CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
AI NẤY SẼ VUI MỪNG (*)– Chú giải của Noel Quesson. 8
XIN CHUNG VUI VỚI TÔI- Chú giải của Fiches Dominicales. 15
TẤM LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
LÒNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 31
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ- Lm. Giuse Đinh lập Liễm 44
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 65
HÃY CHIA VUI VỚI TÔI- Lm. PM Cao Huy Hoàng. 70
LÒNG BAO DUNG CỦA THIÊN CHÚA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 76
HỐI CẢI (*)– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 79
LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 85
LẠC LỐI- Lm. Bùi Quang Tuấn. 88
THIÊN CHÚA ĐI TÌM – Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 93
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: “Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập”. Chúa phán cùng Môsê: “Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại”.
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: “Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: “Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời. Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi”. Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 12-13. 17 và 19
Ðáp: Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi (Lc 15, 18).
Xướng: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
Xướng: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
Xướng: Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.
Bài Ðọc II: 1 Tm 1, 12-17
“Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để cứu độ những người tội lỗi”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Cha cảm tạ Ðấng đã ban sức mạnh cho cha là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào cùng với đức tin và đức mến trong Ðức Giêsu Kitô.
Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Ðức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời.
Danh dự và vinh quang (xin dâng về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời. Amen!
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 15, 1-10 {hoặc 1-32}
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng”.
Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!” Cũng vậy, Tôi bảo các ông: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
“Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất’. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
{Người lại phán rằng: “Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha’. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: ‘Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ’. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’.
“Nhưng người cha bảo: ‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'”.}
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
AI NẤY SẼ VUI MỪNG (*)– Chú giải của Noel Quesson
Tin Mừng hôm nay, nếu đọc đầy đủ, gồm “ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu, mà Luca đã tập họp trong chương 15: *1. Con chiên bị mất và tìm lại được *2. Đồng bạc bị đánh mất và tìm lại được *3. Đứa con đi mất và trở về. Ba dụ ngôn này được xây dựng trên cùng một sơ đồ và đạt đỉnh cao trong dụ ngôn thứ ba mà nhan đề truyền thống là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Tuy nhiên, vì dụ ngôn thứ ba này đã được suy gẫm vào Chúa nhật IV Mùa Chay của cùng năm Phụng vụ này, nên hôm nay chúng ta chỉ cần chú giải hai dụ ngôn đầu.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.
“Ông này đón tiếp phường tội lỗi, đó là một định nghĩa về Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một mạc khải của Thiên Chúa!”. “Ai thấy tôi là thấy cha tôi” (Ga 14,9).
Những người Pharisêu và các kinh sư là những người rất được trọng vọng. Họ thật sự bị sỉ nhục vì Đức Giêsu thường tiếp phường tội lỗi. Phần chúng ta, chúng ta có thể hoàn toàn bỏ qua khía cạnh “Tin Mừng” của ngày hôm nay, nếu chúng ta không nhận ra rằng bài Tin Mừng này cũng vì chúng ta. Phải chăng chúng ta là những người nói rằng: “Tôi không làm gì xấu, tôi là một người tử tế, tôi không có tội”.
Tuy nhiên, trong phần thư của Thánh Phaolô mà chúng ta đọc hôm nay, thánh nhân lặp lại với chúng ta: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Timôtê I,15). Phụng vụ ngày Chúa nhật đầy rẫy thực tại “cứu độ” “tội lỗi được tha thứ”. Chúng ta có đem lại một nội dung cụ thể cho các từ đó? Chúng ta có thuộc phái Pharisêu chỉ nhìn thấy tội lỗi. Trong những người khác? Trước khi đi xa hơn trong sự suy niệm của tôi, tôi cần phải bình tâm và sáng suốt nhận thực rằng tôi là kẻ tội lỗi” khi nhớ đến những thiếu sót mà tôi phạm phải trong đời tôi.
Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”
Đức Giêsu hỏi. Người kêu gọi kinh nghiệm của các cử tọa, các ông nghĩ gì? Các ông sẽ làm gì? Thật ra, không một mục đồng nào chịu mất dù chỉ một con chiên, nhưng lo lắng để tìm lại nó.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một ý niệm vững chắc: Một hữu thể bất động, không hề thay đổi… Còn ở đây chúng ta đứng trước một Thiên Chúa “chuyển động”, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái mà Người đã mất? Và Đức Giệsu đặt trước mắt – chúng ta các cậu mục đồng vùng đồi núi Galilê đang chạy hết tốc độ, chân trần trên sỏi đá để tìm lại một con chiên đi lạc khỏi đàn. Chúng ta đoán được sự ngoan cường của các cậu trai ấy, “tìm kiếm cho tới khi nào tìm thấy!”
Thiên Chúa là như thế…
Không bao giờ có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi.
Không bao giờ có người nào “bị mất” hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương người ấy không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về. Người ra đi tìm họ.
Chúng ta còn phải chiêm niệm lâu dài Thiên Chúa đó, Đấng mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Khi người ta yêu thương, thì số học không còn như cũ. Lúc đó, có thể đặt dấu bằng (=) ở giữa số 1 và số 99. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi phụ nữ có một giá trị độc nhất, vô giá. Tôi nhìn thấy con chiên độc nhất ấy đã bò trốn hoặc đã bị mất. Đó là con chiên chiếm hết ý nghĩ của cậu mục đồng. Và xem ra chỉ có nó mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Người, một Thiên Chúa yêu mến những ai không yêu mến Người, một Thiên Chúa đau khổ chỉ vì một trong số các con chiên của Người làm Người lo lắng.
Đôi khi, tôi chẳng phải là con chiên đó sao? Và, xung quanh tôi, như ông nọ, bà kia, cô X…, ông Y… không người nào bị bỏ rơi. Thiên Chúa đang tìm kiếm họ.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai…”
Đây là một hình ảnh kỳ diệu, một trong những tranh thánh đã thể hiện Đức Giêsu như thế ngay từ những thế kỷ đầu: Một người chăn chiên sung sướng, tươi cười, vác trên vai một con chiên. Trong nội tâm mình, chúng ta còn phải chiêm niệm hình ảnh ấy của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã có một sự quan sát rất tinh tế với chi tiết đơn giản đó: “vác con chiên trên đôi vai”, khi một con chiên đi lang thang nhiều giờ hoặc nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó thời. Và một con chiên nặng đấy? Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi nhiều sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc? Nhưng, Đức Giêsu nói, hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa được giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Kinh thánh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “Người chăn chiên” (Isaia 40,11; 49,10 v.v…). Và mỗi Kitô hữu thỉnh thoảng phải đọc lại Thánh Vịnh 26 tuyệt vời: “Chúa là đấng chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi”.
“Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”.
Niềm vui của người chăn chiên rất mạnh mẽ nên người ấy không thể, giữ lại cho một mình mình. “Xin chung vui với Ta” Thiên Chúa nói. Vậy giờ đây Thiên Chúa là hữu thể đang vui mừng và chia sẻ nềm vui. Chúng ta hoàn toàn khác với các người Pharisêu và kinh sư hay càu nhàu, bẳn gắt!
Vậy tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Thiên Chúa vui mừng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa vui mừng để cứu độ, vì Người không biết kết án ai. Trên trời có niềm vui! Vậy khi nào? Mỗi lần một kẻ tội lỗi hoán cải. Chỉ một thôi ư! Mỗi lần mà sự ác lùi lại một chút trên mặt đất.
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà moi móc tìm cho kỳ được?
Luca, vốn rất quan tâm đến các phụ nữ là người duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn đầy “nữ tính” này, để nói lại với chúng ta cùng một sự việc dưới một hình ảnh bổ sung. Sự lặp lại này không đơn thuần là một minh họa mới: Đức Giêsu nhấn mạnh, như để nói với chúng ta rằng điều Người vừa mới mạc khải không phải là một sự nói quá hoặc một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên. Tình yêu phi thường của Thiên Chúa được tái xác nhận ở đây.
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”.
Vậy giờ đây một niềm vui rất đơn sơ được chia sẻ giữa những Người phận nhỏ. Đây cũng là một sự quan sát cụ thể của Đức Giêsu. Người phụ nữ được đưa lên sân khấu này là một Người nghèo: Bà không sở hữu “một trăm con chiên”, bà chỉ có mười “đồng quan “! Đồng quan này chỉ số tiền lương trung bình một ngày công nông nghiệp (Mt 20;2). Vì thế không phải là gia tài to lớn gì mà bà đã tìm lại được Nhưng bà cũng muốn chia sẻ niềm vui. Thiên Chúa là như thế đó. Chúng ta còn chưa hiểu đủ bầu khí vui mừng xuất phát từ tấm lòng của Thiên Chúa nằm rải rác khắp nơi trong toàn bộ Tin Mừng như một “Tin Mừng”, và niềm vui ấy muốn tràn ngập nhân loại được “cứu thoát”.
“Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Hình ảnh này rất đẹp. Không nên cụ thể hóa nó. Có một cuộc lễ trên thiên giới. Niềm vui của Thiên Chúa lan truyền và trở thành niềm vui của các thiên thần.
Tất cả lễ hội hân hoan này chỉ vì sự hối cải của một người tội lỗi?
Tư tưởng Kitô giáo, phản ánh tư tưởng của Đức Giêsu đầy sự tinh tế. Phải nhấn mạnh rằng, không hề có một sự làm hại thanh danh với “tội lỗi” trong thái độ đó. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ. Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Máccô 1,15). Và nếu các dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa thì chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi. Nhưng điều được nói ở đây một cách mạnh mẽ là luôn luôn Thiên Chúa có sáng kiến “đi tìm” điều đã bị mất. ‘Tình yêu cốt ở điều này; không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,10 -19).
Chúng ta có để Thiên Chúa yêu thương chúng ta không? Chúng ta có mang lại niềm vui cho Thiên Chúa không? Và có bước vào trong niềm vui của Thiên Chúa không? Cần phải đọc lại phần kế tiếp là dụ ngôn về đứa con hoang đàng, trong Chúa nhật IV Mùa Chay.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
XIN CHUNG VUI VỚI TÔI- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
*1. Bữa ăn chung với kẻ tội lỗi
Ở đây chúng ta chỉ nhắc qua bối cảnh là một cuộc tranh luận, và tập trung chú ý vào lời mời gọi hãy chung vui vì tìm lại được những gì đã mất, được ghi lại trong cả ba dụ ngôn.
Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải đổ máu để cứu muôn người. Nhiều “người thu thuế và tội lỗi, đến để nghe Người giảng. Những người Biệt phái và kinh sư thì khó chịu “xầm xì với nhau” chống lại Người bởi vì không chỉ “đón tiếp phường tội lỗi”, Đức Giêsu còn “ăn uống đồng bàn với chúng”, một hành động tỏ ra cùng phe với bọn chúng!
Để trả lời, Đức Giêsu nói với họ ba dụ ngôn rất hay về lòng thương xót, làm thành chương 15 của Tin Mừng Luca. Để biện minh cho cách đối xử của mình, Đức Giêsu nêu lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi. Qua những lời Người nói và các việc Người làm, từng là cớ vấp phạm cho đối phương, Người cho thấy lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đang được thể hiện và hoạt động. Và “tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chúng được yêu và cũng chúng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ” (Cousin, L’Evangile de Luc, Centurion, trg 211).
*2. Lời mời gọi chung vui
Cả ba dụ ngôn đều nêu bật sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng đi bước trước trong việc tìm kiếm tội nhân (hai dụ ngôn đầu) và đã “chạy ra” đón đứa con hoang trở về dụ ngôn thứ ba. Tuy nhiên đỉnh cao của mỗi dụ ngôn đều nằm ở lời mời gọi hãy chung vui vì đã tìm lại được : Niềm vui của người “chăn chiên” vác “con chiên lạc đã được tìm thấy” trên vai. Mời gọi bạn bè và hàng xóm đến chia sẻ : “xin chung vui với tôi !”.
Niềm vui của “người phụ nữ” tìm lại được “đồng bạc đã đánh mất”, mời gọi bạn bè và chị em xóm giềng đến chia sẻ : “xin chung vui với tôi !”.
Niềm vui của “người cha” khi đứa con trở về, “đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”, mời gọi người con cả cố chấp của mình cùng chia sẻ : “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ !”.
Roland Meynet nhận định, “Những người Pharisêu và các kinh sư, coi thái độ xử sự của Đức Giêsu như một hành dộng phản lại họ. Bởi vì đón tiếp những kẻ tội lỗi cũng có nghĩa là bỏ rơi những người công chính, là để mặc những con chiên ngoan ngoài hoang địa. Như vậy, chính những người này đã tự tách riêng mình ra, đứng ngoài bữa tiệc vui của Đức Giêsu và những kẻ tội lỗi ăn năn trở lại niềm vui của người khác làm gai mắt họ, trong khi chính họ cũng được mời đến tham dự cuộc vui đoàn tụ của tất cả mọi người. Họ không hiểu rằng niềm vui đoàn tụ không chỉ riêng của con chiên lạc với chủ nó mà thôi, nhưng còn là niềm vui đoàn tụ chung của tất cả các con chiên với nhau, của con chiên lạc với 99 con kia, trong cùng một chuồng chiên, dưới cùng một chiếc gậy chăn của một chủ chiên duy nhất. Niềm vui còn phải được nới rộng ra đến mọi người hàng xóm và bạn bè, nếu không nó sẽ không trọn vẹn. Sẽ không thể có niềm vui đoàn tụ đích thực nếu có ai đó còn đứng ngoài. Tất cả đều được mời, và vòng tròn tham dự còn rộng mở đến tận trời cao, đến các thiên thần của Thiên Chúa. Như vậy làm sao tự cho phép mình đứng ngoài và tự tách rời khỏi cuộc hoà giải của tất cả ? Từ chối chung vui với Đức Giêsu, không chia sẻ niềm vui của ơn tha thứ được trao ban và đón nhận, chính là khước từ niềm vui Nước Trời, là xầm xì chống lại Thiên Chúa” (L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhélorique, tập 2, Cerf, trg 161-162).
BÀI ĐỌC THÊM :
*1. Niềm vui cho tất cả.(G. Bessière, trong “Diêu siproche. Année C”, Desclée deBrouwer, trg 146-147)
“Một xã hội đang bị câu thúc. Nhiều phe cánh kình chống nhau. Cả một mớ những lời lẽ và ánh mắt thô tục. Ở giữa đó, hiện lên một khuôn mặt, đó là Đức Giêsu. Con người ấy đã dám đánh đổ mọi phe phái đạo đức và tôn giáo của đất nước mình. Thử tưởng tượng xem: “ông ta đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Tất cả bọn chúng tuôn đến để nghe ông ta. Trong lúc phía bên kia là những phần tử ưu tú trong dân về mặt trí thức, nhân đức và lòng đạo: nhóm Pharisêu và các kinh sư, những đấng bậc khả kính, những con người đủ tư cách sửa dạy người khác…
Sự thinh lặng được phá vỡ. Và đây con người lạ lùng kia, với biệt tài vô song, lên tiếng kể chuyện. Có ai ngờ được rằng suốt hai ngàn năm, và còn mãi về sau, người ta vẫn còn ngồi lại thuật cho nhau nghe những câu chuyện đó, và chúng sẽ mãi mãi là những gì quí báu nhất còn ghi lại trong ký ức của nhân loại.
Con chiên bị mất, không hề có chi tiết nào nói nó kêu be be, để gọi chủ. Nó chẳng có công gì xứng đáng để được chủ vác lên vai. Mọi sự đều phát xuất từ người chăn chiên mà ‘niềm vui trong tim’ cứ muốn tràn sang đến tất cả. Và cả cõi thiên đình chẳng quan tâm bao nhiêu tới trật tự tốt đẹp nơi bầy chiên ngoan, lại tỏ ra vui mừng rộn ràng khi có một con người biết chỗi dậy và bắt đầu cuộc sống mới? Còn việc trở về của thằng con phung phá, ăn chơi và hư đốn? Tới bước đường cùng hắn mới chịu “hồi tâm suy nghĩ”: dù có cố tìm một lời lẽ gì đó để nói khi về đến nhà, thì chẳng qua chỉ vì đói nên hắn mới chịu mò về đó thôi. Cũng thế, tất cả đều khởi động từ cõi lòng người cha, “trông thấy con từ xa, ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Thằng con có ráng ấp úng bài diễn văn tạ tội đã dọn sẵn trong đầu cũng vô ích thôi, bởi lúc này ai nấy đang tưng bừng chuẩn bị dọn tiệc ăn mừng. Có cả tiếng ca tiếng đàn nữa! Chắc chắn rồi. Đối diện trước cả hai cánh tốt xấu trên của nhân loại, Đức Giêsu tuyên bố mọi sáng kiến của Người dành cho những kẻ bị loại trừ, bị khinh miệt và tất cả những người tật nguyền về mặt tinh thần, đều là những sáng kiến của chính Đấng được tung hô ba lần Thánh. Người là Mục Tử của Israel, là Cha của dân tộc, là người đã chạy đi tìm con chiên lạc và ra đón đứa con hoang trở về.
Thiên Chúa, mà người nhân đức thánh thiện tưởng mình độc quyền sở hữu, kẻ tội lỗi thì nghĩ mình đã quá xa rời, chính Người đã lật đổ mọi thứ học thuyết và mọi lề lối sống đạo có sẵn. Chúng ta có thực sự tin rằng nơi vị Thiên Chúa ấy có tình yêu mãnh liệt, khiến Người luôn mơ đến một thế giới trong đó mọi người đều là anh em, và làm dậy lên trong Người một niềm vui mong được chia sẻ với tất cả?”.
*2. Khuôn mặt thật của Thiên Chúa.(“Missel Emmaus des Dimanches”, trg 1105).
“Thiên Chúa! Đấng chúng ta muốn là quan toà kết tội người khác, nhất là những kẻ thù nghịch, trong lúc chúng ta lại xin Người tỏ lòng nhân từ với chính mình: phải chăng đó là chuyện “hoàn toàn tự nhiên?”.
Do suy nghĩ như vậy, nên giữa chúng ta vẫn xảy ra thói xét đoán lẫn nhau, lên án lẫn nhau.
Thiên Chúa chúng ta mơ tưởng đó thực ra chỉ là một ngẫu tượng do chúng ta nhào nặn ra và nhằm phục vụ lợi ích của bản thân. Đó không phải là Thiên Chúa thật. Phải, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi xua tan đi lớp mây mù do trí khôn loài người bày ra che phủ khuôn mặt thật của Người. Tuy nhiên chỉ những ai nhận ra tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và những ai để cho ân sủng ấy chiếm hết đời mình, đồng thời phản chiếu ra bên ngoài qua cách ăn ở với mọi người xung quanh. Chỉ những người như vậy mới cảm nghiệm được khuôn mặt thật của Thiên Chúa. Ích kỷ chỉ biết đến mình là điều ai nấy đều không thể chấp nhận cho dù đó là những con người “ngoan đạo” nhất!
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TẤM LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm C mời gọi suy niệm về tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Người sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối:
“Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,nào có ai đứng vững được chăng?Nhưng Chúa vẫn rộng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130: 3-4).
Xh 32: 7-11, 13-14:
Nhờ lời chuyển cầu tha thiết của ông Mô-sê, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha thứ tội lỗi của dân.
1Tm 1: 12-17:
Thánh Phao-lô viện dẫn cuộc hoán cải của chính mình để làm chứng “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34).
Lc 15: 1-10:
Chúa Giê-su trả lời cho lời phàn nàn của người Biệt Phái tại sao Ngài giao du với những người tội lỗi qua hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” và “Đồng bạc bị đánh mất”. Qua hai dụ ngôn này, Đức Giê-su hiện thân tấm lòng đầy xót thương của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Xh 32: 7-11, 13-14)
Trong khi ông Mô-sê còn lưu lại trên núi, dân chúng bắt ép ông A-ha-ron đúc cho họ một vị thần linh mà họ có thể thấy và chạm được – loại thần linh mà các dân tộc chung quanh đang phụng thờ. Bản văn nhấn mạnh sự kiện con bê được đúc bằng bạc vàng do bàn tay con người, chỉ là một sản phẩm của các nghệ nhân, có tai mà không nghe, có miệng mà không nói, có mắt mà không thấy (x. Tv 105: 19-20; 115: 5tt). Bản văn cũng nói đến “lễ hội” (32: 5) có thể hàm ý đến những nghi lễ cúng tế thần linh bắt chước những gì dân Do thái thấy ở nơi các dân tộc chung quanh.
*1.Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (32: 7-10)
Thiên Chúa báo tin dữ cho ông Mô-sê và ngỏ ý muốn tiêu diệt dân phản nghịch, dân mà Ngài không còn gọi là “dân Ta” một cách thân tình nữa, nhưng là “dân ngươi” (32: 7) một cách xa lạ. Tội này quá nghiêm trọng, đáng bị trừng phạt bằng họa diệt vong. Nhưng vì công lao khổ nhọc của ông Mô-sê, Thiên Chúa hứa với ông Ngài sẽ làm nên một dân tộc khác, lớn hơn dân Do thái, xuất từ ông để dân ấy thừa hưởng lời hứa (32: 10).
*2.Lời chuyển cầu của ông Mô-sê (32: 13-14):
Ông Mô-sê tuy rất buồn giận dân, nhưng lòng thương của ông dành cho dân khiến ông không muốn dân bị hủy diệt. Ông chuyển cầu cho dân. Ông gợi lên hai lý do để xin Chúa tha thứ. Lý do thứ nhất, tiêu diệt dân có thể khiến cho người ta hiểu lầm lòng tốt của Thiên Chúa: người Ai-cập có thể lấy cớ đó mà rêu rao rằng “chính vì ác tâm mà Thiên Chúa đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất” (32: 12). Lý do thứ hai, tiêu diệt dân thì đi ngược lại với những lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ: “Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa, chúng sẽ thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (32: 33; x. St 22: 16-18).
Có lẽ hai lý do này không đủ làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cho bằng chính hành vi chuyển cầu của ông cho dân. Ông là một phàm nhân mà còn không muốn dân phải chết dù tội của dân đáng phải chịu như thế, Thiên Chúa lại không mở rộng lòng mà tha thứ cho dân sao? Vai trò chuyển cầu của ông Mô-sê cho toàn dân được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bộ Ngũ Thư: tại Ai-cập (Xh 5: 22-23; 8: 4; 9: 28; 10: 17), nhất là nơi hoang địa (Xh 32: 11-14, 30-32; Ds 11: 2; 14: 13-19; 16: 22; 21: 7; Đnl 9: 25-29), còn được nhắc lại ở Gr 15: 1; Tv 99: 6; 106: 23; Hc 45: 3, và báo trước vai trò chuyển cầu của Đức Giê-su sau này.
BÀI ĐỌC II (1Tm 1: 12-17)
Lời phát biểu chủ chốt trong đoạn trích này là “Đức Ki-tô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi” (1: 15). Trong tâm tình tri ân, thánh Phao-lô nhắc lại cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân tín của mình, cuộc hoán cải của thánh nhân (x. Gl 1: 13-16; 1Cr 15:9; Ep 3: 8) và trình bày nó như mẫu gương cho những người khác. Nếu Thiên Chúa đã ban cho thánh nhân tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa cũng ban tràn đầy ân sủng cho bất kỳ ai. Không ai tự coi mình là không thể sống sự sống của Đức Ki-tô.
Chúng ta không thể kỳ vọng lòng thương xót của Thiên Chúa tác động trong chúng ta, nếu chúng ta vẫn cứ cố chấp trong tội khi mà chúng ta biết đó là tội (x. Rm 2: 4). Thánh Phao-lô “đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1: 13). Chúng ta nhớ lại lời cầu nguyện của Đức Giê-su: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23: 34). Nhưng ngay cả khi không biết việc mình làm, thánh Phao-lô cũng ý thức rằng: “Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1: 14). Chính đó là đức tin và đức mến mà hiện nay Đức Ki-tô đổ tràn đầy trên thánh nhân (x. Gl 2: 16; Rm 5: 15-20), vì “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).
Ân sủng Thiên Chúa ban đã là mẫu gương khuyến khích mọi người, và hiện nay chính là sứ vụ của thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 3: 5-6; 4: 1; 5: 18; 6: 3; Rm 11: 13; Cl 1: 7, 23), quyền năng của sứ vụ đến từ Thiên Chúa chứ không từ thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 12: 9; Pl 4: 13), đó là kể cho mọi người biết điều này, ngỏ hầu họ cũng trải nghiệm cùng ân sủng tràn đầy như vậy.
Cuộc hoán cải của thánh Phao-lô làm chứng cho “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Ngài sẽ không bao giờ ngừng theo đuổi chúng ta. Đấng yêu thương chúng ta là Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34). Thánh Phao-lô hy vọng rằng thánh nhân sẽ là mẫu gương để không ai còn phải thất vọng. Chúng ta không thể giả vờ như thử không nhận ra tội lỗi tác hại như thế nào, để rồi vẫn cứ ở lỳ trong tội. Nhưng dù chúng ta đã làm bất kỳ điều gì, quá khứ của chúng ta đã như thế nào, Ngài vẫn một mực yêu thương chúng ta. Ngài đã hiến thân mình cho chúng ta và sẽ không bao giờ ngừng kêu mời chúng ta sám hối và tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài (1: 16; x. Rm 9: 33; 10: 11), nhờ đó chúng ta được vui hưởng cuộc sống đời đời với Ngài. Tư tưởng này khiến thánh Phao-lô cất lên lời ca ngợi Thiên Chúa bất diệt (Rm 1: 23), vô hình (Cl 1: 15) và duy nhất (Ep 4: 6).
Trong cuộc sống của mình, thánh Phao-lô luôn bày tỏ tình yêu kỳ diệu của Đức Ki-tô (1: 16), được lập đi lập lại như một điệp khúc trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “ngợi khen vinh quang của Người” (Ep 1: 6, 12, 14). Đó là kế hoạch của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại (Ep 1: 3-14). Đó là sứ điệp trọng tâm mà thánh Phao-lô muốn ông Ti-mô-thê bảo đảm thường hằng giảng dạy cho các cộng đoàn Ki-tô hữu khắp miền Ê-phê-xô.
TIN MỪNG (Lc 15: 1-10)
Trong chương 15 này, thánh Lu-ca kể lại ba trong số những dụ ngôn trong đó Chúa Giê-su mô tả niềm vui của Thiên Chúa khi thấy những người tội lỗi hối cải. Tin Mừng dạy rằng không ai bị loại ra ngoài ơn tha thứ của Thiên Chúa, vì thế những tội nhân có thể trở thành những người con yêu dấu của Thiên Chúa nếu họ ăn năn hối cải. Thiên Chúa ước mong những tội nhân hối cải đến mức mỗi một dụ ngôn này đều kết thúc với một điệp khúc kể về niềm vui lớn lao trên trời khi thấy một tội nhân hối hận ăn năn.
*1.Những phàn nàn của người Biệt Phái (15: 1-3):
Đây không là lần đầu tiên những người thu thuế và những người tội lỗi năng lui tới với Đức Giê-su (15: 1; x. Mt 9: 10). Họ bị hấp dẫn bởi chính lời rao giảng của Đức Giê-su và tấm lòng rộng mở của Người đối với họ. Trái lại, những người Biệt Phái và các kinh sư vấp phạm vì thấy Chúa Giê-su giao du và bầu bạn với những người tội lỗi, những người mà chẳng những họ không chỉ khinh bĩ mà còn cấm không được giao thiệp để khỏi bị ô uế.
*2.Câu trả lời của Đức Giê-su (15: 4-10):
Trước đây, Đức Giê-su đã gặp phải phản ứng bất bình như thế và đã trả lời ngắn gọn và đanh thép: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5: 31-32). Ở đây, Đức Giê-su phát biểu ý kiến của mình theo cách khác, gợi hình và cụ thể, qua ba dụ ngôn, hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7), “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10) và một dụ ngôn dài: “Người Cha nhân hậu” (15: 11-32). Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay chỉ trích dẫn hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7) và “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10).
Hai dụ ngôn ngắn này được gọi là “cặp dụ ngôn sinh đôi” vì có cùng một cấu trúc song song với nhau. Cả hai dụ ngôn đều bắt đầu với một câu hỏi giả thiết, một lời đáp trả khẳng định. Một cái gì đó “bị mất” (lập lại đến năm lần) mà người ta “đã tìm lại được” (sáu lần). Sau khi đã tìm lại được, người ta chia sẻ niềm vui với người chung quanh. Như vậy, cặp dụ ngôn sinh đôi này không quan tâm đến tới cách thức đã xảy ra sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẽ niềm vui cả ở dưới thế lẫn ở trên trời. Như thế, việc Chúa Giê-su thường giao du với các kẻ bị loại trừ được biện minh bởi hành động của Thiên Chúa. Và hai dụ ngôn này như muốn nêu lên cho các người Biệt Phái, các kinh sư và cả độc giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Đức Giê-su khi thấy “những người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Ngài giảng” không?
*3.Dụ ngôn: “Con chiên lạc bị lạc đàn” (15: 4-7)
Công việc của người chăn chiên tại xứ Pa-lét-tin là một công việc khó nhọc và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn địa thế phần nhiều là những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu, chiên dể đi lạc. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hằng dặm qua núi đồi.
Tác giả của sách suy niệm “Hosanna” đã quảng diễn niềm vui của người chăn chiên khi gặp được con chiên bị lạc như sau: “Vui với tôi bạn nhé, tôi lại tìm thấy được tình yêu. Đôi mắt tôi không còn nhìn anh em với những thành kiến hẹp hòi. Lời nói tôi thôi làm bạn đau đớn. Tai tôi biết lắng nghe bạn trân trọng, cảm thông. Bàn tay tôi trong tay bạn, ấm nóng yêu thương nhiệt thành. Và tôi đến với bạn với cả tấm lòng của kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Người đặt tình yêu của mình trong hình ảnh bạn và trong đôi mắt tôi. Tạ ơn Chúa đã cho con hạnh phúc của người tìm lại được tình yêu bị lãng quên. Xin Cha cho con luôn biết gìn giữ, trân trọng tình yêu của Người”.
Phải chăng lời phát biểu của Đức Giê-su: “Hơn là chính mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” là một lời mỉa mai nhằm ngụ ý nhắn gởi đến các người Pha-ri-sêu và kinh sư, vì họ phải biết rằng không ai tự cho mình là công chính trước mặt Thiên Chúa mà tẩy chay và kết án người khác (x. Rm 3: 10tt), vì thế chính họ cũng cần hoán cải? Hay phải chăng đây là một cách nhấn mạnh tận mức, như trong chính dụ ngôn ở câu 4, giá trị khôn sánh của từng cá nhân đối với Thiên Chúa khi họ quay về với Ngài? Điều này không có nghĩa rằng Chúa Giê-su không đánh giá cao sự kiên trung bền vững của những người công chính. Người đơn giản nhấn mạnh niềm vui của Thiên Chúa và các thánh về sự hoán cải của người tội lỗi. Đây rõ ràng là lời kêu gọi ăn năn sám hối, đừng bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ.
Công Đồng Vatican II áp dụng dụ ngôn này vào phương cách các linh mục tiến hành công việc mục vụ của mình: “Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ cho các tín hữu và lương dân, cho người công giáo và ngoài công giáo thấy gương mặt tử tế và mục vụ của một thừa tác viên thật sự, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống. Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (x. Lc 15: 4-7) những người đã lãnh nhận phép rửa trong Giáo Hội Công Giáo nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay nhất là đã mất đức tin” (Vatican II, Lumen gentium, 28). Tuy nhiên, mỗi một tín hữu cũng phải có chung một mối bận lòng này – được diễn tả một cách huynh đệ – đối với anh chị em của mình, đối với mọi người trên con đường tiến bước đến sự thánh thiện và ơn cứu độ.
*4.Dụ ngôn: “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10)
Một người đàn bà chong đèn quét nhà moi móc tìm cho bằng được một đồng bị đánh mất rõ ràng là hình ảnh của một bà mẹ quê tần tảo chắt chiu từng đồng xu mà chúng ta thường gặp thấy ở bất kỳ đất nước nào. W. Baclay cung cấp cho chúng ta một lý do khác, một khía cạnh văn hóa thi vị như sau. Tại Pa-lét-tin, dấu hiệu của một người phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó, bởi vì xâu chuỗi tiền trên đầu của nàng cũng đánh giá ngang bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó, thì nó là của riêng nàng, đặc biệt đến nổi người khác không thể đoạt được của nàng, và nếu có đánh mất một đồng tiền nhỏ thì phải tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất chiếc nhẫn cưới (Trích từ “Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 191).
Tác giả “Hạt Giống Nẩy Mầm” đã suy niệm hai dụ ngôn ngắn này cách sâu xa như sau: “Thật cảm động thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên bị lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy một trăm con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỷ lưỡng: thắp đèn quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh trên thiên đàng: ‘Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối’. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân”.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÒNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!”
Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.
*II. Gợi ý sám hối
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14)
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:
- Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
- Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu “Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe”.
*2. Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: “Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm”.
*3. Tin Mừng (Lc 15, 1-32)
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc – người ta thường nói “đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
*4. Bài đọc II (1 Tm 1, 12-17)
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:
- “Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót”
- “Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”
- “Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài”.
*IV. Gợi ý giảng
* 1. Giá trị của từng con người
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi”.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).
* 2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Vì tôi lạc bị mất một con chiên”. Chúa Giêsu nói: “Để Ta đi tìm nó cho”. Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: “Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó”.
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?
- Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
- Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
- Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
* 3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.
Những con người bị mất ấy là ai?
- Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
- Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
- Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
- Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
- Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
- Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
– Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
– Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
*
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà”.
*
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (TP)
*5. Chuyện minh họa
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
– Ông biết đây là gì không?
– Nó giống như cát.
– Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?
– Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
– Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?
– Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. “Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? ” Câu trả lời thật ý nhị: “Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. “
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:
- Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.
- Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
- Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.
- Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
*VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
*VII. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ- Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Chủ đề của ba bài đọc hôm nay là Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngay sau khi dân Do thái ký Giao ước với Thiên Chúa đã quay ra phản bội, họ đã bỏ Chúa mà đi tìm một thần tượng khác làm hộ mạng, tức là thờ lạy con bê vàng. Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lậïp một dân lớn hơn, trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha tội cho dân. Thực ra, sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua bài đọc 1 này là Thiên Chúa rộng lòng thương xót sẵn lòng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong Đức Giêsu Kitô. Sự kiện Đức Giêsu đã đón tiếp và cùng ăn với những người tội lỗi làm cho những người biệt phái phẫn nộ. Họ là những người “biệt phái” tránh né mọi tiếp xúc với những người tội lỗi. Họ cho rằng những kẻ tội lỗi là những đồ bỏ đi. Phản ứng lại những lời chỉ trích của nhóm họ, Đức Giêsu đã chỉ ra cho họ một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung, Ngài sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của con người, bằng cách đưa ra ba dụ ngôn : con chiên đi lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa quan tâm đến một người hư mất và niềm vui của Ngài khi tìm lại được một người hư mất.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với người tội lỗi. Họ không phải là những hạng người bỏ đi như người biệt phái vẫn nghĩ thế; trái lại, họ là một con người, một con người cao qúi trước mặt Chúa không thể để hư mất. Nếu họ hư đi thì phải nỗ lực đi tìm kiếm như người chăn chiên bỏ 99 con mà đi tìm con chiên lạc, đem về cùng chung vui vì một người tội lỗi đã trở lại.
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Xh 32,7-11.13-14.
Ngay sau khi Thiên Chúa ký Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước. Vì ông Maisen ở lâu trên núi, nên dân đâm ra sợ hãi và tự tạo cho mình một thần tượng để hộ mạng. Đó là dân đã đúc con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Sự bất tín này làm Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt dân, đồng thời Ngài lại hứa với Maisen như xưa đã hứa với Abraham là sẽ làm cho ông nên tổ phụ của một dân tộc lớn. Nhưng ông Maisen đã khẩn khoản xin Chúa tha tội cho dân, và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt Israel nữa.
Mặc dầu Thiên Chúa hứa tạo cho ông một dân tộc mới, ông đã không lìa bỏ dân tộc mình, vẫn liên đới gắn bó với dân như trước. Chính ông van xin Thiên Chúa tha thứ và được Ngài nhận lời vì Thiên Chúa kiên nhẫn và trung tín.
+ Bài đọc 2 : 1Tm 1,12-17.
Trước khi nói cùng ông Timôthê yêu dấu, thánh Phaolô muốn nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với loài người. Nếu không có điều ấy, ơn gọi của chính ngài khó mà giải thích được : Thiên Chúa tha thứ. Ngài tạ ơn Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Chúa.
Trước kia, ngài là người bắt đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa xót thương. Sự trở lại của ngài là một thí dụ điển hình về ơn tha thứ Thiên Chúa dành cho mọi người.
+ Bài Tin mừng : Lc 15,1-32.
Thấy Đức Giêsu hay gần gũi với những người tội lỗi, nhóm biệt phái và luật sĩ tỏ ra rất khó chịu, lẩm bẩm với Ngài. Nhân dịp này Đức Giêsu đưa ra ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân : con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Tất cả đều nói lên Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Để ý nhận xét, đồng tiền là một vật nhỏ nhất mà cũng mất công tìm tòi kỹ lưỡng, điều này nói lên sự quan tâm rất mực của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về càng làm nổi bật lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái bạc bẽo. Chi tiết này càng làm cho người tội lỗi vững tâm trở về cùng Chúa.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tấm lòng nhân hậu của người Cha.
*I. THIÊN CHÚA KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI
*1. Hòan cảnh đưa đến dụ ngôn.
Đối với Đức Giêsu, người ta có hai thái độ trái ngược nhau : đối với những người biệt phái và luật sĩ, họ cho mình là người công chính nên khinh thường và tẩy chay Ngài. Còn những người tội lỗi thì lại đến gần Ngài, nghe Ngài giảng và sửa đổi con người của mình. Người Do thái rất khó chịu khi thấy Đức Giêsu giao du với những người tội lỗi và lại còn đồng bàn với họ nữa. Người ta khó chịu với Đức Giêsu vì họ thấy Ngài cư xử ngược với quan niệm của họ.
Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ lưật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “Dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người “Dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái dạy rằng : Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặït nó coi kẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”.
Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp.
Trước thái độ kỳ thị ra mặt của các đạo sĩ Do thái đối với người bị coi là tội lỗi, Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn để nói về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất.
*2. Ba dụ ngôn của Đức Giêsu.
- a) Dụ ngôn con chiên đi lạc.
Trước tiên ta cần lưu ý là hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên là chủ đề cổ điển trong Cựu ước nói lên tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài (St 48,15 : Lc 12.32). Dụ ngôn này cũng có trong Tin mừng Matthêu, nhưng trong lúc Matthêu áp dụng vào trách nhiệm những vị lãnh đạo Giáo hội, còn Luca nói lên việc Thiên Chúa tìm kiếm người tội lỗi.
Trong dụ ngôn này, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào. Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng : bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con đây cho giá trị như 99 con. Ý nghĩa này nói lên tầm mức quan trọng và tự do sự trở về của tội nhân : Quan trọng đến nỗi bất cứù giá nào, người tội lỗi đó cũng phải được trở về, điều đó chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Còn một chi tiết làm cho chúng ta cảm động :”vác con chiên trên đôi vai”, vì khi con chiên đi lang thang nhiều giờ hay nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó lên thôi. Và một con chiên nặng đấy ! Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi đầy sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc ! Nhưng, Đức Giêsu nói hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa giới thiệu với chúng ta như thế ! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Thánh Kinh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “người chăn chiên” (Is 40,11-49, 10 …(Quesson).
*b) Dụ ngôn đồng tiền bị mất.
Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được.
Một đồng bạc ở đây có giá trị tương đương với một ngày làm công (Mt 20,2). Ở đây muốn nói lên sự mất mát dù chỉ có một đồng cũng là điều quan trọng khiến cho chủ cũng phải tốn công tìm kiếm. Điều này cũng muốn ám chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa không muốn để ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người.
Ngoài lý do vì nhu cầu cần tìm đồng tiền bị mất, lại còn có một lý do khác thơ mộng hơn. Tại Palestina, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng 10 đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợ dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ 10 đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm như thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế, chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc bị mất. Đức Giêsu cho biết : cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một người ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay cái đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.
*c) Dụ ngôn đứa con hoang đàng.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn trong dụ ngôân đứa con hoang đàng. Ông chủ chỉ có hai người con trai, tưởng rằng được sống bình yên trong tuổi già với hai con. Nhưng người con thứ tính phóng khoáng, thích tụ tập, muốn xin cha chia gia tài cho anh.
Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hưởng 2/3, đứa con thứ được 1/3 gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói với cha nó :”Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng lãnh được sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nhà này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi.
Tuy nhiên, việc xin chia gia tài này có hợp lý không, thì không rõ, chỉ biết rằng sau này chính người con thứ đã hối hận vì hành động trên.
Đi xa nhà một thời gian, nó đã nhanh chóng xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa của người Do thái… Trong cảnh khốn cùng, nó hồi tâm suy nghĩ lại và quyết định ra đi về với cha nó mà chỉ xin được coi như kột đứa đầy tớ thôi, chứ không dám nhận là con nữa. Nó trở về, cha nó chạy ra ôm chằm lấy mà hôn. Cha nó không để nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Ông đã phục hồi địa vị làm con cho nó bằng những cử chỉ đầy ý nghĩa :
Xỏ giầy vào chân cậu : . Xỏ giầy vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xưa, mang giầy là dấu chỉ của một người tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giầy vào đôi chân trần của cậu con tức là xóa đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một người nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình.
Trao nhẫn cho cậu. Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. Đeo nó vào đồng nghĩa với được quyền hành xử như một thành viên trong gia đình.
Và như thế, khi choàng tay ôm, xỏ giầy, đeo nhẫn cho đứa con trai, người bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi.
Truyện : Vải trắng trên cây táo.
Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một người nào đó” (somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khó quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau :”Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta.
Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tầu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói :”Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”.
Khi chiếc xe lửa rầm rầm lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng cậu hỏi người đàn ông :”Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không”? Ông ta sửng sốt trả lời :”Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có cột một miếng vải trắng cả”(Mark Link).
*II. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ.
*1. Tấm lòng của người Cha.
Người cha trong dụ ngôn phải là một ông chủ giầu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú ông Đông phương để hồ hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.
Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được.
Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Do thái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểàu trưng của tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác nhập mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác nhập quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không bao giờ nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao ?
Truyện : Thiền sư Sengai.
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh :”Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻ bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
*2. Tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha. Cha nào mà chẳng thương yêu con bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử với mình tệ bạc đến đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ bằng hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là sự tha thứ vô điều kiện và sẵn sàng chấp nhận sự đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua hai cách ấy nơi con người Đức Kitô :”Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”.
Trở lại dụ ngôn đứa con hoang đàng, ta hỏi động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình ? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với “thân tàn ma dại”, cha nó biết nó về với động lực gì. Nhưng đối với ông, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Chúa trong sự hối hậân về đời sống quá khứ của mình.
Truyện : Tình mẹ tha thứ.
Ở Batna, có một gia đình nằêm vào địa điểm hẻo lánh, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xiềng xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vách tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo. Không mền, không chiếu, bữa đói bữa no, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều vỗ tay ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.Ôi, tình mẹ bao la !
*3. Có sự nghịch lý trong ba dụ ngôn chăng ?
Bài Tin mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý : ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có tính thuyết phục bao nhiêu : một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở nên hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba : Ý của Chúa Giêsu không nhằm tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa ? Những người biệt phái và luật sĩ thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu qúi giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được săn sóc hơn 99 con kia : nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên mà chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Đức Giêsu đã làm như người mục tử ấy : Ngài không chờ đợi kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người biệt phái và luật sĩ, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cái đối xứ này đã hoán cải được một người biệt phái nổi tiếng là thánh Phaolô (Trích Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 710-711).
*III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI CƯ XỬ NHƯ VẬY.
*1. Phải thay đổi cách cư xử.
Giáo hội là Mẹ của chúng ta đã từng có cách cư xử như Đức Giêsu, tạo điều kiện để lôi kéo những con chiên lạc đàn trở về với Chúa. Chẳng hạn , Augustinô, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin mừng. Thế mà khi trở về với Giáo hội, Giáo hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảnng đại ấy của Giáo hội, Augustinô đã trở nên một vị thánh.
Chúng ta cũng phải bắt chước Giáo hội mà phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em.
*2. Ý thức mình cũng là tội nhân được tha thứ.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con bê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng họ chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tiếng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu tít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thực không hay chỉ là hữu danh vô thực ? Chắc chắên không ai trong chúng ta dám xưng mình là người công chính như luật sĩ và biệt phái, chúng ta vẫn xưng mình là kẻ có tộâi, và nếu đã biết mình có tội thì phải có lối cư xử với người khác bằng tình thương yêu.
Nếu Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lỗi lầm.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ. Đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết :”Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người trở nên mù lòa”.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
*1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.
*2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.
*3. Nét thứ ba của lòn thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.
Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.
Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Kể ra vài nét của lòng thương xót của Chúa.
- Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất của tình yêu?
- Cảm nhận được tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. bạn có coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY CHIA VUI VỚI TÔI- Lm. PM Cao Huy Hoàng
Khi nói đến “Con chiên lạc”, có thể bạn, tôi, chúng ta nghĩ ngay đến một số thành phần không mấy tốt đẹp, không mấy đàng hoàng trong Hội Thánh. Có người nghĩ ngay đến những người rối vợ, rối chồng công khai, hoặc nghĩ đến ả giang hồ ở cuối xóm, tên du thử du thực lang thang chè chén tối ngày ở đầu phố. Người khác lại nghĩ đến cụ già đôi ba vợ kia đã đến lúc sắp hết hơi rồi mà chưa chịu xưng tội rước lễ, hoặc nghĩ đến bao người nay ăn nên làm ra rồi, khá giả rồi, ở nhà thoải mái, bỗng trở nên cao ngạo, ươn lười, nguội lạnh với Nhà Thờ Nhà Thánh…
Nghĩ như thế là do bởi lòng kiêu ngạo xúi giục tự nhận mình là thánh thiện hơn bao nhiêu người khác và gắn cho mình con mắt, cõi lòng đầy thành kiến xấu xa về tha nhân.
Nghĩ như thế, thì thiết tưởng chính mình là… con chiên lạc trước tiên. Lạc mà không biết mình lạc. Còn lầm lạc hơn nữa, khi tỏ ra bất bình với một số người nhiệt thành trong Hội Thánh Chúa, mặc lấy tấm lòng nhân hậu của Chúa, luôn nghiêng về phía những người đau khổ, tội lỗi, thấp kém.
Nghĩ như thế thì có khác gì người Pharisêu đã từng suy nghĩ và lẩm bẩm về việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”.
Cả hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng bạc bị đánh mất” được Chúa nói cho cả hai đối tượng: người Pharisêu và người thu thuế, kẻ tội lỗi.
Đối với người Pharisêu, hai dụ ngôn ấy là một lời cảnh tỉnh trực diện để họ phải nhận ra rằng chính họ mới là “con chiên lạc”, là “đồng bạc bị đánh mất”. Lạc vì họ đang sống kiêu căng, sống thiếu tình khoan dung, yêu thương; lạc vì họ không muốn hiểu đường lối của Chúa, vì không muốn mặc lấy tình thương của Chúa trong con tim mình… Bài học dành cho người Pharisêu là đừng lầm tưởng mình đạo đức, nếu không mặc lấy đức khiêm cung và lòng nhân hậu mà đối xử với tha nhân. Họ cần có cái nhìn mới mẻ hơn đối với người tội lỗi, cái nhìn của Thiên Chúa, cái nhìn của lòng thương xót xoáy vào sâu thẳm hơn, để cảm thông hơn vì bao nỗi bất hạnh, không phải cái nhìn nông cạn bề ngoài để rồi sinh ra ganh tỵ, xét đoán…
Còn đối với người tội lỗi, cả hai dụ ngôn là Lời rất vui mừng cho họ, vì:
– Lời mặc khải cho họ biết một Thiên Chúa vô cùng khiêm cung, và yêu thương. Lòng thương xót, khoan dung, nhân hậu của Ngài luôn luôn lớn hơn tội lỗi, thân phận của họ.
– Lời xóa tan nỗi ám ảnh bị khinh bỉ, phân biệt, có khi còn bị trừng phạt dã man cho đến chết vì luật xua đuổi khỏi cộng đồng, luật ném đá…
– Lời khơi dậy cho họ một niềm hy vọng, mở ra cho họ một con đường sống và nhất là tái lập cho họ một tương quan quí giá đối với Thiên Chúa, tái lập cho họ một nhân vị xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
– Và cũng qua hai dụ ngôn, cả người Pharisêu và người tội lỗi có thể nhận ra một điều kỳ diệu là Thiên Chúa luôn đi bước trước đối với những tội nhân.
Đề cập đến bước trước, tôi nhớ câu chuyện về Đức Tin đơn sơ của cụ Biên ở phía sau nhà tôi. Cụ luôn là người khôi hài vui vẻ. Đến lúc gần chết cũng còn vui vẻ. Năm 1979, trong cơn hấp hối, khi nghe một anh Legio giữ kẻ liệt cầm sách mục lục đọc kinh cho cụ, đọc sai chỗ nào, cụ đập nhẹ bàn tay, bảo: “Đọc lại, đọc lại, đọc sai làm sao Chúa hiểu”. Đêm cuối cùng, cụ chỉ cho mọi người biết là cụ đang chết từ dưới chân lên đến giữa lưng rồi. Rồi cụ nói: “Còn nói được mấy câu nữa thôi, cho tôi nói với Chúa. Chúa đã lỡ bước xuống đời rồi, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới đây đưa con về với Chúa. Chúa ơi, con tin”. Rạng sáng hôm ấy, cụ đã về với Chúa.
“Chúa đã lỡ bước xuống, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới”. Câu nói đơn sơ mà cho thấy cả một xác tín. Hôm nay, nghe lại dụ ngôn “Con chiên lạc”, mới ngộ ra là không chỉ Chúa chẳng ngần ngại gì mà không bước tới, mà còn dám bước trước, và bước kiên trì nữa: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ?”
Vâng đó là một bước trước, và kiên trì: “Đi tìm cho kỳ được” Quả là kỳ diệu ! Nếu trước đây chưa ai dám tiếp xúc với những người thu thuế tội lỗi, vì sợ nhơ bẩn con người, thanh danh của mình, thì Chúa Giêsu đã bước một bước trước đến với họ
Hai dụ ngôn hôm nay còn vén màn một chi tiết độc đáo của tình thương Thiên Chúa, đó chính Người đích thân đi tìm con chiên lạc, gọi đích danh, tha thứ vô điều kiện, âu yếm ẵm trong vòng tay, vui mừng vác chiên lên vai, mở tiệc tưng bừng. Thiên Chúa mời mọi người đến chia vui vì “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Người ta mở tiệc ăn mừng những dịp cưới hỏi, tân gia, sinh nhật, thi đỗ, thoát nạn… Trong đời tôi, lại được tham dự một bữa tiệc lạ thường. Chuyện là thế này: Giáo Xứ tôi có một người tên là T. được rửa tội năm 1972 tại Thủ Đức khi anh lập gia đình với chị N. Anh kể với các anh chị Legio, anh đã giữ đạo sốt sắng hơn 7 năm. Đến năm 1979, anh sa đà đủ món ăn chơi trên trần gian này. Chị N. bỏ anh đi. Anh càng lún sâu vào con đường tội lỗi. Bỏ lễ, bỏ các Bí Tích. Năm 1996, anh em Legio thăm và khuyên bảo anh xưng tội, anh nói: “Nhiều quá, làm sao xưng cho hết ! Chúa không thể tha một lúc nhiều như vậy đâu !” Sau hơn 3 năm, cha sở và các anh chị Legio kiên trì cầu nguyện cho anh, năm 1999, anh quyết định đi xưng tội. Cha sở FX. Lê Quang Diễn đã yêu thương lắng nghe anh nói chuyện tòa ngoài với ngài hết một buổi sáng và thêm nửa buổi chiều. Chiều hôm đó, anh xưng tội. Ngày hôm sau, anh mở tiệc mừng. Có khoảng 3 bàn tiệc. Anh nói mấy câu trước khi vào tiệc: “Con cảm ơn cha, cảm ơn mọi người, xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA”. Từ đó, anh đổi mới hoàn toàn, thật sốt sắng với Chúa và dễ thương với mọi người. Anh đã qua đời năm 2008. Linh hồn Phaolô.
Mọi người bất ngờ về câu nói của anh: “xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA”. Thiết tưởng, anh không chỉ cảm nghiệm được niềm vui của mình là được trở về, mà với Đức Tin, anh còn dám cảm nghiệm được “niềm vui của Chúa’, của Chúa Chiên, người đã bỏ chín mươi chín con chiên tốt lành kia trong ràn, mà đi tìm anh, con chiên lạc.
Cảm nghiệm được niềm vui của Chúa phải là người đang sống thông hiệp mật thiết với Chúa lắm, như hai người tình đang kết hợp toàn tâm toàn ý với nhau, và dĩ nhiên, niềm vui không của riêng chỉ một người. Suy tư ấy có thể là suy tư cách rất con người, rất chủ quan thôi. Nhưng rõ ràng, thử hỏi ai trong chúng ta, những người vỗ ngực xưng tên mình là đạo đức, đã có bao giờ có được cái cảm nghiệm “chia vui với Chúa” cách trọn vẹn, nếu không đặt trọn niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, nếu không mặc lấy tình thương xót ấy mà xót thương bao kẻ tội lỗi, khốn cùng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con Đức Tin vào lòng thương xót của Chúa để biết mình là con chiên lạc được Chúa tìm về, và mặc lấy tình thương ấy mà cộng tác với Chúa, chia vui với Chúa khi có người anh em tìm được hạnh phúc được Chúa thứ tha. Amen
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÒNG BAO DUNG CỦA THIÊN CHÚA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền, giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế giới loài người.
Trong khi đó, để đối phó với tội nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống” (Ê-dê-kiên 18, 23 và 33, 11)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ, nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.
Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:
Người chăn chiên tốt hết lòng yêu thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba, tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến chia mừng với anh.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.
Dụ ngôn trên cũng cho thấy cung cách ứng xử rất khoan dung và đầy thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.
Thay vì tống giam các tội nhân vào ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giê-su rất tôn trọng và quý mến tội nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)
Thay vì kết liễu mạng sống của các tội nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại thường làm, Chúa Giê-su đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3)
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm chúng con.
Xin cho chúng con trở nên đôi chân của Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những anh em lạc xa đường Chúa.
Xin cho chúng con trở nên đôi vai của Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một chỗ tựa nương. Amen.
CHÚA NHẬT XXIv THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HỐI CẢI (*)– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một thầy giáo nói với các học sinh trong lớp: Các em hãy viết lại Dụ ngôn Con Chiên Lạc, qua đó, các em sẽ cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc hơn. Một học sinh viết: Giả sử bạn hoàn thành đánh máy một luận án dài 100 trang. Bạn đã miệt mài nghiên cứu, tìm tòi và sửa chữa rồi đánh máy. Bạn cảm thấy sung sướng khi đã hoàn tất. Bạn thu thập các trang lại bấm ghim và dán bìa, khi đó bạn phát giác ra bị thiếu mất một trang. Tưởng tượng sự sợ hãi, hoang mang và cảm thấy bực bội, xôi bao tử. Bạn bỏ 99 trang đó và bắt đầu lục lọi tìm kiếm. Bạn mong tìm cho được trang giấy đã bị thất lạc. Vì thiếu một trang, cả luận án sẽ vô nghĩa và bị mất giá trị. Đột nhiên, đàng kia, nó rơi ở ngay góc phòng. Bạn phấn khởi, dời ghế, ném tung 99 trang và quỳ gối xuống, nhặt vội trang đã bị lạc mất.
Tội lỗi đã nhập vào thế gian. Lòng con người thường dễ hướng chiều về đàng dữ. Những kéo lôi thỏa mãn của dục vọng tội lỗi gọi mời con người đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn đợi chờ lòng hối cải, chứ không tiêu diệt. Niềm vui của Chúa Giêsu và của thần thánh trên trời là người tội lỗi lầm lạc biết ăn năn hối cải trở về. Chúa nói: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải (Lc 15, 7). Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi. Biết rằng chỉ những bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc. Chúa Giêsu có quyền tha tội và chữa lành cả thân xác lẫn linh hồn. Chúa mở rộng cửa đón nhận những người tội lỗi. Chúa không kết án hay bỏ mặc họ chìm đắm trong vũng bùn của tội nhơ. Chúa tạo cho họ có cơ hội sám hối trở về.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn ông Môisen làm thủ lãnh dẫn Dân Do-thái ra khỏi nước Ai-cập. Giải thoát họ khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập. Bước đầu của Chương trình cứu độ là đưa Dân Riêng vào miền Đất Hứa. Mới ra khỏi vòng nô lệ, lòng dân chưa được thuần thành. Tâm hồn họ còn bị ảnh hưởng bởi cách sống của dân ngoại. Nên khi có cơ hội, họ dễ quay trở lại thờ các thần do chính họ đúc thành. Họ đã nhiều lần phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa. Khi ông Môisien lên núi cầu nguyện, thì dân chúng ở dưới chân núi đã hùa nhau gây rối và làm phản: Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội (Xh 32, 7). Dân chúng muốn tìm thỏa mãn ngay những nhu cầu hạ giới. Họ lo cho sự an toàn cuộc sống, lo cái ăn, cái mặc hiện tại, chứ không nhận biết đường đi nước bước mà Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ.
Phải mất rất nhiều thời gian để cải đổi thuần thành tâm hồn một nhóm dân đông đảo. Thiên Chúa đã yêu thương, bao bọc, chở che, dạy dỗ, sửa phạt và từ từ mạc khải về chương trình cứu độ. Dân Do-thái trên đường lữ hành đã đối diện với nhiều khó khăn thăng trầm. Cũng đã nhiều lần họ bỏ Chúa chạy theo tà thần: Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: “Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập” (Xh 32, 8). Họ chưa nhận biết Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện, nhân từ và công bằng vô cùng. Tâm trí của dân xưa chỉ nhìn nhận một Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy, cao sang và sửa phạt công thẳng. Họ chưa cảm nghiệm được hình ảnh một Thiên Chúa đầy lòng xót thương và nhân hậu. Thiên Chúa luôn khoan dung kiên nhẫn đợi chờ.
Chúa Giêsu là hình ảnh Chúa Cha. Không ai biết Chúa Cha ngoài Chúa Con và không ai biết Chúa Con ngoài Chúa Cha. Chúa con là Ngôi Lời mạc khải. Ngài thi hành sứ mệnh Chúa Cha giao phó. Trước hết, Chúa mang ơn cứu độ cho các con chiên lạc nhà Israel. Thời đó, các vị chức sắc tôn giáo chưa nhận diện được sứ vụ của Chúa Giêsu. Họ càm ràm: Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng” (Lc 15, 2). Các biệt phái và luật sĩ rất bén nhậy quan sát cách hành xử của Chúa. Tư tưởng, cung cách sống đạo và thi hành lề luật của họ chỉ giới hạn nơi hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đi vào nội tâm khao khát của từng người. Chúa chữa lành và ban lại sự bình an cho mọi tâm hồn.
Chúa dùng nhiều thí dụ để nói lên niềm vui của tâm hồn. Chúa mong muốn những mảnh hồn đang bị xa lạc, tội lỗi, thương tích và tan nát được rửa sạch thay bằng trái tim lành mạnh đầy yêu thương. Chúa vui lắm khi một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về. Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải” (Lc 15, 10). Trên trời vui mừng, các Thiên Thần vui mừng và mọi người cùng hối nhân vui mừng. Sự mừng vui trong tâm hồn không thể trả giá. Vui của nước mắt ăn năn, vui của sự hối cải trở về và niềm vui của ơn cứu độ. Niềm vui an bình và thanh thoát của tâm hồn được kết hợp cùng Chúa.
Mỗi người có tiến trình trở về khác nhau. Người xa kẻ gần, người tốt kẻ xấu, ai ai cũng cần có những giây phút trở về. Đừng nghĩ rằng mình là người công chính thánh thiện không cần hối cải. Ai nói mình không phạm tội là người nói dối. Có thể chúng ta không hư thân mất nết, ăn chơi phung phí hết tiền của như người con phung phá để rồi cuối cùng mới trở về: Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha (Lc 15, 18). Tự vấn, có thể chúng ta không đến nỗi sống tệ bạc như người bạn trẻ này, nhưng có khi chúng ta đã lạc xa Chúa qua những sự dối gian, ích kỷ, giận ghét, thù hận và kiêu căng khác. Những thói xấu này làm xói mòn đời ta hơn nữa. Tội lỗi âm ỉ như những con vi trùng ung thư lan tràn khắp châu thân. Tội như là những con vi khuẩn độc hại tàn phá từng ngày. Chúng ta phải luôn cảnh tỉnh xét mình qua lời nói, hành động và cách suy nghĩ. Sẽ không thừa thãi, chúng ta biết chạy đến bác sĩ để khám bệnh, phòng bệnh và chữa bệnh kịp thời.
Một tâm hồn biết hối cải sẽ là niềm vui chung. Trong dụ ngôn người con phung phá trở về, đã được cha mở tiệc ăn mừng. Cha nói: Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Thật cảm động về tình cha nhân hậu! Cha không ngoái lại quá khứ để bắt bẻ, hạch hỏi hay la rầy. Cha đón nhận một tâm hồn thống hối với trái tim yêu thương rộng mở. Lòng xót thương của cha thật bao la vĩ đại. Cha ôm con vào lòng và thổ lộ rằng con ta đã bị lạc mất nay lại tìm thấy. Niềm vui vỡ òa. Con được đón nhận trở lại trong vòng tay âu yếm của cha. Của cải của cha giờ đây sẽ là của con. Sự giao hòa, tha thứ và yêu thương sẽ đan kết nên một tương lai an vui và hạnh phúc.
Thánh Phaolô không ngại nói về quá khứ bất hảo của mình. Khi được ơn trở lại, Phaolô đã sống trong ân sủng của Chúa. Thánh Phaolô tâm sự: Dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin (1Tm 1, 13). Phaolô đã dũ bỏ qúa khứ lỗi lầm và bước đi trên con đường cứu độ. Ngài không ngừng rao giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh từ cõi chết để chuộc lại lỗi lầm của chúng ta. Chúa đến để cứu thoát những con người tội lỗi. Phaolô chấp nhận thân phận yếu đuối của mình: Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất (1Tm 1, 15). Noi gương thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng tự xét mình, cúi đầu nhận lỗi và xưng thú lỗi lầm, ăn năn sám hối và xin ơn tha thứ.
Lạy Chúa, chúng con đã nhiều lần lạc xa và phạm tội mất lòng Chúa. Đôi khi chúng con tự cho mình là người thánh thiện và công chính. Xin cho chúng con biết cúi đầu đấm ngực ăn năn và hối lỗi trở về với Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có ai đó đã nói rằng: “con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.
Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.
Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được”. Chúa đã không chấp tội Đavít mà “lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời”.
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”.
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy”.
Chúng ta thường nghe hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”. Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì sánh được. Tình mẹ đã khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng chúng ta sẽ làm gì để đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?
Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em. Amen.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LẠC LỐI- Lm. Bùi Quang Tuấn
Theo một bản thống kê được đăng trên tờ Tablet (12/1996): hàng năm tại Anh quốc có khoảng 250 ngàn người thuộc mọi lứa tuổi bị mất tích, vì đủ thứ lý do. Một cơ quan bác ái chuyên về tìm người thất lạc được thành lập năm 1992, hoạt động liên tục 24 giờ một ngày, 365 ngày một năm, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng.
Riêng tại Hoa kỳ, mỗi năm, có khoảng 50 ngàn đứa bé được ghi nhận mất tích. Trong số đó, 5 ngàn em bị thiệt mạng trước khi được tìm thấy xác. Tại nhiều quốc gia, người ta không thể đưa ra con số chính xác về các vụ mất tích. Có nơi chính phủ chỉ thành lập các chương trình tìm kiếm xe mất cắp, các đồ vật bị đánh rơi, hay quà cáp thư từ bị giao sai chỗ, chứ không hề có chương trình tìm người thất lạc.
Nguyên nhân gây nên tình trạng mất tích hay thất lạc thì vô số, nhưng các chuyên gia xã hội tóm tắc vào ba điều căn bản sau đây: 1) bị bắt cóc bởi các cha mẹ không còn chung sống với nhau; 2) là nạn nhân của các tội ác bạo động trong xã hội; 3) bỏ nhà ra đi vì không tìm thấy hạnh phúc gia đình.
Dù khởi đi từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người ở lại một nỗi xót xa nuối tiếc. Của thất lạc càng quí thì niềm tiếc nuối càng da diết, càng thúc đẩy một cuộc kiếm tìm. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Nhớ nhung, xót xa, nuối tiếc, kiếm tìm, hân hoan, hạnh phúc… tất cả diễn tả tâm tình của một người Cha nhân từ đối với đứa con “bị lạc” nhưng nay lại “tìm thấy,” “bị chết” mà nay đã “phục sinh.” Nỗi niềm đó được trình bày trong ba dụ ngôn: “Con Chiên Lạc,” “Đồng Bạc Mất,” và “Người Con Hoang Đàng.”
Các dụ ngôn, với cấp độ đi lên, từ con vật đến đồng tiền rồi đến con người, và cấp số giảm xuống từ 100 đến 10 rồi còn 2, đã nói lên giá trị quí báu của từng con người trong đôi mắt yêu thương của Thiên Chúa. Đối với Ngài, ai cũng có một phẩm giá riêng biệt. Không phải vì con số 99 quá lớn mà chấp nhận bỏ đi số “1” nhỏ nhoi.
Với người giàu, một đồng nào có nghĩa lý gì, công đâu bỏ ra để bới tìm một đồng cho phí giờ, nhọc thân. Trên thế gian có biết bao nhiêu sinh linh, hà cớ chi phải lao đao vất vả vì một kẻ tội đồ. Chắc hẳn những người biệt phái nghĩ thế. Nhưng Chúa Giêsu nghĩ khác. Ngài ví mình như một người rất nghèo, thiếu thốn những tâm hồn sám hối, khao khát tìm lại những gì thất lạc để đưa về với nẻo chính đường ngay. Phải chăng vì “nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”, hay vì lòng Cha quá quảng đại bao dung mà thêm một tâm hồn lầm lạc trở về, thì lòng Ngài lại mừng vui sung sướng: “Bà con hãy chia vui với tôi… Bà con hãy vui mừng cùng tôi… Chúng ta phải ăn khao mới được” (Lc 15:6,9,23).
Những “con chiên lạc đàn” được ví như những chiếc tàu không bánh lái hay mất hướng đi. Hành trình lầm đường này có thể xảy ra do sự u mê của chính nó, nhưng cũng có khi vì không được quan tâm chỉ dẫn đúng mức.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con dê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng cũng chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tieng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu rít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Sai lạc nào cũng cần chỉnh đốn. U mê nào cũng cần ánh sáng chiếu soi. Nhưng có thứ ánh sáng nào ấm đẹp cho bằng yêu thương. Vì có yêu thương mới có tìm kiếm chiên, cõng lên vai, đem về nhà. Có yêu thương, người ta mới ngóng trông, đón nhận, dung thứ, ăn mừng. Nhờ yêu thương mà chiên lạc thành chiên ngoan và con đi hoang lại tìm được mái ấm gia đình.
Cách đây không lâu, Nhật báo Người Việt có đăng một bản tin: Vào một ngày tối trời tháng Ba năm 1999, đang lúc xem TV trong nhà, bà Huỳnh P. T. Vân tại Bà điểm Hóc môn chợt nghe tiếng chó sủa dữ dội. Bà vội mở cửa xem thì khám phá một em bé trai sơ sinh trần trụi, đang nằm dưới hàng dậu trước nhà. Đứa bé dường như mới chào đời, cuống rốn còn nguyên chưa ai cắt, mình mẩy dính đầy cát, kiến đang bắt đầu bu lại, và đôi chân tím bầm.
Hốt hoảng, bà vội bế đứa bé vào nhà và tìm cách đưa ngay đến bệnh xá trong huyện. Sau khi được y tá cắt cuống rốn cùng chữa trị đôi chân, bà Vân đưa đứa bé về nhà, đặt tên Trần Minh Phúc.
Nhiều người dân trong vùng muốn nhận em làm con nuôi, thậm chí có người xin tặng bà Vân ba lượng vàng để có được cháu bé. Thế nhưng bà Vân vẫn không tha thiết với lời đề nghị kia. Bà tâm sự: “Nhìn mặt cháu tự nhiên thấy thương như con đẻ của mình. Thức với nó mấy đêm, thương lắm rồi, không xa được.” Nhà tuy nghèo nhưng bà khẳng định sẽ giúp cháu sau này ăn học đàng hoàng.
Xót xa làm sao khi người mẹ ruột đành đoạn đánh mất con mình trong mớ bung xung của áp lực xã hội, danh dự gia đình, và nỗi yếu đuối cá nhân. Nhưng cảm động và đáng phục biết bao khi có những con người bất chấp tình cảnh túng nghèo, vượt thoát áp lực của một xã hội chuyên lấy đồng tiền và quyền lực làm thước đo mọi giá trị, để làm nỗi bật phẩm chất cao quí của yêu thương. Nhờ tình thương, sự sống đã được bảo tồn và nâng cao.
Lắm khi vì tiếng gọi ngọt ngào của hưởng thụ, phóng túng, đam mê, ích kỷ mà người ta đã bán đứng nhân phẩm và bước vào con đường lầm lạc, nhưng nhờ tình thương và lòng quảng đại từ ái mà bao tâm hồn tìm được mái ấm và bước chân hoang can đảm trở về.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết gieo yêu thương trên mọi lối đi của cuộc đời, để tha nhân có thể gặp được dấu mà bước vào, và lần tìm về với Chúa là cội nguồn của yêu thương tha thứ. Chúng con tin rằng: đi theo Chúa, hạnh phúc sẽ không hề tắt; ở bên Ngài, hoan lạc sẽ chẳng hề phai bao giờ.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
THIÊN CHÚA ĐI TÌM – Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Thưa anh chị em,
Tin mừng hôm nay là một trong những trang Tin mừng đẹp nhất. Đẹp vì tác giả Tin mừng trình bày cho chúng ta thấy được tấm lòng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Đẹp vì ba dụ ngôn nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa đi tìm con người, để tha thứ và chữa lành.
Đức Giêsu là hiện thân khuôn mặt vô hình của Thiên Chúa Cha Đấng giàu lòng thương xót, Ngài chủ động đến trần gian để đi tìm con người như lời Ngài nói: “Ta đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10).
Ngài đi tìm một Giakêu thấp bé, để hoán cải ông và gia đình ông được ơn cứu độ.
Ngài đi tìm một Lêvi đang khi ông ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông trở về viết sách Tin mừng.
Ngài đi tìm một Mađalêna tội lỗi, để rồi biến đổi bà sau này trở thành chứng nhân Tin mừng phục sinh.
Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông trở thành tông đồ dân ngoại.
Chúa là người mục tử nhân lành đi tìm con chiên lạc.
Là người phụ nữ quét nhà tìm đồng bạc đánh rơi.
Là người cha nhân hậu ngày ngày ra đầu ngõ trông tìm đứa con hư hỏng trở về. Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng.
Để đi tìm con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tìm cho bằng được.
Để tìm lại đồng bạc bị mất, người phụ nữ phải thắp đèn soi mọi ngỏ ngách trong nhà tìm cho bằng được.
Để mong người con hoang đàng trở về, người cha nhân hậu phải vượt lễ giáo gia phong, chấp nhận tính ghen bì của người con cả.
Cũng vậy, để đi tìm con người, Đức Giêsu phải từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp; phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa để đến với con người. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.
Quả thật, Thiên Chúa không ngồi chờ chúng ta trở về để rồi mới tha thứ, nhưng Ngài tha thứ trước khi chúng ta xin lỗi Ngài. Ngài đi tìm trước khi chúng ta trở về với Ngài.
Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh của Chúa; là giá máu cứu chuộc của Chúa; là chi thể của Chúa và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Một con chiên lạc có đáng gì đâu so với 99 con chiên còn lại.
Mất một đồng tiền có đáng kể gì so với 9 đồng.
Người con bỏ nhà đi hoang, phung phí hết tiền của, làm sao sánh được đứa con luôn ở nhà với Cha.
Tình thương Chúa cao hơn ngàn tội lỗi, như lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Ezêkiel: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn sám hối và được sống” (Ez 18, 23).
Tình thương Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn nữa. Là sau tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành thì Ngài còn vui mừng biết bao.
Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc. Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc đã mất. Hãy mở tiệc ăn mừng, vì em con đã chết nay sống lại; đã mất nay lại tìm thấy. Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải.
Thực là mầu nhiệm tình thương ngàn đời ai hiểu thấu. Thiên Chúa không biết mệt mỏi tha thứ cho con người, trừ khi con người ngại ngùng không muốn đến kín múc lòng thương xót của Thiên Chúa mà thôi.
Anh chị em thân mến,
Cánh cửa tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn rộng mở không bao giờ đóng. Vậy tất cả chúng ta hãy mau mắn trở về với Chúa. Trở về để được yêu thương; trở về để được tha thứ. Trở về để được chữa lành.
Không tội lỗi nào mà Ngài không tha thứ; không vết thương nào mà Ngài không chữa lành. Không nỗi buồn nào mà Ngài không an ủi. Bởi vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Amen.