CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
THẦN KHÍ CỦA NGƯỜI(*) – Chú giải của Noel Quession. 7
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CON THẢO- Chú giải của Fiches Dominicales 16
KINH LẠY CHA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 25
CẦU XIN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 38
CẦU NGUYỆN CÙNG CHA TRÊN TRỜI- Lm. Giuse Đinh lập Liễm.. 48
LẠY CHA CHÚNG CON– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 63
HÃY CẦU NGUYỆN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 67
CẦU XIN– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 71
KINH LẠY CHA– Lm. Giuse Nguyễn An Khang. 77
BIẾN ƯỚC MƠ THÀNH HIỆN THỰC- Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 81
KINH LẠY CHA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC.. 85
XIN THÌ SẼ ĐƯỢC – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ. 89
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Lạy Chúa, nếu con nói, xin Chúa đừng nổi giận”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa phán: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ”.
Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu”. Chúa phán cùng Abraham rằng: “Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành”. Abraham thưa lại: “Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa. Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì bốn mươi lăm người công chính, Chúa có tàn phá cả thành không?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành”. Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: “Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?” Chúa phán: “Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt”. Abraham nói: “Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?” Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6-7ab. 7c-8
Ðáp: Lạy Chúa, khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con (c. 3a).
Xướng: Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin: trước mặt các Thiên Thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài.
Xướng: Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con; Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh.
Xướng: Quả thật Chúa cao cả và thương nhìn kẻ khiêm cung; còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Nếu con đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn con sống; Chúa ra tay phản đối quân thù giận dữ.
Xướng: Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài.
Bài Ðọc II: Cl 2, 12-14
“Người đã khiến anh em chung sống với Người và tha thứ mọi tội lỗi”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôssê.
Anh em thân mến, nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại.
Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta, vì làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 1-13
“Các ngươi hãy xin thì sẽ được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. Người nói với các ông:
“Khi các con cầu nguyện, hãy nói: ‘Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ'”.
Và Người còn bảo các ông rằng: “Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: ‘Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy’. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: ‘Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được’. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
“Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
“Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
THẦN KHÍ CỦA NGƯỜI(*) – Chú giải của Noel Quession
Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông
Khi nhìn thấy Người cầu nguyện… họ chờ đợi bên Người, và không quấy rầy Người. Phần chúng ta, chúng ta không có cái may mắn nhìn thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện. Tuy nhiên chúng ta có thể thử làm cho trí tưởng tượng của chúng ta hoạt động… và, bằng tâm trí, nhìn ngắm Đức Giêsu đang cầu nguyện. Đức Giêsu thường cầu nguyện lâu! Người là “vị thầy của sự cầu nguyện” không chỉ vì Người cho những lời khuyên mà còn vì Người nêu gương cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người ngày nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những quy luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm…
Lạy Đức Giêsu, xin dạy cho chúng con biết cầu nguyện? Xin dạy cho chúng con biết rằng sự cầu nguyện Kitô giáo không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chúng con phải thanh luyện sự cầu nguyện của chúng con và học cách cầu nguyện.
Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha…”
Dân Do Thái đã gọi Thiên Chúa bằng “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Hô sê 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16; Khôn Ngoan 5,5 v.v…).
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Người dám thưa cùng Thiên Chúa: “Abba”! “ba ơi”.., từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Người ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Người là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Người yêu mến Con Một của Người” (Gioan 20,17).
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển…
Trong Kinh Thánh, “danh” là để biểu hiện ngôi vị…Sự “thánh thiện” là điều làm cho Thiên Chúa, bởi sự siêu việt lửa tình yêu và quyền năng, trở thành Đấng Hoàn Toàn Khác (Tha Thể Tuyệt Đối).
Vậy trước khi nói với Thiên Chúa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta phải theo Đức Giêsu cầu nguyện tôn vinh chính Chúa Cha. Không có gì là ma thuật, tha hoá trong lời cầu nguyện hoàn toàn vô tư và vô vị lợi này.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” có thể được diễn tả bởi: Xin Cha hãy thể hiền sự toàn năng của Cha là lòng nhân hậu vô cùng, tình phụ tử vô biên… xin Cha chỉ cho chúng con biết Cha là Chúa Cha… vô cùng và tuyệt đối là “Cha”… một người Cha hoàn toàn khác chúng con, cha hơn chúng con vô cùng. Nếu người ta có thể đặt vào một tấm lòng tình yêu thương vốn đã tuyệt vời của tất cả các ông bà và bà má của trần gian, thì người ta chỉ có được một phần nhỏ nhoi và thấp kém của Chúa Cha “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15).
Triều Đại Cha mau đến…
Lời cầu xin thứ hai hầu như đồng nghĩa với lời cầu xin thứ nhất. Triều đại Cha mau đến. Xin Thiên Chúa hoạt động bên trong mọi tạo vật. Người vốn là Tình Yêu (1 Ga4,7 đến 21) Xin Tình Yêu lên ngôi vua! Xin Tình Yêu ngự trị!
Chủ đề “Triều đại của Thiên Chúa” hiện diện thường xuyên trong Cựu ước! Sử biên niên 16,30-33; Tôbia 13,1, Thánh. Vịnh 21,28-28.,67,33-36-97-102,19; Isaia 11,1-9, – 33,17-24 – 54,7-12; Đanien 8,23): Trong tư tưởng của ít-ra-en các vua trần thế chỉ là các “đại diện”, vương quyền thuộc về một mình Thiên Chúa. Và khi tuân thủ Luật của Thiên Chúa mà ít-ra-en làm cho Thiên Chúa thực sự trị vì.
Vào thời của Đức Giêsu đã từ lâu, không còn vua ở Giêrusalem như vào thời của vua Đavít hoặc Salômôn. Như thế, do sự xâm chiếm của nước ngoài, sự chờ.đợi. Đấng Mêsia đã nổi lên mạnh mẽ và được diễn tả trong kinh cầu Qaddish của người Do Thái: xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hoá trong thế gian mà Người đã tạo dựng theo ý chí của Người, xin Người làm cho Triều Đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nẩy mầm, Đấng Mêsia của Người đến gần”.
Đức Giêsu công bố rằng Triều Đại của Thiên Chúa đến rất gần nó đã hình thành ở đó rồi, nhưng không phải một cách huy hoàng… như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4-17-10,7 – 13,24-31,36-50).
Vì thế rõ ràng chúng ta không thể thực hiện lời cầu nguyện ấy mà chính chúng ta không làm việc cho triều đại ấy lớn lên trong sự chắc chắn của Ngày cánh chung, ngày mà dự án của Chúa Cha sẽ thể hiện sử thành công trọn vẹn, sự hoàn tất.
Ở đây chúng ta hãy ghi nhận ràng Luca không thuật lại cho chúng ta “Kinh Lạy Cha” được toàn thể Giáo Hội đọc và đó là Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng của Mát-thêu. Có lẽ Luca đã rút gọn lại, bỏ bớt hai lời xin (ý Cha thể hiện và… nhưng cứu chúng con khói mọi sự dữ). Không một thánh sử nào quan niệm phải theo sát từng lời của Đức Giêsu mà truyền thống nhận được. Các ngài quan niệm Kinh Lạy Cha như một định hướng tổng quát về sự cầu nguyện hơn là một định thức bất biến. Đức Giêsu không xơ cứng điều gì, không biến điều gì thành nghi thức. Và Giáo Hội, ngay từ những thời kỳ đầu, đã luôn luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau trong phụng vụ… trên nền tảng một sự thống nhất chung.
Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy
Trước hết, sau khi đã lấy các “dự án của Chúa Cha” làm dự án của chúng ta giờ đây chúng ta có thể trình bày những ước muốn của chúng ta. Đức Giêsu gợi ý cho chúng ta ba điều: lương thực… sự tha thứ… sự tự do đối diện với cái chết…
Ở đây cũng vậy, Luca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Vị thánh sử này nói: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Luca có lẽ sống với một cộng đoàn Kitô hữu quá nghèo khổ nên đã thêm vào một sắc thái, và nhấn mạnh: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy… “ Lời cầu nguyện này rất khiêm nhường, mặc dù không có về gì nhưng đã cáo giác tâm thức của những Người giàu có chúng ta. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh để chúng ta không nên lo lắng quá về ngày mai (Lc 12,22-32; Mt 6,34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, dân Chúa không thể tích trữ lương thực man-na trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Từ ngữ Hy Lạp “épiousios” mà người ta đã dịch là ‘“mà chúng con cần” chỉ được dùng ở đây trong toàn bộ Kính Thánh. Nó nhắc đến một từ Do Thái, cũng hiếm khi gặp, được dùng trong sách Châm ngôn: 30,8: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; xin cho con cơm bánh cần dùng!”.
Lời cầu nguyện này khó thực hiện trong những xã hội dư thừa của chúng ta.
Lời cầu nguyện này là của mọi người chỉ sống ngày qua ngày. Nhưng từ “chúng con” mà chúng ta đọc, tiếp nối Đức Giêsu, rõ ràng phải buộc chúng ta bao gồm trong kinh nguyện này mọi người đang thiếu thốn lương thực mỗi ngày. Tôi không có quyền đọc “Kinh Lạy Cha” chỉ cho tôi: Xin Cha cho chúng con lương thực… Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, thì nó phải khiến tôi chia sẻ lương thực với những người đang đói.
Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con
So với công thức của Mát-thêu, Luca đã xác định từ “lỗi” khi dịch ra bang từ “tội”: Thật vậy, vì tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ lương thực trong tình huynh đệ? Hơn thế nữa, Luca đã thêm từ “tất cả”, để chỉ sự phổ quát của sự tha thứ ấy mà chúng ta thực hiện với những người khác nếu chính chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ.
Ôi! sự tha thứ ấy là điều chủ yếu của các Kitô hữu vì Đức Giêsu thường xuyên nói về điều đó (Lc 23,34 – 6,36; Mt 11,19-26,28 – 6,14-18 – 22~5; Mc 1.1.,25; Gc 2,13). Niềm vui mà Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho kẻ tội lỗi như thế phải trở thành viên đá thử vàng mọi hành động của Kitô hữu. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý của cô: Một Kitô hữu chính là một người tha thứ. Trước khi đi xa hơn trong kinh nguyện của tôi… tôi dừng lại một chốc để tôi thật lòng tha thứ cho “tất cả những người đã có lỗi với tôi”. Và chúng ta đừng bao giờ nói rằng sự cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào nhiệm. Đúng ra nó là một sự dấn thân quảng đại, một yêu sách phi thường, gần như siêu phàm.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ
Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng đây là sự cám dỗ lớn! Cơn cám dỗ rất đáng sợ ấy: là “đánh mất Đức tin”, “bỏ rời Đức Giêsu”. Thử thách to lớn ấy đã khiến Đức Giêsu phải nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Trong khi kể lại cơn hấp hối của Đức Giêsu trong vườn Ghếtsêmani, Tin Mừng của Luca đã hai lần nhắc lại lời Đức Giêsu khuyến cáo các bạn hữu của Người (22,40 và 22,46): Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dữ… Phải, cơn cám dỗ lớn nhất chính là bỏ rơi Đức Giêsu trong dụ ngôn người gieo hạt giống, Đức Giêsu nhắc chúng ta phải cảnh giác: Có những người, tin trong một thời gian nào đó và đến giờ thử thách, và bị cám dỗ, họ đã chồi bỏ đức tin (Lc 8,13) Vậy mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại sự ác, để chinh phục tự do… và khiêm nhường xin Chúa ban cho ân sủng không bị “khuất phục”, bị trói buộc và tha hoá!
Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: `Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: `Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’? Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đây là kho tàng duy nhất mà chúng ta phải xin Thiên Chúa: Thần Khí của Người!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CON THẢO- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
*1. Như chúng ta đã học biết nơi Đấng Cứu Thế.
Tin Mừng theo thánh Luca, mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ “không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ”, dành một vị trí ưu tiên cho cầu nguyện của Đức Giêsu.
+ Một lời cầu nguyện mà từ ngày chịu phép rửa ở sông Giôdan đánh dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Ngài.
+ Một lời cầu nguyện của con cái, dâng lên Thiên Chúa với sự đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ: “Abba”, nghĩa là: “Lạy Cha”.
+ Một lời cầu nguyện, mà các môn đệ đã là những nhân chứng, không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe, vào thời đó, người ta không biết cầu nguyện nhỏ tiếng, và ‘cầu nguyện’, theo tiếng Do Thái, có nghĩa là ‘nêu lên’. Cha George viết: “Các môn đệ đã phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng.
Đức Giêsu muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người (Cahiers-Evangiles, số 5, trg 43).
Trong khi thánh Matthêu thuật việc truyền lại kinh “Lạy Cha” trong khuôn khổ Bài Giảng Trên Núi, thì thánh Luca lại đặt nó trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà ở đó, Đức Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Đức Giêsu, “ở một nơi nào đó”, “đang cầu nguyện”, và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện. Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức – mà chúng ta không biết – mà “Gioan Baotixita dạy các môn đệ ông”. Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Đức Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện Kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh “Lạy Cha”.
Louis Monloubou nhận xét: “Những hoàn cảnh; trong đó lời cầu-nguyện-kiểu-mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các Kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Đức Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh… Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Đức Giêsu đồng ý bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các Kitô-hữu cầu nguyện như Đức Giêsu: “Nhờ người, với Người, trong Người” là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý (L’évangile de Luc Salvator, trg 194-195).
*2. Chúng con dám nguyện rằng: “Lạy Cha”
Khác với thánh Matthêu, “kinh lạy Cha“ của thánh Luca ngắn hơn, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Đức Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: “Lạy Cha” (“Lạy Cha chúng con” trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Jean-Luc Vesco cắt nghĩa: “Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của Người con thảo, người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Gl. 4, 6; Rm. 8, 15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách năng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”. (“Jérusalem et son prophète”, trg 72).
– Hai ước nguyện, cùng có song song trong lời nguyện Do Thái Qaddish.
+ Sự thánh hoá Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong người được mọi người nhận biết?
+ Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của Ngài!
Như thế, H. Cousin nhận xét: “Lạy Cha, xin ngự đến” đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa (L’evangile de Luc, Centurion, trg 162).
– Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: “Con”, nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng con”, các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
+ Lời xin ơn thứ nhất hướng về “cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày” để tiếp tục cuộc hành trình. H. Cousin nhận xét: “Trước tiên ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ xuất Hành, và theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày”. (Sđd).
+ Lời cầu xin thứ hai nhắm đến “sự tha thứ tội lỗi của chúng con”. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa, không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ không có gì để trả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiện Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
+ Sau cùng, lời xin ơn thứ ba liên hệ đến sự trợ giúp trong “cơn cám dỗ”. Một lời cầu xin mà bản tiếng Pháp dịch là: “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ“ có ý nghĩa mơ hồ. Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Đức Giêsu đã chẳng được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ đó sao (Luc 4)? Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong 22,32: “Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin”. Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quỵ cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
*3. Trong một lời nguyện tin tưởng và kiên trì:
Rồi, Đức Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa.
-Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại năn nỉ đến độ “sỗ sàng”, để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến. Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: Đức Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con.
Là người cha tốt lành, Thiên Chúa không thể không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần. Cách nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường nầy là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là “con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động” (J.L. Vesco, sđd, trg 75).
BÀI ĐỌC THÊM.
*1. “Vượt ra khỏi những thói quen của những kẻ xin xỏ tầm thường”
Ở đây không phải những nhu cầu của con người là giai đoạn đầu tiên của hành trình tôn giáo. Chính Thiên Chúa đã trao cho Abram một lời yêu cầu: “Ngươi hãy đi khỏi xứ sở của ngươi và đi đến xứ sở mà Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Vai trò của con người trong tôn giáo mới nầy, rõ ràng là đón nhận lời Thiên Chúa; lắng nghe lời yêu cầu của Ngài và vui lòng đáp lại. Điều đó thay đổi tất cả. Thiên Chúa không còn được kêu cầu để phục dịch con người nữa. Ngược lại, con người tìm đến phụng sự Thiên Chúa…
Lời cầu nguyện Kitô giáo, rất có thể là lời xin ơn, nhưng không bao giờ bắt đầu từ chúng ta vã những nhu cầu của chúng ta. Nó luôn luôn bắt đầu từ Thiên Chúa. Gọi Thiên Chúa là Cha, là nhìn nhận sự hiện hữu của Người cũng vững chắc như sự hiện hữu của một người cha bình thường của tất cả mọi người… Gọi Thiên Chúa là Cha, có nghĩa là, chúng ta từ chối làm cho đức tin chúng ta tuỳ thuộc vào cách thức chúng ta được nhậm lời. Nói với Người, chớ gì ý cha được thể hiện, cũng có nghĩa là, nhìn nhận rằng, ngay cả khi không thấy Người nhậm lời như mong muốn, chúng la vẫn chắc chắn rằng, ý muốn của Người luôn luôn là tốt lành và có thể là chúng ta không hiểu biết hết điều chúng ta cầu xin..
Chúng ta đừng xấu hổ vì những lời xin ơn. Chúng ta hãy dám khẩn khoản Thiên Chúa cho những nhu cầu riêng tư của chúng ta, và những nhu cầu, cho dù rất ghê gớm, của anh em nhân loại. Đơn giản là chúng ta đừng làm điều đó theo cách thế của dân ngoại. Khi lời cầu xin của chúng ta hình như không được nhậm lời, chính lúc ấy, thái độ bên trong sẽ giúp chúng ta biết mình có phải là người có đức tin hay không, tình yêu của mình: đối với Chúa có hoàn toàn dính liền với những lợi lộc hy vọng có được từ mối liên hệ nầy hay không, hoặc sự tin tưởng có vượt lên trên nổi thất vọng hay không.
*2. Lời cầu nguyện: mặt khác của mầu nhiệm Thiên Chúa
Cầu Nguyện! đó là một từ ngữ của đức tin. Một tín hữu mà không cầu nguyện thì còn có nghĩa gì nữa!
Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng gì. Cầu nguyện là một thử thách, nhất là khi lời cầu nguyện không được phụng vụ hoặc một cộng đoàn nâng đỡ cầu nguyện, như là mặt khác của mầu nhiệm Thiên Chúa, mất nhiệm của Thiên Chúa sống động trống con người. Một dấu vết mờ nhạt và nóng bỏng.
Thiên Chúa là Đấng Thánh, đó là lời nguyện chúc tụng. Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành, đó là lời nguyện cầu xin.
Không cần phải nhấn mạnh đến lời chức tụng. Nó nằm trong kinh Lạy Cha: nguyện Danh cha được hiển thánh. Yêu mến ai, là nói với người ấy tất cả những từ ngữ tỏ lòng trân trọng. Huống chi là đối với Thiên Chúa.
Thế nhưng lời nguyện xin ơn, có thể gây ra vấn đề. Trước hết, những người tinh thần mạnh mẽ thì cho rằng, thật là vô ích và ấu trĩ khi cầu xin Thiên Chúa điều mà Người biết rõ hơn chúng ta.
Đó cũng là cơn cám dỗ của những người yếu đuối, tôi muốn nói những người cầu xin Thiên Chúa những ơn lành một cách vụng về hay hiển nhiên lệch lạc. Làm gì đây?.
Trước hết, đừng bao giờ xem Thiên Chúa như là một người phân phát ơn huệ một cách máy móc. Hay là theo kiểu đổi chác: “Tôi cho Ngài, Ngài cho tôi”. Tệ hơn nữa: đừng bao giờ đặt Thiên Chúa trước một tối hậu thư. Không đổi chác, không tối hậu thư, lời cầu xin đích thực trước hết chấp nhận chúng ta sẽ không được nhậm lời như chúng ta hiểu biết hay mong muốn. Như thế, không được điều mình cầu xin cũng có thể là một ơn huệ. Bởi vì Thiên Chúa luôn luôn ban cho chúng ta điều Người đã hứa: Thánh Thần của Người. Trong tất cả những gì anh em cầu xin, hãy cầu xin Thiên Chúa và Thánh Linh của Người, và anh em sẽ được tràn đầy.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KINH LẠY CHA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay là nhu cầu thiết yếu của cầu nguyện. Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sự kiện Thiên Chúa vui thích lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, sự kiện này được mặc khải cả trong Cựu Ước lần trong Tân Ước.
St 18: 20-32
Sách Sáng Thế thuật lại lời cầu bầu thật cảm động của tổ phụ Áp-ra-ham cho dân thành Xơ-đôm tội lỗi. Thiên Chúa lắng nghe lời khẩn nguyện của người công chính.
Cl 2: 12-14
Đoạn trích Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô đề cập đến thành quả của Phép Rửa là đem lại cho chúng ta ơn tha thứ tội lỗi và sự sống đời đời, vì bí tích này được tháp nhập vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.
Lc 11: 1-13
Tin Mừng Lu-ca thuật lại giáo huấn của Chúa Giê-su về cầu nguyện: cầu nguyện chính là thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Đừng ngại quấy rầy Thiên Chúa, vì Người là Cha đầy lòng yêu thương và chúng ta là con cái của Người.
BÀI ĐỌC I (St 18: 20-32)
Chuyện tích Kinh Thánh nổi tiếng này tiếp nối chuyện tích Kinh Thánh tuần trước thuật lại việc ba nhân vật mầu nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham dưới cụm sồi Mam-rê, không xa thành Khép-rôn.
*1.Bối cảnh:
Bản văn ở đây nói rõ cho chúng ta biết rằng một trong ba vị khách là chính Đức Chúa. Đức Chúa đã thân hành đến trần gian không chỉ để báo tin vui cho ông Áp-ra-ham biết rằng vào độ này sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ một quý tử cho ông, nhưng còn có một mục đích khác nữa là trừng phạt hai thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra tội lỗi. Tuy nhiên, hai thành nầy ở cách xa cụm sồi Mam-rê, vì thế Đức Chúa sai hai người bạn đồng hành của Ngài đến hai thành đó trong khi Ngài còn đứng nán lại chuyện trò với ông Áp-ra-ham.
Tuy nhiên, Đức Chúa xem ra chưa quyết định dứt khoát: “Ta phải xuống xem thực sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết”, vì thế vẫn còn dành chỗ cho lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham là một con người quảng đại, thường hằng quan tâm đến những người khác. Ông đã cảm nghiệm tấm lòng từ bi nhân hậu của Đức Chúa. Ông cũng biết rằng ơn gọi của ông có tầm mức phổ quát: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3). Vì thế, ông thu hết cam đảm cầu bầu cho hai thành ngoại quốc đó.
*2.Vai trò cầu bầu của người công chính:
Tiến trình mặc cả của ông Áp-ra-ham với Đức Chúa mang tính chất rất Đông Phương, nhưng nó dâng hiến một chiều kích tinh thần với một cung giọng đặc biệt, nhất là nếu chúng ta nghĩ đến niên biểu rất cổ xưa của chuyện tích này (có thể vào thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, vào triều đại vua Sa-lô-môn). Chuyện tích này âm vang lời phản kháng đầu tiên chống lại khái niệm trừng phạt tập thể, khái niệm này dần dần nhường chỗ cho lời khẳng định về trách nhiệm cá nhân vào những thế kỷ sau này: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình” (Đnl 24: 16).
Ngoài ra, lời cầu bầu trên môi miệng của ông Áp-ra-ham khơi nguồn cảm hứng cho các ngôn sứ. Ông Áp-ra-ham không dám mặc cả với Đức Chúa xuống dưới con số mười người công chính: “Xin Chúa Thượng đừng giận, cho con nói một lần nữa thôi: giả như tìm được mười người thì sao?”. Rồi sẽ đến một ngày, viễn cảnh của ơn cứu độ được dự kiến đạt được nhờ chỉ một người công chính duy nhất, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo: “Hãy rảo quanh đường phố Giê-ru-sa-lem mà xem cho biết. Trên các quảng trường thành phố ấy, hãy tìm xem có gặp được một người, một người biết thi hành luật pháp, biết sống cho chân thật, Ta sẽ dung tha cả thành” (Gr 5: 1). Và chẳng bao lâu sau, một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ nhị, sẽ mô tả dung mạo Người Tôi Trung, nhờ nỗi thống khổ của chính bản thân mình “sẽ làm cho muôn người nên công chính” (I s 53: 11). Đức Ki-tô sẽ thực hiện những sấm ngôn này; Ngài sẽ là Người Công Chính thập toàn, vì thế lời cầu bầu của Ngài sẽ là độc nhất vô nhị và khôn sánh.
