CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
GIÀU CÓ TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA(*) – Chú giải của Noel Quession 6
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CỦA CẢI ĐỜI NÀY- Chú giải của Hugues Cousin 14
SỰ GIÀU CÓ ĐÍCH THỰC (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 16
NHỮNG GÌ NGƯƠI SẮM SẴN ĐÓ SẼ VỀ TAY AI?- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 26
CÁCH DÙNG CỦA CẢI ĐỜI NÀY- Lm. Giuse Đinh lập Liễm.. 40
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 57
GIA TÀI- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 61
COI CHỪNG LẦM LẪN– Lm. Raphael Xuân Nguyên. 67
CỦA CẢI ĐỜI NÀY (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 69
TÍCH TRỮ KHO TÀNG TRÊN TRỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 77
LÀM GIÀU TRƯỚC THIÊN CHÚA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SBD.. 81
CHUYỆN BIẾT RỒI VẪN CỨ NÓI – Lm. Jos. Nguyễn Văn Nghĩa. 86
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ích gì cho người bởi mọi việc mình làm”.
Trích sách Giảng Viên.
Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư không. Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao. Ích gì cho người bởi mọi việc mình làm mà phải chịu đau khổ cực lòng dưới phàm trần? Suốt ngày của họ đầy sự đau khổ gian truân, và ban đêm lại không được yên lòng, thế thì chẳng phải là hư không sao?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
Xướng: Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
Xướng: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta”.
Bài Ðọc II: Cl 3, 1-5, 9-11
“Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang. Vậy còn sống trên địa cầu, anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng.
Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn là dân ngoại và Do-thái, chịu phép cắt bì hay không chịu phép cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa, nhưng mọi sự và trong mọi sự có Ðức Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 13-21
“Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Người bảo kẻ ấy rằng: “Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?” Rồi Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”.
Người lại nói với họ thí dụ này rằng: “Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: ‘Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?’ Ðoạn người ấy nói: ‘Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: “Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi”. Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?’ Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
GIÀU CÓ TRƯỚC MẶT THIÊN CHÚA(*) – Chú giải của Noel Quession
Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”
Đây là một vấn đề cụ thể, hiện thực luôn luôn mang tính thời sự. Hỡi ơi! Anh em xung đột nhau trong lúc chia gia tài là chuyện thường thấy!
Để hiểu câu trả lời của Đức Giêsu, phải biết luật pháp thời đó. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản. Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó. Vậy hoàn cảnh xem ra đúng nhất có lẽ là một người “con trưởng” đã chiếm hết mọi tài sản và từ chối trả lại cho người em phần nhỏ bé mà người này được hưởng. Ngày nay trong giới Do Thái, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng. Do Thái giáo danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề về Luật.
Chính trong bối cảnh rõ ràng đó, người ấy đã cầu cứu uy tín đạo đức của Đức Giêsu. Đối với mọi người, câu trả lời chắc hẳn sẽ sáng tỏ và rõ ràng; phải nói với người anh ấy chia lại cho người em, đó là công lý đơn giản? Đó cũng là chính lộ xuyên suốt, Tin Mừng mà Đức Giêsu đã nhiều lần lặp lại: Anh em hãy yêu thương lẫn nhau… Vả lại, câu trả lời của Đức Giêsu làm người ta ngạc nhiên.
Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?
Vậy là một lời từ chối. Đức Giêsu tránh né. Trước một sự bất công lộ liễu, Đức Giêsu từ khước xem xét trường hợp đó là dường như không muốn quan tâm đến. Thật là quá đáng. Điều đó đi ngược lại với toàn bộ Tin Mừng, với mọi lời hướng dẫn của Giáo hội và với cả lương tâm đơn giản và sơ đẳng của con người. Người Kitô hữu không nên làm mọi việc để chấm dứt những bất công của thế giới này đó sao? Phải chăng Kitô hữu có quyền thờ ơ những công việc trần thế để chỉ nghĩ đến Thiên đàng? Vậy phải hiểu sự từ chối này. Có thể có nhiều lời giải thích và có lẽ chúng bổ túc cho nhau:
-Theo Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem tức thành phố nơi Người sẽ chết trong vài ngày nữa: Thầy “giáo trưởng” trẻ này còn có nhiều ưu tư khác trong đầu hơn là những cuộc tranh cãi phù du ấy, mà sau cùng cũng được giải quyết ổn thỏa không ngày này thì ngày khác.
-Với tâm thức cá nhân rất đông phương, Đức Giêsu thường trả lời bằng một “ẩn ngữ”, một “số ý lộn xộn” để làm cho người ta phải suy nghĩ. Thông thường, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa ra một câu nghịch lý và gần như thái quá trong lời Người. Người trả lời một câu hỏi người ta đặt ra bằng cách đặt một câu hỏi khác. Tính cách này, Đức Giêsu đã có từ khi còn rất trẻ: Lúc mười hai tuổi, Người trả lời cho mẹ Người một cách bí hiểm. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?”. Đó là lúc cậu bé Giêsu trốn ở lại Đền Thờ đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con?” Trong nhiều dịp, Đức Giêsu dường như không đáp lại: đó là phương cách tốt nhất của “người bị hiểu lầm”, thường gặp trong các cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu với giới trí thức Do Thái giáo, theo thánh Gioan, có sự chênh lệch, Người nói về các sự việc khác mặc dù cũng dùng những từ ngữ ấy.
Phải đọc lại những câu từ chối bên ngoài của Đức Giêsu. Những câu nói ấy không phải tình cờ. Ở Cana, Người dường như từ chối mẹ ruột Người, phép lạ đầu tiên (Ga 2,3-4) Người nói rằng Người không lên Giêrusalem “một cách công khai”, dù vậy Người cũng lên (Ga 7,3-6) Với các con trai của ông Dêbêđê đã xin được “ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người”, thì Người hỏi họ có uống nổi chén Người sắp uống không (Mt 20,23). Người từ chối nói Ngày quang lâm đồng thời khẳng định rằng Người không biết bởi vì “chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24,36).
Khi các người Do Thái xin Người các “dấu chỉ”, Người từ chối nói rằng Người chỉ cho họ dấu lạ của ngôn sứ Giôna (Mt 16,1.4-12.38-40). Vậy ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia di sản không nhất thiết có nghĩa là Đức Giêsu không quan tâm đến: Đã hẳn, diễn tiến của câu chuyện sẽ đem lại cho chúng ta tư tưởng sâu sắc của Người.
-Chính Đức Giêsu đã nêu ra lý do có khả năng đúng nhất của sự “từ chối” việc can thiệp đó trong một câu hỏi: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện?”. Phải, qua đó Người nói rằng những việc trần thế, hoặc tiền bạc ấy không phải là vai trò và sứ mạng của Người. Con người luôn bị cánh dỗ tìm kiếm trong Tin Mừng một thứ bảo hiểm, một sự thánh thiêng hóa các chọn lựa trần tục: Sáp nhập Tin Mừng vào phe mình, vào các lợi ích của mình. Đức Giêsu từ chối sự lẫn lộn ấy. Người từ chối đặt mình vào vị trí của chúng ta. Trút trách nhiệm của chúng ta qua người khác, hoặc tìm một giải pháp có sẵn là việc quá dễ dàng.
Trong chiều hướng đó, Công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực của riêng họ: “Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: Các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng” (G.S. 43). Đức Giêsu đã làm điều đó. Người trả vấn đề thừa hưởng di sản cho sự xét xử của cấp thẩm quyền.
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”.
Sự từ chối của Đức Giêsu, không trực tiếp đảm nhận một nhiệm vụ trần thế, do đó không có nghĩa Người không có gì để nói về các vấn đề trần thế. Đức Giêsu sẽ nhắc lại một lý tưởng cũng là một nguyên tắc chủ yếu. Vai trò của Người thuộc bình diện này và có tính chính trị theo ý nghĩa sâu xa của từ này; nghĩa là sứ mệnh và sứ điệp của Đức Giêsu liên quan đến đời sống của thành đô trần thế. Giáo Hội cũng như Đức Giêsu không trung lập Giáo Hội có bổn phận phải chuyển giao một sứ điệp, phải đưa ra các phán đoán về những công việc thế trần nhưng đồng thời phải để cho các quan tòa, các thẩm phán, những người phụ trách thế tục trách nhiệm áp dụng cụ thể sứ điệp của Giáo Hội.
Nguyên tắc mà Đức Giêsu khẳng định ở đây là phần trách nhiệm của Người, sứ giả của Thiên Chúa. Các ông không nên lẫn lộn mục đích! Thành đô trần thế không có mục đích tạo ra và tiêu thụ tối đa của cải! Không, điều chủ yếu không phải là phục vụ tiền bạc và lợi nhuận, mà là phục vụ “con người”!. Chính “sự sống con người” đứng đầu chớ không phải của cải! Và sự sống này không phụ thuộc vào của cải? Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ tư tưởng của Người khi kể lại một dụ ngôn, đầy sự ngẫu hứng để chế giễu nhấn mạnh đến những lối lo toan của một ông phú hộ.
Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!
Người đọc ‘kinh tin kính’ của một tay duy vật hoàn hảo: đức tin dựa vào hạnh phúc do vật chất mang lại? Đức Giêsu lên án ông ta, nhấn mạnh vào tính ích kỷ của ông ta dẫu sao cũng còn được cái chân thật: “Tôi… Tôi… Tôi… Mình… Mình… Mình sẽ làm… mình sẽ phá… mình sẽ xây mùa màng của mình; của cải của mình… kho lẫm của mình… thóc lúa của mình… chính bản thân mình…”.
Nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi! Từ ngữ Hy Lạp dùng ở đây cũng là từ mà Luca sẽ dùng chỉ bữa tiệc tiếp đãi của “đứa con hoang đàng” (Lc 15,23). Phải, Đức Giêsu đã biết xung quanh Người các “tiệc tùng”, ở đó người ta “tiêu tiền như nước” “ăn uống no say” cùng với tiếng đàn, tiếng hát.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?
Điên dại! Mọi tính toán của ông phú hộ sai lầm một cách thảm hại. Ông ta nhầm lẫn hoàn toàn: Sự giàu sang không mang lại hạnh phúc. Không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn chân thật. Sự sống của một con người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian! Kinh Thánh không ngừng đặt đối lập kẻ điên dại “nabal” với người khôn ngoan “maskil”. Đức Giêsu cũng khẳng định rằng không biết nhận ra của cải chân thật, ý nghĩa đích thực của đời sống quả là thiếu khôn ngoan. “Điên”, năm thiếu nữ khờ khạo không mang theo dầu dự phòng cho đèn mình trong đêm chờ đón Tân Lang (Mi 25,2). “Điên”, những người đồng thời với Đức Giêsu không biết đọc ra những “dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56). “Dại” người mù để cho người mù khác dẫn đường là liều mình “rơi xuống hố” (Lc 6,39). “Điên” ông nhà giàu giới hạn tầm nhìn của mình vào đất đai, mùa màng, kho lẫm, cái bụng của mình.
Và đây là lý do sâu xa (cũng là lý do thứ tư) khiến Đức Giêsu từ chối can thiệp vào những công việc trần thế một cách tức thời và trực tiếp: Một cách mạnh mẽ và khó nghe; Người khẳng định rằng “đời sống” con người không hoàn tất ở trần gian này. Sứ điệp chủ yếu, sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu là đây: Phần chính yếu của đời sống, rất hay bị quên lãng thì to lớn vô cùng so với sự hạn hẹp cố chấp của chủ nghĩa duy vật. Còn, Đức Giêsu -người sắp chết trong ít ngày nữa- không muốn làm giàu cho một người, dù đó là quyền lợi chính đáng của anh ta: việc chia gia tài ấy không phải là điều tốt lành đích thực cho anh ta. Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng một cách tự phát, chúng ta suy nghĩ ngược lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, có một tiếng nói nhỏ trong chúng ta nói với chúng ta: Người có lý. Người biết rõ điều Người nói.
Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó
Chúng ta chớ hiểu sai tư tưởng của Chúa. Sự giàu sang tự nó không là điều xấu. Tiền bạc có thể trở nên tốt nếu nó không chỉ “vì mình” (Lc 12,33-34).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CỦA CẢI ĐỜI NÀY- Chú giải của Hugues Cousin
Sau khi Chúa Giêsu nói chuyện riêng với các môn đệ, đám đông nhắc đến sự hiện diện của Ngài (xc.1). Tiếp theo một lời thỉnh cầu, Chúa Giêsu cho biết thái độ phải có đối với của cải đời này, trong khi đề phòng thính giả khỏi mọi thứ tham lam (c.13,21). Tiếp theo là một cuộc nói chuyện riêng lần thứ hai với các môn đệ kéo dài tới 12, 53. Đề tài thứ nhất kéo dài giáo huấn cho đám đông nhưng nhấn mạnh vào một điểm khác: từ lòng tham lam Chúa Giêsu nói đến sự lo lắng cho ngày mai (cc.22-34) –một tình cảm ăn rễ sâu trong con người.
Nói với dân chúng: Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam
Một người xin Chúa Giêsu can thiệp giúp trong vấn đề chia gia tài. Anh ta gõ lầm cửa rồi, vì Chúa Giêsu đâu phải là một Kinh sư như các vị khác mà vai trò chính là để lo những công việc luật pháp. Nhiệm vụ của Chúa Giêsu là loan báo Tin Mừng của Vương Quốc và kêu gọi người ta hoán cải; như vậy nhiệm vụ đó tác động tới tận gốc rễ của việc tranh chấp giữa hai anh em (cc.13-15); cho nên Ngài từ chối đóng vai trò mà người kia yêu cầu, rồi Ngài nói với đám đông. Vượt quá sự nhắc nhở của Lề Luật (“Ngươi không được thèm muốn nhà của người bên cạnh” Xh 20,17), đó là một cảnh giác chống lại mọi tham lam vô độ muốn chiếm hữu thêm hay là chiếm hữu hơn cả cái cần dùng. Một câu ngạn ngữ đưa ra lý do: của cải vật chất không cho ta được một sự an toàn đích thực; cuộc sống không được đảm bảo bởi có dư dật của cải (x. đã có ở 9, 25). Người ta sẽ hiểu rằng từ chối xử kiện hay chia gia tài không có nghĩa là Ngài chấp nhận trên thực tế một sự bất công.
