống chi Thiên Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại không sao ? Nhiều lần, Đức Giêsu bày tỏ cho chúng ta biết : Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15).
*II. THÁI ĐỘ PHẢI CÓ KHI CẦU NGUYỆN.
*1. Phải thống hối.
Trong khi cầu nguyện chúng ta phải làm 4 việc : thờ lạy, cám ơn, xin ơn và thống hối. Ta thường quên việc sau cùng này, nên hay đến với Chúa với tâm tình của người biệt phái. Trái lại, người thu thuế thì nhìn rõ trình trạng tội lỗi, bê bối của mình. Anh ta không quan tâm cái gì khác ngoài việc thấy rõ khoảng cách giữa tình trạng xấu xa với tình trạng lành thánh. Dù biết vậy, nhưng anh ta vẫn cố gắng kiên trì vươn lên, đồng thời chỉ còn biết van nài lòng thương xót của Chúa giúp sức mà thôi. Chính thái độ và cung cách đó của anh ta, lại được Chúa tha thứ và thương yêu. Nhận thấy mình tội lỗi, tìm cầu ơn tha tội và kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa, đó chính là khởi điểm cho cuộc sống mới.
Truyện : Qủi không sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:”Tôi thấy Chúa đối xử không công minh chút nào”! Chúa liền hỏi nó rằng:”Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng”? Bấy giờ tên quỉ mới đáp:”Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và con ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhất. Thế mà Chúa không khi nào tha thứ mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao” ? Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:”Loài người có phạm tội đi với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho. Còn lũ quỉ các ngươi, có bao giờ các ngươi hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội cho chưa”? Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng :”Ma qủi chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả”. Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
*2. Cầu nguyện là đặt mình trước mặt Chúa.
Cầu nguyện không phải là lúc chúng ta đem mình so sánh với người khác, hay kể lể công trạng, nhưng là đặt mình trước sự thánh thiện và công minh của Thiên Chúa, như lời chia sẻ của thánh Phaolô với giáo đoàn Côrintô:”Phần tôi, tôi không mảy may bận tâm về việc anh em hay phiên tòa nhân loại nào xét xử, mà ngay tôi, tôi cũng không xét xử chính mình nữa. Vì cho dù trước lương tâm, tôi không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là tôi được giải án tuyên công. Đấng xét xử tôi, chính là Chúa (1Cr 4,3-4). Chỉ khi chúng ta đặt mình trước ánh sáng của Thiên Chúa, chúng ta mới thấy rõ sự bất toàn, và thiếu thốn của mình, nhờ đó, chúng ta mới có thể mở lòng mình đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Cầu nguyện còn là mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Cầu nguyện là giây phút chúng ta nhìn lại, để nhận rõ con người yếu đuối của mình. Chúng ta cần biết những thiếu thốn của mình, để có thể mở lòng đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tin mừng ghi lại :”Người thu thuế đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng:”Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Người thu thuế đã không dám ngước mắt lên, vì anh ta biết mình là kẻ có tội, vì thế anh ta cũng biết rõ mình cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thu thuế đã kêu cầu đến lòng thương xót của Thiên Chúa, và anh đã được Thiên Chúa xót thương.
*3. Cầu nguyện không chỉ là tạ ơn.
Xem thái độ cầu nguyện của người biệt phái, ta thấy ông ta rất tự hào và tự mãn. Ông ta đem cái kho công nghiệp của ông để trình bầy cho Chúa. Nhưng khốn nỗi, cái kho đó lớn quá đến độ nó ngăn cách ông với Chúa, nó không cho ông thấy được Ngài nữa mà chỉ còn thấy chính mình. Có nhiều chữ tôi trong lời cầu nguyện của ông. Tôi thế này, tôi thế nọ, tôi không như thế này, không như người khác. Rốt cuộc, ông biệt phái lại là người quay vào mình, ông ngắm nghía vẻ đẹp của ông trước Thiên Chúa. Ông khép lại trên chính mình, dù chúng ta tưởng ông đã mở ra khi nói :”Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Ngài”. Tạ ơn thực sự là nhìn nhận mọi sự mình làm được đều do ơn Chúa ban. Tạ ơn là quay về với Thiên Chúa, nhìn nhận Ngài là Nguồn mạch, là Trung tâm, là Sức sống của cả đời mình, của những việc tốt mình làm được.
Ông biệt phái đã không tạ ơn thực tâm, vì ông quay vào mình, coi mình là trung tâm, là tác giả mọi điều tốt đẹp ông đã làm. Như thế Thiên Chúa là một người thừa, hay cùng lắm chỉ là một người mà ông đến gặp để kể công và đòi nợ. Thiên Chúa phải trả cho ông Nước Trời vì ông đã có công. Người biệt phái không xin Chúa điều gì, bởi vì ông không thấy mình thiếu gì cả. Thiên Chúa chẳng thể cho ông điều gì, vì ông đã đầy ắp. Vì tự mãn, nên ông mất đi một khả năng quan trọng, đó là mở ra để đón nhận Thiên Chúa vào đời mình (Augustine).
*4. Cầu nguyện với thái độ khiêm nhường.
Tục ngữ ta có câu :”Cái thùng trỗng thì kêu to” hoặc “Biết ít thì khoe khoang, biết nhiều thì khiêm tốn”. Thêm một danh nhân có nói đại ý : người khiêm tốn là người sáng suốt vì biết mình và biết người, còn người kiêu căng thì ngược lại… Vũ trụ thế giới có biết bao điều kỳ lạ. Càng sống, càng học ta phải nhận ra mình còn “dốt”, vì hiểu biết thì hạn hẹp, so với cả thế giới thì chẳng nghĩa lý gì. Huống chi là dám kể công với Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ muôn vật thì quả là một sai lầm biết bao !
Cầu nguyện không phải là dâng kiến nghị đòi hỏi, nhưng là cậy trông và phó thác vào Chúa Quan phòng, đại lượng vô song, khôn ngoan vô cùng. Sau nữa, khi cầu nguyện ta không được tự cho mình là hơn kẻ khác. Ta phải luôn nhớ rằng ta thuộc về đoàn lũ đông đảo những kẻ có tội, được Con Thiên Chúa đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc cho. Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ qùi xuống bằng đầu gối, mới vào được.
Truyện : Hãy qùi gối xuống.
Tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, có một bức tượng Chúa chịu nạn do Thorvaldsen (1770-1844), nhà điêu khắc Đan mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng. Ông ta nhìn mãi, rồi lắc đầu nói :
– Tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm. Nhưng tôi chả thấy gì là đẹp cả.
Một người quì sau lưng ông, nói :
– Ông phải qùi xuống mới thấy đẹp.
Ông du khách quì gối xuống. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa chịu nạn.
Muốn đến gần Chúa, muốn được Chúa dủ tình thương xót, ta cũng phải qùi gối xuống mà van xin.
*III. KHIÊM NHƯỜNG TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY.
*1. Nết xấu hàng đầu : Kiêu ngạo.