*3.Thiêu hủy thành Xơ-đôm:
Đoạn trích dẫn hôm nay không nói cho chúng ta biết phần tiếp theo, vì không gặp thấy mười người công chính ở thành Xơ-đôm nên thành Xơ-đôm cũng như thành Gô-mô-ra bị thiêu hủy. Chỉ ông Lót và gia đình ông thoát nạn nhờ hai sứ thần của Đức Chúa can thiệp. Tác giả đặt việc ông Lót và gia đình ông được cứu thoát trong mối liên hệ với lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham: “Khi Thiên Chúa phá hủy các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở” (St 19: 29).
BÀI ĐỌC II (Cl 2: 12-14)
Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô ngỏ lời với cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang hoang mang trước những đạo lý sai lạc làm lu mờ đi đức tin chính truyền và đặc biệt làm giảm thiểu vai trò cứu độ của Đức Ki-tô. Vì thế, sứ điệp cốt yếu của Thư này nhắm đến tính ưu việt của Đức Ki-tô và phẩm tính trung gian duy nhất của Ngài.
Bấy giờ, thánh Phao-lô khai mở cuộc bút chiến quyết liệt: “Hãy coi chừng chớ để ai gày bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Ki-tô” (Cl 2: 8). Trong số những đạo lý sai lạc mà Thư nêu lên là phép cắt bì và vai trò trung gian của ơn cứu độ được ban cho các thiên thần. Trong đoạn trích Thư hôm nay, thánh Phao-lô minh chứng sự cao vời khôn ví của Phép Rửa so với phép cắt bì, vì Phép Rửa là phép cắt bì trong tinh thần, nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
*1.Phép Rửa, chính là cùng chết và sống lại với Đức Ki-tô:
Vào thời kỳ Giáo Hội tiên khởi, Phép Rửa được thực hành qua việc dìm mình vào trong nước. Người chịu phép rửa, cởi bỏ quần áo, bước vào trong bể nước thanh tẩy; sau đó, bước ra khỏi bể nước trong bộ áo quần mới. Đây là nghi thức mai táng theo đó tội nhân cởi bỏ con người xác thịt, tức là con người tội lỗi của mình để được tái sinh trong một đời sống ân sủng và trở thành một tạo vật mới. Cũng thế, người chịu Phép Rửa được mai táng với Đức Ki-tô và chết cho con người tội lỗi để được sống lại với Ngài, được tinh tuyền, được ban ơn tha thứ mọi tội lỗi nhờ quyền năng của Chúa Cha; cũng với quyền năng này, Chúa Cha đã phục sinh Con của Người từ cõi chết.
Thần học về Phép Rửa này cũng đã được thánh Phao-lô diễn tả như vậy trong Thư gởi tín hữu Rô-ma: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống… Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6: 3-8). Tuy nhiên, chúng ta lưu ý đến nhịp điệu tăng dần trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê. Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thánh Phao-lô không còn đặt động từ “sống lại” ở thì tương lai như trong Thư gởi tín hữu Rô-ma, nhưng ở thì quá khứ: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được phục sinh với Ngài”; thậm chí thánh nhân còn khai triển xa hơn nữa trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô… Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 3: 5-6). Vị thế Đức Ki-tô ngự trị bên cạnh Chúa Cha đó cũng là vị thế của chúng ta rồi cho dù chúng ta hiện nay đang sống trên cõi thế.
*2.Đức tin:
Mặt khác, trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân nhấn mạnh sự tất yếu của đức tin, niềm tin vào Thiên Chúa phải là hàng đầu, vì Ngài là căn nguyên của ơn cứu độ: chính Thiên Chúa đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết, chính Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta và chính Thiên Chúa đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Quả thật, niềm tin vào Đức Ki-tô phát xuất từ niềm tin vào Chúa Cha này, vì chính nhờ thập giá mà ơn tha thứ và sự sống đến với chúng ta.
Hình ảnh sau cùng thánh Phao-lô dùng thật thấm thía. Nếu Phi-la-tô đã cho đóng một tấm bảng trên đỉnh thập giá để chỉ bản án, thì Thiên Chúa đã đóng đinh vào chính thập giá này “các giới luật”: phép cắt bì, những điều khoản giam hãm chúng ta trong vòng tội lỗi, như những lời thánh Phao-lô ngỏ với các tín hữu Rô-ma (Rm 4: 15; 7: 7-25). Như vậy, Phép Rửa là ơn giải thoát, cuộc tái sinh, sự sống đời đời, được khởi sự rồi ngay cả hiện nay chúng ta đang sống tại thế này, vì Đức Ki-tô đã cho chúng ta được liên đới với vận mệnh Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
TIN MỪNG (Lc 11: 1-13)
Khi Chúa Giê-su cầu nguyện chính là giờ phút Ngài gặp gỡ thân tình với Cha Ngài. Vì thế, việc Chúa Giê-su cầu nguyện nơi thanh vắng vào lúc sáng sớm tinh sương cũng như khi chiều hôm buông xuống là “chuyện hằng ngày”. Thánh Mát-thêu đặt giáo huấn này vào trong bối cảnh Diễn Từ Trên Núi, trong khi thánh Lu-ca đặt giáo huấn này ngay liền sau khi Ngài cầu nguyện xong. Chúng ta có thể nói, Chúa Giê-su dẫn đưa các môn đệ của Ngài vào trong chính lời cầu nguyện của Ngài; Ngài cho họ thân thưa với Thiên Chúa là “Cha” như Ngài.
*1.Kinh Lạy Cha (11: 2-4)
Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca ngắn hơn bản văn của thánh Mát-thêu. Trong khi Kinh Lạy Chúa của thánh Mát-thêu có đến bảy lời nguyện, thì Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca thiếu lời nguyện thứ ba và thứ bảy chỉ còn lại năm lời nguyện, tuy nhiên dù bảy hay năm, thì các lời nguyện đều làm thành một tổng thể trọn vẹn, ôm trọn đời sống con người đang bị phân cực giữa hạ giới và thiên giới, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết. Trong hai bản văn này, thật khó mà biết chính xác hình thức nào cổ xưa nhất; chắc chắn có hai truyền thống.
“Thưa Thầy, xin dạy cho chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Quả thật, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc thánh Gioan Tẩy Giả huấn luyện các môn đệ của ông về việc cầu nguyện cùng với đời sống khổ hạnh của thánh nhân: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay và cầu nguyện” (Lc 5: 33). Ở thánh Lu-ca, Chúa Giê-su bảo các môn đệ là khi cầu nguyện, anh em hãy nói “Lạy Cha”, còn thánh Mát-thêu thì viết: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (Mt 6: 9). Phải chăng thánh Lu-ca, vì ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc lương dân nên xem ra đã không muốn định vị Đấng Siêu Việt vào một nơi chốn nhất định nào?
Kinh Lạy Cha bao gồm hai phần: phần thứ nhất hướng về vinh quang của Thiên Chúa, phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta.
A-Hướng về vinh quang của Thiên Chúa
a- “Xin làm cho danh Cha vinh hiển”:
Theo văn hóa Do thái, “Danh” được áp dụng cho Thiên Chúa là một trong cách thức tránh gọi “tên” cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, hình thức thụ động của động từ: “Xin danh Cha được vinh hiển” là cách thức kinh điển để nói đến hành động của Thiên Chúa mà không phải chỉ ra chủ từ là Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su ngỏ lời trực tiếp với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12: 28), nghĩa là “xin Cha làm thế nào sự thánh thiện của Cha được nhận biết, được công bố, được hiển lộ”.
Cung giọng của lời khẩn cầu hoàn toàn là cung giọng Kinh Thánh. Nhiều bản văn Cựu Ước nêu lên sự thánh thiện của Thiên Chúa và mời gọi con người noi gương sự thánh thiện của Người: “Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta… Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi” (Lv 22: 32), hay “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19: 2). Chúa Giê-su cũng sẽ nói: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48). Vì thế, thay vì chúng ta nguyện xin Chúa Cha bày tỏ sự thánh thiện của Ngài, chúng ta phải có tấm lòng con thảo bằng góp phần vào sự bày tỏ này bằng đời sống thánh thiện của chúng ta.
- “Triều đại Cha mau đến”:
Triều đại này là triều đại mà thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3: 2). Đó cũng là triều đại mà Chúa Giê-su đích thân công bố: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1: 15). Đó không gì khác hơn là ý định cứu độ của Thiên Chúa trên nhân loại.
Ở đây lời khẩn nguyện vẫn còn thuộc Kinh Thánh. Chúng ta đọc thấy lời khẩn nguyện này tại I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đặt trên miệng của sứ giả loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52: 7). Tại các thánh vịnh gia, Đức Chúa ngự đến, xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người (Tv 96, 97, 98, vân vân).
Chúa Giê-su bảo chúng ta cầu xin cho triều đại Cha mau đến, không loại trừ rằng lời khẩn nguyện này nhắm đến việc Nước Trời ngự đến một cách vĩnh viễn. Đây là điểm nhấn ở nơi lời cầu nguyện của các Ki-tô hữu tiên khởi: “Marana Tha!”, nghĩa là “Lạy Ngài, xin hãy đến” (1Cr 16: 22; Kh 22: 20).
B-Liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta:
a- “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”:
Lời khẩn nguyện của Tin Mừng Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của Tin Mừng Mát-thêu. Lời khẩn nguyện của Lu-ca này cầu xin cho ngày nào có đủ lương thực ngày ấy; không được tích trử như Đức Chúa đã căn dặn đối với bánh man-na trong sa mạc: “Đừng có ai để dành cho đến sáng” (Xh 16: 19). Có lẽ rất nhạy bén trước tiếng kêu của người nghèo, thánh Lu-ca diễn tả ở nơi lời khẩn nguyện này nỗi xao xuyến của ngày mai: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”. Chúng ta lưu ý rằng lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ một hành động tái diễn hằng ngày, trong khi lời khẩn nguyện của thánh Lu-ca chỉ một hành động đúng thời đúng buổi.
Vấn đề được đặt ra ở đây: lời khẩn nguyện này nhắm đến lương thực vật chất hay lương thực tinh thần?
Có hai cách giải thích. Theo cách giải thích thứ nhất, lương thực mà chúng ta cầu xin ở đây nhằm cuộc sống hằng ngày; cách giải thích này được tăng cường bởi sự hiện diện của đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng con), nghĩa là lương thực của con người. Theo cách giải thích thứ hai, lương thực chúng ta cầu xin ở đây là lương thực thần thiêng nhắm đến Nước Trời; cách giải thích này được ủng hộ bởi văn mạch của phần thứ hai Kinh Lạy Cha, trong đó rõ ràng những lời khẩn nguyện đều thuộc lãnh vực tinh thần: “xin tha tội cho chúng con”, “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”; vì thế, lời khẩn cầu này chỉ nhằm lương thực vật chất thì thật khó hòa hợp với toàn bộ bản văn. Cuối cùng, về phương diện lịch sử, các Giáo Phụ đã giải thích lương thực mà chúng ta cầu xin Chúa ban cho hằng ngày là Thánh Thể.
b- “Xin tha tội cho chúng con…”:
Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ” (Lc 6: 36-38). Chính ở nơi thái độ này mà Ngài mời gọi chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
Điều kiện để xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chính là chúng ta phải tha thứ cho anh chị em mình: “Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Ở đây, lời khẩn nguyện này của thánh Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu. Cả hai thánh ký đều sử dụng hình ảnh pháp lý:“mắc nợ”, nhưng thánh Lu-ca dùng từ “mắc lỗi” để nhấn mạnh việc tha thứ cách tổng quát.
c- “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”:
Trong bản văn Mát-thêu, lời khẩn nguyện này không chỉ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, nhưng còn chỉ ra cho biết chước cám dỗ này từ đâu đến: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6: 13). Ở tại vườn Ô-liu, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22: 46). Thánh Lu-ca xác định rằng chính Xa-tan là tác giả của những chước cắm dỗ này: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31). Thánh Gia-cô-bê trong thư của ngài xem ra ám chỉ đến cách giải thích sai lạc về lời khẩn nguyện này của Kinh Lạy Cha: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ’, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu , và chính Người cũng không cám dỗ ai” (Gc 1: 13).
