CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TRÁCH NHIỆM(*) – Chú giải của Noel Quession. 8
MỘT DÂN TỘC TỈNH THỨC- Chú giải của Fiches Dominicales. 16
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN – NĂM C.. 22
TRUNG TÍN PHỤNG SỰ THIÊN CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 22
TỈNH THỨC TRONG ĐÊM TỐI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 33
HÃY TỈNH THỨC VÀ SẲN SÀNG- Lm. Giuse Đinh lập Liễm.. 43
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 59
NƯỚC TRỜI CHO ANH EM- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 63
ĐỨC TIN– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 67
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 73
TỈNH THỨC ĐỂ ĐÓN CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh. 79
TỈNH THỨC LÀ MỘT BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU- Lm. Inhaxio Trần Ngà 83
TỈNH THỨC – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP.. 86
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng đã làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Chính đêm ấy, cha ông chúng ta đã biết trước, để biết chắc mình đã tin tưởng vào lời thề nào mà được can đảm. Dân Chúa đã mong đợi sự giải thoát những người công chính và sự tiêu diệt kẻ thù. Vì như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng kêu gọi để làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy.
Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ, và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 1 và 12. 18-19. 20 và 22
Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
Xướng: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa; ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình.
Xướng: Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
Xướng: Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
Bài Ðọc II: Dt 11, 1-2, 8-19
“Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.
Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập.
Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.
Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế, chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì.
Nhờ đức tin, khi bị thử lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này: “Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi”. Vì ông nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã đón nhận con ông như một hình ảnh.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Dt 11, 1-2, 8-12
“Ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.
Nhờ đức tin, Abraham đáp lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người, sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập.
Nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời và như cát bãi biển.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 32-48
“Các con hãy sẵn sàng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
“Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Phêrô thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?” Chúa phán: “Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: “Chủ tôi về muộn”, nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn”.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Lc 12, 35-40
“Các con hãy sẵn sàng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TRÁCH NHIỆM(*) – Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”.
Luca đã cân nhắc khi đặt những lời này của Đức Giêsu trong cuộc hành trình dài lên Giêrusalem mà chúng ta cùng đi theo: từ mấy Chúa nhật qua. Đức Giêsu tiến lên cái chết của Người, sự “xuất phát” của Người (Lc 9,51). Không cần phải là một thầy bói để đoán trước tương lai. Trong một số trường hợp, người ta biết rất rõ điều gì sẽ xảy ra. Đối với Đức Giêsu và các bạn hữu Người, trong những tuần lễ cuối cùng trước lễ Vượt qua, điều đó rõ ràng và đáng ngại: Người sắp đối đầu với sự thù nghịch cứng rắn và không nao núng của những vị đứng đầu tôn giáo… giữa sự ác cảm của quần chúng không còn chút quan tâm đến con người đã từ khước trở thành Đấng Mêsia “của họ”, Đấng Mêsia công thành danh toại và chiến thắng tất cả. Cứ bề ngoài mà xét, thất bại chung cuộc đang đến gần: Một dự án thất bại, một cuộc đời thất bại.
Vả lại chính trong bối cảnh đó mà Đức Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!”. Thật vậy, nhóm các môn đệ ít ỏi ấy nhỏ bé và mong manh làm sao! Đức Giêsu cố động viên họ khi gọi họ bằng từ thân ái ấy: “Đoàn chiên bé nhỏ”.
Nhưng từ ngữ ấy cũng là một cách diễn tả của Thánh Kinh mang một ý nghĩa thần học. “Đoàn chiên” có “chủ chiên” dẫn dắt, hình ảnh này muốn nói rằng Thiên Chúa yêu mến và bảo vệ dân được chọn của Người (St 48,15; Gr 31,10; Ed 34). “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ” (Tv 22).
Thế là một lần nữa, chính miệng con người Giêsu Nadarét đưa ra một khẳng định đầy táo bạo: Nhóm nhỏ này, yếu ớt và nghèo khổ, không quyền thế, không văn hóa, không chỗ dựa, không có lòng can đảm là “Israel mới”, dân mới của Thiên Chúa. Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!
Ngày nay, Đức Giêsu nói với tôi cũng lời đó, trong những lúc tôi gặp thử thách. Ngày nay, Đức Giêsu nói lại điều đó với Giáo Hội hiện nay, trong những lúc Giáo Hội gặp khủng hoảng.
Tôi lắng nghe. Tôi lắng nghe.
Theo Đức Giêsu vì sao chúng ta phải xua tan sự sợ hãi? “Bởi vì Cha anh em coi việc ban cho anh em Nước của Người là điều tốt lành”. Đời sống anh em có một ý nghĩa trong Thiên Chúa, cho dù vì lý do này hay lý do khác, đời sống ấy có một bề ngoài thất bại, cho dù bạn bè bỏ rơi anh em, kẻ thù đè bẹp anh em, mọi người không hiểu anh em, cho dù anh em đến phải nói rằng: Lạy Chúa con, lạy Chúa con, tại sao Chúa lại bỏ con? Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu công bố rằng Thiên Chúa ban Nước của Người cho những “người nghèo khó”, cho những người khốn khổ, sa cơ thất thế. Cả người làm kinh doanh đã phá sản, cả người chồng bị ly dị hoặc bị tổn thương trong tình yêu, cả gái giang hồ đã tàn phai hương sắc, cả phạm nhân bị kết án tử hình, cả người tội lỗi đã chối bỏ thầy mình, cả nhưng Người đã bỏ rơi Thầy vì một lý do nào đó. Tất cả đều có thể vượt qua nỗi tuyệt vọng trong Đức Giêsu. Nước của Thiên Chúa không phải là một cuộc chinh phục đang thắng lợi nhưng là một ơn của Chúa Cha. Khi đổ đầy ơn ấy cho anh em Chúa Cha thấy điều đó là tốt lành.
“Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thế hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó”.
Đây là kết luận đơn giản của tất cả những gì chúng ta vừa nghe. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện ông, phú hộ mà chúng ta đã nghe Chúa nhật vừa qua. Đối với người đã đặt mọi sự an toàn trong Thiên Chúa, các “của cải trần gian” không quan trọng gì mấy! Vậy thì, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho và hãy yêu thương không đòi đáp lại, dù chịu thiệt. Bạn hãy bố thí bằng tấm lòng thời gian và tài sản của bạn. Tất cả đều là hư vô, không có gì thật trừ tình yêu?
Trái tim của bạn ở đâu? Bạn có yêu không?.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay”.
Tách rời khỏi những giá trị và những thành công ảo tưởng, lòng chúng ta có thể tìm thấy kho tàng của nó, xua đuổi mọi sợ hãi, trở thành sung sướng Vậy bí quyết của sự triển nở đích thực ấy là gì dù trong những hoàn cảnh bất lợi nhất? Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu: Hãy chuẩn bị lòng mình cho một Người đang đến. Thiên Chúa “đến”. Người tới gần. Người ở đây rồi.
Đức Giêsu đã loan báo Người sẽ trở lại vào thời sau rốt, trong ngày Quang Lâm. “Maranatha” “Xin Chúa hãy đến” Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được xem như cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Đấng Chí ái: “Chính vì thế mà thánh nữ Têrêxa Avila nghĩ đến giây phút cuối cùng của đời bà như lúc mà “dải lụa của cuộc gặp gỡ êm dịu ấy được tháo tung”. Nhưng Thiên Chúa, dưới dải lụa: “trong bóng đêm” ẩn giấu, không ngừng đi đến. Vậy, trang Tin Mừng này nói về vô số lần Thiên Chúa đến mà chúng ta thường lỡ hẹn, bởi vì chúng ta ở chỗ khác và chúng ta không “tỉnh thức”.
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy thì thật là phúc cho họ!”
Thêm một mối phúc thật nữa: “Phúc cho những ai tỉnh thức” “Thật là phúc cho họ!”
Trái tim của chúng ta được tạo ra là vì Chúa. Làm sao chúng ta lại ngạc nhiên nếu chỉ mình Chúa, sau cùng mới có thể làm cho tim ta no thỏa? Trái tim này rất lớn! Bạn không thể chỉ làm đầy nó bằng các tình yêu trần thế. Chỗ trũng ước vọng của bạn lớn như Thiên Chúa. Hãy yêu thương! Hãy yêu thương? Bạn chớ bao giờ ngừng yêu thương? Bạn sẽ không bao giờ hết yêu thương bởi vì thanh Thiên Chúa muốn đổ đầy cho bạn. Dĩ nhiên, bạn phải sống những yêu thương nơi gian trần với sự mạnh mẽ như một biểu tượng và sự thực hiện ban đầu của tình yêu cao cả.
“Người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, và người làm vợ, hãy yêu thương chồng mình… Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh” (Ep 5,32). Hôn nhân là một “bí tích”, một “dấu chỉ”: Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô. Nếu bạn có may mắn yêu thương và được yêu thương, bạn hãy sung sướng và không ngừng sống tình yêu thương của bạn “trong Chúa”. Nhưng cả khi bạn có cảm tưởng làm hỏng tình yêu thương ấy; Bạn hãy đặt tình yêu thương ấy “trong Chúa”. Bạn được “mời gọi đến bàn ăn của Thiên Chúa”. Chính Người muốn phục vụ bạn? làm cho bạn no thỏa. “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và: mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20). Có người gõ cửa! Chúng ta hãy ra mở nhanh lên, chính là Người.
Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Hình ảnh mới lạ này, hình ảnh kẻ trộm rất táo bạo và đúng kiểu của Đức Giêsu. Giờ đây khi nói về: giờ kẻ trộm đến, Đức Giêsu nhấn mạnh đến khía cạnh hoàn toàn bất ngờ, làm hoang mang, thoạt đầu không thể hiểu được nhiều lần Người đến. Đức Giêsu cũng gợi ý rằng chúng ta thật sự “lâm nguy”, nếu chúng ta không tỉnh thức: Phải lay động sự đờ đẫn, sự ngủ thiếp của chúng ta. Lúc đang chờ đợi lâu dài, trong đêm tối, ngọn gió gay gắt của buồn chán như muốn dập tắt ngọn lửa trong lòng chúng ta. Tôi đang “ngủ quên” hoặc đang “tỉnh thức”.
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”. Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ, đúng lúc? Khi chủ, về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”.
Vậy là ở đây trên cùng một chủ đề về sự tỉnh thức là một dụ ngôn mới, lần này gởi cho những người có trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu; họ là những người “quản lý” họ không phải là những “ông chủ”. Họ phải có hai đức tính: Sự trung tín và lương tri! Họ chỉ có một vai trò duy nhất: nuôi sống mỗi người! Tôi muốn cầu nguyện cho họ, xuất phát từ đoạn Tin Mừng này. Tôi cũng có thể nhìn thấy ở đấy một định nghĩa tốt về mọi người “có trách nhiệm” trong tất cả các lãnh vực.
Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đây tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt hắn phải chung số phận với những tên thất tín”.
Như trong ba dụ ngôn khác nói về sự mong đợi, Đức Giêsu nêu lên sự chậm trễ và sự bất ngờ. Ong chủ lâu về quá ông trễ nải. Có lẽ ông ấy sẽ không bao giờ về? Có lẽ việc Thiên Chúa đến là một ảo tưởng? Thế thì, chúng ta cứ ăn, cứ uống, cứ vui chơi; cho dù điều đó có dẫn chúng ta đến chỗ đàn áp, thống trị và đánh đập ngược đãi những người khác.
Cơn cám dỗ ấy của “người có trách nhiệm”, chúng ta hãy ghi nhận điều này, có thể: là của Phêrô và các Tông đồ. Chúng ta đã được cảnh báo rõ ràng. Các nghệ sĩ thời Trung cổ không ngần ngại chạm hình các giám mục và các Giáo hoàng xếp hàng cùng với đoàn người bị kết án trong ngày phán xét trên mặt dựng của các nhà thờ. Và sau này, các họa sĩ cũng làm như thế trong các bục họa. Điệu nhảy tư thần. Lời lảnh báo đáng sợ cho tất cả mọi người: Không ai có đặc quyền trước mặt Thiên Chúa.
“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Luôn luôn là chủ đề về trách nhiệm. Sự phán xét tùy thuộc vào mức độ ý thức và hiểu biết mà người ta có. Trách nhiệm của chúng ta có thể chỉ là một phần. Đức Giêsu đã nói như thế với biết bao tinh tế! Khi áp dụng nguyên tắc này chúng ta thường phải phán xét người khác với lòng khoan dung và phán xét chính mình với sự thật.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
MỘT DÂN TỘC TỈNH THỨC- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
*1. Một con tim gắn liền với một giá trị duy nhất…
Đang trên đường lên Giêrusalem, có người cầu khẩn Đức Giêsu phân xử một cuộc tranh chấp về gia tài. Nhân dịp này, Người cảnh báo đám đông thính giả, khuyên họ giữ mình khỏi: “mọi thứ tham lam”, và lập tức Người minh họa bằng dụ ngôn người giàu có khờ dại (12, 16-21) để đi đến kết luận: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Rồi quay sang các môn đệ mà Người thường gọi là “đoàn chiên nhỏ bé”, Đức Giêsu kêu gọi hãy biết từ bỏ. Chúa Cha đã cho họ tất cả, đến lượt họ, tại sao họ lại không thể cho đi tất cả? Người nói với họ: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí”.
Cousin bình luận: “Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giàu trước mặt Chúa (12,21), là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời dời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biên cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất. (Tin Mừng theo thánh Lc. Centurion, trg 184)
*2. Tích cực đón chờ Đức Giêsu trở lại.
Tiếp tục câu chuyện với các môn đệ, Đức Giêsu đề cập đến một đề tài mới: tỉnh thức và trung tín. Người đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ được “đưa lên cao”; bởi vậy Người cần chuẩn bị cho các bạn hữu của mình sống trong một hoàn cảnh mới mà họ sẽ biết sau cuộc Phục Sinh của Người: Chúa của họ sẽ vắng mặt về thể lý, họ sẽ phải đón chờ Người trở lại trong vinh quang.
Ba dụ ngôn sẽ minh họa cho giáo huấn của Đức Giêsu: Trước hết là dụ ngôn những người đầy tớ sẵn sàng trong bộ đồ phục vụ, nghĩa là thắt lưng gọn gàng, vạt áo được săn lên và xiết chặt bằng dây thắt lưng như mọi người thường làm trong bữa tiệc vượt qua mà bài đọc thứ nhất đã thuật lại. Họ còn thắp đèn sẵn đợi chủ về. Họ tỉnh thức.
Cũng như những người đầy tớ trong dụ ngôn, các môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng đón chờ ngày trở lại của Thầy mình, và họ sẽ kinh ngạc khi thấy Đấng họ trông đợi ‘thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ’.
Liền sau đó là dụ ngôn ông chủ nhà tỉnh thức, biết đề phòng kẻ trộm đến bất ngờ.
Cũng vậy, các môn đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng vì Chúa trở lại thật bất ngờ.
– Dụ ngôn viên quản lý trung tín và viên quản lý bất trung kết thúc toàn bộ đoạn Tin Mừng này. Qua câu hỏi của Phêrô, dụ ngôn này giúp nhận rõ Chúa muốn nói với ai: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”
Trong khi hai dụ ngôn trước nhắm đến tất cả các môn đệ, thì dụ ngôn thứ ba nhắm đến những ai có trách nhiệm riêng trong cộng đoàn và vì trách nhiệm này, họ phải xử sự như những đầy tớ của Đức Kitô và như những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Cousin kết luận: “Câu hỏi của Phêrô khiến Đức Giêsu phải đề cập đến một điểm đặc biệt. Sau khi cảnh báo tất cả mọi Kitô hữu qua các câu 36-40, thì ở đây, Người đòi hỏi thái độ trung tín nơi một số các môn đệ là những người thi hành trách nhiệm mục vụ trên các anh em khác trong cộng đoàn. Vì những phận vụ được trao phó trước mặt mọi người, họ phải luôn sẵn sàng hơn những Kitô hữu khác để trả lời trước mặt Thầy mình, về những thái độ xử sự của họ khi Người bất ngờ đến (sđd, tr. 187).
BÀI ĐỌC THÊM
*1. “Một đức tin đâm rễ trong quá khứ, hướng về tương lai và thể hiện trong hiện tại như một bước tiến”.
Nói đến hiện hữu của người Kitô hữu là nói đến đức tin. Đức tin hướng về quá khứ, dựa vào một lời nói, chỉ một lời, một lời hứa.
Đức tin cũng hoàn toàn hướng về tương lai, vì chờ đợi lời hứa được thực hiện dù lời hứa ấy chỉ được bảo đảm bằng một lời nói. Người tín hữu tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện điều Ngài đã nói nhưng đức tin là tiến bước từ lời hứa này đến lời hứa khác mà không nắm giữ hoặc chiếm hữu điều gì.
Trong giây phút hiện tại, đức tin là một cuộc lữ hành, một bước đi, giống như Abraham và các tổ phụ là những di dân, khách lữ hành và những người rày đây mai đó.
Như vậy, phải chăng chúng ta bị kết án là chẳng có gì, chúng nắm giữ được gì? Đây chính là điều nghịch lý của đức tin: đức tin là “phương tiện giúp chiếm hữu được điều chúng ta mong đợi.”
Sự chờ đợi đã có đầy tràn tương lai rồi. Đức Kitô, Đấng sẽ đến, Đấng chúng ta đón chờ, đã hiện diện rồi. Người ở giữa chúng ta qua những ai phục vụ. Như vậy, công việc của đức tin là loại trừ khỏi chúng ta những gì chúng ta tin là đã nắm vững và đặt trong tay chúng ta giá trị duy nhất của tương lai. Chúng ta tiến về giá trị đó và trông đợi nó: giá trị đó là phục vụ và chia sẻ. Đó là cách thế tốt để đón chờ, để tỉnh thức trong đức tin.
*2. “Hãy thắt lưng sẵn sàng phục vụ”
Thiên Chúa gõ cửa nhà tôi. Người tỏ lộ qua các biến cố và lời khẩn nài của mọi người. Người còn tỏ lộ cho tôi qua lời kêu gọi của những người chung quanh và bè bạn. Người ước mong được ở với tôi. Và tôi có nguy cơ không quan tâm đến những ước muốn của Người. Người gọi tôi nhưng tôi không có mặt để trả lời. Tôi thuộc loại những kẻ thuê bao vắng mặt.
Đúng, từ lâu lắm, có thể nói là suốt cả cuộc đời, tôi đã là loại người như thế? Thiên Chúa không ngừng đi qua nhà tôi để chỉ thấy nơi tôi sự trống vắng và bóng tối.
Phải chăng chúng ta đã đánh mất sở thích chờ đợi và ước ao? Chúng ta muốn tất cả mọi sự và muốn chúng phải có ngay lập tức. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta đã được hoạch định.
Điều bất ngờ khó có chỗ đứng.
Chính Thiên Chúa ước ao đến nhà chúng ta. Vào bất cứ giờ nào. Ngay cả buổi tối khi chúng ta đã chuẩn bị lên giường. Hoặc thậm chí ban đêm khi chúng ta muốn được yên ắng nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt nhọc.
Thiên Chúa không để ý đến giờ giấc. Người luôn hiện diện. Người can thiệp thường xuyên, bất cứ lúc nào. Khi thấy chúng ta tỉnh thức và chờ đợi, Người sẽ sung sướng và vui mừng chia sẻ của ăn và những phương diện tết đẹp nhất trong đời sống của chúng ta.
Nếu thấy chúng ta vì ao ước mà săn sàng. Người sẽ “đốt lên” trong ta ngọn lửa sự sống. Người sẽ trao cho chúng ta Lời của Người. Người sẽ liên kết chúng ta với sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa của Người.
Chúng ta phải thắt lưng sẵn sàng, đó là thái độ của người sẵn sàng tham dự. Không phải một giờ mỗi tuần. Cũng không phải vài phút mỗi ngày, nhưng luôn luôn, thường xuyên. Đến nỗi Chúa đến bất cứ giờ phút nào cũng không bao giờ có thể làm chúng ta bất ngờ. Người sẽ thấy chúng ta luôn thắt lưng sẵn sàng. Và ngọn đèn của chúng ta luôn thắp sáng để nhận ra Đấng đang đến mà đón tiếp Người, mọi lúc. Một thái độ như vậy không có nghĩa là chúng ta không bao giờ kịp thở. Không có nghĩa là chúng ta không ngừng lại, không nghỉ ngơi. Nhưng có nghĩa là đôi mắt chúng ta luôn dò xét đôi tai luôn lắng nghe. Con tim luôn sẵn sàng. Tinh thần luôn tỉnh thức.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TRUNG TÍN PHỤNG SỰ THIÊN CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX Thường Niên năm Ca mời gọi mỗi người chúng ta trung tín với niềm tin, trung tín với niềm hy vọng, trung tín với sự phục vụ.
Tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên đêm giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đó là đêm dân Do thái, trung tín với tôn giáo tổ tiên mình, cử hành lễ Vượt Qua. Nhờ lòng tin, họ được vào Đất Hứa.
Thư gởi cho các tín hữu Do thái nhắc lại những mẫu gương đức tin của các thánh nhân thời Cựu Ước: họ đã xác tín rằng những lời hứa Thiên Chúa ban có liên quan đến những thực tại tinh thần và đã cảm thấy mình là những lữ khách trên đường về Thiên Quốc.
Tin Mừng Lu-ca cho người tín hữu bí quyết gia nhập Nước Trời: trung tín phụng sự Thiên Chúa cho đến cùng. Những tôi trung sẽ được dự phần vào Bàn Tiệc cánh chung, ở đó Thiên Chúa sẽ đích thân phục vụ họ.
Sách Khôn Ngoan là sách muộn thời nhất trong số những sách Cựu Ước. Sách được soạn thảo ở thành phố A-lê-xan-ri-a, Ai-cập, vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
Vào lúc đó, thành phố A-lê-xan-ri-a là chiếc nôi rực rỡ nhất của nền văn minh Hy-lạp. Thành phố này cũng là thành phố quan trọng bậc nhất của kiều bào Do thái Hải Ngoại vì số lượng người Do thái đông đúc cư ngụ ở đây. Tác giả sách Khôn Ngoan ngỏ lời với đồng bào của ông bằng Hy-ngữ, họ không còn biết tiếng Híp-ri. Ông bận lòng về sức quyến rũ mà nền văn hóa Hy-lạp ảnh hưởng trên đồng bào của ông. Ông muốn cho họ thấy rằng Đức Khôn Ngoan phát xuất từ Thiên Chúa trổi vượt tất cả mọi khôn ngoan phàm nhân.
Tội bội giáo còn có chiều hướng gia tăng vì chính sách tôn giáo của chính quyền. Đây là sự kiện hiếm hoi trong lịch sử Ai-cập vào thời nhà Pơ-tô-lê-mai cai trị. Pơ-tô-lê-mai VII (146-117 tCn) và nhất là Pơ-tô-lê-mai VIII (117-81 tCn) đã từ bỏ chính sách tự do tôn giáo trước đây mà quay ra quấy nhiễu và bách hại người Do thái. Vì thế, tác giả kêu gọi người Do thái hãy trung tín với tôn giáo tổ tiên của mình. Đó là ý nghĩa bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này.
*2.Đêm Vượt Qua, đêm giải phóng:
Tác giả đã công kích đa thần giáo và thờ ngẫu tượng của dân Ai-cập, vào thời kỳ dân Do thái ở giữa họ. Cuối cùng đêm giải phóng vĩ đại đã đến. Sau khi đã vội vả cử hành lễ Vượt Qua tại tư gia, dân Do thái đã có thể trốn thoát khỏi đất nô lệ này, trong khi Thiên Chúa giáng phạt trên những kẻ áp bức họ. Cuộc xuất hành khỏi Ai-cập, dưới dấu chỉ của lễ Vượt Qua, đã luôn luôn được xem như biến cố tái sinh dân Ít-ra-en, biến cố sinh thành dân Chúa chọn. Vào giờ phút đó, họ ý thức về căn tính tôn giáo đặc thù của mình. Tác giả thắp sáng niềm tin của các bậc tiền nhân, họ đã tin vào những lời hứa ban cho tổ phụ Áp-ra-ham và đã thấy chúng được ứng nghiệm ở nơi việc họ được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai-cập.
Niềm vui cứu độ và sự tác động của ân sủng quy hướng về Thiên Chúa, Đấng tôn vinh dân Ngài và giáng phạt kẻ thù của họ; nhưng nhất là, tác giả nhấn mạnh đức trung tín của những người công chính này đối với tôn giáo tổ tiên:
“Con lành cháu thánh của những người lương thiện, âm thầm dâng lễ tế trong nhà” (Kn 18: 9a).