Trong kinh bảy mối tội đầu, ta đọc thấy ngay : Cải tội bảy mối có bảy đức, thứ nhất khiêm nhường chớ kiêu ngạo”. Qua đó ta thấy kiêu ngạo là nết xấu làm đầu mà không ai tránh được, kẻ nhiều người ít vì nó đã thâm căn cố đế vào trong con người ta.
Liền sau khi con người phản bội, Thiên Chúa hiện đến chỉ vào mặt :
– Hỡi người, hãy nhớ mình xuất thân là một hạt bụi (St 11,19).
Đã là một hạt bụi thì chớ nên tự cao tự đại.
Thế nhưng, người đời mấy ai còn nhớ tới lời dặn bảo của Thiên Chúa !
Tính kiêu căng rõ là một chứng bệnh gia truyền nan trị. Nó nan trị vì nó bắt nguồn từ tính TỰ ÁI.
Tự ái, ích kỷ, ngu muội, là ba chứng bệnh nguy hiểm mà nhà Phật gọi là Tham, Sân, Si.
THAM là vì ích kỷ.
SÂN là vì tự ái.
SI vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì SÂN là khó diệt hơn cả. Bởi vì tự ái là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói :”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Nếu nói rằng kiêu ngạo có nguy hiểm gì đâu, làm gì bằng tội giết người ? Nhưng thực sự nó nguy hiểm nhất trong các tội, vì nó làm hỏng các tính tốt và làm phát sinh ra các tính xấu khác. Người kiêu ngạo xem mình là trung tâm điểm, thay thế cho Thiên Chúa. Họ quay ra thờ ngẫu thần : đó là họ tôn thờ chính mình. Họ không coi Chúa là trung tâm điểm nữa. Tha nhân không là gì khác mà chỉ là những diễn viên trong một vở kịch, mọi người phải lo phục vụ cho riêng họ. Họ trở nên tự tôn tự đại, muốn cho mọi người để ý đến mình, họ tự tạo ra những hàng rào ngăn cách, tạo ra giai cấp, những chênh lệch trong xã hội, tạo ra xung khắc giữa người này người khác, dân này với dân khác, nước này với nước khác, kỳ thị da trắng da đen…
Họ coi thế giới như là của riêng mình. Mình có thể dùng khoa học để điều khiển được tất cả theo ý mình. Con người có thể tự tạo ra được hạnh phúc, biến thế giới này thành thiên đàng. Họ loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài để thành lập một thứ tôn giáo mới, trong đó con người được tôn thờ chứ không phải là Thiên Chúa nữa.
*2. Tính tốt hàng đầu : Khiêm nhường.
Ai cũng thích người khiêm nhường, ai cũng ca tụng đức khiêm nhường, nhưng ít người thực hiện được đức khiêm nhường, thậm chí lại có người đả kích tính khiêm nhường. Môn phái của triết gia Nietzsche nói thẳng thừng:”Khiêm nhường là đức tính của kẻ nô lệ”.
Sự thật thì Khiêm nhường tức là hiểu biết mình, là can đảm nhìn thẳng vào sự thật. Vì thiếu can đảm nhìn thẳng vào sự thật, nên người ta ai cũng sợ mình, và sợ mình hơn hết. Kẻ mà tôi tìm cách tránh né nhất là … chính mình tôi. Cần phải là người quân tử mới dám đối thoại với mình. Cuộc đối thoại với chính mình là cuộc đối thoại hồi hộp nhất, dễ sợ nhất. Nhiều lúc bi đát, đắng cay, xỉ nhục vô cùng cho tính tự ái. Nhưng tôi cần nó để tự giác và sống làm người.
Đức Khổng Tử đã nói:”Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri tức tri dã” : Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì chịu là không biết, ấy là biết vậy.
Người ta thường nói :”Cao nhân tức hữu cao nhân trị” hay “Bảy mươi còn học bảy mốt”, đã cho thấy rằng dù ta có giỏi đến đâu cũng có người giỏi hơn. Ta phải tự thấy rằng mình chưa biết, trình độ mình còn kém thì ta mới có thể thâu nhận những lời dạy bảo của người khác, có như thế ta mới tiến bộ và có thể hiểu biết mình nhiều hơn được. Nhà tư tưởng Blaise Pascal nói rất đúng:”Tôi chỉ biết một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nói như thế có vẻ cường điệu, nhưng nó nói lên sự hiểu biết hạn hẹp của con người đối với ngoại vật, nhất là đối với chính mình.
Tâm tính người đời bất cứ ai làm việc gì thường muốn như ngọn hải đăng, càng đặt lên cao, càng chiếu rọi ra xa, nhưng đồng thời chung quanh dưới chân hải đăng tối tăm mờ mịt. Vì thế, một vị Linh mục dòng Tên nói:”Đức khiêm nhường của người công giáo không phải là ngọn hải đăng, nhưng là một ngọn đèn giấu kín giữa bản thân, nó có sức chiếu sáng khắp cùng thân thể, thấu ra bên ngoài, không nơi nào không có ánh sáng”.
Theo tâm lý chung của con người, thì người ta thích là con công hay múa hơn là một con sò im lìm dưới đáy biển. Con công có bộ lông thật đẹp để làm cảnh cho thiên hạ. Suốt ngày con công chỉ biết múa để mua vui cho thiên hạ :
Con công hay múa,
Nó múa làm sao ?
Nó rụt cổ vào,
Nó xòe cánh ra…
Con công chỉ có một công dụng là múa để làm trò cho thiên hạ, ngoài ra không dùng vào được việc gì. Trái lại, con sò tuy im lìm sống dưới đáy biển, không mấy người trông thấy nó, nhất là không bao giờ trông thấy diện mạo cuả nó, nhưng thịt của nó là một món ăn tốt, thơm ngon. Nhất là… đôi khi nó ngậm một hòn ngọc trai ! Con sò mà ngậm hạt trai thì quí hóa biết bao, bao nhiêu con công cũng không sánh kịp.
Đức Hồng y Mercier kể : Cuộc chiến tranh xong, lần thứ nhất gặp thống chế Foch tôi vui mừng bắt tay và nói :”Chào vị tướng lỗi lạc, đã làm vẻ vang nhân lọai”. Nhưng thống chế giơ tay lên, phân bua và nói :”Thưa Đức Hồng y, chúng tôi chỉ là khí cụ mù quáng trong tay Thiên Chúa”.
Càng thánh thiện càng phải khiêm nhường và phải khiêm nhường thật lòng. Benjamin Franklin đã cảnh giác chúng ta như sau:”Giả như tôi đã tập luyện được nhân đức khiêm nhường rồi, không nghi ngờ gì tôi sẽ trở nên hãnh diện vì nó”. Tôi có cảm giác rằng những người khiêm nhường thực sự phải là những người không biết đến sự khiêm nhường ở nơi mình. Ngay khi chúng ta biết rằng mình đang khiêm nhường , cũng là lúc chúng ta đánh mất nó.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô.
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô nói rằng:”Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”. Còn khi ngài nghe nói : Ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui suớng và biết ơn.
*3. Đức Khiêm nhường cần thiết.