Dụ ngôn về người phú hộ ngu ngốc là một minh hoạ cho điều này (cc. 16-21). Là địa chủ, ông quyết định nới rộng kho lẫm để chứa hoa màu thu bội và như vậy có thể dự trữ cho riêng ông, và ông có thể nghỉ ngơi một cách an toàn trong nhiều năm. Vậy thì ông sẽ phá những kho lẫm cũ quá nhỏ bé, nhưng có thể là rất hữu dụng cho người khác… Hoàn toàn hướng về một thực hiện ích kỷ chỉ nhắm vào đời sống hiện tại, ông ta không quan tâm đến cái chết, cái chết của chính ông, trong khi giải quyết vấn đề của ông. Trong việc đó, ông ta tỏ ra ngu ngốc, bởi vì Thiên Chúa, chủ tể sự sống, sẽ thu hồi sự sống của ông, ngay trong đêm đó; con người này đã thiếu khôn ngoan khi không tìm kiếm cho mình một hạnh phúc vững bền. Ở câu 21, phần áp dụng dụ ngôn cảnh giác ta về một thái độ ích kỷ như thế (thu tích của cải cho mình). Thực ra, phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa; tuy còn một ít khó hiểu, bài học này sẽ được làm sáng tỏ một cách đầy đủ bởi kết luận của toàn bộ phần khai triển ở câu 33-34.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
SỰ GIÀU CÓ ĐÍCH THỰC (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đừng để hết tâm trí vào việc thu tích của cải mà quên làm giàu trước nhan Thiên Chúa, vì đó mới là “kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”.
Gv 1: 2; 2: 21-23
Sách Giảng Viên vạch trần cho thấy những công lao khó nhọc của con người và sự giàu sang phú quý ở đời này chỉ là phù vân.
Cl 3: 1-5, 9-11
Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng người Ki-tô hữu phải siêu thoát khỏi mọi sự thế này mà chú tâm tìm kiếm những thực tại trên trời. Nhờ phép Rửa, người Ki-tô hữu được dự phần vào sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô, họ trở thành một tạo vật mới.
Lc 12: 13-21
Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca tường thuật dụ ngôn người phú hộ dại khờ, ông chỉ biết thu tích của cải cho thật nhiều để vui hưởng cuộc đời cho riêng mình. Cái chết bất ngờ đến nội trong đêm đó, lúc đó ông không có của cải trường tồn “trước nhan Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Gv 1: 2; 2: 21-23)
Câu mở đầu sách Giảng Viên: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”, đã trở thành tục ngữ. Chữ “phù vân” theo ngôn ngữ Híp-ri có nghĩa “làn gió thoảng”, “hơi sương khói”, vì thế được dùng như hình ảnh để chỉ những gì chóng qua, không bền lâu. Câu mở đầu này theo nguyên văn: “phù vân của những phù vân”, diển tả sự so sánh ở bậc cao nhất, có nghĩa, phù vân nhất, phù vân hết mức, không có gì phù vân hơn nữa.
*1.Tác giả và tác phẩm:
Giảng Viên là một cuốn sách rất đặc thù, không như những cuốn sách khác trong toàn bộ Kinh Thánh. Tuy nhiên, cái nhìn bi quan về cuộc đời của sách rất gần với sách Gióp. Cả hai cuốn sách này đều chạm đến mầu nhiệm Thiên Chúa và ý định mầu nhiệm của Ngài trên nhân loại.
Nhan đề của sách: “Giảng Viên”, có nghĩa người chủ trì cộng đoàn hay người lên tiếng trong cộng đoàn. Tác giả đặt những diễn từ bi quan yếm thế của mình trên môi miệng của vua Sa-lô-môn, vị vua được truyền tụng là khôn ngoan bậc nhất. Đây là hình thức rất phổ biến vào thời xưa nhằm tạo uy tín và thế giá cho những bình phẩm của mình. Niên biểu tác phẩm có lẽ vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, chắc chắn phải trước hai sách Ma-ca-bê, bởi vì trong hai sách này niềm hy vọng vào sự sống lại ở bên kia nấm mồ được chứng thực. Đối với tác giả sách Giảng Viên, sau khi chết, người khôn và kẻ dại đều cùng chung một số phận như nhau, trong cõi âm ty tăm tối và buồn phiền (2: 14-16).
*2.Công lao khó nhọc chỉ là phù vân:
Sau câu mở, vừa tóm tắt tinh thần vừa hình thành nên điệp khúc của tác phẩm, phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn văn rất gần với dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Trong đoạn văn này, tác giả phác họa bức tranh tăm tối về sinh hoạt của con người, vì hai lý do: Trước hết, toàn bộ sự nghiệp do công lao khó nhọc của mình làm nên đều phải trao lại cho người khác, việc thừa kế quả là một đại họa; thứ nữa, bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền cả ngày lẫn đêm.
-Việc thừa kế quả là một đại họa:
Khi viết: “Tôi đã chán ghét mọi gian lao vất vả tôi phải chịu dưới ánh mặt trời, những gì tôi để lại cho người đến sau tôi. Nào ai biết được người ấy khôn hay dại? Nhưng người ấy lại là kẻ có thẩm quyền trên những gì tôi đã phải vất vả và khôn khéo mới làm ra dưới ánh mặt trời. Chuyện đó cũng chỉ là phù vân!” (2: 18-19), tác giả nhắm đến một con người đơn độc một mình, không gia đình, không con cái, không bạn bè, chỉ biết thu tích của cải cho riêng mình, không bao giờ biết chia sẻ, biết cho, biết sử dụng thành quả công lao khó nhọc của mình để phục vụ tha nhân. Đó là lý do tại sao nỗi xao xuyến về ngày mai đã gậm nhấm lòng mình và chỉ thấy bất công khi để lại cho tha nhân niềm vui hưởng của cải mà mình đã đổ bao công lao khó nhọc làm nên. Vì thế, sự nghiệp mà con người phải vất vả làm nên trong cõi đời này chỉ là công dã tràng.
-Bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền:
“Phải đối với người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”. Đây quả thật là cái phi lý của cuộc đời mà tác giả sách Giảng Viên muốn vạch trần. Khi biết sự nghiệp mà mình phải đổ bao công sức khó nhọc mới làm nên chỉ là chuyện phù vân, người ấy sinh lòng chán chường thất vọng.
Tư tưởng sau cùng của tác giả chính là cuộc đời con người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được: “Tôi nhận ra tất cả là việc Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời” (8: 17). Vì thế, phải phó thác vào Người. Lời kết của tác phẩm thì rõ ràng và giản dị: “Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người” (12: 13).
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-5, 9-11)
Bản văn sách Giảng Viên là lời dẫn nhập tuyệt vời vào đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-lô-xê. Lời khuyên của thánh nhân: hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, là câu trả lời cho nỗi bận lòng của tác giả sách Giảng Viên. Lời khuyên này được viết trong khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa những năm 60 và 63.
*1.Lập luận của thánh Phao-lô:
Trước đó, thánh Phao-lô đã trình bày thần học về phép Rửa (Chúa Nhật tuần trước); giờ đây thánh nhân khai triển những hậu quả của nó khi dựa vào ý nghĩa của các nghi thức thánh tẩy: chết và sống lại, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.
Lập luận của thánh nhân xem ra tự nó mâu thuẫn. Trước tiên, thánh nhân nói: “Anh em đã được sống lại cùng Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết với Chúa Ki-tô” (nghĩa là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh nhân thường dùng để đặt lên hàng đầu thực tại tinh thần và tiếp đó cho thấy những hệ lụy liên quan đến con người và những đòi hỏi luân lý phát xuất từ đó.
*2.Thực tại tinh thần:
Phép Rửa hiệp nhất người Ki-tô hữu với Đức Ki-tô Phục Sinh, Đức Ki-tô thiên giới ngự trị bên hữu Chúa Cha rồi, theo cách diễn tả của thánh vịnh gia: “Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị” (Tv 110). Nhờ phép Rửa, người tín hữu trở thành công dân Nước Trời, họ “phải hướng lòng trí mình về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.
*3.Con người mới:
Mầu nhiệm hiệp nhất này đem lại kết quả ngay lập tức, sự biến đổi nội tâm: “sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa”. Về phương diện bên ngoài, không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ở trong người Ki-tô hữu mà ánh vinh quang sẽ chỉ được tỏ lộ viên mãn vào ngày tận thế. Sống theo Đức Ki-tô đảm bảo cho chúng ta vinh quang tương lai.
*4.Mặc lấy Đức Ki-tô:
Cuộc đổi mới nội tâm này giúp người Ki-tô hữu vượt thắng những vị kỷ, những đam mê, những thói hư tật xấu. Phải trở nên người Ki-tô hữu chính danh. Phép Rửa cho chúng ta năng lực biến đổi này. Ở nơi khác, thánh Phao-lô nói rằng nhờ phép Rửa, người Ki-tô hữu được đóng ấn Thánh Thần (Ep 1: 13; 3: 16; 4: 30). Ở đây, thánh nhân diễn tả hùng hồn hơn: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa”. Không còn cách diễn tả nào có thể gợi lên tác động của ân sủng tốt hơn nữa.
“Con người cũ” sẽ nhường chỗ cho “con người mới” như thế nào, thì người chịu phép Rửa cũng trở nên một thụ tạo mới như vậy, khi bước ra khỏi nước thánh tẩy, mặc lấy y phục mới, trắng tinh. Thánh Phao-lô là văn sĩ Tân Ước duy nhất sử dụng ngôn từ này; thánh nhân còn dùng nhiều lần khác (Rm 6: 6; Ep 4: 22-24). Y phục mới trắng tinh không là vật trang điểm bên ngoài, nhưng đích thật “mặc lấy Đức Ki-tô”, nghĩa là, để cho con người của Đức Ki-tô thấm nhuần con người của mình, sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Ki-tô. Thánh Phao-lô đã giải thích điều này cho các tín hữu Ga-lát: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 2: 27).
*5.Ơn thông hiểu:
“Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu”. Một trong những khía cạnh đặc trưng của các thư được viết trong tù đó là điểm nhấn được đặt trên ơn thông hiểu. Ngay từ đầu thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê này, thánh Phao-lô đã thông báo Mặc Khải Ki-tô giáo đã khai lòng mở trí cho chúng ta như thế nào. Ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Quả thật, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; như vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và được liên kết chặc chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Ki-tô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2: 1-3).
Thánh Phao-lô đối lập sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự dại khờ của con người. Những suy gẫm của thánh nhân trong cảnh tù đày đã khiến thánh nhân nhấn mạnh hơn nữa ơn thông hiểu Ki-tô giáo đánh dấu mức độ hiểu biết cao hơn, giúp khai mở mầu nhiệm con người và thoáng thấy mầu nhiệm Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 12: 13-21)
Trong phân đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca kết tập nhiều lời dạy của Chúa Giê-su về tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế; vài lời dạy trong số này cũng được gặp thấy tại thánh Mát-thêu. Tuy nhiên, câu chuyện mở đầu (12: 13-15) và dụ ngôn người phú hộ dại khờ (12: 16-21) thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc vào những lời cảnh giác về sự giàu có như chướng ngại trên con đường dẫn đến Nước Trời.
*1.Đức Giê-su từ chối lời thỉnh cầu:
“Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Theo phong tục thời đó, khi gặp phải vấn nạn trong cuộc sống, người ta thường đến gặp thầy thông luật để xin ông một lời khuyên, thậm chí để xin ông đứng ra phân xử một sự bất đồng hay giải hòa đôi bên. Chúa Giê-su nổi tiếng là một bậc thầy đưa ra những nhận định thích đáng và khôn ngoan. Thật chính đáng khi chàng thanh niên này đến gặp Chúa Giê-su để xin Ngài đứng ra phân xử cho anh về vấn đề chia gia tài. Theo Luật Do thái, con trai trưởng có quyền ưu tiên thừa kế hai phần sản nghiệp (Đnl 21: 17). Có lẽ người này bị người anh cả lấy hết phần gia tài.
Chúa Giê-su từ chối lời thỉnh cầu của anh: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người phân xử hay người chia gia tài cho các anh?”. Chúa Giê-su cũng sẽ từ chối như vậy đối với tất cả những lời cầu xin xa lạ với sứ mạng của Ngài. Ngài đến không để giải quyết những tranh chấp về của cải vật chất, nhưng quan tâm đến của cải tinh thần. Thiết tưởng chúng ta cần nhắc lại phản ứng quyết liệt của thánh Phao-lô trong những trường hợp tương tự: những tín hữu Cô-rin-tô khi có những tranh chấp giữa nhau, đem nhau ra tòa để kiện cáo nhau, thánh nhân viết cho họ: “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?” (1Cr 6: 6-8).
*2.Sự giàu có đích thật:
Chúa Giê-su chẳng những từ chối lời thỉnh cầu của anh mà còn cảnh giác đám đông về vấn đề của cải nữa: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Để minh họa cho lời dạy của mình, Ngài kể một dụ ngôn về người phú hộ dại khờ.
Một phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới tự nhủ rằng “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc đó ta sẽ tự nhủ lòng: hồn tôi ơi, bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Nổi bận lòng duy nhất của người phú hộ là làm thế nào thu tích cho thật nhiều của cải như sự đảm bảo duy nhất cho cuộc sống của mình và chỉ nghĩ đến vui hưởng một cách ích kỷ những thành quả do công lao khó nhọc của mình.