*2. ĐỪNG SỢ QUẤY RẦY THIÊN CHÚA (11: 5-13)
Tiếp liền theo sau lời dạy về Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su kể cho chúng ta dụ ngôn về người bạn quấy rầy để mời gọi chúng ta đừng sợ quấy rầy Thiên Chúa. Chắc chắn lời nguyện xin của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe và nhận lời. Còn lời nào có thể thuyết phục chúng ta siêng năng cầu nguyện với Thiên Chúa cho bằng những lời này: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”, có nghĩa “Anh em cứ xin, Thiên Chúa sẽ ban cho; cứ tìm, Người sẽ cho thấy; cứ gõ cửa, Người sẽ mở cho”, bởi vì Đấng mà chúng ta cầu xin là Cha chúng ta ở trên trời, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều thiện hảo nhất, đó là: “Thánh Thần”. Trong bản văn tương ứng, thánh Mát-thêu đơn giản nói về “những của tốt lành” mà Chúa Cha sẽ ban cho những ai cầu xin Người (Mt 7: 7-11), còn thánh Lu-ca thì kể ra “Thánh Thần”, mà thánh ký sẽ nêu bật nhiều lần tác động của Ngài trong Giáo Hội trong sách Công Vụ Tông Đồ. Thánh Phao-lô nói với các tín hữu Rô-ma về vai trò không thể thiếu của Thần Khí trong đời sống của mỗi người Ki-tô hữu: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhân Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8: 15) và “Thần khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8: 27).
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CẦU XIN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì gặp, ai gõ cửa thì sẽ được mở cho”. Chúa nói thế để khuyến khích chúng ta khi cần điều gì thì hãy cầu xin cùng Thiên Chúa một cách mạnh dạn, tin tưởng và kiên trì.
Trước hết chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng đáng dâng Thánh lễ này lên Chúa.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con đã không kính mến Chúa cho đủ.
– Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng ta đã nhiều lần lỗi đức bác ái với người khác.
– Xin Chúa tha thứ vì trong tuần vừa qua chúng con chưa chu toàn bổn phận của chúng con.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (St 18,20-32)
Vì dân thành Sôđôma phạm tội quá nhiều, Thiên Chúa cho Abraham biết Ngài sẽ cho lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành này. Abraham đã mặc cả với Chúa rằng nếu trong thành có một số người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, và Abraham đã hạ dần con số những người công chính : từ 50 xuống 45, rồi 40, 30, 20 và 10. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở đó, không dám xuống nữa.
Câu chuyện cho ta thấy 2 điều quan trọng : a/ Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi ; b/ Thiên Chúa sẵn sàng nghe lời cầu xin của con người.
*2. Đáp ca (Tv 137)
Ca tụng Thiên Chúa đã nghe lời cầu xin của con người.
*3. Tin Mừng (Lc 11,1-13)
Chúa Giêsu dạy về cầu nguyện :
*A. Nội dung phải cầu nguyện : Kinh Lạy Cha : Thời Chúa Giêsu, mỗi nhóm tín ngưỡng có một bài kinh riêng, đặc trưng của nhóm mình. Bài kinh mà Chúa Giêsu sắp dạy cũng là đặc trưng của Kitô giáo. Nét đặc trưng rõ nhất được thấy trong một từ chìa khoá lắp đi lặp lại rất nhiều lần, từ “Cha” : kitô hữu được làm con Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha.
Vì là một bài kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được nói trong đó đều là những điều then chốt nhất. Nói cách khác, những lời xin trong bài kinh này cho ta biết những điều mà kitô hữu cần quan tâm nhất là gì :
*a/ Đối với Chúa : sao cho người ta được biết Chúa (“Xin làm cho danh Cha vinh hiển”) ; sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa (“triều đại Cha mau đến”)
*b/ Đối với chính bản thân mình : có lương thực hằng ngày, được Cha tha thứ và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đừng sa chước cám dỗ.
*B. Thái độ khi cầu nguyện : Phải kiên trì
Để minh họa cho thái độ kiên trì, Chúa Giêsu đưa dụ ngôn về “người bạn quấy rầy”
– “Quấy rầy” vì đến gõ cửa ban đêm để vay bánh : việc này khiến chủ nhà bị mất ngủ. Và nếu chủ nhà thức dậy thắp đèn lên, rồi lấy bánh, rồi mở cửa, rồi nói chuyện… thì sẽ làm cho vợ con của ông cũng mất ngủ luôn. Bởi thế, chủ nhà đã nói vọng ra lời từ chối. Nhưng người bên ngoài cứ vừa gõ cửa vừa kêu mãi.
– Nhưng người đứng bên ngoài ấy lại là một “người bạn”. Bạn bè thì phải thương yêu nhau và tương thân tương trợ nhau, nhất là trong những khi gặp khó như trường hợp này.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do : cho để khỏi bị quấy rầy nữa ; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Sau khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi) : người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
*4. Bài đọc II (Cl 2,12-14) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô giải thích những hiệu quả của bí tích Rửa tội :
– Giúp chúng ta chết đi cho con người cũ yếu hèn để sống lại thành con người mới kết hợp với Đức Kitô.
– Tha thứ mọi tội lỗi trước đây của chúng ta.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Lời cầu xin của Abraham
Lời cầu xin của Abraham có nhiều điểm hay đáng chúng ta bắt chước :
– Ông không cầu xin cho bản thân mình, mà cho người khác, những người không phải là bà con hay bạn bè thân thích gì của ông cả.
– Ông không cầu xin cho những người đạo đức công chính, mà xin cho những người tội lỗi.
– Ông đã nại vào lòng thương xót của Chúa và vào “uy tín” của một số người công chính.
Nhưng có một điểm mà Abraham chưa làm gương cho chúng ta được. Đó là xem ra ông chưa tin tưởng hoàn toàn vào Chúa cho nên đã dừng lại ở con số 10 người công chính chứ không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót vô biên của Chúa.
* 2. Xin, tìm và gõ
Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Nghĩa là đức tin của chúng ta phải là một hành động tích cực chứ không phải là một thái độ thụ động chỉ biết đợi chờ.
Tuy nhiên lắm khi vì tự phụ mà chúng ta không xin, nên chúng ta không nhận được ; lắm khi vì chúng ta lười biếng mà không tìm, nên chúng ta không gặp ; lắm khi vì chúng ta nhút nhát mà không gõ cửa nên không được mở cho.
Đừng thụ động ngồi chờ ơn Chúa như những quả sung từ trời rụng xuống. Hãy khiêm tốn, siêng năng và bạo dạn mà xin, mà tìm và gõ cửa. Nếu điều đó tốt cho chúng ta thì chắc chắn Thiên Chúa là Cha nhân hậu sẽ ban cho chúng ta.
* 3. Tại sao phải cầu xin cách kiên trì ?
Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúøng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* 4. Và chúa nói không
– Tôi xin Người lấy niềm kiêu hãnh của tôi đi. Và Người nói “không”. Người nói việc lấy đi không phải do Người mà là tôi phải từ bỏ nó.
– Tôi xin Người làm cho đứa bé tật nguyền của tôi được lành lặn. Và Người nói không. Người nói tinh thần của tôi mới là tất cả, còn thể xác chỉ là nhất thời thôi.
– Tôi xin Người ban cho tôi sự kiên nhẫn. Và Người nói không. Người nói kiên nhẫn là một phó sản của nỗi gian nan khổ cực, không ban được mà phải tự kếm lấy.
– Tôi xin Người ban cho tôi hạnh phúc. Và Người nói không. Người nói Người ban cho tôi những lời chúc lành, hạnh phúc tuỳ thuộc nơi tôi.
– Tôi xin Người vứt bỏ nỗi đớn đau. Và Người nói không. Người nói khổ đau sẽ đưa con ra khỏi những lo toan trần thế và đưa con lại gần Ta hơn.
– Tôi xin Người làm cho tinh thần tôi phát triển. Và Người nói không. Người nói sẽ cho tôi sự sống để tôi vui hưởng tất cả mọi thứ.
– Tôi xin Người giúp tôi yêu thương những người khác nhiều như Người yêu tôi. Và Người nói : À, cuối cùng thì con cũng có một ý tưởng hay. (Tài liệu nước ngoài. Hải Lý dịch. Đăng trong tuần báo CgvDt, số 1147, ngày 1.3.1998)
* 5. Xin điều này được điều khác
Tôi xin Chúa cho tôi sức khoẻ để tôi có thể làm được những việc lớn lao – Ngài lại ban cho tôi sự yếu đuối để tôi làm mọi việc cách tốt hơn.
Tôi xin Chúa cho tôi giàu sang để tôi có thể sống hạnh phúc hơn – Ngài lại ban cho tôi sự nghèo nàn để tôi sống khôn ngoan hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi quyền lực để được người đời xưng tụng – Ngài lại ban cho tôi sự mọn hèn để tôi ý thức cần đến Ngài hơn.
Tôi xin Chúa ban cho tôi mọi sự, nhờ đó tôi tận hưởng thú vui cuộc sống – Ngài lại ban cho tôi cuộc sống để nhờ đó tôi tận hưởng mọi sự.
Tuy tôi chẳng được tất cả những điều tôi xin, nhưng lại nhận được mọi thứ tôi cần. (Anon)
*6. Chuyện minh họa
a/ Kiên trì
Một người đưa tin đến một lâu đài cũ kỹ và anh lấy búa gõ cửa. Không ai trả lời. Anh lại gõ và chỉ có tiếng vang dội lại. Nhưng anh biết có người trong nhà, anh nhìn thấy họ qua cửa sổ. Giận sôi lên, anh cầm búa và lấy hết sức giáng mạnh vào cửa hai ba chục lần.
Một khuôn mặt cau có ngó qua lỗ then cửa và lịch sự hỏi xem người khách muốn vào không.
Vị khách nói như mê sảng : “Này ông, tôi vào được không ? Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi ?”.
– Ồ, ông biết đấy : Có nhiều trẻ ở xung quanh đến đây, chúng gõ cửa một vài lần rồi bỏ chạy, nên chúng tôi biết là không cần để ý đến chúng. Nhưng khi nghe ông gõ cửa, tôi thực sự thấy ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa.
b/ Khiêm tốn
Ngày kia, thánh Clément Hofbauer đi xin đồ viện trợ cho các cô nhi. Ngài vào một quán ăn, có ba người đang đánh bạc, xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Một người chửi bới, rồi nhổ vào mặt ngài.
Thánh nhân lặng lẽ rút khăn tay lau mặt và nhẹ nhàng nói : “Đó là phần ông cho tôi. Còn phần cho các cô nhi của tôi đâu ?”
Tay cờ bạc kinh ngạc đến thẹn thùng, rồi dốc túi đưa hết cho ngài.
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, cầu nguyện là hơi thở, là sức sống, là linh hồn của đời sống người Kitô hữu. Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết cầu nguyện như Chúa đã dạy :
- Hội thánh luôn khuyên nhủ con cái mình siêng năng cầu nguyện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết chăm chỉ lắng nghe / và cố gắng thực hiện lời mời gọi tha thiết của Hội thánh / trong đời sống đức tin thường ngày.
- Ngày nay / có một số Kitô hữu / đặc biệt là các Kitô hữu trẻ / cho rằng cầu nguyện không còn cần thiết nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu hiểu rằng / cầu nguyện cần thiết cho đời sống đức tin / như dầu cần cho đèn.
- Cầu nguyện trong gia đình rất quan trọng cho cuộc sống đức tin của người tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết mọi gia đình Công giáo / biết trung thành đọc kinh tối sáng mỗi ngày.
- Chúa Giêsu dạy ta kinh Lạy Cha để cầu nguyện cùng Chúa Cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / vừa đọc vừa suy niệm / và sống theo tinh thần của lời kinh nguyện tuyệt vời này.
Chủ tế : Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn cảm tạChúa là Đấng đã dựng nên chúng con và gìn giữ chúng con khỏi mọi sự dữ trong cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CẦU NGUYỆN CÙNG CHA TRÊN TRỜI- Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Chỉ xét trên bình diện con người với nhau, chúng ta thấy các chuyện như thỉnh cầu, thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… là chuyện thông thường. Đối với Thiên Chúa. Đấng mà từ xưa dân Do thái đã có liên hệ mật thiết với Ngài – Và khi Đức Kitô giáng thế khởi đầu “dân mới” thì những điều Ngài thực hiện giữa loài người đã trở nên cụ thể và hiển nhiên với biết bao con người. Có một lời kinh đã đáp lại lời thỉnh cầu của các tông đồ.
Theo lời thỉnh cầu của một Tông đồ, Đức Giêsu đã dạy các ông một lời kinh tuyệt vời mà ta gọi là kinh Lạy Cha. Đây là một kinh nguyện khuôn mẫu của lời cầu nguyện cùng Cha trên trời. Với lời cầu nguyện này, chắc chắn những ước nguyện của chúng ta sẽ được Cha trên trời chấp nhận :”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho”. Lời thỉnh nguyện của ông Abraham dâng lên Thiên Chúa để xin tha thứ cho dân thành Sôđôma và Gômôra đã chứng tỏ điều đó (bài đọc 1).
Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay, còn dạy chúng ta phải có thái độ kiên trì trong khi cầu nguyện với dụ ngôn “người bạn bị quấy rầy”. Ngoài ra, Ngài cũng dạy chúng ta phải lấy tình con thảo mà cầu nguyện với Cha trên trời là Người Cha vô cùng nhân ái. Nếu người cha trần thế chẳng tốt lành gì mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, huống chi Cha trên trời lại không đáp ứng cho con cái Ngài những điều tốt lành sao ? Hơn nữa, Ngài còn ban cho con người một điều vô cùng tốt lành nữa, đó là ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
*B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : St 18,20-32.
Thiên Chúa cho ông Abraham biết dân thành Sôđôma và Gômôra phạm tội quá nhiều, Ngài định sai lửa trên trời thiêu rụi thành này. Ông Abraham đứng làm trung gian xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành này vì sự hiện diện của một số người công chính. Ông biết Thiên Chúa rất yêu thương : yêu thương chính ông và yêu thương con người.
Vì thế ông dám “mặc cả”û với Thiên Chúa, từ con số 50 đến con số 10. Mỗi lần mặc cả của ông là mỗi lần tỏ ra rằng Chúa chỉ muốn cứu vớt hơn là trừng phạt. Qua câu chuyện này chúng ta rút ra được hai điều quan trọng :
- a) Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi.
- b) Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người, nhất là qua trung gian của các thánh.
+ Bài đọc 2 : Cl 2,12-14.
Có những người cứ muốn cho tín hữu Côrintô tuân thủ các lề luật Đạo cũ. Thánh Phaolô nhắc lại cho họ biết rằng phép rửa tội trong Đức Kitô đã làm cho họ phục sinh, làm cho họ khỏi chết vì tội. Như vậy, qua phép Thánh Tẩy một Kitô hữu chết cho các tội lỗi trước đây, và bắt đầu sống một đời sống mới.
Còn Đức Giêsu, bằng cái chết trên thập giá, đã trở thành vị Trung gian duy nhất đưa lại ơn tha thứ của Thiên Chúa cho chúng ta.
+ Bài Tin mừng : Lc 11,1-13.
Abraham đã tin tưởng chuyển cầu cho người tội lỗi vì ông biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nhưng ông không dám đi xa hơn mức. Còn Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha, và khuyến khích chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào Cha, với niềm tín thác của một trẻ thơ khi có những nhu cầu về tâm linh cũng như trần thế.
Kinh Lạy Cha của Luca trong bài Tin mừng hôm nay khác với kinh Lạy Cha của Matthêu (6,9-13) : điều đó cho chúng ta biết khi cầu nguyện, điều quan trọng không phải là hình thức, nhưng quan trọng là nội dung : trước hết, xin cho Nước Cha trị đến, sau đến những nhu cầu của con người; và xin thì sẽ được nhận lời vì Cha trên trời không nỡ từ chối.
*C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lạy Cha chúng con ở trên trời.
*I. KINH LẠY CHA CỦA CHÚNG TA.
*1. Cơ hội đưa đến Kinh Lạy Cha.
Các môn đệ ở gần Đức Giêsu, thấy Ngài cầu nguyện nhiều, cầu nguyện lâu giờ, nhất là trước những biến cố trọng đại. Ngài là bậc Thầy của sự cầu nguyện. Các môn đệ đã được chứng kiến tận mắt những lần Ngài cầu nguyện, không những bằng mắt thấy mà còn bằng tai nghe. Vào thời đó, cầu nguyện, theo tiếng Do thái, có nghĩa là “kêu lên”, và như vậy các môn đệ đã nghe tiếng Đức Giêsu cầu nguyện.
Cha George viết :”Các môn đệ phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho một ý tưởng cầu nguyện riêng. Đức Giêsu đã muốn người ta nghe Ngài cầu nguyện, Ngài muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Ngài”(Cahiers-Évangiles”, số 5, tr 43).
Thời Đức Giêsu có nhiều nhóm tu đạo khác nhau do hình thức hay kinh kệ của họ, trong trường hợp ở đây, chúng ta có nhóm Gioan Tẩy giả. Cách cầu nguyện riêng của mỗi nhóm diễn tả mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa là mối dây hiệp nhất của nhóm.
Hôm nay, một môn đệ được ảnh hưởng do việc Đức Giêsu cầu nguyện và vì thấy Gioan Tẩy Giả đã dạy các đệ tử của ông cầu nguyện, nên đã xin Ngài dạy về sự cầu nguyện :”Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.
*2. Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha.
a) Hoàn cảnh của kinh Lạy Cha.
Đức Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, nhưng chúng ta không biết rõ ở nơi nào. Thánh Matthêu đặt kinh Lạy Cha trong bài giảng trên núi. Đây chắc là do sự sắp xếp lại để dạy giáo lý cho Kitô hữu. Thánh Luca nói một cách trống : Ngày kia.
Thánh Luca đặt kinh Lạy Cha này sau câu chuyện xẩy ra ở Bêtania. Như vậy, ta có thể biết được rằng kinh Lạy Cha này Chúa dạy ở chung quanh Giêrusalem, không xa Bêtania, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem lần thứ nhất.
Kinh Lạy Cha được lưu truyền từ thế kỷ thứ 9 rằng Chúa dạy trên núi Cây Dầu đối diện với Giêrusalem theo như những điều kiện kể trên kia có lẽ đúng.
So sánh hai kinh Lạy Cha của Matthêu và Luca, ta thấy kinh Lạy Cha của thánh Matthêu dài hơn kinh Lạy Cha của thánh Luca. Trong thánh Luca không có lời nguyện :”Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” và không có lời xin :”Xin cứu chúng con khỏi sự dữ”. Kinh Lạy Cha của thánh Luca tuy ngắn hơn, nhưng cũng đầy đủ ý nghĩa không thiếu gì. “Vâng ý Cha” gồm trong lời nguyện “Nước Cha trị đến”, và “Cứu chúng con cho khỏi sự dữ” gồm trong lời cầu :”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
b) Nội dung kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha gồm hai phần với 5 lời xin :
* Phần I : hướng về Chúa với hai lời cầu :
– Xin cho danh Cha cả sáng.
– Nước Cha trị đến.
* Phần II : hướng về lợi ích của chúng ta với 3 lời cầu :
– Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.
– Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
– Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.
Kinh Lạy Cha là kinh khuôn mẫu Chúa dạy chúng ta hãy dùng mà cầu nguyện. Theo đó, nội dụng sự cầu nguyện có ba phần : Phần thứ nhất là những lời Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời cầu xin đích thực.
*II. CẦU NGUYỆN VÀ KINH LẠY CHA.
*1. Cầu nguyện là điều cần thiết.
* Cầu nguyện nơi các tôn giáo.
Mọi tôn giáo đều có sự cầu nguyện, nhưng hình thức thì khác nhau, rất đa dạng. Mỗi tôn giáo đều có hình thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy giả hình như cũng có cho các người theo ông. Chính vì vậy, các môn đệ của Đức Giêsu cũng muốn cho mình phải có một hình thức cầu nguyện riêng của mình nên mới thưa với Ngài :”Xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một công thức kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Luca ghi lại có ngắn hơn của Matthêu nhưng cũng chứa đủ những điều cần biết để cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.
* Chúa dạy chúng ta cầu nguyện.
Trong sách Tin mừng, rất nhiều lần Đức Giêsu đã truyền cho chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện liên, ví dụ :”Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. Trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài cũng khuyên bảo chúng ta hãy cầu nguyện và cầu xin cùng Cha trên trời :”Hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho”(Lc 11,10).
Ngày xưa, có người đặt vấn đề với thánh Augustinô:”Nếu Thiên Chúa biết những nhu cầu của chúng ta trước cả khi chúng ta xin, thì tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện” ? Ngài đã trả lời :”Bởi vì Đức Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện”. Có lẽ không có câu trả lời nào hay hơn câu trả lời này.
* Một vấn nạn cho việc cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời này, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thứùc : cầu nguyện là đào nhiệm : đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào ?
Ông Blaise Pascal, nhà toán học nổi tiếng vào thế kỷ 17 đã nói về vấn đề ấy :”Cầu nguyện là một trong những phương cách Chúa chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài với chúng ta. Giống như ơn hiểu biết của Chúa đã ban quyền năng cho mỗi người chúng ta thế nào thì lời cầu nguyện cũng ban quyền năng cho mỗi người chúng ta như thế. Nói cách khác, Chúa đã sắp xếp vũ trụ theo một cách thức mà chúng ta có thể gây được ảnh hưởng trên vũ trụ không phải chỉ bằng việc sử dụng trí thông minh của mình mà còn bằng việc sử dụng cả sức mạnh do lời cầu nguyện của mình nữa.
Không phải ai cũng có thể gây ảnh hưởng đến đời sống con người bằng quyền năng của trí thông minh mình, nhưng trái lại dù ngu dốt mấy đi nữa, ai cũng có thể ảnh hưởng đến đời sống con người bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, sức mạnh do chính Chúa chia sẻ cho chúng ta.
Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chúng ta làm khán giả đứng ngắm nhìn quyền năng tạo dựng của Ngài, mà trái lại Ngài cho chúng ta thông phần vào quyền năng tạo dựng ấy. Đây chính là một phần ý nghĩa của câu “Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”.
*2. Hiệu lực của việc cầu nguyện.
Trong bài đọc thứ nhất (St 18,20-32) chúng ta nghe một câu chuyện thật hấp dẫn về sự tin tưởng của Abraham vào lòng tốt lành và nhân từ của Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không dung tha hình phạt cho hai thành Sôđôma và Gomôra nếu có 50 người công chính trong thành sao ? Thiên Chúa trả lời :”Tha chứ” ! Nếu chỉ có 45 thì sao ? Hay 30 ? hay 10 thì sao ? Thiên Chúa cũng vẫn đồng ý tha thứ. Thật đáng tiếc, vì 10 người vô tội thôi vẫn không thể tìm thấy, mà chỉ có 4 người là ông Lót, vợ ông, và hai người con gái. Thiên Chúa đã giữ lời hứa với Abraham vì ông tin tưởng nơi Ngài mà cứu 4 người khỏi bị tiêu diệt. Nếu chúng ta đặït tất cả sự tin tưởng ở Thiên Chúa, lòng bao dung của Ngài sẽ ban cho chúng ta rộng rãi hơn là điều chúng ta nghĩ tưởng.
Xưa kia thánh Gioan Vianney đã nói :”Tôi biết có một quyền lực nào đó còn mạnh hơn cả Thiên Chúa; một người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa phải nói “Yes”, khi Ngài đã nói “No”.
Và thánh Gioan Chrysostômô đã nói về sức mạnh của sự cầu nguyện bằng những từ này :”Thiên Chúa điều khiển thế giới, nhưng cầu nguyện điều khiển Thiên Chúa”.
*3. Cầu nguyện và khoa học.
Sự cầu nguyện cũng có ảnh hưởng tới khoa học. Sức mạnh của lời cầu nguyện cũng đang được khoa học hiện đại kiểm nghiệm qua những hiệu quả lạ lùng. Bác sĩ Alexis Carrel (18173-1944), người đoạt giải Nobel về y khoa năm 1912 đã viết trong cuốn sách nhan đề “Man, the Unknown” như sau :
“Cầu nguyện là hình thức mạnh mẽ nhất của nghị lực mà chúng ta có thể phát sinh ra được. Ảnh hưởng của sự cầu nguyện trên thân thể và tâm trí giống như những tuyến hạch nằm kín đáo trong cơ thể tạo nên sức mạnh đề kháng. Chỉ trong sự cầu nguyện, chúng ta có được sự hiệp nhất thật hoàn hảo và nhịp nhàng giữa thân xác, tâm trí và tinh thần. Nó làm cho thân phận cỏ cây yếu đuối của con người trở thành một sức mạnh không thể lay chuyển được”.
Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức Tin sau khi được giải phẫu tim. Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thống miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường. (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 261)
*III. THÁI ĐỘ KHI CẦU NGUYỆN.
*1. Phải kiên trì.
Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta : khi cầu nguyện phải biết kiên trì, và để minh hoạ cho thái độ đó, Ngài đưa ra một dụ ngôn về “Người bạn bị quấy rầy”. Nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nì đến độ sỗ sàng, để giúp đỡ, người bạn khác ở xa mới đến.
Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do : cho để khỏi bị quấy rầy nữa, hoặc là vì tình bạn… Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu lý luận theo kiểu a fortiori (huống chi) : người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua thái độ kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.
Có người thắc mắc hỏi :”Thiên Chúa đã biết tất cả mọi sự ngay trước khi chúng ta cầu xin, tại sao Đức Giêsu còn nhắc bảo chúng ta :”Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ” ? Ba động từ như ba lệnh truyền lặp đi lặp lại. Đành rằng Chúa thông biết mọi sự, cần gì phải xin, phải tìm, phải gõ ? Thánh Augustinô giải thích “Hãy xin, Ngài sẽ cho. Những điều Ngài cho, Ngài chưa cho ngay để càng làm tăng thêm ước muốn của chúng ta và làm tăng giá trị cho của Ngài ban cho”.
Tiếp theo lời giải thích của thánh Augustinô, chúng ta có thể lý luận thêm :
Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Ngài sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái (Carôlô).
Một hôm thánh Phanxicô Salêsiô nói :”Nếu một em bé thấy con chó dữ đàng xa, hung hăng nhào tới em thì em bé sẽ làm gì? Chạy trốn ư ? Không thể được vì em chưa đủ sức. Vậy em phải làm sao ? Chỉ còn một cách là em la lên thật to cầøu cứu cha mẹ. Và cha mẹ em sẽ chạy đến để bênh vực em và cứu sống em”.
Em bé đó chính là hình ảnh mỗi người chúng ta với sức riêng yếu đuối không thể tự mình bước tới được một bước trên con đường cứu rỗi. Và con chó đó chính là ba địch thù lợi hại của con người : ma quỉ, thế gian và xác thịt. Phải làm gì đây ? Phải kêu cứu, phải cầu nguyện với Chúa, nếu không, đời ta sẽ gặp nguy khốn.
Phải cầu nguyện, nhưng phải cầu nguyện thế nào để đạt hiệu quả tối ưu ? Ta hãy nghe thánh Phanxicô Salêsiô trả lời tiếp :”Con ruồi đậu trên đoá hoa này liền vội vãø bay sang đoá hoa khác, luôn hay thay đổi, còn con ong mật thì lặng lẽ hoạt động, dừng lâu, hút cạn nhụy hoa rồi đem về tổ làm thành mật ngon ngọt. Không nên có thứ Kitô hữu-ruồi, mà phải là Kitô hữu-ong mật, nghĩa là phải kiên trì cầu nguyện”.
*2. Cầu nguyện trong tình nghĩa cha con.
Dân Do thái đã gọi Thiên Chúa là “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Osée 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16 ; Khôn ngoan 5,5vv..)
Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Ngài dám thưa cùng Thiên Chúa :”Abba, Cha ơi”… từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Ngài ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định Ngài là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu”, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Con Một của Ngài” (Quesson).
Cha Jean-Luc Vesco nói thêm :”Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha.Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô:”Lạy Cha” (Ga 4,6; Rm 8,15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”(Jérusalem et son prophète, Cerf, tr 72).
Trong khi cầu nguyện, chúng ta hãy mang lấy tâm tình của Đức Giêsu đối với Cha Ngài, chúng ta hãy lấy tư cách của người con nói chuyện với cha. Cha trên trời luôn luôn là người Cha thương yêu của chúng ta, Ngài thích chúng ta nói chuyện với Ngài trong tư cách của một người con. Ngài sẽ lấy làm vinh dự khi chúng ta kêu Ngài bằng “Abba, Cha ơi”.
Tướng Marc Arthur nói lên tâm sự của ông là một người cha :”Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc kinh nguyện đơn sơ hằng ngày : Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…. Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Hôm nay Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và trong tinh thần con thảo. Cầu nguyện ! Đó là một từ ngữ của đức tin. Một Kitô hữu mà không cầu nguyện thì còn nghĩa gì nữa .Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng, cầu nguyện cũng là một thử thách.
Ngày nay có người cho việc cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay, hẵy xắn tay áo lên. Cầu nguyện là một ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên… Cầu nguyện là một sự tha hoá; hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… hãy gạt bỏ những điều mê tín.
Trái ngược với khẳng định của một số người, bác sĩ Alexis Carrel, trong cuốn sách nhan đề“Man, The Unknown” đã không tiếc lới ca tụng giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Ông nói :”Cầu nguyện là một hành vi sáng suốt của con người”. Theo bác sĩ, cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi cái chức năng “con người thụ tạo” con người của ta với Đấng Sáng Tạo Tối cao, tức là Thiên Chúa.
Truyện : Một đứa bé cầu nguyện.
Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quỳ gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành bệnh”. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu. Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không” ? Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói :”Cháu hãy để cho Chúa liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm : cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ” (Mỗi ngày một tin vui”.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
LẠY CHA CHÚNG CON– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
*1. Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.
Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
*2. Mọi người là anh em
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?
2- Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY CẦU NGUYỆN- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu cầu nguyện với Cha Người, các ông cảm thấy thèm khát vô cùng tình Cha Con lạ lùng cao cả mà Thầy đang được hưởng: Sự kết hợp của Cha Con duy nhất nên một, Cha toàn năng vinh hiển, cực thánh, cực nhân, thượng trí, khôn ngoan vô cùng, thì con cầu nguyện cùng Cha cùng được hiệp thông với Cha như thế. Con cầu nguyện với Cha bằng ngôn ngữ linh thánh huyền diệu chan chứa yêu thương thảo mến, chất đầy tình con chí hiếu, hiến dâng trọn vẹn cuộc đời Con cho sứ mệnh cứu thế mà Cha đã se định.
Lời nguyện từ miệng Con thốt ra có sức mạnh lạ lùng làm cho các môn đệ rung cảm mãnh liệt, khiến các ông tha thiết đến xin Thầy dạy cầu nguyện và Thầy đã dậy: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, …”
Kinh Lạy Cha có một hình thức giáo dục tuyệt đẹp, và một nội dung chân lý vô cùng phong phú.
Về hình thức: Kinh Lạy Cha, mở đầu bằng lời chào rất thân yêu kính mến. Ngày nay, trong các hội nghị, chúng ta thường thấy các đại biểu bắt chước mở đầu bài phát biểu của mình bằng một lời chào nồng nhiệt, và toàn thể hội nghị đều vỗ tay phấn khởi. Tiếp đến phần chính trong kinh Lạy Cha là phần thưa chuyện gồm hai vấn đề. Vấn đề trước: thưa ba điều về Cha. Vấn đề sau: thưa bốn điều về con. Thưa về Cha trước là tỏ ra con luôn luôn quan tâm đến Cha, tỏ lòng hiếu thảo, kính trọng, yêu mến Cha hơn con. Sau mới thưa đến việc con là tỏ lòng khiêm tốn, xả kỷ, quên mình.
Người lịch sự, lễ phép, khiêm tốn và có giáo dục, khi viết thơ hay tiếp chuyện bao giờ cũng tỏ ra biết để ý đề cập đến việc người trước việc mình. Kẻ vô tâm, thất lễ, ích kỷ, kiêu căng chỉ biết nghĩ đến mình, nói về mình, lo cho mình trước người.
Qua kinh Lạy
Cha, Đức Giêsu đã giáo dục nhân loại từ hai nghìn năm nay, biết đi vào con đường lễ phép, khiêm tốn, nhân từ tuyệt vời đó.
Về nội dung: Kinh Lạy Cha chất đầy những vấn đề vô cùng phong phú và quan trọng.
Chỉ suy niệm về lời chào “Lạy Cha chúng con ở trên trời” đã làm cho các ông cảm động run lên vì sung sướng. Các ông lấy làm vinh hạnh vô cùng và được gọi Cha Đức Giêsu là cha mình. Các ông được Chúa cho thông quyền nghĩa tử của người. Ôi! Hạnh phúc biết bao, từ nay các ông được sống bằng sức sống thần linh của Chúa Con, được quyền rao giảng Tin Mừng, được quyền tha tội, trừ quỷ, chữa lành bệnh nhân cả hồn xác, được quyền ban sự sống, ơn thánh và tình yêu chí thánh của Chúa Thánh Thần. Sau các môn đệ, còn biết bao nhiêu người cũng được diễm phúc cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha như vậy.
“Một bà già quê mùa được thưa chuyện với Chúa trời đất cao sang vô cùng bằng lời chào: Lạy Cha, làm bà nhiều lần xúc động khóc nức nở. Một hôm Đức Giám Mục hỏi bà:
– Bà nổi tiếng cầu nguyện gương mẫu nhất làng, vậy bà thường suy gẫm sách đạo đức nào nhất?
– Thưa Đức Cha, con không biết đọc.
– Vậy bà cầu nguyện thế nào?
– Thưa Đức Cha, con chỉ biết cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Tin Kính. Mỗi ngày con bắt đầu đến mười lần, nhưng thường con chỉ đọc một câu: “Lạy Cha chúng con” thì con cảm thấy Chúa tốt lành vô cùng đến nỗi cho một bà già khốn nạn như con được gọi Ngài là Cha. Con nghĩ thế rồi con khóc, không thể đọc tiếp được nữa.
Đức Cha ngạc nhiên nói với bà: “Chỉ một lời nguyện đó của bà có giá trị bằng tất cả những lời nguyện của chúng tôi rồi đó” (Sống, tr. 294)
Quả thực, chỉ một lời chào, “Lạy Cha chúng con” đã làm cho biết bao tâm hồn được Chúa Thánh Thần soi sáng cho cảm thấy được hưởng những ơn thiêng lạ lùng, khiến lòng tin mến họ dạt dào đến thổn thức suốt đời.
“Lạy Cha” tiếng chào mừng vô vàn tôn kính mến yêu, tiếng cầu khẩn đầy tin tưởng cậy trông của những người con chí hiếu chí ái.
Phải tôn thờ Cha vì Cha là Đấng sáng tạo mọi sự, muôn loài sống, sinh sôi nảy nở, phát triển, tồn tại đều bởi Cha ban.
Phải trìu mến Cha vì Cha ban cho mọi sự đều tốt đẹp: Hoa cỏ đồng nội, chim trời, cá biển, muôn vàn tinh tú, muôn dân các nước từ văn minh đến mọi rợ đều đầy vẻ xinh tươi, duyên dáng, hào hùng, không một vườn bông nào, một sở thú nào, một triển lãm nào, một hội chợ nào sánh kịp với những kỳ công của Cha.
Phải cầu khẩn Cha vì “mọi sự của Cha là của Con, mọi sự Cha ban cho Con, Con lại ban cho chúng để chúng được sống đời đời và nhận biết Cha đang gìn giữ chúng khỏi sự dữ. Phải tin tưởng Cha, vì Cha đã thánh hóa chúng trong sự thật, ban cho chúng vinh quang mà Cha đã ban cho con. Cha đã yêu mến chúng để chúng yêu thương nhau, hợp nhất nên một như Cha Con ta là một, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, để Con ở đâu chúng ở đó để được chiêm ngưởng vinh quang Cha” (Ga 17…)
“Lạy Cha” phải là tiếng kêu đầu tiên và sau cùng trên mọi môi miệng, mọi con tim khối óc và toàn diện con người chúng ta để chúng ta được sống tốt lành, được chết êm ái và được sống lại vinh hiển với Cha trên trời.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CẦU XIN– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúng ta không thể quán xuyến mọi sự trong tầm tay vì còn có nhiều nguyên nhân tùy thuộc. Có ba điều cần để thành công trong mọi công việc là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Con người sống chung thì trăm người, trăm ý. Môi trường chung quanh thì thay đổi như mây bay gió thổi. Chỉ có một điều là chúng ta thuận theo ý trời. Chúng ta sẽ sống vui vẻ và hạnh phúc. Trong hạnh các Giáo phụ có kể lại: Một người nông dân hạnh phúc hơn bạn bè xóm làng. Được hỏi lý do tại sao, ông ta trả lời: Các ông đừng ngạc nhiên. Chính vì tôi luôn được thời tiết theo lòng tôi ước muốn. Người kia đáp lại: Không thể được. Người nông dân đáp: Không bao giờ tôi ước muốn thời tiết khác thời tiết Thiên Chúa gởi cho. Vì thế, Chúa luôn ban cho tôi mùa màng như lòng tôi ước nguyện.
Câu truyện của ông Abraham cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho dân thành Sôđôm và Gômôra và xin đừng đoán phạt. Sự đối thoại trả giá diễn tả tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ông Abraham lý luận theo cách suy tưởng của con người. Ông biết rằng trong đời sống con người, có kẻ tốt, người xấu và kẻ lành, người dữ. Thiên Chúa yêu thương mọi người. Chẳng lẽ Chúa phạt cả kẻ dữ lẫn người lành sao: Abraham lại gần và thưa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? (Stk 18, 23). Ông Abraham ước muốn Thiên Chúa tha phạt cho cả thành, vì nghĩ rằng có một số người lành đang chung sống giữa họ. Ông thưa: Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? (Stk 18, 24). Thiên Chúa ban ơn mưa móc xuống cho cả kẻ lành, người dữ. Người lành thánh có thể giúp người tội lỗi hối cải và người tội lỗi cũng có thể giúp cho người lành phấn đấu sống thánh thiện hơn.
Ông Abraham đã trả giá với Thiên Chúa, từ 50 người lành xuống tới chỉ còn 10 người. Cả thành không kiếm được mười người lành, nên thành Sôđôm phải chịu hình phạt. Chúa nhân từ trong mọi lời Chúa phán và thánh thiện trong mọi việc Chúa đã thực hiện. Chúa sửa phạt rồi Chúa lại tha thứ và đón nhận trở về. Lịch sử ơn cứu độ là một cuộc phấn đấu không ngừng để tinh luyện con dân nên thánh thiện. Ông Abraham hết lời: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao? Chúa đáp: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Sôđôm” (Stk 18, 32). Nhân loại tồn tại và Giáo Hội tiếp tục sống còn là nhờ đời sống nhân đức của các bậc thánh nhân, những tín hữu nhiệt thành và những con người thành tâm sống gương mẫu giữa đời. Giáo hội luôn luôn cần những gương sáng để soi dọi cho những ai ngồi trong bóng tối sự dữ và sự chết.
Trong đời sống đạo, chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô cùng. Người ban phát ân sủng cho mọi loài thọ tạo. Thế nên, chúng ta rất quen thuộc với những từ ngữ như cầu nguyện, cầu xin, nguyện xin, cầu bầu, xin ơn, phù trợ và nâng đỡ chở che. Trong tâm tình khiêm hạ và nhận biết thân phận yếu hèn, chúng ta cùng cúi đầu thờ lạy và vâng phục Đấng Tạo Hóa chí công. Chúng ta nên thành tâm cầu xin những ơn cần thiết cho đời sống và phần rỗi của chúng ta. Cầu nguyện là chúng ta nối một nhịp cầu tới Thiên Chúa bằng những lời nguyện xin. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện luôn: Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho (Lc 11, 9). Một điều quan trọng mà Chúa Giêsu dạy là anh em cứ xin, thì sẽ được. Chúng ta xin Chúa điều gì bây giờ?
Chúa Giêsu đã dậy các tông đồ cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha. Phần đầu của Kinh là nguyện sáng danh Thiên Chúa, nhưng phần sau là bốn lời xin: Xin cho chúng con lương thực hàng ngày và xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ (Lc 11, 4). Thiên Chúa không phải là ông chủ giầu có ngồi chờ chúng ta đến xin để phân phát. Hào bao của Thiên Chúa luôn rộng mở. Tùy thuộc chúng ta có xứng đáng lãnh nhận hay không. Nếu tâm hồn của chúng ta không rộng mở thì ơn Chúa không thể tuôn đổ. Nếu lòng chúng ta chất đầy của cải thế gian thì đâu còn chỗ để nhận lãnh thêm. Khi chén của chúng ta đã đầy tràn những thứ lỉnh kỉnh, làm sao ơn Chúa thấm nhập vào lòng. Khi cầu nguyện, chúng ta có thật lòng cầu xin, hay chỉ đọc ruổi một số những kinh kệ và kể lể một số nhu cầu cần thiết trong cuộc sống và nghĩ rằng Chúa sẽ ban phát mọi ơn.
Ước vọng của con người thì nhiều vô kể và cao sâu. Hầu như không khi nào chúng ta ước muốn cho đủ. Nhu cầu đòi hỏi của tâm linh cũng như thể chất luôn réo gọi vươn tới. Sức lực và khả năng của con người thì giới hạn. Mong ước thì to lớn. Khi chúng ta đã có, lại muốn có thêm. Đường nên thánh còn dài và nhiều chông gai. Đường đời thì cặm bẫy giăng giăng. Đường nào cũng phải phấn đấu không ngừng. Người ta thường nói: Lòng tham vô đáy. Không những lòng tham mà mọi khao khát đều không có cùng. Làm sao chúng ta có thể: Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc. Biết đủ là đủ. Bao nhiêu mới là đủ chứ? Cuộc sống quá hấp dẫn gọi mời chúng ta tiến thân. Sống một ngày, mong thêm một bước. Cuộc đời là dòng chảy luôn luôn có cái mới. Điều mới mẻ giúp chúng ta hy vọng và sống vui. Nên chúng ta cứ phải cầu xin hoài.
Mấy ai trong chúng ta khi cầu nguyện mà không xin ơn. Ngay cả những người không tin có Thượng Đế hay quyền lực nào bên trên, họ vẫn cầu xin khấn vái cho được mọi sự lành. Người ta chỉ chối từ sự hiện hữu của thần linh, thiên thần, linh hồn trong lý thuyết, nhưng nơi cuộc sống thường ngày, họ cũng vẫn mong cầu thần phật gia hộ cách này hay cách khác. Có khi còn rơi vào sự mê tín dị đoan, tin vào bói khoa, bói toán, bói quẻ, chim kêu, gà gáy, xem tướng, chỉ tay vận số, xin sâm và cả cầu thần dữ để chế ngự. Ngày tư ngày Tết, ngày Rằm, Lễ Hội, vố số người, dù không tin thần linh, họ cũng say mê cúng vái hoa qủa, nhang hương, lẩm rẩm nguyện cầu và xin cho người an bình thư thái và làm ăn phát tài phát đạt. Hằng ngày chúng ta cũng thường cầu nguyện với rất nhiều ý cầu xin. Cầu xin cho sự tốt lành trong gia đình, mọi người khỏe mạnh, làm ăn may mắn và mọi sự bình an xác hồn.
Đôi khi chúng ta cầu xin theo kiểu trừ hao. Xin mười Chúa sẽ ban cho một. Với lòng thành, chúng ta xin những ơn cần thiết cho sự sống và phần rỗi. Chúa bao dung độ lượng sẽ không quay mặt làm ngơ. Thánh Luca viết: Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?(Lc 11, 13). Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy bền tâm và tỉnh thức cầu nguyện. Chúa đã nêu gương cầu nguyện luôn để kết hợp với Chúa Cha. Chúng ta cùng cầu nguyện như Chúa dạy và xin những ơn cần thiết nhân danh Chúa Giêsu Kitô.
Trong thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô đã xác tín về hồng ân ơn cứu độ của Chúa Kitô: Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, số nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá (Col 2, 14). Chúa Kitô đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa Cha qua sự hiến tế của Ngài trên thập giá. Máu Thánh đã xóa sạch lỗi lầm và ban cho chúng ta được phúc làm con và cùng đồng chia sẻ vinh quang sự sống.
Lạy Chúa, Chúa là chủ tể mọi loài. Chúa cho mặt trời soi chiếu trên kẻ lành người dữ. Chúa tiếp tục ban phát hồng ân cho mọi loài. Xin cho chúng con biết tỏ lòng trông cậy vào Chúa là nguồn mọi phúc lộc. Chúng con thờ lạy, cảm tạ và hát ca danh Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
KINH LẠY CHA– Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện đầu tiên, vĩ đại nhất trong mọi kinh nguyện Kitô giáo, kinh duy nhất do Đức Kitô sáng lập. Nó bao gồm mọi tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau. Nó không chỉ dạy cần cầu nguyện về điều gì, còn dạy ta cầu nguyện thế nào. Nó là khuôn mẫu cho mọi kinh nguyện. Nếu sống theo những điều dạy trong đó, chúng ta hoàn toàn hợp với tâm hồn của Đức Kitô. Bởi chắc chắn đó là điều chính Người cầu nguyện và sống theo. Kinh lạy Cha được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Tương quan với Thiên Chúa
Mở đầu kinh nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Nhiều dân tộc phương Đông coi thần linh như Cha. Dân Do thái cũng gọi Thiên Chúa là Cha, như nhiều tôn giáo khác (Hs 13, 3; Gr 3, 19; Is 63,16; Kn 5,5). Nhưng để tránh nguy cơ hạ giá Thiên Chúa xuống mức độ con người, Cựu ước thường rất họa hiếm kêu Thiên Chúa như Cha. Phần Đức Giêsu, chẳng những gọi Thiên Chúa là Cha, Người còn dùng từ thân mật hơn nữa, từ chỉ đứa trẻ thơ, trẻ vừa thôi bú, bập bẹ biết nói gọi cha mình: “Abba!”Cha ơi! Qua đó, Đức Giêsu muốn nói, chúng ta có một người Cha toàn năng, Chúa Trời đất, nhưng lại rất dịu hiền thương yêu ta hơn mọi người cha trần gian. Ta hãy nguyện cho danh Cha cả sáng, được nhiều người biết đến. Khi chúc tụng Danh của Người, chúng ta chúc tụng chính Người.
Kế đó, Đức Giêsu dạy ta phải xin cho Nước Cha mau đến, Nước của Sự thật và Sự sống, của Thánh thiện và Ân sủng, của Công chính yêu thương và Bình an. Người Dothái cầu nguyện như thế trong kinh Qaddish: “Xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hóa trong thế gian, mà Người tạo dựng theo ý chí của Người. Xin Người làm cho triều đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nảy mầm, Đấng Messia của Người đến gần”. Có điều khi đọc kinh Qaddish, người Dothái không biết bao giờ Đấng Messia đến và khi nào triều đại Thiên Chúa sẽ hiển trị. Phần Đức Giêsu biết, Đấng Messia chính là Ngài và triều đại của Thiên Chúa đến rất gần. Nó đã hình thành, nhưng không phải cách huy hoàng, song như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4; 17,10). Chúng ta đều có phần tham gia kiến tạo cho triều đại Chúa mau đến, bằng cách sống và rao giảng cho Triều đại đó tiến lên.
Đức Giêsu cũng dạy chúng ta, phải xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất, dưới trần gian này. Thánh ý Chúa luôn là điều tốt đẹp, nhưng không phải là điều dễ thực hiện, nhất là trong cuộc sống, bởi ta là con người có ý chí tự do.
Phần thứ hai: Tương giao giữa chúng ta với nhau, những khát vọng của chúng ta.
Đức Giêsu gợi ý chúng ta xin Cha bốn điều: lương thực, biết tha thứ, chiến thắng cám dỗ, thoát sự dữ.
“Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày”. Lương thực đây, có nghĩa là mọi khát vọng vật chất. Đó là thứ chúng ta thực sự cần. Tuy nhiên, chỉ hàng ngày dùng đủ. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh, không nên quá lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái lo của ngày mai (Lc 12, 22-23; Mt 6, 34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, Dân Chúa không thể tích trữ lương thực manna trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Sách Châm Ngôn cũng dạy: “Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng để con giầu có, xin cho con cơm bánh cần dùng” (Cn 30,8). Đối với những người giàu có, khi đọc lời nguyện này, cần lưu ý từ “chúng con”, chia sẻ lương thực với những người đang đói.
“Xin tha kẻ có nợ chúng con, như chúng con tha kẻ có lỗi với chúng con”. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý: “Một Kitô hữu chính là một người biết tha thứ”. Tuy nhiên, để được Thiên Chúa tha thứ, ta cũng phải tha thứ cho người anh em. Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18, 23-35), để dạy về điều này.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Cám dỗ lớn nhất, kinh khủng nhất là đánh mất đức tin. Ở vườn Giệtsimani, Đức Giêsu đã khuyến cáo các bạn hữu của Người: “Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22, 40; 22, 46). Vâng, cám dỗ lớn nhất của các môn đệ là bỏ rơi Đức Giêsu. Bởi thế, khi rao giảng Đức Giêsu đã nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc18,8). Trong dụ ngôn gieo giống, Đức Giêsu nhắc ta phải cảnh giác: Có những người tín trung trong một thời gian nào đó, đến giờ thử thách, bị cám dỗ, họ đã chối bỏ đức tin (Lc 8,13).
“Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”. Cuối cùng, chúng ta cầu xin thoát khỏi sự dữ cả về thể lý và luân lý. Chúng ta không mong muốn gặp sự dữ. Điều chúng ta xin Chúa là ơn chiến thắng mọi sự dữ, nhất là sự dữ luân lý.
“Dụ ngôn người bạn quấy rầy”. Sau khi dạy các môn đệ phải cầu nguyện thế nào, Đức Giêsu lại đưa ra dụ ngôn dạy họ biết phải làm sao, để lời xin của họ được chấp nhận. Ở Paléttin thời Đức Giêsu, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn dùng làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn, trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa, phải nhọc mệt lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm, để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, để được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta phải chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin. Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng không biết chán, dù không được Chúa chấp nhận tức khắc, rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời sau này. Thầy thông luật Israel nói: “Người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với Thiên Chúa tốt lành, anh ta lại dễ dàng chiến thắng hơn”. Đức Giêsu cũng đưa ra dụ ngôn quan tòa bất chính và bà quấy rầy (Lc 18,1-8) để dạy về điều này.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BIẾN ƯỚC MƠ THÀNH HIỆN THỰC- Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp và quý báu khiến lòng người ước mơ khao khát. Ai cũng mong ước có được những giá trị đó nhưng rồi mỗi người cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên chẳng mấy ai tìm cách chiếm hữu những giá trị ấy. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến. Thật đáng tiếc!
Vậy thì tìm đâu ra bí quyết để đạt được ước mơ của mình?
Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng lượm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật nằm sâu trong rừng. Lối vào kho tàng được che chắn bằng một phiến đá khổng lồ. Khi tên tướng cướp đứng trước khối đá ấy và đọc câu: “Vừng ơi! mở ra”, thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm bên trong hang.
Khi bọn cướp đi ra, chúng lại đọc câu thần chú: “Vừng ơi! đóng lại!” thì cánh cửa đá từ từ đóng lại che khuất lối vào kho tàng bí mật.
Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa bí mật và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều châu báu trong kho tàng và trở nên giàu có.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp chiếm hữu những kho báu lớn lao, kho báu vật chất cũng như kho báu tinh thần. Đây không phải là câu “Vừng ơi! Mở ra!” để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: “Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ thấy, gõ cửa thì sẽ mở cho.”
Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: “xin – tìm – gõ.”
Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba việc đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?
Chúa Giê-su cũng biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục như sau:
Có người kia đến gõ cửa nhà người bạn láng giềng giữa đêm đen và lên tiếng nài xin : “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả.” Từ trong nhà có tiếng đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?”
Thế rồi Chúa Giê-su kết luận: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.”
Với những lời trên đây, Chúa Giê-su nhấn mạnh với chúng ta rằng: Người phàm còn biết đáp ứng lời kêu xin của bạn bè, cho dù trong lòng chẳng muốn, thì huống gì Thiên Chúa là Cha nhân lành, tốt lành gấp trăm lần người cha trên thế gian, lẽ nào Ngài lại không đáp ứng lời con cái nài van.
Theo dòng tư tưởng ấy, Chúa Giê-su nói tiếp: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ư? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp sao? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Ngài sao?”
Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa tin tưởng nài xin, chưa bền chí kiếm tìm và chưa nhẫn nại gõ cửa đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.
Từ đây, nắm được bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời, chúng ta không dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải ra công thực hiện, vì phương tiện sẵn có trong tầm tay. Chỉ cần liên lỉ xin, kiên quyết tìm và nhẫn nại gõ thì chúng ta sẽ thủ đắc được những giá trị cao quý mà lâu nay chỉ có trong mơ. Với bí quyết nầy, chúng ta có thể biến những ước mơ thành hiện thực.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
KINH LẠY CHA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Khi xuống trần gian, Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài không làm gương trước cho chúng ta. Cả cuộc đời Đức Giêsu là một chuỗi cầu nguyện liên lỉ không ngừng. Ngài cầu nguyện mọi lúc, mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh.
Nhìn Thầy Giêsu cầu nguyện, các môn đệ cũng muốn học cách cầu nguyện của Thầy: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ của ông”. Và Đức Giêsu chỉ dạy một lời kinh duy nhất, đó là kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện kiểu mẫu, để giúp chúng ta biết cầu nguyện thế nào cho đúng ý Chúa. Bởi vì đến với Chúa, nhiều khi chúng ta cầu xin hơn là cầu nguyện.
Vậy thế nào là cầu nguyện và thế nào là cầu xin? Nếu chúng ta để ý thì trong kinh Lạy Cha có hai phần: phần đầu là cầu nguyện, còn phần hai là cầu xin.
Cầu nguyện là chúng ta dâng lên Chúa những tâm tình thờ lạy, chúc tụng, cảm tạ, ngợi khen. Chúng ta đọc “Lạy Cha, chúng con ở trên trời”, là chúng ta nói lên mối tương quan tình nghĩa Cha con. Chúa là Cha còn chúng ta là con của Ngài. Thế thì, chúng ta có cảm thấy hạnh phúc vì được gọi Chúa là Cha, và chúng ta là con của Ngài không?. Đồng thời, người con hiếu thảo là người con cầu mong cho danh Cha mình được cả sáng, có nghĩa là được mọi người nhận biết Chúa là Cha, và tất cả mọi người đều là anh em với nhau. “Tứ hải giai huynh đệ”.
Thật vậy, Đức Giêsu dạy: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ Chúa không dạy: Lạy Cha của con…Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi. Là anh em con cùng một Cha, nên phải sống hiệp nhất yêu thương, liên đới với nhau trong đời sống, và liên đới với nhau trong cả lời cầu nguyện. Như trong bài đọc I, tổ phụ Abraham đã nêu gương sống tình liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sôđôma khỏi bị phạt.
Phần thứ hai Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Có nghĩa là xin Chúa ban cho lương thực phần hồn, phần xác. Xin Chúa cho mọi người trên trái đất này có công ăn việc làm, nghề nghiệp ổn định. Biết chạnh lòng thương chia cơm xẻ áo cho những người kém may mắn. Chúa không muốn một số người cứ phòng cơ tích trữ, hay sống xa hoa lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, trong khi đồng loại còn thiếu nhà ở, còn phải đói khát ăn xin, nằm đầu đường xó chợ…
Có những người xin Chúa ban lương thực hằng ngày mà cứ mãi mê ăn chơi, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được?.
Rồi có những lời cầu xin hết sức vụ lợi. Chẳng hạn như: xin cho con trúng số; xin cho con mua may bán đắc, bạc cắc không cần nhưng cần đôla. Xin cho con cái này, xin cho con cái nọ, xin vài lần mà không thấy Chúa nhúc nhích, thì đâm ra chán nản thất vọng bỏ Chúa đi coi thầy xem bói.
Cuối cùng, với tâm tình sám hối, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha. Và xin ban Thánh Thần xuống để Người cầu nguyện trong chúng ta và giúp chúng ta luôn sống theo lời của Chúa.
Anh chị em thân mến,
Ngoài kinh Lạy Cha, Chúa còn dạy chúng ta cầu nguyện phải kiên trì tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng sẽ ban cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất, và Ngài còn là Người Cha khôn ngoan, biết những gì cần thiết ích lợi cho chúng ta. Người cha ở đời mà còn biết cho con cái mình những cái tốt lành, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha giàu lòng thương xót sẽ rộng ban những điều hữu ích cho chúng ta. Vì Chúa hứa: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”.
Chúa là Cha nhân lành luôn làm điều tốt lành cho con cái. Nhưng điều chúng ta cầu xin phải phù hợp với thánh ý Chúa, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”.
Cử hành Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội. Cầu nguyện nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, chính nhờ Người với Người và trong Người.
Xin cho chúng ta biết cầu nguyện theo tinh thần Chúa dạy, và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng con dâng lên Chúa hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
XIN THÌ SẼ ĐƯỢC – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ
Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.
Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần
Đức Yêsu dạy các tông đồ cầu nguyện. Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.
“Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Danh Thiên Chúa cả sáng khi con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu. Khi con người sống yêu thương nhau, Nước Thiên Chúa đang hiện diện.
“Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” không phải là chuyện con người có thể làm được. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật tình yêu. Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra “cơm bánh” mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban. Nếu không nhận biết “cơm bánh” hằng ngày là ơn, con người đã hành xử như người vô ơn.
“Xin tha tội chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng con”. Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con tha thứ lỗi lầm cho họ.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ! Ai dám nói mình không bao giờ sa ngã? Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi rất yếu. Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa. Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.
Người đời, những con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng. Nếu con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao? Quả thực, Thiên Chúa đã ban “Thánh Thần” cho con người. Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa và Đức Yêsu ban cho con người. Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá trị càng diễn tả tình yêu. Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người, là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.
Được Thiên Chúa, được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.
Thiên Chúa nhân từ hơn con người tưởng
Cuộc “trao đổi” giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa. Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin. Abraham xin gì, Thiên Chúa cũng ban. Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10. Tại sao Abraham không rút xuống nữa? Có lẽ vì lòng nhân từ của con người “có hạn”, hay tại Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.
Sôđôma, là mẫu gương để con người xa tránh tội lỗi. Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không thương những người ở Sodoma. Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).
Hình ảnh của Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp. Lòng nhân từ và thương xót, làm con người trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.
Chỉ cần mười người công chính, đủ để cứu cả thành. Chỉ cần là người công chính, là đã làm được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể làm được. Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính. Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác, chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở lại, hoặc cố gắng vươn lên.
Thái độ của con người trước Thiên Chúa
Abraham xin với Thiên Chúa như một người “ăn xin”, ý thức những điều mình xin tuỳ thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không. Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa. Con người đâu phải ngang bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia. Thái độ khiêm tốn, chấp nhận những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo vật trước Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta. Khi chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để chúng ta nhận biết “Ngài là tình yêu” hơn nữa. Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô.
Đức Yêsu vì yêu thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài. Tuy dù được yêu thương, nhưng khi ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn. Đây cũng là bài học cho chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Bạn có hay “xin” Thiên Chúa điều này điều kia không? Điều nào quan trọng nhất trong đời mà bạn đã xin? Bạn có được điều đó không? Xin chia sẻ nếu được.
- Lời nào trong kinh Lạy Cha bạn thích nhất? Tại sao?
- Có khi nào bạn cầu nguyện một điều rất chính đáng mà không được không? Bạn phản ứng ra sao với Thiên Chúa trong trường hợp đó? Phản ứng đó đúng hay sai? Tại sao?