Khiêm nhường là nhân đức quan trọng nhất trong việc nên thánh. Người ta coi khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện. Tất cả những tài năng, nhân đức dường như không có giá trị tự nó (en soi) trước mặt Thiên Chúa. Chúng chỉ nên có giá trị khi đứng chung với sự khiêm nhường, tự hạ. Cũng như những số 0 (zéro) dù nhiều tới đâu cũng chẳng làm cho con số do chúng tạo thành có giá trị gì. Nhưng nếu chúng được dẫn đầu bởi số 1, thì lập tức mỗi số 0 sau đó đều trở nên có giá trị : càng nhiều số 0 đi sau số 1, thì giá trị con số do chúng tạo thành càng tăng lên. Mỗi số 0 sau số 1 đều làm cho con số đã có tăng giá trị lên gấp 10 lần.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
XIN XÓT THƯƠNG CON– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hóa. Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện khiêm nhường.
Khiêm nhường không tự mãn.
Người biệt phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một sức khỏe, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.
Khiêm nhường không khinh người.
Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người. Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu và cả đối với Giuđa nữa.
Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi.
Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và đúng đắn.
Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ.
Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức riêng, nhưng chỉ được “công chính hóa” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
“Lạy Chúa, xin thương xót con”
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ này có đúng không?
2) Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng không?
3) Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?
4) Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được điều này nơi bản thân không?
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
ĐẤM NGỰC CẦU NGUYỆN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Một cô gái đang độ thanh xuân, lên đền thờ xưng tội, cô đã than thở với Linh mục rằng: Thưa Cha, con thường dự lễ không nên. Thế con làm gì mà không nên? Thưa Cha suốt buổi lễ, con chỉ biết khóc vì nghĩ đến tội con đã phạm: khi thì ăn bớt tiền chợ, khi thì thích nói chọc ghẹo người ta cho người ta chửi, khi thì liếc trộm mấy cậu con trai, khi thì thích phạm tội.
– Ồ thế thì con cứ tiếp tục dự lễ như vậy, để nước mắt con tẩy sạch tâm hồn con nên trong sáng (Thánh Thể tr. 42). Cô gái này giống với người thâu thuế lên đến thờ đấm ngực cầu nguyện đã được Đức Giêsu nâng lên, và khác với người Pharisiêu cầu nguyện đầy vẻ tự đắc đã bị Đức Giêsu hạ xuống.
Trong kinh nguyện của Giáo Hội, nhất là Thánh lễ, ta thấy: Cầu nguyện gồm bốn việc: Thống hối, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn. Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến thống hối.
*1- Người Pharisiêu cầu nguyện như đọc bản báo cáo đầy thành tích vẻ vang của mình. Những thành tích như ăn chay mỗi tuần hai lần, còn luật dậy một năm chỉ ăn chay có một lần thôi (Lv. 16, 19-31), nộp thuế tối đa là một phần mười mọi thứ lợi tức, còn luật chỉ buộc một phần mười lợi tức chính, và không bao giờ phạm những tiêu cực như tham lam, bất công, ngoại tình. Rồi Pharisiêu kết luận cho mình hơn hẳn bọn thu thuế và tất cả các người khác. Như vậy, Pharisiêu đã tự khen mình, tự nâng mình lên là người công chính, tự phong thánh, lại khinh chê người khác và coi Thiên Chúa chỉ là khán giả đến xem triển lãm những thành tích công đức của ông.
Đức Giêsu đã phê vào bản báo cáo này như thế nào? Người phê: Làm thì láo, báo cáo thì hay. Cho nên ông bị hạ xuống và tội ông không được tha, còn thêm tội kiêu ngạo. Bao nhiêu lần Đức Giêsu đã cảnh báo Pharisiêu như nấm mồ sơn phết bên ngoài, còn trong đầy ô uế thối tha. Họ xây mồ mả các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Rồi đến lượt họ, họ lại giết Đấng Cứu thế trên thập giá (Mt. 23, 4. 27. 34)
*2- Người thu thuế cầu nguyện theo lối tự phê, tự kiểm thảo. Ông đã tự xưng thú tội mình, nhận mình là kẻ tội lỗi. Không dám tới gần Thiên Chúa thánh thiện vô cùng, ông chỉ đứng xa xa. ông tự kết án mình trước mặt Thiên Chúa là vị quan tòa tối cao, công minh, nghiêm thẳng, ông không dám ngước mặt lên, ông đã đau đớn đấm ngực ăn năn, thống hối tội lỗi. Ông thâm tín sự khốn nạn của tội lỗi mình. Ông không thấy mình có thành tích nào có thể đền tội ông được, dù ông làm bao nhiêu việc ăn chay, hãm mình, bố thí dâng cúng, cũng chẳng đáng công gì. Ông không thể cậy trông vào đâu được, chỉ có lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa mới cứu ông được thôi, nên ông đã tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con, con là kẻ tội lỗi khốn cùng”. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi ông ngọt ngào biết bao. Ông cảm thấy đầy lòng tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì ông biết rằng: Dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, như đại vương David giết chồng, cướp vợ, đã hết lòng ăn năn sám hối. Thiên Chúa vẫn sẵn lòng tha thứ. Dù cả toàn dân bỏ Chúa, và bị quân thù bắt lưu đầy ở Babilon, lại bị Thủ tướng Aman ra tay diệt trừ. Trong cơn khốn cùng như thế, Hoàng hậu Esthe cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ. Tội lỗi như dân ngoại thành Ninivê, Chúa còn thương bắt buộc ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ để họ biết cải tà qui chính. Chúa liền thương tha thứ cho họ. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung của Thiên Chúa, ông càng đấm ngực hết lòng sám hối.
Đức Giêsu đã phê cho ông: “Người này ra về thì được nên công chính. Trái lại, Pharisiêu thì không, vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”. Người phàm còn biết tha thứ cho kẻ hối lỗi. Huống chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta biết: Thiên Chúa như Mục tử nhân lành, bỏ mọi sự đi tìm chiên lạc; như người Cha đầy lòng thương xót, vui mừng đón rước và long trọng mở tiệc ăn mừng đứa con đi hoang trở về, vì “Con ta đây đã chết, nay sống lại; đã mất, nay tìm thấy” (Mt. 18, 12-14; Lc. 15, 4-7. 11-32).
Tội nặng tầy trời như tông đồ của Phêrô: chối Thầy. Khi hết lòng ăn năn trở lại, Chúa đã lờ đi như không biết, không trách một lời, lại còn thân mật hỏi: “Này anh Simon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em hay không?”
Thái độ của Chúa thật vô cùng bao dung quảng đại, không miệng lưỡi nào ca ngợi cho xiết.
Thời nay, người ta xa lánh tòa giải tội, không còn lo sám hối, hoặc vì không còn tin vào Thiên Chúa từ bi hay thương xót, nên thất vọng chết như Giuda, hoặc vì quá tự mãn với những tiến bộ khoa học, không cần Thiên Chúa nữa; hoặc vì khô khan lười biếng, thờ ơ lãnh đạm, lòng chai đá, không còn biết tội phúc nữa, đâu còn biết ăn năn sám hối.
Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn nhận ra con là kẻ tội lỗi, yếu hèn như kẻ nghèo khó, bị áp bức, sống mồ côi, góa bụa trong Bài đọc 1 để luôn luôn đấm ngực ăn năn, hết lòng chạy đến cầu khẩn Chúa mọi nơi, mọi lúc.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
KHIÊM NHƯỜNG CẦU NGUYỆN– Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Mỗi khi cầu nguyện, chúng ta tin tưởng và mong ước dẫn tới hiệu quả tốt. Sự thường là như thế, nhưng thực sự nhiều khi lại không phải như thế, bằng chứng là có lần chúng ta cầu nguyện thì được như ý, nhưng cũng không thiếu những lần chúng ta cầu nguyện hoài mà chưa được hay không được. Cũng vậy, có người cầu nguyện thì được Chúa nhận lời, có người thì không. Tại sao vậy? Có phải chúng ta thiếu điều kiện nào chăng? Đúng vậy, một trong những yếu tố hay điều kiện quan trọng, đó là thái độ và tâm tình thích hợp. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và tâm tình thích hợp cần có, đó là khiêm tốn, khiêm nhường.
Để hiểu biết sức mạnh của khiêm nhường, chúng ta hãy tưởng tượng hay hình dung hai cỗ xe: một cỗ xe được kéo bởi hai con ngựa là nhân đức và kiêu ngạo, còn cỗ xe kia được kéo bởi hai con ngựa là tội lỗi và khiêm nhường. Cả hai xe cùng chạy, nhưng chẳng bao lâu cỗ xe tội lỗi vượt trước cỗ xe nhân đức. Tại sao vậy? Chắc chắn không phải do khả năng của chính nó, tức là tội lỗi, nhưng bởi sức mạnh của đức khiêm nhường cùng đi chung với nó. Còn cỗ xe kia bị qua mặt, chẳng phải vì nhân đức yếu đuối mà vì sự kiêu ngạo quá nặng nề và to lớn. Điều ấy bảo cho chúng ta biết: đức khiêm nhường, nhờ cố gắng vươn lên, đã thắng được sức cản của tội lỗi, và lên đến trời trước nhất, còn kiêu ngạo, vì nặng nề và to lớn, nên át cả sự nhanh nhẹn của nhân đức, và dễ dàng kéo nó xuống sâu.
Về hai cỗ xe này, chúng ta đem áp dụng vào hai người Pha-ri-sêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chúng ta sẽ thấy rõ: người Pha-ri-sêu đã cột chung nhân đức với kiêu ngạo: ông đứng thẳng một cách hiên ngang, tự đắc, ngực ưỡn, đầu ngẩng cao, và mắt có lẽ liếc nhìn người thu thuế một cách khinh bỉ và hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Ông cầu nguyện gì? Ông không cầu gì cả, ông kể công với Chúa, ông tự mãn về những gì ông đã làm, ông lên đền thờ để khoe mình chứ không phải để cầu xin với Chúa, nên lời cầu nguyện của ông chẳng những không đưa ông tới gần Chúa mà còn làm cho ông xa Chúa hơn và làm cho Chúa buồn hơn.
Trái lại, người thu thuế đã cột chung tội lỗi với khiêm nhường: ông khép nép, khúm núm, đứng mãi đàng xa, không dám đến gần bàn thờ, cũng chẳng dám ngước mắt lên trời, tức là ông tự nhận mình bất xứng, chỉ biết cúi đầu, đấm ngực tỏ lòng ăn năn sám hối. Còn về lời cầu nguyện, ông nói với Chúa chứ không nói về mình, ông chẳng có gì hay để kể cho Chúa nghe, chẳng có công gì để khoe với Chúa và cũng chẳng dám xin gì khác ngoài lòng thương xót của Chúa.
Qua đó, chúng ta thấy tại sao cả hai người cùng cầu nguyện, nhưng chỉ có một người đẹp lòng Chúa, được Chúa tha thứ ban ơn, chỉ vì người ấy khiêm nhường, tin tưởng, cậy trông vào tình thương của Chúa, còn người kia tự mãn về những gì ông làm thì ông trở về với những gì ông đã làm, Chúa không ban gì cho ông. Nói rõ hơn, người thu thuế về nhà được công chính hóa, còn người Pha-ri-sêu thì không, đó là kết quả tất yếu: người Pha-ri-sêu đâu có cần đến Chúa, đâu cần Chúa công chính hóa, ông tưởng rằng tự ông có thể mua được sự công chính bằng công trạng của mình, ông đã lầm to, vì được trở nên công chính hay không là một quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho người biết khiêm nhường như người thu thuế đã làm, là ý thức rõ cái tôi tội lỗi, hèn kém, bất lực của mình, thái độ đó Thiên Chúa rất vui lòng, rất đẹp lòng Thiên Chúa.
Từ hai nhân vật tiêu biểu về khiêm nhường và kiêu ngạo, được xác định bằng thái độ của họ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em, Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc tổng quát: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ đựơc tôn lên”. Ai hạ xuống? ai tôn lên? Thưa chính Thiên Chúa. Kẻ tự tôn mình lên thì Thiên Chúa hạ xuống, kẻ tự hạ mình xuống thì Thiên Chúa tôn lên. Đó là lối hành động của Thiên Chúa, đó là cách Thiên Chúa trả lời cho kẻ tự đắc, kẻ cho mình là công chính và khinh chê những người khác. Bởi vì chẳng ai có thể tự đắc trước mặt Thiên Chúa, chẳng ai có gì để kể công với Người. Tình thương của Thiên Chúa là tình thương nhưng không, ai xin thì được, còn ai tự cho mình là có quyền đòi thì Thiên Chúa không cho. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, tất cả đều nghèo hèn, cần đến lòng thương xót của Người.
Chúng ta là người Pha-ri-sêu hay người thu thuế? Chắc chắn không ai nhận mình là người Pha-ri-sêu, nhưng chưa chắc đã nhận mình là người thu thuế. Đúng, chúng ta không tự nhận là người Pha-ri-sêu, dù có khi chúng ta còn tệ hơn người Pha-ri-sêu, nhưng chúng ta có dám bắt chước người thu thuế không?
Chúng ta có thể sánh ví việc cầu nguyện của chúng ta cũng giống như chiếc cầu mong manh dẫn chúng ta tới Chúa. Khi đi qua một chiếc cầu nhỏ, bắt ngang bằng những tấm ván hay những khúc cây mong manh, chúng ta phải hết sức cầm trí và ý tứ cẩn thận thế nào, thì khi cầu nguyện chúng ta cũng phải cầm trí và cẩn thận như vậy, tức là chúng ta phải có thái độ khiêm tốn, tin tưởng, cậy trông.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CẦU NGUYỆN LÀ HIỆP THÔNG VỚI THIÊN CHÚA– Lm. Bùi Mạnh Tín
Chúng ta thường nghe câu định nghĩa quen thuộc: “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng nói lên bản chất và cách thức cầu nguyện.