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, Ta đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. “Đồ ngốc”, từ ngữ Kinh Thánh chỉ những ai chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa: “Kẻ ngu si tự nhũ: Làm chi có Chúa Trời!” (Tv 13: 1). Ở đây, Chúa Giê-su có chung tư tưởng của sách Giảng Viên, nhưng vượt qua ngay lập tức: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Lời kết này muốn nói rằng cái chết trên cõi thế không thật sự là bi thảm, chính cái chết mai hậu mới là bi thảm. Người phú hộ bị cho là dại khờ bởi vì ông đã đổ hết công sức vào việc thu tích cho thật nhiều của cải trần thế như một sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa. “Trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa”, nghĩa là thu tích kho tàng trên trời, được nhắc đến nhiều lần trong Tân Ước, như: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12: 33).
Một người phú hộ chỉ biết thu tích của cải trần thế và vui hưởng thành quả do công lao khó nhọc của mình một cách ích kỷ mà còn bị khiển trách đến như vậy, huống gì những kẻ làm giàu bất chính và thụ hưởng trên xương máu, mồ hôi đồng loại thì thật đáng bị khiển trách đến mức nào.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NHỮNG GÌ NGƯƠI SẮM SẴN ĐÓ SẼ VỀ TAY AI?- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường và trong nền văn minh hưởng thụ. Bởi đó chúng ta bị thu hút bởi tiền bạc của cải. Nhưng của cải vật chất vừa có lợi vừa có hại.
Lời Chúa hôm nay sẽ cho ta thấy rõ mặt phải và mặt trái của tiền bạc của cải. Xin Chúa giúp chúng ta có lập trường đúng đắn đối với của cải vật chất.
- Nhiều khi chúng con đã coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa anh em.
- Nhiều khi chúng con đã vì tiền mà lỗi đạo với Chúa.
- Thực tình chúng con cậy dựa vào tiền bạc hơn vào Chúa.
*1. Bài đọc I (Gv 1, 2; 2, 21-23)
Sách Giảng viên gom góp những suy tư khôn ngoan của nhiều thế hệ. Trong đoạn này, có nhiều ý tưởng xem ra bi quan yếm thế nhưng lại rất đúng:
- Có người suốt đời vất vả làm việc để thu tích của cải vật chất nhưng khi chết phải bỏ lại tất cả.
- Ích gì có được nhiều tiền nhưng đêm ngủ không yên vì sợ tiền bị mất.
*2. Đáp ca (Tv 94)
Tv này như một lời khuyên tiếp nối những nhận định bi quan của bài đọc I: cách sống khôn ngoan nhất là mỗi ngày hãy lắng nghe tiếng Chúa dạy và cứ sống theo đó.
*3. Tin Mừng (Lc 12, 13-21)
- Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh dành gia tài.
- Dụ ngôn nói tới một người phú hộ đã lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm.
- Nhận định của Chúa Giêsu về người phú hộ đó: hắn là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
*4. Bài đọc II (Cl 3, 1-5. 9-11)
Thánh Phaolô tiếp tục dạy các kitô hữu về cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép Rửa:
- Vì họ đang sống một cuộc sống mới nên từ nay hãy có một quan tâm mới: đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
- Hãy cởi bỏ con người cũ theo xác thịt để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Chúa Giêsu Kitô.
* 1. Có tiền và xài tiền
Một lão trọc phú keo kiệt kia đã tích lũy được một số tiền rất lớn và đang mơ tới tương lai hạnh phúc đang chờ đón lão. Tuy nhiên trước khi lão kịp vung tiền ra mua lấy hạnh phúc thì thần chết hiện ra đòi bắt hắn xuống âm phủ.
Lão thương lượng: “Xin Thần chết cho tôi sống thêm ba ngày nữa thôi. Tôi sẽ chia cho Ngài một nửa tài sản của tôi”. Thần chết không chịu. Lão xuống giá: “Vậy xin cho tôi sống thêm một ngày. Tôi sẽ giao cho Ngài tất cả tài sản”. Thần chết vẫn không chịu. Lão nài nỉ “Xin cho tôi một phút thôi, để tôi kịp viết lời trối”. Thần chết đồng ý. Lão ngồi xuống, cầm bút viết câu sau đây:
“Gửi người nào gặp được tờ giấy này. Nếu bạn có đủ tiền để sống thì đừng uổng phí cuộc đời để kiếm thêm nhiều tiền nữa làm chi. Hãy lo sống thôi! Tiền bạc của tôi rất nhiều, nhưng chỉ một giờ để sống tôi cũng chẳng mua được!”
Tiền của không phải để sở hữu mà để hưởng dùng. Nói nôm na, tiền bạc không phải để “có” mà để “xài”. Nhiều người rất biết cách “sở hữu” nhưng lại không biết cách “hưởng dùng”. Rốt cuộc họ không hạnh phúc bằng một đứa trẻ, sở hữu rất ít nhưng hưởng dùng rất nhiều. Người giàu thật không phải là người có nhiều mà là người hưởng dùng nhiều. Cố gắng để có thật nhiều tiền mà không thể hưởng dùng thì chẳng khác gì một người mù cố gắng thu góp thật nhiều băng Vidéo.
Vấn đề đặt ra là “hưởng dùng” và “xài” tiền như thế nào.
* 2. Nghệ thuật làm giàu
Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng: “Xin chúc nhà vua sống lâu”. Vua Nghiêu nói: “Đừng chúc thế!” Viên quan lại chúc: “Chúc nhà vua giàu có”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Viên quan chúc nữa: “Xin chúc nhà vua đông con trai”. Vua Nghiêu lại nói: “Đừng chúc thế”. Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua: “Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn?” Vua Nghiêu đáp: “Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối”.
Viên quan tâu: “Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thoả, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai hoạ gì, hỏi có gì là nhục?”
Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau: Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc: Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay: Hãy dùng của cải đời này mà “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 21). Đó chính là “nghệ thuật làm giàu” đích thực. (TP)
* 3. Túi tham không đáy
Tolstoi kể rằng một người nông dân kia tên là Pakhom rất ham thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, anh tậu được một mảnh đất 40 mẫu. Anh mừng lắm. Nhưng chẳng bao lâu anh muốn một mảnh đất rộng hơn. Anh lại làm lụng và để dành, bán mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, mua được một mảnh đất 80 mẫu. Nhưng anh chưa thoả mãn, muốn tìm một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người cho anh biết rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được.
Ngay sáng hôm sau, anh nông dân đi sang vùng bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói: “Anh chỉ cần trả 1000 rúp thì có thể sở hữu được một vùng đất mà anh đi được trong một ngày. Nhưng cần nhớ là anh phải trở lại đúng nơi điểm xuất phát cũng trong ngày đó. Nếu về không kịp thì kể như mất tiền vô ích”.
Đêm đó người nông dân sung sướng ngủ không được. Vừa rạng sáng hôm sau anh nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu bước đi. Càng đi anh càng sung sướng vì thấy đất của mình càng rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên mất thời gian. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh mới hốt hoảng quay về. Nhưng vì anh đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Đến điểm mốc, anh ngã gục xuống.
Vị tù trưởng đến chúc mừng: “Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh”. Nhưng người nông dân không đứng dậy được nữa để nhận lấy tài sản của mình, vì anh đã chết!
Có được một số tiền bạc của cải để sống là điều cần thiết. Vì thế trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không phê phán việc chúng ta tìm cái ta cần, mà phê phán lòng tham hơn mức ta cần (tiếng anh: not about need but about greed). Nếu người nông dân trong chuyện trên biết dừng lại khi đã có 40 mẫu đất anh cần thì anh đã sống hạnh phúc, nhưng anh đã chết vì anh cứ mãi mê chạy theo lòng tham của mình. Lòng tham giống như ngọn lửa: ta càng thoả mãn nó bằng cách chất thêm củi vào thì lửa càng bùng to lên và càng đòi nhiều củi thêm. Chứng bệnh trầm trọng nhất của con người trong nền kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ này là con người không biết khi nào mình đủ. Có của không phải là tội, nhưng tham của thì thành tội.
Hãy xem những con chim. Khi chúng xây dựng tổ ấm, chúng chỉ tìm vài nhánh cây đủ cho cái tổ ấy rồi thôi. Hãy xem những con nai. Khi chúng khát, chúng chỉ uống vừa đủ rồi thôi. Sao chúng ta không đơn giản như những con chim và những con nai kia!
* 4. Gia tài để lại cho con cái
Có thể chúng ta cố gắng kiếm tiền không phải để cho mình hưởng, nhưng để làm gia tài trối lại cho con cái.
Xin hãy nghe câu chuyện sau đây:
Người kia làm việc trong một công ty đang phát triển mạnh, lương anh khá cao cho nên gia đình rất hạnh phúc. Anh có một ngôi nhà xinh xắn, một người vợ hiền và mấy đứa con ngoan.
Nhưng anh tự nghĩ: mình còn trẻ, sức lực còn nhiều. Mà công ty hiện không thiếu việc. Thế là anh làm thêm giờ phụ trội. Thu nhập càng cao hơn. Anh lại nghĩ: nếu mình phấn đấu để lên chức thì sẽ được tăng lương nữa. Và anh phấn đấu, và quả thực anh lên chức.
Cho đến một hôm đi khám bệnh, anh được biết mình đã mắc phải một chứng bệnh nguy hiểm và đã tới giai đoạn cuối cùng. Nghĩa là anh không sống được bao lâu nữa. Lúc sắp rời bỏ vợ con ấy, anh mới biết rằng xưa nay anh chẳng hiểu vợ con bao nhiêu, và con cái anh cũng chẳng hiểu anh bao nhiêu. Và anh chết, để lại cho con cái một gia tài lớn. Đối với người khác, anh là một con người thành đạt. Nhưng đối với vợ con thì anh là một con người thất bại. Vợ con anh hưởng gia tài của anh mà chẳng nghĩ tới anh bao nhiêu: bấy lâu nay họ sống không có anh, sau này họ cũng tiếp tục sống không cần anh.
Bởi vậy trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu đã không quan tâm đến gia tài. Khi một người đến nhờ Ngài phân xử việc tranh chấp gia tài. Ngài đã không xử, lại còn cảnh cáo “Các ngươi hãy coi chừng giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu”.
* 4. Tiền bạc
Người ta nói trên đời quan trọng nhất là 2 chữ T: tình và tiền. Hôm nay chúng ta có dịp bàn đến chữ T thứ 2, Tiền. Tiền bàn ở đây không phải chỉ là những tờ giấy bạc, mà còn bao gồm tất cả những gì là của cải tài sản vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, máy móc v.v.
Cách chung thì ai ai cũng cần tiền và cũng ham tiền hết. Không có tiền thì đói rách, con cái nheo nhóc, mặc cảm với bạn bè… Còn nếu có tiền thì ta ăn ngon mặc đẹp, con cái được giáo dục tử tế, bạn bè xã hội trọng nó… Tóm lại câu nói “có tiền mua tiên cũng được” có thể là câu nói diễn tả quan niệm chung của nhiều người.
Nhưng hình như đó lại không phải là quan niệm của Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.
– Bài đọc 1 trích từ sách Giảng viên thì coi tiền bạc là thứ phù hoa “Phù hoa nối tiếp phù hoa trần gian tất cả chỉ là phù hoa”
- bài đọc trích từ thư thánh Phaolô gởi tín hữu thành Colossê thì kêu gọi “Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”.
- Còn bài Tin Mừng thì mô tả một người phú hộ hả hê với những của cải chất đầy từ kho này tới kho khác, nhưng bị Chúa trách “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay Ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?”, và Chúa Giêsu kết luận: Kẻ nào tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.
Phải chăng Chúa không muốn cho ta có tiền? Phải chăng Chúa muốn người có đạo phải nghèo? Phải chăng Chúa khuyên chúng ta phải chạy trốn tiền bạc? Thưa không, không bao giờ, bởi vì những của cải vật chất trên đời này do đâu mà có? Do chính Chúa tạo dựng nên, và Chúa tạo dựng nên chúng là để cho con người hưởng dùng. Cho nên không những Chúa không muốn con người phải đói khổ, mà Chúa còn muốn sao cho con người được đầy dư của cải. Hãy nghe một lời chúc phúc của Chúa ghi trong Tv 71
Khắp xứ sở đầy dư gạo thóc
Đỉnh non cao gợn sóng lúa vàng
Và trong Tv 64:
Thăm trái đất mưa nhuần Chúa rải.
Cho tràn trề của cải sinh ra…
Vùng hoang địa cỏ hoa đua nở
Cảnh núi đồi hớn hở xinh tươi.
Chiên bò gặm cỏ đồng xanh.
Nương vàng sóng lúa lượn quanh dạt dào.
Câu hò tiếng hát trổi cao…
Rõ ràng là Chúa muốn con người sung túc vật chất. Nhưng Chúa cũng biết tiền bạc vật chất vì có khả năng đem lại cho con người rất nhiều tiện nghi sung sướng nên cũng có thể khiến con người chỉ say mê nó mà quên hết mọi giá trị khác. Bởi đó Chúa mới nói “Kẻ giàu có vào nước Thiên Chúa thật là khó, còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Nhưng, tuy có khó thật chứ cũng có những người giàu có được vào nước thiên đường: trong Tin Mừng ta thấy Chúa cũng đề cao những người giàu có, chẳng hạn như ông Giakêu, tuy giàu nhưng biết sử dụng tiền bạc mình để làm những việc nghĩa.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay không đề cao tiền bạc mà cũng không khinh rẻ chúng. Chúa chỉ muốn chúng ta lưu ý hai điều: một là nhận định đúng giá trị của tiền bạc và hai là sử dụng đúng những tiền bạc mà Chúa đã ban.