Câu này ám chỉ đến sự kiện theo đó lễ Vượt Qua là một ngày lễ được âm thầm cử hành tại tư gia, nhưng cũng ám chỉ đến việc Pha-ra-ô cứ lần lữa từ chối để dân Ít-ra-en ra đi cử hành “lễ của họ” trong sa mạc. Vì thế, những người Ít-ra-en trung tín này đã âm thầm cử hành lễ Vượt Qua trong nhà để Pha-ra-ô không hay biết.
Thật kỳ lạ, ngay tự bây giờ, tác giả đặt quyết định phân chia đất Ca-na-an giữa các bộ tộc vào thời chinh phục:
“Họ đồng tâm nhất trí về luật sau đây của Thiên Chúa, là trong dân thánh, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia” (Kn 18: 9b)
Đồng thời, ngay tự bây giờ, tác giả cũng mô tả diễn tiến việc cử hành lễ Vượt Qua vào thời sau này:
“Và ngay tự bấy giờ, họ đã xướng lên những bài ca của cha ông truyền lại” (Kn 18: 9c).
Quả thật, chỉ sau này mà việc cử hành lễ Vượt Qua sẽ được kết thúc với việc hát “Hallel”, nghĩa là xướng lên các bài thánh vịnh ngợi khen.
Tác giả sách Khôn Ngoan mời gọi đồng bào của ông “ôn cố tri tân”, nhớ lại những việc đã qua mà hiểu biết những việc hiện tại. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập ngoại giáo, ở đó việc thờ ngẫu tượng diễn ra hằng ngày. Chính họ cũng đang sống ở đất Ai-cập, ở đó chính quyền cũng quấy nhiễu và áp bức họ. Thật ra, không cốt rời bỏ đất nước này, nhưng noi gương các bậc tiền nhân của mình về lòng mộ đạo và trung tín của các ngài đối với tôn giáo tổ tiên. Họ cũng phải là “con lành cháu thánh của những người lương thiện”. Họ đừng quên đêm giải phóng vĩ đại đem lại ý nghĩa như thế nào trong Lịch Sử Thánh của họ, đêm đã làm cho Ít-ra-en thành một dân biệt phân, dân được Thiên Chúa cam kết rằng Ngài ân cần chăm sóc họ một cách đặc biệt.
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, phụng vụ đề nghị cho chúng ta những đoạn trích Thư gởi tín hữu Do thái. Trong suốt năm phụng vụ trước, năm B, chúng ta đã đọc những đoạn trích dài của thư này. Trong năm phụng vụ này, năm C, khởi đi từ Chúa Nhật XIX chúng ta đọc phần cuối, phần liên quan đến đức tin.
Xin nhắc lại rằng Thư gởi tín hữu Do thái đã được một tác giả vô danh, chắc chắn là một môn đệ của thánh Phao-lô, soạn thảo vào năm 65. Có nhiều tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của thánh Phao-lô, nhưng chủ đề trọng tâm: hy tế của Đức Ki-tô, không là tư tưởng của thánh Phao-lô. Người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ phải hứng chịu những cuộc quấy nhiễu và bách hại. Đoạn văn trước đoạn văn của chúng ta ám chỉ đến điều này: “Xin anh em nhớ lại, những ngày đầu: lúc vừa được chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn vừa bền vững” (Dt 10: 32-34). Bị trục xuất, bị tước đoạt của cải, họ nao núng; thậm chí vài người, vì nỗi luyến nhớ những phụng tự xưa, toan tính bỏ cuộc, vì thế tác giả đã khuyên bảo: “Chúng ta đừng bỏ các buổi hội họp, như vài người quen làm” (Dt 10: 25) và “Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống” (Dt 10: 39).
Đối với các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái giáo này, quen thuộc với Kinh Thánh, tác giả gởi đến họ những lời khuyên nhũ của mình bằng ngôn từ Kinh Thánh. Ông phác họa bức tranh về những chứng nhân đức tin mà Cựu Ước xem như những vị anh hùng. Trước hết, ông định nghĩa bản chất của đức tin một cách ngắn gọn nhưng súc tích: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không trông thấy”.
Câu này, được các nhà thần học lấy lại nhiều lần, đã trở thành một trong những định nghĩa kinh điển về đức tin. Đức tin hoàn toàn hướng về tương lai, nghĩa là, về những thực tại không trông thấy được. Câu này được cấu trúc theo thể loại “đối xúng đồng nghĩa”, nghĩa là hai vế đối xứng với nhau và diễn tả hai khía cạnh của cùng một thực tại. Như vậy, “những điều ta hy vọng” được xác định ở về thứ hai: “những điều ta không trông thấy”. Cũng một cách như vậy, sự “bảo đảm” được xác định bởi “bằng chứng” mà niềm tin vào những điều không trông thấy ban cho.
Quả thật, tác giả không nhằm định nghĩa đức tin cho bằng giải thích thái độ của các tiền nhân. Nguyên lý hướng dẫn cuộc sống của họ là niềm tin vào những lời hứa mà họ đã biết nhận ra những thực tại tinh thần. Ông Áp-ra-ham, người mà Thiên Chúa đã hứa ban cho ông đất làm gia nghiệp vẫn là một kiều cư, vì ông biết rằng lời hứa này là niềm hy vọng về một quê hương không trông thấy được. Thiên Chúa hứa với vị tổ phụ hiếm muộn này ban cho ông một hậu duệ đông đúc không kể xiết là để cho ông hiểu rằng bên kia đứa con của mình, lời hứa nhắm đến một hậu duệ thuộc trật tự tinh thần, vân vân.
Tác giả dẫn chứng nhiều mẫu gương. Như vậy, tác giả muốn giúp những ai đang chao đảo trong đức tin hiểu rằng trong đêm thử thách của họ, đức tin là ánh sáng nuôi dưỡng niềm hy vọng, và với tư cách những người lữ khách trên cõi trần này, sự kiên tâm bền chí của họ sẽ dẫn đưa họ đến Thiên Quốc.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca nhiều lần bày tỏ khuynh hướng và mối quan tâm của mình đối với Giáo Hội, thái độ này thúc đẩy thánh nhân sau này viết sách Công Vụ. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh ký tập hợp những lời nói khác nhau của Đức Giê-su với bốn dụ ngôn: “các đầy tớ tỉnh thức” (12: 35-38), “tên trộm ban đêm” (12: 39-40), “viên quản gia trung tín hay bất trung” (12: 41-46) và “đầy tớ bị phạt nhẹ hay nặng tùy mức độ hiểu biết ý chủ” (12: 47-48). Giáo huấn này Đức Giê-su ngỏ lời đặc biệt đến các môn đệ, “đoàn chiên bé nhỏ” này, họ được hứa ban Nước Trời và sẽ là nhân tố của Giáo Hội Ngài (12: 32-34). Giữa những lời này, chúng ta đọc thấy một trong những lời khác thường nhất của Chúa Giê-su mà các thánh ký khác đã không bao giờ trích dẫn: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến tận bên mà phục vụ”. Hạt trân châu này ở trung tâm bản văn và chiếu sáng bản văn một cách rực rỡ.
Thánh Lu-ca luân phiên nhắm đến Giáo Hội tại thế và Giáo Hội của những người được tuyển chọn.
“Hỡi đàn chiên nhỏ bé, đừng sợ”. Đây là những lời thân thương trìu mến, vì quả thật các môn đệ còn quá nhỏ bé về tầm cở, về số lượng, về quyền thế, về học thức… Đây cũng là những lời Kinh Thánh, vì lẽ hình ảnh mục tử trong Kinh Thánh thường có cung giọng Mê-si-a, như Mk 2: 12-13: “Ta sẽ quy tụ cả nhà Gia-cóp, sẽ tập hợp số còn sót của nhà Ít-ra-en, sẽ góp chúng lại như đàn chiên trong chuồng, như đàn vật giữa đồng cỏ, khiến chúng không còn sợ ai nữa. Người mở đường đưa chúng tiến lên, chúng chọc một lỗ hỗng, đi qua cổng và ra ngoài. Đức Chúa, Vua của chúng đi qua trước, chính Người sẽ dẫn đầu”, hay Ed 34: 31: “Phần các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi”.
Đàn chiên nhỏ bé này đón nhận lời hứa ban sự sống đời đời: “Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”. Những điều kiện gia nhập Nước Trời được xác định liền ngay: đức nghèo khó và tư thế tỉnh thức.
Đàn chiên nhỏ bé phải nêu gương về đức nghèo khó: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời”. Bản văn theo sau giống với bản văn Mát-thêu (6: 19-21), tuy nhiên thánh Mát-thêu lại đưa bản văn này vào “bài giảng trên núi”. Tại thánh Lu-ca, lời nhắc nhở về đức nghèo khó này đến như lời kết của dụ ngôn người phú hộ dại khờ và những lời khuyên tín thác vào ơn Quan Phòng (Lc 12: 16-32).
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn….”. Để tiện làm việc, người Do thái thường thắc lưng áo choàng lên cho đỡ vướng víu. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đặt những lời khuyên này vào trong cái khung diễn từ của Đức Giê-su về thời cánh chung (Mt 24: 42), trong khi thánh Lu-ca đặt chúng vào trước diễn từ này, nhưng cùng theo cùng một hướng nhắm: lịch sử và cuộc sống của Giáo Hội diễn ra giữa thời gian ông chủ ra đi và trở lại.
*4.Phúc cho những đầy tớ trung tín:
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ”. Với đàn chiên nhỏ bé, họ sẽ lan truyền sứ điệp của Ngài cho đến chấp nhận hy sinh mạng sống mình, Đức Giê-su đề cập đến lòng tín trung: lòng tín trung của họ sẽ được thưởng thật bất ngờ nhất, ngoài sức tưởng tượng của mọi người: “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến từng người mà phục vụ”. Còn hình ảnh nào bạo dạn hơn khi trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ chư thánh. Dụ ngôn này thuộc riêng của thánh Lu-ca.
Chắc chắn, Chúa Giê-su đã tự nhận mình là người phục vụ. Vào buổi ăn cuối cùng với các môn đệ, trong khi các môn đệ còn bàn cãi sôi nổi với nhau xem ai là người lớn nhất, Đức Giê-su từ tốn nói với họ: “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22: 27). Những cử chỉ và lời nói này của Chúa Giê-su, trong suốt cuộc sống tại thế của Ngài, là một cuộc đời phục vụ một cách khiêm tốn và tình bạn mà Ngài muốn đưa ra làm gương: “Con Người đến không để được phục vụ, nhưng phục vụ”. Nhưng việc trình bày Thiên Chúa đích thân phục vụ bàn tiệc thiên quốc thật khó mà tưởng tượng được, tuy nhiên phù hợp với mặc khải Tin Mừng về việc Thiên Chúa cúi xuống mà phục vụ môn đệ Ngài với trọn tấm lòng yêu thương của Ngài.
Thánh Phê-rô không hiểu rõ ý nghĩa của dụ ngôn; thánh nhân đoán rằng dụ ngôn này nhắm đến các môn đệ. Vì thế, thánh nhân nêu vấn đề: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”.
Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi, nhưng câu trả lời của Ngài rõ ràng là một cách thức tấn phong dành cho chính thánh nhân: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?… Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”.
Chính Giáo Hội, qua thánh Phê-rô, được ủy quyền quản lý gia sản của Thầy và được ủy nhiệm nuôi dưỡng tất cả các gia nhân và cung cấp lương cho họ. Đây là một ân ban nhưng cũng mối nguy hiểm, vì dựa vào công việc này mà Thiên Chúa sẽ xét xử họ. Trách nhiệm thì đa dạng, nhưng có một mẫu số chung: mỗi người sẽ chịu hình phạt hay nhận phần thưởng tùy theo cách hành xử của mình và tùy theo mức độ hiểu biết ý Chủ: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TỈNH THỨC TRONG ĐÊM TỐI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ sốt sắng và xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức.
Nếu Chúa bảo chúng ta phải chết ngay hôm nay thì chắc chúng ta không kịp chuẩn bị, và do đó số phận đời đời của chúng ta rất đáng sợ.
Nếu bây giờ Chúa như vị Thanh tra đến kiểm tra những việc bổn phận của chúng ta, Ngài có hài lòng không?
Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy bán tài sản đời này để sắm lấy kho tàng không bao giơ hư nát trên trời”. Chúng ta có làm theo Lời Chúa không?
*1. Bài đọc I (Kn 18, 6-9)
Việc được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập luôn là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do Thái mọi thời và mọi nơi. Bởi vậy người Do Thái sống ở diaspora vào thế kỷ I trước công nguyên vẫn luôn tưởng nhớ đêm giải phóng ấy. Trong đoạn trích này, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy luôn sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách luôn tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.
*2. Đáp ca (Tv 32)
Tv này thuộc loại Tv minh triết, ca tụng sự quan phòng và những kỳ công Thiên Chúa đã làm trong quá khứ.
*3. Tin Mừng (Lc 12, 32-48)
Từ chìa khóa của đoạn Tin Mừng này là “Tỉnh thức”. Chúa Giêsu dùng 2 dụ ngôn để minh họa bài học tỉnh thức:
a/ Dụ ngôn người đầy tớ: Tỉnh thức như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở Do Thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Người đầy tớ ấy “thắt lưng cho gọn” (tư thế sẵn sàng làm việc), và “thắp đền cho sẵn” (để khi chủ về thấy lối mà vào nhà. Tư thế sẵn sàng phục vụ). Nếu biết rõ lúc nào chủ về thi dễ hơn nhiều, vì chỉ cần chờ gần tới lúc đó mới thắt lưng và thắp đèn. Nhưng vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
– Tỉnh thức để làm gì? Dụ ngôn nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
b/ Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Luca dùng hay dùng danh từ “quản lý” để chỉ những kẻ lãnh đạo (x. 16, 1. 3. 8). Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người ấy sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.
*4. Bài đọc II (Dt 11, 1-2. 8-19) (Chủ đề phụ)
Trong đoạn trích này, tác giả thư Do Thái ca tụng đức tin của tổ phụ Abraham: do tin vào lời Chúa, ông đã bỏ quê hương xứ sở ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu; do đức tin, ông đã dám đem đứa con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già để giết làm lễ vật dâng lên cho Chúa.
* 1. Sống với sự bấp bênh
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chi dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100 %, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt, người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời?
* 2. Chuẩn bị thế nào?
Chuẩn bị sẵn sàng không có nghĩa là đã hoàn thành hết mọi việc phải làm (được như vậy thì càng tốt, nhưng ít ai được như vậy), mà là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong”.
Làm tốt việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu mến. Cựu Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây: “Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không?” Và chính ông trả lời: “Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những nỗi buồn thật nhỏ nhoi”. Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: “Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận là niềm vui”.
Cách đây vài năm, một thầy dòng Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, Thầy đã bị tai nạn xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho Thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng Thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi thi hành bổn phận mình. (FM)
* 3. Sẵn sàng chết
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
– Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư trả lời:
– Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì. . . Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết. (TP)
*4. Hành trình trong đức tin
Trong một bài đăng trên báo The Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng có hai cách để sống cuộc đời mình: một là làm như một người lập chương trình, hai là làm như một kẻ hành hương.
Người lập chương trình muốn kiểm soát toàn bộ đời mình và đặt chương trình cho từng giai đoạn cuộc đời theo những mục tiêu định sẵn, đó là những thứ mà xã hội coi là thành đạt. Người lập chương trình tốn rất nhiều thời giờ để bắt chước kiểu sống của những khác và theo đuổi những giá trị của những người khác. Thế nhưng nếu không đạt được những mục tiêu ấy thì họ sẽ thất vọng ê chề.
Còn người hành hương thì trái lại. Đó là người đón nhận cuôc sống như một quà tặng bao gồm cả mặt phải và mặt trái của nó. Người hành hương không thể kiểm soát tất cả những gì xảy đến trong đời mình, nhưng biết thưởng thức tất cả những điều ấy, xem tất cả là những cơ hội cho mình lớn lên. Không như người lập chương trình, người hành hương không bao giờ cảm thấy dễ chịu hay khó chịu với những giá trị mà những người khác trong xã hội nhắm tới.
Nói tóm lại, người lập chương trình không biết sống theo đức tin. Còn người hành hương thì luôn sống theo đức tin. Người hành hương ý thức rằng cuộc đời có nhiều việc khó lường nhưng biết chấp nhận chúng. Người hành hương đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa, phó thác đời mình cho Thiên Chúa chở che. Vì biết sống giây phút hiện tại nên người hành hương có thể sống tròn đầy cả cuộc đời mình.
Ông Abraham (bài đọc I) là một tấm gương của người hành hương trong đức tin. Nghe theo lời Chúa gọi, ông rời bỏ quê hương, lên đường đi đến một xứ sở mà Chúa hứa ban cho ông mặc dù ông chưa biết xứ sở ấy ở đâu. Ông đi chỉ vì ông tin vào lời Chúa hứa, thế thôi.
Chúng ta là con cháu Abraham, nên chúng ta phải noi gương đức tin của Abraham. Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khó lường. Chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Nhưng chúng ta cứ mạnh dạn tiến bước vì chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình, có Chúa cùng bước với chúng ta. Hơn nữa chúng ta còn biết rằng nơi mà Chúa dẫn chúng ta tới chính là Đất Hứa, một nơi đầy tràn bình an và hạnh phúc. (FM)
- Chuyện minh họa
a/ Được chọn cách chết
Một tên hề kia chuyên làm trò cho nhà vua vui. Nhưng một hôm hắn lở nói một câu xúc phạm khiến nhà vua nổi giận truyền xử tử hắn. Tuy nhiên vì những công lao bấy lâu nay của hắn nên nhà vua cho hắn được chọn cách chết. Sau một hồi suy nghĩ, hắn tâu: “Xin cho hạ thần được chết già!”
Lời bàn: Tên hề này là một người may mắn vì được chọn cách chết và lúc chết của mình. Chúng ta không được may mắn như hắn đâu. Cho nên phải luôn sẵn sàng.
b/ Ở với con
Một bà mẹ kể: tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ: “Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé!” Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện: “Lạy Chúa, xin giúp son sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời: “Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé!”
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trung thành làm tròn mọi bổn phận đối với Chúa và tha nhân là phương thế tốt nhất để đón chờ Chúa trở lại trong vinh quang. Với quyết tâm luôn tỉnh thức và chờ đợi Chúa đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh không ngừng kêu gọi con cái mình tỉnh thức và cầu nguyện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết tìm mọi phương thế thích hợp / để giúp các tín hữu luôn luôn tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng.
- Trong đời sống thường ngày / có lắm người sống như mình không bao giờ chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / cái chết không buông tha bất cứ một ai / và nhiều khi xảy đến hết sức bất ngờ.
- Tận tụy phục vụ tha nhân / là một trong những cách tỉnh thức đón mừng Chúa đến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết hết lòng phục vụ Chúa nơi những người đói khổ nghèo nàn.
- Siêng năng lãnh nhận các bí tích / và tích cực sống lời Chúa dạy trong Tin mừng / là sẵn sàng / là tỉnh thức như Chúa dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn chuẩn bị thật tất tâm hồn / để khi Chúa gọi trở về với Chúa / không ai bị Người khiển trách bất cứ điều gì.
Chủ tế: Lạy Chúa, giữa bao sóng gió của cuộc đời, chúng con dễ ngã lòng nản chí và lơ là trong việc chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quyết định với Chúa là vị Thẩm phán công minh. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp cho chúng con. Chúng con cầu xin
– Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc những lời “Xin Cha tha nợ chúng con”, chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội chúng ta không chu toàn bổn phận hằng ngày như một người đầy tớ trung thành.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ tệ hại là chết khi chưa kịp chuẩn bị gì cả. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đàng sống được bình an…”
Cuộc đời chúng ta đầy những bổn phận: bổn phận với Chúa, bổn phận với Giáo Hội, bổn phận với xã hội, bổn phận với gia đình v. v. Trong tuần này chúng ta hãy cố gắng chu toàn tất cả mọi bổn phận ấy một cách vui vẻ và trong tâm tình yêu mến.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY TỈNH THỨC VÀ SẲN SÀNG- Lm. Giuse Đinh lập Liễm
“Tỉnh thức” là hệ luận cần rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng mọi sự ở trần gian này đều là phù vân, tạm bợ, chỉ là những phương tiện để con người kiến tạo cho mình cuộc sống đời đời. Ai cũng phải công nhận, cuộc sống của con người thật bấp bênh. Nhiều thi sĩ Việt nam đã diễn tả tư tưởng ấy trong thơ văn, như “Ôâi nhân sinh là thế ấy ! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Khuyến). Cho nên Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta đừng coi thường chân lý nền tảng này : “Hãy tỉnh thức ! Hãy sẵn sàng”.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca đã thu góp lại một số dụ ngôn của Đức Giêsu nói về việc phải “Tỉnh thức”. Đức Giêsu lòan báo cho các môn đệ biết : Ngài sẽ trở lại trong ngày Quang lâm. Hãy chờ đợi ngày đó. Đồng thời Ngài cũng sẽ đến với từng người khi gọi họ ra đi khỏi đời này, và ngày đó còn được giữ bí mật, nhưng chắc chắn phải đến. Ngày con người phải ra đi khỏi đời này là một bất ngờ như việc kẻ trộm đến lúc chủ nhà đang ngủ say. Ai cũng phải chịu nhận sự bất ngờ ấy, vì như người ta thường nói :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
Đáp lại lời Chúa gọi trong Tin mừng hôm nay, mỗi người chúng ta phải có thái độ nào ? Chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày sau hết của đời mình vào một thời gian nào không ai biết, nhưng có một điều quan trọng là chúng ta phảiû “thắt lưng và cầm đèn cháy sáng trong tay” khi Chúa đến. Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây phải có tính cách tích cực, nghĩa là không phải cứ ngồi đấy mà chờ hay không ngủ, hoặc ăn không ngồi rồi, nhưng tỉnh thức ở đây là tư thế của một người đang làm việc với ý thức rằng mình đang đợi Chúa đến. Phúc cho chúng ta, nếu Chúa đến trong lúc chúng ta đang làm việc thì Chúa sẽ thưởng công bội hậu như ông chủ đặt đứa đầy tớ trung thành vào bàn ăn và hầu hạ nó.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Kn 18, 6-9.
Sách Khôn ngoan được viết vào thế kỷ I trước công nguyên. Có lẽ tác giả viết sách này trong lúc dân Do thái ở bên Ai cập đang cử hành lễ Vượt Qua trong cảnh lưu đầy. Theo yêu cầu của những người Do thái di tản (diaspora), tác giả nhắc lại cho họ một biến cố vĩ đại, đó là việc Thiên Chúa giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai cập và chọn họ làm dân riêng. Đây là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do thái.
Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2 : Dt 11,1-2. 8-9.
Đức tin chính là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng”, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Đức tin của tổ phụ Abraham là gương mẫu cho chúng ta. Tin là đi trong đêm tối nhưng đầy tin cậy và kiên nhẫn trong chờ đợi.
Do lòng tin vào lời Chúa hứa mà tổ phụ Abraham đã rời bỏ quê hương xứ sở, ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu. Đã có Chúa dẫn dắt. Và cũng do lòng tin, Abraham đã dám tế lễ con mình cho Chúa trong tuổi già của mình mà không nghĩ gì đến lời hứa của Chúa sẽ thực hiện ra sao .
+ Bài Tin mừng : Lc 12,32-48.
Thánh Luca tập hợp ở đây một loạt những yếu tố có gốc gác khác nhau, nhưng chủ đề cũng chỉ là tỉnh thức và sẵn sàng. Ta chú ý đến hai dụ ngôn chính :
a) Dụ ngôn người đầy tớ: Công việc của người đầy tớ là phải sẵn sàng chờ ông chủ đi ăn cưới về, đó là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn” vì không biết giờ nào chủ mới về. Tư thế đó đòi người đầy tớ khi vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ báo hiệu ông chủ về thì phải mau mắn phục vụ ngay. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàngvà nhanh nhạy.
b) Dụ ngôn người quản lý: Thánh Luca muốn dùng từ “Người quản lý” để chỉ những người lãnh đạo. Những người được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đòan phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi Chúa đến, những người đang phục vụ tốt sẽ được trọng thưởng; trái lại, những người lãnh đạo lơ là và biếng nhác trong việc phục vụ sẽ bị trừng phạt. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính của dụ ngôn này là trung thành trong nhiệm vụ được giao phó.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
ĐIỀU CHÚA MUỐN DẠY HÔM NAY.
Phải biết sống siêu thóat.
Đức Giêsu gọi nhóm Mười Hai là “đoàn chiên bé nhỏ” bởi vì các ông chỉ là số ít, lại không có địa vị trong xã hội và sống khó nghèo, như đàn chiên giữa sói rừng, đang khi những kẻ chống đối vừa đông lại vừa mạnh. Đức Giêsu có ý động viện họ can đảm trước những khó khăn đang chờ trước mặt, nên Chúa mới gọi họ bằng một từ ngữ thân thương “Đoàn chiên bé nhỏ”.
Nhân dịp này, Đức Giêsu còn nhắc đến ý tưởng của Chúa nhật tuần trước : Muốn làm môn đệ phải sống siêu thoát, biết chia sẻ cho người khác. Chúa động viên các ông khi đang tích trữ làm giầu vật chất, phải biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa nữa. Hãy sắm cho mình một kho tàng trên trời được tích trữ bằng những việc lành, bằng cách bố thí những gì mình có.
Truyện : Cái lợi của tiền bạc.
Một người có ba người bạn. Lúc bình an thì hai người bạn đầu rất là thân thiết, còn người bạn thứ ba thì giao tình sơ sài lạnh nhạt. Chẳng may, ông ta bị bắt và bị đem ra tòa xử tội. Ôâng liền xin ba người bạn đi theo để biện hộ cho mình. Nhưng người thứ nhất từ chối viện cớ bận việc không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến tòa án, nhưng không dám vào trong. Chỉ có người bạn thứ ba, mặc dầu không được ông ta quí lắm, lại tỏ ra trung tín và can đảm, vào tận tòa án, hăng hái biện hộ cho ông ta đến nỗi không những trắng án mà còn được ân thưởng nữa.
Câu chuyện giúp chúng ta nhận ra rằng : người bạn thứ nhất của con người là tiền vì lúc còn sống ai cũng o bế nó, nhưng khi ta chết, nó liền bỏ rơi ta ngay và nếu nó có thương hại ta thì cũng chỉ buộc lòng bố thí cho ta một chiếc quan tài và dăm ba cây nến, bó hoa là cùng. Còn người bạn thứ hai của con người chính là người thân trong gia đình vì khi chết đi dù họ có thương ta bao nhiêu đi nữa thì cũng khóc lóc đôi ba lần, rồi đưa ta ra nghĩa địa chôn cất xong xuôi và lặng lẽ ra về. Riêng người bạn thứ ba của con người là các việc lành phúc đức, bố thí, vì tuy rằng lúc còn sống ta hay lơ là, khinh thường nó, đôi khi ta mắng xử tệ với nó, nhưng khi ta chết nó cương quyết theo ta đến tận tòa phán xét để bênh vực, và cuối cùng hộ tống ta vào nước thiên đàng .
Theo như câu chuyện trên H. Cousin bình luận :”Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giầu trước mặt Chúa, là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời đời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biến cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với tất cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất”.
Phải biết tỉnh thức.
Để diễn tả sự gắn bó với Nước Trời, Đức Giêsu đã lần lượt dùng những dụ ngôn diễn tả bằng sự tỉnh thức dọn mình chết lành. Về hai dụ ngôn này, Mathhêu chỉ kể lại dụ ngôn “Ông chủ tỉnh thức” (Mt 24,43-44), Marcô chỉ lấy dụ ngôn “Đầy tớ tỉnh thức (Mc 13,33-35), còn ở đây Luca kể cả hai. Kiểu nói “Hãy thắt lưng, Hãy cầm đèn trong tay” được dùng để diễn tả tư thế đang làm việc, đang tỉnh thức. Ở đây diễn tả hành vi sẵn sàng, trong tư thế dọn mình để chờ đợi Chúa đến trong giờ chết.
Dụ ngôn kẻ trộm cũng diễn tả yếu tố bất ngờ, kẻ trộm chỉ có thể hành động được khi chủ nhà ngủ say, không đề phòng. Giờ chết đến cũng bất ngờ như kẻ trộm, cho nên hãy đề phòng, hãy tỉnh thức.
Vậy tỉnh thức là gì ?
Tỉnh thức và sẵn sàng có thể hóan đổi cho nhau : Tỉnh thức là đang ở trong tư thế sẵn sàng và sẵn sàng cũng là lúc đang tỉnh thức, đó là lúc con người đang chuẩn bị trong mọi lúc. Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại.
Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại ngủ mê trong những đòi hỏi của Tin mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối đời mình.
Hay nói cách khác, tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay.
Phải biết trung thành.
Trong huấn dụ về sự tỉnh thức, Chúa đã dạy chúng ta trong Tin mừng :”Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, hãy làm như người đợi ông chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ”. Nhiệm vụ của người đầy tớ phải đứng chờ ông chủ về là nhiệm vụ chính yếu, người đầy tớ phải hết sức cẩn thận, không được lơ là trong một giây phút. Do đó, Chúa cũng dạy chúng ta phải trung thành trong những việc đã được trao phó, việc lớn hay việc nhỏ không quan trọng, việc quan trọng là làm tròn trách nhiệm trong ý thức, làm nhiệt tình và thực lòng chứ không vì miễn cưỡng. Việc ông chủ có hiện diện ở đấy hay không cũng không quan trọng mà cái quan trọng là lúc nào cũng làm việc một cách đầy đủ như ông chủ đang có mặt.
Truyện : Vườn hoa xinh đẹp.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ mầu sắc. Nằm giữa vườn là một vườn hoa tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp mầu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi :
– Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi ?
– Khoảng 40 năm rồi.
– Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà ?
– Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi.
– Ông có thư từ gì với cụ không ?
– Không, ông ta bận lắm.
– Ông ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ ?
– Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này.
– Thế tội gì ông phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu ?
– Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên.
ĐÁP LẠI LỜI CHÚA DẠY.
Hãy dọn mình chết lành.
Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu : Hãy chuẩn bị lòng mình cho một người đang đến. Thiên Chúa đang đến. Đức Giêsu đã loan báo Ngài sẽ trở lại trong ngày sau hết, trong ngày Quang lâm : Maranatha : Xin Chúa hãy đến. Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được coi như cuộc gặp gỡ “mặt đối mặt” với Đấng Chí Ái.
Sự sống con người thật bấp bênh, có thể kết thúc bất cứ lúc nào. Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chỉ dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta cũng chưa dám chắc là sẽ an toàn 100%, do đó, phải chuẩn bị đối phó với việc bất ngờ.
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có ảo tưởng hết sức nguy hiểm này là mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn “ngày mai” để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng “ngày mai” ấy không bao giờ đến. Người ta có ai ngờ rằng với hai quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki bên Nhật hồi tháng 8 năm 1945 đã tiêu diệt một lúc 147.000 nhân mạng trong giây lát ?
Truyện : Thiệt hại trong thế chiến II.
Theo đài phát thanh Tòa thánh ngày 1.9.1951 dựa vào bản thống kê của Liên hiệp quốc trong đệ nhị thế chiến, số người chết như sau :
– 32 triệu người chết trong các mặt trận.
– 25 triệu người chết trong các trại giam.
– 15 đến 25 triệu thanh thiếu niên, người già trẻ nít chết vì bom đạn.
– 25 triệu người mất hết tài sản.
– 45 triệu người phải di tản hoặc lánh nạn hoặc đi đầy.
Tất cả những người chết đó có tưởng mình sẽ chết không ? Nếu tài sản chúng ta mất quá dễ dàng như vậy thì hãy tìm bám vào những cái bền vững hơn.
Không ai muốn chết, ai cũng muốn sống mãi, nhưng thực tế không cho phép. Kẻ trước người sau mỗi người sẽ phải ra đi khỏi cõi đời này như kinh nghiệm của Văn Thiên Trường ngày xưa đã nói :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”: con người từ xưa đến nay ai mà không chết, phải cố mà giữ lấy tấm lòng thanh.
Ngày xưa, có một người pha trò trong cung đình. Trong nhiều năm liền đã giúp việc mua vui cho nhà vua và triều đình. Nhưng rồi ông đã phạm phải một hành động thiếu suy xét và bị kết tội chết. Trước khi bản án được thi hành, nhà vua gọi ông ta đến và nói :”Vì nhiều lần ngươi đã đem lại cho trẫm những giờ phút vui vẻ trong bao năm qua, nên trẫm sẽ ban cho ngươi được chọn cách mà ngươi phải chết”.
Người pha trò suy nghĩ một lúc rồi đáp :”Thưa Hoàng thượng, ngài thật là chí lý, kẻ tôi tớ này xin chọn cách chết bởi tuổi già”
Nhà vua thấy rất vui vì lời đáp ấy đến nỗi ngài đã chiếu cố đến lời cầu xin của ông ta.
Phần lớn chúng ta đều muốn chọn lựa như thế. Nhưng chúng ta không biết liệu chúng ta có được hay không.
Phải tỉnh thức thế nào?
Thái độ cơ bản của người Kitô hữu là tỉnh thức. Người Kitô hữu phải tỉnh thức vì biết rằng mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đọan hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Tỉnh thức là tình trạng đang luôn luôn làm nhiệm vụ. Thi sĩ Tagore nói :”Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và tôi thấy đời là bổn phận. Tôi hành động và tôi thấy bổn phận là niềm vui”.
Khi ông Dag Hammarskjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng thư ký Liên hiệp quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thụy điển:”Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn phiền sẽ nhỏ”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông :”Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với một bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.
Chúng ta không biết và không đoán được giờ chết của chúng ta vì giờ chết được giấu kín. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta có cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai họa mới nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.
Tỉnh thức là biết sống mọi giây phút hiện tại cho đầy đủ, đừng để phí đi một giây phút nào qua đi trong vô ích vì thời giờ là cái vốn mà Chúa ban cho chúng ta để làm sinh sôi nảy nở ra các việc lành phúc đức. Một tác giả nào đó đã cho chúng ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại trong cuộc sống trần gian như sau :
Để nhận ra giá trị của một năm : Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.
Để nhận ra giá trị của một tháng : Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để nhận ra giá trị của một tuần : Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.
Để nhận ra giá trị của một ngày : Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.
Để nhận ra giá trị của một giờ : Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.
Để nhận ra giá trị của một phút : Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe búyt.
Để nhận giá trị của một giây : Hãy hỏi người vừa thóat khỏi tai nạn.
Để nhận ra giá trị của một sao : Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng để nhận ra giá trị của một đời người : Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn (Nguyễn văn Thái).
Đã chuẩn bị sẵn sàng chưa ?
Đại tướng Marc Arthur sau đệ nhị thế chiếân, với tư cách của một tướng lãnh già dặn kinh nghiệm trong binh pháp, có nói :”Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể tóm gọn trong hai chữ :”Quá muộn”. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.
Có lẽ vị tướng này đã từng nghiền ngẫm câu nói của một danh tướng thời La mã xưa để làm cẩm nang cho việc điều hành chiến tranh :”Si vis pacem, para belluu” : Nếu muốn được bình yên, phải chuẩn bị chiến tranh.
Và thời xưa người Trung quốc cũng đã từng có tư tưởng như vậy :Bình thời luyện vũ, lọan thế độc thư” : Thời bình thì phải lo luyện võ, thời lọan thì phải lo đọc sách. Nói như vậy là người ta khuyến cáo họ, lúc bình yên thì đừng ngồi không đấy mà hưởng thụ, mà phải luyện võ, phải chuẩn bị chiến tranh, để khi chiến tranh xẩy đến thì đã sẵn sàng, đã chuẩn bị để đối đầu với mọi tình huống bất trắc có thể xẩy ra.
Đối với giờ chết cũng vậy, đang lúc sống thì phải nghĩ đến lúc chết để đề phòng. Nếu ai đã từng chuẩn bị cho giờ chết thì họ sẽ bình tĩnh trong giờ chết, họ bình tĩnh chờ đợi cho giờ ấy xẩy đến vì họ coi mình như nắm chắc được phần rỗi, vì người ta đã khẳng định rằng :”Sống sao chết vậy”.
Nhưng chúng ta hay có ảo tưởng rằng giờ chết còn xa, chưa cần phải chuẩn bị gấp, họ chưa hiểu được câu ngạn ngữ dân gian :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì thế họ cứ từ từ, chờ đến tuổi già mớùi chuẩn bị. Nhưng ai biết được chữ “ngờ”, ai ngờ được kẻ trộm đến lúc mình không tỉnh thức.
Một nhà văn hào kể một câu truyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này : Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã !
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng ở chỗ là chúng ta đang sống thế nào ? Đang tỉnh thức hay ngủ mê ? Có biết chu tòan nhiệm vụ được trao phó không ?
Truyện : Cứ tiếp tục họp
Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến. Nhưng ông chủ tịch nói :”Không biết hôm nay có phải là tận thế không : nếu không thì không cần hoãn họp. Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu tòan nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
Ai cũng muốn chết trong sự bình an. Chớ gì những giây phút cuối cùng chuẩn bị đi vào đời sau, ta cảm thấy Chúa ở gần như người mẹ ấp ủ con. Lúc đó ta thưa với Chúa rằng :”In manus tuas , Domine, commendo spritum meum” : Lạy Chúa, con xin phó dâng hồn con trong tay Chúa. Chớ gì tâm hồn ta được bình an, thảnh thơi như đứa con nằm trong tay mẹ hiền để say trong giấc ngủ ngon lành.
Một bà mẹ kể : tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ :”Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé”! Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện :”Lạy Chúa, xin giúp con sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời :”Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé” !
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong một thời gian ngắn các nước Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ. Trước hết là việc chạy trốn của ông Fujimori. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Peru đến nhiệm kỳ thứ 2. Nhưng vì tham nhũng, ông đã phải trốn chạy về Nhật. Tiếp đến là ông Estrada, tổng thống nước Philippin. Ông đã thắng cử với số phiếu áp đảo. Nhưng cuối cùng phải từ chức cũng vì tội tham nhũng. Gần đây là ông Wahid, tổng thống Inđônêsia. Ông đã sang Mỹ tị nạn cũng vì tham nhũng. Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ. Họ chỉ là quản lý chứ không làm chủ đất nước. Dân mới làm chủ. Nhưng họ đã không làm tốt nhiệm vụ quản lý. Nên họ đã bị sa thải.
Chúng ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngông ngữ Trịnh Công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.
Con chim ở trọ cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…
Môi xinh ở trọ người xinh,
Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý Kiều…
Tôi nay ở trọ trần gian
Mai sau về chốn xa xăm với Người.
Một ngày kia Chúa sẽ đòi ta tính sổ. Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lãi.
Là ngời quản lý, ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.
Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.
Là quản lý trung tín, ta không được phải bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Đừng dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng mình. Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng. Đừng biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.
Là quản lý không ngoan, ta phải biết nhìn xa. Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông mình chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Chúa Giêsu đã dạy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Để sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Để gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú.
Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Đợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Đợi chờ là phải tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc cho minh chính như giữa ban ngày. Để phục vụ không bao giờ ngừng. Dù Chúa có đến lúc nào, Chúa cũng thấy ta đang mặc quần áo công nhân phục vụ. Dù có bất ngờ như kẻ trộm, Chúa cũng thấy quản lý đang phục vụ anh em, phân phát lúa thóc cho họ.
Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có lần nào nghĩ rằng thân xác cùng với những gì bạn có thực sự không phải là của bạn không?
2- Trong quá khứ bạn đã là người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa chưa?
3- Phải làm thế nào để trở thành người quản lý trung tín và khôn ngoan?
4- Làm sao để biến những gì ta đang có thành vĩnh cửu?
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NƯỚC TRỜI CHO ANH EM- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Từ năm 1945 cho đến nay, cứ vào ngày 06 tháng 08, hàng trăm ngàn người đã đến tượng đài Hòa Bình ở Nagazaki đứng chờ đúng 11 giờ 30 từng hồi chuông đổ ngân vang trên khắp nước Nhật, nhắc nhở thế giới mặc niệm hơn 147.000 người của hai thành phố Nagazaki và Hiroshima đã bị thiêu hủy dưới sức tàn phá của hai trái bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới. Suốt 45 năm thế giới luôn luôn nơm nớp lo sợ trong chiến tranh lạnh dưới sức đe dọa khủng khiếp của hàng triệu triệu tấn bom nguyên tử trong kho vũ khí các cường quốc có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Mãi cho tới năm 1990, thế giới mới có tin mừng; chiến tranh lạnh chấm dứt, vũ khí hạch nhân đang bị loại bỏ.
Các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để tưởng niệm lễ Vượt qua của dân tộc thoát ách nô lệ Ai Cập. Nhưng nghe Thầy tiên báo Thầy phải vượt qua một khổ nạn sắp tới, các ông linh cảm thấy một sức mạnh ghê gớm đe dọa làm các ông lo sợ. Thực vậy, các ông chỉ là đoàn chiên bé nhỏ có mười hai người quê mùa, kém cỏi, đi theo một mục tử hiền hòa, nhân hậu, làm sao đương đầu được với một lực lượng đầy quyền thế hùng hậu của thủ đô và một đoàn quân dũng mãnh của đế quốc Rôma. Trước những lo ngại ấy, Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, anh em đừng sợ, vì Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em”.
Nước Trời mới thực là Tin Mừng muôn thuở. Đời sống anh em được Cha trên trời bảo đảm vững chắc, không một sức mạnh thế gian nào dám xâm phạm tới, không quân dữ nào dám nhào tới, anh em không còn sợ bị chết nữa, không còn sợ bất cứ chiến tranh, bom đạn nào nữa. Không còn sợ đau khổ, hận thù, cực hình nào nữa. Không còn sợ bất kỳ đói khát, bệnh tật, bất công, bất nhân nào nữa. Vì thế ngay đầu đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu đã nói với các ông:
“Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy” (Lc. 12, 4-5).
Đấng ấy là Cha trên trời đã ban cho anh em nước trời rồi, anh em đâu còn sợ chi nữa! Nước trời là hạnh phúc vô biên cho anh em rồi. Nước trời là Tin Mừng mang lại cho anh em cuộc sống vinh quang, toàn thiện, toàn mỹ trong tình thương bao la của Thiên Chúa rồi. Không còn đâu vui mừng hạnh phúc cho anh em hơn nước trời nữa.
Vậy để được hưởng nước trời, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ và chúng ta phải cố gắng thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất: phải quyết tâm đạt được nước trời với bất cứ giá nào, dù phải bán hết của cải đem đi bố thí, cũng sẵn sàng vui lòng, vì nước trời là “túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, là kho tàng vô giá chẳng bao giờ thiếu hụt, là kho tàng trên trời, nơi không có trộm cướp bén mảng, không có mối mọt đục phá”.
Thứ hai: Phải thắt lưng làm việc như tôi tớ, như bồi bàn, như Thầy đã thắt lưng rửa chân cho các môn đệ, đã dọn tiệc bằng Thịt Máu Thầy cho các môn đệ ăn. Đến lượt các ông cũng làm như Thầy, dù có phải thắp đèn thức khuya suốt đêm chờ chủ về, suốt đời chờ Chúa đến, chúng ta vẫn phải trung thành chu toàn mọi việc của Chúa trao phó. Nếu sơ sót, lơ là, chểnh mảng, biếng nhác, bất cứ lúc nào, chủ về, Chúa đến, thì khốn cho đầy tớ đó. Thật phúc cho đầy tớ đang tỉnh thức lúc chủ về, lúc Chúa đến!
Thứ ba: Phải luôn luôn là những người quản gia, quản lý trung tín và khôn ngoan như Abraham mau mắn vâng nghe lời Chúa dậy, sẵn sàng từ bỏ quê hương, từ bỏ mọi sự, đi theo con đường Chúa chỉ, không phải tìm trú ẩn an toàn ở dưới đất, mà tìm quê hương trên trời. Phải luôn luôn tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa như Abraham dầu phải vác con lên núi, sát tế, ông sẵn sàng hy sinh mạng sống con mình và cả mạng sống mình để thực thi ý Chúa (Bài đọc II)
Sau nữa: Phải trông cậy kiên trì vào lời Thầy: “Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em” như dân Chúa xưa “các ngài đã kiên trì trông đợi đêm vượt qua …, để các Ngài được phấn khởi hân hoan, vì biết chắc về những lời thề hứa của Chúa mà các ngài đã tin tưởng” (Bài I)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì tin tưởng và trông đợi lời hứa không bao giờ lay chuyển của Chúa, để luôn luôn tỉnh thức chu toàn mọi công việc Chúa trao như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, cho tới khi Chúa đến gõ cửa, chúng con được vui mừng ra đón rước Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
ĐỨC TIN– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dòng dõi của Tổ phụ Abraham đã thừa hưởng gia bảo quý báu là đức tin. Tuy phải đối diện với muôn vàn gian khó và chung đụng với nhiều tôn giáo thờ các thần ngoại, con cháu của Tổ phụ Abraham tiếp tục đặt niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Họ đã trung thành với truyền thống của cha ông. Họ là nhóm nồng cốt lưu truyền cho các thế hệ sứ mệnh đã được trao ban cho các Tổ phụ. Họ là những người công chính cầm cân nẩy mực giúp cho đoàn dân quy hướng về Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ghi nhận: “Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ.” (Kn 18,9). Số còn sót lại của dòng dõi Abraham đã trải qua vinh nhục và sướng khổ để hoàn thành sứ mệnh.
Lịch sử Ơn Cứu độ là một cuộc lữ hành trong đức tin. Thư gửi tín hữu Dothái đã nhấn mạnh: “Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.” (Dt 11,1-2). Qua đức tin, các cha ông đã tiến đi trong sự phó thác và sự quan phòng của Thiên Chúa. Các ngài sống chết trong niềm tin, dù chưa hề chứng kiến các sự kiện xuất hiện. Bước đi trong niềm tin chứ không phải đi trong cảnh nhãn tiền. Từ lời hứa ban ơn cứu độ với Adong và Evà, qua các Tổ phụ Noe, Abraham, Isaac, Jocob, Giuse và Môisen… Thiên Chúa luôn đồng hành và dẫn dắt lịch sử cứu độ. Thiên Chúa luôn trung tín với lời đã hứa. Các Tổ phụ đã luôn đặt niềm tin nơi Chúa: “Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất.” (Dt 11,13).
Bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục giảng về của cải Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc và của cải hay hư nát mà đổi lấy kho tàng trên trời. Lữ hành trần thế nhưng mắt của chúng ta hướng về trời cao. Mỗi người chúng ta có một định mệnh riêng. Khởi đi từ dưới đất tạm thời và sẽ kết thúc nơi vĩnh hằng. Nơi đó có thể là nơi hằng sống ở thiên đàng hoặc nơi bị đày ải khổ đau. Muốn gặt hái những hoa trái tốt lành, chúng ta phải chăm sóc gieo hạt cẩn thận. Hoa trái an lạc không phải tự nhiên hay ngẫu nhiên mà kết thành. Muốn hưởng hạnh phúc quê thật, chúng ta phải làm việc lành phúc đức và tích trữ những của cải không hư nát. Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát.” (Lc 12,33).
Truyện kể có bà lão ăn mày tên là Mary. Bà ta quanh năm vất vả rảo qua các lối ngõ ăn xin. Không kể mùa đông băng giá, bà chỉ mặc manh áo sờn rách. Bà van xin kể lể cảnh túng cực. Bà kiên tâm xin người qua kẻ lại thương tình bố thí. Tối đến bà trở về túp lều gỗ. Bà ăn uống đơn sơ. Vì quá kham khổ nên bị bệnh và chết. Nhà chức trách thuộc sở vệ sinh tìm đến nơi. Vào căn lều nhỏ, thấy bà đã chết nhưng tay vẫn chỉ vào một góc nhà. Họ đã đào bới và tìm thấy cái hộp, có 127.000 đô la. Thật là món tiền khổng lồ nhưng lại vô ích cho chủ nhân.
“Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó.” (Lc 12,34). Đúng thế, đồng tiền nối liền khúc ruột. Tiền bạc rất cần cho cuộc sống nơi dương thế, nhưng tiền bạc không là cùng đích. Của cải tiền bạc như con dao hai lưỡi. Nó có thể mang lại hạnh phúc và cũng có thể huỷ hoại niềm vui hoan lạc cuộc sống. Tiền bạc là phương tiện tốt giúp tìm được hạnh phúc thật nếu chúng ta dùng tiền bạc như một tên đầy tớ hữu dụng. Chúa Giêsu đã nhắc nhở rằng kho tàng ở đâu thì lòng ở đó. Khi lòng chúng ta mải mê với của cải trần đời, tâm hồn cũng sẽ bị hoen ố lây. Thường tình, ai trong chúng ta cũng mến chuộng tiền bạc. Tiền giúp chúng ta tránh khỏi cảnh lầm than, thiếu thốn, nhưng tiền không là tất cả. Có tiền, chúng ta có thể mua được nhà, được xe và các phương tiện đồ dùng nhưng chưa chắc đã mua được sức khoẻ, tri thức, tình yêu và hạnh phúc. Chúng ta nên cẩn thận về cách kiếm tiền, tiêu tiền và dùng tiền để sinh hoa trái an vui và hạnh phúc cuộc đời.
Có người quan niệm rằng tiền là tiên, là phật, là sức bật của tuổi trẻ… Lợi nhuận của đồng tiền đã lôi kéo nhiều tâm hồn vào con đường lầm lạc. Có người nghĩ rằng dối gian gạt người khác và gạt các nhân viên chính quyền thì không phải là sự gian dối. Chủ trương là miễn làm sao đạt được mục đích riêng tư, lợi ích cho bản thân và gia đình. Có trường hợp làm giấy hôn thú giả và cưới giả để lấy một món tiền. Hai bên đều có lợi. Bất chấp tiếng nói lương tâm hay lỗi phạm các giới răn của Chúa. Có nhiều tín hữu bên ngoài có vẻ sùng đạo cũng đã vào hùa với nhau để làm chứng dối cho nhau.
Như trường hợp một người đã có gia đình, vợ và con cái ở quê nhà. Ông sang Hoa Kỳ đi du lịch, visa đã gần hết hạn và muốn được ở lại Hoa Kỳ. Qua mai mối, ông âm thầm ly dị vợ và làm giấy hôn thú với một người Công giáo khác. Có chứng minh hình ảnh và nhân chứng thật rõ ràng. Khổ nỗi, các nhân chứng quá thật, dàn cảnh có linh mục và bạn bè cùng chụp hình chung làm bằng chứng để phỏng vấn, rồi tổ chức đám cưới giả để qua mắt chính quyền. Người được việc, kẻ được tiền và người mai mối thì vui vẻ thành công. Hả hê vì có bạn, có tiền và có kết quả theo ý muốn. Đôi khi cậy vào danh Chúa để khoe rằng Chúa đã nhận lời cầu nguyện, cảm tạ ơn Chúa.
Khi còn đang sung sức, mạnh khoẻ, chúng ta cố gắng làm việc tốt. Kinh nghiệm cho thấy, mỗi ngày đều có sự thay đổi và cuộc sống đời này thật mong manh. Sự sống, sự chết cận kề. Chúng ta không biết được việc gì sẽ xảy ra ngày mai. Chúa Giêsu cảnh báo: “Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc 12,40). Chẳng ai học được chữ ngờ. Cái gì cũng có thể xảy ra. Chúa mời gọi chúng ta luôn trong tư thế chuẩn bị. Chuẩn bị về mọi khía cạnh của cuộc sống. Sự chuẩn bị sẽ giúp chúng ta sống an bình và vui vẻ hơn. Không còn giận hờn, ghen ghét. Không chôn giữ những sự báo thù trong lòng. Bỏ qua, tha thứ cho nhau. Tạo bầu khí thân thiện. Giữ tâm hồn hồn thanh thản. Không mắc nợ nhau điều gì. Sống giao hoà với Thiên Chúa và anh chị em. Sống an vui tự tại và thanh thản. Nhắm chính hướng đi về cùng đích và nhận ra mục đích của cuộc đời. Khởi đi từ đất thấp, kết thúc nơi trời cao.
Chúa ban cho mỗi người một kho tàng riêng biệt, có kẻ hơn người kém. Mỗi người đều có bổn phận và trách nhiệm về những khả năng đã lãnh nhận. Dùng vốn liếng đúng nơi, đúng lúc và sinh hoa kết trái đúng mùa. Chúng ta không cần phải so sánh số vốn liếng với người khác. Chúa cho ai nhiều thì sẽ đòi lại nhiều: “Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn.” (Lc 12,48). Tránh đi sự tự phụ và kiêu căng. Tất cả những gì chúng ta sở hữu đều là hồng ân Chúa ban. Nếu có khoe khoang, chúng ta hãy khoe về sự yếu đuối và bất toàn của mình. Sự thành công của chúng ta cũng lệ thuộc rất nhiều vào tha nhân. Hãy luôn nhớ rằng yếu tố của thành công là do thiên thời, địa lợi và nhân hoà.
Lạy Chúa, các Tổ phụ xưa đã bước đi trong đêm tối của niềm tin. Các ngài đã đi đến cùng đường và nêu gương đức tin kiên vững cho mọi thế hệ. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa quan phòng. Chúng con sẽ được an nghỉ trong tình yêu của Chúa vì Chúa có lời ban sự sống đời đời.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Sống ở trên đời, mỗi người chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội hoạ, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngôn ngữ Trịnh công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.
Con chim ở trọ cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…
Môi xinh ở trọ người xinh,
Duyên dáng ở trọ đôi chân Thúy Kiều…
Tôi nay ở trọ trần gian
Mai sau về chốn xa xăm với Người.
Một Thiền sư nổi tiếng nọ đến trước cửa lâu đài của ông vua giầu có. Không người lính gác nào dám chặn ông lại. Ông chậm rãi bước vào và tiến thẳng đến ngai vàng chỗ nhà vua đang ngự.
Vua nhận ra vị khách quí ngay lập tức và nhà vua hỏi:
– Ngài cần gì chăng?
– Tôi cần một chỗ ngủ trong quán trọ này – vị Thiền sư trả lời:
– Nhưng đây đâu phải là quán trọ – nhà vua nói. Đây là lâu đài của ta.
– Vậy tôi có thể xin ngài cho tôi biết ai là chủ của tòa lâu đài này trước Ngài không?
– Cha ta. Ông ấy đã chết rồi.
– Và ai là chủ trước cha ngài?
– Ông nội ta. Ông ấy cũng đã chết.
– Như vậy là nơi đây đã có những người đã sống trong một thời gian ngắn và sau đó đã ra đi. Có phải Ngài đã nói với tôi là nó KHÔNG phải là một quán trọ không?
Sau đó vị Thiền sư thong thả giải thích cho nhà vua…. nói rồi ông điềm tĩnh ra đi.
Như vậy thực chất cuộc đời cuả mỗi người chúng ta trên trần gian là gì? Thưa chỉ là một người quản lý.
Là người quản lý ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
* Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.
Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.
Là quản lý trung tín, ta không được phản bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Không được dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Không được dùng tài năng để phục vụ lợi nhuận riêng mình. Không được dùng trí thông minh để gieo rắc nọc độc tư tưởng. Không được biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng phải dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.
* Là quản lý khôn ngoan, ta phải biết nhìn xa.
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài nhỏ bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra – đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng :
– Ngài chế ra cái này dùng để làm gì ?
Nhà sư trả lời :
– Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống. Họ lo thu tích cho có nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết. (TP)
Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông minh chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Ðức Giê-su đã dậy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Ðể sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Ðể gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú.
* Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Ðợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Ðợi chờ là phải tích cực làm việc.
La Fontaine kể chuyện ngụ ngôn sau :
Một cụ già cuốc đất trồng cây. Chợt ba chàng thanh niên đi qua, các cậu nói :
– Cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây…Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa.
Ông cụ trả lời :
– Chắc gì lão chết trước, chắc gì các cậu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rầy có phân biệt già trẻ đâu. Trẻ với già có khác chi nhau về phương diện đó.
Thời gian sau, ba cậu vì công việc, đi lính, kinh doanh…đều chết cả, hoặc vì ngộ nạn, hoặc vì chết trận…
Cụ già được tin buồn, khóc thương ba trẻ.
Câu cửa miệng người đời vẫn nói: tre già, măng mọc, nhưng cũng nhiều khi tre già khóc măng non.
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời ?
Trời hay, Trời biết hết chứ. Nhưng có điều cho xảy ra như vậy để con người không ai biết giờ mình chết. Có như thế con người mới lo tỉnh thức.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì ?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong”.
Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TỈNH THỨC ĐỂ ĐÓN CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta thường xuyên bị mê đắm bởi những quyến rũ củatrần thế. Thích những gì thuộc về trần thế. thích tìm kiếm những gì là của trần thế và lấy làm rất thoả mãn với những cái của trần thế.
Khi con người bị say đắm vào những cái hão huyền trên trần gian, thì cùng lúc cuộc sống con người đang bị cuốn hút, đang mắc vào những cạm bẫy có thể làm tổn thương và giết chết cuộc sống. Cho dẫu trước mắt đó là một tấm màn đầy dẫy những thực tại hấp dẫn làm vui mắt con người như:tiền, quyền, danh, lợi, thú… Khi đang sống trong tình trạng như thế, chắc chắn cuộc sống của con người sẽ bị hôn mê và tê liệt. Đến nỗi cuộc sống ấy sẽ làm cho họ không đủ sức để mở đôi mắt hướng về những gì là Chân – Thiện – Mỹ, và cũng không còn khả năng vực dậy để tìm kiếm những vẻ đẹp đem lại ý nghĩa cuối cùng cho kiếp người.
Hôm nay Lời Chúa dạy chúng ta Phải Tỉnh Thức, đó là Chúa đang thức tỉnh chúng ta Chúa thức tỉnh chúng ta vì Chúa không muốn chúng ta phải chìm đắm vào những giấc mơ hão huyền. Cũng đừng bao giờ thoả mãn với những thứ trên trần gian nay còn mai mất, hay tan biến cách đột ngột theo thời gian, nhất là theo những biến cố. Như vậy, một biệt thự hay một ngôi nhà đẹp với đầy đủ những tiện nghi sang trọng, một tài khoản khổng lồ, một chiếc xe không “đụng hàng” dành cho những đại gia “đỏ”, một địa vị tại trần thế…, đã đủ để chúng ta hài lòng và thoả mãn chưa? Đối với những người sống đức tin thì không! Vì cái cần nhất và thoả mãn nhất cho cuộc sống không phải là tiền tài, danh vọng, địa vị hay hưởng thụ, nhưng là chính Chúa, là Ơn Cứu Độ, là Hạnh Phúc toàn vẹn. Đây chính là Sự Thật cuối cùng của con người. Sự Thật này chúng ta không phủ nhận, nhưng luôn luôn phải trang bị cho mình một tư thế để ôm ấp sự thật tuyệt vời, để chiếm hữu hạnh phúc tuyệt đối. Tư thế mà chúng ta chuẩn bị đã được Chúa nhắc trong Tin Mừng, đó là:
2/ Tỉnh thức để đón Chúa:
Chúa Giêsu dạy chúng ta tỉnh thức không gì khác hơn là đón Chúa đến. Chúa Giêsu chính là Hồng An của Chúa Cha ban cho nhân loại, Ngài là Ơn Cứu Độ duy nhất. Đấng từ Trời xuống, nên chúng ta phải đón nhận. Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh thức để mở lòng đón nhận món quà quý giá nhất của Chúa Cha. Hãy xem việc tìm Ơn Cứu Độ là việc hàng đầu, việc cần thiết, việc ưu tiên tuyệt đối, việc rất quan trọng trong cuộc sống chúng ta. Thử hỏi: ai trong chúng ta đã nghĩ đến việc mở lòng đón nhận Chúa là nguồn Ơn Cứu Độ, là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong sinh hoạt hàng ngày? Khó lắm! Gọi là khó vì chúng ta quá bon chen tìm kiếm những thứ vật chất trên trần gian, quá bận tâm tìm mọi cách để củng cố địa vị tại trần thế, quá bận rộn với một cuộc sống phải tiện nghi, phải hưởng thụ, phải vui chơi giải trí. Từ đó khó lòng để chúng ta xem Chúa là đôí tượng hàng đầu duy nhất, phải bỏ công sức tìm kiếm Ngài.
Vì Chúa là Đấng vô hình nên chúng ta ít cảm nghiệm thật sự những vẻ đẹp tuyệt đối từ nơi Chúa, những giá trị chân thực vĩnh cửu từ nơi Ngài. Còn những sung túc trên trần gian là cái hữu hình, nên sướng khổ hay thành công thất bại là chúng ta thấy ngay tức khắc. Như vậy, một sự đảo lộn đã nảy sinh trong cuộc sống con người cách nghiêm trọng. Những giá trị tuyệt đối Vĩnh Hằng, cung cấp đầy đủ cho thực chất của một con người, thì con người lại coi là thứ yếu phụ thuộc. Còn những cái đánh lừa con người, đưa đẩy con người vào sai lầm của cuộc sống, thì lại là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để con người tìm mọi cách chiếm hữu.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như tỉnh thức để có cơ hội làm giàu, cơ hội được thăng quan tiến chức, có dịp tìm những thú vui nơi trần thế, thì có lẽ ngươi ta sẽ hăm hở chen chúc nhau để mở mắt mong chờ. Nhưng kêu gọi tỉnh thức để chờ Chúa đến thì là quá mơ hồ đối với những cách sống theo chiều hướng duy vật hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta là người có đức tin, đặc biệt là người biết sống Đức Tin, thì Lời Chúa gọi hãy tỉnh thức, đó còn là lời động viên an ủi để chúng ta can đảm mở lòng đón nhận Chúa là giá trị tuyệt đối, khi trước mắt chúng ta phải đối diện bởi những cái hấp dẫn hào nhoáng của sự sung túc trên trần thế.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như trí khôn chúng ta khám phá nơi Chúa là tất cả:Hạnh Phúc tất cả, Chân Lý tất cả, Vẻ Đẹp tất cả, Sự Thật tất cả…, thì chúng ta rất dễ dàng quay lưng với những cái gian dối để đón chờ Chúa đến trong tâm hồn.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như con tim chúng ta dành trọn cho Chúa, xem Chúa là tất cả của đời ta, hết lòng yêu mến Ngài trong từng phút giây, thì chúng ta sẽ dễ dàng nói không với những thứ hạnh phúc tạm bợ của thế gian, luôn rình rập để lôi kéo đời ta.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Đó là Chúa muốn chúng ta dành trọn thời gian, dành trọn cuộc đời để yêu mến Ngài không giới hạn, khao khát Ngài không điểm dừng. Vì Chúa muốn nói với chúng ta: Chúa là tất cả.
Vì Chúa là tất cả nên ngoài Chúa ra chúng ta đừng tìm thứ hạnh phúc nào khác.
Vì Chúa là tất cả nên hằng ngày chúng ta cố gắng sống những tâm tình của Thánh Augustinô sau đây, như để nói lên thái độ tỉnh thức đón chờ Chúa và tâm tình khao khát được Chúa đến trong cuộc đời:
“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn khát khao cho đến khi được về an nghi bên Chúa”. Amen.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TỈNH THỨC LÀ MỘT BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU- Lm. Inhaxio Trần Ngà
Mặc dù biết rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, còn lâu mới mãn hạn cải tạo, nhưng tâm hồn chị Hồng luôn hướng về chồng, mong đợi chồng và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ như thể chồng sẽ trở về nay mai. Mỗi buổi sáng, chị dậy sớm quét dọn con đường từ cổng vào đến thềm nhà với ý nghĩ biết đâu hôm nay chồng chị sẽ đặt những bước chân yêu thương lên con đường mới quét. Rồi chị tiếp tục quét dọn nhà cửa tươm tất sạch sẽ, lau chùi bộ bàn ghế phòng khách, cắm thêm những cánh hoa hồng còn đọng sương mai vào bình, thứ hoa mà chồng chị ưa thích, như thể chồng sắp về đến nơi. Vào mỗi bữa ăn, chị lại đặt thêm một chén và đôi đũa như thể có chồng cùng ngồi ăn bên cạnh. Chị làm tất cả những việc đó trong niềm mong đợi, trong tâm tình yêu thương.
Trong khi đó, người láng giềng của Hồng có tên là Phượng, cũng có chồng đi cải tạo. Phượng nghĩ rằng chồng mình còn lâu mới về, nên rủ rê bạn hữu đến nhà đánh bài, loại hình giải trí mà chồng của Phượng vốn rất ghét. Ban đầu thì bạn gái, dần dần thì các ông lợi dụng đến nhà Phượng đánh bài để buông lời chọc ghẹo tán tỉnh và cuối cùng Phượng đã lang chạ với nhiều người đàn ông khác.
Đôi khi lương tâm Phượng cũng lên tiếng nhắc nhở chị hãy tu tỉnh lại, nhưng chị nghĩ rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, thường phải cải tạo đến mươi năm mới về, thôi thì vui chơi cho thoả thích đã, đợi đến thời gian chồng sắp mãn hạn mới tu tỉnh lại thì cũng chẳng sao. Chị luôn tự nhủ lòng: chồng còn lâu mới về… vội gì… cứ hưởng đời đi, hưởng tuổi xuân đi, hãy vui chơi cho thoả thích… bao giờ chồng gần về sẽ tính.
Tương tự như câu chuyện trong Phúc Âm “người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay” (câu 36), chị Hồng là người vợ trung thành luôn sẵn sàng chờ đợi người chồng thân yêu của mình trở về. Những người Đó là trường hợp được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc.
Trong khi đó, chị Phượng được ví như người đầy tớ xấu, cứ nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa…”
Và số phận của người đó sẽ là: “chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín”. (câu 46)
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lại mình!
Cuộc sống của chúng ta hôm nay đang họa lại nếp sống của Hồng hay của Phượng? Trong tương quan với Chúa, chúng ta mang tâm trạng, thái độ của ai trong hai phụ nữ trên đây?
Nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ thích chọn nếp sống của Phượng. Họ nghĩ rằng còn lâu mình mới chết; còn lâu Chúa mới tới gõ cửa nhà mình. Thế thì hãy lợi dụng quảng thời gian ‘vắng Chúa’ để chơi bời cho thoả thích. Chờ khi tuổi đã về chiều, sức tàn lực kiệt… rồi mới tu tỉnh lại đón Chúa sau. Chứ hôm nay thì… cứ sống như không có Chúa!
Nếu thế thì hãy tự hỏi lòng mình: Phượng có xứng đáng với tình yêu của chồng không? Có xứng đáng chung sống với chồng trong ngày đoàn tụ không?
Và tôi, người học theo sách của Phượng, tôi có xứng đáng ‘vác mặt’ ra chào đón Chúa trong ngày Ngài đến gõ cửa nhà mình không? Tôi có xứng đáng được Ngài đón rước vào Ngôi Nhà hoan lạc mà Ngài đã dành sẵn cho tôi trên quê trời không?
Hôm nay, Chúa Giê-su lại kêu gọi chúng ta hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức, nhưng tỉnh thức không chỉ có nghĩa là coi chừng giờ chết đến, không chỉ có nghĩa là dọn mình cho sẵn sàng để khi chết khỏi sa hoả ngục, hay đợi chờ ngày Chúa quang lâm mà ai cũng nghĩ là còn xa tít mù khơi… nhưng đúng hơn, đó là sẵn sàng mở cửa lòng ngay hôm nay để đón Chúa, đón mọi anh chị em là hiện thân của Chúa đang đến với mình hằng ngày, trong tư thế sẵn sàng và tâm trạng đầy ắp yêu thương như Hồng.
Tỉnh thức như thế là một biểu hiện của tấm lòng dạt dào yêu thương. Có tỉnh thức như thế mai sau mới đáng được đón nhận vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TỈNH THỨC – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP
Cô Ác-ni-ét-ca, 24 tuổi, người mẫu nổi tiếng của Hà Lan, một lần kia đã đăng ký giữ chỗ trong chuyến bay TWA 800, nhưng vào phút chót, một trở ngại khiến cô phải đình lại chuyến đi, lúc ấy cô rất buồn vì phải lỡ dở công việc, nhưng sau đó chắc hẳn cô đã không ngừng cảm tạ ơn thoát chết, vì máy bay đó đã nổ tung sau khi rời sân bay và rơi xuống biển, toàn bộ phi hành đoàn và hành khách không một ai sống sót. Nhưng thoát cái chết đó cô lại rơi vào một cái chết không kém tang thương. Không đầy một tháng sau, đang lúc trình diễn giữa những tiếng reo hò ca ngợi của đám đông ngưỡng mộ, thình lình cô bị đâm túi bụi và đã tắt thở sau đó trước sự kinh ngạc của mọi người, họ là những người mến mộ cô nhưng đã bất lực không thể cứu sống được cô.
Cái chết bất ngờ của cô người mẫu nổi tiếng Ác-ni-ét-ca là một bằng chứng cho chúng ta thấy: dù tin hay không tin, sự sống của cô đang có một bàn tay siêu việt điều khiển, cô không thể giữ nổi sự sống của mình. Cô đâu có ngờ cái may thoát nạn vừa được hưởng cũng chính là tiếng chuông cảnh báo giờ ra đi của đời cô, cô đâu có ngờ buổi trình diễn hôm đó là lần trình diễn cuối cùng của mình. Đúng vậy, không ai có thể nắm chắc sự sống của mình, kể cả vua chúa quyền uy cho đến thứ dân hèn mọn. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn năng mới có quyền quyết định sự sống con người và Ngài muốn gọi ai khi nào là tùy ý Ngài, vì thế tiếng gọi ấy thường là bất ngờ.
Quả thực, Kinh Thánh và giáo lý cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, bởi vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy đến cho mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày chết, còn hầu hết đều không biết trước. Chúng ta không biết trước ngày giờ mình chết, chẳng ai có thể phỏng định được tuổi nào mình sẽ từ biệt cõi đời, và cũng chẳng ai biết mình sẽ chết thế nào: chết từ từ hay chết bất thình lình, chết vì bệnh tật hay tai nạn, chết ở đâu: trên cạn hay dưới nước, ở nhà hay ngoài đường, chết trong tình trạng ơn nghĩa hay tội lỗi, mê man hay tỉnh táo, có kịp chịu các phép sau cùng hay không. Tóm lại, Chúa có thể đến gọi chúng ta khi chúng ta đang làm việc, đang khi chúng ta ngon giấc hay trong lúc chúng ta đang vui chơi giải trí… chúng ta hoàn toàn không hay biết gì về ngày giờ Chúa đến và Chúa gọi chúng ta ở chỗ nào.
Chính tính cách bất ngờ đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn sẵn sàng và do đó luôn cố gắng sống tốt lành. Cũng vậy, tính cách bất ngờ ấy cũng là điều tốt cho chúng ta, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác, chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng, hoặc tệ hại hơn, tự ru ngủ mình để rồi tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng. Chính vì tính cách bất ngờ ấy mà nhiều lần Chúa bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay, Chúa bảo chúng ta: bao lâu sống ở đời này, tư thế của chúng ta lúc nào cũng phải sẵn sàng giống như người đầy tớ trung tín chờ đợi chủ về. Chủ có thể về bất cứ lúc nào, điều làm cho chủ hài lòng là khi trở về thấy người đầy tớ hoàn toàn sẵn sàng, khi ông gõ cửa là mở ngay. Rồi Chúa còn đưa ra một thí dụ nữa để nhấn mạnh thêm về sự khẩn trương phải sẵn sàng, cũng như chủ nhà không biết khi nào kẻ trộm đến viếng nhà mình, nên ông luôn canh chừng để khỏi mất mát. Thì việc Chúa đến cũng bất ngờ như vậy, nên chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng để bất cứ lúc nào Chúa đến gọi chúng ta ra khỏi đời này, dù có bất ngờ và đột ngột, chúng ta vẫn không lo sợ. Trái lại, chỉ những ai không tỉnh thức và không sẵn sàng mới đáng lo sợ mà thôi. Nói khác đi, sự chết bất ngờ như vậy có thể là hoàn toàn tự nhiên, bình thường, không phải là số mệnh, không phải Chúa định, cũng không phải Chúa có ý chơi xấu chúng ta, chỉ nhằm nhè lúc chúng ta lơ là thì Ngài đến. Thật ra tính cách bất ngờ đó có lợi cho chúng ta: đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh, đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc nước trời.
Vậy tỉnh thức là thế nào? Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong tỉnh thức, tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm việc như thường và trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa, nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tranh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hằng ngày, vẫn liên đới với mọi người, nhưng sống và làm việc một cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay.