CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HÃY ĐỨNG VỮNG (*) – Chú giải của Noel Quession. 7
NHỮNG YÊU SÁCH CỦA GIÊSU- Chú giải của Hugues Cousin. 16
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 22
CHỌN LỰA DỨT KHOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 35
DẤN THÂN THEO ĐỨC KITÔ- Lm. Giuse Đinh lập Liễm.. 50
KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 72
CUỘC KHỞI NGHĨA THIÊNG LIÊNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 75
BÀI HỌC NHÂN ÁI THẬT KHÓ THUỘC– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB 80
DÀNH ƯU TIÊN CHO THIÊN CHÚA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà. 84
THEO THẦY- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 89
SỐNG ĐƠN GIẢN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 95
ĐỨC KITÔ MẪU GƯƠNG VÀ TIÊU CHUẨN SỐNG – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ 102
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Êlisê đi theo Êlia”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Êlia rằng: “Êlisê, con ông Saphát, người Abel-Mêhula, ngươi hãy xức dầu phong y làm tiên tri thế ngươi”.
Êlia ra đi tìm gặp Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai. Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông. Lập tức ông bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: “Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài”. Êlia nói với ông: “Ngươi đi đi, rồi trở lại, ta có làm gì ngươi đâu?” Êlisê rời Êlia, rồi bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi đốt quay thịt cho dân ăn. Ðoạn ông đi theo làm đầy tớ Êlia.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).
Xướng: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con
Xướng: Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
Xướng: Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát.
Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn đời. –
Bài Ðọc II: Gl 4, 31b – 5, 1. 13-18
“Anh em được kêu gọi để được tự do”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa.
Hỡi anh em, anh em được tự do, nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt; trái lại, anh em hãy lấy bác ái của Thánh Thần mà phục vụ lẫn nhau. Vì chưng, tất cả lề luật tóm lại trong lời này: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Nhưng nếu anh em cắn xé và phân thây nhau, anh em hãy coi chừng kẻo huỷ diệt nhau. Tôi nói điều này là: Anh em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thoả mãn theo đam mê xác thịt nữa. Vì đam mê xác thịt thì chống thần trí, và thần trí thì chống lại xác thịt; giữa đôi bên có sự chống đối nhau, khiến anh em không thi hành được những điều anh em mong muốn. Nhưng nếu anh em được thần trí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật nữa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 51-62
“Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?” Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.
Ðang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: “Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy”. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Người bảo một kẻ khác rằng: “Hãy theo Ta”. Người ấy thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Một người khác thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã”. Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
HÃY ĐỨNG VỮNG (*) – Chú giải của Noel Quession
Bài Tin Mùng của Luca Chúa nhật này bắt đầu một giai đoạn mới trong đời sống của Đức Giêsu. Cho đến nay. Đức Giêsu chỉ thực thi tác vụ cua Người ở Galilê. Trong suốt mười chương bắt đầu từ đây. Chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu “lên Giêrusalem”. Đây là một lộ trình về địa dư (Lc 9, 51; 13, 22, 22; 17, 11).
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời…
Cách trình bày thật trang trọng. Bản văn sát nghĩa tiếng HyLạp cảm động hơn nhiều: “Vì những ngày Người được rước lên hoàn tất…”
Cái chết đang đến gần ấy không phải là một việc ngẫu nhiên, đó là một sự hoàn tất, một thành tựu, việc thực hiện sau cùng, việc làm tỉ mỉ sau cùng của một đời sống rất trọn vẹn.
Nhưng đó cũng là một sự “rước lên”. Ở đây, Luca dùng cùng một từ để nói về sự Thăng Thiên: Đức Giêsu sẽ được rước lên trời (Cv 1, 2-11-22)… như ngôn sứ Êlia cũng đã được rước lên (2 V 2, 8-11) Điều “sắp tới”… đối với Đức Giêsu, cũng như đối với mỗi người chúng ta cùng với Người. Đó là một biến cố vừa đau thương, vừa hạnh phúc: Phục sinh, với hai mặt của nó, cái chết và đi vào sự sống của Chúa Cha.
Người nhất quyết đi lên Giêrusalem.
Bản văn Hy-lạp của Luca chứa đựng một hình ảnh: “Người làm khuôn mặt chai cứng lại để đi hướng về Giêrusalem”… như ngày hôm nay, chúng ta thường nói: Người siết chặt hàm răng để cương quyết dấn thân về nơi mà Người biết rằng Người sắp chết. Các Tin Mừng hiếm khi nhấn mạnh những trạng thái tâm hồn của Đức Giêsu. Điều đáng lưu ý là ngày hôm đó Người phải vượt qua nỗi sợ hãi và lấy hết sự can đảm của một con người.
Mỗi người chúng ta phải dành thời gian cùng với Đức Giêsu gợi lại khó khăn hiện tại của mình, đối với một thanh niên có thể là thi rớt, một nỗi đau khổ vì tình cảm cô đơn, một sự xung đột trong đời sống lứa đôi, một sự bất ổn nghề nghiệp, một bế tắc xem ra không vượt qua nổi, một căn bệnh không chữa khỏi, một cái tang vừa phải chịu v.v…
Thay vì buông xuôi, tại sao chúng ta không cùng với Đức Giêsu làm cho khuôn mặt mình chai lại để giữ vững bằng bất cứ giá nào… theo gương người “tôi tớ của Thiên Chúa” đã nói: “Có Đức Chúa là Chúa thương phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt chai ra như đá. Tôi biết mình sẽ không thẹn thùng” (Is 50,7)
Giê-ru-sa-lem hỡi! Nơi duy nhất trên cả hành tinh này: cái hố ấy nơi trồng cây thánh giá… cái ngôi mộ trong huyệt đá ấy nơi cái chết đã thất bại, nơi mà Thiên Chúa kêu khát và làm cho một suối nguồn sinh ra từ cạnh sườn Người. Mọi đời sống Kitô hữu là một con đường lên Giê-ru-sa-lem!
Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta luôn luôn có khuynh hướng giảm nhẹ Tin Mừng, như thể thời đại của chúng ta là thời đại đầu tiên chứng kiến những xung đột về chủng tộc, chính trị, tôn giáo xã hội.
Những người Samari bị những người Do Thái giáo trung kiên coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Ga-ri-dim để cạnh tranh với đền thờ Giê-ru-sa-lem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” ấy (Ga 4, 9.20).
Bị những người Do Thái khinh bỉ, họ trả đũa lại và gây ra mọi thất phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilê về Giê-ru-sa-lem qua các mỏm núi miền Samari. Đức Giêsu không quay lưng lại mảnh đất bị sự phân biệt chủng tộc và sự khinh bỉ lẫn nhau tàn phá. Và hơn thế nữa, Người từ chối bước vào sự hẹp hòi bế tắc ấy của dư luận quần chúng. Trước hết Luca mô tả với chúng ta một Đức Giêsu hoàn toàn độc lập và làm nổi rõ đức bác ái trọn hành động của người Samari tốt lành (Lc 10, 30). Lòng biết ơn của người bệnh bằng được chữa lành (Lc 17,16) Đức Giêsu yêu thương tất cả mọi người kể cả những người bị cám dỗ nguyền rủa Người.
Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?
Đó là hành phạt mà Êlia đã bắt các đối thủ của ông phải chịu (2 V 1,10). Hai người “con trai của thiên lôi” (Mc 3,17), Giacôbê và Gioan muốn xứng đáng với biệt danh của mình! Nhưng họ chưa hiểu gì về sứ điệp và công việc của Đức Giêsu. Và điều nghiêm trọng hơn là họ đã tạo ra cho mình một ý tưởng về Thiên Chúa hoàn toàn sai lầm: họ tưởng rằng mình là những người giải thích Thiên Chúa và họ chắc rằng mình sở’ hữu chỉnh lý! Thiên Chúa toàn năng có thể nào tha thứ việc Đấng Mêsia của Người bị con người khước từ’ và đối xử tùy tiện? NGÀY NAY cũng thế, chúng ta cũng muốn thực hiện các dự án của “con trai Thiên Lôi”: Thiên Chúa phải can thiệp để tiêu diệt những kẻ thù của Người!
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức Giêsu không đến để kết án những người tội lỗi nhưng để cứu họ (Lc 19,10) Thiên Chúa không trùng phạt, Người tha thứ (Lc 23,34).
Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
Ở đây Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Người vốn là Đấng Toàn Năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế để bắt các bề tôi và kẻ thù quỳ móp nhưng chúng ta có thể nói rằng một cách khiêm nhường và nghèo khó, Người chờ đợi sự hoán cải, như một người cha, như một người mẹ, đồng ý cho gia hạn và chờ đợi hành trình chậm rãi của chân lý trong lòng con người. Và Thầy trò đi sang làng khác như những người nghèo hèn ra đi khi người ta không chịu tiếp họ: Tôi nhìn ngắm Đức Giêsu ra đi sang làng khác… Và tôi tự hỏi về sự thiếu nhẫn nại của tôi… trước những tội lỗi của tôi, trước những tội lỗi hoặc sự khước từ của những người khác, trước sự chậm chạp hoặc nặng nề của Giáo Hội… Lạy Chúa xin ban cho con sự nhẫn nại Thánh thiêng của Người.
Thầy trò đang đi trên đường thi có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Người trả lởi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”.
Đúng vào lúc người ta từ chối tiếp đến” Đức Giêsu đang trên đường Giêrusalem, thì có một người xin theo Người một cách quảng đại và có điều kiện. Hẳn người ta có thể mong Đức Giêsu chấp nhận ngay lập tức. Vả lại thay vì chiều theo nhiệt tình của ơn gọi này, Đức Giêsu đã đặt ra phía trước mọi khó khăn thái độ này hoàn toàn trái ngược với mọi cách quảng cáo của chúng ta khoe khoang các sản phẩm của mình đến độ che giấu đi các khuyết điểm. Đức Giêsu không tìm cách tuyển mộ với bất cứ giá nào. Trái lại, Người nhấn mạnh phải chấp nhận sự thiếu thốn, sự nghèo khó, sự bất trắc… để theo Người.
Điều đó làm nổi rõ điều mà Đức Giêsu đã ý thức khi lên Giê-ru-sa-lem. Người tiến về một số phận bi thảm. Ai muốn theo Người cũng phải sẵn sàng chịu ruồng bỏ. Theo sở thích tâm linh của chúng ta, chúng ta có thể suy niệm về cuộc sống lang thang và bấp bênh của Đức Giêsu, “kẻ lang thang không nơi trú ẩn” ấy! Đọi với một con người, không có một mái nhà để trú ẩn và một cái giường để ngã lưng thì quả là khắc nghiệt. Vào những buổi chiều mệt mỏi, điều đó phải trĩu nặng trong lòng. Đức Giêsu. Người lưu ý chúng ta rằng ngay cả thú rừng còn có một nơi trú ẩn an toàn. Lạy Chúa, xin cho chúng con lòng can đảm trong những lúc mệt nhọc thể xác hoạt tinh thần.
“Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo!” kẻ nói câu đó có lẽ không biết rằng con đường của Đức Giêsu sẽ dẫn người lên Gôn-gô-tha. Nhưng chúng ta thì biết. Và chúng ta cũng biết rằng “Qua cuộc khổ nạn và Thập giá, chúng ta đi đến vinh quang của sự Sống lại” ánh sáng nhất định sẽ chiếu giải trên những thử thách’ của chúng ta: Giê-ru-sa-lem!
Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chọn cất cha tôi trước đã ” Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”.
Đây là một trong những lời nghiêm khắc nhất trong toàn bộ Phúc âm… một lời khiêu khích, nổi loạn. Sự mai táng những người thân của chúng ta là một bổn phận thiêng liêng, đặc biệt lành thánh vì dựa vào một điều răn rõ ràng của Thập giới: “ngươi phải yêu mến cha mẹ ngươi”. Lời nói quá đáng của Đức Giêsu đặt chúng ta trước một song luận:
– hoặc là Đức Giêsu là một người điên không nhận thức điều mình đòi hỏi.
– hoặc là Đức Giêsu thuộc về một bình diện khác bình diện trần ri thế, bên trên con người…
Sự thật là Đức Giêsu đi đến chỗ cho rằng ai không tìm kiếm Triều Đại của Thiên Chúa là một “người chết”. Bởi vì rõ ràng trong cùng một câu, từ “kẻ chết” không có cùng một ý nghĩa: trong một trường hợp, nó có nghĩa thông thường tức là “những người đã qua đời” nhưng trong trường hợp kia, nó có nghĩa là tất cả những người đã không gặp gỡ Đức Giêsu và Người dám nói rằng họ là “những người chết”? Đối với Đức Giêsu người nào không lo lắng những sự việc của Thiên Chúa không sống theo nghĩa mạnh nhất của từ ấy. Phải, đó là lời khó nghe nhưng là mạc khải về sự sống chân thật và duy nhất sự sống của Thiên Chúa, của Triều Đại Thiên Chúa.
Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với nước Thiên Chúa”.
Vậy, Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng con sự từ bỏ ấy? Tuy nhiên Ngài cũng đã đòi hỏi chúng con yêu mến cha mẹ mình và Ngài đã làm gương bằng một tình cảm gắn bó tinh tế với mẹ Ngài là Đức Maria khi trao phó bà cho người bạn tốt nhất của Ngài.
Nhưng sự phục vụ Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tất cả và ngay lập tức. Thiên Chúa bác bỏ những ưu tiên của chúng ta: “Để tôi về chôn cất cha tôi trước đã… Để tôi từ biệt gia đình trước đã…” Đó là những yêu cầu rất chính đáng. Thật vậy đó là những Người rất nghiêm túc, đứng đắn, hiểu lý. Họ đã “lên kế hoạch” của họ trước tiên, những công việc: của cá nhân tôi, kế đó là những công việc của Thiên Chúa. Tôi vừa kết thúc năm học của tôi. Tôi dự trù lập kế hoạch cho kỳ nghỉ hè: khoảng giữa tháng chín tôi sẽ tìm lại Thiên Chúa… sau đó! Mỗi chúa nhật, nghỉ ngơi trước đã, giải trí trước đã, dành thì giờ cho gia đình và bạn bè trước đã: sau đó… nếu còn thời gian hãy đi dự thánh lễ.
Trước ngưỡng của mùa hè đang bắt đầu, Đức Giêsu Kitô cảnh giác tôi về thời gian biểu của tôi! Thang giá trị của con là gì’? Những điều cấp thiết của con là thứ bậc nào. Con đi tắm biển trước đây phải không? Sức khỏe của con trước đã phải không? Hoặc là trước tiên là điều chủ yếu? Thánh Phaolô mời gọi chúng ta “hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (Gl 5,1)
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NHỮNG YÊU SÁCH CỦA GIÊSU- Chú giải của Hugues Cousin
Từ ngữ 9,51 rất phong phú về mặt thần học. Trước hết Luca nói: “Khi đã tới ngày Ngài được rước lên trời”. Từ Nước Trời đã nhắc lại bảy lần, ở Luca 1-2, việc thực hiện lời hứa của Chúa (x.1,57), nơi đó tôi giải thích từ này; đây không chỉ một chú thích thuần tuý có tính thời gian! Còn chữ được rước lên (trời) sẽ được Luca dùng ba lần để chỉ cuộc thăng thiên về với Cha (Cv 1,2; 11-12). Tiếp theo, tác giả nói là Chúa Giêsu cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Diễn ngự hiếm hoi này muốn nói lên quyết định của Chúa Giêsu sẽ chạm trán với với cuộc thụ nạn đang chờ đợi Ngài, bởi vì có lẽ nó phản dội lại thái độ của người Tôi tớ ở Is 50,7, nhờ một lối chơi chữ cương quyết / trơ ra. Nếu người Tôi tớ của Chúa không giấu mặt khỏi lăng nhục và khạc nhổ, chính là vì người đã trơ mặt ra như đá. Để được rước lên bên cạnh Chúa Cha, trước hết người Tôi tớ phải trải qua đau khổ và cái chết.