Bây giờ chúng ta hãy nhận định giá trị của tiền bạc:
- tiền bạc là một yếu tố quan trọng làm cho đời ta được sung sướng
- nhưng nó cũng là một con dao hai lưỡi, nghĩa là nó vừa có thể giúp ta sống tốt hơn “Phú quý sinh lễ nghĩa”, mà cũng có thể làm ta thành xấu đi, xấu đi vì tham lam, xấu đi vì gian lận, xấu đi vì lòn cúi…
- vả lại tiền bạc không được bền vững: thiếu gì người hôm nay đang giàu sụ, thế mà ngày mai đã trở thành tay trắng.
- và nhất là khi chết ta không thể mang tiền bạc theo được.
Sau khi đã nhận định đúng giá trị của tiền bạc, chúng ta hãy lắng nghe Chúa dạy phải xử dụng tiền bạc như thế nào: Hãy dùng tiền bạc đời này để làm giàu cho đời sau.
*5. Chuyện minh họa
a/ Ba người bạn
Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đường. (Trích “Phúc”)
*b/ Những thứ tiền không mua được
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn. “
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
- Tiền không mua được tình bạn chân thực.
- Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
- Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
c/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
*6. Mảnh suy tư
Một buổi tối, tôi thả bước lang thang
Tôi đi từ những khu phố lấp lánh ánh đèn
Bước chân dần dần đưa tôi đến vùng ngoại ô vắng vẻ
Ở đấy tôi thấy ngàn vạn ánh sao còn rực rỡ gấp bội.
Và tôi chợt hiểu ra rằng những ngọn đèn trần thế dễ che lấp những ngọn đèn trời đến mức nào.
Và tôi cầu nguyện: Lại Chúa xin cho những hào nhoáng của đời này đừng bao giờ làm cho con mù lòa không còn thấy ánh vinh quang Nước Trời.
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khổ là cách làm giàu tốt nhất trước mặt Thiên Chúa. Với ước moong sống trọn vẹn tinh thần bác ái của Tin mừng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh luôn quan tâm giúp đỡ bất cứ ai đang gặp đau khổ / bệnh tật / nghèo đói / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc từ thiện của Hội thánh / xoa dịu được phần nào đau khổ của nhân loại.
- Tiền bạc của cải không đem lại hạnh phúc thật sự cho con người / trái lại làm nhiều người trở nên hư hỏng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết sử dụng đúng đắn tiền bạc có được / do lao động lương thiện của mình.
- Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết sống tinh thần nghèo khó của Tin mừng.
- Giúp đỡ những ai đang gặp khó khăn là bổn phận của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thật tình chia sẻ cơm áo cho những ai đói nghèo.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khôn ngoan tích trữ kho tàng trên trời bằng những việc lành phúc đức của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha có câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”. Điều Chúa nhấn mạnh hơn trong câu này không phải là chữ “lương thực” cho bằng chữ “hằng ngày”, nghĩa là chúng ta vừa xin cho có lương thực vừa xin cho khỏi lòng tham, nhưng biết phó thác cuộc sống cho Chúa quan phòng.
Chúng ta sắp trở lại cuộc sống mà trong đó mọi người bon chen, tranh dành nhau tiền bạc của cải. Là những môn đệ của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sao để vừa làm ăn kiếm tiền vừa không bị tiền làm cho mình ra xấu xa tội lỗi.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CÁCH DÙNG CỦA CẢI ĐỜI NÀY- Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Người đời coi trọng tiền của, coi nó như chìa khóa thành công trong cuộc đời vì người ta tôn vinh nó bằng câu :”Có tiềân mua tiên cũng được”. Có người coi mục đích cuộc đời chỉ là kiếm cho ra nhiều tiền để hưởng thụ, cho nên họ đã để cho lòng đam mê tiền của chi phối họ, xúi dục họ làm những điều sai trái. Họ coi tiền của là một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống của họ. Nhưng tác giả sách Giảng viên có nói :”Phù vân, ôi phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”(Gv1,2). Như vậy, tiền của có phải là một bảo đảm cho cuộc sống không ?
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ trích việc thu tích của cải để làm giầu, cũng không khinh chê của cải. Ngài chỉ khuyên người ta trong khi thu tích tiền của để làm giầu thì đồng thời cũng phải biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa. Đừng bắt chước người phú hộ ngu ngốc chỉ biết thu tích cho nhiều của cải vật chất để hưởng thụ, coi của cải như một bảo đảm vững chắc cho cuộc sống để ăn chơi xả láng, mà bỏ quên Thiên Chúa, quên cả linh hồn mình. Vả lại, con người đâu có phải sống được mãi, một khi phải chết thì những của cải đó để cho ai ?
Đối với chúng ta tiền của không có gì là xấu vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên thì đều tốt. Tuy thế, tiền của cũng có thể trở nên một đứa đầy tớ trung thành của chúng ta mà cũng có thể trở nên một ông chủ khắc nghiệt biến chúng ta thành những tên nô lệ khốn nạn của nó.. Chúa khuyên chúng ta hãy tránh thói tham lam, hãy biết chia sẻ. Một trong những cách làm giầu trước mặt Thiên Chúa là biết chia sẻ, biết giúp đỡ những người túng thiếu. Tất cả những gì chúng ta cho đi đều còn ở lại với chúng ta và đó là cơ sở để Chúa ban thưởng bội hậu cho chúng ta trên quê hương vĩnh cửu.
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gv 1,2 ; 2,21-22.
Côhêlét là tác giả sách Giảng viên, đã thu góp những tư tưởng thâm thúy và khôn ngoan của nhiều thế hệ. Ngay câu mở đầu, tác giả đã khẳng định :”Phù vân, ôi phù vân, tất cả là phù vân”.
Tư tưởng này diễn tả một cái nhìn bi quan về cuộc sống của con người trên trần gian, nhưng lại rất đúng. Nếu chỉ đứng trên quan điểm nhân sinh trần tục mà nhìn thì ý nghĩa của cuộc đời chẳng qua là một sự phù phiếm, và do đó, đời không đáng sống. Bởi vì :
– Có người suốt đời làm ăn vất vả để thu tích của cải vật chất nhưng khi chết đi lại phải bỏ lại tất cả.
– Nhiều tiền nhiều của mà phải áy náy, đêm ngủ không yên thì ích lợi gi ?
Thái độ bi quan này của tác giả chất vấn chúng ta : Đời không còn một giá trị nào khác nữa sao ?
+ Bài đọc 2 : Cl 3,1-5.9-11.
Thánh Phaolô nhắc nhở cho tín hữu Côlôssê cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép rửa tội.
Thật vậy, nhờ phép Rửa tội, người tín hữu đã trở nên con người mới và hy vọng sẽ được sống cùng Thiên Chúa mãi mãi. Vì thế, họ phải cởi bỏ con người cũ theo tính xác thịt với những đam mê trần tục, hãy mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.
Do đó, người môn đệ của Đức Giêsu cần biết cân nhắc các yếu tố trong cuộc sống và chọn lựa : đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
+ Bài Tin mừng : Lc 12,13-21.
Đức Giêsu từ chối can thiệp vào vấn đề phân chia gia tài giữa hai anh em. Sở dĩ Đức Giêsu từ chối làm trọng tài trong vụ tranh chấp gia tài vì Ngài cho rằng của cải không thể đảm bảo cho cuộc sống đúng nghĩa.
Dụ ngôn về người phú hộ thật là phù phiếm. Mặc dầu anh ta có biết lo liệu, nhưng anh ta chỉ có cái nhìn thiển cận : chỉ lo hưởng thụ mà không lo gì đến sự tích lũy những của thiêng liêng không hư nát.
Theo nhận định của Đức Giêsu, anh ta là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền mà bảo đảm cho đời mình. Chết đi anh để của cải lại cho ai ? Nếu anh ta khôn thì hãy chia sẻ cho những người nghèo, thì khi anh chết đi, gia sản của anh sẽ biến thành kho tàng không bao giờ hư nát. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Kho tàng không hề hư nát.
- ĐỒNG TIỀN LIỀN KHÚC RUỘT.
Người ta thường nói :”Đồng tiền liền khúc ruột” nói lên cái tâm lý của con người yêu chuộng tiền của mình có, cố giữ lấy, không thể tin ai, buông cho ai được. Động đến tiền là cảm thấy đau xót như “Của đau con xót” : tâm lý đau xót khi của cải bị mất mát cũng như con cái bị người ngoài bắt nạt, hành hạ.
*1. Người ta đánh giá cuộc đời.
Đời là một cuộc chiến đấu. Phải chiến đấu để mà sống. Nhưng khi nói tới cuộc sống người ta chỉ nghĩ đến cơm ăn áo mặc, nhà ở, phương tiện di chuyển và giải trí. Nó chỉ là đời sống vật chất. Vậy còn đời sống tinh thần thì sao , nhất là đời sống siêu nhiên ?
Nhìn vào cuộc sống, không biết thi sĩ Tản Đà Nguyễn khắc Hiếu suy tư thế nào mà phát biểu một câu có tính cách triết lý :
Đời đáng sống hay không đáng sống
Nhấp chén quỳnh xin hỏi bạn tri âm ?
Nếu có phải trả lời cho thi sĩ thì phần lớn người ta sẽ trả lời là đời đáng sống, nhưng sống để làm gì ? Ta hãy nghe một số sinh viên Mỹ trả lời trong một cuộc phỏng vấn :
Năm 1987, Hội đồng Quốc gia Hoa kỳ đặc trách giáo dục, đã thực hiện một cuộc phỏng vấn các sinh viên sắp mãn Đại học về mục đích cuộc đời của họ trong tương lai : Họ muốn gì ? Họ nhằm điều gì trước hết ? Kết quả như sau : 75% trong số 200.000 sinh viên được hỏi ý kiến đã trả lời cho biết :”Mục đích cuộc đời tương lai của họ là làm sao kiếm được thật nhiều tiền”. Các sinh viên này cho biết :”Sau khi học xong, họ muốn có một việc làm tốt với đồng lương cao để sống thoải mái”.
*2. Giá trị cuộc đời.
Người ta nói :”Có tiền mua tiên cũng được”. Tiên là nhân vật tưởng tượng trong truyện thần thọai, tượng trưng cho người đẹp nhất, quí nhất. Đây là quan niệm đề cao đồng tiền : có tiền mua gì được nấy. Vì vậy người ta mới nói :
Đồng tiền là tiên là phật
Là sức bật của con người
Là nụ cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý…
Trong cuộc tương giao của con người trong đời sống xã hội, đồng tiền vẫn giữ vai trò chủ chốt, nó chi phối sự tương giao, nó làm lệch cán cân công lý, nó có thể đổi trắng ra đen, như người ta nói :
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
Qua kinh nghiệm của cuộc sống, trước sức mạnh của đồng tiền chi phối con người, thi sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm đã phải than một cách chua cay :
Nếu không điều lợi khôn thành dại,
Đã có đồng tiền dở cũng hay.
Ngạn ngữ La tinh có nói :”Tiền của là tên đầy tớ rất tốt, nhưng lại là người chủ rất xấu”. Và người ta cũng nói chơi với nhau :”Vô văn bất nhóc nhách”, có ý nói không có tiền của, không thể làm gì được.
*3. Lòng tham của con người.
Khi từ quan về ở ẩn, thi sĩ Nguyễn công Trứ khuyên người ta đừng chờ đợi những gì quá sức mình, hãy biết dừng lại, bằng lòng với những cái mình đang có, cũng như thi sĩ biết hưởng cái thú an nhàn trong bài thơ “Chữ Nhàn” :
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Biết đủ tức là đủ, đợi đủ biết bao giờ đủ,
Biết nhàn tức là nhàn, đợi nhàn biết bao giờ nhàn.
Ông Eùsope, một thi sĩ ngụ ngôn của Hy lạp, đã nói lên cái lòng tham vô đáy của con người trong câu truyện sau đây :
Truyện : ông già và con ngỗng.
Một ông già nghèo ngồi bên cửa sổ lo lắng cho tương lai. Một người lạ mặt ôm một con ngỗng đến tặng ông già và nói :”Ôâng hãy chăm sóc con ngỗng này chu đáo thì nó sẽ giúp ích cho ông”. Rồi người đó đi mất.
Ông già nghèo đưa con ngỗng về nhà, cho nó ăn, cho nó uống, ban đêm cho nó ngủ trong một cái lồng sạch sẽ. Sáng hôm sau khi nhìn vào chiếc lồng ông vui mừng thấy một quả trứng ngỗng bằng vàng. Ôâng mang quả trứng ra tiệm bán được một số tiền lớn, mua được đủ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống. Hôm sau ông được thêm một quả trứng ngỗng bằng vàng nữa. Hôm sau nữa cũng vậy. Cứ thế mỗi ngày ông nhặt được một quả trứng vàng. Từ đó ông không còn nghèo nữa, ông sống rất thoải mái.
Nhưng dần dần ông trở thành tham lam. Ông không chịu mỗi ngày chỉ có một trứng, ông không thể chờ cho hết tuần mới có được 7 trứng. Ôâng muốn có ngay một lúc tất cả những trứng vàng của con ngỗng. Thế là ông mổ bụng con ngỗng ra. Nhưng ông chẳng thấy quả trứng nào trong đó cả. Ôâng vội may bụng ngỗng lại mong nó đừng chết. Nhưng vô ích. Khi đó người lạ mặt kia trở lại và nói :”Trước đây đã chẳng bảo với ông rằng nếu ông chăm sóc con ngỗng tử tế thì nó sẽ giúp ích cho ông sao ? Bây giờ cả ông lẫn tôi đều đã mất tất cả”.
*4. Người ta đánh già đồng tiền.
Người đời cũng có kinh nghiệm về đồng tiền : nếu ta biết dùng tiền của cho đúng mức, cho xứng đáng thì nó trở thành đầy tớ trung thành của ta; nhưng khi ta không biết dùng nó thì nó sẽ quay trở lại làm một ông chủ khắc nghiệt và biến ta thành một tên nô lệ khốn nạn của nó.
Nhưng dù sao, con người lên voi xuống chó là lẽ thường. Tiền của đem con người lên, nhưng cũng chính tiền của đã hạ con người xuống. Và sau cùng con người cũng sẽ phải chết và của cải cũng tiêu tan theo, ra đi chẳng mang được gì ngoài hai bàn tay trắng :
Vua Ngô băm sáu tàn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì.
*II. ĐỨC GIÊSU VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA.
*1. Vấn đề phân chia tài sản.
Theo luật Do thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản, nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp qui định, phần gấp đôi các động sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử ; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền : Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó (Quesson).
Nhưng trường hợp ở đây, hình như người con trưởng chiếm hết phần gia tài mà không chịu thừa kế bằng cách dùng uy tín để gây áp lực với người con trưởng bất công, vì Ngài được coi như một rabbi nổi danh, Ngài làm cách có uy quyền.
Đức Giêsu đã từ chối không muốn tham dự vào việc tranh chấp về tiền bạc. Đức Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Ngài ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công cuộc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đọat địa vị của nhà cầm quyền :”Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay chia gia tài cho các anh”?
*2. Dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc.
Đức Giêsu đã từ chối “chia gia tài”. Việc từ chối này có ý nói lên rằng, tuy Ngài có quyền xét xử kẻ sống kẻ chết (Cv 10,42), nhưng sứ mạng lịch sử của Ngài ở trần gian là sứ mạng tôn giáo chứ không phải việc trần tục. Nhân dịp này Ngài nhắn nhủ với tích cách cảnh cáo rằng cần phải tránh mọi thứ tham lam, vì của cải không làm cho đời sống được bảo đảm. Lời cảnh cáo này có ý nhắc khéo rằng đừng an tâm, đừng cậy dựa vào bất cứ một vật nào khác ngoài Thiên Chúa.
Để nói lên ý tưởng đó, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc. Dụ ngôn này cho thấy rằng người phú hộ rất thành công về ngành nông nghiệp. Sự thành công này làm cho ông ta say sưa và suy tính đến việc mở mang rộng lớn kho lẫm của ông. Trong cảnh sống giầu có, sung túc này, ông ta vui chơi ăn uống thả dàn, không nghĩ đến Thiên Chúa, bỏ quên cả linh hồn của mình; nhưng ông ta không nghĩ rằng :”Đêm nay người ta sẽ đến đòi linh hồn ngươi” thì lúc đó :”Những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai”?
Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống luẩn quẩn trong thế giới của ông ta.
Truyện : Rồi sao nữa ?
Ngày xưa, thánh Philipphê Nêri muốn thuyết phục Phanxicô Spazzano, một sinh viên Rôma, đã hoàn toàn tin tưởng ở sự hướng dẫn của ngài về một chân lý ngàn năm. Một hôm Phanxicô Spazzano hớn hở đến báo tin cho ngài biết mình đã thành công rực rỡ trên đường khoa nghiệp. Thánh nhân trả lời :
– Khá lắm. Cha xin mừng với con. Nhưng rồi con sẽ làm gì ?
– Con sẽ làm trạng sư, sẽ biện hộ ở tòa án.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ có nhiều tiền.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ lập gia đình.
– Rồi sao nữa ?
– Con sẽ sống hạnh phúc.
– Rồi sao nữa ?
Chàng sinh viên suy nghĩ một lúc rồi trả lời :
– Rồi… rồi con cũng sẽ chết như bất cứ ai khác.
– Rồi sao nữa ?
Chàng sinh viên im lặng bỏ đi, trầm tư và u buồn. Tuy nhiên, câu hỏi cứ nhắc đi nhắc lại mãi, chàng cứ bị ám ảnh hoài. Và để đảm bảo cho cái “Rồi sao nữa” kia, cuối cùng, chàng từ giã đường trần khóac áo tu trì.
Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Athanasiô đưa ra lời khuyên :”Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam ; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị”.
Trong dụ ngôn này Đức Giêsu có ý nói lên sự nguy hiểm của giầu sang, và sự tham lam của cải vật chất. Vì vậy, Ngài dùng dụ ngôn này để cảnh giác cho hết mọi người : Người giầu có lo tích trữ của cải, cũng như người nghèo tham lam của cải. Ở đây Chúa trách người con trưởng tham lam chiếm đọat gia tài mà không chia cho người em, đồng thời Ngài cũng trách người em vì ham mê của cải mà tranh chấp gia tài với người anh.
*III. CHÚNG TA VỚI VẤN ĐỀ TIỀN CỦA.
*1. Ưu tiên hàng đầu của cuộc sống.
Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại những gì là ưu tiên hơn cả trong cuộc sống. Những lời sách Giảng viên đã nhắc nhở chúng :”Phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh mặt trời”. Chúng mô tả một quan điểm bi đát về cuộc sống, nhưng điều chúng ta muốn nói khiến chúng ta phải hỏi :”Mục đích của đời sống là gì” ? Chắc chắn không phải là tích lũy của cải – của cải trong mọi trường hợp phải để lại đàng sau.
Những sự vật trần gian không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta hạnh phúc mà tâm hồn chúng ta khao khát. Vì thế thánh Phaolô nói :”Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Và Đức Giêsu khuyên chúng ta :”Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giầu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc làm gì, nhưng chúng ta là gì.
*2. Tiễu trừ tính tham lam.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ nói về những người giầu có, nhưng nói với tất cả mọi người vì bất cứ ai cũng có tính tham lam. Người nghèo cũng tham lam của cải như người giầu, không phải vì có nhiều tiền bạc hay ít của cải làm cho một người ra tham lam, nhưng khi người ta bị ám ảnh bởi của cải vật chất, người ta không còn biết thế nào là đủ. Túi tham vô đấy, chẳng bao nhiêu cho vừa. Người La mã có câu ngạn ngữ :”Của cải như nươc muối, bạn càng uống thì càng khát”.
Sách Giáo lý Công giáo số 2536 dạy như sau :”Điều răn thứ mười cấm chỉ sự thèm thuồng, ước ao của cải trần gian cách vô độ; nó cũng cấm tính tham lam thái quá, sinh ra từ sự đam mê vô độ, sự giầu có và quyền lực do sự giầu sang mang lại”.
Chúng ta thường nghe nói :”Tham thì thâm”, quả là đúng. Trên đời này không thiếu gì những người có lòng tham và ích kỷ đến nỗi muốn đi mượn hòm để chôn mình thay vì bỏ tiền ra mua. Cũng có những người vất vả suốt cả đời lo thu tích của cải đến nỗi không dám ăn no, ngủ ngon, để rồi nửa đời người còn lại phải dùng của cải đã thu tích để bồi dưỡng lại sức khỏe đã mất chỉ vì lòng ích kỷ và tham lam quá mức. Thật vậy, những người quá lo thu tích của cải sẽ trở nên mù quáng, họ liều mình đánh mất không những tự do mà còn mất cả đời sống mình.
Truyện : ham mê của cải.
Ham mê của cải tiền bạc là cái tật mà xưa nay có ngàn lẻ một chuyện từng được kể. Nhưng thời nay lại có câu chuyện lý thú thế này : Một thanh niên nọ tình cờ nhặt được một đồng đôla bằng bạc trên đường. Thế là từ đó, mỗi lần đi đâu, anh đều cúi đầu xuống để chú tâm tìm kiếm. Kết quả là sau ba mươi năm anh ta nhặt được 3,5 đôla tiền bằng bạc, 37 đồng nửa đôla bằng đồng, gần 18.500 nút áo đủ cỡ, khoảng 14.400 cây kim may và kim gút đủ lọai. – Nhưng anh phải đổi bằng cái tật khòm lưng. Một tâm trạng bi quan cộng thêm một tính khí khó thương. Vì đôi mắt anh từ lâu đã không nhìn lên bầu trời và bao hoa lá cỏ cây xinh đẹp… Tính ham mê của cải đã “giết chết con người anh”.
Phương pháp làm cho chúng ta được hạnh phúc là biết chấp nhận. Hạnh phúc không phải là có cái chúng ta mong muốn, nhưng là chấp nhận cái chúng ta có. Dù giầu hay nghèo, hạnh phúc là bằng lòng với cái mình đang có, và ngay cả cái mình không có nữa. Hãy biết chấp nhận mọi sự như chương trình của Thiên Chúa đã sắp đặt với lòng biết ơn rằng có Thiên Chúa là có tất cả mọi sự (Dt 13,5-6). Một người không bằng lòng với những cái mình đang có sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Họ luôn sống trong bất mãn và đau khổ, vì lúc nào cũng tham muốn có thêm.
*3. Hãy biết chia sẻ.
Chúa dạy chúng ta :”Đừng thu tích của cải trần gian cho mình mà hãy lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”. Cái làm cho chúng ta giầu có trước mặt Thiên Chúa không phải là chúng ta có gì hoặc là làm gì, nhưng chúng ta là gì. Antoine de Saint Exupéry nói :”Khi giờ sau cùng của bạn giáng xuống, bạn chỉ nên dựa vào điều mà bạn đã trở thành”.
Có hai cách xài của cải đưa đến hai kết quả khác nhau :
- a) Xài một cách ích kỷ cho riêng mình, kết quả là không bảo đảm cho sự sống đời đời.
- b) Dùng tiền của để làm giầu trước mặt Thiên Chúa thì kết quả là sự sống đời đời được bảo đảm.
Thực ra, khi người giầu chia sẻ của cái cho người nghèo, cũng chỉ là bổn phận của người quản lý mà thôi. Augier đã nói một câu chí lý :”Trong dự tính của Thiên Chúa, người giầu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, không ai “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” mà “cứ nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”(Lc 12,19) chính là những kẻ ăn cắp. Thánh Tôma Aquinô quả quyết :”Những người giầu đã đánh cắp của người nghèo khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
*4. Phần thưởng bội hậu trên trời.
Trong bài dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu không đả kích sự tích lũy của cải. Ngài không phê phán công việc làm ăn của mỗi người, mà chỉ đả kích ý nghĩ khờ dại của một số người khi họ lấy việc thu tích của cải vật chất là quan trọng hơn sự tích lũy của cải thiêng liêng.
Sứ điệp mà Đức Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay : Hãy dùng của cải đời này mà “làm giầu trước mặt Thiên Chúa”(Lc 12,21). Đó chính là nghệ thuật làm giầu đích thực.
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những con người nghèo khó. Cho dù có xây bao nhiêu kho lẫm, bao nhiêu két sắt, bao nhiêu tài khoản ngân hàng, cũng chỉ là con số không. Chúng ta chỉ thực sự giầu có trước mặt Thiên Chúa khi chúng ta dốc cạn kho cho người nghèo khó, mở hầu bao giúp kẻ khốn cùng. Chúa phán :”Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”(Lc 12,33).
Ở Kenya bên Phi châu có một vị thừa sai kể rằng có một số dân Phi châu vẫn còn giữ tập tục lấy đi tất cả quần áo người chết đang mặc trước khi chôn cất người ấy. Một trong những mục đích của tục lệ này nhằm nói lên rằng chúng ta rời khỏi thế gian này cũng y hệt như khi chúng ta vào thế gian. . Đây chính là điều thánh Phaolô đã đề cập đến trong thư thứ nhất gửi choTimôthê :”Chúng ta đã chẳng mang gì vào trong thế gian, và chúng ta cũng không thể mang bất cứ cái gì ra khỏi đó”(1Tm 6,7).
Tuy thế, chúng ta có thể mang đi theo khi đi ra khỏi đời này với nhữøng cái mà chúng ta làm giầu trước mặt Thiên Chúa, tức là tất cả những gì chúng ta đã cho đi. Những cái chúng ta đã cho đi làm thành một kho tàng trên trời dành riêng cho chúng ta. Những cái chúng ta đã cho đi ở trần gian này vẫn còn tồn tại không bao giờ hư nát, và đấy cũng là những công nghiệp chúng ta dâng cho Chúa để được hưởng hạnh phúc đời.
Truyện : Cho một được mười triệu.
Đang lững thững đi trong một đường phố, có một người ăn mày đến xin bố thí, người kia móc túi da đưa cho một đồng bạc.
Tám hôm sau, nhà từ thiện đã hết sức ngạc nhiên, vì ông nhận được bức thư nặc danh, trong có ngân phiếu 10 triệu quan. Bức thư viết thế này :
Có lẽ ông còn nhớ một hôm ngao du ở Nice, ông đã bố thí cho một người ông tưởng là hành khất. Trong 10 người tôi ngửa tay xin, chỉ có một ông đã thí cho một đồng bạc. Xin ông biết cho rằng : tôi đây là một nhà triệu phú đã trá hình làm người hành khất đó, với mục đích là nắm được phần thưởng trong cuộc đánh đốù. Tôi đã được cuộc, vậy xin ông cho phép tôi chia với ông số tiền thuởng đó.
Truyện rất hào hứng này, đã được tất cả các báo thuật lại và là truyện có thật. Người ta đóan ông Ernest Ingram chủ tiệm vàng ở Nice bên nước Pháp, chính là vai chủ động trong truyện.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Từ khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới ít chú ý đến chính trị. Mọi nỗ lực đều tập trung vào phát triển kinh tế. Xưa kia, nước mạnh dùng sức mạnh quân sự để áp chế những nước yếu. Ngày nay những nước giàu dùng sức mạnh kinh tế để chèn ép những nước nghèo. Kinh tế trở thành một sức mạnh. Tiền bạc trở thành một vũ khí lợi hại. Chính vì thế ai cũng mong làm ăn phát đạt để trở nên giàu có. Thế mà Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay dường như đi ngược chiều với xã hội. Phải chăng Chúa chống lại sự phát triển, sự sung túc thịnh vượng của xã hội?
Nếu đọc kỹ Lời Chúa và quan sát đời sống của Chúa Giêsu, ta sẽ thấy.
*1) Chúa Giêsu xuống trần gian không nhằm giải quyết vấn đề kinh tế.
Khi người thanh niên đến xin Người phân xử vụ chia gia tài, Người đã trả lời: “Ai đặt ta làm quan án cho các ngươi?” Người đến không phải để giải quyết các vấn đề kinh tế. Việc phân chia tài sản là việc giữa con người với nhau.
Sau khi chứng kiến phép lạ bánh hoá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng Người đã lánh đi nơi khác. Người muốn cho con người thoát ra khỏi lãnh vực vật chất trong cuộc sống.
*2) Chúa Giêsu muốn nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tuy không quan tâm đến vấn đề kinh tế, nhưng Chúa Giêsu không chống lại việc làm giàu, tích lũy của cải. Người chỉ muốn cho việc tích lũy của cải có một ý nghĩa.
Khi nói với đám đông: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có dư giả thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”, Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu: đời sống đâu chỉ gói gọn trong vấn đề cơm, áo, gạo, tiền. Đời sống còn là cái gì cao hơn thế, đẹp hơn thế.
Triết học phân chia con người ra hai phạm trù: “avoir” (có) và “être” (là). Tôi có gì thuộc phạm vi khối lượng. Tôi là gì thuộc phạm vi chất lượng. Những gì tôi có như của cải, quần áo, chỉ là những gì ở ngoài, không làm thành giá trị con người. Những gì tôi là mới tạo thành bản thân tôi, gắn bó thân thiết với tôi, tạo thành giá trị đời tôi.
Khối lượng không quí hơn chất lượng. Đừng lầm tưởng rằng ý nghĩa cuộc đời sẽ tăng theo khối lượng của cải. Chúa Giêsu muốn đời nghèo khổ, không của cải, nhưng không phải vì thế mà cuộc sống của Người không có giá trị. Giuđa chết khi túi đầy tiền bạc, nhưng không phải vì thế mà ông có giá trị hơn người khác.
Truyện kể: xưa có nhà hiền triết sống rất đơn sơ. Ông không cần quần áo, nhà cửa. Nhà của ông là một chiếc thùng phuy. Một hôm, vị hoàng đế đến thăm hỏi xem ông có cần gì không. Ông trả lời: “Tôi chỉ cần nhà vua đứng tránh ra, kẻo che mất ánh mặt trời của tôi”. Trong hai người ấy, ai cao quý hơn, ai đáng kính trọng hơn?
Chất lượng cuộc sống làm con người sống nên người hơn, cao quý hơn, sung mãn nhân cách hơn. Của cải chỉ có ý nghĩa khi giúp con người đạt được chất lượng cuộc sống. Của cải chỉ là phương tiện. Đừng biến phương tiện thành mục đích.
*3) Chúa Giêsu mở tầm nhìn vô biên
Ông phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay đã coi của cải là mục đích. Có được của cải rồi, ông không còn biết làm gì hơn là hưởng thụ. Tầm nhìn của ông quá hạn hẹp. Chỉ biết có vật chất. Chỉ nhìn thấy đời này. Lời Chúa phán: “Hỡi đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sửa đó sẽ về tay ai” đã mở tầm nhìn ra vô biên. Người ta đâu sống mãi mà hưởng thụ. Khi chết thì của cải dù nhiều cũng tan theo mây khói.
Nhưng chưa hết, chết rồi người ta còn phải ra trước toà Chúa mà chịu phán xét. Chúa không đánh con người theo khối lượng những gì họ có, nhưng đánh giá theo chất lượng của đời sống. Theo cách đánh giá của Chúa, những gì ta thu tích cho bản thân sẽ hết, sẽ qua đi. Nhưng những gì ta cho đi sẽ tồn tại.
Lời Chúa hôm nay dạy ta đừng hạ thấp đời sống con người trong một tầm nhìn hạn hẹp vào việc thu tích của cải cho riêng mình. Nhưng hay nâng cao cuộc sống, mở rộng tầm nhìn để biết tích trữ những kho tàng nơi Thiên Chúa, kho tàng ấy sẽ không bao giờ mất được.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tiền bạc cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng nguy hiểm. Theo bạn đâu là những nguy hiểm do tiền bạc?
2- Tham nhũng, hối lộ đang trở thành phổ biến, người tín hữu phải có thái độ nào đối với tiền bạc?
3- Bạn nghĩ gì về Lời Chúa: “Hãy dùng tiền của phi nghĩa mà mua lấy bạn hữu trên trời”?
4- Tiền bạc có phải là tất cả? Hay đời sống con người còn cần nhiều thứ khác cao quý hơn?
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
GIA TÀI- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản. Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ. Rồi họ buộc lồng vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang. Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì thò cả hai tay vào bốc. Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt chú khỉ. Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được. Lý do đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp.
Tác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng. Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa diện. Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích hợp. Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó. Khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu. Cuộc đời của mỗi người xuất hiện đó, rồi biến mất. Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này. Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không ((Gv 1,2). Hư không diễn tả một khía cạnh vô thường của cuộc sống này. Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay. Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv 2, 21).
Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực. Vì sự sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp. Sống là hiện hữu. Mọi sự hiện hữu đều hữu ích. Sự sống cần được sinh hoa kết trái. Thể xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày. Đời sống tâm linh cũng được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn. Sinh ra là khởi đầu. Bắt đầu bước vào một cuộc lữ hành trần thế. Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích. Trong các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí. Vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho con người có ý chí, lý trí và tự do. Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình. Với khối óc và bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn.
Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài. Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất. Của cải trần thế là phương tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh. Con người dùng những sản phẩm do mình tạo ra để phục vụ đời sống. Con người không thể lệ thuôc làm tôi tớ cho của cải vật chất. Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền của. Chúa Giêsu nhắc nhở: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu” (Lc 12, 15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất. Của cải không thể bảo đảm kéo dài đời sống hạnh phúc. Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn. Biết rằng ai cũng cần có tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết.
Câu truyện Phúc âm, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời. Cần có thái độ chọn lựa đối với vật chất phù vân. Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn. Hãy dùng của cải hay hư nát để mua Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu. Hãy dùng của giả để đổi lấy của thật. Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản nước trời. Đổi tiền giả ra tiền thật. Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời. Chúa Giêsu đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9).
Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc. Tiền bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông. Đừng qúa tham lam thu tích của cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng. Chúa Giêsu cảnh báo: ‘Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12, 20). Người đời nghĩ rằng phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự. Điều này thật phải lẽ! Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa. Chúa Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy” (Lc 12, 21). Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt, các thành qủa đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống. Chúng ta không chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để sinh hoa qủa cho tha nhân và xã hội. Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa.
Những lời huấn dụ trong Kinh Thánh xem ra khó áp dụng cuộc sống đời thường. Vì chúng ta thấy ai ai cũng đang mải mê lao động kiếm kế sinh nhai và vun đắp gia sản vật chất. Chúng ta nêu đủ lý do để biện minh cho sự tham lam và tích trữ của cải. Nói rằng nếu không cực lực lao động, lấy gì mà trả bills và các món nợ chồng chất. Chúng ta đầu tư mọi vốn liếng và khả năng để lo làm giầu mỗi ngày. Lòng tham vô đáy. Chúng ta chắt chiu từng đồng và thấy vẫn cần thiếu một xu. Chúng ta dần bị chìm đắm trong sự ham mê của cải vật chất. Thế là cuộc sống kéo lôi vào sự kiếm tìm không ngừng nghỉ. Biết rằng lao động kiếm sống là tốt. Dành dụm tiền bạc để tiêu xài cũng tốt. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta hãy biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa qua việc sử dụng tiền bạc của cải đúng cách để sinh hoa kết trái đời này và đời sau.
Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi lại vác búa đập bể đầu, bể miệng. Sao lại thù hằn dữ vậy? Không, chỉ vì khi chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi. Giầu có sống không yên, chết cũng chẳng yên.
Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của cải vật chất. Hãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích. Cuộc đời của chúng ta có những gia trị cao quí hơn nhiều. Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3, 1). Quê hương đích thực của chúng ta là trời cao. Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối mọt rúc rỉa? Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3, 2).
Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Ngài đã trở thành con người mới hoàn toàn. Sống phó thác và tin tưởng vào Đấng tạo thành vũ trụ. Phaolô lên tiếng: Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó (Col 3, 9-10). Theo gương thánh Phaolô, tuy chúng ta còn khoảng cách rất xa trên con đường trọn lành. Mỗi người chúng ta có thể khởi đầu từ hôm nay để chọn lựa một thái độ và thực hành sống lời Chúa cách tích cực hơn.
Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm. Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
COI CHỪNG LẦM LẪN– Lm. Raphael Xuân Nguyên
Thỉnh thoảng cũng có đôi lời tự an ủi phát ra từ những cuộc đời lam lũ vất vả, hay từ những hoàn cảnh tiêu phí hết cả cuộc đời mà vẫn không thấy thỏa mãn giàu có hơn ai, như nhìn quanh mình tất cả đều đi đến tận cùng, đi đến nghĩa trang… tại nơi đây, những kẻ giàu có hơn mình còn cơ hội tô son tô phấn đời họ lần chót bằng những lời ca tụng của gió của mây, trước khi bước vào lòng đất quê hương cát bụi cô đơn lạnh lẽo! Khổ nỗi cuộc đời từ ngàn xưa xem ra vẫn cứ bất công giàu – nghèo, sung sướng – đói khổ, thế lực – trắng tay, danh vọng – cùng đinh… Mỗi cố gắng vươn lên là như thêm một dịp nhận chìm kẻ khác vô hình chung hay cố ý. Nhưng đó là phần ảo tưởng của cuộc đời. Phần thực sự của thân phận con người được kết thúc bằng lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay:Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? Kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.(Lc 12:20-21) Lời Chúa chẳng yên ủi người nghèo, và cũng chẳng khích lệ hay lên án người giàu, nhưng cảnh cáo những kẻ Người gọi là ngu ngốc chỉ biết tiêu xài cuộc đời để tích trữ và hưởng thụ vật chất.
Lời Chúa Giêsu xem ra làm khó dễ chúng ta quá! Sống trên đời ai lại chẳng muốn được sung sướng giàu có, vì có tiền mua tiên cũng được cơ mà. Hơn nữa Thiên Chúa khi dựng nên con người ngay từ đầu đã muốn cho họ được sống hạnh phúc; và vì lầm lỗi phạm tội, chính Ngài đã sai Con Một của Ngài đến cứu họ đó. Đúng thế, Thiên Chúa muốn tất cả mọi người chẳng những được sống hạnh phúc ở đời này, mà nhất là sẽ hưởng hạnh phúc viên mãn trên quê hương vĩnh cửu với Ngài. Tội tổ tông đã làm cho con người thường lầm lẫn giữa các thực tại giới hạn và vô hạn, nên chẳng lạ gì người phú hộ mà Chúa Giêsu dạy đã trở nên thí dụ điển hình. Ông ta có nhiều của cải vật chất hơn người, và niềm vui duy nhất của ông là ở đó. Ông lầm lẫn giữa đời sống linh hồn và thể xác, và coi vật chất là nhu cầu duy nhất thỏa mãn cho cả hai khi nói:Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!Xem ra đây là sự lầm lẫn vừa cố ý lại vừa ngu ngốc như Chúa nói, bởi vì vật chất sẽ tiêu tan, và chỉ có linh hồn mới bền vững thôi.
Câu kết luận của Chúa Giêsu: Kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy sẽ cho chúng ta nhiều suy tư và quyết định chọn lựa. Dù ở hoàn cảnh nào mà không để mình bị lầm lẫn giữa các giá trị hạnh phúc, chắc chắn sẽ nếm được hạnh phúc thật mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta hôm nay.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CỦA CẢI ĐỜI NÀY (*)– Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay thật là thú vị. Chúng ta cũng có thể coi câu truyện hôm nay là câu truyện của nhiều người trong chúng ta.
A- Nhà phú hộ trong bài TM hôm nay là một người rất giầu có. Mùa màng đã đem lại cho ông những kết quả ngoài sự mong ước. Ông không biết tích trữ lúa thóc vào đâu cho hết.
Đứng trước cả một gia tài khếch xù như thế, tự thâm tâm ông cảm thấy an phận, ông tưởng như mình đã có tất cả. Thậm chí ông đã quên đi cái thân phận thụ tạo của mình.
Chúng ta hãy nghe ông nói:
– Linh hồn của tôi ơi!
Ngươi có nhiều của cải quá.
Thật là một sự kiêu ngạo đáng kinh tởm! Làm như linh hồn là do ông mà có và nó lệ thuộc vào quyền sở hữu của ông vậy.
Thêm vào đó là của cải mà ông bảo là của ông. Ông làm chủ. Ông quên rằng của cải là của Thiên Chúa ban. Của cải mà con người có được đều từ trời từ đất mà ra. Vàng bạc, kim cương, dầu khí đều từ đất. Lúa gạo cũng từ đất. Mà đất là do Thiên Chúa đã dựng nên.
Theo một nghiên cứa của trường đại học nông nghiệp về sự kết tinh 100 thùng bắp trên một mẫu Anh do Dr. Charles M. Crowe ghi lại, thì con người tuy có đóng góp công sức của mình, nhưng Chúa còn đóng góp nhiều hơn, Thử hỏi để có được thành quả như con người thấy thì cần phải có: 4 triệu pounds nước, 6.800 pounds o-xy, 5.200 pounds các-bon, 1.900 pounds các-bon đi-ô-xít, 160 pounds Ni-tơ, 125 pounds Ka-li, 40 pounds phốt-pho, 75 pounds lưu huỳnh vàng, 50 pounds ma-nhê, 50 pounds can-xi, 2 pounds sắt, và một lượng nhỏ i-ốt, kẽm, đồng, cùng những nguyên tố khác – tất cả đều được chứa trong 100 thùng bắp! Ai làm nên chuyện đó?