Dĩ nhiên ở đây, việc “nâng tâm hồn lên” cần được hiểu sâu xa. “Nâng lên” có nghĩa là ý thức mình chỉ là một thụ tạo kém cỏi, thấp hèn, luôn sống trong trần thế, dễ bị ràng buộc vào những truyện “dưới đất”. Và như vậy, khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng vươn cao tâm hồn lên, vượt ra khỏi những gì thuộc hạ giới, tạm thời tách rời những liên quan nhân loại, để thiết lâp một liên quan có tính cách hướng thượng, cao hơn, xa hơn, thanh thoát hơn. Cũng chính vì thế, Chúa Giêsu thường tìm nơi vắng vẻ thanh tịnh để có những giờ phút hiệp thông với Cha Ngài. Thánh lễ, cùng với việc rước lễ, là một hiệp thông hoàn hảo nhất, nên trước khi bước vào phần phụng vụ Thánh Thể, chủ tế nói với ngững người dự lễ: “Anh chị em hãy nâng tâm hồn lên”.
Ở đây, yếu tố được nhấn mạnh không phải là những cử chỉ của thân thể, những âm thanh trong lời đọc hay tiếng hát, nhưng chính là trạng thái của tâm hồn. Hiểu như thế, nhiều khi chúng ta đọc kinh lớn tiếng, dang tay cao, mà vẫn không phải là cầu nguyện, vì lòng trí chúng ta chưa thực sự thoát khỏi những ràng buộc của lo toan trần thế. Do đó, lời cầu của chúng ta vẫn chưa tới Chúa, tâm hồn chúng ta vẫn chưa gặp được Ngài.
Trong cuốn “150 More Stories”, Jack Mac Ardle kể một câu truyện:
Một người chìm vào giấc mơ, thấy mình được nâng lên trời và gặp Chúa Giêsu. Chúa đưa anh đi nhiều chỗ khác nhau và sau cùng hai người dừng chân tại một thánh đường giữa lúc đang cử hành thánh lễ. Chàng thanh niên nhìn thấy các ca viên đang mở sách hát, nhưng không nghe thấy tiếng hát; thấy một người đang lướt các ngón tay trêm phím đàn nhưng không nghe thấy tiếng nhạc; thấy mọi ngượi đang mở miệng đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh phát ra từ miệng họ. Ngạc nhiên, anh ta hỏi Chúa Giêsu: tại sao chỉ thấy im lặng. Chúa trả lời: “Chúng ta chỉ có thể nghe được tiếng của họ, nếu họ thực sự cầu nguyện với tất cả tâm hồn mà thôi”
“Với tất cả tâm hồn” không chỉ được hiểu là hết sức lực, hết tâm trí, nhưng còn hiểu là cầu nguyện với niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, với lòng khiêm nhượng và tình bác ái.
Qua dụ ngôn hôm nay, chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy: dù có đến nhà thờ, dù có giơ cao đôi tay hay lớn tiếng đọc kinh, nhưng không ý thức thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, trái lại, tự cao tự đại, coi thường anh chị em mình, thì hành động và lời nói của chúng ta chỉ trở thành vô ích, không bao giờ được Chúa lắng nghe và chấp nhận. Người thu thuế, vì ý thức mình tội lỗi, yếu hèn, cần đến ơn tha thứ, nên trong khi cầu nguyện, anh đã được Chúa nhận lời và thứ tha. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm hồn.
Lạy Chúa, mỗi lần trước khi đến với Chúa, trước khi mở miệng cầu nguyện, chúng con xin Chúa hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi các ý nghĩ kiêu căng, ghen ghét, giận hờn và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc bận tâm trần thế.
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP
Theo cái nhìn bên ngoài, hai nhân vật của dụ ngôn đều bắt đầu từ một khởi điểm. Nhưng…
Người biệt phái bước đi chững chạc, hiên ngang. Ông đang ở trong Đền Thờ nhưng ông cảm thấy thoải mái dễ chịu như đang ở nhà mình: đầu ngẩng cao, mắt nhìn đầy vẻ tự tin. Bản kết toán của ông đầy nét tích cực: ông biết điều đó và ông nói lên. Ông kể ra những con số. Tất cả đều tốt đẹp. Ông tự xếp mình vào số những người suy nghĩ tốt, làm tốt, và có đạo đức: Ông tự nhận mình là người công chính.
Nơi ông không có một kẽ hở, không một sự chờ đợi, không một khoảng cách. Ông chiếm trọn cả lớp kịch: vừa là diễn viên, vừa là khán giả. Trên nguyên tắc, ông thưa với Chúa, nhưng trong thực tế, “ông cầu nguyện nơi chính mình”. Ông chiêm ngắm chính mình, ông nói với chính mình. Thiên Chúa chỉ là công chúng nghe ông nói và vị Thiên Chúa đó được đổng hoá với lương tâm của ông, một lương tâm hoàn toàn tin chắc vào chính mình.
Chỉ có một khoảng cách được thú nhận: ông đứng xa người có tội… tức là những người khác, những người bị ông coi thường.
Đó là một con người đã đạt tới đích. Ông còn có thể làm gì hơn được nữa? Chẳng còn một khoảng trống nào để ông băng qua. Ông chỉ còn đợi lãnh triều thiên. Đó là một con người đã hoàn thành. Làm sao ông có thể tái sinh được?
Trong khi đó, người thu thuế đứng xa xa, phía cuối đền thờ. Trước mắt xã hội, hình ảnh của anh không phải là một hình ảnh dễ thương. Anh không được công nhận là công chính vì đã vi phạm quá nhiều, đã thoả hiệp với tiền tài, với quyền lực. Giờ đây, anh dứng im, không dám ngẩng mặt lên. Anh sẵn sàng chui xuống đất, nếu có thể được. Anh biết rằng mình chưa được sinh ra. Và khi ấy, tất cả đều trở thành có thể.
Anh cầu nguyện, anh thưa với Thiên Chúa: “Xin thương xót con.” Anh nhận thức trọn vẹn khoảng cách giữa tình trạng con người của anh và sự cao cả của Thiên Chúa, khoảng cách giữa sự “công chính” của anh và sự công chính của Thiên Chúa. Anh tìm kiếm sự liên lạc, tìm kiếm sự gần gũi với Thiên Chúa, một sự hiệp thông mặc dù từ căn bản, có một sự khác biệt: “Con không phải như Thiên Chúa! Con chỉ là một kẻ tội lỗi! Chúa có nghe lời con chăng?” Và khi ấy, tất cả đều có thể.
Khi bước vào đền thờ, mỗi người đều quay trở về với chính mình. Nhưng…
Một người thì vênh vang với lương tâm tốt lành của mình, tự hào vì những xác tín của mình. Ông hiện diện trước Thiên Chúa dựa trên nền tảng là cái có: lối sống của ông, Thiên Chúa của ông, quyền lợi của ông.
Còn người kia trở về với sự khốn cùng bên trong của mình. Anh đứng trước nhan Chúa với nền tảng là sự thiếu thốn: bước vào đền thờ, anh đã bỏ lại thế giới tiền bạc, để đi tìm một điều gì khác.
Với hai con người như thế, Thiên Chúa sẽ giải quyết cách nào?
Một kẽ hở cho Thiên Chúa
Người biệt phát trình bày dài lê thê. Ông cám ơn Thiên Chúa, mà ông nghĩ rằng mình biết rõ, vì đã nâng đỡ, trợ giúp ông, để ông “không như bao kẻ khác”. Trong mối tương giao của ông với Thiên Chúa, ông chối bỏ người khác: ông tự loại mình ra khỏi môi trường hoạt động của tình yêu. Đôi tay ông đã đầy những công phúc, đầu óc ông đầy những xác tín của riêng mình. Đó chính là thái độ của niềm tin mù quáng. Mọi cánh cửa đều đóng kín: Thiên Chúa không thể vào được.
Người thu thuế thì kêu cầu. Bị xã hội chê bỏ, anh nhẫn nại chịu đựng: biết mình xa cách Thiên Chúa, anh chờ đợi. Anh chẳng còn biết bày tỏ với ai nữa, và anh xin Thiên Chúa can thiệp. Đôi tay anh trống không, anh đợi chờ: đó chính là thái độ của lòng tin. Mọi cánh cửa đều mở toang: Thiên Chúa có thể vào được.
Trước hai con người này, Thiên Chúa không chút do dự. Người làm bạn với chàng thu thuế, cùng với anh rời khỏi đền thờ, và bỏ mặc người Biệt phái với các việc lành của ông, để ông ra về một mình.
Tại sao thế?
Người biệt phái đã làm những việc đạo đức tốt lành, lại không phải là người công chính; đang khi đó người thu thuế là kẻ tội lỗi thì được nên công chính. Thiên Chúa có bất công quá không?
Một khi đôi tay đã đầy, lòng trí đã thoả mãn, thì Thiên Chúa sẽ không thể chen vào được. Làm sao Người có thể đến được khi không có chỗ cho Người? Bởi đó, Thiên Chúa yêu chuộng kẻ khó nghèo không phải chỉ tại họ nghèo, nhưng hơn thế, vì họ cảm thấy mình luôn thiếu thốn và họ chờ đợi. Như vậy, con người luôn phải nhận ra mình nghèo khó trước Thiên Chúa, luôn cần đến sự trợ giúp, cần sự hiện diện của Người. Và quan trọng hơn, điều thiết yếu là con người không được tự nhốt kín sự nghèo khó của mình, nhưng là sống trong thái độ rộng mở. Người nghèo khó, vì nhu cầu cần thiết, luôn biết trông chờ sự giúp đỡ của người khác. Đó chính là thái độ căn bản của Kitô giáo.
Dĩ nhiên, đây không phải là sự nghèo khó vật chất, nhưng là thái độ nghèo khó trong tinh thần. Vẫn có những người túng thiếu cùng cực, nhưng vẫn là một đời sống khép kín. Vẫn có những người có nhiều tài sản vật chất, nhưng lại biết đón chờ, biết mở rộng tâm hổn. Và quan trọng hơn nữa, đó là một thái độ nghèo khó trong đời sống thiêng liêng. Con người không được quyền cậy dựa vào bất cứ hành vi nào để cho rằng mình là người đạo đức, là người đã đạt tới sự thánh thiện. Con người không thể nghĩ rằng mình đã được nên công chính do các việc mình làm. Một khi có quan niệm cho rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện, tức là không cần đến sự trợ giúp, sự can thiệp của Thiên Chúa. Đó là một thái độ đóng kín, thái độ của con người chỉ biết hướng về mình, chứ không phải về người khác, và nhất là về Thiên Chúa. Con người đó không biết thế nào là sám hối, thế nào là trở về, và như vậy, trong tâm hổn của họ, không có chỗ cho Thiên Chúa.
Dù thế nào, dù đạt tới mức độ nào, vẫn phải là người nghèo trước Thiên Chúa, vẫn phải là người cần trợ giúp. Thiên Chúa cần có những cửa ngõ để đi vào, cho dù đôi khi chỉ là một kẽ hở.
Cả hai đều cần
Như tác giả xác định, Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này với những người tự cho rằng mình là người công chính và khinh miệt người khác. Vào thời Đức Giêsu, đó là những người biệt phái, những người chấp hành luật pháp cách nghiêm ngặt.
Thực ra, các hành vi của người biệt phái thật đáng khen. Có mấy người trong chúng ta thực hành được như ông ta? Thế nhưng, ông thiếu mất một điều, và đó là điều quan trọng nhất: đó chính là thái độ khiêm tốn, biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Chính sự thiếu sót này đã phá tan tất cả cố gắng, tất cả mọi hành động của ông.
Ngày nay, trong chúng ta, vẫn có những người nghĩ rằng mình đã đạo đức, đã thánh thiện nhờ những việc tốt của mình, nhờ việc giữ đạo của mình. Tất nhiên, những điều đó rất tốt. Nhưng nếu dựa vào đó để lấy làm thoả mãn, để coi thường người khác thì thật là tai hại. Phải hiểu rằng người Kitô hữu được mời gọi đạt tới sự thánh thiện của Thiên Chúa, và đó là một hành trình dài, hành trình chưa chấm dứt. Một khi tự cho rằng mình đã tới đích, tức là đã ngưng lại, và nguy hiểm hơn nữa, là đã lạc đường, đã mất phương hướng. Mỗi người chúng ta vẫn có thể nhận ra mình, ít là một phần nào đó, qua lời cầu nguyện đầy vẻ tự mãn của người biệt phái.
Tuy vậy, không có nghĩa là Đức Giêsu dạy chúng ta chỉ cần thưa với Thiên Chúa như người thu thuế. Điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu là thái độ trước Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà có quyền bỏ những hành vi đạo đức. Không phải người ta cứ sống theo ý thích của mình, để rổi chỉ cần thưa với Thiên Chúa một câu ngắn gọn là được tha thứ, được nên công chính. Thái độ tin tưởng, trông chờ sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ những nỗ lực của con người.
Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy một mẫu người Kitô hữu đích thực, dựa trên hai nhân vật của bài Tin Mừng. Đó là một con người luôn cố gắng chu toàn những lời giáo huấn của Thiên Chúa, một con người thi hành trọn vẹn những gì luật pháp quy định, đổng thời cũng là người biết tin tưởng và phó thác cho tình thương của Thiên Chúa. Càng tiến triển, lại càng phải khiêm tốn. Và người khiêm tốn thì được Thiên Chúa yêu thương, được Thiên Chúa làm cho nên công chính.
Lạy Chúa,
Chúa biết rõ nỗi khốn cùng của con,
Chúa thấu hiểu nỗi cô đơn đang vây bọc quanh con,
Chúa nhìn thấy tình cảnh yếu đuối và bệnh tật của con,
ôi Chúa là Đấng dựng nên con.
Chúa biết tất cả.
Xin nhìn đến con đang hết lòng khiêm nhường và thống hối.
Xin nhìn đến con đang tìm đến bên Chúa.
Ôi Chúa là Đấng thương xót,
xin đừng nghoảnh mặt làm ngơ.
xin đừng quên kẻ đang khao khát tìm Chúa.
…
Trong trái tim Chúa, con tìm được chỗ ẩn thân,
trong lòng thương xót Chúa, con tìm được nơi an nghỉ.
Con kêu lên Chúa cậy nhờ vào tình yêu Chúa dành cho nhân loại. (theo Syméon le Nouveau Théologien).
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TÔN LÊN, HẠ XUỐNG (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Chúng ta vừa được nghe một bài Tin Mừng rất quen thuộc. Tôi tưởng tất cả chúng ta đều thuộc lòng bài Tin Mừng này. Vấn đề bài Tin Mừng hôm nay nói tới cũng là vấn đề hết sức thường tình. Chỉ có điều là biết thì ai cũng biết, nhưng thực hành thì quả thực không dễ. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa soi dẫn chúng ta.
*1. Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống.(Lc 18,14)
Trong cuộc sống: Ai là người tôn mình lên?
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
-Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
– Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi thì đi đâu mà chẳng được người yêu qúi tôn trọng.
Người Biệt phái trong Tin Mừng hôm nay là người bị coi là thuộc hạng người này: Khoe khoang, tự kiêu, tự mãn, tôn mình lên … vv.
Đối với những hạng người như thế thì Chúa bảo “sẽ bị hạ xuống”. Ai hạ xuống? Thưa chính Chúa.
Hoàng Đế Nã Phá Luân, của Pháp ngày xưa (1804 đến 1821) là một bậc anh hùng tài giỏi bách chiến bách thắng. Năm 1815, trong trận đánh Nga, vua Nã Phá Luân đã mơ tưởng sẽ thu phục được cả nước Ấn độ, và với lòng kiêu ngạo vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này: “Thiên đàng là của Thiên Chúa, trái đất là của ta”. Nhưng rồi như lịch sử còn ghi lại: Nã Phá Luân đã thất bại và đã mất ngôi báu vì trận đánh này. Sau cuộc thất bại của nhà vua, viên đại tướng người Nga đã cho đúc một thứ huy chương khác, trên mặt có hình một bàn tay đưa qua đám mây, cầm roi quất vào lưng vua Nã Phá Luân với cũng một lời tương tự như thế: “cái lưng là của mày, cái roi là của tao”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo này, sau đó bị đày ra hòn đảo Sainte Héleine quạnh hiu hoang vắng và chôn vùi cuộc sống buồn tẻ cho tới mãn đời. Chính từ nơi đây ông có thể suy nghĩ về chân lý, những lời này của Chúa:
“Ai hạ mình xuống thấp hèn, sẽ được Thiên Chúa nâng lên cao.
Ai nâng mình tới tận trời, sẽ bị hạ xuống tận đời đất đen”
*2. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. (Lc 18,14)
Thử hỏi ai là người biết hạ mình xuống.
Theo bài Tin Mừng hôm nay thì chúng ta có thể thấy: Đó là người thu thuế. Người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay chẳng có gì để nói về mình khi đối diện với Thiên Chúa. Tất cả những gì anh ta muốn nói với Chúa chỉ là cầu xin lòng Chúa xót thương của Người. Thái độ khiêm nhường đó đã được Chúa khen: “Người này ra về thì đã được trở nên công chính”
Lacordaire nhà văn lớn của nước Pháp đã viết rất hay về vấn đề này: “Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi.
Lạy Chúa, con sẽ đứng đúng chỗ con, không cao hơn, mà cũng không thấp hơn.”
Hồi ấy, lúc 40 tuổi Moise đang chăn chiên dưới chân núi Goben, Chúa liền hiện ra trong đám lửa ở bụi gai mà phán với Moise rằng:
– Ta đã thấy những lầm than khổ cực của Israel dân Ta. Ta đã nghe những tiếng rên xiết và khóc than của con cái Israel. Bởi vậy cha chọn con, để giải phóng Israel dân cha khỏi ách nô lệ của người Ai cập. Cha sai con đến với vua Pharaon, hoàng đế nước Ai cập, để xin nhà vua cho dân Israel được ra khỏi đất Ai cập, và tiến về đất hứa.
Bấy giờ Moise cảm thấy mình hèn yếu bất lực, nên đã thưa lại rằng:
– Lạy Chúa con là vật gì, mà Chúa chọn và sai con. Con là ai, mà dám đến với hoàng đế Pharaon. Con chỉ là một tên nô lệ, laị là đứa nói ngọng, thì làm sao thuyết phục được vua nước Ai cập.
Thấy Moise khiêm tốn, biết mình hèn yếu bất lực, Chúa đã chấn tĩnh:
– Con nói trúng, để đương đầu với vua Pharaon, phải có một bàn tay cứng rắn sắt đá; nhưng con đừng sợ, cha sẽ ở với con.
Thế rồi, Chúa luôn ở với Moise bằng cách trao cho ông chiếc gậy thần để ông làm nhiều phép lạ, thuyết phục được hòang đế Pharaon. Và Moise đã trở nên vị lãnh đạo xuất chúng, đưa dân Do thái ra khỏi nước Ai cập, đi qua biển Đỏ, và tiến vào đất hứa.
Moise đã hạ mình xuống, nhận mình là hèn yếu, bất lực, là tên nô lệ, là đứa nói ngọng, nên đã được Chúa nâng lên làm vị lãnh đạo đưa dân Do thái ra khỏi nước Ai cập và tiến vào đất Chúa hứa.
*3. Bài học hôm nay.
Hãy biết sống khiêm nhường dể được Chúa yêu thương. Lý do tại sao?
Socrate là một triết gia rất thời danh của nước Hy-lạp vào năm 470-399 trước Chúa giáng sinh. Socrate cũng là một quân tử đã khai sinh cho khoa luân lý học. Lần kia, quân tử Socrate đã gọi sinh viên Aleibriade lên đứng trước tấm bản đồ thế giới mà bảo:
– Này trò, trò hãy chỉ cho thày coi, Châu Á ở chỗ nào?
Chàng Sinh viên Aleibriade đã chỉ trúng vào chỗ Châu Á. Quân tử Socrate lại bảo trò
– Hãy chỉ nước Hy-lạp trong Châu Á.
Sinh viên Aleibriade cũng chỉ trúng chỗ. Quân tử Socrate bảo thêm:
– Trò hãy chỉ xứ Attique trong bán đảo Péloponnèse.
Sinh viên Aleibriade đã chỉ trúng vào cái chấm nhỏ xíu.
Sau cùng, quân tử Socrate mới bảo:
– Trò hãy chỉ cho thày biết, cái chỗ trò đang đứng trên tấm bản đồ thế giới.
Đến đây sinh viên Aleibriade đỏ tai và luống cuống, không biết chỉ vào chỗ nào cho trúng, vì thấy mình rất nhỏ bé trên tấm bản đồ thế giới. Bấy giờ quân tử Socrate nói:
– Thày muốn dạy các trò một quan niệm đích thực về con người. Các trò đối với thế giới, giống như giọt nước đối với biển cả mênh mông. Các trò đối với nhân loại giống như hạt cát đối với bãi sa mạc bát ngát, để các trò có một bài học khiêm tốn đối với mọi người (7,83).
Vậy nếu quân tử Socrate đã dạy các sinh viên của ông bài học khiêm tốn, khi biết mình là bé nhỏ, thì trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa cũng dạy chúng ta phải ở khiêm tốn, đừng có kiêu ngạo, khi Chúa phán:
“Ai hạ mình xuống thấp hèn
Sẽ được Thiên Chúa nâng lên cao vời”
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TIN MỪNG CHO KẺ KHỐN CÙNG– Trích Logos C
Sứ điệp lời Chúa hôm nay chính là Tin Mừng Cho Kẻ Khốn Cùng. Người thu thuế tội lỗi, kẻ khốn cùng trong dụ ngôn Tin Mừng, cuối cùng, lại là người được Chúa đoái thương Ban ơn cứu độ. Ngược với ông thu thuế là vị Biệt phái đáng kính lại trở nên kẻ mất ơn cứu độ. Vì sao vậy?
Khách quan mà nói
Người Biệt phái có đời sống xem ra đạo đức hơn người thu thuế. Người Biệt phái có công với dân tộc. Họ can đảm duy trì căn tính dân tộc và tôn giáo cha ông để lại. Có thể nói, về mặt tinh thần, họ là nhưng anh hùng kháng chiến giữ cho dân tộc Do Thái không Bị Biến chất trước thế lực của ngoại Bang đang đô hộ đất nước. Về mặt giữ đạo truyền thống, họ là người gương mẫu trong hình thức: hằng tuần vào ngày Thứ Hai và ngày Thứ Năm họ giữ chay nghiêm ngặt; họ đóng góp 1/10 lợi tức cho đền thờ gọi là thuế thập phân (cf Lc 27, 30; Đnl 14, 22). Họ giữ lề luật một cách khắt khe còn hơn cả mức độ lề luật đòi hỏi!
Người thu thuế có thể nói là hạng Do Thái gian. Những người này đã tiếp tay với đế quốc La mã để Bắt thuế dân mình. Họ thu hơn chỉ tiêu phải nộp và phần dư thuộc về họ! Do vậy, những kẻ làm nghề thu thuế xưa đều là những người giầu có: giầu trên xương máu, mồ hôi của đồng Bào. Xã hội coi họ tương đương với phường trộm cắp, “ăn cướp hợp pháp”!
Tiếc thay cho người Biệt phái
Tiếc thay cho người Biệt phái vì không đứng đúng vị trí của mình khi đến với Chúa. Việc giữ đạo xem ra nghiêm túc nơi ông đã trở nên cái Bẫy cho ông. Nó là nguyên nhân dẫn ông tới thái độ tự phụ. Nó làm ông không còn sáng suốt nhận ra vị trí đúng đắn của mình khi đứng trước Thiên Chúa chí thánh. Ông ảo tưởng về mình. Ông thấy mình thánh thiện trọn hảo. Ông khoe công đức của ông trước Chúa. Ông khinh thiên hạ chẳng “đạo đức” Bằng ông. Trong tâm trạng tự phụ ấy, đầu óc ông không còn chỗ cho tâm tình xin ơn tha thứ. Ông tự làm phá sản đời sống thiêng liêng! Lòng kẻ kiêu ngạo như ly nước đầy tràn chẳng còn chỗ cho Thiên Chúa đổ ơn vào! Ai nâng mình lên sẽ Bị hạ xuống.
May thay cho người thu thuế
May thay cho người thu thuế! Dù đời sống ông rất tệ nhưng may mắn cho ông vì ông đã nhận ra tình trạng khốn nạn của mình. May mắn hơn nữa, ông không mặc cảm và tìm cách tránh xa Chúa. Như con Bệnh đi đúng địa chỉ tới thầy hay thuốc tốt, ông đã đến với Chúa trong thái độ khiêm tốn xét mình, thành tâm ăn năn, tin tưởng vào lòng khoan dung vô Bờ của Chúa và chờ Chúa chữa lành thương tật thiêng liêng cho ông. Người thu thuế đã không lầm. Thiên Chúa rất ghét tội nhưng không ghét tội nhân. Chúa luôn đi tìm tội nhân (cf Mt 18, 12). Chúa luôn chờ đợi tội nhân (cf Lc 13, 6-9). Chúa vui lòng thấy tội nhân đến với Chúa (cf Mt 9, 9-13). Thái độ hạ mình xuống như chiếc chìa khoá mở cửa lòng thương xót của Thiên Chúa. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
May mắn thay cho chúng ta
May mắn cho chúng ta vì tấm lòng khoan dung của Thiên Chúa trước sau như một.
Thiên Chúa không xét theo dáng vẻ Bề ngoài như con người vẫn đánh giá nhau. Chúa loại trừ Bảy người con tuấn tú, cao ráo, chững chạc để chọn người con út Đavit của gia đình Isai làm vua thay thế Saulê.
Chúa đón nhận cả người nghèo, người cùng đinh, người yếu đuối, kẻ Bị ruồng Bỏ… chỉ cần họ tin Chúa. Anh mù Bartimê Bị thiên hạ chửi mắng lại được Chúa gọi đến Ban ơn.
Chúa lắng nghe người kiên trì cậy trông Chúa. Lời nói của kẻ vô danh tiểu tốt, của người nghèo… chẳng ai thèm nghe lại có sức xuyên qua ngàn mây thẳm thấu tới toà Chúa cao sang!
Do vậy
Thái độ mặc cảm tự ti trước Chúa là một sai lầm. Giuđa Iscariôt đã sai lầm khi thất vọng không tin Chúa có thể tha thứ cho ông.
Khiêm tốn, tin cậy tín thác vào Chúa là thái độ khôn ngoan đúng đắn hợp với ơn cứu độ. Phêrô đã xử sự khôn ngoan sau khi lỗi lầm khi khóc lóc ăn năn.
Loài người đừng dại dột đòi Chúa Ban ơn theo công trạng của mình. Dùng đôi tay nhỏ Bé của con người mà nhận ơn Chúa thì được ít hơn là nhờ Bàn tay quảng đại của Chúa đong ơn lành cho ta.
Một em Bé nghèo đứng trước cửa hàng Bánh kẹo thèm thuồng nuốt nước miếng. Ông chủ cửa tiệm tốt Bụng Biết hoàn cảnh của em nên nói với em: “Ta cho con Bốc một vốc kẹo nào con thích!” Em Bé vui mừng thò tay vào lọ kẹo em cho là ngon nhất. Nhưng tức khắc em rụt tay lại. “Sao con không Bốc? Ta cho con thật mà?” ông chủ ngạc nhiên hỏi em Bé. Em giải thích: “ Thưa ông, con nghĩ là tay ông to hơn tay của con!”
Trên đời này,chẳng có ai thực sự khốn cùng nếu còn lòng khiêm tốn phó thác cậy trông vào Chúa. Amen