Một nhập đề như thế cho đoạn văn nói lên tầm quan trọng mà Luca muốn đặt vào dịp lên Giêrusalem duy nhất này của Chúa Giêsu trong suốt thời gian thi hành sứ vụ. Chắc hẳn một cuộc hành trình lên Giêrusalem này đã có trong bản văn của Marcô –còn truyền thống của Tin Mừng thứ tư thì nói đến nhiều lần lên Giêrusalem. Nhưng biến cố chỉ hiếm có một chương ở Marcô (và hai ở Matthêu) thì ở đây lại tới mười chương! Để tìm chất liệu cho một đoạn dài như thế, Luca đặc biệt khai thác nơi Nguồn các lời cũng như nơi tư liệu riêng của ông, trước khi sử dụng trình thuật của Marcô về cuộc hành trình từ 18,15 đến 19,44. Thực ra, những giai đoạn của cuộc hành trình, theo địa lý, không làm cho Luca quan tâm; những ghi chú hiếm hoi mới có lại không rõ ràng, thậm chí còn thường nữa (17,11). Điều quan trọng, đó là Chúa Giêsu đang lên đường, không nơi cố định (9,57) và Ngài tiến về định mệnh của Ngài, ở Giêrusalem, kinh thành nơi mà, trong tư cách ngôn sứ, Ngài phải chết (13,33), nơi mà Ngài sắp hoàn thành cuộc xuất hành của Ngài (9,31), việc Ngài được nâng lên (9,51). Việc nhắc đến thành Giêrusalem sẽ làm cho toàn bộ đoạn văn này được nhịp nhàng và, để sắp xếp đoạn này cách thuận lợi, chúng ta sẽ dựa vào những”điệp khúc” chính nhắc lại rằng Chúa Giêsu lên đường tiến về Giêrusalem (13,22; 17,11) và dựa vào lời loan báo rõ ràng về cuộc thụ nạn ở Giêrusalem (18,31). Chúng ta sẽ xác minh đúng lúc nếu phải ấn định phần kết của đoạn văn khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ (19,44).
Samari ngăn cách Galilê với Giuđê và thủ đô Giêrusalem khi yêu cầu các môn đệ chuẩn bị cho Ngài đến một làng của người Samari (9,52-55), Chúa Giêsu muốn cắt đứt mối thù địch của người Do Thái đối với dân tộc không còn thuần chủng này nữa, họ lấy Ngũ thư làm Kinh Thánh, nhưng địa điểm thờ phượng của họ là ở Garizim là một thách đố thường trực đối với Đền Thờ Giêrusalem. Nhất là Ngài tiên báo sứ vụ của Giáo Hội mà tính cách phổ quát đại đồng sẽ bắt đầu chính tại Samari (Cv 8,5tt). Trình thuật Chúa Giêsu bị những người đồng hương ở Nagiaret khước từ đã khai mở giai đoạn bằng đề tài khước từ. Đó là tính cách phổ quát đại đồng được loan báo trong bài giảng mà các người ở Nagiaret từ chối; ở đây những người ở Samari từ chối Chúa Giêsu thì ít, mà Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình của Ngài thì nhiều. Khi Chúa Kitô sẽ được rao giảng ở đó, đám đông một lòng chú ý đến những lời của Ngài rao giảng (Cv 8,5-6).
Chính hai trong số các môn đệ thân tín nhất (x.9,28) trong trường hợp ấy cảm thấy mình phải đóng vai trò của sứ ngôn Êlia! Để cho người ta nhìn nhận sứ vụ của mình là người của Thiên Chúa, Êlia đã làm cho từ trời xuống tiêu diệt cả trăm người kéo đến để bắt ông (2V 1,10-12). Nhưng Chúa Giêsu đâu có đến để làm người cải cách mạnh mẽ các phong tục tập quán như vị Tẩy Giả mong chờ (3,16-18). Và nếu Ngài quở mắng các môn đệ – một động từ thường được dùng khi Chúa Giêsu nói với ma quỷ (4,35)- chính là vì các ông không hiểu tí gì về sứ vụ của Ngài (loan báo việc Ngài bị khước từ: 9,22) cũng chẳng hiểu giáo huấn của Ngài (lòng yêu kẻ thù: 6,29). Và cũng như sau khi bị những người Nagiaret khước từ, Chúa Giêsu lại tiếp tục lên đường.
NHỮNG YÊU SÁCH CỦA CHÚA GIÊSU ĐỐI VỚI KẺ ĐI THEO NGÀI
Đề tài của đoạn văn này là nỗi khó khăn khi theo Chúa Giêsu và gồm ba hoạt cảnh nhỏ. Cảnh chót giống với cảnh đầu tiên: những người vô danh tự nguyện xin làm môn đệ, trong khi chính Chúa Giêsu lên tiếng mời gọi trong cảnh giữa; nhưng cũng như trong cảnh giữa này, người ở cảnh thứ ba cũng đặt điều kiện.
Ở những câu 57-58 –như ở câu 61- chúng ta tham dự một cảnh cổ điển trong Do Thái giáo: người học trò chọn Thầy mà mình muốn theo học, bỏ gia đình hoặc nhiều năm để đến trú ngụ trong nhà Thầy (x. Ga 1,37-39). Câu trả lời cho thấy Chúa Giêsu không giống như những Kinh sư khác: cuộc sống của Ngài lưu động bởi Ngài là một kẻ bị khước từ. Bị truy nã, Ngài không có chỗ dựa đầu để nghỉ ngơi cho yên ổn mà phải trốn lánh. Để ám chỉ mình, Chúa Giêsu nói về Con Người, một diễn ngữ để vừa chỉ sự bất lực của kẻ bị ruồng bỏ và bị giết (9,22-44; chính là trường hợp ở đây) vừa chỉ quyền lợi mà Ngài sẽ thừa hưởng khi Ngài được nâng lên trên trời (9,26; 12,8). Như vậy, những ai muốn đi theo Ngài, muốn làm môn đệ, sẽ san sẻ cuộc đời của một kẻ vô gia cư, không biết ngày nào sẽ có được mái nhà để qua đêm.
Trong những câu 59-60 Chúa Giêsu chủ động khởi xướng (x. các trình thuật ơn gọi 5,27). Yêu cầu của người ẩn danh chứng tỏ rằng đối với ông ra có một ưu tiên (trước hết): việc thi hành bổn phận hiếu thảo là chôn cất cha ưu tiên hơn việc đi theo Chúa Giêsu và chỉ cần vài tiếng đồng hồ… Chúa Giêsu đáp lại bằng một châm ngôn gây sửng sốt gắn liền với hoàn cảnh đó:”Cứ để kẻ chết –những kẻ khước từ Chúa Giêsu và Tin Mừng Nước Thiên Chúa- chôn kẻ chết của họ!”. Điều này dẫn đến chuyện”làm bật rễ” giới răng của Chúa về sự hiếu thảo (Xh 20,12), chính là sự cấp bách phải loan báo Triều Đại Thiên Chúa; việc phục vụ Tin Mừng này là trước hết và vượt qua cả những liên hệ gia đình, tuy vẫn được Chúa chúc phúc (x. 14,26).
Cảnh chót (cc. 61-62) nhắc đến việc Êlisê trở thành đệ tử của ngôn sứ Êlia (1V 19,19-21), trong khi ông cày với một đôi bò, ông đã xin phép về ôm hôn cha mẹ ông trước khi theo Êlia. Sau khi giết bò và sau bữa tiệc từ giã người thân ông bắt đầu theo Êlia. Nhưng Chúa Giêsu lại đòi hỏi hơn vị đại ngôn sứ xưa kia; ở đây lời dạy của Ngài cũng gắn liền với mạch văn (ở đây, câu chuyện 1V) và đưa ra lý do của việc đòi hỏi quyết liệt ấy: khi đã bắt đầu cày bừa cánh đồng của Thiên Chúa, trong đó Chúa làm cho khai mở triều đại của Ngài; người ta không có thể ngoái lại đàng sau. Chính gia đình cũng thuộc những thứ người ta bỏ lại đàng sau (x. 18,29). Phải coi chừng:”Quyết định theo Chúa Giêsu không chỉ là kết quả nhất thời của phấn khởi nhiệt tình; điều đó đòi hỏi một quyết định có tính cách kiên quyết” (J. Fitzmyer).
Vì không phải là trình thuật về ơn gọi nên bản văn không chú ý chút nào đến cách thức mà những kẻ ẩn danh này đáp lại lời Chúa Kitô. Thực ra đó là ba lời ở trung tâm của trình thuật, nhưng có lẽ ta sẽ sai lầm khi coi những lời ấy như những chỉ thị có tính quy luật. Các môn đệ đã chôn cất xác của Đấng bị đóng đinh (23,55-56) và Giáo Hội thời xưa đã luôn luôn hết sức tôn trọng việc an táng kẻ chết (“khi con gặp người chết, con hãy lo chôn cất họ và ghi dấu thánh giá trên họ, và Ta sẽ ban cho con chỗ nhất trong ngày Phục Sinh của Ta” Chúa Kitô tuyên bố như thế trong quyển thứ tư sách Esdras 2,23). Và nếu Phêrô và các bạn của ông đã lìa bỏ gia đình trong thời gian Chúa Giêsu thi hành sứ vụ, thì sau này các ông sẽ cho các bà vợ đồng hành trên con đường truyền giáo (1Cr 9,5). Ở đây Tin Mừng Luca đòi hỏi chúng ta phải không ngừng khám phá ra một cách thức để đặt việc loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm vào trung tâm cuộc sống hằng ngày của ta.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật XIII Thường Niên năm C này đòi hỏi người môn đệ của Chúa Giê-su phải trung thành tuyệt đối với sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mình.
1V 19: 16, 19-21
Sách các Vua quyển thứ nhất kể cho chúng ta ngôn sứ Ê-li-a gọi ông Ê-li-sa làm môn đệ của mình như thế nào.
Gl 5: 1, 13-18
Trong Thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc nhở người tín hữu phải sống theo Thần Khí, Đấng biến đổi con người xưa kia chưa biết đến Tin Mừng và ơn cứu độ của Chúa Ki-tô.
Lc 9: 51-13: 21
Trong Tin Mừng Lu-ca, Chúa Giê-su đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ của Ngài phải đáp trả ơn gọi của mình cách dứt khoát và vô điều kiện.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 16, 19-21)
Thật thú vị và cũng là hữu ích khi đối chiếu chuyện tích ngôn sứ Ê-li-a kêu gọi ngôn sứ Ê-li-sa làm môn đệ của mình với bản văn Tin Mừng Lu-ca Chúa Nhật hôm nay, trong đó Chúa Giê-su đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ của Ngài phải như thế nào (Lc 9: 37-52).
Trong cuộc gặp gỡ với Đức Chúa trên núi Khô-rếp, Đức Chúa truyền lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a xức dầu tấn phong ông Ê-li-sa làm ngôn sứ thay thế ông (29: 16b). Khi đi ngang qua một cánh đồng thấy ông Ê-li-sa đang cày, ngôn sứ Ê-li-a liền gọi ông Ê-li-sa. Ông Ê-li-sa sẵn sàng theo làm môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a nhưng với điều kiện: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giả, rồi con sẽ đi theo ông” (19: 20); ngôn sứ chấp thuận điều kiện của ông Ê-li-sa: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu”. Còn trong bản văn của mình, thánh Lu-ca kể cho chúng ta rằng Chúa Giê-su đang đi trên đường thì có ba người, hoặc xin được làm môn đệ Ngài hay được Ngài đích thân kêu gọi, đều đưa điều kiện với Chúa Giê-su.
Khi đối chiếu hai bản văn này với nhau, chúng ta dễ dàng nhận ra có hai sự khác biệt giữa ơn gọi làm môn đệ của ngôn sứ Ê-li-a và ơn gọi làm môn đệ của Chúa Giê-su. Trước hết, ngôn sứ Ê-li-a chấp nhận điều kiện mà ông Ê-li-sa đưa ra, còn Chúa Giê-su thì không chấp nhận bất kỳ điều kiện nào mà những ai muốn làm môn đệ của Ngài đưa ra. Những môn đệ của Chúa Giê-su phải xem ơn gọi làm môn đệ của Ngài là ưu tiên hàng đầu. Không ai được viện dẫn bất kỳ điều kiện nào để làm chậm trễ thi hành sứ mạng mà Chúa Giê-su giao phó cho mình. Dù bổn phận có chính đáng mấy đi nữa, cũng phải nhường chỗ cho sứ mạng. Thứ nữa, ngôn sứ Ê-li-a “ném áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa”, có nghĩa ông Ê-li-sa được chọn làm môn đệ truyền chân của ngôn sứ Ê-li-a, tức là tiếp nối sứ mạng ngôn sứ của thầy mình, trở thành một ngôn sứ như thầy mình khi thầy mình ra đi (2V 2). Còn trường hợp Chúa Giê-su, khi Ngài được rước về trời, các môn đệ của Ngài không phải thế chỗ của Ngài. Họ vẫn là môn đệ của Ngài, và Ngài vẫn hiện diện với họ với tư cách Thiên Chúa hằng sống của họ.
BÀI ĐỌC II (Gl 5: 1, 13-18)
Trong đoạn trích Thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô căn dặn họ ba điều quan trọng: người Ki-tô hữu phải sử dụng sự tự do làm con cái Thiên Chúa để sống yêu thương người thân cận như chính mình và sống theo “Thần Khí”.
*1.Sự tự do của người Ki-tô hữu:
“Người Ki-tô hữu đã được gọi để được hưởng tự do”, nhưng sự tự do này thường hằng bị đe dọa vì họ không kháng cự nổi những lời hay ý đẹp của các đối thủ chống đối thánh nhân và trở thành mồi ngon cho một thứ tôn giáo hỗn hợp kể cả phép cắt bì. Đối với thánh Phao-lô, điều này ngầm hủy hoại nền móng Tin Mừng. Người Ki-tô hữu hưởng được tự do không phải vì họ đạt được ơn cứu độ nhờ những việc làm của mình; nhưng vì họ đã được ban cho ơn cứu độ rồi như một ân huệ, thế nên họ được tự do phát triển ơn cứu độ ấy trong vâng phục.
*2.Yêu người:
“Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình”. Khi dạy như thế, thánh Phao-lô không bỏ qua điều răn hàng đầu và cao trọng nhất: “mến Chúa”, vì thánh nhân đang nói với những người đã nghe sứ điệp về đức công chính rồi, và vì thế họ đã biết rõ điều răn mến Chúa rồi. Thánh Phao-lô đang nói cho biết làm cách nào để điều răn mến Chúa tự nó được diễn tả ra ở nơi điều răn yêu người trong cuộc sống hằng ngày. Người Ki-tô hữu được ban cho một độ nhạy bén về yêu người thân cận, nhờ đó họ có khả năng yêu thương người thân cận trong từng hoàn cảnh cụ thể mà không cần bất kỳ luật lệ hay quy định nào dạy cho họ. Người tín hữu được hướng dẫn bởi “yêu người như chính mình”, nghĩa là “nếu ngươi muốn người khác làm cho mình điều gì thì ngươi hãy làm cho người khác như vậy”.
*3.Xác thịt và Thần Khí:
“Xác thịt” mà thánh Phao-lô nói đến ở đây là toàn bộ con người xưa kia chưa được cứu độ của chúng ta. Còn “Thần Khí” như được viết hoa ở đây rõ ràng gợi ra đó là Thần Khí Thiên Chúa có quyền năng biến đổi toàn bộ con người của chúng ta. Vì thế, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu đừng sống theo xác thịt, nghĩa là đừng sống theo cách sống của con người xưa kia chưa được biết đến Tin Mừng của Đức Ki-tô, chưa được Thánh Thần của Ngài biến đổi, đã sống dưới ách nô lệ của những đam mê. Nhưng hãy sống theo Thần Khí, nghĩa là hãy sống theo cách sống của con người mới đã được Tin Mừng và Thần Khí Chúa biến đổi rồi. Có như thế, người Ki-tô mới có thể hưởng được tự do sống làm con cái Thiên Chúa. Giáo huấn này xuất phát từ chính kinh nghiệm của thánh nhân. Xưa kia thánh nhân đã sống theo cách sống của người Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, giờ đây thánh nhân đã được ân sủng của Chúa biến đổi để hoàn toàn tự do trong sự vâng phục Tin Mừng và tuân theo tác động của Chúa Thánh Thần.
TIN MỪNG (Lc 9: 51-13: 21)
Câu mở đầu của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem”, đánh dấu móc điểm cho một cuộc hành trình dài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 51-19: 27). Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem này gồm có ba giai đoạn, mỗi giai đoạn được thánh Lu-ca cẩn thận đánh dấu bằng một móc điểm: “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem” (9: 51; 13: 22; 17: 12). Đây là công trình biên soạn độc đáo của Tin Mừng Lu-ca, trong cuộc hành trình đó, thánh ký muốn độc giả ghi khắc hai dung mạo của Chúa Giê-su: Ngài là người Con chí hiếu hoàn toàn vâng phục thánh ý của Chúa Cha và Ngài là Bậc Thầy tối thượng ban cho các môn đệ những lời dạy cốt yếu để sống đời môn đệ của Chúa Giê-su.
Trong câu đầu tiên này, vế thứ nhất: “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời” hướng độc giả đến cuộc Thăng Thiên của Ngài được thánh Lu-ca tường thuật ở cuối sách Tin Mừng của mình. Như vậy, cuộc Thăng Thiên là mục đích tối hậu của cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, ở đó Ngài sẽ trải qua cuộc Thương Khó và Tử Nạn, cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên. Chúa chúng ta sẽ nói điều này rõ ràng hơn trong bữa Tiệc Ly: “Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha” (Ga 16: 28).
Vế thứ hai: “Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” hướng độc giả đến cuộc Thương Khó và tử Nạn của Chúa Giê-su. Ngài tự nguyện vâng theo chương trình cứu độ của Cha Ngài vì cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài là lộ trình dẫn đến cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên của Ngài.
*1.Dân Sa-ma-ri từ chối Đức Giê-su (9: 51-56)
Rất thích sử dụng hình thức đối xứng, thánh Lu-ca cho thấy Đức Giê-su cũng gặp sự chống đối ngay từ lúc khởi đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem từ phía dân Sa-ma-ri, cũng như trước đây Ngài đã gặp sự chống đối ngay từ lúc bắt đầu sứ vụ tại Ga-li-lê từ phía những đồng hương Na-da-rét của Ngài, đại diện dân Do thái (4: 16-30).
Giữa dân Sa-ma-ri và dân Do thái có mối thù truyền kiếp. Vào thời đế quốc Át-sua thống trị trên các dân tộc khác, đế quốc này dùng chính sách hoán chuyển dân cư để dễ bề cai trị. Vì thế, các dân tộc khác bị lưu đày đến Sa-ma-ri trong khi dân Do thái ở Sa-ma-ri bị lưu đày đến Át-sua (vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên). Dân Sa-ma-ri này đã trộn lẫn tôn giáo của ông Mô-sê với những thực hành mê tín dị đoan từ các tôn giáo của họ, nhất là không chấp nhận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là nơi thờ phượng duy nhất, nơi xứng hợp để người tín hữu dâng tiến những hy lễ lên Thiên Chúa. Họ đã xây dựng một đền thờ của riêng mình trên núi Ga-ri-zim, đối nghịch với đền thờ Giê-ru-sa-lem (x. Ga 4: 20). Đó là lý do tại sao khi biết rằng Đức Giê-su đang đi lên Giê-ru-sa-lem, họ từ chối đón tiếp Ngài.
*2.Phản ứng của hai môn đệ là ông Gia-cô-bê và ông Gioan (9: 54)
Phản ứng của hai môn đệ thân tín là ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?”, gợi nhớ câu chuyện của ngôn sứ Ê-li-a, người của Thiên Chúa đã hai lần gọi lửa từ trời xuống tiêu diệt kẻ thù (2V 1: 10, 12). Một lần nữa, hai người môn đệ này bộc lộ tính khí rất tầm thường của con người: tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt; óc bè phái: phân biệt rạch ròi giữa bạn và thù; và lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giê-su nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân. Quyền hành không phải để trừng trị kẻ không làm đúng ý mình, mà để phục vụ. Lời đề nghị của hai ông còn tệ hơn việc dân Sa-ma-ri từ chối đón tiếp Chúa Giê-su: “Quan niệm cho rằng chỉ có niềm tin của chúng ta và phương pháp của chúng ta mới là đúng, đã gây nên thảm kịch trong Hội Thánh nhiều hơn hầu hết bất cứ sự gì khác… Có nhiều đường tới Thiên Chúa. Thiên Chúa có cái thang bí mật riêng Ngài cho mỗi tâm hồn. Thiên Chúa hành động bằng các đường lối khác nhau, không người nào được giữ độc quyền về chân lý của Ngài” (W. Baclay, TM Mt, 127).
*3.Phản ứng của Đức Giê-su (9: 55-56)
Chúa Giê-su điều chỉnh ước muốn trả thù của các môn đệ Ngài: “Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông”, vì Ngài đến để cứu sống chứ không để hủy diệt con người (x. Lc 19: 10; Ga 12: 47). Các Tông Đồ dần dần học biết rằng không nên phản ứng theo cảm xúc bốc đồng, nhất là nóng giận; phải định hướng phản ứng của mình theo sứ mạng của Thầy mình: không nhằm giết chết nhưng để cứu sống. Nếu làng này không tiếp đón mình thì sang làng khác: “Rồi Thầy trò đi sang làng khác”. Theo cách suy nghĩ loài người, nhường là thiệt thòi, nhịn là nhục; nhưng theo suy nghĩ của Chúa, nhịn nhục là biểu lộ một nhân cách vững vàng và một tấm lòng khoan dung, rộng lượng và tha thứ: “Chúa làm mọi việc theo một cách thức đáng thán phục… Người hành xử theo cách này để dạy cho chúng ta rằng nhân đức thiện hảo không có bất kỳ ước muốn trả thù, và ở đâu có đức ái chân thật ở đó không có sự giận dữ – nói cách khác, người ta không nên cư xử sự yếu đuối một cách khắc nghiệt nhưng nên giúp đỡ. Tâm hồn thánh thiện phải tránh xa sự phẩn uất, và tâm hồn vĩ đại phải tránh xa ước muốn trả thù” (St Ambrose, Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
*4.Những điều kiện để làm môn đệ của Đức Giê-su (9: 57-62)
Trong bản văn này, Chúa Giê-su giải thích kỷ những ai muốn đi theo Người, nghĩa là muốn làm môn đệ Người. Sống ơn gọi Ki-tô hữu không là một công việc dễ dàng và thuận tiện: nó mời gọi từ bỏ bản thân mình và đặt sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng ưu tiên trên hết mọi công việc khác.
Bản văn này gồm có ba cảnh: hai cảnh đầu thánh Lu-ca có chung nguồn với thánh Mát-thêu (Mt 8: 19-22), còn cảnh thứ ba thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca (9: 61-62). Trong cảnh thứ nhất và cảnh thứ ba, hai người tự nguyện xin làm môn đệ; còn trong cảnh thứ hai, chính Chúa Giê-su lên tiếng mời gọi; tuy nhiên trong cả ba cảnh, dù tự nguyện hay được Chúa lên tiếng mời gọi, cả ba người đều đặt điều kiện. Điều quan trọng trong cả ba cảnh này không phải là các nhân vật, vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật như thế nào, mà là giáo huấn của Chúa Giê-su về những điều kiện để làm môn đệ Người.
-Cảnh thứ nhất (9: 57-58): Chúng ta tham dự vào bối cảnh kinh điển, trong đó người môn đệ chọn vị thầy mà mình muốn đi theo thầy, anh bỏ gia đình trong một hoặc nhiều năm để đến ở với thầy và thụ huấn với thầy (x. Ga 1: 37-39). Chúng ta thấy ở đây trường hợp một người muốn đi theo Đức Giê-su, nhưng với một điều kiện – xin cho anh được phép từ biệt gia đình trước đã. Vì thấy anh chưa dứt khoát, Chúa Giê-su cho anh một câu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Qua câu trả lời này, Chúa Giê-su cho anh biết Ngài không giống như các kinh sư khác: cuộc sống của Ngài rày đây mai đó, bởi vì Ngài là một nhà du thuyết bị khước từ, bị truy nã, không có nơi nương náu cố định, không có chỗ tựa đầu để nghỉ ngơi yên ổn mà luôn phải trốn tránh. Như vậy, những ai muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ của Ngài sẽ phải chia sẻ cuộc đời của một nhà du thuyết vô gia cư, không có một mái nhà để qua đêm, luôn luôn sống trong ơn quan phòng của Thiên Chúa.
-Cành thứ hai (9: 59-60): Chúa Giê-su chủ động kêu gọi anh (x. các trình thuật về ơn gọi 5: 27). Người được kêu gọi đưa ra một điều kiện: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”. Ý của người này tuy cũng muốn theo Chúa Giê-su, nhưng xin khuất một thời hạn cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi, nghĩa là chu toàn chữ hiếu đối với cha, rồi anh mới theo Ngài. Câu trả lời của Chúa Giê-su khiến chúng ta phải kinh ngạc: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”, vì câu trả lời này đụng chạm đến bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ (Xh 20: 12). Không phải Chúa Giê-su coi nhẹ bổn phận của con cái đối với cha mẹ (x. Mt 15: 3-9), nhưng Ngài dạy rằng mỗi việc đều có một thời điểm quyết định, nếu bỏ lỡ giờ phút ấy, có thể việc đó sẽ không bao giờ được thực hiện. Nghĩa vụ loan báo Triều Đại Thiên Chúa, bổn phận phục vụ Tin Mừng, cấp bách đến mức phải đặt ưu tiên lên hàng đầu, phải vượt qua cả những mối liên hệ gia đình, nhất là trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì người môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
-Cảnh thứ ba (9: 61-62): Chúng ta trở về với trường hợp kinh điển, một người tự nguyện theo Chúa Giê-su nhưng với một điều kiện: “Nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Chúa Giê-su trả lời: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Câu trả lời của Chúa Giê-su gợi nhớ câu chuyện ơn gọi của ngôn sứ Ê-li-sa (1V 19: 19-21). Khi Ê-li-sa đang cày với đôi bò trên cánh đồng, ngôn sứ Ê-li-a mời gọi ông làm môn đệ của mình; ông xin phép được về từ giả cha mẹ mình trước đã. Được phép của thầy, ông trở về nhà, giết cặp bò, lấy cày làm củi, mở tiệc đãi người thân, rồi bắt đầu theo ngôn sứ Ê-li-a. Nhưng ở đây Chúa Giê-su đòi hỏi còn quyết liệt hơn ngôn sứ Ê-li-a: khi đã tra tay cày bừa cánh đồng của Thiên Chúa, trong đó Chúa khai mở Triều Đại của Người, người môn đệ không được “ngoái lại đằng sau”, đừng quyến luyến quá khứ (của cải, địa vị, những nhân tình thế thái), đoạn tuyệt với con người cũ kể cả những mặc cảm tội lỗi xưa kia, để dành trọn tấm lòng không san sẻ với bất cứ điều gì mà chỉ toàn tâm toàn ý chăm lo công việc Nước Thiên Chúa mà thôi. Chính gia đình cũng thuộc vào một trong những thứ đắt giá mà người môn đệ của Ngài phải bỏ lại đằng sau (x. 18: 29). Vì thế, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta phải cân nhắc cẩn trọng: “Quyết định theo Đức Giê-su không chỉ là kết quả nhất thời của niềm phấn khởi nhiệt tình; điều đó đòi hỏi một quyết định có tính cách kiên quyết” (J. Fitzmyer).
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CHỌN LỰA DỨT KHOÁT- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu cương quyết lên Giêrusalem mặc dù biết rõ lên đấy Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết. Qua chuyện này ta biết Chúa Giêsu trung thành đến mức nào đối với nhiệm vụ mà Chúa Cha giao cho Ngài. Nhiều khi lòng trung thành đòi hỏi phải hy sinh rất nhiều.
Chúng ta hãy bày tỏ lòng trung thành với Chúa, xin Ngài tha thứ cho những lần chúng ta đã bất trung, và xin Ngài giúp chúng ta thêm can đảm để luôn trung thành với Chúa cho dù phải hy sinh.
-Xin Chúa tha thứ những lần chúng con bất trung với Chúa.
-Xin Chúa tha thứ những lần chúng con không dám từ bỏ những điều bất xứng với Chúa.
-Xin Chúa tha thứ những lần chúng con chọn tội lỗi mà bỏ Chúa.
*1. Bài đọc I (1 V 19, 16b. 19-21)
Bài tường thuật ơn gọi của Êlisê:
-Thiên Chúa bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm ngôn sứ thay thế cho mình.
-Êlia đi tìm và gặp thấy Êlisê đang cày ruộng. Ông quăng chiếc áo choàng của mình (tượng trưng cho sứ mạng làm ngôn sứ) cho Êlisê. Êlisê hiểu ý, liền bỏ bò lại chạy theo Êlia, nhưng xin được phép về từ giã cha mẹ trước. Êlia đồng ý. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cày làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo ngôn sứ Êlia.
*2. Đáp ca (Tv 15)
Tác giả Tv này đã nhất quyết chọn Chúa làm cơ nghiệp của mình nên bày tỏ sự phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Chúa.
*3. Tin Mừng (Lc 9, 51-62)
Đoạn Tin Mừng này gồm hai chuyện:
a/ Chuyện một làng Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu: Trước sự việc trái ý này, Gioan và Giacôbê biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
–Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
–Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
–Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Chúa Giêsu dạy hai bài học:
–Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
–Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
b/ Chuyện 3 người muốn làm môn đệ Chúa Giêsu: Điều quan trọng trong những chuyện này không phải là những nhân vật (vì không chi tiết nào mô tả các nhân vật ra sao), mà là giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều kiện để làm môn đệ Ngài.
-Người thứ nhất muốn đi theo Chúa Giêsu đến bất cứ nơi nào. Trường hợp này thường xảy ra trong xã hội thời đó: có những người vì ngưỡng mộ một rabbi nào đó nên bỏ gia đình và xin theo ở với rabbi đó trong một thời gian vài ba năm (xem Ga 1, 37-49)
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không giống như các rabbi: cuộc sống của Ngài là cuộc sống lang thang rày đây mai đó, vì Ngài là một con người bị từ chối (xem chuyện trên, một làng Samaria không tiếp rước Ngài). Vậy điều kiện thứ nhất để làm môn đệ Chúa Giêsu là phải giống Ngài ở chỗ chấp nhận một cuộc sống vật chất không ổn định, có thể bị từ chối và còn có thể bị giết chết nữa.
-Người thứ hai: không phải cha người này vừa chết, nhưng ông ta vẫn còn sống. Ý người này là tuy cũng muốn theo Chúa Giêsu, nhưng xin một thời hạn chờ cho tới khi cha anh chết và được chôn cất xong xuôi rồi anh mới theo Ngài. Trong đầu anh đã có sẵn một ưu tiên: ưu tiên cho bổn phận hiếu thảo.
Chúa Giêsu nói: “Mặc cho kẻ chết chôn người chết”: tiếng Pháp rõ nghĩa hơn “mặc cho les mortels chôn les morts” (nghĩa là mặc cho người phàm lo việc thế phàm. Hiểu ngầm người môn đệ Chúa Giêsu phải lo việc Nước Thiên Chúa). Điều kiện thứ hai là phải dành ưu tiên cho bổn phận đối với Nước Thiên Chúa, trên cả những bổn phận đối với thân nhân. Không phải Chúa Giêsu coi nhẹ những bổn phận đối với gia đình (x. Mt 15, 3-9) nhưng Ngài dạy rằng trong trường hợp có xung đột giữa hai bên thì môn đệ phải coi trọng Nước Thiên Chúa hơn.
-Lời xin của người thứ ba cũng giống lời xin của Êlisê (1. V 19, 19-21). Lời đáp của Chúa Giêsu cũng khiến ta nhớ lúc đó Êlisê đang kéo cày “đầu ngoái lại sau”: còn luyến tiếc quá khứ. Như vậy điều kiện thứ ba là phải dứt khoát với quá khứ (của cải, địa vị vv. . . ), hơn nữa phải có một con tim không san sẻ để chỉ còn lo cho Nước Thiên Chúa mà thôi.
Theo văn mạch: Chúa Giêsu sắp đi vào giai đoạn quyết liệt là chịu chết, sống lại và lên trời. Ngài muốn các môn đệ mình cũng phải đi cùng một hành trình như Ngài. Thế nhưng người ta có thể từ chối lời mời gọi của Ngài bằng nhiều cách: hoặc vì những thành kiến tôn giáo như dân làng Samaria; hoặc vì quá cậy dựa vào những bảo đảm vật chất, những quyến luyến gia đình và quyến luyến quá khứ.
*4. Bài đọc II (Gl 4, 31b–5, 1. 13-18) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng họ đã được rửa tội nên đã trở thành những con người tự do. Sau đó Thánh Phaolô dạy cho họ biết phải sống thế nào như một người tự do: Người tự do là người sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt
– Bởi đó đừng viện cớ mình tự do rồi buông tuồng theo những đòi hỏi của xác thịt.
-Hãy theo Thánh Thần soi sáng mà sống bác ái với anh chị em mình.
* 1. Đời là những chọn lựa
Trong kho tàng chuyện ngụ ngôn có một câu chuyện dí dỏm như sau:
Một con khỉ cầm hai nắm đậu rồng, một hạt đậu rơi xuống đất. Nó tính nhặt hạt đậu đó lên, không ngờ vừa nhón tay lại rơi thêm hai mươi hạt nữa. Nó định nhặt hai mươi hạt đậu đó lên, ai ngờ vừa mở ngón tay, cả nắm đậu trong tay bị bung ra hết. Con khỉ hoảng hốt làm bung nốt nắm đậu ở trong tay kia, nó dùng cả tay lẫn chân vét đậu lại, nhưng càng khều thì đậu càng văng ra xa. Cuối cùng cả hai nắm đậu tản ra trên mặt đất như một đám khói.
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa. Và chọn lựa nào cũng phải chịu thiệt thòi mất mát. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Con khỉ vì tiếc một hạt đậu mà mất cả hai nắm đậu trên tay.
Người thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay xin đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, nhưng Người bắt anh phải chọn lựa: hoặc là được an toàn ổn định dưới một mái nhà, có chăn ấm nệm êm; hoặc là phải bấp bênh phiêu bạt, không một mái nhà: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu” (Lc 9, 58).
Người thứ hai xin đi theo Chúa, nhưng với điều kiện cho anh về chôn cất thân sinh trước đã. Chúa trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa” (Lc 9, 54). Thế là anh phải đứng trước một chọn lựa giữa người thân và việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin đi theo Chúa, nhưng xin phép về từ biệt gia đình. Chúa đòi anh phải chọn lựa dứt khoát: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62).
Thực ra, Chúa Giêsu rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ. Người phán: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mi 15, 4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, nghĩa là Người muốn chúng ta chọn lựa đâu là ưu tiên một, đâu là ưu tiên thứ yếu. Đối với người tín hữu Kitô, ưu tiên một chính là việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nó quan trọng hơn cả cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình nữa (x. Lc 14, 26).
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người tín hữu Kitô là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình. . . Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Chúa Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mi 6, 33). (TP)
* 2. Suy nghĩ về điều kiện thứ nhất: “Không có chỗ gối đầu”
“Chỗ gối đầu” là một nơi thoải mái mình muốn chọn làm nơi thường trú, là một nếp sống tiện nghi mình muốn được hưởng mãi. Ai mà không thích có một chỗ gối đầu như thế.
Tuy nhiên nếu là môn đệ Chúa Giêsu thì không được “mọc rễ” ở “chỗ gối đầu” đó. Một vài thí dụ:
-Cuộc sống của tôi đã thành nếp: ban ngày làm việc, tối về nhà nghỉ ngơi giải trí với gia đình, ngày Thứ bảy Chúa nhựt là thời gian hưởng thụ. Những lúc nghỉ ngơi, giải trí và hưởng thụ ấy chính là những “giờ thánh” của tôi, không ai được đụng đến. Nhưng tối nay, nhà hàng xóm có người hấp hối, người ta mời tôi sang cầu nguyện, phải bỏ mất một tập phim truyền hình đang hồi gay cấn! Chúa nhựt tới, Cha Xứ mời tôi dự phiên họp các gia trưởng, mất toi một buổi nghỉ ngơi! Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những mất mát đó.
-Từ trước tới nay tôi là một tín hữu bình thường, đọc kinh tối sáng hằng ngày, Chúa nhựt và lễ trọng đều đi dự lễ. Tôi thấy như vậy là đủ quá rồi. Bây giờ người ta mời tôi tham gia sinh hoạt đoàn thể trong Xứ đạo: nào là hội họp, nào là đi công tác tông đồ, nào là đóng góp quỹ này quỹ nọ… Nếp sống của tôi bị xáo trộn. Nếu muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, tôi phải chấp nhận những xáo trộn đó.
* 3. Suy nghĩ về điều kiện thứ hai: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”
Có thể chia những việc làm thường ngày của chúng ta thành hai loại: những việc “của kẻ chết” là những việc lo cho đời sống vật chất như làm ăn kiếm tiền, nhà cửa, tiện nghi, giải trí, hưởng thụ, địa vị, thể diện v. v. Và những việc “hằng sống” như cầu nguyện, bác ái, tông đồ, truyền giáo…
Chúa dạy người môn đệ Ngài phải ưu tiên cho những việc sau, hoặc khi có mâu thuẫn giữa hai loại việc thì phải can đảm bỏ loại việc thứ nhất để chọn loại việc thứ hai.
Thực tế, hằng ngày chúng ta lo loại việc thứ nhất nhiều hơn loại việc thứ hai; và khi phải chọn một bỏ một thì chúng ta chọn loại thứ nhất và không chút ngần ngại bỏ loại việc thứ hai.
*4. Óc phe nhóm
Bắc Ai Len là một đất nước mà những người tin lành và những người công giáo thường xuyên xung đột với nhau. Jackie Hewitt là chủ tịch một Cộng đồng Tin lành. Một hôm ông đang lái xe về thủ đô Belfast thì nghe Radio trên xe loan tin có một quả bom phát nổ ở Shankill (khu vực của người tin lành) làm cho 3 người chết. Ông nổi giận và nghĩ “Khốn kiếp, cần phải đặt một quả bom ở khu Falls Road (khi của người công giáo)”. Xe ông chạy gần tới Belfast thì Radio lại loan tin có thêm một quả bom phát nổ nữa và làm chết thêm 7 người. Ông hét lên: “Phải cài 2 quả bom bên khu người công giáo”. Cuối cùng xe của ông chạy tới nơi xảy ra vụ nổ. Ông thấy những người đồng đạo kẻ thì khóc, người thì la, đòi trả thù. Những lời la hét ấy cũng giống những lời của ông thôi, nhưng chúng làm ông phát sợ: “Khi tôi nghe người ta hét lên những điều chính tôi đang nghĩ trong đầu, tôi thật sự hoảng sợ”.
Vào thời Chúa Giêsu, những người Samaria và những người Do Thái là kẻ thù của nhau. Vì thế khi dân cư một làng Samaria nghe tin Chúa Giêsu muốn đi ngang làng họ để lên Giêrusalem thì họ không đón tiếp Ngài. Giacôbê và Gioan nổi giận, xin Chúa Giêsu cho họ khiến lửa từ trời xuống đốt rụi cả làng Samaria ấy.
Đây là một thí dụ điển hình của óc phe nhóm. Phe nhóm của tôi đúng hay sai gì thì cũng là phe nhóm của tôi nên tôi cương quyết bảo vệ, và chống lại phe nhóm khác. Óc phe nhóm của những người Samaria đã tệ, mà óc phe nhóm của hai môn đệ còn tệ hơn: theo họ nghĩ, ai mà chống lại phe nhóm của họ là chống chính Thiên Chúa cho nên phải bị Thiên Chúa trừng phạt.
Nhưng Chúa Giêsu không tán thành, Ngài quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.
Trả thù thì dễ. Không trả thù mới khó, vì nó đòi hỏi ta can đảm hơn và có nghị lực nhiều hơn. Việc Chúa Giêsu không cho môn đệ trả thù và Thầy trò đi sang làng khác chứng tỏ Chúa Giêsu can đảm và rất nhiều nghị lực. Kẻ yếu thì nghĩ rằng mình phải thắng, còn người mạnh thì biết rằng mình không cần phải thắng trong mọi trường hợp.
Cần phải chống lại sự xấu, nhưng không phải bằng cách dùng một sự xấu khác, bởi vì sự xấu chỉ có thể được chế ngự bằng sự thiện mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta hiểu rằng muốn đi theo Chúa thì chúng ta phải theo con đường của Ngài, đó không phải là con đường báo thù, con đường bạo động, mà là con đường yêu thương, con đường cứu độ (FM)
*5. Không bỏ cuộc
Viktor Frankl bị giam cầm 3 năm trong những trại tập trung Auschwitz và Dachau của Quốc xã Đức. Ông kể lại câu chuyện sau:
Ông là một bác sĩ nên được giao trách nhiệm chăm sóc các tù nhân bị bệnh. Gần cuối cuộc chiến, ông và một bạn tù đã tìm được một cách để vượt ngục. Nhưng trước khi trốn đi, ông đi một vòng thăm các bệnh nhân. Một bệnh nhân sắp chết hỏi “Có phải ông sắp trốn ra không?” Frankl chối. Nhưng câu hỏi ấy cứ ám ảnh ông, khiến ông có mặc cảm tội lỗi là ông đào nhiệm. Ông thấy mình có lỗi với các bệnh nhân. Cuối cùng ông bảo người bạn kia hãy trốn đi một mình, còn ông thì quyết định ở lại. Từ lúc đó ông thấy lòng mình rất thanh thản. Dù ông biết rằng tiếp tục ở lại trong trại tập trung thì sẽ gặp rất nhiều khổ sở, nhưng ông chấp nhận và cảm thấy rất bình an trong lòng.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng câu “Chúa Giêsu nhất quyết lên Giêrusalem”. Ngài biết có rất nhiều gian khổ đang chờ Ngài ở Giêrusalem như bị từ chối, bị phản bội và bị giết chết. Nhưng sứ mạng Chúa Cha giao cho Ngài ở Giêrusalem thì Ngài phải hoàn thành, không thể quay lui được.
Đáp lại một người muốn đi theo làm môn đệ Ngài, Chúa Giêsu cũng nói “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Đã dấn thân theo một lý tưởng thì phải kiên trì cho đến cùng.
Điều này ban đầu thì dễ. Nhưng với tháng năm trôi dần, khó khăn tăng thêm thì kiên trì trở nên rất khó. Khi ấy, ta bị cám dỗ “ngoái lại đàng sau”.
Lời Chúa Giêsu nói với người muốn theo làm môn đệ Ngài cũng là nói với chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta theo Ngài không phải trong một thời gian mà theo suốt cả đời.
Xin Chúa giúp chúng ta kiên trì bước theo Ngài, không bao giờ “ngoái lại đàng sau” (FM)
*6. Vài mẫu chuyện minh họa cho việc trả thù
a/ Đem yêu thương vào nơi oán thù
Cha S. Hodden thấy một đại úy đến xin học đạo. Khi ngài hỏi lí do, ông trả lời như sau: “Trong đại đội tôi, có một binh nhì là Kitô-hữu. Đêm nọ, anh đi gác về, mình mẩy ướt nhẹp, nhưng trước khi ngủ, anh còn quì gối đọc kinh. Ngứa mắt, tôi đá cho anh một cú vào đầu, ngã lăn ra. Nhưng anh ngồi dậy, không nói gì và tiếp tục cầu nguyện. . Sáng hôm sau, tôi thấy đôi giầy mà tối qua tôi đá anh được đánh bóng láng và xếp ngay ngắn bên giường ngủ. Điều đó làm tôi sững sờ, hổ thẹn và vì thế tôi quyết tâm học đạo. “
b/ Không có kẻ thù
Một thầy giảng lên tiếng: Mọi người đều có kẻ thù. Ông mời bất kỳ một thính giả nào không có kẻ thù lên nói về chính mình.
Một sự thinh lặng đồng tình với lời xác quyết đó. Nhưng rồi một người già giơ tay và nói: “Tôi không có kẻ thù”.
Đương đầu với lời mời và gây sự chú ý của thính giả, ông nói: “Rất dễ. Tôi không quan tâm đến họ”.
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trung thành theo Chúa đến cùng, bất chấp mọi thử thách gian nan, là lý tưởng của người Kitô hữu. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh có sứ mạng củng cố đức tin cho người Kitô hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn tìm mọi phương thế thích hợp / để giúp các tín hữu sống trọn vẹn niềm tin của mình.
- Khuynh hướng thích báo thù / dùng bạo lực để giải quyết tranh chấp / gây ra biết bao thảm họa cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau.
- Thánh Phaolô cho biết: / dấn thân theo Đức Kitô là sống bác ái yêu thương và phục vụ lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết cố gắng thực hiện lời khuyên của vị tông đồ dân ngoại.
- Chúa Giêsu đã nói: / Ai yêu mến Thầy / sẽ giữ lời Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trong đời sống chứng nhân thường ngày, chúng con gặp biết bao là thử thách gian truân. Vì thế, để có thể trung kiên bước theo Chúa đến cùng, sức riêng của chúng con không thể thực hiện được. Vậy, xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con đi trọn cuộc lữ hành trần thế. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa Giêsu quở trách hai môn đệ muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt làng Samaria, và hãy sốt sắng khi đọc câu “xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Chúng ta sắp trở lại cuộc sống. Hãy nhớ những gì Chúa đã dạy chúng ta trong Thánh lễ hôm nay và hãy can đảm chọn lựa những gì thuộc về Nước Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
DẤN THÂN THEO ĐỨC KITÔ- Lm. Giuse Đinh lập Liễm
Mọi người đều có ơn gọi đi theo Chúa. Ngày xưa, Thiên Chúa trực tiếp kêu gọi một số người như Maisen, Êlia, các tổ phụ, các tiên tri, các Tông đồ, nhưng thường Ngài gọi qua trung gian như trường hợp Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay. Êlia đã truyền nghiệp tiên tri cho Êlisê bằng việc quăng áo choàng của mình cho ông và ông này đã từ bỏ mọi sự mà theo Êlia. Ngày nay Chúa vẫn còn tiếp tục kêu gọi chúng ta theo Chúa bằng ơn thánh, bằng những biến cố bên ngoài hoặc bằng những người khác hướng dẫn, và sự đáp trả tùy thuộc ở sự tự do của mỗi người.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc ba người thanh niên được kêu gọi đi theo Đức Giêsu để làm môn đệ. Tuy là ba trường hợp khác nhau, nhưng điều kiện Đức Giêsu đưa ra đều giống nhau là phải từ bỏ mọi sự, dứt khoát, quên đi quá khứ, và còn phải chấp nhận một cuộc sống bấp bênh về vật chất. Trước những điều kiện khắt khe này, không biết ba người đó có quảng đại chấp nhận để theo Chúa không vì Tin mừng không nói rõ.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đương nhiên chúng ta trở thành “Kitô hữu”, là “Alter Christus” (Chúa Kitô khác), và một khi đã là Kitô hữu thì đương nhiên chúng ta đi theo Chúa, trở thành môn đệ của Ngài. Do đó, bổn phận của Kitô hữu là phải sống đời chứng nhân, phải trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để có thể nói như thánh Phaolô:”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 1V 19,16b.19-21.
Thiên Chúa kêu gọi người ta không theo bất cứ tiêu chuẩn nhân loại nào cả. Ngài hoàn toàn tự do kêu gọi. Phần con người, khi đã nhận ra được Thiên Chúa gọi thì phải mau mắn đáp trả.
Thiên Chúa phán bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm tiên tri thay cho mình. Êlia đã đi tìm và gặp Êâlisê đang cầy ruộng. Thay vì đặt tay trên Êlisê, tiên tri Êlia quăng áo khoác của mình cho đệ tử, để truyền thừa cho Êlisê ân sủng kế nghiệp làm tiên tri. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cầy làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo tiên tri Êlia với sự tự nguyện và đại độ hy sinh tất cả để nghe theo tiếng gọi của Chúa.
+ Bài đọc 2 : Gl 5,13-18.
Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng nhờ phép rửa tội họ đã thoát khỏi sự ràng buộc của luật đạo cũ để trở nên con người tự do. Cuộc sống con người tự do là sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt.
Chúng ta là những con người tự do, chỉ tuân thủ một lề luật duy nhất là : yêu mến Chúa và yêu thương anh em như chính mình. Điều này là cốt lõi của đạo mới.
+ Bài Tin mừng : Lc 9,51-62.
Bài Tin mừng chia làm hai phần :
- a) Chuyện dân làng Samaria không đón tiếp Đức Giêsu.
Muốn cho gần, Đức Giêsu muốn đến Giêrusalem, phải đi qua vùng Samaria. Vì sự nghi kỵ và thù hằn giữa người Do thái và Samaria, dân làng không đón tiếp mà còn gây phiền nhiễu. Trước sự kiện này, hai ông Giacôbê và Gioan nổi nóng muốn lửa trên trời đốt cháy dân làng này, nhưng Đức Giêsu khuyên các ông hãy nhường nhịn và khoan dung.
- b) Chuyện ba người muốn làm môn đệ Đức Giêsu.
Điều quan trọng trong những câu chuyện này không phải là những nhân vật, mà là giáo huấn của Đức Giêsu và những điều kiện để làm môn đệ Ngài. Ngài đưa ra những yêu cầu khẩn thiết là phải từ bỏ nếp sống an toàn, phải coi việc Nước Chúa quan trọng hơn hết và phải quyết tâm tiến tới, đừng ngoái cổ về dĩ vãng.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Dứt khoát đi theo chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta thấy ghi lại hai sự kiện tuy khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa, nói lên tinh thần môn đệ của Đức Giêsu phải có .
Đối với việc dân làng Samaria không đón tiếp Chúa, còn gây khó khăn cho cuộc hành trình của Ngài, Đức Giêsu dạy các môn đệ phải có tình thần nhường nhịn và khoan dung bởi vì :”Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Còn đối với những người đi theo Chúa, Ngài muốn nêu lên những đức tính mà những người theo Ngài phải có, cũng như những đòi hỏi của sứ vụ tông đồ.
- CÂU CHUYỆN DÂN LÀNG SAMARIA VỚI ĐỨC GIÊSU.
-Giữa người Do thái và Samaria có một sự xung khắc về quốc gia và tôn giáo. Người Samaria bị những người Do thái giáo coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Garizim để cạnh tranh với đền thờ Giêrusalem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” ấy (Ga 4,9-20). Bị những người Do thái khinh bỉ, họ trả đũa lại bằng cách gây ra mọi phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilêa về Giêrusalem.
Vì hoài nghi tâm địa người trong thôn xã, Đức Giêsu sai một số môn đệ không phải là tông đồ (Lc 6,13; 10,1) vào thương lượng trước với người trong làng. . Người Samaria sẵn có ác cảm từ lâu đời đối với người Do thái, nhất là trong các dịp đại lễ, tinh thần ác cảm đó còn gợi lại mạnh mẽ thêâm vì người Do thái thường chỉ trích người Samaria về việc thờ Chúa ở trên núi Garizim, hai nơi vẫn còn tranh chấp về việc thờ tự Thiên Chúa. Vì thế, khi nghe phái đoàn đi Giêrusalem, người trong làng từ chối không chấp nhận.
Trước thái độ từ chối của dân làng Samaria, hai ông Giacôbê và Gioan, với biệt hiệu là “Con trai Thiên Lôi”: muốn xin lửa từ trời xuống thiêu đốt những kẻ nghịch này. Hai ông có thái độ như thế vì nhớ lại trường hợp tiên tri Êlia đã làm xưa (2V 1,10) và nghĩ rằng dân làng Samaria làm như thế là đã làm nhục cho Chúa. Đây là thái độ còn nhiều tinh thần Cựu ước, tinh thần báo thù.
-Ở đây Đức Giêsu muốn cho các môn đệ một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Ngài vốn là Đấng toàn năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế bắt các bề tôi và kẻ thù phải qùi mọp dưới chân, nhưng Ngài chờ đợi họ hoán cải như người cha, người mẹ đối với con cái :”Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa”.
Các môn đệ được hiểu rằng việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa tình thương. Đức Giêsu muốn dạy cho các ông con đường đi theo Chúa không luôn thẳng tắp, không gặp trắc trở. Vậy những ai muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh Phanxicô Salêsiô nói :”Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn một thùng giấm”.
- CÂU CHUYỆN BA NGƯỜI MUỐN LÀM MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊSU.
Bị người Samaria từ chối thẳng thừng, Đức Giêsu không để ý đến việc đó, Ngài bảo các môn đệ đi sang làng khác để đi tới Giêrusalem. Trên đường tiến về Giêrusalem, Luca ghi lại có ba trường hợp về ơn gọi theo Chúa. Ba trường hợp khác nhau nhưng tất cả đều nói lên những đòi hỏi dứt khoát đối với những người muốn làm môn đệ Chúa.
*1. Trường hợp thứ nhất.
Một người tự nguyện đến xin theo Đức Giêsu, Ngài bảo anh ta :”Con cáo cóù hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi tựa đầu”.
Người thứ nhất, theo Tin mừng Matthêu, là một luật sĩ, tự thân hành đến theo Ngài. Thấy người ta tấp nập đi theo Chúa, anh cũng hớn hở đi theo, phải chăng anh ta “Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào”(tục ngữ) ? Anh ta sẵn sàng đi theo Ngài khắp nơi, phải chăng vì anh ta thấy nơi Ngài có thể thoả mãn được những tham vọng của anh như giầu có, địa vị, quyền thế… Nhưng Đức Giêsu đã trả lời rằng Ngài nghèo lắm, không có nhà cửa, chỉ sống nay đây mai đó, không có gì bảo đảm cho cuộc sống, đến nỗi còn thua con chồn có hang, chim trời có tổ. Ngài nghèo đến nỗi không có nơi tựa đầu, tức là không có một cái nhà để ở.
Ngài cho biết là Ngài nghèo như thế đó, anh ta có thể theo được không ? Ngài muốn đòi hỏi phải từ bỏ mọi an toàn, nhất là vật chất. Tin mừng không cho biết anh ta có chấp nhận điều kiện Ngài đưa ra không, tức là anh ta có đi theo Ngài không ?
*2. Trường hợp thứ hai.
Đức Giêsu kêu gọi một kẻ theo Ngài. Anh ta xin khất trở về chôn cất cha già mới chết đã. Ngài bảo :”Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”(Lc 9,59-60).
Anh chàng này không tự ý đến xin theo Đức Giêsu, nhưng chính Ngài kêu gọi anh ta. Anh ta sẽ đi theo Ngài nhưng chỉ xin về chôn cất cha già mới chết đã rồi sẽ đi theo. Nhưng Đức Giêsu không chấp nhận. Phải chăng Ngài không chấp nhận vì kế hoãn binh của anh ta ? Nói rằng “về chôn cất cha già” không nhất thiết là cha già vừa mới chết, vì tại Palestine, việc chôn cất một người chết phải được thực hiện ngay trong ngày, nên khó mà nghĩ rằng Đức Giêsu đã không đồng ý cho anh ta lưu lại vài giờ trong trường hợp ấy. Nhưng ở đây anh ta có ý thoái thác, muốn đợi cho cha mình chết rồi mới có thể theo Đức Giêsu. Đó là cách trì hoãn mà Ngài từ chối.
Thực ra, Đức Giêsu không bãi bỏ giới răn thứ tư, nhưng Ngài dạy rằng có những lúc phải đặt việc phụng sự Chúa trước và trên hết (Lc 14,26). Trong trường hợp phải lựa chọn, thì những đòi hỏi của Nước Trời phải chiếm phần ưu tiên trên tất cả. Như vậy, trong trường hợp thứ hai này, Đức Giêsu muốn đòi hỏi phải coi tất cả là phụ thuộc trước bổn phận cấp bách rao giảng Tin mừng.
Chúng ta có những gương : Thánh Neron, tử đạo tại Sơn tây Việt nam, trên đường xuống hải cảng Marseille để đi truyền giáo, đã cố tình tránh cha mẹ bà con ra tiễn tại sân ga. Nữ thánh Chantal nước mắt tràn trụa bước qua các con nằm chận cửa, không cho mẹ đi lập dòng Thăm Viếng.
*3. Trường hợp thứ ba.
Trong trường hợp này, cũng có một anh chàng đến xin theo Đức Giêsu, giống như trường hợp người thứ nhất. Điều kiện tiên quyết mà anh ta đặt ra gần giống điều kiện của Êlisê (bài đọc 1), tức là xin về từ giã gia đình trước đã. Đức Giêsu trả lời :”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,60-61).
Tin mừng diễn tả thái độ dứt khoát từ bỏ của ông Phêrô và Anrê:”Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài”(Mt 4,20), của Giacôbê và Gioan :”Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha mẹ mà theo Ngài”(Mt 4,22).
Đối với anh chàng này xem ra anh ta còn lưỡng lự, nhập nhằng nửa muốn theo, nửa còn quyến luyến thế gian. Nên Đức Giêsu nói rõ:”Ai đã trao tay vào cầy mà còn ngoái lại sau lưng thì không xứng đáng Nước Thiên Chúa”. Kinh nghiệm cho hay để rạch một đường cầy cho đúng thì không được quay mặt lui. Ở đây muốn nói : Theo Đức Giêsu thì phải dứt khoát với quá khứ, không những phải cắt đứt những ràng buộc cũ với gia đình mà còn phải từ bỏ nỗi lo lắng giữ lại tất cả gia sản, những giá trị và kinh nghiệm luân lý mà quá khứ đã cho ta đạt được. Để trở nên thích hợp với Nước Trời, phải từ bỏ tất cả quá khứ (1Pr 5,8-9).
Thế mà vẫn có một số người luôn để lại con tim ở một nơi nào, cho một ai đó trong quá khứ như bài hát :”Để quên con tim” của Đức Huy :”Ngày rời Paris anh đã để quên con tim” hay đi tìm hạnh phúc ở sự nuối tiếc những ngày tháng huy hoàng đã qua.
Và trong cuộc sống mới phải có một con tim không chia sẻ, phải bước đi mắt nhìn thẳng về phía đàng trước (1Pr 3, 43) nghĩa là nhìn vào Đấng đi trước là Đức Giêsu Kitô (Dt 12,1-2). Trường hợp thứ ba này, Đức Giêsu muốn đòi hỏi phải quay lưng lại quá khứ và nhìn về phía đàng trước . Thánh Phaolô đã thực hiện Lời Chúa :”Quên phía sau mà lao mình tới trước, tôi nhắm đích chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi Chúa ban”(Phil 3,13-14).
Truyện : Ta đã ném vào chỗ đó.
Một linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông. Có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử, rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc qúi như của lễ ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, người đàn ông giầu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc. Nhưng mất một ngày mà không tài nào tìm lại được. Chiều đến, người đàn ông đến xin vị linh sư chỉ rõ nơi ông đã ném viên ngọc quí. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném xuống sông và nói :”Ta đã ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm”.
III. CÂU CHUYỆN ĐỜI KITÔ HỮU.
- Câu chuyện lựa chọn trong đời.
Đời là một chuỗi những lựa chọn, lựa chọn cho mình và cho người khác. Lựa chọn cho mình là quan trọng nhất vì mình phải nhận lấy cái hậu quả của sự lựa chọn ấy. Vì thế, người ta thấy thao thức băn khoăn đứng trước một sự lựa chọn quan trọng . Lựa chọn đòi sự dấn thân.
Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà lựa chọn là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do chọn lựa và những điều tương lai có thể dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể rồi, ta có quyền bước lên.
Có những định hướng lựa chọn cho cả cuộc đời. Sự liều lĩnh lại còn lớn hơn. Chọn một nghề nghiệp nhiều khi cũng quan trọng vô cùng, nhưng thường người ta có thể thay người mà không ảnh hưởng sâu xa đến đời sống. Còn chọn một người bạn trăm năm, hay chọn con đường tu trì gần như là chọn chính đời sống của mình. Đó là những chọn lựa căn bản, sẽ chi phối những chọn lựa riêng rẽ khác về sau. (Nguyễn hồng Giáo, báo Nhà Chúa, 1971).
Ai mà không lo lắng trước khi kết hôn vì đây là khúc quặt của đời sống, nó chi phối cả cuộc đời của mình, may rủi ai mà biết ? Một cô gái trước khi lấy chồng đã nói lên nỗi băn khoăn lo lắng của mình trước một tương lai còn mở rộng ra trước mắt :
Theo anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo, anh bán em đi.
Người muốn chọn bậc tu trì cũng không khỏi băn khoăn thao thức trước quyết định của mình. Sống độc thân hay lập gia đình ? Nếu sống độc thân thì sống ở ngoài đời hay trong bậc tu trì ? Nỗi băn khoăn đó đã được Thanh Tâm diễn tả trong Lời nguyện biện phân của mình :
… Con yêu biết bao khung cảnh yên tịnh và bầu khí thánh thiện của các tu viện, nhiều lúc con xúc động mãnh liệt khi tham dự các lễ khấn trong Dòng, khi thấy các soeurs, các thầy sống vui tươi với đời tận hiến. Con bắt đầu hiểu đúng hơn về từ LỰA CHỌN. Không phải là chọn lựa giữa cái xấu và cái tốt nhưng là lựa chọn giữa hai điều cùng tốt như nhau đối với mình, chọn một, bỏ một và có khi bỏ với một sự tiếc nuối. Con nghĩ về mối tình của mình và cuộc sống dấn thân đang mời gọi. Bên nào cũng đẹp, song thật tình mà nói con vẫn muốn có cả hai. Dao động, băn khoăn, thao thức…
Có lẽ Chúa đã chuẩn bị cho con tất cả những gì cần thiết để đến một lúc, con biết bình tĩnh và nhẹ nhàng chia tay với người yêu. Không phải là con đã lựa chọn nhưng đã có những trắc trở nào đó can thiệp và con hiểu rằng không thể làm khác được. Song con hiểu rằng, Chúa đã chuẩn bị từng bước cho con để con có thể đứng vững trước sự mất mát của mình. Chúa biết rõ sự yếu đuối của con và Chúa đã tiếp sức cho con (Thanh Tâm, Chúng tôi những người trẻ… 1993, tr 70).
Lựa chọn là một hành vi nhân linh. Con vật cũng có lựa chọn nhưng chỉ là lựa chọn theo bản năng, còn con người hơn con vật ở chỗ biết lựa chọn theo lý trí và ý chí của mình. Có người không dám lựa chọn nên không có hướng đi cho cuộc sống, họ sống vất vưởng ở ngã ba đường.
Truyện : bắt cá hai tay.
Ông viện trưởng Đại họa Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghiệm như sau : Ông để cho con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hết nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt lả mà chết.
*2. Câu chuyện làm Kitô hữu.
Mọi người sinh ra ở đời đều có khả năng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa qua những khả năng tự nhiên của mình. Nhìn vào trời đất vạn vật, lý trí nhắc nhở ta phải nhìn nhận có một vị dựng nên tất cả những cái đó. Và nếu đứng về phương diện tôn giáo thì phải gọi đấy là Đức Chúa Trời.
Khi Ngôi Hai xuống thế làm người mặc lấy thân xác loài người, trở nên con người như mọi người, là Đức Giêsu Kitô thì Thiên Chúa cũng ban cho con người có khả năng nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa qua ánh sáng mạc khải. Qua ơn soi sáng của Chúa, con người có thể khám phá ra Đức Giêsu.
Truyện : Khám phá ra Đức Giêsu
Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã giúp con người giảm bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào trong y khoa.
Một hôm có người hỏi James Simpson :
– Ông cho điều gì là khám phá lớn nhất của ông ? Và mong được câu trả lời rằng :
– Thuốc mê – vì ông là người đã khám phá ra môn thần dược này.
Nhưng Simpson trả lời rằng :
– Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giêsu, Chúa Cứu chuộc của tôi.
Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu một cách hữu hình thì có thể hình dung ra con người của Ngài với một vài nét mờ nhạt. Dĩ nhiên sự hình dung đều đa dạng, hình dung nào cũng chỉ có thể nói lên được một khía cạnh con người của Ngài . Qua thời gian có nhiều cách hình dung :
– Người Do thái coi Đức Giêsu như một người giảng đạo, một người làm phù phép.
– Vào những năm đầu của thập niên 70, cao trào hippi đang lên, người ta coi Ngài như tiêu biểu và người mẫu cho giới Hippi.
– Đối với Fidel Castro và Nguyễn văn Linh thì Đức Giêsu là một nhà đại cách mạng. Vì Ngài đã đề xuất nhiều quan điểm cấp tiến, táo bạo để cải thiện xã hội, cải thiện con người với người.
– Trước đây vài chục năm. một cuốn phim về Chúa Giêsu với dụng ý bôi lọ Chúa, đã coi Chúa như gã si tình nàng Madalena.
Ta thấy Chúa Giêsu đã được hình dung, tô vẽ thật phiến diện. Sai ? Đúng ? Bị bóp méo ? Tất cả những hình dung ấy đều cho ta thấy rằng : Đức Giêsu luôn luôn là nhân vật bắt buộc người ta đặt vấn đề.
Ta phải khẳng định : “Đức Giêsu hôm qua, hôm nay và muôn thuở vẫn là một”(Dt 13,8).
Hình dung nào cũng phiến diện, chỉ có lời tuyên xưng của Phêrô là đủ :”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16) (GM Nguyễn bình Tĩnh, Như một kỷ niệm, tr 15).
Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta biết rằng mọi người có ơn gọi đi theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Ngài. Chúa có thể kêu gọi trực tiếp hay gián tiếp qua những hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên, những người đã được chịu phép Thánh tẩy thì đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu vì họ được mang tước hiệu là “Kitô hữu”, người Kitô hữu là một “Kitô khác”, là “Alter Christus”, được mang danh Ngài, được thuộc về Ngài, được kết hợp với Ngài, để có thể nói được như thánh Phaolô:”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Về tước hiệu cao quí này, thánh Grêgôriô, Giám mục Nitxê đã phát biểu :”Chúa nhân lành đã thông ban cho chúng ta một danh hiệu cao quí nhất, linh thiêng nhất, trọng đại nhất, vượt trên mọi danh hiệu, đến độ chúng ta được vinh dự mang chính danh của Đức Kitô khi được gọi là “Kitô hữu”. Vì thế, mọi danh xưng dùng để giải thích tên gọi trên nhất thiết phải được tỏ rõ nơi con người chúng ta. Chúng ta đừng để mình bị xem là “Kitô hữu” giả, nhưng phải dùng đời sống mình mà minh chứng cho tên gọi ấy” (Các bài đọc Kinh sách, tập 3, tr 351).
Được làm môn đệ của Đức Kitô là một vinh dự. Nhiều người đã nhận lấy vinh dự đó trong ngày chịu phép rửa tội. Họ đã thề hứa trung thành với Chúa, nhưng mối quan hệ của những người thời nay đã làm cho lòng tin của họ bị lung lay, chao đảo, họ có mặc cảm về sự lựa chọn của mình, họ không giữ vững lấp trường nên dần dần họ sống theo dư luận, xa dần với đời sống Kitô hữu.
Truyện vui : Sống theo dư luận,
Hai cha con một bác nhà quê dắt con lừa đi ra tỉnh. Mới đi được một quãng thì gặp một người hỏi :
– Chà, sao ông không để cho con ông cỡi con lừa ?
– Ồ, tôi chưa nghĩ tới điều đó.
Nói xong ông bồng con cho ngồi lên lưng lừa. Đi được một lát lại gặp một người khác nói :
– Sao mày ngồi trên lưng lừa mà để cho ông già đi bộ ? Mày xuống ngay đi cho cha mày cỡi.
– Phải đấy.
Đứa con vội nhảy xuống đất đỡ cha mình lên lưng lừa. Đi thêm một đỗi nữa họ gặp một mụ bán cá, mụ kêu lên :
– Ông không mắc cỡ à, sao lại để thằng bé phải đi bộ dưới trời nắng như thế ?
Ông già tuột xuống khỏi lưng lừa và hai người tiếp tục đi bộ như trước. Khi sắp vào thành phố, có mấy người nhìn chăm chăm và nói :
– Sao hai cha con không biết cỡi lên lưng lừa mà đi cho khỏe ?
Hai cha con nghe nói chí lý liền leo lên. Nhưng con lừa mới đi được mấy bước đã quị xuống vì không chịu nổi sức nặng. Hai cha con lại vội vã xuống đi bộ và dắt lừa đi như trước.
*3. Câu chuyện sống đời Kitô hữu.
Chúng ta phải cảm tạ ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta được trở thành “Công dân Nước Trời” qua bí tích rửa tội. Đây là một hồng ân nhưng không Chúa ban chứ không phải do công nghiệp của chúng ta. Người ta cho biết : muốn được làm công dân Hoa kỳ thì phải qua một kỳ thi nhập tịch khó khăn. Muốn được làm “Công dân danh dự” Hoa kỳ lại càng khó. Cho đến nay chỉ có 4 người được trao tặng vinh dự nói trên. Đó là thủ tướng Anh Winston Churchill, nhà ngoại giao Thụy điển Raoul Wallenberg và vợ ông là William Hannah Penn; và Mẹ Têrêsa Calcutta mới được trao tặng vinh dự vào ngày 01.10.1996.
- a) Kitô hữu sống đời chứng nhân.
Mỗi Kitô hữu được gọi trở nên chứng nhân của Tin mừng bằng cách tiếp cận trực tiếp giữa người với người. Hẳn nhiên, bổn phận này cũng có thể thực hiện dưới nhiều hình thức, kỹ thuật khác nhau, nhằm canh tân cuộc sống xã hội, cổ vũ công bằng và hoà bình thế giới. Nếu ta cho rằng không phải Kitô hữu nào cũng có thể đóng nổi một vai trò hữu hiệu trên bình diện xã hội, trong sinh hoạt tập thể, thì ta cũng có một lối tiếp cận trực tiếp và thân mật mà mỗi người ở cấp độ nào cũng có thể thực hiện được. Chúng ta hãy là que diêm đang cháy và tiếp cận với những cây diêm khác.
Truyện : Gương lành lôi kéo.
Một nhà truyền giáo tại Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên cạnh, đến nuôi dạy ông tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như sau :
– Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.
Nhà truyền giáo trả lời :
– Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ trở lại đạo Chúa.
Nhưng người tín đồ Ấn độ giáo đáp lại :
– Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng : không ai có thể sống bên cạnh ngài lâu, mà không bị ngài cảm hoá tin theo Chúa. Tôi không thể dạy ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô.
- b) Kitô hữu phải đi qua cửa hẹp.
Muốn đi theo Đức Kitô thì phải đi theo con đường Ngài đã đi, đó là con đường khổ giá, là đi qua cửa hẹp để vào Nước Trời. Ai theo Chúa là phải hy sinh, mất mát vì phải từ bỏ. Từ bỏ tận căn những ràng buộc của tội lỗi, từ bỏ gương mù gương xấu, bê tha, rượu chè say sưa, dâm ô, cở bạc…
Theo Chúa còn đòi hỏi phải từ bỏ chình mình :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Từ bỏ mình, vác thập giá mình là thẳng thắn tuyên bố tiêu diệt “cái tôi” của chúng ta. Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi” tốt lành, “cái tôi” chân thật. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối vói tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với công việc của Chúa” (André Sève, Sương mai, tr 209).
Nói tóm lại, lý tưởng của đời sống người Kitô hữu là thành thật chấp nhận mọi đau khổ, mọi thiếu thốn vì Thầy, bằng lòng hy sinh tất cả cho Ngài, không giữ lại một luyến tiếc nào đối với tình cảm sự đời, ý chí người môn đệ Chúa phải gắn bó với Ngài đến mức độ không tiếc xót, không thèm nhìn tới cái mình đã từ bỏ.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
KHÔNG QUAY ĐẦU LẠI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.
Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.
Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.
Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.
Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
CUỘC KHỞI NGHĨA THIÊNG LIÊNG- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, Thanh Hóa, chống lại quân nhà Minh tàn ác cai trị nước ta, có Lê Lai rất giống Lê Lợi. Một hôm, quân ta đánh thua to, chạy về trú ẩn ở núi Linh Sơn, bị quân Minh vây hãm lâu ngày, hết lương thực, Vua tôi hầu chết đói. Lê Lai đã giả làm Lê Lợi hy sinh ra nộp mình cho quân Minh. Chúng tưởng đã bắt được Lê Lợi rồi, chúng kéo quân về. Thế là Lê Lai đã giải thoát cho quân ta khỏi bị quân Tàu tàn sát. Nhờ đó, Lê Lợi chiêu tập quân sĩ đông đảo, đã đánh bại quân Tàu. Nước ta thoát ách nô lệ dã man của nhà Minh.
Tin Mừng hôm nay đã tường thuật cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem, bắt đầu một cuộc khởi nghĩa thiêng liêng.
Giêrusalem mệnh danh là thành đô của Thiên Chúa đang bị quân thù vây hãm tứ bề, đang mong chờ Đấng Cứu thế đến giải thoát. Đức Giêsu lên Giêrusalem hy sinh nộp mình như Lê Lai, để cứu thoát thành thánh. Đức Giêsu đã biết rõ: “đã tới ngày Người được rước lên trời” Ngày Người sắp kết thúc một cuộc khởi nghĩa vĩ đại giải phóng muôn dân thoát ách nô lệ tử thần. Người thấy rõ mục đích cuộc khởi nghĩa thần thánh này sắp đến ngày chiến thắng vinh quang, nên “Người nhất quyết lên Giêrusalem, khuôn mặt gân guốc của Người hướng thẳng về thành Thiên Chúa đang lâm nguy. Nhưng càng cam go cực khốn, thì càng vinh quang rực rỡ, vì “Con Người phải qua đau khổ mới tới vinh quang”, “Con Người bị bắt, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Trận chiến đã bắt đầu Người sai sứ giả đi thăm dò và về báo cáo những trở ngại. Có những đoàn quân Samaria phục kích chặn đường tiến bước. Các môn đệ xin Người lấy lửa bởi trời xuống đốt, nhưng Người không dùng chính sách bạo động đốt sạch, giết sạch, dù Người đang nắm trong tay toàn quyền của Thiên Chúa. Người đã dùng đường lối bất bạo động, nhún nhường khiêm tốn tìm đường khác để đi. Toàn quyền của Thiên Chúa để thực hiện lòng thương yêu họ, cho họ được sống và được sống dồi dào, chứ không để hủy diệt. Thiên Chúa như thân phụ và từ mẫu chậm bất bình và giàu lòng thương xót. Người kiên nhẫn kêu gọi ta. Người chịu đựng mọi từ chối, mọi xúc phạm. Người hằng chờ đợi mọi trì trệ, lì lợm cứng lòng. Người khát khao ta tham gia vào cuộc hành trình khởi nghĩa của Người. Người đã kêu to: “Ta khát”.
Suốt cuộc hành trình, Đức Giêsu kêu gọi mọi người đồng hành với Người lên Giêrusalem. Có kẻ tình nguyện đi theo Người. Nhưng khi thấy Người sống quá nghèo, quá khắc khổ, chưa được bằng: “Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Họ không còn can đảm dấn thân theo Người. Người kêu gọi kẻ khác: “Anh hãy theo tôi”. Nhưng anh còn mắc ngăn trở, xin về chôn cất cha mẹ trước đã. Anh có lòng hiếu thảo thực thi giới răn thứ bốn thảo kính cha mẹ thì rất quý. Nhưng thời giờ cấp bách, cuộc hành trình thiêng liêng đang tiến công như vũ bão, không thể dừng bước. Người nói với anh: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết, anh hãy đi loan báo triều đại Thiên Chúa”. Anh phải hiểu rằng: Hy sinh cho nước trời, cho thành của Thiên Chúa, chính là giải thoát cho cha anh khỏi tay tử thần. Đó mới là đại hiếu, đại nghĩa, đó là làm cho cha anh được sống lại muôn đời, đâu còn phải lo chôn cất cho cha anh nữa.
Kẻ khác cũng xin tình nguyện theo Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy nhưng xin Thầy cho phép tôi về từ biệt gia đình trước đã”. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với Thiên Chúa”.
Anh này có lẽ muốn như Êlisê xưa, xin về từ giã cha mẹ bà con rồi đi theo Chúa. Êlia đã cho Êlisê cứ về từ giã, còn Đức Giêsu thì không. Đức Giêsu, Ngài là ai mà đòi hỏi chúng ta từ bỏ mọi sự dứt khoát như thế? Ngài muốn chúng ta theo gương Ngài rời bỏ mẹ hiền Maria của Ngài, từ bỏ bà con quê hương Ngài. Chính Đức Giêsu ngay khi lên mười hai tuổi, Người đã trả lời cha mẹ rằng: “Sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận thi hành ý Cha con sao?” (Lc. 2, 44), ưu tiên thực hiện ý Cha trên trời mới quan trọng, “Còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau”.
Thiên Chúa phản đối bất cứ ưu tiên nào của chúng ta: Dù là ưu tiên an táng cha mẹ hay từ giã gia đình. Còn chúng ta lại đặt ưu tiên của chúng ta hơn ưu tiên của Thiên chúa. Mỗi ngày Chúa Nhật, ưu tiên của ta là nghỉ ngơi, giải trí, ăn uống, vui chơi… Còn lễ lậy, từ thiện bác ái, sinh hoạt đạo đức sẽ tính sau.
Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã quyết tâm bắt đầu cuộc khởi nghĩa thiêng liêng với bất cứ giá nào, để trả lại quyền ưu tiên cho Thiên chúa, chống lại mọi thứ ưu tiên của satan, của thế tục, của mỗi người chúng ta, vì Người đến “giải phóng mọi xiềng xích nô lệ, cho chúng ta được tự do chân chính vững chắc muôn đời” (Gl. 5,1)
Lạy Chúa, xin cho con quyết tâm đồng hành với Ngài trên đường tiến về thành Thiên Chúa. Xin cho cho con được vác thập giá với Ngài và cùng chết với Ngài trên đỉnh cao chót vót để cùng được rước về trời với Ngài vinh quang.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
BÀI HỌC NHÂN ÁI THẬT KHÓ THUỘC– Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Đối với Kitô hữu chúng ta, và có lẽ cả các tín đồ các tôn giáo khác nữa, thì việc dành cho Thiên Chúa sự kính trọng xứng đáng luôn là mối bận tâm hàng đầu, đặc biệt là trong các việc thờ phượng, các nghi lễ phụng tự; điều đó là đương nhiên, là phổ biến, và không có gì để mà bàn cãi. Tuy nhiên hình như có một điều gì còn quan trọng hơn cả sự kính trọng và tôn vinh, một điều rất đặc sắc của riêng Kitô hữu mà rất thường khi chúng ta hầu như quên lãng hoàn toàn, đó là: hiểu thấu lòng từ nhân và hay thương xót của Thiên Chúa; Tân Ước xem ra rất coi trọng điều này, bởi vì đó là nội dung chính mà Đức Giêsu đã đến trần gian để khải mở cho chúng ta được biết (xem Ga 3:16).
Các môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an quả rất nhiệt tình; các ông muốn thấy Thầy Giêsu của mình phải được mọi người đón tiếp xứng đáng; chính lòng nhiệt thành đã thôi thúc các ông xin Thầy cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Sa-ma-ri đã từ chối đón tiếp Thầy. Các ông những tưởng sẽ được Thầy Giêsu khen thưởng và trọng dụng, nhưng tất cả những gì các ông nhận được là lời quở mắng; kỳ lạ thay!
Chúng ta đã từng bao nhiêu lần được chứng kiến những nhiệt tình tương tự, như cha xứ quở trách giáo dân đã không tiếp đón đức cha cách long trọng cho đủ, bề trên phiền trách hội viên đã không coi trọng mình cho phải lẽ… (chưa nói tới thói đời là tiền hô hậu ủng); và thường thì ta cho điều đó là hoàn toàn đúng, vì tôn ti trật tự xã hội đòi phải vậy. Thế nhưng cái điều quan trọng hơn kia thì lại rất khó nuốt trôi, và không biết tới bao giờ ta mới học cho thuộc. Đã mang danh là Kitô hữu (hơn nữa một tu sĩ theo Đức Giêsu sát hơn, “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo”), ta không thể không thuộc bài học căn bản đó dầu cho nó có khó trôi tới mấy đi nữa: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” – bài học duy nhất Đức Giêsu đã muốn được trực tiếp dạy các môn sinh của Người!
Thiên Chúa của Đức Giêsu cần lòng thương xót, trước cả được tôn vinh: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ”; nói cách khác, tôn vinh cao nhất mà Người muốn nhận được phải là lòng nhân ái xót thương. Người chấp nhận không có lấy một chỗ tựa đầu nên chưa bao giờ đòi các môn đệ phải dọn cho mình một chỗ xứng đáng để ngả lưng! Là Kitô hữu, một khi đã khởi sự con đường môn đệ bằng việc đón nhận lòng thương xót tha tội (bí tích Rửa Tội), tôi biết Người không muốn tôi, vì bất cứ lý do gì (kể cả hợp lý nhất), ngoái cổ để tìm lại thứ tôn vinh phải phép dành cho Thiên Chúa. Điều mà Người thật sự mong muốn, là tôi tham dự cách trọn vẹn và quyết liệt vào lòng nhân ái và xót thương mà Người đã dày công minh chứng khi đến trần gian.
Ôi, bài học xem ra dễ đó lại thật khó biết bao! Đức Giêsu đã không tỏ vẻ phấn khởi lắm với nhiều kẻ xin theo Người…, vì họ đinh ninh: theo Người là tôn vinh Thiên Chúa với cả một hệ thống luân lý và tu đức khắt khe; đàng này, Người đòi các môn đệ trung kiên phải thuộc bài học nhân ái tới độ tự hủy hoàn toàn… thì ít ai có thể học cho thuộc. Phê-rô được chọn làm thủ lãnh sẽ phải củng cố niềm tin của các anh em chính ở điểm này, sau khi bản thân ông đã thấm thía bài học xót thương và tha thứ của Thầy sau ba lần chối bỏ.
Tôi thầm ước: việc theo sát Đức Giêsu của mình (đã hơn 50 năm rồi còn gì!) sẽ giúp tôi hiểu và học thuộc được bài này. Tôi cầu mong cho mọi phần tử trong Hội Thánh, đặc biệt các linh mục và tu sĩ, sẽ hết lòng làm vinh danh Thiên Chúa trong chính nội dung này. Mong họ sẽ trở thành dấu chỉ làm cho một nhân loại (kể cả các tôn giáo khác) đang lao đầu kiến tìm các thứ quyền lợi, danh dự và vinh quang cho thần tượng hay thần thánh của họ (đôi khi rất chính đáng) biết rằng: có một ‘vinh quang đích thực’ mà Thiên Chúa của các Kitô hữu mong muốn, đó là ‘lòng xót thương và tha thứ’. Kitô hữu thà đánh mất mọi thứ (kể cả những quyền lợi thiết thân nhất dành cho Thiên Chúa và tôn giáo của mình) chứ không để chứng từ rất độc đáo này bị lu mờ.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ tình thương của Chúa: để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp… Hãy dạy con học thuộc bài học chấp nhận thua thiệt, kể cả trong những điều xem ra rất thiết yếu để thờ phượng kính tôn Thiên Chúa cho phải lẽ, bởi vì nhận thức được rằng vinh quang lớn nhất mà Thiên Chúa của Đức Kitô muốn bảo vệ bằng mọi giá chính là hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
DÀNH ƯU TIÊN CHO THIÊN CHÚA– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý để như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Nhưng suốt cả ngày hì hụp ngoi lên lặn xuống hao hơi nhọc công, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác nơi mà ngài đã ném ngọc xuống để may ra tìm lại dễ hơn.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai lại ném xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng nhiên giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học đầu tiên mà vị linh sư muốn dạy anh là muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải sẵn sàng từ bỏ lòng ham mê của cải thế gian.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài phải từ bỏ những gì họ quyến luyến nhất để dành ưu tiên cho Thiên Chúa.
Dành ưu tiên cho Chúa bản thân ta (tức là phải vì Chúa mà quên thân mình)
“Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Với những lời nầy, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ người ấy phải vì Chúa mà hy sinh bản thân mình. Theo Chúa thì không thiết đến bản thân, không tìm sự an toàn, hạnh phúc cho mình, nhưng sẵn sàng từ bỏ mọi sự như Chúa Giêsu, trở thành người không có chỗ dựa đầu như Chúa Giêsu… để phụng sự Thiên Chúa và Nước Trời.
Còn chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta vẫn đặt bản thân mình lên trên hết. Chúng ta thường tìm kiếm mọi sự cho mình. Lo cho bản thân mình trước hết, còn Chúa thì để lại đằng sau.
Dành ưu tiên cho Chúa tình thương của ta
Rồi Chúa Giêsu lại gặp một người khác và cất tiếng mời gọi: “Anh hãy theo tôi. Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
Tất nhiên Thiên Chúa vẫn dạy chúng ta thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với tổ tiên, nhưng qua sự việc nầy, Chúa Giêsu đòi người môn đệ phải dành ưu tiên cho Chúa tình thương của mình, nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn hết mọi người, phải lo việc Chúa nhiều hơn là việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, mai táng mẹ cha.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng chúng ta đã dồn tất cả tình yêu cho những người ruột thịt, cho người thân thiết, còn tình yêu dành cho Chúa chẳng đáng là bao?
Dành ưu tiên cho Chúa thời giờ của ta
Đi thêm chặng nữa, Chúa Giêsu gặp người khác nữa tình nguyện theo Ngài: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Với người nầy, Chúa Giêsu đòi phải dành ưu tiên về thời gian cho Chúa. Việc loan Tin Mừng về Nước Trời là sứ mạng cấp bách, đừng trì hoãn đại sự vì những vấn vương thế tục. Làm như thế thì chẳng khác gì người “đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau”.
Còn chúng ta thì sao? Mỗi ngày Chúa ban cho chúng ta 24 giờ, mỗi tuần Chúa ban 168 giờ, mỗi tháng 720 giờ, mỗi năm 8,760 giờ… nhưng rồi chúng ta dành lại cho Chúa được bao nhiêu thời gian? Mỗi tuần đến với Chúa có 60 phút trong ngay chúa nhật, nhưng nhiều người vẫn thấy tiếc nuối nên còn bớt đầu bớt đuôi!
* * *
Tất cả ba điều kiện Chúa đòi người môn đệ phải giữ như trên đây cũng chỉ là giúp ta ôn lại điều răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.” (Mt 22, 37).
Sở dĩ Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải dành ưu tiên cho Chúa bản thân ta, tình thương của ta, thời giờ của ta… đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng hết sức trên hết mọi sự là vì Ngài đã dựng nên chúng ta và đã yêu thương chúng ta hết lòng hết sức Ngài.
Tình thương và ân sủng của Thiên Chúa bao la như trời như bể, còn tình thương mà con người có thể có thì nhiều lắm cũng chỉ bằng chút nước trong hồ.
Vậy nếu cả hai bên cùng dốc hết tình thương cho bên kia, thì dù sao ta vẫn có lợi hơn nhiều!
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
THEO THẦY- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Trong một xưởng thợ, mấy cô bạn gái cùng làm việc đang chê bai đạo Chúa. Họ cho rằng Đạo Chúa làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc trí phán đoán người ta. Một nam công nhân nghe họ nói truyện và khi họ vừa im lặng, bèn cất tiếng nói: Phải, vì đạo Chúa mà tôi đã mất tất cả. Mọi người cùng sững sờ nhìn. Người thợ nói tiếp: Tôi thích rượu, Đạo Chúa làm tôi bỏ rượu. Trước kia tôi chỉ mặc quần áo rách và đội cái mũ bẩn thỉu, giờ Đạo làm tôi mất tất cả… Đạo còn làm tôi mất cả tâm địa xấu xa nữa… Xưa địa ngục cai trị gia đình tôi, vì nếp sống gia đình đã thành ra như chốn ngục hình. Thì nay, khi trở nên tín hữu Chúa, tôi đã mất tất cả. Hỡi các anh chị, bây giờ các anh chị biết đức tin đã làm tôi mất những gì và được những gì. Hãy làm như tôi. Tôi xin cam đoan chắc chắn các anh chị sẽ không phải hối hận đâu.
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn gọi một số những vị tiên tri như Amos, Hosea, Micah, Isaia, Zephaniah, Nahum, Habakkuk, Jeremia, Ezekiel, Haggai, Zecharia, Obadiah, Joel, Malachi, Jonah và Elia. Ngoài ra còn một số những vị ngôn sứ nhỏ như Nathan, Êlise…, ít được nhắc đến. Trong suốt thời gian dài từ sau khi Dân Do-thái vào miền Đất Hứa cho đến khi Chúa Giêsu giáng trần. Thiên Chúa luôn gởi các vị ngôn sứ đến để hướng dẫn dân đi theo đường lối của Chúa. Tất cả sứ mệnh qui về việc tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, giữ các giới răn, huấn thị và chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Xưa tiên tri Êlia được Thiên Chúa gọi và chọn để thi hành sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa giữa cuộc sống xã hội đa thần. Nhiều người mê lầm chạy theo những thần giả tạo do con người sáng lập ra. Có rất nhiều tiên tri giả đã chạy theo thần Baal và rao truyền những sự mê tín lầm lạc. Êlia đã thách thức quyền năng của các thần và thuyết phục dân chúng tin vào Thiên Chúa duy nhất. Êlia đã gặp rất nhiều sự khó khăn, bị bắt bớ và chạy trốn. Bàn tay quyền năng của Chúa ở cùng ông. Ông đã chu toàn sứ mệnh của mình và Chúa đã cất nhắc ông lên bằng xe rực lửa.
Để chuẩn bị có người kế vị, Êlia đã chọn người môn đệ tên là Êlisê để kế thừa sứ vụ: Ông này liền để bỏ lại, chạy theo ông Êlia và nói: “Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông.” Ông Êlia trả lời: “Cứ về đi! Thầy có làm gì anh đâu? (1Vua 19, 20). Êlisê tiếp nối sứ vụ mà Êlia đã truyền lại. Êlisê đã từ bỏ nghề cầy bừa cũ, rời bỏ gia đình và bạn bè để ra đi thi hành sứ mệnh mới: Ông Êlisê bỏ ông Êlia mà về, bắt cặp bò giết làm lễ tế, lấy cầy làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi theo ông Êlia và phục vụ ông (1V 19, 21).
Trong tất cả các loài thụ tạo, mỗi loài đều có những cách thế truyền sinh và cơ cấu tổ chức khác nhau. Các loài động vật đã được Đấng Tạo Hóa phú bẩm những bản năng cố định. Các con vật sống thành bầy, thành đàn, thành tổ và chúng sống theo nhau, nối kết với nhau. Hằng năm chúng ta thường chứng kiến những bầy chim hàng ngàn con di chuyển từ Bắc cực xuống Nam cực và sau đó lại trở về chốn cũ. Những đàn voi, đàn trâu bò, đàn khỉ… chung sống trong hoang địa cũng thế. Hoặc là những tổ ong, tổ kiến, tổ mối…tự nó xây cất những kiến trúc rất tinh tế. Từ đời này qua đời khác, các con vật theo nhau hoàn thành công việc đã được Tạo Hóa sắp đặt. Riêng con người có trí khôn, ý chí và tự do, họ đã tạo thành từng xã hội đặc thù. Loài người tiến triển theo từng giai đoạn để trở thành những người văn minh hơn. Con người có thể bảo tồn, truyền tụng những suy tư, phát minh và kho tàng văn hóa qua các dấu ấn trong lịch sử xã hội, tôn giáo và chính trị.
Sống trong xã hội có kẻ trước người sau, có thầy có trò, có người chỉ đạo và môn sinh. Trong mọi khía cạnh sống, bất cứ một ngành nghề chuyên môn nào cũng có những vị tiền bối muốn truyền đạt khả năng cho những người thừa kế. Trong tôn giáo, sự lưu truyền niềm tin của đạo giáo còn quan trọng hơn nữa. Đời sống tâm linh và tinh thần chi phối sinh hoạt của con người rất sâu thẳm. Đây là điểm đặc thù của con người xã hội. Nếu thiếu sự hướng dẫn trong đời sống tâm linh, con người sẽ bị tha hóa và thụt lùi trở lại sống theo bản năng giống như các loài cầm thú. Kinh nghiệm lịch sử thế giới cho biết, hiện nay thế kỷ 21, vẫn còn có nhiều tổ chức xã hội rất sơ khai, có những bộ lạc sống như người tiền sử và những nhóm người sống biệt lập rất man rợ trong rừng sâu. Đời sống của họ phát triển rất chậm và sống theo bản năng tự nhiên.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đi theo Chúa một cách khác nhau. Có người đi theo Chúa trong ơn gọi gia đình. Có kẻ sống độc thân phục vụ. Có người hiến thân trong việc truyền giáo. Có kẻ hiến dâng mình cho Chúa trong các dòng tu. Có người đi tu trở thành tu sĩ linh mục. Ơn gọi nào cũng qúi báu. Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội là chúng ta đã bắt đầu bước theo đường lối của Chúa. Chúng ta mang danh là Kitô hữu. Chúng ta là nhân chứng cho Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh, môi trường và thời gian. Chúng ta là Kitô hữu suốt đời. Làm chứng nhân cho Chúa cả thời gian chứ không chỉ bán thời hay trong một số trường hợp đặc biệt. Chúa Giêsu đã nói rõ cho những người sẽ đi theo Chúa:“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”(Lc 9, 58). Chúa Giêsu cần chúng ta có thái độ dứt khoát. Chúng ta không thể bắt cá hai tay hay làm tôi hai chủ. Đáp tiếng mời gọi của Chúa là chúng ta tự do chọn lựa trở thành môn đệ của Chúa.Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều đại Thiên Chúa.”(Lc 9, 60).
Người môn đệ cần có những sự dứt bỏ những mời gọi hấp dẫn của thế gian. Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”(Lc 9, 62). Chúng ta biết sự yếu đuối của bản năng con người luôn kéo lôi ta trở lại sống theo thói đời. Ưa thích thỏa mãn những nhu cầu của lòng tham sân si. Không lạ gì khi chúng ta thích thu quén của cải, tiền bạc, chức tước và lợi lộc trần gian. Chúng ta lo làm giầu cho cuộc sống mà bất chấp lỗi phạm lề luật và giới răn của Chúa. Thí dụ: Các giới răn về ham mê dâm dục, ăn gian nói dối, làm chứng thề gian và lỗi luật yêu thương. Đôi khi chúng ta cảm thấy vì theo Chúa mà bị mất mát và rồi tiếc nuối những thỏa mãn thấp hèn. Theo Chúa, chúng ta phải phấn đấu hằng ngày với các cơn cám dỗ. Phải kiên tâm chịu đựng và vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa.
Đi theo Chúa là dâng hiến cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không thể cắt ngắn hay chọn lựa chỉ giữ những giới răn, lề luật hay những huấn giáo thích hợp với sở thích của chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở về giới luật yêu thương. Giới răn căn bản làm nền tảng là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Gal 5, 14). Yêu thương thì chân thành, cảm thông và chia sẻ. Yêu thương là xây dựng, đoàn kết và hòa bình. Những sự chia rẽ, cắn xé, tranh dành và gây thù hận đều ngược lại với giới luật yêu thương: Nhưng nếu anh em cắn xé nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau (Gal 5, 15). Muốn nên là nhân chứng đích thực của Chúa chúng ta phải ước muốn những điều thuộc về Thần Khí của sự thật, tình yêu và bình an.
Lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô soi dọi đường chúng con đi. Xin đừng để chúng con bị lạc hướng trong đêm tối và tội lỗi của ma quỉ và thế gian.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
SỐNG ĐƠN GIẢN- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Người ta đã đúc kết ra một nguyên lý rất giá trị thế này: “những người thành công có biệt tài là biến những điều phức tạp trở lên đơn giản”. Lý do rất dễ hiểu là làm cái gì cũng cần có sự ủng hộ và tham gia của rất nhiều người, muốn họ ủng hộ, muốn họ tham gia thì trước tiên họ phải hiểu. Muốn họ hiểu thì phải thật đơn giản. Steve Jobs có biệt tài là biến chiếc iPhone, iPad là những sản phẩm công nghệ cao cấp thành những thiết bị dễ sử dụng đến nỗi trẻ em 2 tuổi, ông bà già 80 tuổi sử dụng dễ dàng mà không cần học. Nguyên lý của Steve Jobs và Apple rất đơn giản: muốn xem cái gì thì chọc ngón tay vào đó, muốn quay trở lại thì bấm vào mũi tên quay ngược, muốn to lên thì năm ngón tay xoè ra, muốn thu nhỏ thì năm ngón tay chụm vào; thao tác tự nhiên đúng như suy nghĩ của con người.
Cuộc sống thật đơn giản vì nó vốn rất đơn giản. Khi còn nhỏ thì đơn giản, lớn lên trở nên phức tạp. Khi nghèo khó thì đơn giản, lúc giàu có trở nên phức tạp.Khi thất thế thì đơn giản, lúc có địa vị thì trở nên phức tạp.Tự nhận bản thân đơn giản, đánh giá người khác phức tạp.Thật ra, thế giới này rất đơn giản chỉ có lòng người là phức tạp. Mà suy cho cùng thì lòng người cũng đơn giản, chỉ vì có lợi ích chi phối nên con người mới trở nên phức tạp. Đời người, đơn giản thì vui vẻ. Nhưng người vui vẻ được mấy người.Đời người, phức tạp thì phiền não. Nhưng người phiền não thì quá nhiều.Trong cuộc đời mỗi người đều không thể tránh khỏi những lúc buồn phiền, lo lắng thậm chí là đau khổ.Người vui vẻ không phải là người không có buồn phiền, mà là người không để cho những nỗi buồn và niềm đau ấy khống chế. (St).
Trong kho tàng văn chương tu đức Ấn Giáo có chuyện kể như sau:
Ở một làng nọ, có vị đạo sĩ, Sadhu, tu thân lâu ngày, gần đạt đến bậc thánh nhân. Dân chúng ngưỡng mộ, quý mến nhà đạo sĩ, đến thỉnh ý, tầm thầy học đạo.
Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ rách rưới, kẻ qua đường biếu nhà đạo sĩ manh vải che mình. Những lúc Sadhu ngồi thiền niệm, bầy chuột tưởng tượng gỗ, rúc vào tấm vải gặm nhấm. Tội nghiệp, có kẻ qua đường thấy thế, biếu Sadhu con mèo bắt chuột. Dân trong làng thương tình, thay nhau đem sữa nuôi con mèo. Rồi ngày nọ, có kẻ hành hương từ phương xa, nghe tiếng thơm nhân đức, đến viếng nhà đạo sĩ. Người đàn bà giàu có ấy tặng đạo sĩ Sadhu con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Để nuôi con bò, người ta làm cho nó cái chuồng. Từ dạo đó, con bò có chuồng, vị đạo sĩ không có nhà. Thấy thế không ổn, dân trong làng làm cho nhà đạo sĩ chiếc chòi lá.
Từ ngày ấy, nhà đạo sĩ không còn nhiều thời giờ tu niệm như xưa, bận rộn nuôi con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Nuôi con mèo để đuổi lũ chuột. Phải lo sửa sang căn nhà. Dân trong làng không muốn nhà đạo sĩ mất thời giờ săn sóc con bò, họ gởi một người đàn bà đến cắt cỏ nuôi con bò, săn sóc con mèo thay cho nhà đạo sĩ có giờ thiền tu.
Nhà đạo sĩ đã có tấm vải che thân, có con mèo đuổi chuột, có con bò cho sữa, có căn nhà để ở, có người đàn bà săn sóc cuộc đời mình. Chẳng bao lâu, nhà đạo sĩ không còn thời gian tĩnh mịch nữa, ông đầy đủ hết rồi.
Đâu là con đường tu đạo? Ông lấy người đàn bà làm vợ, thế là chấm dứt cuộc đời hạnh tu…
Sống đơn giản đưa Shadu vào đời sống tu hạnh. Mất đơn giản, ông mất lý tưởng. Trong Giáo Hội, tất cả các đại thánh đều có đời sống đơn giản. Không phải trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi, tất cả thánh nhân trong tôn giáo khác cũng vậy. (x.Những trang nhật ký của một linh mục, Nguyễn Tầm Thường, SJ).
Bài đọc 1 hôm nay kể chuyện Êlisa quyết tâm theo Êlia để làm Ngôn sứ. Êlisa là nông dân, đang cày ruộng với 12 cặp bò. Nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy. Ruộng đất, trâu bò, cày cuốc là tài sản của nông dân. Đốt cày cuốc, làm thịt trâu bò, có nghĩa là từ bỏ tài sản, là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, không luyến tiếc những gì đã có. Đó là thái độ dứt khoát và phó thác, vâng phục hoàn toàn.
Khác với thái độ của Êlisa, Tin Mừng hôm nay thuật chuyện ba người muốn theo Chúa Giêsu, xin được làm môn đệ. Chúa đòi hỏi họ phải dứt khoát trong chọn lựa.
Người thứ nhất hăng hái xin theo Chúa đi bất cứ nơi đâu. Chúa Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, không ổn định, là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x.1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Đấng có chỗ tựa đầu. Chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ. Chỗ tựa đầu cuối là thập giá.
Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã. Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con. Chúa Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.
Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.Chúa Giêsu đòi anh ta dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.
Ba người muốn xin đi theo để làm môn đệ của Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ không dứt khoát chọn lựa như Êlisa, họ vẫn còn đắn đo kỹ lưỡng, chần chừ vì những lý do xác thịt và bịn rịn gia đình. Chúa Giêsu trả lời cho cả ba trường hợp là “hãy theo Ta” và đặt giá trị thiêng liêng lên trên mọi của cải vật chất. Theo Chúa lên Giêrusalem là đánh đổi cuộc đời quá khứ để lấy một tương lai mới, tuy vô định, đầy gian nan, bất trắc nhưng tươi sáng và chân thật hơn. Ba trường hợp khác nhau, nhưng đều chung một lời mời gọi từ Chúa Giêsu. Ba lời đối thoại trên cũng là ba đòi hỏi hướng đến điều răn thứ nhất: “Phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” (Mt 22, 37).
Theo Chúa phải can đảm, phải chọn lựa và ưu tiên tìm kiếm và loan báo về Nước Thiên Chúa trước, còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ lo cho sau. Con đường đi tìm Chúa là con đường con đường của từ bỏ… Tuy nhiên, muốn đạt được hạnh phúc thật thì phải lựa chọn trong tinh thần dứt khoát.
Nếu cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, thì chính những chọn lựa ấy sẽ dệt nên cuộc đời riêng của mỗi người.
Nếu cuộc đời người Kitô hữu là một chọn lựa dứt khoát cho việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa, thì đó chính là một chuỗi những lời đáp trả tiếng Chúa vang lên từng phút giây trong cuộc sống.
Nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường hay chọn mình: sở thích của mình, tự do của mình, hạnh phúc của mình, gia đình của mình… Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, còn mọi sự khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Ơn gọi của Êlisa đến trong lúc ông đang cày ruộng, đang làm những công việc hàng ngày. Ơn gọi của Phêrô xảy đến khi ông đang thả lưới, của Môsê khi ông đang chăn chiên, của Mathêu khi ông đang ngồi bàn thu thuế… Ơn gọi tiêu biểu của mỗi cá nhân là ở trong bổn phận hàng ngày. Sống ơn gọi của mình là biết chọn lựa và ưu tiên. Đó cũng là lời mời gọi, hãy đơn giản hoá cuộc sống.
Để sống bình an vui vẻ hạnh phúc, chúng ta chỉ cần sống đơn giản. Chúa Giêsu là người thích sống đơn giản và bình thường. Suốt ba năm rao giảng, Ngài mặc những chiếc áo, mang những đôi dép giản dị. Ngài không nghĩ mình là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình trở nên như tôi tớ rửa chân cho các môn đệ, để đến với người nghèo, bệnh nhân và tội nhân. Chúa Giêsu thích sự đơn sơ và bé nhỏ giữa đời thường. Bởi vậy, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,4). Chúa Giêsu đã gieo vào lòng thế giới giá trị của yêu thương và phục vụ trong đơn giản âm thầm.
Đơn sơ là một đức tính quý báu trong linh đạo “thơ ấu thiêng liêng” của thánh Têrêxa Hài Đồng. Sống đơn sơ và giản dị. Đối với những tâm hồn đơn sơ, không cần có những phương thế phức tạp.Nếp sống của Têrêxa luôn trong sáng, thành thực và tự nhiên. Con đường thơ ấu thiêng liêng là sống cuộc sống đơn sơ, yêu mến Chúa, hướng tới trọn lành. Sống đơn giản mới có được tinh thần thanh thoát và nhẹ nhàng, chúng ta mới nhạy bén để sống theo hướng dẫn của Thần Khí chứ không theo xác thịt, vì “anh em được gọi để hưởng tự do”.
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- NĂM C
ĐỨC KITÔ MẪU GƯƠNG VÀ TIÊU CHUẨN SỐNG – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Trên đường lên Yêrusalem, Đức Yêsu linh cảm những gì đang chờ đợi Ngài. Những gì xảy đến cho Đức Yêsu và các môn đồ của Ngài trong thời điểm này, soi sáng những tình huống và cách cư xử của mỗi người chúng ta.
Xin cho con về hôn cha mẹ để từ giã
Ngày xưa khi Chúa truyền cho Êlia gọi Êlisa tiếp tục sứ mạng Chúa trao cho ông, ông đã vứt áo choàng trên người Êlisa. Êlisa đã cắm cày, và xin Êlia được phép về hôn cha mẹ để từ giã, trước khi đi theo Êlia; và Êlia đã cho phép.
Với người “tôi xin theo Thầy nhưng xin được phép về từ biệt gia đình trước”, Đức Yêsu trả lời: “ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Dường như Đức Yêsu đòi hỏi hơn Êlia với những người đi theo các Ngài? Với cái nhìn của Đức Yêsu, những người do dự, dùng dằng không dứt khoát, nuối tiếc quá khứ, không thích hợp với Nước Thiên Chúa.
Những người được mời gọi đi theo Chúa ngày nay, cũng phải xét lại thái độ của mình đối với Đức Yêsu, xem mình có dứt khoát theo Chúa không? Nếu thái độ của mình không dứt khoát, còn ngoái lại đằng sau, còn quá quyến luyến gia đình, e rằng khó có thể theo Chúa. Xin Chúa cho những người theo Ngài, được ơn chọn Ngài là tất cả để theo Ngài.
Con người không có chỗ tựa đầu
Nếu ai muốn đi theo Đức Yêsu để có một nơi ở yên ổn, để được bảo đảm về vật chất, thì người đó sẽ thất vọng, vì Ngài chẳng có gì: “chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Đức Yêsu nghèo, nhưng Ngài có Thiên Chúa là tất cả. Gia tài của Đức Yêsu, là Thiên Chúa. Lương thực của Đức Yêsu, là làm theo ý Thiên Chúa.
Số phận của Đức Yêsu, tuỳ thuộc thái độ sống của Ngài. Nếu Ngài “khôn ngoan” theo kiểu người đời, chắc không đến nỗi phải chết “ô nhục” trên thập giá. Đức Yêsu đã sống theo lẽ phải, sự thật bất chấp tất cả. Và Đức Yêsu đã sống thật với chính Ngài và Thiên Chúa, đến độ Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết. Số phận của Đức Yêsu vắn vỏi.
Theo tiêu chuẩn người đời, Đức Yêsu không “khôn”, không đạt được những gì con người ngày nay đòi hỏi. Nếu có ai muốn theo Đức Yêsu, muốn “đồng hình đồng dạng” với Ngài, người đó phải tự hỏi xem họ có sẵn sàng nên giống Đức Yêsu trong cách hành xử trong chọn lựa, trong tư tưởng, lời nói, hành động không?’
Đức Kitô giải phóng chúng ta
“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng chúng ta”. Người đời ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền…, Đức Yêsu tự do với tất cả những điều đó, và Ngài trở thành mẫu gương để những ai muốn theo Ngài, cũng được tự do với tất cả.
Nhìn những người nghiện rượu, nghiện xì-ke, mới hiểu thế nào là “nô lệ” khi cơn nghiện hoành hành. Tiền bạc, danh vọng, trai gái, xì-ke ma tuý, có sức hấp dẫn và trói buộc của nó, mà một khi đã vướng vào không dễ gì thoát ra được. Có bao người quyết định bỏ thuốc, bỏ rượu nhưng không dễ để bỏ; những điều này giúp để hiểu những người nghiện ma tuý hơn, vì chuyện nghiện hút thuốc hay nghiện rượu là những “chuyện nhỏ” so với nghiện ma tuý. Tội lỗi cũng có những trói buộc của nó và con người không dễ gì thoát ra được. Tội lỗi trói buộc con người, không để con người được tự do sống theo điều lý trí nhận thấy là đúng. Tội lỗi làm suy nhược ý chí của con người, trói buộc con người vào con đường ác. Ai có thể làm cho người nghiện ma tuý thoát khỏi cảnh nghiện đó? Những người thân rất muốn, nhưng không làm được. Phải chính đương sự muốn, mới có thể làm được (cũng có những người muốn, nhưng họ không thể vượt được khi cơn nghiện đến).
Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương và tha tội cho con người; Ngài cũng là đường giúp con người thoát khỏi ách nô lệ của tội. Qua chính con người và cách sống của Ngài, Ngài dạy cho con người biết đâu là giá trị đích thực: giá trị của cuộc sống nghèo, giá trị của một cuộc đời bình dị. Cuộc sống và cái chết và sống lại của Đức Yêsu, có sức giải phóng con người khỏi tội và ách nô lệ của tội.
Đức Yêsu luôn sống theo Thần Khí, Ngài sẵn sàng để Thần Khí hướng dẫn Ngài trong mọi sự. Ngài ban Thần Khí cho con người, và chính Ngài luôn hiện diện với con người cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang. Để có sự tự do từng ngày, con người cũng phải sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí như Đức Yêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết”. Tại sao Đức Yêsu lại đòi hỏi những người theo Ngài như vậy?
- Bạn có hài lòng với cuộc đời của bạn không? Nếu cho bạn chọn cuộc đời của Đức Yêsu và cuộc đời của bạn như hiện tại, bạn chọn cuộc đời của ai? Tại sao?
- Bạn hiểu và kinh nghiệm gì về tự do thể lý và tự do nội tâm? Tại sao người sống “yêu thương” là người tự do đích thực?