Cho nên con người chỉ trao cho làm quản lý….làn người coi sóc chứ không phải là chủ . Quản lý coi sóc thôi chứ không làm chủ. Ông đã hoàn toàn không ý thức được điều đó. Đó là lỗi lầm lớn nhất của ông.
Và Chúa sẽ cho ông biết sự sai lầm đó.
Đang lúc ông mải mê với những gì mình có thì một tiếng lạ từ đâu tự nhiên ập xuống! Kinh khủng hơn cả những sấm sét nổ ầm vang trên cả bầu trời
“Đồ điên! Đêm nay linh hồn ngươi bị đòi lại…”
Tất cả sự thật được phơi bày ra:
Linh hồn đâu phải là của ngươi
Của cải cũng đâu phải là của ngươi.
Tất cả đều không có cái gì là của ngươi cả!
Lúc này sự thật mới được lộ ra. Ông có hối cũng không kịp. Thiên Chúa mới là chủ tất cả….cả của cải, cả linh hồn. Thiên Chúa là chủ sự sống. Không ai có quyền đó ngoại trừ Ngài.
Rồi từ cái quan niệm sai lầm đó, ông tự phác họa ra cho ông một tương lai chẳng có gì là cao cả cho lắm. Nhiều nhà chú giải còn cho là “Bẩn thỉu” nữa. Một tương lai mà mọi người chung quanh ông đều bị gạt hẳn qua một bên.
Đây chúng ta hãy nghe ông phác họa: “Linh hồn tôi ơi. Ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm. Người hãy nghỉ ngơi, ăn uống và vui sướng đi!”
Tiến sĩ Morgan bảo: “Đây quả là một dự định thô bỉ nhất có thể nói về một cuộc đời” Của cải không có được một mục đích nào khác hơn là nghỉ ngơi, ăn chơi và vui sướng! Nghỉ ngơi, ăn chơi và vui sướng cho một mình mình….không hề có một chữ nào cho thấy ông nghĩ đến người khác.
Đây là một quan niệm hoàn toàn thực dụng. Như vậy chúng ta thấy không phải ngày hôm nay mới có chủ nghĩa thực dụng mà ngay thời của Chúa, chủ nghĩa này cũng đã có mặt rồi.
Thế nhưng hãy coi chừng. Tới một giới hạn nào đó thì Thiên Chúa lại cho toàn bộ sự thật được lộ ra.
Chúa bảo: “Đồ điên! Đêm nay linh hồn ngươi bị đòi lại, thế thì của cải mà người bảo là của người sẽ về tay ai?” (Lc 12,20). Không biết sẽ là của ai nhưng chắc chắn nó không còn là của người nữa.
Shakepeare có nói: “Mi giầu tức là mi nghèo vậy.
Trên đường lữ thứ, mi khòm lưng gánh thúng của
như con lừa khòm lưng xuống chở túi vàng
Thần chết sẽ tới cướp dựt hết khỏi vai ngươi”
Vâng đúng như thế! Không phải: “Không phải những ai được dư giả mà mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu” (Lc 12,15)
Năm 1923 có một cuộc Hội nghị gồm những nhà kinh tài lớn được tổ chức tại khách sạn Edgerwater Beach bang Chicago.(Tài liệu do ĐGM Arthur Tone và Cha Mark Link cung cấp) Trong số những người tham dự có 9 nhà kinh doanh thành công nhất thế giới hồi đó. Đó là những người nắm giữ những chức vụ quan trọng sau đây:
– Giám đốc công ty luyện thép độc lập.
– Giám đốc công ty hàng tiêu dùng.
– Giám đốc công ty dầu khí.
– Nhà đầu cơ lớn nhất về mễ cốc.
– Giám dốc thị trường chứng khoán tại New York.
– Một nhân viên phủ tổng thống.
– Nhà đầu tư lớn nhất ở Walt Steet.
– Chủ tịch một hãng độc quyền lớn nhất thế giới.
– Giám đốc hiệp hội Ngân hàng quốc tế
Sau 25 năm thì sự việc gì đã xẩy ra?.
Theo tài liệu còn được để lại thì:
Giám đốc công ty luyện cán thép Charles Schwab chết vì vỡ nợ.
Giám đốc công ty hàng tiêu dùng Samuel Insull phải trốn khỏi quê hương và chết không một xu dính túi.
Giám đốc công ty dầu khí Howard Hobson chết vì mất trí.
Giám đốc thị trường chứng khoán ở New York Richard Whistney bị án tù lâu năm tại khám đường Sing Sing.
Léon Fraser Giám đốc Nhà băng.
Jesse Livermore nhà đầu tư lớn nhất tại phố Walt Street
Ivar Kruegar người thương gia độc quyền lớn nhất
Cả ba người trên đều tự tử chết.
Albert Fall được tạm tha khỏi nhà tù để chết tại nhà riêng.
Nhà đầu tư mễ cốc…Arthur Cutten thì chết ở ngoại quốc.
Toàn là những người giầu có một thời. Cơn khủng hoảng kinh tế thế giới vào đầu thập niên 30 đã quật ngã họ một cách không nương tay. Thế là tất cả những gì mà họ tưởng là vĩnh cửu thuộc về họ đã tiêu tan thành mây khói.
Ngày hôm nay cũng có rất nhiều trường hợp như thế.
Để kết thúc ít phút suy niệm hôm bay, tôi xin mượn lời Cha Karl Rahner một trong những nhà thần học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 nầy để thưa với Chúa như sau:
Lạy Chúa, đời con không có gì
ngoài những chuyện tầm thường của mỗi ngày,
nơi diễn ra biết bao nhiêu điều bần tiện và nhỏ nhen,
ganh đua và phù phiếm.
Tâm hồn con tựa như một cái chợ ồn ào,
Ở đó, người ta gặp nhau
để rồi bầy ra những thứ vặt vãnh,
chen chúc nhau để tranh giành của hư không,
chưa kể đến những tỳ ố nhơ bẩn.
Linh hồn con chẳng khác nào vựa thóc
chứa đầy mọi thứ hỗn tạp,
cho đến khi những cái tầm thường
của mỗi ngày đổ đầy cho đến nóc.
Ôi đời con sẽ ra thế nào
Nều đời con cứ tiếp diễn mãi như thế?
Con sẽ ra sao khi phải xuôi tay nằm xuống?
Con sẽ là gì vào lúc con phải rũ sạch tất cả
những thứ đang lấp đầy ngày sống của con?
Con sẽ là gì vào lúc con chỉ còn là chính con?
Việc gì sẽ xẩy ra vào lúc thần chết bất ngờ chụp xuống trên con
và vén mở tấm màn che giấu ý nghĩa sâu ẩn của đời con
cùng những năm tháng ngày giờ lê thê của nó?
Con phải làm gì bây giờ trước cái nhàm chán hằng ngày
vẫn đè nặng trên con?
Cứu cánh của con là chính Chúa,
lẽ nào con chết ngợp
trong những cái tầm thường?
Liệu con có thể trốn khỏi cái thường nhật ấy không?
Không, hẳn là không!
Bởi vì Chúa vẫn đi ngang qua
đời thường của con và con phải gặp Chúa ở đó.
Chính Chúa có thể biến cái thường nhật nhàm chán của con
thành nỗi khát khao vô bờ
và ngày giờ của con thành những ngày ân sủng của Chúa
nhờ tình yêu Cúa ban tặng cho con. (Karl Rahner)
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
TÍCH TRỮ KHO TÀNG TRÊN TRỜI- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Có một vị lãnh chúa rất giàu có, gia sản ruộng vườn bao la. Gần nơi ông ở có một người nông dân tuy nghèo nhưng rất giàu lòng tham. Ngày nọ, vị lãnh chúa nói với người nông dân: “Tôi sẽ cho anh tất cả những phần đất nào mà anh có thể chạy bao quanh, tính từ khi mặt trời bắt đầu mọc cho đến khi mặt trời lặn. Nếu anh trở về đến điểm xuất phát trước khi mặt trời chìm khuất sau đồi, thì anh sẽ làm chủ tất cả những vùng đất anh đã chạy bao quanh. Nếu không, anh chẳng được gì.”
Người nông dân nghe lời vị lãnh chúa hứa mà tưởng như mơ! Đúng là một cơ hội ngàn năm một thuở. Thế là đến sáng hôm sau, khi mặt trời vừa nhô lên khỏi rặng núi, anh cắm đầu phóng chạy như bị cọp đuổi sau lưng. Trước hết, anh chạy bao quanh một khu rừng già đầy gỗ quý. Thế là chỉ trong buổi sáng, anh trở thành chủ nhân của hàng trăm mẫu rừng.
Mặt trời lên cao, nắng như đổ lửa, mồ hôi đầm đìa, nhưng anh vẫn tiếp tục chạy phăng phăng bao quanh đồng lúa phì nhiêu bao la bát ngát. Thế là đến xế chiều, anh là người điền chủ giàu có nhất vùng.
Mặt trời sắp lặn, chỉ cách ngọn đồi chỉ chừng một con sào, anh lại thấy từ xa một con suối lớn nước chảy lênh láng tràn bờ. Anh tự nhủ lòng: Nếu ta không làm chủ được con suối nầy thì toàn bộ cánh đồng mà ta vừa thu tóm được phải đành bỏ khô. Thế là anh dồn hết hơi tàn lực kiệt, quyết chạy bao quanh con suối.
Cuối cùng, lồng ngực như muốn vỡ tung ra, anh thở hồng hộc như con bò bị thọc tiết… Mặt trời bắt đầu lặn, chỉ còn là một vầng bán nguyệt đỏ ối sắp chìm xuống đỉnh đồi. Anh phải cố chạy nhanh cho tới nơi xuất phát, nếu không kịp thì tất cả chỉ còn là hư không. Và rồi khi chỉ còn mươi bước nữa là tới đích, anh ngã gục xuống… vỡ tim!
Thế là cuối cùng, anh chỉ còn được hưởng vài thước đất để chôn vùi thân xác!
(phỏng theo chuyện ngắn: “Cướp đất” của Văn Hào Lev Tolstoi)
Câu chuyện vừa rồi là một minh hoạ rất thực về nhân loại hôm nay. Không phải chỉ có một mà hàng triệu, hàng triệu người chạy như điên cuồng trong cuộc đua tranh không khoan nhượng để giành lấy cho mình thật nhiều của cải, vàng bạc, ruộng đất… như người nông dân tham lam trên đây để rồi cuối cùng cũng mang chung số phận với anh ta: chỉ còn một nấm mồ!
Người phú hộ trong Tin Mừng hôm nay cũng học theo sách đó.
Khi ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, ông “mới nghĩ bụng rằng : ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo : ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!’ Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta : ‘Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’ Rồi Chúa Giê-su kết luận: “Vậy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Xét cho cùng, thế giới hôm nay không thiếu những người học theo sách của nhà phú hộ hay của người nông dân tham của trên đây.
Trong tôi vẫn có lòng tham của người nông dân ngu dại, hằng thúc đẩy tôi thu tóm, ky cóp cho thật nhiều, không bao giờ thấy đủ.
Trong tôi cũng có một gã phú hộ dại khờ, tìm cách cơi nới thêm kho lẫm để chất cho đầy của cải chóng qua.
Nếu chỉ biết thu gom, ki cóp của cải vật chất mà lãng quên linh hồn thì chúng ta cũng đang đi vào vết xe của người phú hộ và người nông dân đáng thương kia.
Trái lại, nếu hôm nay chúng ta khôn khéo tích trữ thật nhiều của cải thiêng liêng, trở nên người giàu có trước mặt Thiên Chúa, thì chúng ta có thể an tâm tự nhủ lòng mình: Hồn ta ơi, hãy hoan lạc và vui mừng, vì ngươi đã có một kho báu trên trời. Mai đây tha hồ vui hưởng!
Lạy Chúa Giê-su,
Xin dạy chúng con đừng dại dột tích lũy những kho tàng hư nát nhưng biết khôn ngoan dùng thời giờ để “sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.” (Luca 12,33) Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LÀM GIÀU TRƯỚC THIÊN CHÚA- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SBD
Đọc câu chuyện dụ ngôn về ‘nhà phú hộ lo thu tích’, tôi trộm nghĩ: Đức Giêsu đúng là một hiền triết thứ thiệt. Từ cổ chí kim các nhà hiền triết đều dạy các điều tương tự như thế. Không ai còn lạ gì với tư tưởng uyên thâm: mọi của cải vật chất chỉ là phù phiếm, có những của cải khác còn đáng giá hơn nhiều; “Phù vân, mọi sự chỉ là phù vân!” (Gv 1:2 và xem thêm 1:16-18)… Tư tưởng này biện minh cho thái độ khinh chê giàu sang phú quí được nhiều người đề cao, hầu có được tâm hồn thanh thoát chuyên chăm vào các việc khác cao thượng hơn, như thu thập kiến thức, sống lịch lãm quân tử, khổ luyện đắc đạo chân tu… hầu lưu danh lâu dài cho hậu thế. Tuy nhiên như tất cả chúng ta đều biết, Đức Giêsu đâu có tới trần gian để chỉ dạy một triết lý sống; người không cần làm điều đó, vì nó chẳng có gì là mới mẻ cả, biết bao người khác cũng đã từng dạy môn sinh của mình như thế! Vì thế tôi rất mừng vì: trong một dịp khác Người đã từ chối trở thành người cầm cân nảy mực cho công lý: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” (Lc 12:14), cho dầu vào thời đại của Người, có lẽ xã hội đang rất cần những con người như thế (thử nghĩ tới những bóc lột, áp chế của đế quốc Rô-ma thống trị… , hay chế độ nô lệ bất nhân và hà khắc rất phổ biến). Không, Đức Giêsu không muốn được ai coi mình là thầy dạy luân lý; vì sứ mệnh của Người hoàn toàn khác!
Cái ‘triết lý’ xem ra Người muốn diễn đạt qua bài du ngôn dứt khoát phải theo định hướng Tin Mừng: Người muốn dẫn đưa con người tiến vào một tương quan đích thực với Thiên Chúa là Cha của Người. Theo Người: bất cứ cái gì cản trở mối tương quan đó đều phải dứt khoát loại bỏ. Dầu không sử dụng thành ngữ ‘làm nghèo trước mặt Thiên Chúa’, nhưng rõ ràng Đức Giêsu muốn ám chỉ điều đó khi Người nói: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”. Trong nội dung này thì ‘của cải’ ở đây phải bao gồm luôn cả kiến thức, thanh danh, đạo đức… được các triết lý sống khác thường đề cao. Ngoài việc nhắc nhở phải tránh lòng tham, bài học Đức Giêsu dạy còn liên quan tới một điều khác nữa tích cực hơn: làm cách nào để trở nên ‘giầu / nghèotrước mặt Thiên Chúa. Rất tiếc là bài Tin Mừng Chúa Nhật XVIII dừng lại ở câu 21; lẽ ra nó còn phải được tiếp tục tới đoạn sau, là mục tiêu chính của bài huấn dụ: sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa là Cha. Qua hình ảnh người phú hộ lo thu tích, nội dung ‘làm nghèo trước mặt Thiên Chúa’ đã lộ rõ; “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng người, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?… vì không lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa”.
Thế nhưng thế nào là ‘làm giầu’ trước mặt Thiên Chúa thì đoạn văn trên vẫn chưa làm sáng tỏ đủ? Ai có thể được coi là ‘giầu có’ trước mặt Thiên Chúa, phải chăng là các bậc tài cao học rộng, những người đạo đức thánh thiện, hay các vị chân tu đạo sĩ…? Đối với một thương nhân ‘giầu’ thì ‘làm giầu’ sẽ có nghĩa là làm ra lắm tiền nhiều của; đối với một nghệ nhân thì giầu là phát triển tài năng thiên phú; đối với nhà thông thái thì lại là trau dồi học thức uyên thâm v.v…; còn thì ‘làm giầu trước mặt Chúa’ thì cũng tùy thuộc rất nhiều vào quan niệm ta có về Thiên Chúa. Cựu Ước đề cao hình ảnh một Thiên Chúa quyền phép, thánh thiện, khôn ngoan, công minh; và thế là ta có các mẫu người ‘giầu trước mặt Thiên Chúa’ như Mô-sê hùng mạnh, như Ê-li-a thánh thiện, như Sa-lô-môn khôn ngoan, như Da-vít công minh…; vậy thì, Đức Giêsu khi kêu gọi ta ‘lo làm giầu trước mặt Thiên Chúa’, Người đang có trong đầu hình ảnh nào về Thiên Chúa? Thiên Chúa mà Đức Giêsu phác họa chắc chắn không thiếu các nét trên vì Ngài bao gồn tất cả; tuy nhiên nét nổi bật và độc đáo nhất mà Cựu Ước chưa hề có, hoặc mới chỉ được các ngôn sứ phác thảo mờ mờ chưa rõ ràng đó là: Thiên Chúa nhân ái và đầy lòng xót thương, một Thiên Chúa cứu độ. Đây mới là nét chân dung trung thực nhất về Thiên Chúa mà Đức Kitô Giêsu, và chỉ duy nhất mình Người mà thôi, có thể vẽ lên. Đó đồng thời cũng là bản chất của ‘vương quốc’ giầu sang mà Người công bố và mời gọi chúng ta hết lòng chăm lo tìm kiếm cho bằng được (xem Lc 12:30).
Hiểu như thế: ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ theo cách nói của Đức Giêsu, còn cao xa hơn cả sống thánh thiện, khôn ngoan, công chính, làm phép lạ…, nó phải là nội dung trung thực nhất của đời sống Kitô hữu; đó chính là đón nhận lòng nhân ái xót thương vô điều kiện Thiên Chúa ban…, và rồi thực thi lòng nhân ái đó cách quảng đại đối với tha nhân. Đương nhiên đời sống tín hữu Kitô không được phép thua kém luật pháp Do Thái trong các khía cạnh luân lý đạo đức, tuy nhiên nó không dừng lại ở đó! Trong số các giá trị Tin Mừng thì đón nhận và sống lòng xót thương phải là cao trọng hơn tất cả! Kitô hữu phải đặt điều này lên tầm cao tuyệt đối, và rồi toàn tâm toàn lực thực thi nó; đó là mục tiêu cao cả nhất mà chỉ những ai dám đứt bỏ mọi thứ thu tích (=làm nghèo) mới có thể thực hiện nổi.
Thế nhưng ngay trong công tác ‘làm giầu trước mặt Thiên Chúa’ này, Đức Giêsu không quên khuyến cáo: không có gì phải lo lắng, phải gò ép, phải luyện tập…, chỉ cần một điều kiện duy nhất là tín thác trọn vẹn vào lòng nhân ái của Thiên Chúa: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12:32).
Ôi, thật an ủi xiết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, cảm tạ Chúa đã đưa con vào vương quốc yêu thương của Người. Ngay từ khi trở thành Kitô hữu, con đồng thời đã trở nên giầu có vô song, vì được sở hữu cách trọn vẹn lòng Chúa xót thương; xin đừng bao giờ để con bị rơi trở lại vào tình trạng nghèo nàn cố hữu, khi chỉ chuyên lo thu tích các của cải vật chất cũng như tinh thần mong làm cho đời mình thêm phong phú. Xin cho con biết ngày càng làm cho mình nên giầu sang hơn cho ‘vương quốc Nước Trời’, nhờ thủ đắc ngày càng trọn vẹn hơn lòng lân tuất vô biên của Thiên Chúa cứu độ. Amen.
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CHUYỆN BIẾT RỒI VẪN CỨ NÓI – Lm. Jos. Nguyễn Văn Nghĩa
Tiền, bạc, của cải, một đề tài mà tín hữu Kitô dường như nghe đã quá nhiều. Oái ăm thay, những người thường lên giọng về đề tài của cải, tiền bạc thì hầu như ít bị chi phối bởi đồng tiền bát gạo kiểu cảnh “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” hay ‘dãi dầm mưa nắng’ để có cái lót dạ và sinh hoạt cho bản thân và gia đình.
Cuộc đời thật lắm điều trớ trêu. Chuyện nghịch lý như không còn là chuyện lý thuyết. Người hô hào “vô sản” thì của tiền hằng hà vô số. Người cam kết sống khó nghèo thì thật khó mà nghèo. Người chủ trương duy vật thì rất chi là chủ quan, duy ý chí, lại còn mê tín đủ điều. Người mong được rỗi linh hồn thì quá lo lắng chuyện nhà cửa, tiện nghi vật chất, cơ sở… Dù nghịch lý hay trớ trêu, thì chúng ta cũng phải đối diện với Lời hằng sống truy vấn chúng ta về thái độ của chúng ta với của cải, bạc tiền.
Ngài Côhêlét lớn tiếng: “Phù vân trên mọi phù vân, tất cả đều là phù vân”(x.Gv 1,2). Của cải, bạc tiền thảy đều chóng qua như gió thổi, như mây nổi, như chim bay. Thưa Ngài Côhêlét: Phù vân đây, chóng qua đấy, nhưng cuộc đời này không thể thiếu gió, vắng mây. Hễ bắt tay làm việc gì, dù lớn nhỏ, dù xây Nhà Thờ, nhà xứ hay lo cho con cái sắp vào niên học mới… thì thảy đều phải bước qua ngưỡng cửa “đầu tiên” là “tiền đâu?” Phù vân mà rất thân thiết, vì đồng tiền dính liền khúc ruột.
Thánh Tông đồ dân ngoại nói với tín hữu Côlôxê rằng hãy hướng lòng trí đến những gì thuộc về thượng giới và đừng chú tâm đến những gì thuộc về hạ giới. Thưa thánh nhân: “đói thì đầu gối phải bò”; “có thực mới vực được đạo”… Đôi tay ngài đã không từng sần sùi, chai sạm với nghề dệt lều vải đấy ư? Và ngài đã không từng kết án những người lười biếng, không chịu lao động đấy sao?
Quả thật vẫn có đủ đầy những luận lý để bào chữa cho thái độ sống quyến luyến với của cải vật chất. Dĩ nhiên chẳng ai dám to gan nói xóc, nói xỉa ngài Côhêlét hay thánh Tông đồ dân ngoại, nhưng vẫn có đó những lời nói cạnh, nói khía đến các “đấng bậc làm thầy” trong Giáo Hội. Các ngài đâu có lo bữa mai chạy bữa hôm như chúng mình. Các ngài đâu có quặn thắt khi con cái ốm đau hay phải chịu cái cảnh nợ nần chồng chất. Thế nhưng dù có biện bạch cách này cách khác thì chúng ta cũng phải chân nhận sự cám dỗ của đồng tiền và sức mạnh của vật chất. Chúng có thể huỷ hoại hạnh phúc chúng ta ngay trong cuộc đời này và có thể làm nguy hại hạnh phúc vĩnh cửu. Trong thực tiển, dù lắm khi sức mạnh của đồng tiền như “là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng…”, nhưng chính Chúa Kitô đã từng minh định: Không được làm tôi hai chủ. Không được vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của (x.Mt 6,24). Và Người còn cảnh tỉnh chúng ta rằng người giàu có vào Nước Trời khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim (x.Mt 19,24).
Của cải, tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là tốt đẹp vì đều do Thiên Chúa dựng nên. Thế nhưng cần phân biệt những cái tốt mang tính giới hạn, vì nó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích. “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15). Và cũng chắc chắn rằng không phải nhờ của tiền dư giả mà hạnh phúc vĩnh cửu được bảo đảm. Theo thánh Phaolô thì tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Ngẫu tượng chỉ có thể dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong. Xin đừng quên tham lam là mối tội thừ hai trong “bảy mối tội đầu”.
Thiên Chúa không hề chỉ dạy chúng ta xem thường của cải vật chất và cũng chẳng bảo chúng ta khinh rẻ các tiện nghi vật chất. Người đã minh nhiên truyền lệnh cho chúng ta lao tác không chỉ để có cái sinh nhai mà còn để có điều kiện phát triển và hoàn thiện đúng phận người, loài thọ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình Người đã dựng nên, vốn là hình ảnh của Người (x.St 1,27). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm kiếm vật chất, của tiền với mục đích gì? Điều đáng trách của người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể đó là đã không biết trả lời câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12,20).
Cái “ngốc”của người phú hộ là khi ra sức thu tích của cải mà “không biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Nếu giả như viên phú hộ trả lời rằng của cải của con sẽ để lại cho con cháu hầu giúp chúng có điều kiện phát triển hoặc để phần nào đó giúp cho người bất hạnh thoát cảnh nghèo khổ thì có lẽ ông ta chẳng bị nguyền rủa là “đồ ngốc”.
Làm giàu truớc mặt Thiên Chúa chính là chiếc chìa khoá giúp chúng ta thoát ra khỏi sự tham lam vị kỷ. Hạn từ giàu khiến chúng ta liên tưởng đến sự phong phú, đến tình trạng được có nhiều hơn. Ai là người giàu có trước mặt Thiên Chúa? Không chút ngại ngần, xin thưa đó là người có tấm lòng quảng đại, vị tha. Vẫn từng có đó những con người lắm tiền, nhiều của cải mà con tim luôn rộng mở, tấm lòng rất quảng đại, vì Danh Chúa, vì hạnh phúc của đồng loại như ông Tôbia, hoặc như bà Gioanna, vợ ông Khuda, bà Sudana và nhiều bà khác mà tin mừng Luca ghi lại (x.Lc 8,3). Tuy nhiên, sự cám dỗ của vật chất cũng đã và đang làm nhiều người băng hoại. Cha ông chúng ta vốn cảm nghiệm rằng khi của tiền càng phình ra thì con tim thường bị bó hẹp lại. Biết bao nghĩa tình mẹ cha con cái, bao nghĩa tình huynh đệ đã nhạt nhoà, đổ vỡ chỉ vì chút của tiền, chút lợi lộc đang nhan nhãn trước mắt chúng ta đây đó.
Để nên giàu có ở đời này thì hoạ hiếm mới có chuyện đột xuất như trúng số độc đắc mà thường là do quá trình kinh doanh, tích luỷ có mục tiêu, có phương pháp và biện pháp thích hợp, hữu hiệu. Cũng vậy, để nên giàu có trước mặt Thiên Chúa, tức là ngày càng biết sống quảng đại, vị tha, vì Danh Chúa và vì hạnh phúc đồng loại thì không gì hơn hãy tìm phương thế và biện pháp để mở rộng tấm lòng của mình. Một kinh nghiệm sống từng được chia sẻ như sau: một giáo dân thú nhận rằng mình rất ngại ngần với chuyện “làm phúc, bố thí” cho người ăn xin. Tìm cặn kẻ nguyên cớ mới vỡ lẽ đó là vì trong túi anh ta thường chỉ có những tờ bạc mệnh giá lớn (50 hay 100 ngàn đồng trở lên). Sau khi được mách bảo rằng hãy luôn để trong túi một số “tiền lẻ”, thì anh ta đã tập được thói quen tốt là làm phúc bố thí cho người nghèo. Sau một vài lần sống theo lời khuyên rằng thỉnh thoảng làm một hành vi quảng đại gấp ba, gấp bốn, thậm chí gấp mười sự tính toán của bản thân, thì tấm lòng của anh ấy đã rộng thêm và như đã vượt qua một mức nào đó. Và chẳng biết tự bao giờ, chuyện lấn cấn khi “làm phúc bố thí” cho người nghèo vốn có trước đây như biến mất. Một nhân đức (thói quen tốt) đã hình thành. Không biết ở mức độ nào nhưng anh ta đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa.