CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU– Chú giải Lm. FX Vũ Phan Long. 5
NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY- Lm. Thiện Duy. 15
LỬA VÀ PHÉP RỬA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 23
SỰ QUẤY RỐI CẦN THIẾT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 30
NGỌN LỬA TÌNH YÊU- Lm. Giuse Đinh lập Liễm.. 41
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 58
SỨ MỆNH- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 62
LỬA TÌNH YÊU– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 67
LỬA TÌNH YÊU (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 70
LỬA VÀ BÌNH AN- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP.. 76
NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 83
NƯỚC, LỬA VÀ SỰ CHIA RẼ – Lm. Phạm Ngọc Kôn. 87
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ”. Vua Sêđêcia phán rằng: “Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì”. Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn.
Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: “Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn”. Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 2. 3. 4. 18
Ðáp: Lạy Chúa, xin cấp tốc trợ phù con (c. 14b).
Xướng: Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu.
Xướng: Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi.
Xướng: Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa.
Xướng: Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Ðấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ.
Bài Ðọc II: Dt 12, 1-4
“Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 49-53
“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU– Chú giải Lm. FX Vũ Phan Long
Nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn như thế, chúng ta cần để cho Thánh Thần của Người hướng dẫn để biết lấy lập trường đúng đắn.
1.- NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, “đến”. Rất có thể những điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1)Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho “lửa” trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer, BJ).
– Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.
– lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải” (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi “khắc khoải” này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).
– hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).
– cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. “Lửa” Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?
Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi” (Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT…); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: “Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!” Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: “Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?”; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV…
Trong Cựu Ước, “lửa” đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ “lửa” của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).
Dù có chọn nghĩa nào, “lửa” cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. Qua câu này, ta nhận thấy “lửa” có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ “và”), chúng ta đã có thể giải thích rằng “Thánh Thần và lửa” có nghĩa là “Thánh Thần là lửa”, và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn “sự thanh luyện”, hay là “sự biện phân”, “sự xét xử” như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có “lửa”: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. “Lửa” này chắc chắn không có nghĩa như “lửa” trong c. 16.
Muốn tìm ra nghĩa chính xác của “lửa”, nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.
Nói đến việc “Người đến”, chúng ta nhớ đến những lời khác: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (5,32). “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném “lửa” vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong “lửa” ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về “lửa” dường như quá gò ép.
Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của “lửa”. Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của “lửa”: nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.
* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)
Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.
Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là “phép rửa” mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: “ba chống lại hai, hai chống lại ba”. Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: “Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch” (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: “cha chống lại con trai, con trai chống lại cha”. Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.
+ Kết luận
Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, “nóng cháy”, với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.
Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né “phép rửa” Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.
Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: “Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY- Lm. Thiện Duy
Thông tấn xã Công Giáo Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc thống kê: Trong năm 2012, 12 vị thừa sai đã thiệt mạng trên những bước đường truyền giáo. 10 vị là các linh mục, hai vị còn lại là một nữ tu và một giáo dân. Trong 4 năm liên tiếp, Mỹ Châu là vùng đất nơi máu các nhà truyền giáo đổ ra nhiều nhất. Trong năm qua đã có 6 linh mục bị giết tại đây. Tại Phi Châu, 3 linh mục và một nữ tu bị giết. Tại Á Châu, một linh mục và một giáo dân bị giết. Thống kê này không kể đến số các nhà truyền giáo trong đó có cả các Giám Mục bị đánh đập đến mang thương tích, bị giam cầm, khủng bố, hăm dọa, mạ lỵ công khai tại một số quốc gia.
Trong bối cảnh đau thương như vậy, phụng vụ lời Chúa hôm nay vang lên như thể củng cố thêm đức tin cho những chiến sĩ đức tin của Chúa, rằng đó là thân phận của những ngôn sứ.
PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Gr 38, 4-6. 8-10
Bài đọc I cho chúng ta thấy thân phận ngôn sứ của Giêrêmia. Ông được kêu gọi khi còn rất trẻ, vào năm 19 tuổi, tức khoảng năm 626 TCN, vào lúc đất nước ông đang ở trong thời kỳ khủng hoảng cả về chính trị lẫn niềm tin. Ông được sai đi để kêu gọi dân của mình sám hối, ăn năn quay trở về. Nhưng thay vì họ ăn năn sám hối quay về với Chúa, thì họ vẫn tiếp tục phạm tội. Đặc biệt hơn là họ còn muốn giết chết cả tiên tri Giêrêmia, người thay Thiên Chúa đến nhắc nhở họ; để họ khỏi phải áy náy về hành động sai lầm của mình. Cám ơn Chúa, còn có những người thấy được tội ác đó nên đã giải cứu cho Giêrêmia.
Đáp ca: Tv. 39
Đây là lời kêu xin rất phù hợp với tâm tình của tiên tri Giêrêmia: “Tôi đã trông cậy ở Chúa, và Ngài đã nghiêng mình về bên tôi”. Chúa nghiêng mình về phía những người cầu khẩn Ngài chi vậy? Thưa để “Kéo tôi ra khỏi hố diệt vong”, giống hoàn cảnh của tiên tri Giêrêmia; và để “làm cho chân tôi vững bước”. Sau khi kéo ra khỏi chỗ chết, Chúa sợ tiên tri của Chúa nản lòng, nên Ngài còn củng cố thêm sức mạnh để họ tiếp tục thực hiện sứ mạng ngôn sứ của mình.
Bài Đọc II: Dt 12, 1-4
Tác giả thư Do Thái mời gọi họ hãy “kiên trì trong đức tin”, vì Đức Giêsu Kitô đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình”, nên “đã được ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Người môn đệ Chúa nếu biết kiên trì cam chịu những chống đối trong đời sống đức tin giống như các ngôn sứ, thì chắc chắn cũng sẽ được phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ.
Tin Mừng: Lc 12, 49- 53
Đang trên đường lên Giêrusalem, nghĩa là sẽ đi đến cái chết, nên CG đã chia sẻ với các môn đệ về sứ mạng của Ngài và những hệ lụy khi phải chấp nhận sứ mạng đó.
Ngài đã nói: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Ngài là Đấng cứu thế. Ngài thực hiện sứ mạng của mình không bằng quyền lực, sức mạnh, nhưng bằng sự yếu nhược và cái chết. Có phải là Ngài thất thế, Ngài đành bó tay trước sức mạnh của kẻ khác không? Thưa không, mà đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì con người chúng ta còn biết rõ một sự thật: “Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Lấy ân báo oán, oán tiêu tan”. Thì huống hồ chi Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài muốn dùng con đường tình yêu để cứu độ chúng ta chứ không phải con đường của quyền lực, sức mạnh. Chính vì vậy “phép rửa” mà Ngài muốn nói đến ở đây chính là con đường thập giá mà Ngài sắp bước vào. Đó là sứ mạng ngôn sứ của Ngài.
Tiếp theo, Ngài nói đến những hệ lụy của thân phận ngôn sứ đó. Ngài nói: “Anh em tưởng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Mới nghe điều đó chúng ta giật mình, vì Thiên Chúa mà lại đem đến sự chia rẽ cho người ta sao? Hơn nữa Ngài đã từng chúc phúc cho những ai biết xây dựng hòa bình, chẳng lẽ Ngài lại tự chúc dữ khi là người đem đến sự chia rẽ? Chúng ta phải hiểu Ngài đích thực là Vua Hòa Bình, chính Hòa Bình Ngài đem đến sẽ khiến cho những ai không đón nhận bị chia rẽ. Những ai không đón nhận chân lý của Ngài sẽ tự mình chia rẽ. Hơn thế nữa họ còn quay lại chống đối với những người đón nhận chân lý đó. Thậm chí ngay trong một gia đình, sẽ có người đón nhận và có người từ chối, hậu quả là sự chia rẽ. Đó là hệ lụy của thân phận ngôn sứ, sẽ bị những người từ chối chân lý chống đối, và muốn giết chết.
THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
Tấm gương của Môsê
Trong suốt những tuần qua, các bài đọc ngày thường của năm lẽ kể lại cho chúng ta thân phận ngôn sứ của ông Môsê. Thiên Chúa trao cho ông sứ mạng mà ông không muốn và không có khả năng. Nhưng vì nghe lời Thiên Chúa và thương mến dân tộc của ông mà ông đã chấp nhận thân phận ngôn sứ, chấp nhận lãnh đạo một đoàn dân cứng cổ cứng đầu. Đến nỗi có những lúc ông tuyệt vọng, ông than trách với Chúa: “Chúa coi, con không cưu mang, không sinh ra dân này, mà Chúa bảo con hãy bồng nó vào lòng mà đem đến miền đất ta đã thề hứa với cha ông chúng. Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức với con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn. Tuy nhiên, giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Chính ông là người đã đứng ra van xin Chúa tha thứ cho dân nhiều điều, đã đứng ra nhận lỗi về phần mình, đã xin Chúa có phạt thì phạt ông chứ đừng phạt dân mà tội nghiệp! Và cũng chính vì dân chúng mà Môsê đã không vào được vùng đất Chúa hứa, nhưng phải chết ở bên ngoài vùng đất đó. Đó là tấm gương của một ngôn sứ và những hệ lụy khi chấp nhận thân phận ngôn sứ. Tất cả vì sứ mạng mình đã lãnh nhận, không nghĩ gì đến bản thân mình.
Một lần ý thức
Chúng ta đã lãnh Bí tích Rửa tội, nhưng nhiều khi chúng ta không biết hoặc quên sứ mạng ngôn sứ của mình. Chính vì vậy hôm nay là dịp để một lần chúng ta ý thức mình đã là ngôn sứ, vì vậy phải chấp nhận thân phận của một ngôn sứ và những hệ lụy của thân phận ngôn sứ.
III. CHẤP NHẬN THÂN PHẬN NGÔN SỨ VÀ NHỮNG HỆ LỤY
Thân phận ngôn sứ
Thiên Chúa đã nói với Giêrêmia: “Ta đặt Lời của Ta vào miệng ngươi”. Chính vì vậy ngôn sứ là sứ giả và là người phát ngôn của Thiên Chúa. Các ngôn sứ ý thức nguồn gốc thần linh những sứ điệp của mình, nên họ nói: “Đức Chúa phán”, hoặc “Đó là lời Chúa”, chứ không phải lời của họ.
Kitô hữu là người nói thay lời của Thiên Chúa. Chính vì vậy họ phải thường xuyên nối kết với Thiên Chúa để có thể biết, hiểu và trình bày lại cho người khác những giáo huấn tinh tuyền của Ngài. Cần phải lưu ý là “những giáo huấn tinh tuyền”. Ngày hôm nay có quá nhiều “sứ điệp từ trời”, “sứ điệp của Đức Maria”, “sứ điệp mang danh của Đức Giáo Hoàng này, Đức Giáo Hoàng nọ”… Kitô hữu cần phải khôn ngoan để phân biệt đâu là sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta. Chúng ta đừng tìm đâu xa, sứ điệp đích thực của Thiên Chúa nằm trong Thánh Kinh và Giáo lý cũng như những lời giảng dạy chính thức của Hội Thánh. Họ hãy thông truyền bằng cách sống theo Lời Chúa và Luân Lý của Giáo Hội, cũng như tiếng nói của lương tâm ngay lành.
Mấy ngày nay người ta xôn xao câu chuyện bác sĩ Nguyệt đã làm đơn tố cáo bệnh viện Đa Khoa Hoài Đức ở Hà Nội “nhân bản kết quả xét nghiệm”. Việc này làm cho những bệnh nhân bàng hoàng vì kết quả xét nghiệm của mình được lấy từ những mẫu có sẵn. Việc làm này của chị có thể nói là hành động của một ngôn sứ vì chị đã dám nói lên sự thật, dám nói lên công lý, dù biết mình sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm.
Còn chúng ta, chúng ta đã dám sống theo lời Chúa dạy, đã dám sống theo luân lý Kitô giáo và tiếng nói lương tâm ngay lành chưa?
Hệ lụy của ngôn sứ
Tuy nhiên khi chấp nhận thân phận của một ngôn sứ thì chúng ta cũng phải đón nhận những hệ lụy của nó. Ông Môsê, tiên tri Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả và tất cả các tiên tri đều phải chấp nhận việc bị người ta ghét bỏ, thậm chí là giết chết. Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường thập giá. Chúng ta là những ngôn sứ, cũng phải chấp nhận những chống đối, những hiểu lầm, những ghen ghét, những loại trừ… nói chung là những bách hại để sống sứ mạng của ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính gia đình chúng ta. Chồng kêu vợ đi lễ, cô ta trả lời: “Ông ráng đi đi, mai mốt thành ông cha luôn!” Nếu người chồng không chấp nhận thân phận ngôn sứ sẽ bỏ luôn vai trò ngôn sứ.
Những bách hại đó đôi khi trong chính khu xóm của chúng ta. Tháng Mân Côi, khu trưởng lại bàn về việc rước Đức Mẹ về nhà đọc kinh, thay vì được nhận lời, còn bị chửi nữa. Nếu không chấp nhận thân phận ngôn sứ chúng ta sẽ dễ chán nản.
Những bách hại đó đôi khi trong chính đoàn thể của chúng ta. Ai làm gì cho mình giận là mình không thèm tham gia nữa, làm như thể mình phục vụ những con người trong hội đoàn đó chứ không phải phục vụ Chúa và Giáo Hội vậy?
Những bách hại đó dành cho mọi ngôn sứ, nhưng thường dành cho những người đứng đầu nhiều hơn.
Khi giết được cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, người ta đã thả cho giáo dân của cha về.
Các Linh mục làm việc bác ái, người được thì hớn hở, người không được thì giận hờn, thậm chí bỏ đạo luôn.
Giáo dân trong họ đạo bắt cha sở phải làm theo ý của họ với luận điệu họ đạo này là của chúng con, cha phải làm theo những gì chúng con đề ra…
Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin:“Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành giữa những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Ngài đến”. Như thế, người tín hữu vẫn luôn phải trải qua những gian nan cho niềm tin của mình. Nhưng họ có Chúa nâng đỡ và phù trì. Sự gian nan ấy không làm nghẹt đức tin và lòng trông cậy nơi họ, nhưng trái lại, như lửa thử vàng, gian nan thử thách, chính sự gian nan là bằng chứng cho một tình mến nồng nàn đối với “Đấng đã yêu thương và phó mình vì tôi”.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỬA VÀ PHÉP RỬA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm C mời gọi các Ki-tô hữu phải kiên vững đức tin trong sứ mạng của mình dù gặp phải những chống đối, thù nghịch.
Gr 38: 4-6, 8-10
Vì trung thành với sứ mạng của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị mọi người thù ghét và bách hại. Các Ki-tô hữu coi vị ngôn sứ này là hình bóng của Đức Ki-tô.
Dt 12: 1-4
Tác giả khuyên những Ki-tô hữu gốc Do thái của ông phải kiên trì đức tin trong mọi gian nan thử thách bằng cách noi gương các bậc tiền nhân, nhất là mẫu gương tuyệt hảo của Đức Ki-tô.
Lc 12: 49-53
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt đến tuyệt đỉnh khi Ngài báo trước sứ mạng của các môn đệ sẽ đồng nhất với sứ mạng của Ngài trong cùng một tình yêu tận mức dành cho con người.
BÀI ĐỌC I (Gr 38: 4-6, 8-10)
*1.Hoàn cảnh bi thương của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Đây là một trong những bài trình thuật kể về những đau khổ mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a phải chịu vì trung thành với sứ mạng của mình. Ngôn sứ đã tuyên sấm rằng thành đô Giê-su-sa-lem sẽ bị điêu tàn nếu dân chúng vẫn cứ bất trung với Thiên Chúa của mình. Dĩ nhiên, đối với các thủ lãnh, lời tuyên sấm này phản ảnh tinh thần chủ bại và phản quốc, vì thế họ tìm cách bịt miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a bằng cách thả ông xuống “hầm không có nước mà chỉ có bùn”. Nhưng ngôn sứ được cứu nhờ viên thái giám người Cút là ông E-vét Me-léc.
*2.Một cuộc đời trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa:
Để có thể hiểu những nỗi đau giằng xé trong tâm khảm của vị ngôn sứ, chúng ta đừng bỏ qua những lời tâm sự đến xé lòng của ông theo hình thức cầu nguyện như:
“Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh con ra làm gì, để cho người ta chống đối, cho cả nước gây gỗ với con? Con chẳng cho ai vay, cũng không mượn của người, thế mà vãn cứ bị nguyền rủa. Quả vậy, lạy Đức Chúa, con đã chẳng đem thiện chí phục vụ Ngài hay sao? Nào con đã chẳng cầu khẩn với Ngài cho thù địch khi nó gặp hoạn nạn, lúc nó phải gian truân?” (Gr 15: 10-11),nhất là:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng. Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con. Mỗi lần nói năng là con phải la lớn, phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’ Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, ầm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến pahri hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20: 7-9).
Thật ra, ngôn sứ Giê-rê-mi-a vốn là một con người hiền lành, không muốn làm mất lòng bất kỳ một ai. Trung thành chuyển giao lời Thiên Chúa mà ông trở nên kẻ thù địch của mọi người, vì những thông điệp của ông đi ngược lại những mong ước của mọi người. Vì thế, đoạn trích dẫn hôm nay không nên nhấn mạnh sự giải thoát cho bằng sứ mạng trung thành chuyển giao lời của Đức Chúa mà ông bị loại trừ và chịu đau khổ. Quả thật, sự đau khổ của Giê-rê-mi-a tiên trưng sự đau khổ của Đức Giê-su, được phác họa trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 1-4)
*1.Noi gương các bậc tiền nhân:
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục đọc Thư gởi tín hữu Do thái mà chúng ta đã khởi sự đọc vào Chúa Nhật trước. Trong đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc lời khuyến dụ kết thúc danh sách các bậc anh hùng Cựu Ước. Các ngài là những “chứng nhân” về niềm tin sắc son kiên vững trong mọi gian nan thử thách. Tác giả Thư gởi tín hữu Do thái mời gọi chúng ta noi gương các bậc tiền nhân kiên trì giữ vững đức tin trong mọi gian nan thử thách. Như một vận động viên, để có thể đạt được vòng nguyệt quế chúng ta phải chấp nhận cởi bỏ khỏi bản thân mình bất kỳ thứ gì làm vướng víu cuộc chạy đua của mình.
*2.Đức Giê-su là mẫu gương tuyệt hảo của người Ki-tô hữu:
Đối với người Ki-tô hữu, Đức Giê-su còn vĩ đại hơn gấp vạn lần các bậc anh hùng Cựu Ước. Khi sống tại thế, Ngài đã không chỉ “khai mở” con đường đức tin nhưng còn “kiện toàn” lòng tin bằng cách “cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Chính nhờ hướng về Ngài, người Ki-tô hữu sẽ thành toàn cuộc đời mình qua những gian nan thử thách của cuộc đời này.
TIN MỪNG (Lc 12: 49-53)
Giáo huấn của Chúa Giê-su dành cho các môn đệ đạt tới cao điểm khi Ngài mặc khải rằng việc họ thuộc về các môn đệ Ngài sẽ đặt họ vào những cảnh ngộ không yên thân thoải mái đâu. Thực vậy, ý nghĩa sứ vụ của Chúa Giê-su được đề cập ở 12: 49-50 có những phản hồi trực tiếp đến các môn đệ ở 12: 51-53. Tin Mừng hôm nay có hai ý được gợi lên qua hai cặp hình ảnh: “lửa và phép rửa” (12: 49-50), “hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53).
*1.“Lửa và phép rửa” (12: 49-50)
Bằng cặp hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giê-su nói đến sứ mạng sắp đến của Ngài. Trước hết, “Thầy đã ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”: Trong Kinh Thánh, hình ảnh “lửa” thường mô tả tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa cho con người (x. Đnl 4: 24; Xh 13: 22; vân vân). Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Người tận mức ở nơi biến cố Nhập Thể của Con Ngài (Ga 3: 16). Qua hình ảnh “lửa”, Đức Giê-su tự nguyện hiến dâng mạng sống mình vì chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15: 13). Vì thế, Chúa Giê-su những ước cùng mong đến giờ thực hiện tình yêu tận mức của Ngài đối với con người được bừng cháy trên Thập Giá.
Tiếp đó, Đức Giê-su mô tả cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài qua hình ảnh phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”, nghĩa là Ngài sẽ dìm mình vào trong cái chết, nhưng từ cái chết Ngài sẽ sống lại trong vinh quang để không bao giờ chết nữa. Qua hình ảnh “phép rửa”, Đức Giê-su tha thiết ước mong được hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương chúng ta. Cũng thế, chúng ta chịu phép rửa, nghĩa là chúng ta dìm mình vào trong cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô, tức là chết cho tội lỗi mình, và được tái sinh vào một đời sống mới chan chứa muôn vàn ân phúc: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4).
Qua cuộc sống mới này, chúng ta, những người Ki-tô hữu, phải bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu theo cùng cách thức như Đức Giê-su đã châm ngọn lửa ở nơi các môn đệ Ngài, như lời của thánh Phao-lô: “Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).
*2.“Hòa bình và chia rẽ” (12: 51-53)
Con Thiên Chúa đã giáng trần với một sứ điệp hòa bình: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2: 14) và hòa giải: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5: 11). Các ngôn sứ cũng đã loan báo sứ mạng của Đấng Ki-tô là sứ mạng hòa bình (x. I s 9: 5tt; Dcr 9: 10) và thánh Phao-lô cũng xác quyết chính Đức Giê-su “là bình an của chúng ta” (Ep 2: 14-15). Tuy nhiên, vì cưỡng kháng lại công trình cứu độ của Đức Ki-tô do tội, con người trở thành những đối thủ của Ngài: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao?”. Bất công và lầm lạc dẫn đến chia rẽ và chiến tranh: “Bao lâu con người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe dọa và vẫn sẽ còn đe dọa cho tới khi Chúa Ki-tô đến. Tuy nhiên, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người vượt thắng tội lỗi và cũng vượt thắng bạo động cho tới khi lời sau đây được hoàn tất: ‘Họ sẽ rèn gươm thành lưỡi cày và giáo thánh lưỡi liềm. Các dân tộc sẽ không rút gươm đâm chém nhau và sẽ không tập luyện để chiến đấu’ (Is 2: 4)” (Vatican II, Gaudium et spes, 78).
Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên, dù rằng “Người đã đến loan Tin Mừng bình an” cho hết mọi người (Ep 2: 17-18), tuy nhiên, suốt cuộc đời tại thế, Đức Giê-su đã là dấu chỉ của sự mâu thuẫn (x. Lc 2: 34). Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết rằng sự bất đồng và chia rẽ đồng hành với công việc truyền bá Tin Mừng (x. Lc 6: 20-23; Mt 10: 24). Ngay cả trong gia đình vốn là nơi yêu thương và đùm bọc nhau, đôi khi vì niềm tin vào Ngài và vào Tin Mừng của Ngài lại trở thành cuộc bách hại ngay trong gia đình mình. Vì thế, Chúa Giê-su nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình theo kiểu thế gian, nghĩa là không có chiến tranh, bách hại, mà là hòa bình của Thiên Chúa, một thứ hòa bình ngự trị trong cõi thâm sâu của lòng người, đó là hòa bình mà thế gian không thể nào ban cho được.
“Lời Chúa Giê-su nói về sứ mạng của Người cũng là một lời khuyến cáo các môn đệ Người: Sự kiện Nước Thiên Chúa đến không phải để các môn đệ hưởng thụ một cuộc sống bình an một cách thụ động. Họ sẽ hưởng bình an đấy, nhưng là một thứ bình an mà phải cố gắng chiến đấu mới đạt được, chiến đấu trong gian truân thử thách, chiến đấu với cả những người thân không cùng niềm tin với mình. Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba đã hiểu như thế, nên đã khuyên các tín hữu rằng: ‘Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa’ (Cv 14: 22). Hòa bình Chúa ban là kết quả của những cố gắng để giải quyết tình trạng ‘chia rẻ’: a) Nơi bản thân mỗi người, chỉ có hòa bình thật khi không còn xung đột giữa cái tôi hướng thiện với cái tôi hướng ác; b) Nơi gia đình, nơi xã hội và bất cứ nơi nào cũng thế, chỉ có hòa bình thật khi mọi người đều một lòng một ý với nhau” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
SỰ QUẤY RỐI CẦN THIẾT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Ai ai cũng thích được sống yên ổn trong những thói quen của mình. Tuy nhiên cứ mãi ở yên trong những thói quen xấu thì rất là tai hại. Bởi vậy cần phải có ai đó đánh thức lương tâm, kết án sự xấu và lôi kéo con người trở về đường tốt. Đó là những sự quấy rối cần thiết.
Chúng ta xin Chúa giúp chúng ta can đảm đón nhận những sự quấy rối đó, và cũng can đảm dám quấy rối trước những tình trạng xấu của kẻ khác.
Gợi ý sám hối
- Chúng ta chỉ thích nghe những lời êm tai vừa ý và không đón nhận những lời thật sửa lỗi chúng ta.
- Nhiều khi chúng ta còn thù ghét những người thành tâm sửa lỗi chúng ta.
- Chúng ta không can đảm đấu tranh cho công bình và sự thật.
III. Lời Chúa
Bài đọc I (Gr 38, 4-6. 8-10)
Thời ngôn sứ Giêrêmia, dân Do Thái phạm tội nhiều nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylone bao vây họ. Thay vì ăn năn sám hối và quay về nương tựa nơi Chúa, họ vẫn tiếp tục làm tội và cậy vào thế lực ngoại bang. Ngôn sứ Giêrêmia vạch rõ những sai lầm ấy và đe dọa rằng nếu họ cứ tiếp tục như thế thì có ngày Thiên Chúa sẽ cho quân thù sẽ xâm chiếm xứ sở, tàn phá đền thờ và bắt dân đi lưu đày.
Vì những lời nói thật đó, Giêrêmia bị coi là kẻ quấy rối tinh thần dân chúng và là tên phản quốc. Dân chúng đã bắt ông quăng xuống một cái giếng sâu. Nhưng Chúa đã cho người cứu ông lên.
Đáp ca (Tv 39)
Tâm tình Tv này rất hợp với Giêrêmia: Tôi đã trông cậy Chúa và Người đã nghiêng mình về bên tôi. Người đã kéo tôi lên khỏi lỗ mồ, khỏi chỗ bùn nhơ…
Tin Mừng (Lc 12, 49-53)
Đoạn này có hai ý:
a/ Bằng hai hình ảnh “lửa” và “phép rửa”, Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):
- “Lửa” ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.
- “Phép rửa” ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
b/ Bằng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ”, Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9, 5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9, 5tt; Dcr 9, 10; Lc 2, 14; Ep 2, 14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hoà bình” có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2, 35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).
Bài đọc II (Dt 12, 1-4) (Chủ đề phụ)
Hoàn cảnh: Các kitô hữu gốc Do Thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do Thái cũ thù ghét vì coi họ là những người phản đạo. mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
Tác giả thư Do Thái đã nêu gương Chúa Giêsu để an ủi và khuyến khích họ: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Chúa Giêsu. Ngài cũng gặp muôn vàn khó khăn nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
Gợi ý giảng
* 1. “Thầy đến để đem sự chia rẽ”
Những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng này thật kỳ lạ khác thường. Còn nhớ có lần hai môn đệ xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt một làng Samaria không tiếp rước Ngài, thì khi đó Ngài đã mắng hai ông và dùng đường khác mà đi. Thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại nói “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian”. Còn nhớ có lần Phêrô tuốt gươm ra để bênh vực Ngài khi quân dữ đến bắt Ngài. Khi ấy Ngài đã bảo Phêrô xỏ gươm vào bao vì ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm. Vậy mà hôm nay Ngài nói “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy đến để đem sự chia rẽ!”.
Thực ra Chúa Giêsu đến trần gian không phải để gây chia rẽ và xáo trộn. Tuy nhiên nhiều khi chính vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra! Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai. Khi đó, ai bỏ đạo cũ (đạo Rôma, đạo Do thái) để theo đạo Chúa Kitô thì bị gia đình, bạn bè và hàng xóm ghét bỏ, bách hại. Nhưng những kitô hữu ấy biết làm gì khác hơn được: chọn bên này thì phải bỏ bên kia, và bên bị bỏ sẽ thù ghét mình.
Dù Chúa Giêsu rất hiền lành nhưng, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống lại Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà hãy tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giàu nổi giận v. v.
Trong Tin Mừng có đầy dẫy những lời chói tai như thế của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta chỉ lựa ra những lời thuận tai để đọc thì Tin Mừng chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, chính những lời làm ta khó chịu, những lời có tính cách quấy rối lương tâm chúng ta mới là những lời giúp chúng ta hoán cải và tìm được ơn cứu độ.
* 2. Sứ mạng ngôn sứ
Ngôn sứ là người nói lời Thiên Chúa. Mà lời Thiên Chúa không phải lúc nào cũng thuận tai loài người. Cho nên ngôn sứ thường bị coi là những người quấy rối, và bị ghét bỏ.
Nhưng kitô hữu chúng ta có sứ mạng ngôn sứ. Chúng ta có sứ mạng nói lên sự thật để vạch trần sự gian dối; chúng ta có sứ mạng đòi hỏi công bình mỗi khi gặp bất công.
Kinh nghiệm cho thấy không có gì khiến người ta khó chịu cho bằng đòi hỏi sự thật và công bình.
Vì thế sứ mạng của kitô hữu càng khó khăn hơn.
Trước chúng ta, đã có nhiều kitô hữu can đảm thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình: Martin Luther King rao giảng cho hòa bình và cho quyền tự do của người da đen. Ông đã bị ám sát chết. Đức Giám mục Helder Camara tranh đấu cho người nghèo và cũng bị bắn gục.
Xã hội ngày nay có nhiều điều xấu, và những điều xấu ấy vẫn tồn tại lâu dài. Phải chăng vì Kitô hữu đã bỏ quên hay đã hèn nhát không thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình?
* 3. Ngọn lửa tình yêu
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên.
Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
*
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12, 49). Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vắn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.
Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại.
Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.
Nếu lòng hai môn đệ Em mau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.
Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.
Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.
Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưới lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”. (TP)
* 4. Chấp nhận bị ghét
Lòng ganh ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà v. v.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu khuyến cáo các kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị ghét bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình: “Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…”
Đó là những sự ghét đáng chấp nhận, vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin Mừng của mình.
* 5. Hoà bình thật và hòa bình dỏm
Một đầm lầy xem ra rất phẳng và đẹp ở bề mặt của nó
Nhưng sâu bên dưới toàn là bùn sình rác rưởi hôi thúi.
Một thứ hoà bình dựa trên những giả dối và bất công được thoả thuận với nhau chỉ là thứ hòa bình dỏm. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để mang lại thứ hoà bình dỏm này.
Thứ hoà bình thật Chúa Giêsu mang đến là thứ hòa bình mà trong đó sự thật được tôn trọng, mọi quyền lợi của con người được tôn trọng.
Những người cố gắng xây dựng nền hòa bình của Thiên Chúa có thể bị người đời cho là những kẻ quấy rối, nhưng họ được Thiên Chúa gọi là “Con” của Ngài.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu của Người xuống trần gian để sưởi ấm con tim băng giá của nhân loại. Với ước mong ngọn lửa ấy bừng lên trên toàn thế giới, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh đã và đang làm hết mọi cách / để giúp các Kitô hữu hiệp nhất với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho nỗ lực cao quý / nhưng đầy khó khăn này.
- Ngày nay / sự ganh tỵ / lòng ghen ghét / vẫn đang ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau.
- Hiện giờ / bất hòa / chia rẽ vì bè phái / vẫn đang hoành hành trong các cộng đoàn giáo xứ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết dẹp bỏ bất hòa và chia rẽ / để luôn sống hiệp nhất với nhau.
- Đời sống gia đình chỉ thật sự hạnh phúc / khi các thành viên trong gia đình biết sống trên thuận dưới hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi gia đình trong giáo xứ chúng ta / biết luôn nêu gương cho các gia đình khác về đời sống bác ái yêu thương.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, ghen ghét, hận thù, vừa trái với tinh thần bác ái của Chúa vừa dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại trong mối quan hệ thường ngày. Vì thế, xin Chúa cho chúng con biết sống theo Lời Chúa dạy, và đừng bao giờ để cho lòng ghen ghét và sự hận thù ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Nước Thiên Chúa là nơi chân lý và công lý ngự trị. Chúng ta hãy cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
VII. Giải tán
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta làm một việc rất khó, đó là làm chứng cho sự thật và công bình. Với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng cao cả này.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NGỌN LỬA TÌNH YÊU- Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Đức Giêsu hay có kiểu nói nghịch lý làm cho người ta ngạc nhiên khi mới nghe và chưa hiểu hết ý nghĩa tàng ẩn trong đó. Chẳng hạn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu nói :”Thầy đã đến ném lửa vào trần gian… Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian ? Thầy bảo cho các con biết : không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”(Lc 12,49.51). Nếu Đức Giêsu được gọi là “Hoàng tử của Bình an”, hiền lành và khiêm nhường không mang sự hòa bình cho trần gian mà chỉ đem đến sự chia rẽ. Như vậy Ngài muốn nói gì ?
Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng sứ mạng của Ngài là xuống trần gian chịu chết để đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người và thanh luyện con người. Thi hành được sứ mạng đó không phải là dễ vì những lời rao giảng của Ngài phải nói lên chân lý và nói lên chân lý thì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang chà đạp lên chân lý vì như người ta nói :“sự thật mất lòng”. Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay là hình bóng Đức Giêsu. Ông nói sự thật cho dân chúng, nhưng họ không muốn nghe, lại còn hành hạ và muốn giết chết ông. Đức Giêsu cũng phải đi theo con đường đó và Ngài muốn cho việc thi hành sứ mạng đó chóng hoàn tất.
Ngài đến để đem hòa bình cho nhân lọai, nhưng không phải là thứ hòa bình ru ngủ của trần gian mà là thứ hòa bình thật của Thiên Chúa. Thứ hòa bình này chỉ có thể lãnh được khi người ta đã nỗ lực thi hành Lời Chúa và phải tôi luyện bằng Thập giá. Vì thế, Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa nhiều người, ngay những người trong một gia đình. Sở dĩ có sự chia rẽ là vì có người tin theo Chúa, có người không tin theo, lại còn chống đối nữa. Vậy là có sự chia rẽ giữa người tin và không tin. Đức Giêsu đòi chúng ta phải xác định lập trường, phải có sự lựa chọn : tin theo hay không tin theo. Nếu đã chấp nhận tin theo thì cũng phải chấp nhận con đường của Chúa đã đi : phải hy sinh tất cả để trung thành với Chúa.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gr 38,4-10.
Thời tiên tri Giêrêmia, dân Do thái phạm tội nhiều, nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylon bao vây. Là người hiền lành, nhạy cảm, yêu quê hương, Giêrêmia phải tuân lệnh Thiên Chúa, đi nói những lời nguyền rủa trên dân mình để khuyến khích họ ăn năn sám hối và quay về nương tựa vào Chúa, nhưng họ cứ tiếp tục đi theo con đường sai lầm đó. Ôâng còn bị cáo giác là chủ bại và cộng tác với quân địch. Vì những lời nói thật đó, ông bị kết án vứt xuống giếng sâu, nhưng Chúa đã cho người cứu vớt ông.
Hôm qua cũng như hôm nay, vị tiên tri phải trải qua kinh nghiệm xương máu để biết được rằng “Sự thật thì mất lòng”. Đó là số phận của nhà tiên tri, người làm chứng về sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngoài ra, việc Giêrêmia bị bỏ xuống giếng là hình ảnh tử nạn của Đức Giêsu và việc Giêrêmia được thóat chết là hình ảnh của Chúa sống lại.
+ Bài đọc 2 : Dt 12,1-4.
Trong khi chúng ta dấn thân cho Nước Chúa, được nghe đoạn thư gửi cho người Do thái sau đây, chúng ta cảm thấy được an ủi và nâng đỡ rất nhiều. Hồi ấy, các Kitô hữu gốc Do thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do thái cũ thù ghét và coi họ là những người phản đạo, mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
Thánh Phaolô đôi khi ưa dùng ngôn ngữ thể thao, Ngài ví cuộc sống của Kitô hữu như một cuộc chạy đua, cần phải có nhiều sức dẻo dai, mắt nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính Ngài cũng gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
+ Bài Tin mừng : Lc 12,49-53.
Bài Tin mừng hôm nay có hai ý chính :
a) Đức Giêsu có sứ mạng xuống trần gian để thanh luyện trần gian và Ngài ước cho việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Ngài cũng báo trước sẽ phải qua một cuộc khổ nạn và việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
b) Đức Giêsu dùng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ” để kêu gọi người ta phải có thái độ lựa chọn trước Tin mừng của Ngài. Sứ mạng của Ngài là chịu chết để chuộc tội cho loài người. Ngài tự hiến mình chịu chết, không còn lựa chọn nào khác khi Ngài muốn hoàn thành đến cùng sứ mạng được giao phó. Nhưng một quyết định như thế càng thêm những chống đối và sẽ gây chia rẽ trong chính lòng dân tộc được chọn : một số người sẽ hoán cải, một số người khác thì không, một số người tin theo, một số người không.
Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ còn xẩy ra ngay trong lòng một gia đình.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ngọn lửa tình yêu bùng cháy.
ĐỨC GIÊSU ĐEM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN.
Điều Đức Giêsu muốn nói.
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta không khỏi thắc mắc : Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hòang tử của Hòa bình”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ”? Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên sự xáo trộn, gây nên nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc nào hay tổ chức nào trên thế giới ?
Người ta phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian và Thầy muốn sao lửa đó được cháy lên” ? Vậy lửa Đức Giêsu đem đến trần gian là thứ lửa nào?
Lửa trong Thánh Kinh.
Trong Thánh Kinh lửa được dùng để chỉ ý nghĩa của hai khía cạnh tích cực và tiêu cực : ngọn lửa ở thiên đàng và ở hỏa ngục. Ngọn lửa là hình ảnh của sự hiện diện thiêng thánh của Thiên Chúa khi ông Maisen gặp gỡ Ngài giữa bụi gai đang cháy (Xh 3,2), hay cột lửa đã hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (Xh 13,21), và ngọn lửa từ trời xuống thiêu hủy thành Sôđôma và Gômôra (St 19,24).
Sức mạnh của Lời Chúa như lửa nơi miệng tiên tri Giêrêmia (Gr 5,14), và ngọn lửa tiên tri Isaia nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông (Is 6,6) trở nên thanh khiết để ngài loan báo sứ điệp cho dân chúng. Tiên tri Eâlia được ví như ngọn lửa, và lời giảng của Ngài như đuốc cháy (Hc 48,1).
Ngọn lửa của Thần Khí đậu trên các Tông đồ và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3). Mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (Lc 17,29). Lửa là những thử thách (1Pr 4,12).
Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 12,49-53), Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng :”Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”(Lc 12,49). Tôi tin rằng lửa mà Luca muốn nói ở đây chính là “ngọn lửa của Thần Khí” đã được ban xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3-4) với sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa để đi rao truyền Tin mừng khắp muôn dân (Cv 1,8). Ngọn lửa của Thần Khí thanh luyện linh hồn chúng ta khỏi sự ích kỷ và kiêu căng, nguồn gốc gây ra tất cả mọi sự thù nghịch và báo oán.(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 282-283).
Đức Giêsu mong uớc “ban Thần Khí” cho thế gian. Ngài nói rằng đó là nhiệm vụ duy nhất của Ngài :”Thầy đến vì việc đó”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng Đức Giêsu như một người đang ước mong, mang trong mình một dự án lớn lao. Đức Giêsu hăng say với dự án đổi mới toàn thể địa cầu. Lấy lại hình ảnh ấy, một bài ca hiệp lễ hát rằng :”Là kẻ ăn mày lửa, tôi nắm tay Chúa trong tay tôi, như người ta cầm trong tay mình ngọn lửa cho mùa đông và Chúa trở thành đám cháy thiêu đốt thế gian”. Đức Giêsu trở thành một sức mạnh nhiệt thành mới mẻ cho nhiều người hôm nay. Ở giữa những việc tầm thường hằng ngày, chúng ta có thể đốt lên “ngọn lửa nồng nàn của tình yêu”.
Mâu thuẫn giữa hòa bình và chia rẽ.
Đức Giêsu nói :”Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư ? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn ? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xẩy ra.
Chúng ta cần hiểu rằng : bằng hai chữ hòa bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài (Lc 51-53) : Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm : chữ “Hòa bình” có nhiều nghĩa : hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hòa bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.
Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xẩy ra ngay trong lòng một gia đình (Carôlô, Hạt giống nảy mầm, Chúa nhật năm C, tr 141).
Dù Đức Giêsu rất hiền lành, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ : Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống đối Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giầu nổi giận v.v…. Trong Tin mừng không thiếu gì những lời nói chói tai như thế, nhưng Đức Giêsu cũng cứ nói, vì “thuốc đắng đã tật”.
ĐỨC GIÊSU ĐÓN NHẬN SỰ CHỐNG ĐỐI.
Thao thức mãnh liệt của Đức Giêsu.
Khi nói về Đức Giêsu thường chúng ta chỉ chú trọng vào thiên tính mà quên đi nhân tính của Ngài. Vì thế mà không thấy tính gần gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Ngài. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhạy cảm như thế nào khi Ngài chạnh lòng thương trước đám đông, khi Ngài xúc động khóc trước mồ Lazarô. Bài Tin mừng Giáo hội đọc trong phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu : cùng với một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm ít ai có, Ngài còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng ấp ủ những hoài bão lớn lao :”Thầy đã đem lửa vào thế gian và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên ! Thầy còn có một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Hoài bão của Đức Giêsu là gì nếu không phải là biến đổi thế giới này thành Trời mới Đất mới ? Thao thức của Đức Giêsu là gì nếu không phải là thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người ? Trời Mới Đất Mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương Quốc và Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự Sống, của Yêu Thương, của Bình An và Hoan Lạc.
Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự hủy diệt bản thân mình. Hơn nữa, Ngài còn nóng lòng mong đợi cuộc Khổ nạn mau tới như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt vời nhất của đời mình.
Tiên tri Giêrêmia là hình bóng Đức Giêsu.
Bài đọc 1 hôm nay mô tả cuộc bách hại tiên tri Giêrêmia. Các Kitô hữu luôn coi ông như một hình bóng của Đức Giêsu. Ôâng là tiên tri ngay thời còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình trong một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel, sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ôâng thương yêu tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Trước những lời nói tiên tri chân thật của ông, nhiều người thù ghét ông và tìm cách giết hại ông. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu.
Đức Giêsu cũng thế : ngay từ những trang đầu của Tin mừng chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đương thời bấy giờ đối xử như thế nào. Ngài đến với những lời chân thật, hằng sống, nhưng người nhà không tiếp rước Ngài, vì cho rằng Ngài là mối nguy cơ đe dọa địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Ngài chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa : theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa ! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa Tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.
Vì Tin mừng, phải chấp nhận chống đối.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã vạch ra điều sẽ dẫn Ngài đến cái chết, và những người môn đệ bước theo Ngài cũng sẽ phải gặp đủ thứ đụng chạm xung khắc (Mt 10,22). Đức Giêsu đã bị chết không chỉ vì những lời rao giảng yêu thương, nhưng còn vì Tin mừng tự do của Ngài đã xung khắc với các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Họ coi Ngài chỉ là con người gây rối và họ nhìn thấy Ngài chỉ là một sự đe dọa cho những địa vị và quyền hành của họ.
Không phải Đức Giêsu không muốn bình an vì Ngài Là “Hòang Tử của Bình an”, nhưng khi Ngài bênh vực cho những giá trị tinh thần, phục vụ cho công lý và giải phóng nhân lọai khỏi những ràng buộc của tội lỗi, thì chắc chắn phải đụng chạm với quyền lực đang muốn duy trì chúng lại.
Đức Giêsu bị người ta ghen ghét. Lòng ghen ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không phù hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà.
Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyến cáo các Kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị giết bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình :”Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Tình trạng này đã xẩy ra trong Giáo hội sơ khai và vẫn xẩy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh : những người theo đạo thường bị chính quyền hoặc đồng đạo mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình.
Truyện : Chấp nhận bị chửi.
Trong một buổi huấn đức tại đại chủng viện Mundelein vào khoảng năm 1992, Đức cố hồng y Joseph Bernadin của tổng giáo phận Chicago đã tâm sự rằng, từ ngày ngài về lãnh trách nhiệm ở Chicago, mỗi ngày đều đặn, không sót một ngày, có một lá thư gửi đến chửi ngài là “son of bitch” –“chó đẻ” ! Vì sao ? Vì ngài theo giảng huấn của Giáo hội chống lại các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản vật chất. !
Đức tin và những giá trị tôn giáo đặt chúng ta vào tư thế đụng chạm, xung khắc với xã hội. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói :”Các con tưởng rằng Thấy đến để đem sự bình an đến cho thế gian ư ? Thầy bảo thật các con : không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Đó là những sự thù ghét đáng chấp nhận vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin mừng của mình.
III. ĐỨC GIÊSU ĐÒI SỰ LỰA CHỌN CỦA TA.
Kitô hữu phải lựa chọn.
Nếu đặt câu hỏi : là người Kitô hữu, bạn đã lựa chọn Đức Kitô và đạo của Ngài chưa ? Chắc có người cho là thừa và có thể là một câu hỏi ngớ ngẩn vì khi đã được chịu phép rửa tội chúng ta đã thề hứa bỏ ma qủi mà chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa, tin theo Đức Giêsu Kitô, do đó, mới được mang danh là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, và được mang tên của Ngài.
Đồng ý vậy, đã là Kitô hữu thì dĩ nhiên chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Ngài rồi, nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đọan của cuộc đời chúng ta phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thực sự chọn lựa Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma qủi mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng lại sự chọn lựa của chúng ta, hằng ngày chúng ta phải đặt cho mình một câu hỏi :”Đối với tôi, Đức Giêsu là ai” ? Chắc chúng ta sẽ thưa được Đức Giêsu là thế nọ, thế kia… nhưng thể hiệân chứng minh những lời ấy thì không dễ.
Chọn lựa phải dứt khóat và hiệu quả.
Cuộc sống con người hiện nay quá phức tạp và đa đoan khiến cho tâm tư bị phân tán, xé mỏng – ý chí và nghị lực cũng vì đó mà suy yếu. Một đội quân mạnh cũng dễ gì đánh thắng cùng một lúc 3, 4 mặt trận, phải có tinh thần mạnh mẽ mới vào được Nước Trời (Mt 11,12). Các thánh Tử đạo đã can đảm thực hiện Lời Chúa (Mc 8,38; Lc 9,26). Lời Ngài đâu phải không rõ ràng hoặc chúng ta có thể thực hành hay không là tùy ý ? Tình yêu và chân lý luôn đòi hỏi sự lựa chọn dứt khóat, mạnh mẽ. Dù phải hy sinh – Không thể vừa muốn một đời sống dễ dãi, nhàn hạ (hay lười biếng) đồng thời lại muốn vào Nước Trời. Hai cái muốn đó làm sao có thể đi đôi với nhau (Mt 10,36t)? Chính Đức Kitô còn không sống theo ý Ngài (Mt 4,4; Ga 4,34). Thế nên khi dứt khóat chọn Đức Kitô, ta phải nỗ lực sống theo Lời Ngài và đồng thời luôn vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài (Mt 6,25t; Lc 12,22t).
Truyện : Thánh nữ Perpetua.
Perpetua thuộc gia đình quí tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngọai, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình, nàng lễ phép nói với cha :”Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không ? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết :”Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả”.
Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời :”Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ :”Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con”.
Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hy sinh tất cả.
Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
Lựa chọn và Thập giá.
Đức Giêsu đã nói :”Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khỏai biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Một phép rửa mới đang chờ đợi Đức Giêsu : tử đạo, cái chết ! Đức Giêsu quả quyết rõ ràng nếu chính Ngài phải trải qua cơn thử thách thì những ai theo Ngài cũng sẽ gặp thử thách trên bước đường họ đi.
Nếu Ngài đến đem bình an của Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã công bố (Is 9,5-6; Mk 5,4; Lc 2,13) thì đây không phải là sự bình an dễ dãi do các tiên tri giả loan báo, sự bình an mà con người không ngừng mơ tưởng; nhưng là bình an Nước Trời mà người ta chỉ đạt được qua Thập giá. Mỗi người được mời lựa chọn thái độ của mình đối với Đức Giêsu, hoặc theo Ngài, hoặc chống Ngài như ông Simêon đã nói tiên tri (Lc 3,35).
Truyện : Họ đã chọn một phép rửa.
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim để làm chứng cho sự thật Phúc âm. Họ cũng đã phải chịu “một phép rửa” của đau khổ như Đức Giêsu đã chịu.
Chẳng hạn như cựu Tổng thống Nam phi Nelson Mendela, người được giải thưởng Nobel về Hòa bình, đã bị tù 27 năm vì đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam phi.Yitzak Rabin, cựu thủ tướng Do thái, bị ám sát chết vì lập trường hòa bình của mình.
Đức Tổng Giám mục Oscar Rômêrô ở El Salvado bị bắn chết lúc dâng Thánh lễ vì bảo vệ người nghèo chống lại quyền lực.Và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát hụt, như một hậu quả của những giá trị Ngài bênh vực.
Chúng ta có thể sống ung dung để tránh né “ngọn lửa” thanh luyện mà Đức Giêsu đề cập tới không ? Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những lời “dễ nghe”, hẳn Ngài đã trở nên một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Ngài đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối.
Chúng ta sẽ phản bội Tin mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những sự khác nhau giữa người giầu và người nghèo, giữa người có quyền và người cùng khổ, giữa người tốt và người xấu. Một Tin mừng nhạt nhẽo như thế không thể nào thành men làm dậy bột thế gian.
Có một xu huớng “thuần hóa” Tin mừng, giản lược nó thành những lời hay ý đẹp và những kinh nghiệm an tòan dễ chịu. Khi điều ấy xẩy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết vị, ánh sáng trở nên mù mờ. Nếu chúng ta sống như vậy, e rằng đến ngày sau hết Đức Giêsu sẽ đem “ngọn lửa phán xét” từ trờ xuống mà phán rằng :”Ngày ông Lót ra khỏi Sôđôma, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xẩy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải”(Lc 17,29). Hãy làm cho ngọn lửa nhiệt tình bùng cháy lên như thánh Phanxicô Assisi đã làm. Ngài đã dám lột bỏ hết mọi sự giầu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời.
Truyện : Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình.
Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, Đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật tại Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại Đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề :”Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Oznam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những người công nhân nghèo khổ.
Ngày nay Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, chuyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
SỨ MỆNH- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem khoảng năm 627 tới sau năm 587 trước Công Nguyên. Tiên tri đã cảnh báo thần dân, vì tội lỗi mà họ đã phạm đến Chúa. Dân thành sẽ bị phá hủy bởi vua Nebuchadrezzar, người Babyon. Khi nghe cảnh cáo, nhiều nhà chức trách đạo đời cảm thấy khó chịu và muốn diệt trừ tiên tri Giêrêmia: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉtìm tai hoạ”(Gr 38, 4). Tuy nhiên, trong số đó có những người trung thành và biết lắng nghe lời sự thật. Thay vì bỏmặc tiên tri để chết trong giếng cạn, vua đã truyền cứu ngài ra khỏi giếng: Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết” (Gr 38, 10). Sống ở đời luôn có kẻ ưa người ghét là thế!
Trong cuộc sống, chúng ta luôn phải đối diện với hai chọn lựa: Tốt xấu, phải trái, lành dữ,đúng sai, yêu ghét và tội phúc… Dù tốt hay xấu, phía nào cũng có người phò theo. Phe lành và phe dữ song hành trong cuộc sống như bóng tối và ánh sáng. Làm sao chúng ta có thể rút ra những nhận định đúng đắn trong xã hội vàng thau lẫn lộn? Vì mỗi bên, mỗi phía đều có chia sẻ ít nhiều sự tốt lành và xấu dữ.Đâu là chân lý? Mỗi xã hội con người có những chủ trương riêng biệt. Văn hóa này có thể thích hợp ở đây, nhưng không thể thực hành nơi khác. Tất cả những nền văn hóa do con người kết cấu thành đều là tương đối. Các luật lệ do con người đặt ra cũng rất tương đối. Sự phán đoán về sự đúng sai của con người xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi quan niệm sống mỗi vùng, nên dân luật hay tục lệ có thể thay đổi.
Cảm giác về tội lỗi phai nhạt dần. Chủ nghĩa cá nhân được đề cao. Con người xã hội tìm kiếm và thỏa mãn những gì mình ưa thích. Nhiều người chủ trương sống hưởng thụ và đáp ứng mọi nhu cầu cảm xúc thể xác. Những nét đẹp của Công Dung Ngôn Hạnh từ từ biến mất. Chúng ta không thể ngồi ung dung tự tại mặc cho con tạo xoay vần. Là các bậc phụ huynh, những người giáo dục và thầy dậy, chúng ta cố gắng khơi lên ngọn lửa cháy sáng soi đường. Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đem lửa xuống thế gian và ước mong lửa bừng cháy: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên (Lc 12, 49). Lửa của tình yêu và lửa của sự thật. Chúa là tình yêu. Chúa là sự thật và là sự sống.
Chúa Giêsu không dấu diếm sứ mệnh, Ngài nói: Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ (Lc 12, 51). Sự chia rẽ giữa sự thánh thiện và tội ác. Sự chia rẽ giữa người công chính và kẻ gian ác tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu không bỏ rơi một ai. Ngài hiện diện đó không phải để kêu gọi người công chính mà là kẻ tội lỗi. Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến, Chúa sẽnâng đỡ bổ sức cho. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.
Đối diện với cuộc sống đa dạng, đa văn hóa và đa tôn giáo của thời đại hôm nay, chúng ta cần học hỏi và nhận định rõ ràng hơn. Rất nhiều chính thể chủ trương triết thuyết tương đối. Họ cho rằng không có gì tuyệt đối là đúng hay sai và tốt hay xấu hoàn toàn . Theo họ, đúng hay sai, dựa vào sự quyết định của đa số áp đặt. Trước tiên, sự tốt xấu và lành dữ được đánh giá qua vấn đề lợi nhuận kinh tế. Chúng ta đang va chạm với những chủ trương cởi mở và qúa cấp tiến. Những điều đang xảy ra hằng ngày về vấn đề đạo đức luân lý. Thí dụ: Một số Tiểu Bang ở Hoa Kỳ, các nhà Lập Pháp đã bỏ phiếu đa số đồng thuận về hôn nhân đồng tính, về sự ngừa thai, phá thai không giới hạn, về án tử và trợ tử…
Về sự sống con người: Phe phò phá thai (pro-abortion) chủ trương bảo vệ tự do và quyền bình đẳng của phụ nữ, trong khi hủy diệt sự sống của thai nhi. Tuy nhiên, Phong trào phò sinh (pro-life) vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự do lương tâm và tựdo tôn giáo. Chúng ta căn cứ vào lương tâm và lời Mạc Khải để tìm đến sự thật. Sự thật có thể áp dụng chung cho mọi người, mọi dân và mọi nước. Chúng ta gọi là luật tự nhiên hay luật lương tâm đã được in ghi tận đáy tâm hồn.
Càng ngày càng có nhiều tệ nạn xảy ra trong xã hội con người. Các học viên được huấn luyện trở thành bác sĩ để cứu chữa con người, nhưng một số lại tìm cách hủy diệt mạng sống con người. Các công ty dược phẩm chế tạo thuốc để chữa lành, nhưng đồng thời cũng chế tạo các loại thuốc giết người. Các tòa án Tối Cao Pháp Viện, phải là nơi công lý được thể hiện, nhưng cũng lại đưa ra những chỉ thị và phán quyết độc hại hủy phá sự sống con người. Biết tin vào ai? Đâu là điều tốt hay điều xấu vàđiều lành hay điều dữ. Mỗi quan tòa đều có những lý luận sắc bén để biện luận và đôi khi ngụy biện để dấu diếm sự thật. Nhiều chính phủ dùng quyền lực của luật pháp để áp chế người dân đi ngược dòng đạo đức luân lý. Dù với quyền lực, họcũng không thể giết đi tiếng nói của lương tâm. Sự thật vẫn luôn là sự thật.
Thánh Phaolô khuyên dạy: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa (Dt 12, 2). Chúng ta tìm về nguồn chân thiện mỹ. Đức Kitô là Đấng trung gian giữa đất trời. Ngài là Lời của Thiên Chúa. Ngài mạc khải cho chúng ta về con đường cứu độ qua thập giá. Ngài đã chấp nhận cái chết đau thương trên khổ giá để minh chứng cho lời rao giảng và sự thật Nước Trời. Muốn đạt được quê trời, chúng ta cũng phải phấn đấu một cách kiên vững và gian khổ. Bước qua cửa hẹp. Từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Muốn bước theo Chúa, chúng ta không thể bắt cá hai tay. Cần có sự chọn lựa dứt khoát.Tránh kiểu sống nửa vời tương đối vô thưởng vô phạt.
Nhắm hướng nhìn lên. Suy gẫm sự khổ đau của Chúa Kitô trên thập giá để tìm hướng đi. Chúng ta có thể hỏi rằng tại sao Chúa phải chịu khổ nhục như thế? Chúa có thể chọn cách khác nhẹ nhàng hơn chứ! Không, Chúa Kitô đã ước ao hoàn tất chén đắng mà Cha đã trao đề kéo lôi chúng ta ra khỏi vực sâu của tội lỗi và sự chết: Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng (Dt 12, 3). Mầu nhiệm Chúa Kitô chịu chết và sống lại là một chân lý. Chân lý của sự giải thoát. Để tìm câu trả lời cho sự lành sự dữ, sự tốt sự xấu, tội hay phúc, chúng ta hãy tìm câu trả lời nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh.
Các nhà làm luật phán đoán và quyết định những điều đối nghịch với đạo đức luân lý nhưng họ đâu có chịu trách nhiệm. Sự dữ, sư xấu và sự sai trái đổ trên đầu người dân thấp cổ bé miệng. Các nhà lập pháp đâu có cảm thông và hiểu thấu những sầu khổ oan khiên trong thâm tâm của mỗi người. Các quan tòa vui mừng mở rượu vang chúc mừng nhau, khi thành công bỏ phiếu thành luật về một vấn đề luân lý nghịch đạo. Họ đâu có lường được những hệ lụy khổ đau kéo theo từ dòng dõi này qua dòng dõi khác. Biết bao tâm hồn bị tổn thương và rơi vào cô đơn giá lạnh. Chỉ có một Người cảm thông nỗi đớn đau tuyệt vọng và có uy quyền chữa lành tâm hồn là chính Chúa Kitô trên thập giá.
Lạy Chúa, Chúa đang giang tay chờ đón chúng con. Chúa nới với chúng con rằng ai yêu nhiều sẽ được tha nhiều. Chúng con chạy đến với Chúa, xin Chúa dủ lòng thương xót chúng con.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LỬA TÌNH YÊU– Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu không phải là muốn lửa ấy cháy lên”. Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng cháy, là sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.
Phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và thế gian
Đừng tưởng thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở đây hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần gian. Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí cả anh em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật tình yêu. Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát. Theo nghĩa này, Đức Giêsu mang chia rẽ.
Ở một chỗ khác Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng”. Bình an của Đức Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an là thái độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả những điều xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.
Bình an Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng các ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ “Thiên Chúa yêu thương con người”. Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng bằng chính cuộc sống của các ngài.
Lửa tình yêu đã thiêu đốt Giêrêmia
Giêrêmia đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng chính dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và người ta tìm cách hãm hại tiên tri.
Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng tiên tri bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với Chúa, để tiếp tục sứ mạng Ngài trao phó. “Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con phải thiệt thân”. Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người, để họ thành chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.
Lửa tình yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm, theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng được cứu bởi lửa tình yêu.
Lửa Thánh Thần tình yêu
Thánh Thần là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều người can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên Đức Giêsu như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem tình yêu đến với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù ghét mình.
Tình yêu chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Theo bạn, có khi nào không còn tình yêu trên trần gian nữa không? Tại sao?
Dựa vào đâu để bạn nói Đức Giêsu yêu thương con người?
Đức Giêsu làm lửa tình yêu bùng cháy bằng cách nào?
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LỬA TÌNH YÊU (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng này thật kỳ lạ khác thường. Chúng ta còn nhớ có lần hai môn đệ xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt một làng Samaria không tiếp rước Ngài, thì khi đó Ngài đã mắng hai ông và dùng đường khác mà đi. Vậy mà hôm nay Chúa Giêsu lại nói “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian”. Hay như một lần khác, khi Phêrô đã tuốt gươm ra để bênh cho Chúa lúc quân dữ đến bắt Ngài thì Ngài lại bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào bao vì ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm. Vậy mà hôm nay Ngài lại nói “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, + Thầy đến để đem sự chia rẽ !”.
- “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!
Vậy thì Lửa mà Ðức Giêsu mang lại là lửa nào?
Phải chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy Sôđôma, hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan định sai xuống để thiêu hủy một ngôi làng Samari? (Lc 9,55)
Phải chăng là thứ lửa mà cây không trái (Mt 3,10), hay những cành nho khô héo bị quăng vào (Ga 15,6)?
Lửa này có phải là lửa kinh khủng của ngày phán xét?
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Ðức Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Trái đất này càng lúc càng nóng lên. Nhưng lòng con người lại nguội lạnh như hai môn đệ Emmau.
Chúng ta cần cảm thấy chút lửa ấm (Lc 24,32) của người đồng hành xa lạ, nói cho ta về Lời Chúa.
Chúng ta cần cảm thấy ngọn lửa trong tim như Giêrêmia, thúc bách ông phải nói Lời Chúa dạy (x. Gr 20,9).
Ðức Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Ðừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy để nó lan ra.
Lửa thiêu hủy những cằn cỗi.
Lửa thanh lọc những ô nhơ.
Lửa làm ấm lại cõi lòng băng giá.
Lửa sáng soi trên bước đường kiếm tìm sự thật.
Chúng ta cần làm cho mong muốn của Ðức Giêsu thành tựu. Nhưng trước hết chúng ta phải là người mang trong tim ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu.
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên.
Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp là lửa yêu thương cho trần thế.
Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy dùng lửa yêu thương để xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói c3a những anh chị em chúng ta.
Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưới lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”. (TP)
- “Thầy đến để đem sự chia rẽ”
Thực ra Chúa Giêsu đến trần gian không phải để gây chia rẽ và xáo trộn. Tuy nhiên nhiều khi chính vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra! Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai. Khi đó, ai bỏ đạo cũ (đạo Rôma, đạo Do thái) để theo đạo Chúa Kitô thì bị gia đình, bạn bè và hàng xóm ghét bỏ, bách hại. Nhưng những Kitô hữu ấy biết làm gì khác hơn được: chọn bên này thì phải bỏ bên kia, và bên bị bỏ sẽ thù ghét mình.
Dù Chúa Giêsu rất hiền lành nhưng, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống lại Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà hãy tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giàu nổi giận v.v.
Trong Tin Mừng có đầy dẫy những lời chói tai như thế của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta chỉ lựa ra những lời thuận tai để đọc thì Tin Mừng chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, chính những lời làm ta khó chịu, những lời có tính cách quấy rối lương tâm chúng ta mới là những lời giúp chúng ta hoán cải và tìm được ơn cứu độ.
Perpetua là một người phụ nữ vừa mới sinh được một đứa con. Chị sống vào thời hoàng đế Septimô Sevêrô. Gia đình Perpetua là một gia đình danh giá. Perpetua đang học giáo lý với Satunô thì bị bắt. Thấy học trò của mình bị bắt, Satunô cũng tự ra nộp mình.
Cha của Perpetua là một người thờ ngẫu tượng. Ông đến xin con bỏ đạo Chúa mà quay trở về với các thần tượng của ngoại giáo. Perpetua đưa tay chỉ vào một cái bình rồi nói với Cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng vậy, con không thể cho con một cái tên nào khác ngoài cái danh hiệu là Kitô hữu của con”
Tức giận quá ông đánh cho Perpetua một trận rồi bỏ đi. Sau đó Perpetua không thấy cha trở lại. Chính trong thời gian này Perpetua được rửa tội cùng với một số bạn bè khác. Ngày được trở thành Con Thiên Chúa, Perpetua chỉ cầu xin có một điều. Nàng xin cho có được đủ sức mạnh để chịu đựng nổi những đau khổ của cuộc tử đạo.
Trong nhà giam, Perpetua nhớ đứa con của mình. Chị rất phải đau khổ vì phải xa con. Nhưng rất may, đứa bé vì không có mẹ nên kiệt sức. Người ta phải trả lại đứa be cho mẹ của nó. Nhận lại được đứa con, Perpetua vui sướng, quên hết mọi khổ đau.
Vì biết con mình sắp bị án tử, cha của Perpetua đến gặp con và năn nỉ thảm thiết: “Con ơi! Hãy thương mái tóc bạc của ba. Hãy nhớ đến đôi tay này đã nuôi dưỡng con bao ngày. Hãy thương mẹ của con, anh em con và đứa con nhỏ con đang bồng ẵm trên tay. Không có con, cháu sao sống được. Con hãy bỏ đạo, bỏ điều quyết định làm cho chúng ta mất tất cả.
Mặc dầu rất cảm động và đau khổ trước những lời của cha nhưng Perpetua chỉ biết trả lời: “Thưa cha, tại tòa án sẽ xảy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LỬA VÀ BÌNH AN- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP
Chắc có lẽ nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế Vận Hội. Hình ảnh gây ấn tượng nhiều nhất hẳn là nghi thức đốt lửa khai mạc. Từ mấy tháng trước, trước khi ngọn lửa được bùng lên tại lễ đài của sân vận động, ngọn lửa ấy đã được đốt lên tại núi Olympia – Hy-lạp – quê hương của Olympic. Và rồi ngọn lửa được rước về xứ sở được vinh dự tỗ chức Thế Vận Hội, được trao cho các vận động viên nỗi tiếng, những người có danh giá: mỗi người một đoạn đường. Những người này thay phiên nhau rước ngọn đuốc Olympic đi khắp đất nước, và đến ngày khai mạc, ngọn đuốc được đưa về sân vận động và được thắp lên trên lễ đài.
Cũng trong những hình ảnh của Olympic, vào ngày bế mạc, khi ngọn lửa trên lễ đài được tắt đi, thì mỗi người tham dự cầm một ngọn đèn, tượng trưng cho tinh thần Olympic. Ánh sáng từ những ngọn đèn nhỏ, với muôn ngàn màu sắc khác nhau, làm cho bầu khí thật cảm động. Ngọn đèn trên tay, như là thu nhỏ của ngọn lửa Olympic, sẽ được giữ mãi, nhớ mãi, mỗi người cảm thấy mình gần người khác hơn, đầy tinh thần yêu thương và thông cảm.
Xin mượn những hình ảnh ấy để gợi ý chia sẻ cho bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ mệnh bày tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người đến giữa vận hội trần gian và đốt lên ngọn lửa của Thiên Chúa. Người đã rước ngọn lửa đó đi khắp đất nước Do thái, vượt ra khỏi những biên cương do con người tạo nên. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa đám dân Do thái đang chờ mong Đấng Cứu Tinh. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa những người dân ngoại. Người đã làm bừng lên trong tâm hổn mọi người ngọn lửa như ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo. Ông Gioan Tẩy Giả thanh tẩy bằng nước, còn Đức Giêsu thanh tẩy trong Thần Khí, tức là gió và lửa. Tất cả lời nói và hành vi của Đức Giêsu đều cho thấy một ngọn lửa đích thực, lửa vĩnh cửu, lửa thiêng, để rổi cuối cùng, Người lấy chính mạng sống của mình để đốt lên một cách dứt khoát trên lễ đài thập giá, trên đổi Can-vê. Chính lúc ấy, Người đã thốt lên: “Mọi sự đã hoàn tất.”
Đức Giêsu đã thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu bằng chính cái chết của Người. Trước đó, Người đã trao cho các Tông Đổ sứ mệnh đem ngọn lửa đi khắp thế gian, đến tận cùng cõi đất. Theo lệnh của Đức Giêsu, các Tông Đổ đã đem ngọn lửa ấy đến các dân, loan báo cho mọi người, không trừ một ai, để tất cả được nghe biết về Tin Mừng cứu độ.
Và rồi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ngọn lửa ấy được chuyền tay, lan đến khắp mọi nơi. Đã có biết bao con người đem cả cuộc đời của mình, đem chính mạng sống của mình để bảo vệ ngọn lửa, để công bố cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa.
… đến các Kitô hữu
Ngọn lửa ấy hôm nay được chuyển đến các Kitô hữu, được thắp lên trong tâm hổn họ. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng, với lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Người Kitô hữu sẽ mang ngọn lửa ấy và đốt lên trong vận hội trần gian. Nơi đâu họ có mặt, nơi ấy là vận động trường, và ở đó cần có lửa. Với những hoàn cảnh sống khác nhau, về cả nơi chốn và điều kiện, người Kitô hữu có nhiều cơ hội để mang ngọn lửa Tin Mừng thắp sáng mọi ngõ ngách cuộc đời.
Nhưng ngọn lửa ấy là gì?
Mọi người hẳn biết ngọn lửa ấy chính là Đức Tin, hay nói khác đi, chính là tinh thần Kitô giáo, là Tin Mừng, là sứ điệp cứu độ.
Mỗi người đều biết công dụng của lửa. Ở Đà Lạt, vào những ngày mùa lạnh, ngoài chức năng soi sáng, lửa còn dùng để sưởi ấm, tức là để xua tan khí lạnh, để chống lại giá rét. Đúng thế, người ta có thể hình dung ra câu chuyện Đức Giêsu ở trong Đền Thờ: Người cầm roi xua đuổi hết những người buôn bán, và trả lại sự trang nghiêm thánh thiện cho nơi thờ phượng. Ngọn lửa của Đức Giêsu vừa có tính cách huỷ diệt, vừa có chức năng soi sáng và đốt nóng. Do đó, người Kitô hữu đem ngọn lửa nhận từ Đức Giêsu để phá tan những u tối, những ngờ vực và soi sáng con đường để bước tới. Người Kitô hữu đem ngọn lửa để đốt cháy những gì không phù hợp với Nước Thiên Chúa, và làm cho ngọn lửa bừng lên ở khắp mọi nơi.
Cũng phải nói thêm rằng, ngọn lửa ấy chính là Đức Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để nhân loại được sưởi ấm nhờ tình thương của Thiên Chúa. Người đến để soi sáng đêm tăm tối trần gian và làm cho con người chìm sâu trong ngọn lửa vĩnh cửu, để rổi chính họ sẽ trở thành lửa cho người khác. Và Đức Giêsu cũng đã đem cả cuộc đời của Người để làm cho ngọn lửa ấy không bị dập tắt, nhưng được bùng lên mãnh liệt. Để thi hành sứ mạng này, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết, đã chịu đổ máu mình. Người Kitô hữu cầm ngọn lửa là Đức Giêsu cũng sẽ phải sống như vậy, họ sẽ phải biến cuộc đời của mình thành một ngọn lửa. Họ sẽ phải đem theo ngọn lửa đó cho đến đích, không để cho ngọn lửa bị tàn lụi, nhưng luôn cháy sáng, như Đức Kitô đã làm.
Trở lại hình ảnh của cuộc rước đuốc Olympic: các vận động viên rước đuốc là những người được tuyển chọn, những người nổi tiếng, không phải bất cứ ai cũng được vinh dự đó. Người Kitô hữu có cảm thấy hãnh diện khi mình là vận động viên của Đức Giêsu đem ngọn lửa đi rước khắp cuộc đời? Và, như vận động viên phải giương cao ngọn đuốc, người Kitô hữu cũng phải kiên trì và dũng cảm bày tỏ đức tin của mình. Họ không được đem giấu ngọn lửa, cũng không làm lửa tắt, nhưng hiên ngang sống niềm tin, dù có những trở ngại, khó khăn.
Liệu chúng ta có dám nhận mình là vận động viên của Đức Giêsu? Dám chứ, vì tất cả đều đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Bình an từ cuộc chiến đấu
Trong suốt thời kỳ rao giảng công khai, Đức Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ sứ mệnh của Người là quy tụ, là đưa những con chiên lạc về đàn, những người đang tản mác về một mối. Ai cũng hiểu như thế. Vậy mà, trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu lại quả quyết: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Tại sao Đức Giêsu lại nói đến chia rẽ? Phải chăng Người tự mâu thuẫn?
Để trả lời điều này, chúng ta phải vượt qua cái nhìn quá “tầm thường” về Đức Giêsu. Bình an, tình yêu … Đúng, nhưng trước đó là phải đương đầu với những khó khăn, phải chiến đấu, và phải liều mạng nữa. Bình an không phải là được yên thân, tránh được những trở ngại, nhưng là chiến thắng, là vượt ra khỏi, là dám sống những giá trị lớn lao. Bởi vì nếu như thế, bình an, Nước Trời là thứ dễ dàng quá, chỉ cần ngổi không cũng có được. Chỉ sau khi vượt qua cái chết Đức Giêsu mới thực sự chúc bình an cho các môn đệ. Và đó là bình an, là tình yêu của con người đã đi qua những đau khổ lớn lao nhất, kể cả cái chết. Đã có lần Đức Giêsu cho biết rằng, chỉ những người nào mạnh mới được vào Nước Trời, và như thế phải bước qua cửa hẹp.
Bình an Đức Giêsu trao tặng không giống bình an của trần gian. Muốn được hưởng bình an ấy, chúng ta phải đi theo Đức Giêsu, trên chính con đường Người đã đi, đó là dám phiêu lưu, dám liều mạng. Người đi theo Đức Giêsu là người phải chọn lựa, phải đấu tranh, ngay cả với những người thân quen nhất. Người đi theo Đức Giêsu phải dám hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả, để chỉ chọn lựa một mình Người. Người đi theo Đức Giêsu là kẻ bước trên con đường chênh vênh, đầy khó khăn, nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và hy vọng vì biết rằng mình không bị vấp ngã. Đức Giêsu vẫn đi bên cạnh và như vậy họ được bình an.
Do đó, sự quy tụ mà Đức Giêsu mong muốn không phải là một thứ hoà hợp nhạt nhẽo, vô vị, nhưng là một sự chọn lựa tích cực, một sự nôỵ lực với tất cả khả năng của mình.
Cuộc đời người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ ngọn lửa giữa những bão táp. Chiến đấu để đem ngọn lửa thắp sáng lên trong mọi ngõ ngách, mọi bí ẩn của tâm hổn. Chiến đấu để đưa ngọn lửa về tới đích. Chiến đấu để đạt được bình an, thứ bình an đích thực, bởi vì Đức Giêsu đã giao hoà thế gian với Thiên Chúa khi chịu đóng đinh trên thập giá.
Ôi Thiên Chúa, đối với chúng con, sự thúc giục của Chân Lý thật mãnh liệt, thế nhưng, ai đã đón lấy sự thúc giục ấy thì được biến đổi, trở nên rất giản dị.
Khi nhìn thấy Thiên Chúa, họ cùng với Thiên Chúa nhìn xem thế giới vô ơn và tàn bạo này, và đón nhận vào trong tâm hổn mình cuộc Thương Khó vĩnh cửu.
Thiên Chúa không có tiếng nói họ là tiếng nói thay thế Người.
Thiên Chúa không có xác thân, họ hiến dâng thân mình để chịu khổ thay Người, và để hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
Họ đơn giản như ngọn lửa, như tiếng kêu, đơn giản như lưỡi dao sắc bén phân rẽ xác thịt với thần trí.
(theo P. Claudel.)
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Lời Chúa chúng ta vừa nghe: “Thầy mang lửa xuống thế gian và Thầy ước mong ngọn lửa ấy bừng cháy lên”, đó là tâm nguyện của Đức Giêsu. Thế giới này ví tựa như một ngôi đền thờ rộng lớn, bổn phận mỗi người cần phải đặt vào đó một ngọn lửa, để thế giới này bừng sáng lên tình Chúa tình người.
Thế thì, ngọn lửa mà Đức Giêsu mang vào thế giới này là ngọn lửa nào? Thưa, chính là ngọn lửa tình yêu bừng cháy từ trái tim của Ngài. Thật vậy, vì yêu thương nhân loại sống trong bóng tối sự chết, Đức Giêsu từ bỏ từ trời cao xuống đất thấp để thắp lên ngọn lửa yêu thương; ngọn lửa của lòng thương xót; ngọn lửa phục vụ đến nỗi hiến thân mình chịu chết, để rồi từ cõi chết sống lại, Ngài xua tan bóng tối tử thần đem lại sự sống mới cho nhân loại.
Thời Cựu ước, Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với ông Môsê trong bụi gai bốc cháy, và trao sứ mạng cho ông dẫn đưa dân Israel ra khỏi ách nô lệ Aicập – thì nay Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta ra đi thắp sáng niềm tin cho những người chưa nhận biết Chúa.
Đức Giêsu đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh, và sai các môn đệ đi làm chứng cho Tin mừng – nay Chúa cũng sai chúng ta ra đi xua tan bóng tối của bất công, hận thù, chia rẽ, để thay vào đó ánh sáng của tình thương.
Xưa kia ngọn lửa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ, biến đổi họ trở thành chứng nhân Tin mừng – ngày nay chúng ta cũng được mời gọi mang ngọn lửa tình yêu để sưởi ấm những tâm hồn đau thương khốn khổ.
Xưa kia tâm hồn hai môn đệ đi làng Emmau đã bừng cháy lên khi nghe Chúa giải thích Thánh kinh, ước gì tâm hồn chúng ta cũng được ấm áp lên mỗi khi nghe lời Chúa dạy bảo.
Nếu nhân loại ngày hôm nay cần cơm bánh để sống còn, thì cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần tấm áo để che thân, thì cũng cần tình thương để sưởi ấm cho nhau.
Khi người Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng tình thương đã bừng lên như tình anh em ruột thịt. Ước gì, chúng ta hãy là những Samaria nhân hậu, đưa những nạn nhân về quán trọ của lòng mình, bằng đôi tay rộng mở, với tấm lòng yêu thương giúp đỡ, hay ít nhất là một lời cầu nguyện cho những người kém may mắn đó.
Anh chị em thân mến,
Ngọn lửa yêu thương Đức Giêsu đã thắp sáng trần gian, và Ngài ước mong chúng ta tiếp tục thắp lên ngọn lửa yêu thương ấy cho thế giới.
Giáo hội hơn 2.000 năm qua, đã có nhiều tấm lòng vàng như thánh Gioan Thiên Chúa; như mẹ thánh Têrêsa Cancutta, như thánh Gioan Phaolô II, như các chiến sĩ truyền giáo, những người âm thầm phục vụ trong các mái ấm tình thương… Như vậy, ngọn lửa ấy đã có rồi, nhưng còn nhiều giới hạn.
Thật vậy, chúng ta đang sống trong một thời đại, mà dường như không thiếu thứ gì, duy chỉ có tình yêu, tình người và lòng thương cảm đối với nhau ngày càng thiếu vắng, vì “căn bệnh vô cảm” đang lan tràn khắp nơi. Tin tức mỗi ngày cho chúng ta nghe thấy, đó đây vẫn còn chiến tranh, hận thù, nạn kỳ thị chủng tộc màu da và tôn giáo. Như vậy, nhiều nơi bóng tối thiếu tình người vẫn còn che phủ.
Trong một thời đại như thế, lời mời gọi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay vẫn còn mang tính thời sự, như một hồi chuông gióng lên, thức tỉnh xã hội, cách riêng những người mang danh mình là Kitô hữu, hãy cùng nhau xây đắp một nền văn minh tình thương và lòng thương xót.
Bởi vì, chỉ có lòng thương xót mới thực sự là ngọn lửa thắp lên để sưởi ấm lòng người; chỉ có lòng thương xót mới có thể vực con người đứng dậy, trở về với Thiên Chúa sau những vấp ngã, đau thương trên cuộc đời này.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, hãy mở rộng tâm hồn và thắp lên ngọn lửa yêu thương, xoá đi những ích kỷ nhỏ nhen, để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự con cùng một Cha trên trời.
Ước gì, chúng ta hãy siêng năng đến kín múc ngọn lửa yêu thương từ nơi Thánh Thể Chúa, để rồi chúng ta đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lạy Chúa, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Xin Chúa soi sáng những tâm hồn còn ngồi trong bóng tối tăm, sưởi ấm những tâm hồn lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để mọi người trên trái đất này cảm nghiệm được ánh lửa yêu thương của Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NƯỚC, LỬA VÀ SỰ CHIA RẼ – Lm. Phạm Ngọc Kôn
Hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu quả là một cuộc phiêu lưu và mạo hiểm. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đề cập đến những thử thách, những nguy cơ và số phận của những ai mạo hiểm bước theo Người. Rồi đây những ai bước theo Chúa Giêsu không thể không bước qua những gian nan khốn khổ, những bách hại như Người đã đi qua…
Tâm sự với các môn đệ, Chúa Giêsu thao thức về ngọn lửa mà Người đem đến thế gian phải chi đã bùng lên để kiện toàn nhân trần. Chúa Giêsu muốn tâm sự với các môn đệ về ngọn lửa nào đây?
Rất có thể đây là ngọn lửa phán xét của Thiên Chúa công minh chính trực. Kinh thánh nói nhiều đến sự hiện diện của Đấng sẽ đến xét xử trần gian là Đức Kytô. Thật thế, trọn đời sống cùng với những giáo huấn của mình, Chúa Giêsu đã “ném” vào thế gian ngọn lửa vạch trần những mưu mô thâm độc của ác thần, những áp bức bất công, những mâu thuẫn xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những điều ấy như những tiếng chuông cảnh tỉnh lòng người, giúp họ sớm quay về nẻo chính đường ngay mà phụng sự Thiên Chúa.
Ngọn lửa đó cũng có thể là ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Và Người hằng tha thiết mong chờ con người đáp lại tình yêu đó bằng ngọn lửa nồng cháy. Ngọn lửa tình yêu đó chính là đời sống đức tin, đời sống chứng nhân Tin mừng. Thiên Chúa ước mong ngọn lửa tình yêu đó ngày một cháy lên trong tâm hồn mọi tín hữu để danh Chúa được hiển vinh.
Sau hết, đó cũng là ngọn lửa của Thần Khí Thiên Chúa đến hâm nóng giáo hội trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thật thế, hội thánh Chúa khai sinh trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống- ngày mà các môn đệ đón nhận Chúa Thánh Thần dưới hình lưỡi lửa ngự xuống trên đầu các ông. Nhờ ngọn lửa này, giáo hội Chúa ngày một lan rộng khắp hoàn cầu và sẽ còn lan rộng mãi cho đến ngày Chúa lại đến.
Liền sau đó, Chúa Giêsu nói đến phép rửa mà Người sắp phải chịu. Hành trình lên Giêrusalem của Chúa chính là để lãnh nhận phép rửa này. Phép rửa đó chính là giờ phút Người sẽ trải qua trong giờ tử đạo. Đồng thời, phép rửa này cũng là cuộc vượt qua không chỉ cho Chúa Giêsu mà còn cho các môn đệ cũng như cho hết những ai bước theo Người. Những ai theo Chúa trong đức tin không thể không uống chén đắng mà Chúa sẽ uống và chịu phép rửa mà Người sẽ phải chịu trong ngày khổ nạn. Như thế đã rõ, những gì Chúa Giêsu phải trải qua trong sứ vụ của Người, đến lượt những ai tiếp bước theo Người, cũng sẽ trải qua những thử thách như thế trên lộ trình họ sẽ bước qua.
Sau hết, Chúa Giêsu đề cập đến sự “chia rẽ” mà Người sẽ mang đến cho trần gian. Điều xem có vẻ nghịch lý trong câu nói của Chúa Giêsu nhưng lại là chân lý cho những ai chấp nhận giáo huấn và bước theo đời sống của Người. Thật vậy, bình an mà Chúa Giêsu nói đến không phải là thứ bình an dễ dãi theo kiểu trần thế mà các ngôn sứ giả không ngừng loan báo. Đó là bình an của nước Thiên Chúa và con người chỉ có thể đạt đến thông qua khổ giá. Con người được kêu mời lựa chọn thái độ sống của mình đối với Chúa Kytô. Họ có thể bước theo hoặc chống lại đường lối của Chúa. Và, sự lựa chọn này chắc chắn sẽ gây ra sự chia rẽ ngay trong chính gia đình, trong mỗi cộng đoàn. Ngay chính con người và giáo huấn của Chúa Giêsu cũng trở thành “cớ” gây nên sự chia rẽ và xáo trộn. Thật thế, nếu lời giáo huấn của Chúa làm cho nhiều người tội lỗi tin theo thì bao nhiêu ông Pharisêu lại ra sức chống đối Người bấy nhiêu; lời giảng của Người về vấn đề giàu nghèo, công bình xã hội được giới bần nông ủng hộ bao nhiêu thì các phú hộ giàu có lại nổi giận, xa lánh Người bấy nhiêu. Hơn ai hết, các môn đệ cũng như giáo hội tiên khởi đã nếm trải kinh nghiệm này khi họ từ bỏ Dothái giáo để bước theo Chúa Kytô, họ đã bị gia đình, bạn bè, láng giềng thù ghét thoá mạ. Chắc một điều, vì Chúa Kytô, giáo hội Chúa vẫn còn và sẽ mãi còn những kiểu “chia rẽ” như vậy.
Khi cổ võ cho hoà bình và công lý, khi cố gắng để xây dựng bình an đích thực trong trái tim con người, môn đệ Chúa Kytô có thể sẽ bị thế gian thù ghét và gán cho tội danh là kẻ phản nghịch. Nhưng chúng ta hãy an tâm và tin tưởng. Vì chính sự thù ghét của thế gian lại là phần thưởng nước trời cao quý nhất mà Chúa muốn ban tặng cho chúng ta trong đời sống mai sau.